
Bài 1 - Khả năng tự lập của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
(Trích tóm tắt Cơ sở lý luận NC khả năng tự lập của trẻ
5-6 tuổi - Khóa luận 2006)
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân ở Việt Nam. Vị trí của giáo dục mầm non là
đặt nền tảng cho sự phát triển nhân cách thông qua hệ
thống giáo dục quốc dân.
Mục đích chung của giáo dục mầm non là phát triển tất cả
các khả năng của trẻ, hình thành cho trẻ những cơ sở ban
đầu của nhân cách con người: "Cần phát triển một số giá
trị, nét tính cách và phẩm chất cần thiết: mạnh dạn, tự tin,
tự lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, ... tạo điều kiện cho trẻ
tham gia vào đời sống.
Trong cuộc sống, khả năng tự lập là một phẩm chất nhân
cách vô cùng quan trọng của con người. Nhờ vào khả năng
tự lập mà con người có khả năng tự hoạt động, tự cố gắng
tham gia và hoàn thành công việc trên cơ sở năng lực của
bản thân.
Khả năng tự lập phát triển từ thấp đến cao, bắt đầu từ tuổi
thơ. Như vậy, giáo dục khả năng tự lập cho trẻ là một

nhiệm vụ cần thiết, trẻ em mầm non là tương lai của đất
nước, là chủ nhân tương lai của xã hội trong thế kỉ mới -
thế kỉ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế kỉ của một nền
văn hóa thông tin với khoa học công nghệ - thế kỉ đòi hỏi
những con người mới, hiện đại, độc lập và tự chủ.
Giáo dục khả năng tự lập có ý nghĩa trong mọi giai đoạn
hình thành nhân cách, đặc biệt là lứa tuổi trước tiểu học. Có
thể khẳng định: mẫu giáo lớn là lứa tuổi cần thiết phải trang
bị cho trẻ khả năng tự lập; giáo dục khả năng tự lập cho trẻ,
hướng khả năng tự lập của trẻ phát triển theo chiều hướng
đúng đắn nhất.
Nếu người lớn, mà nhất là giáo viên mầm non và phụ
huynh trẻ sớm biết được khả năng tự lập của trẻ, tôn trọng
những biểu hiện tự lập của trẻ, đi đôi với những biện pháp
tác động đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện phát triển khả năng
tự lập của bản thân trẻ, hình thành những phẩm chất quý
báu cần thiết cho trẻ trước ngưỡng cửa bước vào cuộc đời.
Từ những lý do trên, chúng ta hãy tìm hiểu khái quát về
khả năng tự lập của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Một số nhà tâm lý học coi khả năng tự lập là một trong

những nét đặc trưng của nhân cách, đại diện là T.I.
Ganhenlin, A.A Sinirnop và E.U. Dmitriev... họ cho rằng:
Khả năng tự lập phải hình thành trên cơ sở người học đã có
một số vốn kiến thức, hiểu biết một số kỹ năng nhất định và
biết vận dụng chúng vào những tình huống khác nhau trong
thực tế, đó phải là những tình huống mới mẻ mà trẻ đối mặt
trong cuộc sống. Khả năng tự lập của trẻ được bộc lộ rõ qua
các hành vi và ta sẽ có thể dễ dàng quan sát thấy được
trong khi trẻ đang thực hiện các mối quan hệ người - người,
hay giữa con người - thế giới xung quanh.
S.L.Rubinstein nghiên cứu khả năng tự lập của trẻ trong sự
đi kèm với các nhiệm vụ mà trẻ được giao cho. Khả năng
tự lập cũng đi kèm với khả năng tư duy của trẻ. Cần phải
tạo ra cho trẻ những tình huống mới với độ phức tạp khác
nhau để dựa vào đó trẻ có điều kiện được vận dụng, được
thực hành các kiến thức, kỹ năng, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo và cả thói quen tự lập - một thói quen vô cùng tốt và
cần thiết cho trẻ và người lớn.
K.D.Usinski cũng nghiên cứu khả năng tự lập của trẻ gắn
với lao động, nhưng ông đi sâu cụ thể vào lao động tự phục

vụ trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Ông cho
rằng: tự lập trước hết là phải có sự yêu thích lao động; do
đó muốn giáo dục khả năng tự lập trước hết cần phải làm
sao cho trẻ có niềm say mê với lao động; phải khơi gợi cho
trẻ ý thức tích cực về lao động và con người lao động; phải
thúc đẩy trẻ tham gia vào lao động, tập lao động trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày, từ những việc đơn giản, tới các
việc phức tạp hơn trong khả năng có thể của chúng. Mức
độ phát triển khả năng tự lập của trẻ phụ thuộc nhiều vào
mối quan hệ của trẻ với lao động.
Nhechaeva trong "Giáo dục trẻ mẫu giáo trong lao động"
đã khẳng định qua quá trình nghiên cứu lâu dài của mình:
Lao động tự phục vụ đối với trẻ nhỏ như ăn mặc, vệ sinh cá
nhân, giúp người lớn làm những công việc vừa sức... là
biện pháp tốt nhất để hình thành khả năng tự lập cho trẻ.
Khi trẻ đã biết lao động tự phục vụ thì ít hay nhiều trẻ cũng
giảm dần sự phụ thuộc vào người lớn. Sự phát triển khả
năng tự lập này có thể thấy rõ qua: Từ chỗ trẻ thấy rằng
mình có thể tự làm việc này, việc nọ mà trẻ trở nên tự tin,
tin tưởng vào khả năng của mình hơn, chúng sẽ cố gắng
vượt mọi khó khăn trong mức cao nhất có thể hoàn thành

một nhiệm vụ hay công việc nào đó mà không cần sự can
thiệp của người lớn. Như vậy, hình thành kỹ năng kỹ xảo
và thói quen tự phục vụ là vô cùng ý nghĩa đối với sự phát
triển khả năng tự lập của trẻ nhỏ.
E. L. Petrova xem xét trong hoạt động vui chơi thì khả
năng tự lập của trẻ phát triển như thế nào? Bà đã khẳng
định: Chơi chính là một hoạt động thực tiễn mang khả năng
tự lập của trẻ nhỏ. Tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí
chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết
định làm lấy những gì mà mình thích chứ không phải là
những gì người khác ép buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất
hiện ở trẻ sự tích cực tự nguyện. Nhà giáo dục có thể dựa
vào hoạt động vui chơi mà có kế hoạch giáo dục khả năng
tự lập của trẻ theo định hướng mục tiêu có chủ đích.
Bản thân người lớn cũng thúc đẩy trẻ em hoạt động một
cách tự lập, sau đó là phải học tập suy luận, tập nhận xét
một cách nghiêm túc theo ý riêng của bản thân, có lập
trường riêng của chính mình.
Sự phát triển khả năng và sự cần thiết hoạt động một cách
chủ động, tự lập của trẻ mẫu giáo phải ở mức độ nào là phù