BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THIẾT HÀ

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO

GIỚI TÍNH TRONG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THIẾT HÀ

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO

GIỚI TÍNH TRONG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển

Mã số: 9310105

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. VÕ TẤT THẮNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan luận án tiến sĩ kinh tế “Thương mại quốc tế và phân biệt

đối xử theo giới tính trong lực lượng lao động ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu

của riêng tác giả.

Các thông tin, số liệu trong luận án được trích dẫn nguồn gốc rõ ràng, trung

thực, và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Nghiên cứu sinh

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ 1

MỤC LỤC ...................................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ...........................................................vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................... viii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ .........................................................................ix

TÓM TẮT ........................................................................................................................ x

ABSTRACT ................................................................................................................. xii

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1

1.1. Bối cảnh lý thuyết ................................................................................................ 1

1.2. Bối cảnh thực tiễn ................................................................................................ 4

1.3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 14

1.4. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 15

1.5. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 15

1.6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 15

1.7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ............................................................... 17

1.8. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 18

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............... 20

2.1. Một số khái niệm chính được sử dụng trong nghiên cứu ................................... 20

2.1.1. Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ........................................ 20

2.1.2. Phân biệt đối xử và các thuật ngữ liên quan đến giới ................................. 21

2.2. Kinh tế học phân biệt đối xử .............................................................................. 23

2.2.1. Mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị................................................. 24

2.2.2. Mô hình phân biệt đối xử thống kê ............................................................. 25

2.3. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động ............................................ 34

2.4. Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ................................................ 39

2.4.1. Lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil

(1996) .................................................................................................................... 39

2.4.2. Các nhân tố tác động đến sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ

............................................................................................................................... 45

iii

2.5. Mối tương quan giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực

lượng lao động........................................................................................................... 51

2.5.1. Các nghiên cứu lý thuyết ............................................................................ 52

2.5.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ...................................................................... 62

2.6. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................... 65

2.6.1. Khoảng trống về lý thuyết .......................................................................... 65

2.6.2. Khoảng trống về thực nghiệm .................................................................... 65

2.6.3. Khoảng trống về thực tiễn chính sách ........................................................ 66

2.7. Khung phân tích ................................................................................................. 66

CHƯƠNG 3. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG VIỆC LÀM TẠI CÁC DOANH

NGHIỆP VIỆT NAM .................................................................................................. 71

3.1. Giới thiệu ............................................................................................................ 71

3.2. Phân biệt đối xử về giới trong việc làm ............................................................. 72

3.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ................................................................... 74

3.3.1. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ ........... 74

3.3.2. Ước lượng mức độ phân biệt đối xử với lao động nữ bằng phương pháp

phân rã ................................................................................................................... 79

3.3.3. Dữ liệu nghiên cứu...................................................................................... 81

3.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận ........................................................................ 82

3.4.1. Thống kê mô tả ........................................................................................... 82

3.4.2. Xác định các nhân tố tác động đến sự tham gia của lao động nữ ............... 84

3.4.3. Phân tích khác biệt về sự tham gia của lao động nữ ................................... 86

3.5. Kết luận và hàm ý chính sách ............................................................................ 89

CHƯƠNG 4. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ SỰ THAM GIA CỦA LAO ĐỘNG

NỮ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ......................................................... 90

4.1. Giới thiệu ............................................................................................................ 90

4.2. Tổng quan nghiên cứu ........................................................................................ 92

4.2.1. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động ..................................... 92

4.2.2. Thương mại quốc tế và sự tham gia của lao động nữ ................................. 92

4.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ................................................................... 94

4.3.1. Dữ liệu nghiên cứu...................................................................................... 94

iv

4.3.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 95

4.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận ...................................................................... 101

4.4.1. Thống kê mô tả ......................................................................................... 101

4.4.2. Kết quả nghiên cứu ................................................................................... 101

4.5. Kết luận và hàm ý chính sách .......................................................................... 106

CHƯƠNG 5. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG HỘ

GIA ĐÌNH VIỆT NAM: VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ MỨC

SINH ........................................................................................................................... 107

5.1. Giới thiệu .......................................................................................................... 107

5.2. Tổng quan nghiên cứu ...................................................................................... 110

5.2.1. Khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực lượng lao động của hộ gia

đình ..................................................................................................................... 110

5.2.2. Tác động của thương mại quốc tế ............................................................. 111

5.2.3. Tác động của mức sinh ............................................................................. 112

5.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ................................................................. 112

5.3.1. Đo lường chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình

............................................................................................................................. 112

5.3.2. Phương pháp hồi quy ................................................................................ 114

5.3.3. Dữ liệu nghiên cứu.................................................................................... 118

5.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận ...................................................................... 119

5.4.1. Thống kê mô tả ......................................................................................... 119

5.4.2. Tác động của thương mại quốc tế đến khoảng cách giới trong sự tham gia

vào lực lượng lao động ....................................................................................... 121

5.4.3. Tác động của mức sinh đến khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực

lượng lao động .................................................................................................... 125

5.4.4. So sánh giữa tác động của thương mại quốc tế và tác động của mức sinh

............................................................................................................................. 125

5.4.5. Kết quả hồi quy của các biến kiểm soát khác ........................................... 126

5.5. Kết luận và hàm ý chính sách .......................................................................... 126

CHƯƠNG 6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 128

6.1. Những kết quả nghiên cứu chính ..................................................................... 128

v

6.2. Đóng góp mới của nghiên cứu ......................................................................... 130

6.2.1. Những điểm mới về lý thuyết ................................................................... 130

6.2.2. Những điểm mới về thực nghiệm ............................................................. 130

6.2.3. Những điểm mới về thực tiễn chính sách ................................................. 131

6.3. Đề xuất gợi ý một số chính sách ...................................................................... 131

6.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ........................................................... 133

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ....................... 135

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 136

PHỤ LỤC .................................................................................................................... 168

vi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á

ASEAN Association of Southeast Asian Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Nations Á

CEDAW Convention on the Elimination of all Công ước của Liên Hợp quốc về

Forms of Discrimination Against xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

Women đối xử với phụ nữ

CIEM Central Institute for Economic Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế

Management Trung ương

DC Discrimination coefficient Hệ số phân biệt đối xử

DoE Department of Economics of the Khoa kinh tế của trường Đại học

University of Copenhagen Copennhagen

GEM Global Entrepreneurship Monitor Chỉ số kinh doanh toàn cầu

FEM Fixed-effects model Mô hình các ảnh hưởng cố định

FGLS Feasible Generalized Least Squares Phương pháp bình phương tối

thiểu tổng quát khả thi

IFC International Finance Corporation Tổ chức Tài chính Quốc tế

ILO International Labour Organization Tổ chức Lao động Quốc tế

ILSSA Institute for Labour Science and Viện Khoa học Lao động và Xã

Social Affairs hội

IV Instrumental Variable Phương pháp biến công cụ

MI Multiple Imputation Phương pháp thay thế lặp

OECD Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation and Development Kinh tế

OLS Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương tối

thiểu

Oxfam Oxford Committee for Famine Tổ chức Oxfam

Relief

POLS Pooled Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương tối

vii

thiểu thô

PSM Propensity Score Matching Phương pháp so khớp điểm xu

hướng

REM Random-effects model Mô hình các ảnh hưởng ngẫu

nhiên

SME Small and medium-sized enterprises Doanh nghiệp vừa và nhỏ

SNA System of National Accounts Hệ thống Tài khoản quốc gia

UNDP United Nations Development Chương trình phát triển Liên Hợp

Programme Quốc

UNICEF United Nations International Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc

Children's Emergency Fund

UNU- United Nations University - World Viện Nghiên cứu thế giới về Kinh

WIDER Institute for Development tế Phát triển của Đại học Liên

Economics Research Hợp Quốc

UN United Nations Development Fund Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên

Women for Women Hợp Quốc

VHLSS Vietnam Household Living Khảo sát mức sống dân cư Việt

Standards Survey Nam

VN SME Vietnam Small and medium-sized Khảo sát doanh nghiệp vừa và

Survey enterprises Survey nhỏ Việt Nam

WB World Bank Ngân hàng Thế giới

WDI World Development Indicators Các chỉ số phát triển thế giới

WEF World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế thế giới

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. So sánh các mô hình phân biệt đối xử (xét trường hợp cụ thể người sử dụng

lao động phân biệt đối xử đối với người lao động) ............................................ 32

Bảng 3.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 3 .............................. 77

Bảng 3.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 3 .............................................. 83

Bảng 3.3. Các nhân tố tác động đến sự tham gia của lao động nữ ................................ 84

Bảng 3.4. Phân rã sự khác biệt số lượng lao động nữ ................................................... 87

Bảng 3.5. Phân rã sự khác biệt tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động .................... 88

Bảng 4.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 4 .............................. 99

Bảng 4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 4 ............................................ 101

Bảng 4.3. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên ........................... 102

Bảng 4.4. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên .......... 103

Bảng 4.5. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên ........................ 103

Bảng 4.6. Tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ xét về

quy mô .............................................................................................................. 104

Bảng 4.7. Tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ xét về tỷ

trọng .................................................................................................................. 105

Bảng 5.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 5 ............................ 117

Bảng 5.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 5 ............................................ 120

Bảng 5.3. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về thời

gian làm việc, biến giải thích là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế

của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu) ..................................... 122

Bảng 5.4. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về thời

gian làm việc, biến giải thích là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế

của hộ gia đình (tính theo thuế quan) ............................................................... 122

Bảng 5.5. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về tiền

lương, biến giải thích là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ

gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu) ................................................. 124

Bảng 5.6. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về tiền

lương, biến giải thích là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ

gia đình (tính theo thuế quan) ........................................................................... 124

ix

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ

Hình 1.1. Các thành phần trong Tiểu chỉ số “Sự tham gia và cơ hội kinh tế” ................ 5

Hình 1.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động phân theo giới tính ở Việt Nam, khu vực

và thế giới qua các năm ........................................................................................ 5

Hình 1.3. Tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động toàn cầu năm 2018....................... 6

Hình 1.4. Chênh lệch giới về thu nhập tại Việt Nam qua thời gian ................................ 6

Hình 1.5. Tỷ lệ nữ giới tham gia vào thị trường lao động năm 2019 chia theo ngành

kinh tế ................................................................................................................... 7

Hình 1.6. Tỷ lệ nữ giới tham gia vào thị trường lao động năm 2020 chia theo nghề

nghiệp ................................................................................................................... 8

Hình 1.7. Tỷ lệ doanh nghiệp có nữ giới đảm nhận các vị trí quản lý cấp trung và cấp

cao tương ứng các mảng ....................................................................................... 8

Hình 1.8. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tham gia các công việc nhà cụ thể, và số

giờ trung bình hàng tuần dành cho công việc này năm 2019 ............................... 9

Hình 1.9. Cơ cấu lao động có việc làm theo giới tính, vị thế việc làm năm 2020 ........ 10

Hình 1.10. Lý do không hoạt động kinh tế chia theo giới tính...................................... 10

Hình 1.11. Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính tại thời điểm một số quý tiêu biểu năm 2019

và 2020................................................................................................................ 11

Hình 1.12. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP ................................................. 12

Hình 1.13. Mối quan hệ cung - cầu trong thị trường lao động ...................................... 16

Hình 2.1. Sơ đồ phân rã sự khác biệt tiền lương giữa nam và nữ ................................. 35

Hình 2.2. Giới hạn ngân sách của các cặp vợ chồng và phương án tối ưu ................... 44

Hình 2.3. Khung phân tích của Winters (2002) về ảnh hưởng của thương mại quốc tế

đến phúc lợi hộ gia đình ..................................................................................... 54

Hình 2.4. Khung phân tích ............................................................................................ 70

x

TÓM TẮT

Luận án bao gồm ba bài báo khoa học, nhằm phân tích mối tương quan giữa

thương mại quốc tế và sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ.

Bài báo thứ nhất nhận diện những nhân tố tác động đến sự tham gia của lao

động nữ trong các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015. Phương pháp

Feasible Generalized Least Squares (FGLS) được sử dụng để phân tích dữ liệu “Khảo

sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ” tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng thực hiện phân

rã bằng phương pháp Oaxaca - Blinder để đánh giá mức độ phân biệt đối xử giữa

doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam và doanh nghiệp thuộc

nhóm ngành thâm dụng lao động nữ. Kết quả cho thấy hoạt động xuất khẩu, việc đầu

tư cho vốn nhân lực, đặc điểm ngành nghề, quy mô và thời gian hoạt động của doanh

nghiệp, giới tính và vốn xã hội của người chủ doanh nghiệp có tương quan cùng chiều

đối với lao động nữ trong doanh nghiệp; ngược lại, chế độ đãi ngộ lao động và vốn

bình quân lao động lại thể hiện tương quan ngược chiều. Đồng thời, phân biệt đối xử

về giới đã giải thích 26,11% sự khác biệt về số lượng lao động nữ; và 87,78% sự khác

biệt về tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động.

Bài báo thứ hai phân tích tác động của việc mở rộng thương mại quốc tế đến sự

tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ. Việc ứng dụng phương pháp Propensity

Score Matching giúp so sánh lực lượng lao động nữ giữa các doanh nghiệp có hoặc

không có hoạt động xuất khẩu, và so sánh giữa các doanh nghiệp có mức độ hoạt động

xuất khẩu khác nhau. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thương mại quốc tế có tác động

cùng chiều đối với sự tham gia của lao động nữ. Song song đó, việc doanh nghiệp duy

trì hoạt động xuất khẩu liên tục qua các năm sẽ giúp làm tăng cả số lượng lao động nữ

và tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp.

Bài báo thứ ba xác định tác động của thương mại quốc tế và mức sinh đến

khoảng cách giới trong lực lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam. Phương pháp hồi

quy biến công cụ được sử dụng để phân tích các bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân

cư” qua các năm trong giai đoạn 2002 - 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc có con

nhỏ ngăn cản người nữ tham gia vào thị trường lao động, mặc dù thương mại quốc tế

đã tạo ra nhiều việc làm hơn cho họ. Tỷ lệ thời gian làm việc của người vợ so với

chồng chỉ tăng lên nếu con đã qua 6 tuổi. Khi đó, cả thương mại quốc tế và mức sinh

xi

đều làm giảm khoảng cách giới về thời gian làm việc. Ngoài ra, những yếu tố khác có

tác động đến sự tham gia của lao động nữ có thể kể đến là trình độ học vấn, thu nhập

của người chồng, và việc sống chung với người có khả năng hỗ trợ chăm sóc trẻ khi

người mẹ đi làm.

Từ khóa: Thương mại quốc tế, sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ,

phân biệt đối xử về giới, chênh lệch giới, khoảng cách giới, phân rã, Feasible

Generalized Least Squares, Propensity Score Matching, Instrumental Variable,

Multiple Imputation.

xii

ABSTRACT

This thesis contains three studies which identify the correlation between

international trade and female labor force participation.

The first study in the thesis investigates the determinants of female participation

in Vietnamese enterprises from 2011 to 2015. The Feasible Generalized Least Squares

(FGLS) method was used to analyze data from a survey of Vietnamese micro-, small-,

and medium-sized enterprises. The study also conducted the Oaxaca–Blinder

decomposition to assess the degree of discriminatory treatment existing in firms in the

male-intensive sector compared with that in the female-intensive sector. The results

indicate that export activity, human capital investment, industry characteristics, length

of operation, firm size, gender, and business owners’ social capital have positive

effects on female participation in enterprises. Contrarily, labor remuneration and the

level of capital per worker show a negative correlation. Gender discrimination explains

26.11% of the number of female employees and 87.78% of the difference in female

workers’ proportion.

The second study examines the impact of international trade expansion on

women's participation in the labor market. The Propensity Score Matching approach

was applied to compare the female workforce between export enterprises and non-

export enterprises, and among enterprises with different export continuity. Research

results show that international trade has a positive impact on the participation of

female workers, through an analysis of influencing factors, as well as a comparison

between export enterprises and non-export enterprises. In addition, the fact that

enterprises maintain continuous export activities over the years help reduce gender

discrimination in employment opportunities.

The third study compares the effects of international trade and fertility on the

gender gap in the household labor force in Vietnam. The Instrumental Variable (IV)

regression method was applied to analyze data from Vietnam household living

standards survey for the period 2002 - 2016. The results reveal that having children

prevents women from entering the labor market, although international trade has

opened more job opportunities for them. The ratio of working hours of wives to

husbands only increases if their child is aged >6 years. Further, both international trade

xiii

and fertility reduce the gender gap in working hours. However, regarding the gender

pay gap, the impact of international trade is often more statistically significant than

that of the fertility. In addition, other factors that affect the participation of female

workers include their education level, their husbands’ income, and whether they live

with someone who can help take care of their children when they are unable to take

care of them because of secular work.

Keywords: international trade, female labor force participation, gender

discrimination, gender bias, gender gap, decomposition, Feasible Generalized Least

Squares, Propensity Score Matching, Instrumental Variable, Multiple Imputation.

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

Nội dung chương này trình bày bối cảnh lý thuyết và bối cảnh thực tiễn của đề

tài. Trên cơ sở đó, luận án làm rõ mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng - phạm vi

nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu sẽ sử dụng đối với từng mục tiêu. Đồng

thời, chương này cũng trình bày những đóng góp của luận án và kết cấu luận án.

1.1. Bối cảnh lý thuyết

Phân biệt đối xử về giới được định nghĩa “là việc hạn chế, loại trừ, không công

nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và

nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” (Quốc hội nước Cộng hòa Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2006, trang 02); nam giới và nữ giới được đối xử khác nhau

theo hướng cùng chiều, ngược chiều hoặc trung lập (Human Resources Development

Canada, 2002; Ruiz-Cantero và cộng sự, 2007; UN Women, 2015). Theo đó, xét trong

lực lượng lao động, phân biệt đối xử về giới được xác định là sự chênh lệch giới về

vấn đề tiền lương, hoặc về việc làm (Chen và cộng sự, 2013; Terborg & Ilgen, 1975).

Nói cách khác, đó là sự khác biệt trong các mục tiêu đạt được bởi nam giới và nữ giới

trong thị trường lao động (Goldin & Katz, 2008). Trong hầu hết các trường hợp, nam

và nữ có năng suất ngang nhau sẽ được trả công khác nhau (Azmat & Petrongolo,

2014).

Hiện nay, khoảng cách giới trong tuyển dụng và thu nhập đã giảm đáng kể

(Juhn & McCue, 2017; Klasen, 2019), phụ nữ đảm nhận ngày càng nhiều những công

việc mà nam giới vốn thống trị (Goldin, 2006). Sự tham gia của lao động nữ, đặc biệt

là phụ nữ đã kết hôn, có xu hướng gia tăng liên tục (Cohen & Blanchi, 1999; Goldin,

2021). Tỷ lệ lao động nữ đã tiệm cận với tỷ lệ lao động nam tại một số quốc gia

(Bergmann, 2005; Bianchi & Spain, 1986; Spain & Bianchi, 1996). Tuy nhiên, trong

thị trường lao động vẫn tồn tại những hạn chế, cản trở việc thi hành quyền bình đẳng

của phụ nữ; cụ thể về việc làm, chất lượng công việc (Becker, 1985; Jones, 1983), tiền

lương (Blau & Kahn, 2017; ILO, 2015b; McAllister, 1990), và cơ hội thăng tiến trong

sự nghiệp (ILO, 2015a). Phân biệt đối xử về giới trong sự tham gia vào lực lượng lao

động được phát hiện cả ở quốc gia phát triển (Blau & Kahn, 2000; Juhn và cộng sự,

2013; Sauré & Zoabi, 2014) và quốc gia đang phát triển (Menon & Van der Meulen

Rodgers, 2009). Trong khi đó, theo “báo cáo Triển vọng Việc làm và Xã hội Thế giới:

2

Xu hướng cho Phụ nữ 2017” của ILO (2017) cho thấy nếu khoảng cách giới được thu

hẹp 25% vào năm 2025 thì lợi ích đem lại cho nền kinh tế toàn cầu lên đến 5,8 nghìn

tỷ USD. Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, bình đẳng giới nơi làm việc là vấn đề hết

sức quan trọng, nhưng phải bắt đầu từ bình đẳng giới trong hộ gia đình.

Việc phụ nữ đảm nhận những công việc có trả lương thể hiện sự thay đổi quan

trọng trong vai trò giới theo tư tưởng bình đẳng hơn (Presser, 1994); nhưng phân công

lao động trong hộ gia đình đã không thay đổi ở mức độ tương ứng (Brines, 1994;

Simon & Landis, 1989), mặc dù thời gian làm việc nhà của người chồng đã gia tăng

(Brayfield, 1992; Goldscheider & Waite, 1991; Presser, 1994). Người vợ vẫn giữ trách

nhiệm chính đối với việc nội trợ (Bianchi và cộng sự, 2000; Coltrane, 2000). Trước

đây đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề phân công lao động trong hộ gia đình

(Braun và cộng sự, 2008; Calasanti & Bailey, 1991; Cohen, 2004; Fuwa, 2004;

Greenstein, 1996; McAllister, 1990). Tuy nhiên, không nhiều nghiên cứu quan tâm

đến khoảng cách giới về tiền lương và thời gian làm việc giữa vợ và chồng, xét trong

tương quan với sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ. Trong khi đó, chủ đề

này rất có ý nghĩa, không chỉ trong hộ gia đình, mà còn trong thị trường lao động, vì

ngày càng nhiều nữ giới tham gia vào lực lượng lao động và tiếp tục làm việc sau khi

kết hôn.

