Nhiệt đng lc hc
Thuật ngữ nhiệt động học (hoặc nhiệt động lực học) có hai nghĩa:
1. Khoa học về nhiệtcác động cơ nhiệt (nhiệt động học cổ điển)
2. Khoa học về các hthống trạng thái cân bằng (nhiệt động học cân
bằng)
Ban đầu, nhiệt động học chỉ mang nghĩa thứ nhất. Về sau, các công trình tiên
phong của Ludwig Boltzmann đã đem lại nghĩa thứ hai. [cn dẫn nguồn]
Các nguyên lý nhiệt động học có thể áp dụng cho nhiều hệ vật lý, chcần biết
sự trao đổi năng lượng với môi trường mà không ph thuộc vào chi tiết tương
tác trong các hệ ấy. Albert Einstein đã dựa vào nhiệt động học để tiên đoán
vphát x tự nhiên. Gn đây còn có một nghiên cứu về nhiệt động học hố
đen. [cần dẫn nguồn]
Nhiệt động học là lý thuyết vật lý duy nhất tổng quát, trong khả năng
ứng dụng trong các sở lý thuyết của nó, mà tôi tin rng sẽ không
bao gibị lật đổ. — Albert Einstein
Nhiệt động học thường được coi là một bộ phận của vật lý thống kê, thuộc về
một trong số những lý thuyết lớn làm nền tảng cho những kiến thức đương
đại về vật chất.
Lịch s
Những nghiên cứu đầu tiên mà chúng ta thể xếp vào ngành nhiệt động học
chính là nhng công việc đánh dấu và so sánh nhiệt độ, hay sự phát minh của
các nhiệt biểu, lần đầu tiên được thực hiện bởi nhà khoa học người Đức
Gabriel Fahrenheit (1686-1736) - người đã đề xuất ra thang đo nhiệt độ đầu
tiên mang tên ông. Trong thang nhiệt này, 32 độ F và 212 độ F là nhiệt độ
tương ứng với thời đim nóng chảy của nước đá và sôi của nước. m 1742,
nhà bác học Thụy Sĩ Anders Celsius (1701-1744) cũng xây dựng nên một
thang đo nhiệt độ đánh số từ 0 đến 100 mang tên ông dựa vào sự giãn nở của
thủy ngân.
Những nghiên cứu tiếp theo liên quan đến quá trình truyền nhiệt giữa các vật
thể. Nếu như nhà bác học Daniel Bernoulli (1700-1782) đã nghiên cứu đng
học của các cht khí và đưa ra liên hệ giữa khái niệm nhiệt độ với chuyển
động vi mô của các hạt. Ngược lại, nhà bác học Antoine Lavoisier (1743-
1794) lại có những nghiên cu và kết luận rằng quá trình truyền nhiệt được
liên hệ mật thiết với khái niệm dòng nhiệt như một dạng chất lưu.
Tuy nhiên, sự ra đời tht sự của bộ môn nhiệt động học là phải chờ đến mãi
thế kỉ thứ 19 với tên ca nhà vật lý người Pháp Nicolas Léonard Sadi Carnot
(1796-1832) cùng với cuốn sách của ông mang tên "Ý nghĩa của nhiệt động
năng và các động cơ ng dụng loại năng lượng này". Ông đã nghiên cứu
những cỗ máy được gọi là động cơ nhiệt: một hệ nhận nhiệt từ một nguồn
nóng để thực hiện công dưới dạng cơ học đng thời truyền một phần nhiệt
cho một nguồn lạnh. Chính từ đây đã dẫn ra định luật bảo toàn năng lượng
(tiền đề cho nguyên lý thứ nhất của nhit động học), và đặc biệt, khái niệm về
quá trình thuật nghch mà sau này sẽ liên hệ chặt chẽ với nguyên lý thứ hai.
Ông cũng bảo vệ cho ý kiến của Lavoisier rằng nhiệt được truyền đi dựa vào
sự tồn tại của một dòng nhiệt như một dòng chất lưu.
Những khái niệm về công và nhiệt được nghiên cứu kĩ lưỡng bởi nhà vật lý
người Anh James Prescott Joule (1818-1889) trên phương diện thực nghiệm
và bởi nhà vt lý người Đức Robert von Mayer (1814-1878) trên phương diện
lý thuyết xây dựng từ cơ sở chất khí. Cả hai đu đi tới một kết quả tương
đương về công và nhiệt trong những năm 1840 và đi đến định nghĩa về quá
trình chuyển hoá năng lượng. Chúng ta đã biết rằng sự ra đời của nguyên lý
thứ nhất của nhiệt động học là do một công lao to lớn của Mayer.