Mặt khác, trong thương mại quốc tế, nam giới và nữ giới đảm nhận nhiều vị trí

quan trọng khác nhau; ví dụ như người sản xuất, người mua hàng, người lao động

được hoặc không được trả lương. Nếu phân biệt đối xử về giới không nhận được sự

quan tâm đúng mức thì những đóng góp và vai trò tác nhân kinh tế của người phụ nữ

sẽ bị đánh giá thấp (UNDP, 2015). Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện

nay, vấn đề này cần được nghiên cứu ở cả cấp độ doanh nghiệp hay cấp độ hộ gia

đình. Bởi lẽ, toàn cầu hóa được công nhận là động lực tăng trưởng kinh tế và thay đổi

xã hội (Chen và cộng sự, 2013); trong đó, thương mại quốc tế giữ vị trí quan trọng

trong quá trình phát triển của các quốc gia trong dài hạn (Fukuda, 2019; George, 2013;

Naito, 2017; Onafowora & Owoye, 1998; Wacziarg & Welch, 2008; Winters và cộng

sự, 2004), thậm chí trong giai đoạn khủng hoảng (Falvey và cộng sự, 2012). Tuy

nhiên, tự do hóa thương mại cũng đồng thời đưa đến những thách thức lớn đối với các

doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường (Domínguez-Villalobos &

3

Brown-Grossman, 2010; Mertens, 2020). Do hội nhập toàn cầu có thể giúp giảm đáng

kể chi phí vận chuyển, gia tăng quy mô thị trường sản phẩm, và mở rộng mạng lưới

sản xuất; nhưng đồng thời cũng làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh (Menon & Van

der Meulen Rodgers, 2009; Mertens, 2020). Theo đó, cách thức phản ứng của các

doanh nghiệp trước những điều kiện thị trường mới này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

nguồn nhân lực trong nước, về năng suất và mức sống dân cư (Mertens, 2020). Nói

cách khác, mở rộng thương mại quốc tế có thể có tác động đến thị trường lao động nói

chung (Busse, 2002; Naylor, 1998; Slaughter, 2001), và đến từng cá nhân nói riêng tùy

theo đặc điểm của cá nhân đó, như là giới (Helpman và cộng sự, 2017; Helpman và

cộng sự, 2010; UNDP, 2015).

Trên thực tế, nhiều lý thuyết đã chứng minh mối tương quan giữa thương mại

quốc tế và vấn đề lao động nói chung cũng như chênh lệch giới trong việc làm nói

riêng (Helpman và cộng sự, 2010); từ đó đưa đến những kết luận về tác động của

thương mại quốc tế đối với tính hiệu quả của thị trường lao động (Bell & Heitmueller,

2009). Nếu không xét đến tính công bằng, thì ảnh hưởng của các chính sách tự do hóa

thương mại và vấn đề giới của người lao động cũng cần được quan tâm nghiên cứu từ

quan điểm tăng trưởng kinh tế, vì ngày càng có nhiều bằng chứng chứng minh việc

trao quyền cho phụ nữ sẽ thúc đẩy giáo dục và phát triển trẻ em (Duflo, 2003; Qian,

2008; Thomas, 1990). Mặt khác, tác động của thương mại quốc tế đến từng cá nhân sẽ

được dung hòa bởi cấu trúc hộ gia đình, vì khả năng tham gia vào các hoạt động

thương mại của nam giới và nữ giới chịu ảnh hưởng bởi chênh lệch về phân phối

nguồn lực hộ gia đình (ví dụ như tài sản, thu nhập và thời gian); tương tự đối với mức

độ thụ hưởng các lợi ích mà thương mại quốc tế mang lại (UNDP, 2015). Như vậy,

thương mại quốc tế có thể nâng cao bình đẳng giới bằng cách tạo ra nhiều cơ hội hơn

và giúp nữ giới đạt được nhiều phúc lợi hơn (Swamy, 2004). Xét bối cảnh hội nhập

mạnh mẽ như hiện nay, gia tăng mức sống dân cư là một trong những mục tiêu quan

trọng của mọi nền kinh tế; vì vậy, việc triển khai nghiên cứu về thương mại quốc tế và

phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động là cần thiết.

Ngoài ra, tác động của thương mại quốc tế đến phân biệt đối xử về giới trong

lực lượng lao động còn được xem xét thông qua tác động của mức sinh. Bởi sự tham

gia của lao động nữ là kết quả từ việc hộ gia đình quyết định lựa chọn giữa sinh con

4

hoặc cung lao động (Galor & Weil, 1996). Theo đó, lao động nữ và nam là thay thế

không hoàn hảo, tức là hai yếu tố sản xuất riêng biệt. Hai yếu tố này tổng hợp cùng với

vốn để thể hiện sự bổ sung mạnh mẽ hơn giữa vốn và lao động nữ so với vốn và lao

động nam trong tổng số vốn, nhằm thu hẹp khoảng cách tiền lương theo giới. Cấu trúc

ưu tiên ngụ ý rằng các hộ gia đình sẽ phân chia thời gian giữa việc sinh con và việc

làm chính thức. Kỳ vọng của hộ gia đình yêu cầu phụ nữ chăm sóc con, trong khi nam

giới đi làm toàn thời gian. Tuy nhiên, hiệu quả tối ưu về mặt kinh tế không thể đạt

được nếu sự phân biệt trong phân công lao động này còn tồn tại, nhất là trong bối cảnh

kinh tế - xã hội hiện nay, vì vậy cần được thay đổi. Nhưng thực trạng này vẫn hiện

hữu, qua đó cho thấy các lý luận về hiệu quả kinh tế đã không thể giúp giảm tình trạng

phân biệt đối xử về giới. Đây cũng là lý do nghiên cứu này cần được thực hiện.

Trong bối cảnh lý thuyết nêu trên, nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở kế

thừa tổng quan nghiên cứu trước đây, từ đóđể đề xuất khung phân tích xem xét sự

tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cả phía cầu (từ thị trường) lẫn phía cung

(từ hộ gia đình) trong thị trường lao động. Theo đó, thay vì xem xét độc lập lý thuyết

kinh tế học về phân biệt đối xử và lý thuyết về khoảng cách giới, khung phân tích của

luận án sẽ thể hiện đầy đủ mối liên hệ giữa các khái niệm chính, cách thức hai lý

thuyết này bổ trợ cho nhau để làm giảm hạn chế của từng lý thuyết, và làm nền tảng

cho nghiên cứu thực nghiệm.

1.2. Bối cảnh thực tiễn

Việt Nam được đánh giá tốt về bình đẳng giới so với các quốc gia khác có cùng

trình độ phát triển khi phân tích về sự tham gia và cơ hội kinh tế (IFC, 2017).

Cụ thể, tiểu chỉ số này có xu hướng gia tăng qua thời gian trong giai đoạn 2007

- 2020 (Phụ lục 1.1). Trong đó, Việt Nam xếp hạng 1 về chỉ số thành phần “Công

nhân kỹ thuật chuyên nghiệp”, hạng 11 về chỉ số thành phần “Thu nhập tính theo

ngang giá sức mua và đô la Mỹ”, và hạng 30 về “Tham gia lực lượng lao động” vào

năm 2020 - Đây là thứ hạng cao khi so sánh với mẫu 153 quốc gia được khảo sát trong

báo cáo (WEF, 2021).

1,2

1,0

2010

0,8

5

g n ẳ đ h n

2020

ì

0,6

0,4

Bình quân năm 2020

0,2

b n ế đ g n ớ ư H

0,0

Tham gia lực lượng lao động

Thu nhập (PPP US$)

Chức vụ quản lý và cao cấp

Công nhân kỹ thuật chuyên nghiệp

Mức lương bình đẳng cho công việc tương tự (khảo sát)

Nguồn: Báo cáo Global Gender Gap (World Economic Forum) qua các năm

Hình 1.1. Các thành phần trong Tiểu chỉ số “Sự tham gia và cơ hội kinh tế”

Tại Việt Nam, có khoảng 69% phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, so với

tỷ lệ 79,9% của nam giới (General Statistics Office, 2021b) (Phụ lục 1.2). Sự chênh

lệch (10%) này tương đối thấp nếu so với mức trung bình thế giới (25%) (Cunningham

và cộng sự, 2018; ILO, 2015c). Tỷ lệ lao động nữ luôn duy trì ở mức khá ổn định kể từ

năm 1991 đến nay (ILO, 2020). Tuy nhiên, chênh lệch giới trong thị trường lao động

có xu hướng giãn rộng trong thời gian gần đây. “Bức trần kính” - rào cản tiến thân của

nữ giới vẫn tồn tại (ILO, 2015a). Do đó, phụ nữ bị tước đi nhiều cơ hội khi tham gia

lực lượng lao động, mặc dù ngược lại điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng thu lợi

90

80

70

60

50

40

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Việt Nam - Nam

Việt Nam - Nữ

Châu Á Thái Bình Dương - Nam

Châu Á Thái Bình Dương - Nữ

Thế giới - Nam

Thế giới - Nữ

của doanh nghiệp.

Hình 1.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động phân theo giới tính ở Việt Nam,

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020

và website https://www.ilo.org/wesodata/

khu vực và thế giới qua các năm

100

90

80

6

g n ộ đ o a l

70

g n ợ ư

60

l c ự

50

40

30

l a i g m a h t ệ l

ỷ T

20

10

0

20.000

40.000

80.000

100.000

120.000

60.000 GDP đầu người tính theo PPP quốc tế 2011 (USD)

Nguồn: Tính toán của tác giả căn cứ trên dữ liệu Chỉ số Phát triển Thế giới WDI

Ghi chú: Điểm màu đỏ là Việt Nam

Hình 1.3. Tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động toàn cầu năm 2018

Đồng thời, lao động nữ luôn có mức thu nhập trung bình thấp hơn khoảng 10%

so với lao động nam ở cùng trình độ chuyên môn kỹ thuật (ADB, 2016; Buchhave và

cộng sự, 2020) (Phụ lục 1.3), bất luận số giờ làm giữa hai giới là tương đương

(Barcucci và cộng sự, 2021), do tập trung đông ở những nhóm ngành và nghề nghiệp

được trả lương thấp (OXFAM, 2016). Vấn đề này chưa phù hợp với nguyên tắc trả

16,0

14,0

12,0

10,0

8,0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

lương bình đẳng mà Việt Nam đã cam kết thực hiện khi phê chuẩn Công ước số 100.

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020

Hình 1.4. Chênh lệch giới về thu nhập tại Việt Nam qua thời gian

Trong đó: Dịch vụ là khu vực sử dụng nhiều lao động nữ nhất, cụ thể trong các

ngành giáo dục - đào tạo (69,7% năm 2011 giảm xuống còn 61,4% năm 2019), ngành

y tế và trợ giúp xã hội (60,6% năm 2011 tăng lên 61,8% năm 2019), ngành tài chính -

ngân hàng - bảo hiểm (51,5% năm 2011 tăng lên 57,1% năm 2019) (General Statistics

Office, 2012; Ministry of Planning and Investment, 2021) (Phụ lục 1.4). Do định

7

hướng nghề nghiệp, tại các bậc giáo dục sau trung học phổ thông, nữ giới thường lựa

chọn học các ngành thuộc lĩnh vực quản lý, giáo dục và sức khỏe; trong khi nam giới

đăng ký các ngành khoa học tự nhiên. Đối với khu vực công nghiệp, những ngành tập

trung nhiều lao động nữ có thể kể đến như may mặc, giày da hay lắp ráp linh kiện điện

tử (ILO, 2021a; Ministry of Planning and Investment, 2021) - Đây cũng chính là

những lĩnh vực tăng trưởng xuất khẩu mạnh (Cunningham và cộng sự, 2018). Theo đó,

hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp được thúc đẩy bởi thương mại quốc tế

Nông nghiệp

Xây dựng

Vận tải, kho bãi

Thông tin và truyền thông

Hoạt động kinh doanh bất động sản

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

Hoạt động dịch vụ khác

0

10

20

30

40

50

60

70

sẽ mang đến nguồn cung việc làm lớn cho phụ nữ.

Hình 1.5. Tỷ lệ nữ giới tham gia vào thị trường lao động năm 2019

Nguồn: Sách Trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021

Ghi chú: Đường kẻ dọc đỏ là cân bằng giới (Tham khảo Cunningham và cộng sự (2018))

chia theo ngành kinh tế

Bên cạnh đó, ngày càng nhiều doanh nghiệp có nữ giới giữ vị trí lãnh đạo chủ

chốt (Phụ lục 1.5). Theo kết quả khảo sát của IFC (2017), doanh nghiệp do người nữ

làm chủ chiếm tỷ lệ khoảng 21% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động ở

Việt Nam; đây là tỷ trọng cao hơn nhiều so với các nước ở khu vực Nam Á, Trung

Đông, Bắc Phi và Cận Sahara. Đồng thời, đây cũng là những doanh nghiệp này có

khuynh hướng chi trả đầy đủ các phúc lợi xã hội cho người lao động (CIEM; DoE;

ILSSA; UNU-WIDER, 2012, 2014, 2016). Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ tham gia khởi

nghiệp ở Việt Nam cũng có xu hướng cao hơn so với nam giới (15,5% so với 11,6%

năm 2015; 25% so với 22% năm 2017) (GEM, 2016, 2018). Ngoài ra, nếu xét về động

cơ khởi nghiệp, báo cáo của GEM (2018), tỷ lệ phụ nữ Việt Nam khởi sự kinh doanh

vì nhu cầu thiết yếu là cao hơn nam giới (18% so với 13%); điều này có thể làm hiệu

quả kinh doanh của doanh nghiệp thay đổi.

Các nhà lãnh đạo CMKT bậc cao CMKT bậc trung Nhân viên Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng Lao động có kỹ thuật trong nông, lâm và ngư nghiệp Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị Lao động giản đơn Khác

0

10

20

30

40

50

60

70

8

Hình 1.6. Tỷ lệ nữ giới tham gia vào thị trường lao động năm 2020

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2020

Ghi chú: Đường kẻ dọc đỏ là cân bằng giới (Tham khảo Cunningham và cộng sự (2018))

chia theo nghề nghiệp

Tuy nhiên, nữ giới thường giữ những vị trí quản lý có tính chất hỗ trợ như hành

chính, nhân sự, tài chính; trong khi các vị trí quản lý chiến lược quyết định sự thành

bại của tổ chức như quản lý lợi nhuận và thua lỗ, nghiên cứu và phát triển chủ yếu do

nam giới đảm nhận (ILO, 2020). Vì vậy, điều này làm cản trở nữ giới thăng tiến lên vị

trí cao nhất. Đồng thời, nữ doanh nhân phải đương đầu với nhiều thách thức trong quá

trình vận hành và phát triển doanh nghiệp, do thiếu kiến thức chuyên môn, khó tiếp

cận thông tin thị trường và nguồn lực trong xúc tiến thương mại, giới hạn bởi định

kiến xã hội, thiên hướng gia đình, hạn chế trong kết nối mạng lưới (GEM, 2012; IFC,

65%

70%

60%

52%

50%

43%

40%

30%

29%

26%

30%

21%

20%

16%

20%

10%

3%

0%

Tiếp thị & bán hàng

Quản lý chung

Lợi nhuận & thua lỗ

Nhân sự Tài chính & hành chính

Trách nhiệm xã hội DN

Vận hành Nghiên cứu & phát triển

Không có phụ nữ trong quản lý

Truyền thông & quan hệ công chúng

2014; OECD, 2014).

Hình 1.7. Tỷ lệ doanh nghiệp có nữ giới đảm nhận các vị trí quản lý cấp trung và

Nguồn: Báo cáo Con đường dẫn đến thành công: Phụ nữ trong kinh doanh và quản lý tại Việt Nam

của ILO (2020)

cấp cao tương ứng các mảng

9

Mặt khác, phụ nữ còn chịu áp lực phải cân bằng giữa gia đình và công việc do

chuẩn mực xã hội truyền thống tồn tại tại Việt Nam (Buchhave và cộng sự, 2020; ILO,

2020). Cụ thể, tỷ lệ nữ giới không có hoạt động kinh tế nhiều hơn nam giới (61,3% so

với 38,7% năm 2011; 63,0% so với 37,0% năm 2015; 61,7% so với 38,3% năm 2020);

đồng thời, nữ giới cũng chiếm gần như toàn bộ số người không hoạt động kinh tế vì lý

do nội trợ, với tỷ lệ 96,7% năm 2011 giảm nhẹ đến 96,4% năm 2015 và tiếp tục giảm

xuống còn 96,2% năm 2019 (General Statistics Office, 2012, 2016, 2021b) (Phụ lục

1.6); trong khi có gần 20% nam giới không dành quỹ thời gian cho các hoạt động phục

14

12,2

12

11,7

10

8,2

8

7,6

6,7

6,7

6,5

6

4,8

4

3,2

3,1

2

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

0

Nam

Nam

Nam

Nam

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

Chăm sóc gia đình Chăm sóc con cái

Bảo trì nhà cửa

Chuẩn bị/bảo quản thức ăn và đồ uống

Dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ quần áo, nấu ăn và đi chợ

Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tham gia các công việc nhà Số giờ trung bình hàng tuần dành cho các loại công việc này

vụ gia đình (Barcucci và cộng sự, 2021).

Hình 1.8. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tham gia các công việc nhà cụ thể,

Nguồn: Báo cáo Giới và thị trường lao động ở Việt Nam của Barcucci và cộng sự (2021)

và số giờ trung bình hàng tuần dành cho công việc này năm 2019

Phụ nữ sử dụng trung bình 20,2 giờ một tuần, gấp đôi nam giới (10,7 giờ một

tuần), để làm những công việc chăm sóc không lương, như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn,

giặt quần áo, chăm sóc gia đình và con cái (Barcucci và cộng sự, 2021). Trách nhiệm

gia đình phân bổ không đồng đều đã cản trở người phụ nữ tham gia vào thị trường lao

động (Barcucci và cộng sự, 2021). Mặc dù số liệu về lao động tự làm ở nam giới và nữ

giới là tương đương nhau, nhưng nguy cơ người nữ trở thành lao động gia đình cao

gấp đôi nam giới; cụ thể năm 2011, nữ giới chiếm 65,4% tổng số lao động gia đình

(General Statistics Office, 2012); năm 2015, tỷ trọng lao động gia đình của nữ cao hơn

nam 11,8 điểm phần trăm (General Statistics Office, 2016); năm 2019, Việt Nam có 05

10

triệu lao động gia đình là phụ nữ, so với 2,7 triệu nam giới là lao động gia đình

(General Statistics Office, 2021a). Qua đó cho thấy chất lượng việc làm của phụ nữ

tương đối kém hơn, dẫn đến tình trạng tiếp cận được các dịch vụ bảo trợ xã hội hạn

44,3

48,4

52,1

17,8

12,4

7,5

36,7

36,5

36,3

100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

2,7 Chung

3,7 Nam

1,6 Nữ

Chủ cơ sở

Tự làm

Lao động gia đình

Làm công ăn lương

chế, thu nhập bấp bệnh và dễ bị tổn thương.

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động Việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2020

Hình 1.9. Cơ cấu lao động có việc làm theo giới tính, vị thế việc làm năm 2020

Nhiều người chủ lao động không muốn tuyển dụng các ứng viên nữ có dự định

sinh con trong tương lai gần, vì e ngại vấn đề này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu

quả hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí vận hành doanh nghiệp (ILO, 2015b).

Nghĩa là, nữ giới có thể bị phân biệt đối xử nếu nhà sử dụng lao động nhận định rằng

lao động nữ như “những quyết định đầu tư rủi ro” do phải đảm đương nghĩa vụ chăm

sóc gia đình; từ đó, người chủ lao động không muốn thuê mướn, đồng thời không cân

nhắc việc đào tạo nữ giới cho các vị trí quản lý cao hơn. Hơn nữa, phụ nữ khó có thể

tìm được việc làm trong khu vực chính thức khi tái tham gia thị trường lao động sau

Quá già/quá trẻ/tàn tật

Nữ

Nội trợ

Bận học

Tin là không có việc/không phù hợp

Nam

Bận việc gia đình/đang nghỉ ngơi

Khác

0%

20%

40%

60%

80%

100%

thời gian nghỉ việc để chăm lo gia đình (Buchhave và cộng sự, 2020).