Nhà vật lý người Pháp Émile Clapeyron (1799-1864) đã đưa ra phương trình
trạng thái của chất khí lý tưởng vào năm 1843.
Tuy nhiên, chỉ đến năm 1848 thì khái niệm nhiệt độ của nhiệt động học mới
được định nghĩa một cách thực nghiệm bng kelvin bởi nhà vật lý người Anh,
một nhà quí tộc có tên là Sir William Thomson hay còn gi là Lord Kelvin
(1824-1907). Chúng ta không nên nhầm lẫn ông với nhà vật lý cùng h
Joseph John Thompson (1856-1940), người đã khám phá ra electron đã
phát triển lý thuyết về hạt nhân.
Nguyên lý thứ hai của nhiệt động học đã được giới thiệu một cách gián tiếp
trong nhng kết quả của Sadi Carnot và được công thức h một cách chính
xác bởi nhà vật lý người Đức Rudolf Clausius (1822-1888) - người đã đưa ra
khái niệm entropy vào những năm 1860.
Những nghiên cứu trên đây đã cho phép nhà phát minh người Tô Cách Lan
James Watt (1736-1819) hoàn thiện máy hơi nước và tạo ra cuộc cách mạng
công nghiệp ở thế k thứ 19.
Cũng cần phải nhắc đến nhà vt lý người Áo Ludwig Boltzmann (1844-
1906), người đã góp phần không nhỏ trong việc đón nhận entropy theo quan
niệm thống kê phát trin lý thuyết về chất khí vào năm 1877. Tuy nhiên,
đau khổ vì những người cùng thi không hiểu và công nhận, ông đã t t khi
tài năng còn đang nở rộ. Chỉ đến mãi vsau thì tên tuổi ông mới được công
nận và người ta đã khắc lên m ông, ở thành phVienne, công thức nổi tiếng
W = k.logO mà ông đã tìm ra.
Riêng v lĩnh vực hoá nhiệt động, chúng ta phải kể đến tên tui ca nhà vật
lý Đức Hermann von Helmholtz (1821-1894) và nvt lý M Willard Gibbs
(1839-1903). Chính Gibbs là người đã có nhng đóng góp vô cùng to ln
trong sự phát triển của vật lý thống kê.
Cuối cùng, để kết thúc lược sử ca ngành nhiệt động học, xin được nhắc đến
nhà vật lý người B gc Nga Ilya Prigonine (sinh năm 1917) - người đã được
nhận giải Nobel m 1977 vnhng phát triển cho ngành nhiệt động học
không cân bằng.
Phương pháp
Nhiệt động học chia vũ trụ ra thành các h ngăn cách bởi biên giới (có thật
hay tưởng tượng). Tất cả các h không trực tiếp nằm trong nghiên cứu được
quymôi trường xung quanh. Có thể chia nhỏ một hệ thành nhiều hệ con,
hoặc nhóm các hệ nhỏ thành h lớn. Thường, mỗi hệ nằm ở một trạng thái
nhất định đặc trưng bi một số thông số (thông số sâu thông số rộng). Các
thông snày có thể được liên hệ qua các phương trình trạng thái. Xem thêm
trang các trạng thái vật chất.
Nhiệt động học cổ điển
Nhiệtnhiệt độ những khái niệm cơ bản của nhit động học. Nhiệt động
học cổ điển nghiên cứu tất cả những hiện tượng chịu s chi phối ca:
Nhiệt
Sự biến thiên của nhiệt
Nhiệt và nhiệt độ
Bằng trực giác, mỗi chúng ta đều biết đến khái niệm nhiệt độ. Một vật được
xem là nóng hay lạnh tùy theo nhiệt độ của nó cao hay thấp. Nhưng thật khó
để đưa ra một định nghĩa chính xác về nhiệt độ. Một trong những thành tựu
của nhiệt động học trong thế kỷ 19 là đã đưa ra được định nghĩa về nhiệt độ
tuyệt đối ca một vật, đo bằng đơn vị Kelvin, độ không tuyệt đối = không độ
Kelvin -273.15 độ C.
Khái niệm nhiệtn kđịnh nghĩa hơn. Một thuyết cổ, được bảo vệ bởi
Antoine Lavoisier, cho rằng nhiệt là một dịch thể đặc biệt (không màu sắc,
không khối lượng), gọi là chất nhiệt, chy từ vật này sang vt khác. Một vật
càng chứa nhiều cht nhiệt thì nó càng nóng. Thuyết này sai ở chỗ chất nhiệt