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019

Hình 1.10. Lý do không hoạt động kinh tế chia theo giới tính

11

Ngoài ra, những rào cản mà lao động nữ phải đối mặt dường như còn cao hơn

nếu họ thuộc về các nhóm dân tộc thiểu số và tại các vùng nông thôn, do khó tiếp cận

các nguồn lực sản xuất và bị giới hạn khả năng lãnh đạo cộng đồng (Buchhave và cộng

sự, 2020; Cunningham và cộng sự, 2018; IFC, 2017). Đặc biệt, trong bối cảnh những

sự kiện bất ngờ như khủng hoảng đại dịch COVID-19 xảy ra vào đầu năm 2020, tình

trạng bất bình đẳng giới trong thị trường lao động không chỉ trở nên trầm trọng hơn,

mà còn phát sinh thêm nhiều vấn đề mới. Do phụ nữ chiếm tỷ lệ lao động lớn trong

các ngành nghề chịu ảnh hưởng nặng của đại dịch như du lịch; đồng thời, phụ nữ cũng

có nhiều khả năng được tuyển dụng hơn nam giới trong các công việc đòi hỏi phải

tương tác trực tiếp thay vì làm việc từ xa (WB & WTO, 2020). Xét tổng thể các quốc

gia, năm 2020, khi việc làm của phụ nữ giảm 5% thì việc làm của nam giới chỉ giảm

3,9%; hơn nữa, 90% phụ nữ mất việc năm 2020 đã rời khỏi lực lượng lao động (ILO,

2021b). Tương tự, tại Việt Nam, lao động nữ đối mặt với nguy cơ mất việc cao hơn lao

động nam do tham gia nhiều các việc làm tạm thời hoặc bán thời gian (ILO, 2020); và

9,2

9,1

6,4

6,4

5,7

5,2

2,2

2,1

1,4

1,4

1,3

1,1

10 9 8 7 6 5 4 3 2 1 0

Nam

Nam

Nam

Nam

Nam

Nam

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

Nữ

2019Q4

2020Q3

2020Q4

2019Q4

2020Q3

2020Q4

Lao động thanh niên (15 - 24 tuổi)

Lao động trưởng thành (25 tuổi trở lên)

do đó tỷ lệ thất nghiệp cũng xuất hiện chênh lệch giới (Barcucci và cộng sự, 2021).

Hình 1.11. Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính tại thời điểm một số quý tiêu biểu

Nguồn: Báo cáo Giới và thị trường lao động ở Việt Nam của Barcucci và cộng sự (2021)

năm 2019 và 2020

Mặt khác, không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên

toàn cầu, Việt Nam đã tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình hội nhập quốc tế

(IFC, 2017; WEF, 2020). Từ cuối thập niên 1980, Việt Nam bắt đầu tăng cường đẩy

mạnh giao thương, mở cửa nền kinh tế với các quốc gia trên thế giới; trong khi giai

12

đoạn trước Đổi mới, các giao dịch chủ yếu được thực hiện với các nước khối xã hội

chủ nghĩa và Liên Xô. Việc trở thành thành viên của “Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á (ASEAN)” vào năm 1995 đã trở thành khởi đầu quan trọng trong tiến trình hội

nhập quốc tế. Đến năm 2000, “Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và

Hoa Kỳ” được ký kết. Kế đó, Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007, chính thức trở

thành thành viên thứ 150; đánh dấu việc hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu,

đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Sau khi tham gia WTO, Việt Nam tham

gia hàng loạt các hiệp định thương mại tự do khác, với chính sách thương mại tiếp tục

được cải thiện.

Những thỏa thuận này đã giúp cho nền kinh tế có những thay đổi vượt bậc. Tỷ

trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP của Việt Nam tăng từ 6,6% năm 1986 - thời

điểm bắt đầu thực hiện chính sách Đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường - lên đến

50% vào năm 2000 trước khi vượt mức 100% vào năm 2017 (WB, 2022). Tương tự, tỷ

trọng trong thương mại toàn cầu tăng từ 0,03% năm 1988 lên đến 1,43% năm 2017

(OECD, 2021). Song song đó, cơ cấu hàng xuất khẩu có sự cải thiện; cụ thể: năm

2000, Việt Nam xuất khẩu đa số các sản phẩm sản xuất với công nghệ thấp (như nhiên

liệu khoáng sản, may mặc, giày dép…), năm 2015, sản phẩm điện tử trở thành mặt

120%

100%

80%

60%

40%

20%

0%

3 1 0 2

6 8 9 1

7 8 9 1

8 8 9 1

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

3 9 9 1

4 9 9 1

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

hàng xuất khẩu lớn nhất (Kikuchi, Yanagida, & Vo, 2018).

Nguồn: WB (2022)

Hình 1.12. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP

Xuất khẩu là lĩnh vực tạo ra một số lượng lớn việc làm có lương có hợp đồng

cho nữ giới, tập trung vào các ngành công nghiệp truyền thống như hàng dệt may

(Cunningham và cộng sự, 2018). Xét đến năm 2012, trong các công việc sản xuất phục

vụ xuất khẩu trực tiếp này, nữ giới chiếm tỷ lệ 53% (Hollweg, 2017). Do đó, sự tăng

trưởng hoạt động thương mại quốc tế sẽ giúp đem lại nhiều lợi ích cho nữ giới (WB &

13

WTO, 2020), như bắt đầu tham gia khu vực kinh tế chính thức và có điều kiện làm

việc tốt hơn (Korinek, Moïsé, & Tange, 2021). Mặt khác, thực tiễn cho thấy hoạt động

thương mại quốc tế đã chuyển hướng sang xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng khoa

học và giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, đây lại là những lĩnh vực sử dụng nhiều lao

động nam như sản xuất máy móc lớn (Cunningham và cộng sự, 2018). Nếu không

được đào tạo những kỹ năng cần thiết thì lao động nữ khó nắm bắt những cơ hội mà tự

do hóa thương mại mang lại. Song song đó, sự tham gia của lao động nữ vẫn chiếm tỷ

trọng thấp hơn nam giới trong xuất khẩu gián tiếp, vì phụ nữ có xu hướng đảm nhận

phần lớn công việc trong các ngành dịch vụ như y tế, giáo dục, hành chính công và

dịch vụ cá nhân; trong khi đây không phải là những lĩnh vực dịch vụ định hướng xuất

khẩu (Korinek và cộng sự, 2021).

Như vậy, nghiên cứu này bổ sung một tình huống nghiên cứu ở quốc gia đang

phát triển về sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ, và tác động của thương

mại quốc tế đến phân biệt đối xử về giới trong vấn đề này. Việt Nam là một tình huống

thú vị vì quốc gia này đang trong quá trình tự do hóa thương mại mạnh mẽ và bất bình

đẳng giới vẫn còn tồn tại dù tương đối thấp (Bui, Hoang, & Le, 2018), với tỷ lệ lao

động nữ khá cao (IFC, 2017; WEF, 2020). Liệu rằng sự đánh giá tốt hơn về bình đẳng

giới so với các quốc gia khác có cùng trình độ phát triển sẽ đồng nghĩa với việc phân

biệt đối xử đã không còn là nguyên nhân chính của chênh lệch giới trong việc làm tại

các doanh nghiệp? Mặt khác, với tỷ lệ lao động nữ luôn cao hơn so với mức trung bình

của thế giới, thương mại quốc tế được kỳ vọng làm tăng sự tham gia của lao động nữ,

như xu hướng chung hiện nay. Song song đó, thực tiễn Việt Nam cho thấy mức sinh là

một trong những lý do kiềm hãm sự tham gia của người nữ vào thị trường lao động.

Như vậy, trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nếu xét

tác động đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh lệch giới trong lực

lượng hộ gia đình, thì việc nhận định nhân tố nào giữ vai trò chủ đạo là rất quan trọng

đối với các hàm ý chính sách.

Tóm lại, vấn đề nghiên cứu này ngày càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh Việt

Nam hiện nay, khi quá trình hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ đã tạo nhiều cơ hội

nhưng đồng thời cũng đưa đến những thách thức lớn đối với sự tham gia vào lực lượng

14

lao động của phụ nữ. Cho nên, việc xác định mối tương quan của thương mại quốc tế

và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động ở Việt Nam là cần thiết.

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, phân biệt đối xử theo giới tính trong lực lượng lao động

bao gồm chênh lệch giới trong việc làm tại các doanh nghiệp và chênh lệch giới trong

lực lượng lao động hộ gia đình.

Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định mối tương quan giữa thương mại

quốc tế và sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp và

cấp độ hộ gia đình. Mục tiêu tổng quát này có thể được cụ thể hóa thành ba mục tiêu

như sau:

(1) Xác định nguyên nhân chênh lệch giới trong việc làm tại các doanh nghiệp ở

Việt Nam.

Chênh lệch giới trong việc làm là một phần quan trọng của phân biệt đối xử

theo giới tính; vì vậy, việc đo lường những thành phần đóng góp vào chênh lệch giới

cũng chính là đo lường mức độ phân biệt đối xử theo giới tính.

(2) Đánh giá tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia vào lực lượng

lao động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp Việt Nam.

Sự tham gia của lao động nữ ở cấp độ doanh nghiệp sẽ giúp cải thiện tương

quan thu nhập của người nữ trong hộ gia đình, cũng như vị trí xã hội của người nữ,

đồng nghĩa với việc làm giảm phân biệt đối xử theo giới tính. Trong khi đó, tại Việt

Nam, thương mại quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng kỳ vọng làm tăng sự

tham gia của lao động nữ.

(3) Xem xét ảnh hưởng đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến

chênh lệch giới trong lực lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam.

Phân biệt đối xử theo giới tính có thể xuất hiện trong chính hộ gia đình, thể hiện

qua chênh lệch giới trong lực lượng lao động hộ gia đình. Thương mại quốc tế được kì

vọng cải thiện phân biệt đối xử, nhưng mức sinh lại làm hạn chế ảnh hưởng tích cực

của thương mại quốc tế. Vì vậy, tác động đồng thời của thương mại quốc tế và mức

sinh đối với phân biệt đối xử theo giới tính là còn tùy vào các trường hợp cụ thể.

15

1.4. Câu hỏi nghiên cứu

Các câu hỏi nghiên cứu tương ứng với từng mục tiêu nghiên cứu cụ thể như

sau:

+ Mục tiêu 1:

- Những nhân tố nào có ảnh hưởng đến sự tham gia vào lực lượng lao động

của phụ nữ tại Việt Nam ở cấp độ doanh nghiệp?

- Nếu so sánh nhóm ngành thâm dụng lao động nam và nhóm ngành thâm

dụng lao động nữ, thì phần chênh lệch giới trong việc làm đối với lao động nữ được

giải thích do phân biệt đối xử là bao nhiêu?

+ Mục tiêu 2:

- Liệu thương mại quốc về và việc mở rộng thương mại quốc tế (mở rộng hoạt

động xuất khẩu tại các doanh nghiệp) có giúp gia tăng sự tham gia vào lực lượng lao

động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp hay không?

+ Mục tiêu 3:

- Mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình được đo lường như

thế nào?

- Thương mại quốc tế và mức sinh tác động đến khoảng cách giới trong lực

lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam như thế nào?

- Những nhân tố nào khác có ảnh hưởng đến khoảng cách giới trong lực lượng

lao động hộ gia đình ở Việt Nam?

1.5. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ.

Phạm vi nghiên cứu là cấp độ doanh nghiệp trong các ngành chế biến, chế tạo

và cấp độ hộ gia đình.

1.6. Phương pháp nghiên cứu

Luận án gồm ba mục tiêu riêng biệt, do đó luận án sẽ sử dụng các phương pháp

và các bộ dữ liệu khác nhau đối với từng mục tiêu nghiên cứu, cụ thể như sau:

Đối với mục tiêu nghiên cứu cụ thể đầu tiên, luận án sử dụng phương pháp

Feasible Generalized Least Squares (FGLS) với dữ liệu từ “Khảo sát doanh nghiệp

vừa, nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” trong giai đoạn 2011 - 2015 để xác định những

nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ trong các doanh nghiệp. Bên cạnh

16

đó, nghiên cứu thực hiện phân rã bằng phương pháp Oaxaca - Blinder (Blinder, 1973;

Cotton, 1988; Oaxaca, 1973; Oaxaca & Ransom, 1994) để đánh giá mức độ phân biệt

đối xử về giới trong việc làm đối với lao động nữ giữa nhóm ngành thâm dụng lao

động nam và nhóm ngành thâm dụng lao động nữ.

Kế đó, bằng phương pháp Propensity Score Matching (PSM), mục tiêu nghiên

cứu cụ thể thứ hai tiến hành so sánh về số lượng và tỷ lệ lao động nữ trong các doanh

nghiệp có hoặc không có hoạt động xuất khẩu; và so sánh giữa các doanh nghiệp có

mức độ hoạt động xuất khẩu khác nhau. Bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ

và siêu nhỏ của Việt Nam” tiếp tục được sử dụng để trả lời các câu hỏi nghiên cứu

trong mục tiêu này.

Cuối cùng, mục tiêu nghiên cứu cụ thể thứ ba được giải quyết bằng dữ liệu từ

“Điều tra mức sống dân cư thực hiện bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam” với với sự hỗ

trợ của UNDP và WB. Phương pháp hồi quy Instrumental Variable (IV) được ứng

dụng để xem xét tác động đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh

lệch giới trong lực lượng lao động hộ gia đình Việt Nam. Đặc biệt, nhằm xem xét ảnh

hưởng của thương mại quốc tế - yếu tố thường bị bỏ qua trong các nghiên cứu trước

đây vì hạn chế trong đo lường, luận án sử dụng bộ chỉ số để lượng hóa mức độ tham

gia vào thương mại được đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021), nhằm khắc phục được

nhược điểm của các bộ chỉ số trước đây như chỉ ghi nhận thu nhập có được từ tác động

của thương mại quốc tế (Squalli & Wilson, 2011), bỏ qua vấn đề nội sinh (Cavallo &

Frankel, 2008), và không xem xét tới khả năng đáp ứng của hộ gia đình trước các cơ

hội mới do cải cách thương mại mang lại (Vo & Nguyen, 2021).

Lý giải nguyên nhân luận án sử dụng đồng thời các bộ dữ liệu khác nhau là

nhằm xem xét sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cả phía cầu lẫn phía

cung trong thị trường lao động.

Nguồn: Tác giả đề xuất

Hình 1.13. Mối quan hệ cung - cầu trong thị trường lao động

17

1.7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

1.7.1. Ý nghĩa khoa học

Thứ nhất, nghiên cứu được thực hiện nhằm bổ sung vào kho tri thức bằng việc

đúc kết, tổng quan một cách có hệ thống các nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực

nghiệm trong và ngoài nước, từ đó đề xuất khung phân tích xoay quanh chủ đề thương

mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động.

Thứ hai, nghiên cứu lý giải được nguyên nhân của chênh lệch giới trong việc

làm đối với lao động nữ; trong khi các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung giải

thích lý do của chênh lệch giới trong tiền lương, chưa đề cập đến việc làm; mặc dù tiền

lương và việc làm có vị trí quan trọng như nhau trong phân biệt đối xử về giới trong

thị trường lao động.

Thứ ba, nghiên cứu sử dụng các bộ dữ liệu vi mô (khảo sát doanh nghiệp hoặc

hộ gia đình) để phân tích về thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực

lượng lao động; trong khi đó, việc sử dụng dữ liệu kinh tế vĩ mô là phổ biến hơn trong

những nghiên cứu đã được thực hiện. Việc sử dụng các bộ dữ liệu vi mô này còn giúp

khai thác thông tin về số giờ lao động và mức sinh của các hộ gia đình, đây là những

nội dung ít được thực hiện trước đây.

Thứ tư, nghiên cứu xem xét sự tham gia của nữ giới cả ở phía cung lẫn phía cầu

trong thị trường lao động, nhờ sử dụng đồng thời bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp

vừa, nhỏ và siêu nhỏ” (do Viện Nghiên cứu thế giới về Kinh tế Phát triển của Đại học

Liên Hợp quốc (UNU-WIDER) phối hợp với các đơn vị trong và ngoài nước tiến

hành) và bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư” (do Tổng cục Thống kê Việt Nam tiến

hành).

Cuối cùng, nghiên cứu đã ứng dụng chỉ số đo lường mức độ tham gia vào

thương mại quốc tế của hộ gia đình được đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021). Đây là bộ

chỉ số mới, kết nối được vấn đề vĩ mô - thương mại quốc tế - và vấn đề vi mô - sự

tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ; đồng thời chỉ số này đã khắc phục được

các nhược điểm so với các cách đo lường về thương mại quốc tế trước đây.

1.7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Một là, nghiên cứu dề xuất hàm ý chính sách cho các nhà hoạch định, các nhà

quản lý doanh nghiệp trong việc thiết lập chính sách tăng cường sự tham gia vào lực

18

lượng lao động của phụ nữ và giảm đi tình trạng phân biệt đối xử về giới trong việc

làm.

Hai là, nghiên cứu cung cấp thông tin có giá trị cho các nhà nghiên cứu, giảng

viên và sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng và các đối tượng khác quan tâm

để tham khảo trong quá trình nghiên cứu về chủ đề này.

1.8. Kết cấu của luận án

Kết cấu nội dung nghiên cứu của luận án được thiết kế thành 06 chương:

Chương 1: Giới thiệu. Nội dung chương này trình bày lý do chọn đề tài, bối

cảnh nghiên cứu; làm rõ mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng - phạm vi nghiên cứu

cũng như phương pháp nghiên cứu sẽ sử dụng đối với từng mục tiêu. Bên cạnh đó,

chương này cũng trình bày những đóng góp của luận án và kết cấu luận án.

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu. Nội dung chương này

sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu liên quan đến luận án. Từ đó, chỉ

ra những vấn đề vướng mắc còn tồn tại mà luận án sẽ tập trung giải quyết, và đề xuất

khung phân tích chung cho toàn nghiên cứu.

Chương 3: Bài báo 1 - Chênh lệch giới trong việc làm tại các doanh nghiệp

Việt Nam. Nội dung chương này tập trung giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ nhất

của luận án. Đầu tiên, tổng quan nghiên cứu kinh tế học về phân biệt đối xử dựa trên

cơ sở giới tính về việc làm được trình bày. Sau đó, phương pháp xác định các nhân tố

ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ, phương pháp phân rã để ước lượng mức

độ phân biệt đối xử và dữ liệu nghiên cứu được giới thiệu lần lượt. Tiếp theo là phần

thảo luận kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, chương này kết thúc với kết luận được đúc

kết từ những phát hiện chính.

Chương 4: Bài báo 2 - Thương mại quốc tế và sự tham gia của lao động nữ

tại các doanh nghiệp Việt Nam. Tương tự với nội dung chương 3, chương 4 sẽ cố

gắng tổng quan ngắn gọn nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm có liên quan. Tiếp theo

là phần thảo luận về dữ liệu nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu giả thí nghiệm.

Sau đó, luận án trình bày kết quả nghiên cứu phân tích mối tương quan giữa thương

mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động tại Việt Nam ở cấp

độ doanh nghiệp - Đây chính là mục tiêu nghiên cứu cụ thể thứ hai. Từ đó, kết luận từ

các phát hiện chính được trình bày.

19

Chương 5: Bài báo 3 - Chênh lệch giới trong lực lượng lao động hộ gia đình

Việt Nam: Vai trò của thương mại quốc tế và mức sinh. Trong nội dung chương

này, luận án tổng quan nghiên cứu về khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực

lượng lao động của hộ gia đình, tác động của thương mại quốc tế và mức sinh. Sau đó,

cách thức đo lường chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình

được giới thiệu - Đây là biến giải thích quan trọng trong mô hình kiểm định. Phần tiếp

theo trong chương này, tác giả luận án sẽ thảo luận về phương pháp hồi quy, và dữ liệu

nghiên cứu. Dựa trên mô hình ước lượng được phát triển, mối tương quan giữa thương

mại quốc tế, mức sinh và khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực lượng lao động

của hộ gia đình được phân tích; để đưa đến những kết luận chính. Kết quả kiểm định

thực nghiệm sẽ giúp tác giả luận án trả lời các câu hỏi cho mục tiêu nghiên cứu thứ ba

của luận án.

Chương 6: Kết luận và kiến nghị. Nội dung chương này dựa trên kết quả

nghiên cứu để trình bày tổng hợp những phát hiện chính của luận án. Trên cơ sở đó,

tác giả đưa ra các ý kiến đề xuất cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý

doanh nghiệp. Các giới hạn của luận án và kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo

cũng được trình bày cuối chương này.

20

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Nội dung chương này trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu liên

quan đến luận án. Từ đó, luận án chỉ ra những khoảng trống nghiên cứu còn tồn tại cần

tập trung giải quyết. Khung phân tích chung cho toàn nghiên cứu sẽ được đề xuất tại

cuối chương.

2.1. Một số khái niệm chính được sử dụng trong nghiên cứu

2.1.1. Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động được định

nghĩa là “tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của quốc gia tham gia tích cực vào thị

trường lao động, bằng cách làm việc hoặc tìm kiếm việc làm” (ILO, 2016). Định nghĩa

này bao gồm “những người đã tham gia hoặc sẵn sàng tham gia” vào các hoạt động

trong Hệ thống Tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA), nghĩa là bao

gồm cả “những người có việc làm và nhữn g người thất nghiệp”, tương tự như Pampel

& Tanaka (1986). Tuy nhiên, những người làm việc nội trợ, các công việc phục vụ cho

bản thân và các thành viên trong hộ gia đình thì không được tính là tham gia vào lực

lượng lao động (Psacharopoulos & Tzannatos, 1989).

Sự phân biệt này được xem xét từ góc độ lịch sử. Trước cuộc cách mạng công

nghiệp, chỉ có một số người đi làm được nhận lương, và không tồn tại sự khác biệt

giữa làm việc tại nhà và tại nơi khác. Trong quá trình công nghiệp hóa, sự tách biệt

giữa công việc và gia đình diễn ra khi các thành viên của gia đình đi làm trong các môi

trường công nghiệp mới. Điều này dẫn đến sự phân định giữa cuộc sống gia đình và

công việc được trả lương, với phụ nữ làm việc nhà và nam giới làm công việc được trả

lương bên ngoài. Mặc dù việc loại trừ phụ nữ khỏi thị trường lao động chỉ diễn ra đối

với một bộ phận nhỏ phụ nữ đã kết hôn thuộc tầng lớp trung lưu, nhưng điều này đã

định hình nhận thức về vai trò của nam và nữ đối với toàn bộ xã hội và hình thành hệ

tư tưởng về các lĩnh vực riêng biệt (Padavic & Reskin, 2002). Do đó, sự tham gia vào

lực lượng lao động của phụ nữ cũng có thể được mô tả dưới dạng phân công lao động.

Sự phân công lao động theo giới, tức là phân công các nhiệm vụ khác nhau giữa nam

và nữ là một đặc điểm điển hành của tất cả các xã hội và cũng tồn tại trước thời đại

công nghiệp (Wharton, 2009). Với sự tham gia của lao động nữ vào thị trường ngày

càng nhiều, thời gian làm việc nhà của họ sẽ giảm đi (Hochschild & Machung, 2012).

21

Như vậy, sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ được định nghĩa là những

phụ nữ trong độ tuổi lao động, có việc làm hoặc thất nghiệp nhưng đang tích cực tìm

việc. Đây là khái niệm được sử dụng ở góc độ vĩ mô - nền kinh tế.

Ở góc độ vi mô - doanh nghiệp, sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động

được xác định bằng số lượng lao động nữ, hoặc tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao

động trong doanh nghiệp (Chen và cộng sự, 2017). Song song đó, một số nghiên cứu

về cung lao động đã phân tích tổng số giờ mà một cá nhân sẵn sàng làm việc tại một

mức lương nhất định (Mincer, 1962). Như vậy, từ góc độ vi mô - hộ gia đình, sự tham

gia của phụ nữ vào lực lượng lao động có thể được đo lường bằng tiền lương hoặc số

giờ làm việc (Cramer, 1980). Tiền công ảnh hưởng đến phân bổ thời gian lao động bên

trong và bên ngoài hộ gia đình (UNDP, 2015). Các thành viên hộ gia đình gia nhập thị

trường lao động vì họ muốn kiếm tiền, và họ sẽ đi làm miễn là lợi ích từ công việc

vượt quá lợi ích từ các hoạt động phục vụ gia đình; theo đó, thời gian sẽ được phân

chia giữa công việc và các hoạt động khác (Psacharopoulos & Tzannatos, 1989). Đặc

biệt, tiền lương và giờ làm việc cũng là hai đơn vị đo lường phổ biến trong các nghiên

cứu chủ đề phân biệt đối xử và khoảng cách giới (Albanesi & Olivetti, 2016; Attanasio

và cộng sự, 2008; Fernández & Fogli, 2009; Greenwood và cộng sự, 2005; Jones và

cộng sự, 2015).

2.1.2. Phân biệt đối xử và các thuật ngữ liên quan đến giới

Phân biệt đối xử

Phân biệt đối xử được định nghĩa là một tình huống mà trong đó các cá nhân

như nhau được đối xử khác nhau do nhóm nhân khẩu mà họ thuộc về (Arrow, 1973;

Human Resources Development Canada, 2002). Như vậy, phân biệt đối xử với một

người là đối xử khác, không bằng, kém hơn so với người khác (UN Women, 2015).

Đồng thời, phân biệt đối xử về giới có thể xuất phát cả từ luật pháp (de jure) lẫn từ

thực tiễn (de facto) (UNICEF, 2017), trực tiếp hoặc gián tiếp (ILO, 2007).

Phân biệt đối xử về giới

Xét trên cơ sở giới tính, theo “Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ mọi hình

thức phân biệt đối xử với phụ nữ - CEDAW 1979”, “phân biệt đối xử đối với phụ nữ là

bất cứ sự phân biệt, loại trừ hoặc hạn chế nào được thực hiện trên cơ sở giới tính, mà

có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa sự công nhận, quyền

22

thụ hưởng hoặc quyền sử dụng của phụ nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của họ, trên cơ

sở bình quyền nam nữ, nhân quyền và các quyền tự do cơ bản khác trong lĩnh vực

chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác” (United

Nations General Assembly, 1979).

Tương tự, “Luật Bình đẳng giới năm 2006 của Việt Nam” định nghĩa phân biệt

đối xử về giới “là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò,

vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời

sống xã hội và gia đình” (Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,

2006). Theo đó, nam giới và nữ giới bị đối xử khác nhau, bị hạn chế hoặc bị loại trừ

trong gia đình, tại nơi làm việc, trong xã hội do các định kiến giới - làm hạn chế họ

phát huy hết các tiềm năng và hưởng thụ một cách đầy đủ quyền con người của mình

(Ủy ban Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, 2004).

Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động

Đối với vấn đề việc làm và nghề nghiệp, theo “Công ước số 111”, “phân biệt

đối xử bao gồm mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi dựa trên chủng tộc, màu da, giới

tính, tôn giáo, chính trị, dòng dõi dân tộc hoặc nguồn gốc xã hội, có tác động triệt bỏ

hoặc làm phương hại sự bình đẳng về cơ hội hoặc về đãi ngộ trong việc làm hoặc nghề

nghiệp” (ILO, 1958). Từ đó, dẫn đến các quyết định liên quan đến việc làm như tuyển

dụng, đánh giá, thăng tiến hoặc khen thưởng dựa vào các đặc điểm không thể thay đổi

của một cá nhân như tuổi tác, ngoại hình, giới tính, hoặc màu da; hơn là hiệu suất hoặc

trình độ chuyên môn (Gutek, Cohen, & Tsui, 1996).

Xét về thời điểm, phân biệt đối xử xảy ra trước khi người lao động gia nhập vào

công sở (còn gọi là phân biệt đối xử tiếp cận) hoặc sau khi đã được tuyển dụng vào tổ

chức (còn gọi là phân biệt đối xử đãi ngộ) (Jones, 1997). Cụ thể: Phân biệt đối xử tiếp

cận đề cập đến những hạn chế đặt ra đối với một nhóm các cá nhân tại thời điểm các vị

trí đang được ứng tuyển; bao gồm: thất bại trong việc không được tuyển dụng bởi các

nguyên nhân không liên quan đến công việc, lương khởi điểm thấp hơn, không có khả

năng tiếp cận các công việc có trình độ kỹ năng cao hơn, và không được ứng tuyển cho

một số vị trí nhất định. Ngược lại, phân biệt đối xử đãi ngộ đề cập đến việc được đối

xử khác nhau giữa các thành viên cùng một nhóm khi mà họ đã gia nhập vào tổ chức;

bao gồm: tỷ lệ thăng tiến chậm hơn, đảm nhận các nhiệm vụ ít mong muốn hoặc khó

23

khăn hơn, mức tăng lương thấp hơn và/hoặc cơ hội tăng lương ít hơn, và cơ hội được

đào tạo tập huấn cũng ít hơn (Terborg & Ilgen, 1975).

Như vậy, phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động có thể được định

nghĩa là sự chênh lệch giới về vấn đề tiền lương, hoặc về việc làm (Chen và cộng sự,

2017). Nói cách khác, đó là “sự khác biệt trong các mục tiêu đạt được bởi nam giới và

nữ giới trong thị trường lao động” (Goldin & Katz, 2008). Trong hầu hết các trường

hợp, nam và nữ có năng suất ngang nhau sẽ được trả công khác nhau (Azmat &

Petrongolo, 2014).

Chênh lệch giới

Làm rõ hơn thuật ngữ phân biệt đối xử về giới, chênh lệch giới được định nghĩa

là bất kì thái độ và/hoặc hành vi nào ưu tiên giới này hơn giới kia (Betz & Fitzgerald,

1987; Friedman & Nissenbaum, 1996), cụ thể là thường thiên vị nam giới hơn phụ nữ

(UNICEF, 2017). Chênh lệch giới xuất phát từ những giả định hoặc thái độ liên quan

đến sự khác biệt giữa nam và nữ về đặc điểm, khả năng và hành vi (McKay & Tate,

2001), qua đó thể hiện những hành động hoặc suy nghĩ định kiến dựa trên nhận thức

về giới cho rằng phụ nữ không bằng nam giới (European Institute for Gender Equality,

2021).

Khoảng cách giới

Để lượng hóa được vấn đề phân biệt đối xử về giới, thuật ngữ khoảng cách giới

thường được sử dụng. Cụ thể, khoảng cách giới là “sự khác biệt không cân đối giữa

nam và nữ, thể hiện ở việc đạt được các mục tiêu phát triển, khả năng tiếp cận nguồn

lực và mức độ tham gia” (UNICEF, 2017), xét trong một trường hợp cụ thể, định

lượng (Ủy ban Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, 2004). Nói một cách đơn

giản, khoảng cách giới là “sự khác biệt tồn tại giữa nam và nữ về địa vị kinh tế - xã

hội” (Bimber, 2000; Cook & Wilcox, 1991).

2.2. Kinh tế học phân biệt đối xử

Kinh tế học phân biệt đối xử đã phát triển qua nhiều thập niên trong quá khứ, và

có thể chia thành hai mô hình chính: mô hình dựa trên khẩu vị và mô hình thống kê

(Pham & Talavera, 2018). Theo đó, phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị có nguồn gốc từ

sở thích (Becker, 1971); trong khi phân biệt đối xử thống kê được coi là phản ứng hợp

lý của người sử dụng lao động khi hạn chế thông tin về năng suất của các ứng viên

24

(Arrow, 1973; Phelps, 1972). Các mô hình này có thể được phân biệt bằng nguyên

nhân, tính chất, và các hiệu quả kinh tế.

2.2.1. Mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị

Mô hình dựa trên khẩu vị cho rằng “sự phân biệt đối xử xuất phát từ khẩu vị cá

nhân đối với những cá nhân hoặc nhóm cụ thể” (Becker, 1957, 1971). Nếu một cá

nhân có “khẩu vị phân biệt đối xử”, thì cá nhân đó sẽ sẵn sàng trả giá, trực tiếp hoặc

dưới hình thức giảm thu nhập, để được liên kết với những người này thay vì những

người khác. Tiền thường được sử dụng để làm thước đo phân biệt đối xử. Khi sự phân

biệt đối xử thực sự xảy ra, thì cá nhân có “khẩu vị phân biệt đối xử” phải trả tiền cho

phần thu nhập bị mất đi do đặc quyền.

Từ định nghĩa “khẩu vị phân biệt đối xử” nêu trên, khái niệm “hệ số phân biệt

đối xử” (viết tắt là “DC”) được hình thành. Theo Becker (1971), chi phí bằng tiền của

một giao dịch không phải luôn luôn bằng chi phí ròng, DC đóng vai trò cầu nối giữa

chi phí bằng tiền và chi phí ròng. Tương tự, đối với mối quan hệ giữa lợi nhuận bằng

tiền và lợi nhuận ròng. Theo đó, DC là tỷ lệ phần trăm đại diện cho phần chi phí không

bằng tiền (hoặc lợi nhuận không bằng tiền).

Cụ thể:

Khi một người chủ doanh nghiệp phân biệt đối xử đối với người lao động, họ sẽ

hành xử như thể họ phải chịu chi phí sản xuất không bằng tiền do thuê mướn người lao

động đó. Giả sử tiền lương của người lao động (bị phân biệt đối xử) là 𝜋, thì người chủ

lao động (có khẩu vị phân biệt đối xử) sẵn sàng trả tiền lương ròng 𝜋(1 + 𝑑𝑖) để thuê

mướn những người khác, với 𝑑𝑖 là DC của người chủ doanh nghiệp đó.

Khi một người lao động phân biệt đối xử đối với đồng nghiệp hoặc người chủ

lao động, họ sẽ hành xử như thể họ phải chịu chi phí lao động không bằng tiền bởi

phải làm việc với những người này. Giả sử tiền lương lẽ ra được nhận là 𝜋, thì người

lao động (có khẩu vị phân biệt đối xử) sẵn sàng chấp nhận tiền lương ròng 𝜋(1 − 𝑑𝑗)

để làm việc ở nơi khác, với 𝑑𝑗 là DC của người lao động đó.

Khi một người tiêu dùng phân biệt đối xử đối với sản phẩm, họ hành xử như

thể họ mất đi chi phí tiêu dùng không bằng tiền bởi việc tiêu dùng chúng. Giả sử đơn

giá của hàng hóa (bị phân biệt đối xử) là 𝑝, thì người tiêu dùng (có khẩu vị phân biệt

25

đối xử) sẵn sàng trả chi phí tiêu dùng ròng 𝑝(1 + 𝑑𝑘) để mua hàng hóa khác, với 𝑑𝑘 là

DC của người tiêu dùng đó.

2.2.2. Mô hình phân biệt đối xử thống kê

Bên cạnh mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị, mô hình phân biệt đối xử

thống kê là nhánh thứ hai của kinh tế học về phân biệt đối xử. Cụ thể, mô hình này cho

rằng “phân biệt đối xử xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin” (Arrow, 1973; Phelps,

1972). Các nhóm thiểu số và đa số sẽ có cùng tỷ lệ phân phối, tuy nhiên sự thiếu thông

tin dẫn đến các đặc điểm của nhóm có thể đại diện cho đặc điểm của các cá nhân thuộc

nhóm đó. Vì vậy, các cá nhân có thể được đối xử khác nhau tùy thuộc vào nhóm mà

họ thuộc về. Lý thuyết của Arrow (1973) và Phelps (1972) là các đại diện tiêu biểu cho

mô hình phân biệt đối xử thống kê.

2.2.2.1. Lý thuyết của Arrow (1973)

Lý thuyết về phân biệt đối xử của Arrow (1973) được phát triển dựa trên các giả

định tân cổ điển cơ bản về tối đa hóa hữu dụng và lợi nhuận, đồng thời nới lỏng các

giả định thông thường khác như tính lồi lõm của đường bàng quan, việc điều chỉnh

không tốn chi phí, thông tin hoàn hảo, thị trường vốn hoàn hảo. Từ đó, Arrow (1973)

xem xét sự khác biệt trong năng suất giữa các nhóm người lao động và lý do của sự

khác biệt này; trong đó có nguyên nhân từ sự phân biệt đối xử.

Giả sử rằng có hai nhóm người lao động B và W là thay thế hoàn hảo cho nhau

trong sản xuất. Sự phân biệt đối xử thể hiện qua việc các đối tượng đánh giá tiêu cực

B, hoặc đánh giá tích cực W, hoặc vừa đánh giá tiêu cực B vừa đánh giá tích cực W.

Những đối tượng có sự phân biệt đối xử này có thể là người chủ lao động sẵn sàng từ

bỏ lợi nhuận để cắt giảm hoặc đuổi việc người lao động B; hoặc người lao động W sẵn

sàng chấp nhận một mức lương thấp hơn để làm việc trong một doanh nghiệp có nhiều

người lao động W hơn người lao động B.

Nếu người chủ lao động phân biệt đối xử, thì sẵn sàng đánh đổi giữa lợi nhuận

(ký hiệu là 𝜋), và số người lao động 𝐵 và 𝑊; để tối ưu hóa hàm hữu dụng 𝑈(𝜋, 𝐵, 𝑊)

chứ không phải tối đa hóa lợi nhuận. Để đơn giản, giả định vốn được cho trước, nên

đầu ra là 𝑓(𝑊 + 𝐵) (vì hai nhóm lao động thay thế hoàn hảo cho nhau theo tỷ lệ 1 -

1).

Lợi nhuận được tính theo công thức sau:

26

(1.1) 𝜋 = 𝑓(𝑊 + 𝐵) − 𝑤𝑊𝑊 − 𝑤𝐵𝐵

Trong đó: 𝑤𝑊 và 𝑤𝐵 là các chi phí tiền lương cho trước bởi người chủ lao động.

Nếu không có phân biệt đối xử, thì người chủ lao động sẽ đánh đồng năng suất

biên với chi phí tiền lương. Nếu có phân biệt đối xử đối với lao động B, thì người chủ

lao động sẽ sẵn sàng trả chi phí nhiều hơn để giảm lao động B. Phần tăng thêm đó gọi

là 𝑑𝐵 (tương tự “hệ số phân biệt đối xử” của Becker (1971)).

Khi đó, hữu dụng biên của người chủ lao động đối với lao động B (ký hiệu là

𝑀𝑃𝐵) sẽ âm và “hệ số phân biệt đối xử” đối với lao động B, ký hiệu là 𝑑𝐵, sẽ dương.

Cụ thể như sau:

(1.2) 𝑀𝑃𝐵 = 𝑤𝐵 + 𝑑𝐵

Trong đó: 𝑑𝐵 = −𝑀𝑅𝜋,𝐵, với 𝑀𝑅𝜋,𝐵 có ý nghĩa là tỷ lệ thay thế biên của lợi nhuận đối

với lao động B.

Tương tự, hữu dụng biên của người chủ lao động đối với lao động W (ký hiệu

là 𝑀𝑃𝑊) là:

(1.3) 𝑀𝑃𝑊 = 𝑤𝑊 + 𝑑𝑊

Trong đó: 𝑑𝑊 âm (hoặc bằng 0 nếu người chủ lao động không có sở thích thuê lao

động W), với 𝑑𝑊 là “hệ số phân biệt đối xử” đối với lao động W.

Vì giả định hai nhóm người lao động này có thể thay thế hoàn hảo cho nhau,

nên hữu dụng biên của người chủ lao động đối với toàn bộ lao động, là:

(1.4) 𝑀𝑃𝐿 = 𝑀𝑃𝑊 = 𝑀𝑃𝐵

Trong đó: 𝐿 = 𝑊 + 𝐵, là toàn bộ lao động trong doanh nghiệp

𝑀𝑃𝐿là hữu dụng biên của người chủ lao động đối với toàn bộ lao động

Từ (1.2) và (1.3), ta có: 𝑤𝑊 + 𝑑𝑊 = 𝑤𝐵 + 𝑑𝐵

(1.5) Hoặc: 𝑤𝑊 − 𝑤𝐵 = 𝑑𝐵 − 𝑑𝑊 > 0

Phương trình (1.5) cho thấy điều kiện cân bằng đòi hỏi tiền lương của W phải

lớn hơn tiền lương của B. Như vậy, người lao động B được trả lương ít hơn; người lao

động W thu lợi được nhiều hơn, hoặc ít nhất không bị thiệt hại (vì 𝑑𝑊 ≤ 0).

Từ (1.1) - (1.4), ta có:

(1.6) 𝜋 = 𝑓(𝐿) − (𝑀𝑃𝐿)𝐿 + 𝑑𝑊𝑊 + 𝑑𝐵𝐵

Trong trường hợp không phân biệt đối xử, lợi nhuận của chủ lao động là:

(1.7) 𝜋0 = 𝑓(𝐿) − (𝑀𝑃𝐿)𝐿

27

Từ (1.6) và (1.7), sự thay đổi trong lợi nhuận là:

(1.8) 𝜋 − 𝜋0 = 𝑑𝑊𝑊 + 𝑑𝐵𝐵

Vế phải phương trình (1.8) được giải thích như sau: Nếu tăng lực lượng lao

𝑊

𝐵

động với tỷ lệ người lao động W và B không đổi, thì giá trị âm của tỷ lệ thay thế biên

𝐿

𝐿

). Điều này hàm ý doanh lợi nhuận tại mức cân bằng này gia tăng là 𝑑𝑊( ) + 𝑑𝐵(

nghiệp cần tăng lợi nhuận để bù đắp cho sự gia tăng cân bằng trong quy mô. Vế phải

phương trình (1.8) có thể nhận giá trị dương hoặc âm.

Tuy nhiên, giả thuyết trong mô hình của Arrow (1973) là sự hữu dụng của

người chủ lao động chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ của B so với W. Trong trường hợp đó:

(1.9) 𝑑𝑊𝑊 + 𝑑𝐵𝐵 = 0

Phương trình (1.8) cho thấy người chủ lao động không thu lợi hoặc bị thiệt hại

bởi hành vi phân biệt đối xử của chính họ. Tuy nhiên, lúc này mục tiêu của người chủ

doanh nghiệp là tối đa hoá hữu dụng chứ không phải lợi nhuận. Ngoài ra, Arrow

(1973) cũng chứng minh rằng doanh nghiệp càng ít phân biệt đối xử sẽ càng mở rộng

sản xuất, vì tránh được các chi phí tốn kém do hành vi phân biệt đối xử. Đồng thời, sự

cạnh tranh có xu hướng làm giảm mức độ phân biệt đối xử trong thị trường. Tuy

nhiên, cách giải thích về phân biệt đối xử này xuất hiện một số hạn chế, vì Arrow

(1973) kết luận rằng những doanh nghiệp không phân biệt đối xử là những doanh

nghiệp duy nhất tồn tại sau cạnh tranh; nhưng trên thực tế phân biệt đối xử vẫn đang

hiện hữu trong thời gian dài.

Vì vậy, Arrow (1973) đưa ra một cách giải thích khác về hành vi phân biệt đối

xử của người chủ lao động, lúc này mục tiêu của người chủ lao động là tối đa hóa lợi

nhuận khi thị trường xuất hiện tình trạng thông tin không hoàn hảo. Phân biệt đối xử

không còn do “khẩu vị”, mà sẽ xuất phát từ nhận thức về thực tế. Nghĩa là, nếu người

chủ lao động nhận định rằng người lao động B có năng suất thấp hơn người lao động

W, thì người chủ lao động đó chỉ sẵn sàng thuê người lao động B tại mức lương thấp

hơn. Lập luận này được phân tích dựa trên cơ sở những giả định sau:

(1) Người chủ lao động phải có khả năng phân biệt giữa người lao động W và

người lao động B, thông qua một số tiêu chí như màu da, giới tính, bằng cấp;

(2) Người chủ lao động phải chấp nhận trả một số chi phí trước khi có thể xác

định năng lực thật sự của ứng viên. Cụ thể, Arrow (1973) cho rằng người chủ lao động

28

phải tuyển dụng người lao động trước, sau đó phải bỏ ra chi phí đầu tư nhân sự, trước

khi có thể xác định được năng suất của người lao động;

(3) Người chủ lao động có định kiến nhất định về việc phân bổ năng suất trong

mỗi nhóm người lao động.

Giả sử có hai loại công việc có khả năng bổ sung cho nhau, đó là công việc cần

kỹ năng và công việc không cần kỹ năng (còn gọi là công việc phổ thông). Tất cả

người lao động đều có thể thực hiện các công việc phổ thông. Tuy nhiên, chỉ có một

bộ phận người lao động đủ tiêu chuẩn để đảm nhận các công việc cần kỹ năng. Người

chủ lao động không thể xác định được ai là người lao động đủ tiêu chuẩn. Mặt khác,

người chủ lao động cho rằng xác suất để một người lao động W ngẫu nhiên có kỹ năng

là 𝑝𝑊 và xác suất để một người lao động B ngẫu nhiên có kỹ năng là 𝑝𝐵. Cuối cùng,

người chủ lao động sẽ biết liệu người lao động được tuyển dụng cho một vị trí có kỹ

năng thì có đủ tiêu chuẩn hay không sau khi mất chi phí đầu tư nhân sự; nhưng thông

tin này không có sẵn cho những người chủ lao động khác. Do đó, người chủ lao động

có thể tin tưởng vào việc giữ chân các lao động có kỹ năng đang làm việc tại doanh

nghiệp.

Đặt 𝑟 là lợi nhuận từ mỗi người lao động sau khi được đầu tư nhân sự đối với

các công việc có kỹ năng. Nếu người lao động W được tuyển dụng, thì với xác suất 𝑝𝑊

mà người đó đủ tiêu chuẩn, năng suất biên sẽ là 𝑀𝑃𝑆 - đây cũng chính là năng suất

biên của người lao động có kỹ năng. Do người chủ lao động phải trả lương cho người

lao động W với tiền lương là 𝑤𝑊, nên lợi nhuận ròng của người chủ lao động sẽ là

𝑀𝑃𝑆 − 𝑤𝑊. Ngược lại, nếu tuyển dụng nhầm người lao động không đủ tiêu chuẩn, thì

người chủ lao động sẽ không thu được bất kỳ lợi nhuận nào. Do đó, lợi nhuận kỳ vọng

đối với người lao động W được tuyển dụng là (𝑀𝑃𝑆 − 𝑤𝑊)𝑝𝑊. Nếu người chủ lao

động trung lập với rủi ro, lợi nhuận kỳ vọng này phải bằng 𝑟, nghĩa là:

(1.9) 𝑟 = (𝑀𝑃𝑆 − 𝑤𝑊)𝑝𝑊

Phân tích tương tự đối với người lao động B được tuyển dụng, ta có:

(1.10) 𝑟 = (𝑀𝑃𝑆 − 𝑤𝐵)𝑝𝐵

Và do đó:

(1.11) 𝑤𝑊 = 𝑞 𝑤𝐵 + (1 − 𝑞)𝑀𝑃𝑆

29

Trong đó: 𝑞 = 𝑝𝐵 𝑝𝑊⁄ . Vì vậy, nếu với bất kỳ nguyên nhân nào 𝑝𝐵 < 𝑝𝑊, 𝑤𝑊

là trung bình có trọng số của 𝑤𝐵và 𝑀𝑃𝑆, và vì vậy nằm giữa hai giá trị này; bởi từ

phương trình (1.10) ta phải 𝑤𝐵 < 𝑀𝑃𝑆 (để người chủ lao động thu hồi vốn đầu tư nhân

sự), dẫn đến 𝑤𝑊 > 𝑤𝐵. Điều này cho thấy những khác biệt trong nhận thức về xác suất

đủ tiêu chuẩn của người lao động sẽ được phản ánh trong sự khác biệt về tiền lương.

Trên thực tế 𝑝𝑊và 𝑝𝐵 là khác nhau, mặc dù năng lực nội tại của các nhóm

người lao động được giả định là tương tự nhau. Theo đó, người lao động có thể tự đầu

tư cho vốn nhân lực của bản thân, để trở thành ứng viên có đủ tiêu chuẩn đảm nhận

những công việc có kỹ năng; tuy nhiên, người chủ lao động không quan sát được

những khoản đầu tư này trước khi người lao động được tuyển dụng. Tỷ lệ lao động

trong hai nhóm (W và B) đủ tiêu chuẩn là một hàm gia tăng theo lợi ích thu được từ

việc đủ tiêu chuẩn đó. Cụ thể, giả sử 𝑣𝑊 = 𝑤𝑊 − 𝑤𝑈 là lợi nhuận thu được từ một

người lao động W đủ tiêu chuẩn; trong đó 𝑤𝑈 là tiền lương cho lao động phổ thông (và

tương tự 𝑣𝐵 = 𝑤𝐵 − 𝑤𝑈 là lợi nhuận thu được từ một người lao động B đủ tiêu chuẩn),

Arrow (1973) giả định một hàm tăng 𝑆(𝑣) sao cho:

(1.12) 𝑝𝑊 = 𝑆(𝑤𝑊) và 𝑝𝐵 = 𝑆(𝑤𝐵)

Tại trạng thái cân bằng, khi không có phân biệt đối xử, thì 𝑝𝑊 = 𝑝𝐵và 𝑤𝑊 =

𝑤𝐵. Tuy nhiên, do nhận thức của người chủ lao động rằng người lao động B có năng

suất thấp hơn người lao động W, ta có 𝑝𝑊 > 𝑝𝐵 dẫn đến 𝑤𝑊 > 𝑤𝐵; và do đó từ (1.12)

𝑝𝑊 có xu hướng tăng lên so với 𝑝𝐵; vì vậy củng cố những phân tích cho tình trạng mất

cân bằng ban đầu trong mô hình. Như vậy, với mục đích tối đa hóa lợi nhuận trong bối

cảnh thông tin bất cân xứng, người chủ lao động có hành vi phân biệt đối xử, dựa trên

những phương trình toán học và thống kê nhóm, để làm cơ sở đưa ra các quyết định

tuyển dụng.

2.2.2.2. Lý thuyết của Phelps (1972)

Lý thuyết về phân biệt đối xử của Phelps (1972) phát biểu rằng sự phân biệt đối

xử trên thị trường lao động là do thiếu thông tin về sự tồn tại và đặc điểm của người

lao động và việc làm. Đây là một lý thuyết mới so với Becker (1971) và độc lập với lý

thuyết thống kê của Arrow (1973). Người chủ lao động tìm cách tối đa hóa lợi nhuận

dự kiến sẽ phân biệt đối xử đối với người da đen hoặc phụ nữ nếu người chủ lao động

đó tin rằng người da đen hoặc phụ nữ sẽ có năng suất thấp hơn, không đáng tin cậy

30

bằng, không gắn bó lâu dài… ở mức trung bình so với người da trắng hoặc nam giới,

và nếu chi phí để thu được thông tin của từng cá nhân là tốn kém quá mức. Màu da và

giới tính được lấy làm đại diện cho những dữ liệu liên quan không được lấy mẫu. Sự

ưu tiên đối với người da trắng và nam giới có thể xuất phát từ kinh nghiệm thống kê

trước đây của người chủ lao động, hoặc do định kiến xã hội (trong trường hợp sau, sự

phân biệt đối xử là tự tồn tại).

Minh họa trường hợp người chủ lao động có phân biệt đối xử đối với lao động

da đen, cụ thể như sau: Người chủ lao động lấy mẫu từ nhóm ứng viên xin việc. Hiệu

suất của từng ứng viên (ký hiệu là 𝑦𝑖) được đo bằng mức độ đủ điều kiện hoặc cam kết

của ứng viên đó (ký hiệu là 𝑞𝑖) cộng với một khoảng sai số (ký hiệu là 𝜇𝑖).

(2.1) 𝑦𝑖 = 𝑞𝑖 + 𝜇𝑖

Trong đó: 𝜇 phân phối chuẩn với giá trị trung bình bằng 0.

Tại thời điểm nhận hồ sơ, do không có bất kỳ thông tin vào khác về từng ứng

viên, nên người chủ lao động sẽ sử dụng 𝑞𝑖 như một công cụ để dự đoán 𝑦𝑖 theo mô

′ là độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của nhóm.

(2.2)

′ ′ + 𝑢𝑖 ′ và 𝑦𝑖 ′ là phần dư. 𝑢𝑖

hình hồi quy sau: ′ = 𝑎1𝑦𝑖 𝑞𝑖 Trong đó: 𝑞𝑖

′ 𝑣𝑎𝑟 𝑞𝑖

𝑐𝑜𝑣(𝑞𝑖

𝑎1là giới hạn theo xác suất, khi 𝑁 → ∞, của hệ số hồi quy.

′+𝑣𝑎𝑟𝜇𝑖

𝑣𝑎𝑟𝑞𝑖

′,𝑦𝑖 ′) 𝑐𝑜𝑣(𝑞𝑖 ′) 𝑣𝑎𝑟(𝑦𝑖

′,𝑦𝑖 ′)2 ′) ′)𝑣𝑎𝑟(𝑦𝑖

𝑣𝑎𝑟(𝑞𝑖

′, với 0 < 𝑎1 < 1

(2.3) Với: = = = 𝑟2 𝑎1 =

′ và 𝑦𝑖

Như vậy: 𝑎1là bình phương hệ số tương quan giữa 𝑞𝑖

Tại thời điểm phỏng vấn, màu da là yếu tố quan sát được, giả sử người chủ lao

động quy định mô hình về mức độ đủ điều kiện hoặc cam kết của ứng viên (ký hiệu là

𝑞𝑖) như sau:

(2.4) 𝑞𝑖 = 𝛼 + 𝑥𝑖 + 𝜂𝑖

′.

Trong đó: 𝛼 là giá trị trung bình nhóm của 𝑞𝑖

′ và 𝑦𝑖 𝑥𝑖 là đóng góp của các yếu tố xã hội được cho là có liên quan đến vấn đề

chủng tộc.

𝜂𝑖 là biến ngẫu nhiên có phân ph ối chuẩn và độc lập với giá trị trung

bình bằng 0.

31

(2.5) Với: 𝑥𝑖 = (−𝛽 + 𝜖𝑖)𝑐𝑖, 𝛽 > 0

Trong đó: 𝜖𝑖 là biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn và độc lập với giá trị trung bình

bằng 0.

𝑐𝑖 là chủng tộc của ứng viên, 𝑐𝑖 = 1 nếu ứng viên là người da đen và = 0

nếu ngược lại.

(2.6) Đặt 𝜆𝑖 = 𝜂𝑖 + 𝑐𝑖𝜖𝑖 và 𝑧𝑖 = −𝛽𝑐𝑖

(2.7) Từ (2.4) - (2.6), ta có: 𝑞𝑖 = 𝛼 + 𝑧𝑖 + 𝜆𝑖

(2.8) Từ (2.1) và (2.7), ta có: 𝑦𝑖 = 𝛼 + 𝑧𝑖 + 𝜆𝑖 + 𝜇𝑖

Dữ liệu thử nghiệm có thể được sử dụng trong mối tương quan với yếu tố

chủng tộc (hoặc giới tính), để dự báo hiệu suất lao động từ yếu tố chủng tộc; được tính

toán như sau:

′) + 𝑢𝑖

′ − 𝑧𝑖

′ − 𝑧𝑖 𝑞𝑖

(2.9)

′ = 𝑎1 ∙ (𝑦𝑖 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖+𝑣𝑎𝑟 𝜇𝑖

< 1 Với 0 < 𝑎1 =

′ =

′ +

′ + 𝑢𝑖

𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖+𝑣𝑎𝑟 𝜇𝑖

𝑣𝑎𝑟 𝜇𝑖 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖+𝑣𝑎𝑟 𝜇𝑖

(2.10) Tương đương: 𝑞𝑖 ∙ 𝑦𝑖 ∙ 𝑧𝑖

Phelps (1972) đề xuất hai trường hợp xảy ra phân biệt đối xử, hàm ý là các cá

nhân có hiệu suất tương đương nhau, nhưng thuộc các nhóm khác nhau, nên được đối

xử khác nhau.

Trường hợp 01: Trong trường hợp đầu tiên, giả sử hiệu suất của hai nhóm là

sẽ nhận giá trị 𝑧𝑖

như nhau. Nếu một lao động da đen được tin rằng có hiệu suất thấp hơn trung bình, thì ′ < 0; nghĩa là họ được dự đoán có mức độ đủ điều kiện 𝑞𝑖 thấp hơn so với lao động da trắng. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong trường hợp 𝜖𝑖 ≡ 0 với mọi i,

nghĩa là đối với tất cả lao động da đen cũng như lao động da trắng. Khi đó 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖 =

𝑣𝑎𝑟 𝜂𝑖, và vì vậy các hệ số trong phương trình (2.10) là độc lập với 𝑐𝑖. Như vậy, công

thức (2.10) cho thấy sự phân biệt đối xử là kết quả của niềm tin rằng những đối tượng

bị phân biệt đối xử có hiệu suất thấp hơn trung bình.

Trường hợp 2: Trong trường hợp thứ hai, giả định phân phối không điều kiện

của hiệu suất là như nhau giữa hai nhóm, phương sai 𝜆 phụ thuộc vào màu da. Theo

như sau: 𝑣𝑎𝑟 𝜆𝑖 = 𝑣𝑎𝑟 𝜂𝑖 + 𝑐𝑖

công thức (2.4), phương sai của người lao động da đen sẽ lớn hơn, và được phản ánh 2𝑣𝑎𝑟𝜖𝑖. Khi đó, người lao động da đen có hiệu suất cao sẽ nhận được mức lương thấp hơn lao động da trắng có cùng hiệu suất. Ngược lại đối

32

với người lao động da đen có hiệu suất thấp. Tóm lại, trường hợp này giải thích sự

phân biệt đối xử đối với những người lao động có cùng hiệu suất ở những nhóm khác

nhau, nhưng bình quân người lao động của hai nhóm sẽ nhận được mức lương trung

bình như nhau.

Bảng 2.1. So sánh các mô hình phân biệt đối xử (xét trường hợp cụ thể người sử

dụng lao động phân biệt đối xử đối với người lao động)

Mô hình dựa trên khẩu vị Mô hình thống kê

Đại diện Becker (1957, 1971) Arrow (1973), Phelps (1972)

tiêu biểu

Nguyên nhân “Khẩu vị phân biệt đối xử” “Thông tin bất cân xứng”

phân biệt đối xử

Giả định Người sử dụng lao động có thái - Người sử dụng lao động có hạn

độ tiêu cực đối với người lao chế thông tin về năng suất của

động ở nhóm “thiểu số” (tức là các ứng viên; nên phân biệt đối

nhóm bị phân biệt đối xử). xử là phản ứng hợp lý của người

sử dụng lao động, khi dựa trên

thống kê nhóm để làm cơ sở đưa

ra các quyết định tuyển dụng.

- Mặc dù người sử dụng lao

động có thể có hoặc không có

thái độ tiêu cực đối với người

lao động ở nhóm “thiểu số”;

nhưng thái độ đó không ảnh

hưởng đến việc ra quyết định

tuyển dụng.

Mục đích của “Tối ưu hóa hữu dụng” “Tối đa hóa lợi nhuận”

người sử dụng

lao động trong

mô hình

Các hàm ý chính - Chênh lệch về tiền lương: Sự thiếu thông tin dẫn đến đặc

Người lao động ở nhóm “thiểu điểm của nhóm có thể đại diện

số” bị nhận lương ít hơn người cho đặc điểm của các cá nhân

lao động ở nhóm “đa số”, mặc thuộc nhóm đó.

33

dù có cùng năng suất.

- Ưu đãi tuyển dụng: Người sử

dụng lao đ ộng ít có khả năng

thuê người lao động ở nhóm

“thiểu số” có năng suất tương

đương.

Giải pháp Cạnh tranh làm giảm phân biệt Mức độ phân biệt đối xử sẽ thấp

đối xử. hơn nếu:

(1) Chi phí gián tiếp và chi phí

trực tiếp liên quan đến việc

tuyển dụng sai lao động thấp

hơn;

(2) Hồ sơ xin việc cung cấp

thêm nhiều thông tin cá nhân

của các ứng viên;

(3) Người sử dụng lao động có

thêm nguồn lực thời gian và tiền

bạc khi đưa ra những quyết định

tuyển dụng.

Nhược điểm - Nhiều ý kiến cho rằng không Phân biệt đối xử thống kê là bất

đáng tin cậy nếu sử dụng các mô hợp pháp; do tại một số quốc gia

hình giải thích kết quả hành vi (ví dụ như Mỹ) không cho phép

thông qua những đặc điểm sở đưa ra các quyết định tuyển

thích. dụng, trả lương và thăng tiến

- Mặc dù mô hình của Becker dựa trên hiệu suất được dự đoán

đưa ra lời giải thích đơn giản bởi chủng tộc, giới tính hoặc các

cho sự tồn tại của phân biệt đối khuyết tật.

xử, nhưng không giải đáp được

lý do tại sao mọi người lại có

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

“khẩu vị phân biệt đối xử”.

34

2.3. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động

Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động được tổng quan trên cơ sở các

mô hình kinh tế học về phân biệt đối xử đã được trình bày ở phần trên. Cụ thể: Trong

mô hình dựa trên khẩu vị, người chủ lao động nhận được sự không hữu dụng khi thuê

mướn nữ giới so với nam giới; trong mô hình thống kê, người chủ lao động sử dụng

giới tính để ngoại suy tín hiệu của các thành phần không quan sát được của năng suất.

Có hai xu hướng phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới tính trong thị trường lao động:

(1) việc làm - doanh nghiệp đưa ra các tiêu chí ứng tuyển phù hợp với ứng viên nam,

để gia tăng xác suất lao động nam được tuyển dụng; (2) tiền lương - doanh nghiệp trả

lương khác nhau theo giới tính, mặc dù lao động nam và nữ cùng thực hiện một công

việc.

Những doanh nghiệp phân biệt đối xử sẽ có chi phí biên của sản xuất cao hơn,

nên sẽ thu lợi ít hơn so với các doanh nghiệp ít phân biệt đối xử. Becker (1971) và

Arrow (1973) cũng lưu ý rằng trong một môi trường cạnh tranh, dòng vốn sẽ chảy đến

nơi có lợi nhuận nhiều hơn (những doanh nghiệp ít phân biệt đối xử hơn) và trong dài

hạn, những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường. Vì

vậy, lý thuyết truyền thống về phân biệt đối xử lập luận rằng sự cạnh tranh sẽ làm

giảm phân biệt đối xử trong dài hạn thông qua hiệu ứng lựa chọn; trong đó, chỉ những

doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất (đồng thời ít phân biệt đối xử nhất) sẽ tồn tại.

Tuy nhiên, tác động tổng thể của cạnh tranh đến phân biệt đối xử tùy thuộc hiệu

ứng co giãn và hiệu ứng theo quy mô (Ederington và cộng sự, 2009). Với hiệu ứng co

giãn, cạnh tranh lớn hơn làm gia tăng độ co giãn của cầu với sản phẩm của doanh

nghiệp, do đó sẽ làm gia tăng chi phí của hành vi phân biệt đối xử, đưa đến kết quả là

nhiều lao động nữ được tuyển dụng hơn. Với hiệu ứng theo quy mô, cạnh tranh gia

tăng làm thu hẹp quy mô doanh nghiệp, dẫn đến giảm chi phí của hành vi phân biệt đối

xử và vì vậy doanh nghiệp tuyển thêm nhiều lao động nam. Lưu ý rằng tác động của

cạnh tranh đến quyết định tuyển dụng lao động và mức độ phân biệt đối xử về giới

trong thị trường lao động phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh hiện có trong các ngành.

Trong các ngành công nghiệp không cạnh tranh, hiệu ứng co giãn có xu hướng thống

trị. Ngược lại, trong các ngành công nghiệp cạnh tranh, hiệu ứng quy mô là chủ đạo.

35

Ngoài ra, phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động còn chịu ảnh hưởng

của các nguyên nhân khác. Chẳng hạn như chi phí cơ hội của việc sinh con, mức lương

tương đối của phụ nữ và nam giới (Galor & Weil, 1996), hay như việc chủ doanh

nghiệp thường sẵn sàng thuê những người lao động có cùng văn hóa với họ (Cornell &

Welch, 1996). Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây về phân biệt đối xử trong

việc làm đã xem xét cả sự khác biệt giữa và trong các nhóm để ghi nhận sự bất bình

đẳng về giới. Nghĩa là sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ phải được phân tích kết hợp

giới tính và các đặc điểm nhân khẩu học khác như chủng tộc, dân tộc hoặc địa vị xã

hội (Beal, 2008; Pham & Talavera, 2018). Mặt khác, tuy chiếm số lượng rất ít, nhưng

có nghiên cứu cho rằng tồn tại sự phân biệt đối xử về giới đối với lao động nam trong

những ngành mà lao động nữ có xu hướng thống trị như thư ký, kế toán (Becker,

Fernandes, & Weichselbaumer, 2019).

Về phương pháp, đa sốnghiên cứu trước đây sử dụng cách tiếp cận hồi quy đối

với dữ liệu lực lượng lao động hoặc khảo sát hộ gia đình khi kiểm định phân biệt đối

xử về giới trong lực lượng lao động. Trong đó, phổ biến nhất là phương pháp phân rã

sự khác biệt về tiền lương giữa nam và nữ thành “khoảng cách giải thích được” -

chênh lệch gây ra do sự khác biệt về các biến độc lập - và “khoảng cách không giải

thích được” - chênh lệch gây ra do sự khác biệt về hệ số hồi quy giữa hai nhóm, có

liên quan đến phân biệt đối xử (Blinder, 1973; Oaxaca, 1973).

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Hình 2.1. Sơ đồ phân rã sự khác biệt tiền lương giữa nam và nữ

Trong đó, phương pháp phân rã được sử dụng bao gồm phân rã chênh lệch bằng

hồi quy bình phương nhỏ nhất (Baker & Fortin, 1999; Blau & Kahn, 2000; Blinder,

36

1973; Christofides và cộng sự, 2013; Neumark, 1988; Oaxaca, 1973; Oaxaca &

Ransom, 1994; Rand & Torm, 2012), hoặc phân rã chênh lệch bằng hồi quy phân vị

của Koenker & Bassett Jr (1978), hoặc phân rã chênh lệch bằng các hồi quy khác (Chi

& Li, 2008), hoặc kết hợp đồng thời nhiều phương pháp phân rã để so sánh các kết quả

ước lượng (Goraus và cộng sự, 2017; Piazzalunga & Di Tommaso, 2019). Hai nguyên

nhân của những “khoảng cách không giải thích được” là do sự khác biệt trong năng

suất lao động không quan sát được chịu tác động bởi một số yếu tố bị thiếu thông tin

trong dữ liệu; và việc đầu tư vào nguồn nhân lực chịu ảnh hưởng của những kỳ vọng

về phân biệt đối xử trong tương lai.

Cụ thể, Blinder (1973) thực hiện hồi quy để phân tích chênh lệch tiền lương

giữa các màu da hoặc giữa nam và nữ da trắng, kết quả cho thấy 70% sự khác biệt về

chủng tộc và 100% sự khác biệt về giới là do phân biệt đối xử. Nghiên cứu của Oaxaca

(1973) đưa ra các phát hiện rằng sự khác biệt về hệ số kinh nghiệm, việc đầu tư cho

vốn nhân lực, tuổi thọ công việc… giữa nam và nữ là những nguyên nhân dẫn đến

phân biệt đối xử. Bằng phương pháp hồi quy phân vị và số liệu thống kê năm 1968,

1981 và 1988, Albrecht và cộng sự (2003) kết luận ở phân vị càng cao thì khoảng cách

tiền lương theo giới càng lớn, và không giảm theo thời gian; đối lập với kết quả nghiên

cứu của Melly (2006). Mặt khác, đặc điểm nơi làm việc và công việc có ảnh hưởng

đến mức chênh lệch tiền lương nhiều hơn so với các yếu tố thuộc về cá nhân người lao

động (Baker & Fortin, 1999). Khoảng cách giới về tiền lương còn tương quan cùng

chiều với sự gia tăng trong độ tuổi của người lao động (Blau & Kahn, 2000). Song

song đó, “khoảng cách không giải thích được” lớn trong trường hợp mẫu lớn như toàn

xã hội (Altonji & Blank, 1999), nhưng sẽ thấp khi xem trong một nhóm đối tượng cụ

thể, ví dụ nhóm các học giả (Blackaby và cộng sự, 2005; Ferber & Green, 1982;

Lindley và cộng sự, 1992).

Phương pháp phân rã bằng hồi quy phân vị còn giúp kiểm định hiệu ứng trần

nhà kính - rào cản vô hình trong cơ hội thăng tiến và chế độ trả lương làm cho lao

động nữ không thể đạt đến nhưng vị trí cao như lao động nam (Agrawal, 2013;

Albrecht và cộng sự, 2003; Arulampalam và cộng sự, 2007; Christofides và cộng sự,

2013; De la Rica và cộng sự, 2008; Del Río và cộng sự, 2011; Kee, 2006; Piazzalunga

& Di Tommaso, 2019) - và hiệu ứng sàn dính - tức là các định kiến và phân biệt đối xử

37

làm cho lao động nữ không thăng tiến được trong nấc thang sự nghiệp hoặc xảy ra khi

có chênh lệch tiền lương lớn ở nhưng phân vị tiền lương thấp (Agrawal, 2013;

Arulampalam và cộng sự, 2007; Chi & Li, 2008; Christofides và cộng sự, 2013; Del

Río và cộng sự, 2011; Piazzalunga & Di Tommaso, 2019). Cụ thể: Nghiên cứu của

Agrawal (2013) tìm thấy bằng chứng chứng minh tồn tại hiệu ứng trần nhà kính tại

nông thôn và hiệu ứng sàn dính tại thành thị, lao động nữ tại các phân vị thấp hơn sẽ

đối mặt với phân biệt đối xử nhiều hơn trong nền kinh tế Ấn Độ. Tương tự, Del Río và

cộng sự (2011) cho rằng hiệu ứng sàn dính khiến lao động nữ chịu phân biệt đối xử

trầm trọng hơn tại những phân vị tiền lương thấp; và hiệu ứng trần nhà kính lớn hơn

đối với lao động nữ có bằng đại học. Sử dụng dữ liệu tại 11 quốc gia Châu Âu,

Arulampalam và cộng sự (2007) phân tích khoảng cách tiền lương giữa lao động nam

và nữ theo ngành, và theo khu vực công hoặc tư, có nguyên nhân xuất phát từ sự khác

biệt trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em và quy định tiền lương tại các quốc

gia này. Kết quả này phù hợp với nghiê n cứu của Christofides và cộng sự (2013) tại

cùng châu lục. Chi & Li (2008) tìm thấy hiệu ứng sàn dính có liên quan đến đối tượng

lao động phổ thông nữ được trả lương thấp trong những doanh nghiệp ngoài quốc

doanh tại các đô thị Trung Quốc với dữ liệu khảo sát hộ gia đình năm 1987, 1996 và

2004. Tương tự, đối với khu vực tư tại Úc, kết quả phân rã bằng hồi quy phân vị chứng

minh tác động của hiệu ứng trần nhà kính mạnh trong nghiên cứu của Kee (2006).

Ngược lại, không chỉ tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hiệu ứng trần nhà kính

còn được tìm thấy trong khu vực công tại Ý bên cạnh hiệu ứng sàn dính, xuất phát từ

chính sách thắt chặt tài khóa của Chính phủ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính

2008 - 2012.

Mặt khác, cách tiếp cận thí nghiệm được sử dụng để điều tra về sự phân biệt đối

xử trong tuyển dụng, qua việc đánh giá tỷ lệ gọi phỏng vấn và tỷ lệ đề nghị công việc

đối với các cặp ứng viên - ví dụ như một nam và một nữ (Neumark và cộng sự, 1996;

Riach & Rich, 2006), hoặc hai nữ có tình trạng hôn nhân, số lượng và độ tuổi của con

khác nhau (Becker và cộng sự, 2019). Cụ thể: Neumark và cộng sự (1996) đã tiến

hành thí nghiệm về phân biệt đối xử trong tuyển dụng tại ngành dịch vụ ăn uống của

Mỹ bằng cách cho hai nam và hai nữ ứng tuyển cùng một vị trị phục vụ tại 65 nhà

hàng ở Philadelphia. Sự khác biệt về trình độ giáo dục, kinh nghiệm làm việc, tính

38

cách và ngoại hình được giảm thiểu tối đa. Kết quả cho thấy phụ nữ ít được gọi phỏng

vấn và cũng nhận được ít đề nghị tuyển dụng hơn nam giới tại các nhà hàng cao cấp.

Hay như nghiên cứu Riach & Rich (2006) tiến hành thí nghiệm phân biệt đối xử về

giới trong tuyển dụng ở Anh, bằng cách gửi từng cặp hồ sơ xin việc hư cấu đến các vị

trí đang tuyển dụng tại bốn nghề nghiệp: kế toán, lập trình viên, kỹ sư và thư ký. Trong

đó, hai nghề nghiệp đầu là trung lập về giới tính, hai nghề nghiệp sau do nam hoặc nữ

đảm nhận nhiều hơn, tương ứng. Kết quả cho thấy có sự phân biệt đối xử tồn tại trên

thị trường lao động. Ngoài ra, xuất phát từ tâm lý e ngại của người chủ lao động trong

tuyển dụng nữ giới độ tuổi mang thai và sinh con sẽ dẫn đến nhiều thiệt hại cho doanh

nghiệp, Becker và cộng sự (2019) đã tiến hành thí nghiệm kinh tế quy mô lớn ở Đức,

Thụy Sĩ và Áo, gửi đi khoảng 9.000 đơn xin việc, với các ứng viên nữ khác nhau về

tình trạng hôn nhân và tuổi của con. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong các công

việc bán thời gian, các ứng viên nữ đã kết hôn và có con lớn, qua độ tuổi mang thai và

sinh nở có lợi thế hơn những ứng viên nữ có con nhỏ; song song đó, những ứng viên

nữ đã kết hôn, nhưng chưa sinh con, có khả năng mang thai cao hơn, sẽ gặp bất lợi;

bên cạnh đó, những trở ngại này không tồn tại đối với những công việc toàn thời gian,

do các ứng viên nữ đều cho thấy đã thu xếp việc chăm sóc con bằng các dịch vụ giữ

trẻ.

Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu sử dụng phương pháp thí nghiệm nên

được xem xét cẩn trọng vì quy mô nghiên cứu nhỏ và thông số ước tính không tính

đến sai số (Neumark và cộng sự, 1996). Ngoài ra, các nghiên cứu này còn có nhược

điểm là không đề cập đến năng suất khi xem xét phân biệt đối xử, với giả định chủ lao

động tin rằng yếu tố năng suất không quan sát được đối với các giới khác nhau là như

nhau; từ đó, suy luận rằng sự phân biệt đối xử về giới là kết quả của sự khác biệt về tỷ

lệ gọi phỏng vấn, trong khi có nhiều tranh cãi cho rằng khi đó phân biệt đối xử đã bị

loại trừ bởi giả định về ngưỡng tuyển dụng bằng nhau (Azmat & Petrongolo, 2014).

Mặt khác, cách tiếp cận này còn có hạn chế vì được sử dụng để ước tính mức độ phân

biệt đối xử trung bình trong khi lại dựa trên kết quả của các công ty được lựa chọn

ngẫu nhiên.

Các nghiên cứu về chủ đề phân biệt đối xử về giới trong lao động ở Việt Nam

chủ yếu tập trung vào phân tích khoảng cách giới về tiền lương bằng các phương pháp

39

phân rã chênh lệch bằng các hồi quy (Le & Nguyen, 2018; Liu, 2004a; Nguyen &

Hoang, 2006; Pham & Reilly, 2007; Rand & Torm, 2012; Trần Thị Tuấn Anh, 2016),

kết luận rằng chênh lệch giới về tiền lương phần lớn là do phân biệt đối xử, chứ không

phải từ đặc điểm người lao động. Tuy nhiên, khoảng cách này đang có xu hướng thu

hẹp dần theo thời gian, đặc biệt là kể từ sau giai đoạn Đổi mới (Pham & Reilly, 2007).

Trong đó, phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động giảm đối với lao động nữ

thu nhập cao, tăng đối với lao động nữ thu nhập thấp (Le & Nguyen, 2018; Pham &

Reilly, 2007); tương đương nhau ở khu vực công và khu vực tư (Liu, 2004b). Phân

biệt đối xử về giới trong việc làm còn tồn tại giữa lao động thành thị và nông thôn

(Liu, 2004b; Trần Thị Tuấn Anh, 2016). Hàm ý chính sách đề xuất từ các nghiên cứu

này là cần tăng cường giáo dục và cải thiện công bằng nơi làm việc (Liu, 2004a), tăng

cường phúc lợi trong chế độ thai sản (Liu, 2004b), nghĩa là không nên xây dựng giải

pháp chung cho tất cả mọi đối tượng, mà phải lưu ý đặc điểm xét trên từng phân vị của

từng nhóm đối tượng riêng (Trần Thị Tuấn Anh, 2016) để giảm phân biệt đối xử trong

việc làm đối với lao động nữ tại Việt Nam.

2.4. Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ

Mặc dù phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động có thể xảy ra đối với

bất kỳ đối tượng nào; nhưng nữ giới thường được xem xét dưới góc độ là nhóm bất lợi

hơn trong các nghiên cứu trước đây (Cook & Wilcox, 1991; European Institute for

Gender Equality, 2021; UNICEF, 2017). Như vậy, để nhận diện được bản chất và

nguyên nhân của tình trạng phân biệt đối xử này, ta cần tìm hiểu về sự tham gia vào

lực lượng lao động của phụ nữ đã được phân tích trong các nghiên cứu lý thuyết và

thực nghiệm. Trước tiên, phần nội dung dưới đây sẽ trình bày về lý thuyết khoảng

cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil (1996) - đây là một trong những

lý thuyết nền tảng của luận án này. Sau đó, luận án sẽ tổng quan về các nhân tố tác

động đến sự tham gia của lao động nữ ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ hộ gia đình.

2.4.1. Lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil

(1996)

Lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil

(1996) tích hợp hai khía cạnh, bao gồm: (i) mô hình tăng trưởng (tập trung vào tác

động ngược chiều của tăng trưởng dân số đến mức vốn bình quân lao động, theo đó là

40

mức sản lượng đầu ra bình quân lao động); (ii) mô hình lựa chọn của hộ gia đình (tập

trung vào quyết định của hộ gia đình lựa chọn giữa việc sinh con hay cung lao động

nếu môi trường kinh tế thay đổi). Lý thuyết này phân tích hai vấn đề: Thứ nhất, cách

thức mà tăng trưởng, thông qua thay đổi trong tiền lương tương đối của phụ nữ, tác

động đến quyết định của hộ gia đình về mức sinh và sự tham gia của lao động nữ; thứ

hai, cách thức những quyết định này tác động trở lại thông qua cơ chế sản xuất tác

động đến tăng trưởng sản lượng đầu ra.

Ba nội dung chính trong mô hình của Galor & Weil (1996) bao gồm: Đầu tiên,

quyết định sinh con phụ thuộc vào mức lương tương đối của phụ nữ và nam giới. Tiền

lương cao hơn của phụ nữ dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em gia tăng nhiều hơn so với

thu nhập của hộ gia đình, và do đó số lượng con của mỗi cặp vợ chồng sẽ giảm. Bởi lẽ

phụ nữ phải lựa chọn giữa việc chăm sóc con và tham gia vào lực lượng lao động. Hai

là, tỷ lệ tăng trưởng dân số có tác động đến mức vốn bình quân lao động, nghĩa là một

mức sinh thấp hơn sẽ giúp gia tăng mức vốn bình quân lao động. Cuối cùng, mức vốn

bình quân lao động ảnh hưởng đến tiền lương tương đối của nam và nữ. Vốn bình

quân lao động cao hơn làm gia tăng tiền lương tương đối của phụ nữ. Do đó, mức

lương tương đối cao hơn không chỉ là kết quả, mà còn là nguyên nhân của tăng trưởng

kinh tế. Ba nội dung này kết nối với nhau thành một vòng phản hồi. Mức lương tương

đối cho lao động nữ cao hơn sẽ vừa là sản phẩm vừa là nguyên nhân đối với tăng

trưởng kinh tế.

Nếu phụ nữ không tham gia vào thị trường lao động, thì mức sản lượng đầu ra

sẽ tăng với tốc độ giảm dần khi mức sinh vẫn cao. Tuy nhiên, khi mức vốn bình quân

lao động đủ cao để khiến cho tiền lương tương đối trở nên hấp dẫn đối với phụ nữ, thì

họ sẽ tham gia vào lực lượng lao động nhiều hơn; nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh

chóng đi kèm với sự giảm mạnh trong mức sinh. Sau đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm

khi sản lượng hội tụ đến trạng thái cân bằng ổn định với mức sinh thấp hơn và sự tham

gia của lao động nữ cao hơn.

Galor & Weil (1996) xem xét một mô hình tương tác đa thế hệ trong đó con

người sống qua ba thời kỳ. Trong thời kỳ đầu của cuộc đời, con người chỉ là trẻ em và

cha mẹ đươc chăm sóc. Trong thời kỳ thứ hai, con người sinh con và cung cấp sức lao

động ra thị trường để kiếm tiền. Để thuận tiện, giả định con người không tiêu thụ trong

41

giai đoạn này. Trong thời kỳ thứ ba, con người không làm việc, và tiêu dùng tiền

lương cùng với lợi nhuận đã tích lũy. Lượng vốn trong mỗi thời kỳ bằng với tổng tiết

kiệm chung trong thời kỳ trước. Không tồn tại khác biệt trong một thế hệ.

Mô hình kinh tế được tạo thành từ hai đối tượng là nam giới và nữ giới. Trong

giai đoạn thơ ấu và cao tuổi, nam và nữ là giống hệt nhau. Tuy nhiên, ở tuổi trưởng

thành, nam và nữ khác nhau về khả năng kiếm tiền trong thị trường lao động, do sự

khác biệt trong năng lực lao động (lao động trí óc và lao động thể chất). Tuy nhiên,

mặc dù Galor & Weil (1996) quan tâm đến sự khác biệt tồn tại giữa nam và nữ, nhưng

đơn vị cơ bản trong phân tích là một cặp vợ chồng, gồm một nam và một nữ. Các cặp

vợ chồng sẽ có mức tiêu dùng và hữu dụng chung.

2.4.1.1. Sản xuất

Có ba yếu tố sản xuất: vốn vật chất - 𝐾, lao động thể chất - 𝐿𝑝, và lao động trí

óc - 𝐿𝑚. Lao động thể chất là loại lao động mà nam giới có khả năng vượt trội hơn so

với nữ giới. Lao động trí óc là loại lao động mà nam giới và nữ giới là năng lực như

nhau. Để đơn giản, Galor & Weil (1996) giả định rằng phụ nữ không có khả năng lao

động thể chất.

Một giả định quan trọng khác là nếu vốn vật chất trong nền kinh tế càng nhiều,

thì lao động trí óc càng được tưởng thưởng so với lao động thể chất; nghĩa là vốn vật

chất và lao động trí óc là bổ sung cho nhau trong sản xuất, trong khi đó lao động thể

chất không bổ sung, cũng không thay thế các yếu tố sản xuất khác. Đồng thời, tất cả

yếu tố đều không tăng theo sản phẩm biên.

1

Hàm sản xuất trong một hộ gia đình có dạng như sau:

𝑚)𝜌]

𝜌 + (1 − 𝛼)(𝐿𝑡

𝑝 𝜌 + 𝑏𝐿𝑡

(3.1) 𝑌𝑡 = 𝑎[𝛼𝐾𝑡

Trong đó: 𝑎, 𝑏 > 0, 𝛼 ∈ (0,1), và 𝜌 ∈ (−∞, 1). t là thời điểm t.

Bởi vì chỉ có nam giới cung cấp lao động thể chất, và lao động thể chất không

co giãn; nên tổng số đầu vào lao động thể chất bằng với số lượng các cặp vợ chồng

trong độ tuổi lao động. Hàm sản xuất được viết lại trong điều kiện bình quân các cặp

vợ chồng như sau:

1 𝜌 + 𝑏

𝜌] 𝜌 + (1 − 𝛼)𝑚𝑡

(3.2) 𝑦𝑡 = 𝑎[𝛼𝑘𝑡

𝜌 là vốn bình quân cặp vợ chồng tại thời điểm t. 𝑚𝑡 ≡ Trong đó: 𝑘𝑡 ≡ 𝐾𝑡/𝐿𝑡 𝜌 là đầu vào lao động trí óc bình quân cặp vợ chồng tại thời điểm t; đồng thời,

𝑚/𝐿𝑡 𝐿𝑡 đây cũng là chỉ tiêu để đo lường tỷ lệ lao động nữ. 𝑚𝑡 càng lớn thì tỷ lệ lao động nữ

42

càng cao. Bởi vì nam giới sẽ cung ứng 01 đơn vị lao động thể chất và 01 đơn vị lao

động trí óc, và nữ giới sẽ cung ứng 0 đơn vị lao động thể chất và 01 đơn vị lao động trí

𝑝 - là:

óc, biến 𝑚 sẽ nhận giá trị giữa 01 và 02 - 𝑚𝑡𝜖[1,2].

Lợi nhuận biên của một đơn vị lao động thể chất tại thời điểm t - 𝑤𝑡

𝑝 = 𝑏

𝑚 - là:

(3.3) 𝑤𝑡

Lợi nhuận biên của một đơn vị lao động trí óc tại thời điểm t - 𝑤𝑡

(1−𝜌) 𝜌

𝜌−1 × [𝛼𝑘𝑡

𝑚 = 𝑎(1 − 𝛼)𝑚𝑡

𝑚, trong khi thu nhập của lao động nữ là

(3.4) 𝑤𝑡

𝜌 + (1 − 𝛼)𝑚𝑡 𝜌] 𝑝 + 𝑤𝑡 𝑚. Sự gia tăng trong vốn vật chất 𝑚𝑡 không đổi, làm gia tăng lợi nhuận trên lao động

Thu nhập của lao động nam là 𝑤𝑡

𝑤𝑡

trí óc do đó làm giảm khoảng cách tiền lương theo giới giữa nam và nữ.

2.4.1.2. Vấn đề quyết định của các cặp vợ chồng

Các cặp vợ chồng nhận hữu dụng từ số lượng con mà họ có - ký hiệu là 𝑛𝑡, và

từ tiêu dùng trong giai đoạn tiếp theo của cuộc đời - 𝑐𝑡+1. Trẻ em được coi là hàng hóa

lâu bền trong hàm hữu dụng của cha mẹ. Hiệu quả thuần túy của việc gia tăng thu

nhập hộ gia đình là giữ cho chi phí cho trẻ em không đổi để làm gia tăng cầu trẻ em.

Hàm hữu dụng có dạng như sau:

(3.5) 𝑢𝑡 = 𝛾 ln(𝑛𝑡) + (1 − 𝛾) ln(𝑐𝑡+1)

Giả định rằng hộ gia đình lựa chọn số lượng con muốn có dựa trên xem xét việc

phân bổ thời gian giữa việc chăm sóc con cái và hoạt động trong thị trường lao động.

Thời gian cũng được giả định là đầu vào duy nhất để chăm sóc con, do đó chi phí cơ

hội của trẻ em là tiền lương có được từ việc đi làm. Đồng thời, Galor & Weil (1996)

bỏ qua vấn đề chất lượng con, chỉ tập trung vào số lượng con. Galor & Weil (1996)

không giả định người vợ chăm sóc con tốt hơn người chồng, nhưng để thấy được sự

khác biệt giữa nam giới và nữ giới, chi phí cơ hội của việc chăm sóc con cái của nam

giới cao hơn nữ giới; tuy nhiên giả định này không ảnh hưởng đến kết quả.

Đặt 𝑧 là chi phí thời gian để chăm sóc một đứa trẻ. Vì 𝑛𝑡 là số lượng con của

mỗi cặp vợ chồng nên tổng thời gian để chăm sóc tất cả các con là 𝑧 𝑛𝑡. Tại thời điểm

43

𝑚. Khi quyết định sinh con, cặp vợ chồng sẽ đối mặt với chi

𝑝 + 2𝑤𝑡

bắt đầu, cặp vợ chồng không có con, nên sử dụng tất cả thời gian để đi làm; thu nhập

hộ gia đình là 𝑤𝑡 phí cơ hội, liên quan đến phần thu nhập mất đi. Nói cách khác, nếu cặp vợ chồng quyết

định tham gia vào thị trường lao động, thì mức sinh của họ sẽ giảm. Nếu người vợ

dành thời gian chăm sóc con, thì chi phí cơ hội của đứa trẻ là 𝑧 ∙ 𝑤𝑡

𝑚. Nếu người chồng 𝑝). Như vậy, 𝑚 + 𝑤𝑡 𝑝), nghĩa là chi

dành thời gian chăm sóc con, thì chi phí cơ hội của đứa trẻ là 𝑧 ∙ (𝑤𝑡

𝑚 < 𝑧 ∙ (𝑤𝑡

𝑚 + 𝑤𝑡

so sánh chi phí cơ hội giữa hai vợ chồng, thì 𝑧 ∙ 𝑤𝑡

phí cơ hội của người chồng là cao hơn.

Bởi vì cặp vợ chồng không tạo ra hữu dụng từ tiêu dùng vào thời điểm t, thu

nhập của cặp vợ chồng được phân chia thành khoản chi tiêu cho con cái và tiết kiệm

cho tương lai, 𝑠𝑡, để tối đa hóa hàm hữu dụng của họ.

Nếu 𝑧 𝑛𝑡 ≤ 1 thì chỉ người vợ chăm sóc con, trong khi nếu 𝑧 𝑛𝑡 > 1 thì người

vợ sẽ dành toàn bộ thời gian để chăm sóc con, và người chồng dành một phần thời

gian để chăm sóc con.

Trong giai đoạn đầu tiên, ràng buộc ngân sách của cặp vợ chồng cụ thể như sau:

𝑚, 𝑛ế𝑢 𝑧 𝑛𝑡 ≤ 1 𝑚, 𝑛ế𝑢 𝑧 𝑛𝑡 ≥ 1

𝑚 + (𝑤𝑡

𝑝 + 2 𝑤𝑡 𝑝 + 2 𝑤𝑡

𝑚 + 𝑤𝑡

𝑚𝑧 𝑛𝑡 + 𝑠𝑡 ≤ 𝑤𝑡 𝑝)(𝑧 𝑛𝑡 − 1) + 𝑠𝑡 ≤ 𝑤𝑡

𝑤𝑡 { (3.6) 𝑤𝑡

Trong giai đoạn thứ hai, cặp vợ chồng tiêu dùng khoản tiết kiệm và tiền lãi tích

lũy:

(3.7) 𝑐𝑡+1 = 𝑠𝑡(1 + 𝑟𝑡+1)

Quyết định duy nhất mà hộ gia đình phải thực hiện là về số con mà họ có. Mặt

khác, hộ gia đình còn cần xem xét bao nhiêu thời gian sẽ dành cho việc đi làm, bao

nhiêu tiền sẽ được tiết kiệm; và những điều này sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc con

như thế nào.

Tối đa hóa (3.5) đối với 𝑛𝑡, từ công thức (3.6) và (3.7), thời gian của cha mẹ

𝑚)} ≤ 1

𝑝/𝑤𝑡

𝑝/𝑤𝑡

dành cho việc chăm con là:

𝑚)}, 𝑛ế𝑢 𝛾{2 + (𝑤𝑡 2𝛾, 𝑛ế𝑢 2𝛾 > 1 1, 𝑛ế𝑢 𝑘ℎá𝑐

𝛾{2 + (𝑤𝑡 (3.8) 𝑧 𝑛𝑡 = {

Hình 2.2 cho thấy ràng buộc ngân sách mà các cặp vợ chồng phải giải quyết.

Có ba phương án tối ưu:

44

Một là, nếu đường bàng quan tiếp xúc với phần dưới của giới hạn ngân sách, tại

điểm A, người vợ sẽ đi làm bán thời gian và chăm sóc con bán thời gian; trong khi

người chồng sẽ làm việc toàn thời gian.

Hai là, nếu đường bàng quan tiếp xúc với phần trên của giới hạn ngân sách, tại

điểm B, thì người chồng sẽ đi làm bán thời gian và chăm sóc con bán thời gian; trong

khi người vợ sẽ chăm sóc con cái toàn thời gian. Rõ ràng, cả hai điều kiện này không

thể duy trì cùng lúc.

Cuối cùng, nếu cả hai phương án này không tồn tại, tối ưu của các cặp vợ chồng

sẽ ở điểm mà người vợ chăm sóc con toàn thời gian và người chồng làm việc toàn thời

gian.

z nt

2

B

-1/(wm + wp)

C 1

-1/wm

wp + 2wm

A

st

Nguồn: Galor & Weil (1996)

Hình 2.2. Giới hạn ngân sách của các cặp vợ chồng và phương án tối ưu

Từ phương trình (3.8), số lượng con để tối ưu hóa hàm hữu dụng của hộ gia

𝑚)} ≤ 1

𝑝/𝑤𝑡

𝑝/𝑤𝑡

đình là:

𝑚)}/𝑧, 𝑛ế𝑢 𝛾{2 + (𝑤𝑡 2𝛾/𝑧, 𝑛ế𝑢 𝛾 > 1/2

𝛾{2 + (𝑤𝑡 (3.9) 𝑛𝑡 = {

Nếu mức tiền lương tương đối thấp đối với lao động trí óc, phương trình (3.8)

ngụ ý phụ nữ sẽ chăm sóc con toàn thời gian. Khi tiền lương tương đối của lao động trí

óc tăng lên, phụ nữ sẽ tham gia vào lực lượng lao động và tăng thời gian làm việc.

Trong giới hạn, khi tiền lương lao động trí óc tăng, phụ nữ sẽ dành một phần nhỏ thời

45

gian (1, 2γ) để chăm sóc con. Lưu ý rằng nếu 𝛾 > 1

𝑝 𝑤𝑡 𝑚⁄

2⁄ , thì phụ nữ không đi làm dù tiền ) đủ thấp thì nữ giới sẽ lương của họ đủ cao. Tỷ lệ này đảm bảo rằng với tỷ lệ (𝑤𝑡

tham gia thị trường lao động. Tóm lại, nếu 𝑧 𝑛𝑡 < 1 thì thời gian tham gia lực lượng

lao động của người nữ là 1 − 𝑧 𝑛𝑡; nếu 𝑧 𝑛𝑡 ≥ 1 thì thời gian tham gia của lao động nữ

bằng 0.

2.4.2. Các nhân tố tác động đến sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ

a. Đặc điểm của doanh nghiệp

Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp có thể

phụ thuộc vào cấu trúc thị trường việc làm sẵn có, bao gồm mức độ cạnh tranh của

ngành đang xem xét, được nhận diện qua phân tích đặc điểm ngành nghề của doanh

nghiệp tham gia thương mại quốc tế (Aguayo-Tellez, Airola, & Juhn, 2014; Black &

Brainerd; 2004; Oaxaca, 1973; Sauré & Zoabi, 2014). Việc cắt giảm thuế quan của Mỹ

đối với những hàng hóa được xuất khẩu từ Mexico đã mở rộng những ngành thâm

dụng lao động nữ, và mang lại nhiều việc làm hơn cho nữ giới (Aguayo-Tellez, Airola,

& Juhn, 2014). Do thương mại quốc tế đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng

ngưỡng tuyển dụng (Chen và cộng sự, 2017).

Tuy nhiên, nếu thương mại quốc tế mở rộng ngành thâm dụng lao động nữ,

nhưng đồng thời cũng làm thu hẹp ngành thâm dụng lao động nam (như trường hợp

Mỹ sau NAFTA); thì lao động nam sẽ chuyển sang làm việc tại các ngành thâm dụng

lao động nữ, làm giảm tỷ lệ vốn trên lao động của ngành thâm dụng lao động nữ

(Sauré & Zoabi, 2014). Dưới tác động bổ trợ qua lại cao giữa vốn và lao động nữ,

năng suất biên của nữ giới sẽ giảm nhiều hơn nam giới, nên khoảng cách tiền lương

theo giới sẽ giãn rộng theo hướng bất lợi cho lao động nữ, và sự tham gia của nữ giới

trong thị trường lao động cũng giảm (Sauré & Zoabi, 2014).

Bên cạnh đó, tác động của thương mại quốc tế còn được so sánh giữa doanh

nghiệp thuộc nhóm ngành có mức độ tập trung cao và nhóm ngành có mức độ tập

trung thấp; vì những ngành có mức độ tập trung thấp sẽ phải đối mặt với đối thủ cạnh

tranh cả trong và ngoài nước, nên không tách bạch được phần nào trong thay đổi

khoảng cách tiền lương theo giới là do ảnh hưởng của thương mại quốc tế; ngược lại,

các ngành có mức độ tập trung cao sẽ không chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh trong nước,

46

nên bất kì sự thay đổi nào cũng được quy cho tác động của tự do hóa thương mại

(Black & Brainerd, 2004).

Ngoài ra, đặc điểm ngành nghề trong mô hình các nghiên cứu trước đây còn

được xem xét thông qua phân ngành thống kê cấp hai (Oaxaca, 1973). Đồng thời, quy

mô và thời gian hoạt động của doanh nghiệp cũng là yếu tố có tác động đến sự tham

gia của lao động nữ ở cấp độ doanh nghiệp (Chen và cộng sự, 2017; Contessi và cộng

sự, 2014; Menon & Van der Meulen Rodgers, 2009; Neumayer & De Soysa, 2007;

Seguino, 2000). Đây thường là những biến kiểm soát trong mô hình, để xác định liệu

có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong mẫu dữ liệu hay không.

b. Vốn bình quân lao động

Một trong những rào cản khác đối với sự tham gia của lao động nữ là chi phí cơ

hội của việc sinh con, đại diện bằng vốn bình quân lao động (Galor & Weil, 1996;

Kimura & Yasui, 2010). Sự gia tăng vốn bình quân lao động làm gia tăng mức lương

tương đối của phụ nữ, dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em tăng nhiều hơn so với thu nhập

của hộ gia đình nên mức sinh giảm và sự tham gia vào thị trường lao động của nữ giới

tăng (Galor & Weil, 1996). Mở rộng nghiên cứu của Galor & Weil (1996), Kimura &

Yasui (2010) giải thích sự sụt giảm trong mức sinh là do sự phổ biến của giáo dục

trình độ cao có liên quan đến việc tăng vốn bình quân lao động, với bằng chứng tìm

thấy trong mối tương quan ngược chiều giữa mức sinh và trình độ giáo dục trung bình

của các quốc gia.

c. Đặc điểm của người sử dụng lao động

Mức độ tham gia của người nữ khác vào thời điểm xem xét cũng là một nhân tố

quan trọng ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ. Do sự phân biệt đối xử về giới

trong thị trường lao động xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin (Altonji & Blank,

1999; Arrow, 1973; Bergmann, 1971; Phelps, 1972). Tình trạng thiếu thông tin dẫn

đến việc các nhà sử dụng lao động cho rằng lao động nữ trong độ tuổi sinh con có

nhiều khả năng bỏ việc (Altonji & Blank, 1999). Tương tự, người chủ lao động tìm

cách tối đa hóa lợi nhuận sẽ phân biệt đối xử đối với nữ giới nếu tin rằng họ có năng

suất thấp hơn so với mức trung bình của nam giới (Phelps, 1972). Ngoài ra, sự tham

gia của nhiều phụ nữ khác sẽ giúp giảm tình trạng phân biệt đối xử đối với lao động

nữ, khi tiền lương của nhóm thiểu số tăng lên theo sự gia tăng tỷ trọng của họ trong thị

47

trường lao động (Black, 1995). Đồng thời, vốn xã hội cao hơn sẽ giúp cải thiện thông

tin tốt hơn, vì sự không chắc chắn của người chủ lao động về năng suất của người lao

động sẽ được giảm đi khi người chủ lao động có nhiều cơ hội hơn để tìm hiểu về hiệu

quả công việc của người lao động (Cain, 1986). Điều này tương tự khi người chủ lao

động có cùng giới tính với người lao động (Cornell & Welch, 1996; Ederington và

cộng sự, 2009).

Sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ còn chịu tác động bởi khẩu vị

phân biệt đối xử của người sử dụng lao động, bao gồm văn hóa hành vi của họ, thể

hiện qua chế độ đãi ngộ lao động tại doanh nghiệp (Becker, 1971). Nếu một cá nhân

có “khẩu vị phân biệt đối xử”, thì cá nhân đó sẽ sẵn sàng trả giá, trực tiếp hoặc dưới

hình thức giảm thu nhập, để được liên kết với những người này thay vì những người

khác (Becker, 1971). Như vậy, sự tham gia của lao động nữ sẽ giảm đi trong nhưng

doanh nghiệp mà người sử dụng lao động có khẩu vị phân biệt đối xử theo hướng tiêu

cực đối với nữ giới.

d. Tình trạng hôn nhân

Việc nữ giới tham gia làm việc tại các doanh nghiệp còn là kết quả của việc lựa

chọn giữa công việc và gia đình (Fofana và cộng sự, 2005; Oaxaca, 1973). Theo đó,

tình trạng hôn nhân có liên quan trực tiếp đến cung lao động nữ. Cụ thể, Lee và cộng

sự (2008) cho thấy hôn nhân là rào cản đối với việc đi làm của phụ nữ trẻ; đồng thời tỷ

lệ tham gia vào lực lượng lao động của người nữ đã kết hôn khác nhau tùy thuộc vào

nghề nghiệp của chồng và tuổi của chính họ. Tỷ lệ cung lao động thấp hơn của phụ nữ

trẻ đã kết hôn được giải thích bởi các nhân tố phía cầu; trong khi đó, tỷ lệ cung lao

động cao hơn của phụ nữ trung niên đã kết hôn được giải thích bởi các nhân tố phía

cung.

Mở rộng xem xét các nhân tố khác có ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động

nữ đã kết hôn, tổng quan nghiên cứu trước đây cho thấy tác động của tự do hóa thương

mại đến cung lao động nữ có thể được xem xét thông qua phân tích giữa thời gian làm

việc và nghỉ ngơi của các thành viên trong hộ gia đình. Kết quả nghiên cứu tại một

quốc gia đang phát triển (cụ thể là Nepal) thể hiện rằng mặc dù thời gian làm việc

trong thị trường lao động của nữ giới gia tăng, nhưng thời gian dành cho các công việc

chăm sóc gia đình không giảm; thay vào đó, thời gian nghỉ ngơi của họ sẽ giảm

48

(Fofana và cộng sự, 2005). Mức độ tham gia của nam giới vào công việc chăm sóc gia

đình ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ tiền lương tương đối giữa vợ và chồng, cũng như

quyết định cung lao động trong hộ gia đình (Fofana và cộng sự, 2005). Như vậy, ta có

thể thấy, văn hóa và truyền thống có xu hướng cản trở sự tham gia của phụ nữ vào lực

lượng lao động (Oaxaca, 1973).

e. Trình độ học vấn

Việc nâng cao trình độ giáo dục, đặc biệt ở cấp trung học phổ thông và cao hơn,

sẽ thúc đẩy gia tăng cung lao động nữ; nhờ vậy phụ nữ có thể đạt được sự bình đẳng

thông qua tham gia vào thị trường lao động, được trả lương và đi làm toàn thời gian

(Hare, 2016). Thông qua đầu tư vào vốn nhân lực, cung lao động nữ sẽ bị ảnh hưởng

bởi chuyên môn và học vấn của chính họ, được chứng minh bằng dữ liệu của cả quốc

gia đang phát triển và phát triển. Điều này có thể lý giải do sự thay đổi tiền lương có

liên quan đến sự thay đổi trong giáo dục trong dài hạn, kéo theo sự gia tăng trong

nguồn cung lao động nữ (Gronau, 1977). Song song đó, Keats (2018) xem xét mối

quan hệ nhân quả giữa giáo dục và sự tham gia của lao động nữ tại thời điểm cải cách

giáo dục miễn học phí tiểu học được ban hành tại Uganda năm 1997. Sau khi học phí

được miễn, cải cách giúp tăng thời gian đi học của nữ giới ở tất cả các cấp lớp, mang

lại những kết quả tích cực về cải thiện tình trạng việc làm và gia tăng phúc lợi hộ gia

đình.

Mặt khác, chuyên môn và học vấn và chuyên môn của người chồng là một

trong những nhân tố quan trọng tác động cùng chiều đến sự tham gia của lao động nữ

(Khandker, 1988). Ngoài ra, qua kiểm định dữ liệu phụ nữ thuộc 11 nhóm tuổi tại 117

quốc gia, Besamusca và cộng sự (2015) đã chứng minh rằng khi trình độ của người

phụ nữ được cải thiện, họ sẽ không nghỉ việc khi thu nhập của người chồng tăng lên.

f. Điều kiện kinh tế

Tổng quan nghiên cứu trước đây cho thấy điều kiện kinh tế, chịu ảnh hưởng từ

các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô , sẽ có ảnh hưởng đến sự tham gia vào lực lượng

lao động của phụ nữ. Nghĩa là, người nữ sẽ gia nhập vào thị trường lao động khi chế

độ nghỉ thai sản có trả lương và sự sẵn có của công việc phù hợp khi quy mô các

ngành mở rộng, với mặt bằng trình độ giáo dục được nâng cao, và nhiều dịch vụ chăm

sóc trẻ em trong cộng đồng hơn (Aisenbrey và cộng sự, 2009; Besamusca và cộng sự,

49

2015; Semyonov, 1980). Thời gian nghỉ thai sản ngắn, ví dụ như ở Mỹ, dẫn đến tình

trạng nhiều phụ nữ rời bỏ lực lượng lao động; trong khi chính sách “earner-carer” của

Thụy Điển sẽ cho phép lao động nữ nghỉ làm việc từ một năm trở lên mà vẫn giữ được

mối quan hệ với thị trường lao động (Aisenbrey và cộng sự, 2009). Bên cạnh đó, các

chính sách trợ cấp chi phí chăm sóc trẻ em của chính phủ sẽ tạo điều kiện cho các bà

mẹ từ các gia đình thu nhập thấp tham gia và thị trường lao động (Blau & Robins,

1988).

Ngoài ra, tác động của điều kiện kinh tế đến sự tham gia của lao động nữ còn

được phản ánh qua mức độ giàu nghèo của hộ, khi xem xét thu nhập của người chồng

(Angrist & Evans, 1998; Blau & Robins, 1988; Gronau, 1977; Kleven và cộng sự,

2009; Mincer, 1962) và vấn đề phân phối của cải giữa các thành viên trong hộ

(Chiappori, 1992; Gronau, 1977); vì nếu thu nhập của chồng ngày càng tăng thì phụ

nữ thường dành nhiều thời gian cho công việc nhà (Malathy, 1994). Do mặc dù ảnh

hưởng của điều kiện kinh tế được thể hiện qua các khía cạnh khác nhau của hộ gia

đình, tác động đáng kể nhất đối với sự tham gia của lao động nữ vẫn là bất bình đẳng

thu nhập giữa vợ và chồng. Trong hộ gia đình, thành viên kiếm tiền chính luôn tham

gia vào lực lượng lao động, còn thành viên kiếm tiền phụ phải lựa chọn giữa việc có đi

làm hay không (Kleven và cộng sự, 2009). Ở những xã hội xảy ra tình trạng bất bình

đẳng càng cao, phụ nữ ít có khả năng tham gia lực lượng lao động (Semyonov, 1980).

Ngoài ra, hiệu ứng lương của người chồng còn thể hiện khả năng thay thế vai trò của

chồng và vợ trong mọi hoạt động, do tồn tại sự phân bổ tương đối lớn về thời gian của

người mẹ đối với việc giáo dục con cái (Malathy, 1994).

g. Mức sinh

Một lần nữa, mức sinh được khẳng định là nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia

của lao động nữ (Ahn & Mira, 2002; Angrist & Evans, 1998; Cruces & Galiani, 2007;

Eissa & Hoynes, 2004; Mincer, 1962). Đây cũng là nhân tố quan trọng được khẳng

định trong lý thuyết của Galor & Weil (1996). Qua phân tích khoảng thời gian nghỉ

sinh được hưởng lương và hậu quả nghề nghiệp trong ngắn hạn đối với lao động nữ,

Aisenbrey và cộng sự (2009) đưa ra những kết quả nghiên cứu khác nhau tùy thuộc

vào bối cảnh quốc gia nghiên cứu. Cụ thể: Tại Mỹ, các tác giả xác định những thiệt hại

của lao động nữ tồn tại trong cả thời gian nghỉ sinh ngắn; đồng thời, thời gian nghỉ

50

sinh càng dài thì nguy cơ tụt hậu, giáng chức càng cao, trong khi cơ hội thăng tiến

càng thấp. Tương tự đối với trường hợp tại Đức. Ngay cả đối với trường hợp Thụy

Điển - quốc gia được đánh giá là “thân thiện với phụ nữ”, triển vọng nghề nghiệp của

lao động nữ sẽ tốt hơn nếu họ sớm quay lại thị trường lao động. Vì vậy, lĩnh vực dịch

vụ chăm sóc trẻ em đã mở rộng trong thời gian gần đây do sự tham gia ngày càng tăng

vào lực lượng lao động của những bà mẹ có con nhỏ. Theo đó, các quyết định cung lao

động và quyết định sử dụng các dịch vụ giữ trẻ đều nhạy cảm với chi phí chăm sóc trẻ

em (Blau & Robins, 1988).

Bên cạnh những nghiên cứu cho rằng mức sinh cao thì tỷ lệ lao động nữ thấp

(Angrist & Evans, 1998; Bloom và cộng sự, 2009; Cáceres-Delpiano, 2012; Cruces &

Galiani, 2007; Killingsworth & Heckman, 1986), thì có nghiên cứu chứng minh tại

một số quốc gia có mức sinh cao nhưng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của phụ

nữ cũng cao, và ngược lại (Aguero & Marks, 2008; Ahn & Mira, 2002; Hilgeman &

Butts, 2009; Rindfuss và cộng sự, 2003). Ví dụ, tác động ngược chiều của quy mô gia

đình đến việc làm của phụ nữ được tìm thấy tại 40 quốc gia đang phát triển trong

nghiên cứu của Cáceres-Delpiano (2012). Một ca sinh làm giảm cung lao động của

người nữ trung bình hai năm trong cuộc đời (Bloom và cộng sự, 2009). Tuy nhiên,

việc có con không phải là rào cản đối với lao động nữ tại một số nước Mỹ La tinh

trong nghiên cứu của Aguero & Marks (2008), nên các chính sách chỉ tập trung vào

công tác kế hoạch hóa gia đình không có khả năng làm tăng tỷ lệ tham gia lực lượng

lao động của phụ nữ. Trường hợp tương tự xảy ra tại các nước OCED vào cuối những

năm 1980 (Ahn & Mira, 2002). Điều này có thể được lý giải là do chế độ chăm sóc trẻ

em tốt chính là giải pháp để các quốc gia duy trì mức sinh cao song song với tỷ lệ

tham gia của lao động nữ cũng cao, do sự không tương thích vai trò người mẹ và

người lao động giảm, đồng thời mối liên hệ giữa hôn nhân và sinh con được nới lỏng

(Hilgeman & Butts, 2009, Rindfuss và cộng sự, 2003).

h. Sự hỗ trợ trong việc chăm sóc con

Sự hỗ trợ trong việc chăm sóc con có ý nghĩa quan trọng trong cải thiện sự tham

gia của lao động nữ. Do theo những chuẩn mực truyền thống, phụ nữ nhiều khả năng

chịu trách nhiệm việc chăm sóc con hơn nam giới (Angrist & Evans, 1998; Becker,

1985; Galor & Weil, 2000; Guryan và cộng sự, 2008; Maurer-Fazio và cộng sự); vì

51

vậy nhiều người sử dụng lao động e ngại việc tuyển lao động nữ đang trong độ tuổi

mang thai và sinh con, vì phải tốn chi phí tìm người thay thế tạm thời cho lao động nữ

nghỉ thai sản, hoặc giải quyết khó khăn khi lao động nữ nghỉ phép chăm sóc con ốm

bệnh (Becker và cộng sự, 2019). Sự hỗ trợ trong việc chăm con này có thể thông qua

việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc trẻ em trong cộng đồng (Guo và cộng sự, 2018;

Hilgeman & Butts, 2009), hoặc sống chung với người có thể hỗ trợ chăm sóc trẻ thay

người mẹ khi đi làm như ông bà hay người giữ trẻ (Floge, 1989; Guo và cộng sự,

2018).

Cụ thể, kết quả nghiên cứu trước đây không tìm thấy tác động ngược chiều giữa

mức sinh và cung lao động của cha mẹ tại các gia đình ba thế hệ cùng chung sống tại

Trung Quốc, vì mẫu hình gia đình đa thế hệ đã cung cấp cơ chế chăm sóc trẻ em

không chính thức (Guo và cộng sự, 2018). Tuy nhiên, với tình trạng giảm số lượng các

gia đình đa thế hệ, các dịch vụ chăm sóc trẻ em chính thức sẽ dần thay thế các hoạt

động chăm sóc trẻ em không chính thức. Theo đó, các dịch vụ chăm sóc trẻ em trong

cộng đồng là phương tiện hiệu quả để tăng mức sinh và giảm bớt tác động của việc mở

rộng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ (Hilgeman & Butts, 2009).

2.5. Mối tương quan giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong

lực lượng lao động

Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động cần được nghiên cứu dưới tác

động của thương mại quốc tế; do những tác động của thương mại quốc tế đối với tính

hiệu quả của thị trường lao động (Bell & Heitmueller, 2009), hoặc đối với phúc lợi của

hộ gia đình (Winters, 2002) khi mà tiền lương của lao động nữ là một trong những yếu

tố quyết định tình trạng giàu nghèo của hộ (Winters & Martuscelli, 2014). Thực tiễn

đã chứng minh nam giới và nữ giới giữ nhiều vai trò khác nhau trong thương mại quốc

tế, từ người lao động đến người chủ lao động. Không chỉ vậy, nữ giới còn góp phần

sinh ra và chăm sóc cho lực lượng lao động tương lai. Do đó, nếu phân biệt đối xử về

giới không được xem xét dưới góc độ thương mại quốc tế, thì rõ ràng những đóng góp

của nữ giới không được ghi nhận tương xứng. Vì vậy, mối tương quan giữa thương

mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động đã nhận được nhiều

sự quan tâm trong nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trước đây.

52

2.5.1. Các nghiên cứu lý thuyết

Mối tương quan giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực

lượng lao động được xem xét thông qua cơ chế thương mại quốc tế tác động đến sự

tham gia của người nữ vào lực lượng lao động (Becker, 1957); cụ thể theo hai hướng

tiếp cận như sau: Một là, hướng tiếp cận thứ nhất theo lý thuyết về khoảng cách giới,

mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil (1996) và mở rộng lý thuyết này của Chen

và cộng sự (2017). Hai là, hướng tiếp cận thứ hai theo lý thuyết về tác động của

thương mại quốc tế đến phúc lợi hộ gia đình của Winters (2002) và mở rộng lý thuyết

này của Winters & Martuscelli (2014), được chứng minh bởi Ederington và cộng sự

(2009), hoặc Menon và cộng sự (2009) đối với trường hợp các ngành có mức độ tập

trung cao.

2.5.1.1. Hướng tiếp cận thứ nhất

Galor & Weil (1996) cho rằng cung lao động nữ tăng khi hộ gia đình quyết định

giảm mức sinh, do mức lương tương đối giữa vợ và chồng cao hơn, và có liên quan

đến sự tăng trưởng của vốn bình quân lao động. Giả định quan trọng trong lý thuyết

này là cấu trúc mô hình gồm ba yếu tố sản xuất: (i) vốn, (ii) lao động thể chất (là loại

lao động mà chỉ lao động nam mới có), (iii) lao động trí óc (là loại lao động mà lao

động nam và lao động nữ có năng lực như nhau); trong đó vốn là bổ sung cho lao động

trí óc, nghĩa là nếu vốn càng tăng thì lợi nhuận biên của lao động trí óc càng cao; vì

vậy làm giảm khoảng cách tiền lương theo giới giữa nam và nữ.

Dựa trên lý thuyết của Galor & Weil (1996), Chen và cộng sự (2017) xem xét

tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ. Xuất phát từ hàm

sản xuất trong điều kiện bình quân của các cặp vợ chồng trong lý thuyết của Galor &

Weil (1996) như sau:

1 𝜌 + 𝑏

𝜌] 𝜌 + (1 − 𝛼)𝑚𝑡

(4.1) 𝑦𝑡 = 𝑎[𝛼𝑘𝑡

Trong đó: 𝑘𝑡 là vốn bình quân tại thời điểm t.

𝑚𝑡 là đầu vào lao động trí óc tại thời điểm t

Hàm cầu yếu tố lao động trí óc phản ánh tỷ lệ tham gia của lao động nữ. Dựa

(1−𝜌) 𝜌

trên mô hình của Galor & Weil (1996), giá của yếu tố lao động trí óc là:

𝑚 = 𝑎(1 − 𝛼)𝑚𝑡

𝜌−1 × [𝛼𝑘𝑡

𝜌] 𝜌 + (1 − 𝛼)𝑚𝑡

(4.2) 𝑤𝑡

53

𝑚/𝛼 𝑘𝑡 > 0, nghĩa là vốn tăng thì giá của lao động trí óc sẽ tăng. Đối với các hoạt động sản xuất có liên quan đến thương mại quốc tế, giá của

Khi 𝛼 𝑤𝑡

yếu tố lao động thể chất và lao động trí óc không chỉ bị ảnh hưởng bởi nhân tố nội địa

mà còn chịu tác động của yếu tố sản xuất từ các quốc gia đối tác thương mại. Nếu mức

vốn bình quân của quốc gia đối tác 𝑘1 cao hơn so với trong nước 𝑘0, nghĩa là 𝑘1 > 𝑘0,

0𝑚.

mức thu nhập của lao động trí óc của quốc gia đối tác thương mại sẽ cao hơn so với

1𝑚 > 𝑤𝑡

trong nước; dẫn đến 𝑤𝑡

𝑚 tăng.

Tùy thuộc vào định lý cân bằng giá yếu tố, giá nhân tố lao động trí óc trong

𝑚 sẽ dẫn đến sự gia tăng trong

nước sẽ gia tăng dưới điều kiện mở cửa thương mại; nghĩa là 𝑤𝑡

𝑚 > 0, sự gia tăng của giá yếu tố 𝑤𝑡

Khi 𝜕𝑚𝑡/𝜕𝑤𝑡

cung lao động trí óc, nghĩa là 𝑚𝑡 tăng. Từ đó cho thấy tỷ lệ lao động nữ và quy mô

việc làm của lao động nữ trong các lĩnh vực xuất khẩu sẽ được gia tăng tương ứng.

𝑝 𝑤𝑡 𝑚⁄

𝑚 tăng nhưng 𝑤𝑡

𝑝 không đổi, nên 𝑤𝑡

giảm, nghĩa là Mặt khác, do 𝑤𝑡

khoảng cách giới về tiền lương được thu hẹp.

Tóm lại, tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ có tương quan ngược

chiều với mức sinh; trong khi đó, mức sinh có tương quan cùng chiều với khoảng cách

giới về tiền lương. Vì vậy, khi thương mại quốc tế làm tăng giá yếu tố lao động và thu

hẹp sự khác biệt thu nhập theo giới, mức sinh sẽ giảm, và quy mô lực lượng lao động

nữ sẽ tăng.

2.5.1.2. Hướng tiếp cận thứ hai

Theo lý thuyết của Winters (2002), ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến phúc

lợi hộ gia đình được truyền dẫn qua ba kênh: (i) kênh giá cả, (ii) kênh các thị trường

nhân tố, (iii) kênh tài khóa. Thị trường lao động là một thị trường nhân tố. Theo đó, tác

động của thương mại quốc tế đến vấn đề xóa đói giảm nghèo phụ thuộc vào độ co giãn

của nguồn cung lao động. Trong một số điều kiện cụ thể, nếu cung lao động cố định

hoàn toàn, tiền lương thực sẽ gia tăng nếu sản xuất hàng hóa gia tăng khi tự do hóa

thương mại. Ngược lại, khi cung lao động co giãn hoàn toàn, tiền lương sẽ cố định, và

việc điều chỉnh diễn ra về mặt việc làm, nghĩa là người lao động sẽ dịch chuyển giữa

các ngành để theo đuổi mức lương cao hơn.

Kết nối lý thuyết này với sự tham gia vào lực lượng lao động của ph ụ nữ,

Winters & Martuscelli (2014) cho rằng tiền lương của phụ nữ - yếu tố quan trọng

54

quyết định hiện trạng giàu nghèo của một hộ gia đình - chịu ảnh hưởng bởi tự do hóa

thương mại theo ba kênh chính như sau: (i) phân bổ giữa các ngành, (ii) phân bổ nội

bộ ngành, (iii) phân biệt đối xử.

Hình 2.3. Khung phân tích của Winters (2002) về ảnh hưởng của thương mại

Nguồn: Winters (2002)

quốc tế đến phúc lợi hộ gia đình

Đầu tiên, nếu tự do hóa thương mại ủng hộ các ngành thâm dụng lao động nữ,

thì tiền lương hoặc việc làm của lao động nữ sẽ gia tăng (Aguayo-Tellez và cộng sự,

2014; Gaddis & Pieters, 2012). Hai là, thương mại quốc tế có thể tương quan với thành

phần giới trong nội bộ ngành; do quá trình đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu suất tại

các doanh nghiệp sẽ giúp bộc lộ lợi thế so sánh của lao động nữ trong các ngành ít

thâm dụng thể chất và đòi hỏi nhiều lao động trí óc (Juhn và cộng sự, 2013; Juhn,

Ujhelyi, & Villegas-Sanchez, 2014). Cuối cùng, tự do hóa thương mại làm gia tăng

cạnh tranh, do đó phân biệt đối xử về giới giảm (Becker, 1971; Ederington và cộng sự,

2009), trừ trường hợp các ngành có mức độ tập trung cao (Menon & Van der Meulen

Rodgers, 2009).

2.5.1.2.1. Mô hình của Ederington và cộng sự (2009)

Minh họa bằng mô hình của Ederington và cộng sự (2009) về tác động của

thương mại quốc tế đến phân biệt đối xử về giới thông qua cạnh tranh. Theo trường

phái Kinh tế học Tân cổ điển, “phân biệt đối xử là tốn kém đối với người sử dụng lao

55

động”, và sẽ không tồn tại trong thị trường cạnh tranh (Becker, 1971). Điều này được

khẳng định trong bối cảnh nền kinh tế mở. Theo đó, khi đối mặt với cạnh tranh quốc

tế, các doanh nghiệp sẽ chịu áp lực lớn hơn trong việc cắt giảm chi phí, bao gồm cả

những chi phí liên quan đến phân biệt đối xử. Trong dài hạn, tình trạng phân biệt đối

xử sẽ giảm đối với những ngành mở cửa thương mại nhiều hơn.

Ederington và cộng sự (2009) giữ nguyên giả định theo lý thuyết của Becker

(1957) và Arrow (1973) rằng các doanh nghiệp tối ưu hóa hữu dụng chứ không nhất

thiết vì lợi nhuận, để chứng minh cho sự đánh đổi giữa lợi nhuận và số lượng lao động

nam và nữ. Ngoài ra, thị trường cạnh tranh độc quyền được giả định để cho phép cả

doanh nghiệp phân biệt đối xử và doanh nghiệp không phân biệt đối xử cùng tồn tại ở

trạng thái cân bằng. Nền kinh tế trong mô hình của Ederington và cộng sự (2009) gồm

hai khu vực: (i) khu vực sản xuất hàng hóa tiêu chuẩn 𝑥0, (ii) khu vực sản xuất hàng

1 𝜌⁄ ]

hóa khác. Sở thích của của người tiêu dùng được xác định bởi hàm hữu dụng sau:

𝑛 0

(5.1) 𝑈 = 𝑥0 + 𝑙𝑜𝑔[∫ 𝑦(𝑗)𝜌𝑑𝑗

Trong đó: 𝑥0 là số hàng hóa tiêu chuẩn được tiêu thụ.

𝑦(𝑗)là số hàng hóa khác được tiêu thụ.

𝑛 là tổng số doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất các hàng hóa khác.

Ederington và cộng sự (2009) sử dụng hệ số co giãn thay thế đầu vào không đổi

(constant elasticity of substitution - CES) giữa các cặp hàng hóa để phản ánh thị hiếu

tiêu dùng đa dạng. Theo đó, độ co giãn giữa hai hàng hóa bất kỳ là 𝜎 = 1/(1 − 𝜌) >

1.

Tổng cầu của hàng hóa nhãn i (trong nhóm hàng hóa khác) là:

𝑝(𝑖)−𝜎𝐸 𝑛 ∫ 𝑝(𝑗)1−𝜎𝑑𝑗 0

(5.2) 𝑦(𝑖) =

Trong đó: 𝑝(𝑖) là giá hàng hóa nhãn i.

𝐸 đại diện tổng số khách hàng.

Ederington và cộng sự (2009) giả định rằng cần có trình tự để sản xuất ra các

hàng hóa khác. Đặt 𝑡 là số thứ tự cho các khâu sản xuất và chi phí để thực hiện khâu

sản xuất thứ 𝑡 là 𝑤(𝑡), chi phí biên (ký hiệu là 𝑐) để sản xuất hàng hóa khác được trình

bày như sau:

1 𝑐 = ∫ 𝑤(𝑡)𝑑𝑡 0

(5.3)

56

Ederington và cộng sự (2009) tiếp tục giả định rằng chi phí tuyển dụng một lao

động nam để hoàn thành một khâu sản xuất là 𝑤𝑚, chi phí tuyển dụng một lao động nữ

để hoàn thành một khâu sản xuất là 𝑤𝑓. Đồng thời, các tác giả giả định rằng lao động

nam và nữ có năng suất như nhau trong quá trình sản xuất ra sản phẩm khác, nhưng lại

được hưởng những mức lương khác nhau, cụ thể là 𝑤𝑚 > 𝑤𝑓.

Với 𝑧𝑖 ∈ [0, 1] là tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp sản xuất hàng hóa nhãn

i, thì chi phí biên của doanh nghiệp sản xuất hàng hóa nhãn i đó là:

(5.4) 𝑐𝑖 = 𝑤𝑚 − 𝑧𝑖(𝑤𝑚 − 𝑤𝑓)

Do tiền lương phải trả cho lao động nữ thấp hơn, nên doanh nghiệp muốn tối

thiểu hóa chi phí sẽ chỉ tuyển lao động nữ (ví dụ, đặt 𝑧𝑖 = 1). Tuy nhiên, vì giả định

doanh nghiệp sẽ tối ưu hóa hữu dụng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận, nên Ederington và

cộng sự (2009) bổ sung giả định rằng người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp sẽ

giảm một phần hữu dụng nếu thuê mướn lao động nữ, xác định bởi 𝜙𝑖(𝑧𝑖). Lưu ý rằng

các tác giả giả định (như phiên bản Arrow (1973) của lý thuyết Becker (1971)), các

doanh nghiệp chỉ quan tâm đến tỷ lệ lao động nữ (nghĩa là các doanh nghiệp chỉ quan

tâm về 𝑧𝑖). Vì vậy, các doanh nghiệp chọn giá 𝑝𝑖 và tỷ lệ lao động nữ 𝑧𝑖 để tối ưu hóa:

′′(𝑧𝑖) < 0.

(5.5) (𝑝𝑖 − 𝑐𝑖)𝑦𝑖 − 𝜙(𝑧𝑖) max 𝑝𝑖,𝑧𝑖

′(𝑧𝑖) > 0 và 𝜙𝑖

Trong đó: 𝜙𝑖

𝜎

Lấy đạo hàm bậc nhất phương trình (5.5) theo 𝑝𝑖, ta có:

𝜎−1

𝜎−1

(5.6) 𝑝𝑖 = 𝑐𝑖

′(𝑧𝑖) =

𝜎

(5.7) 𝜙𝑖 Lấy đạo hàm bậc nhất phương trình (5.5) theo 𝑧𝑖, ta có: (𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝐸[𝑤𝑚−(𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝑧𝑖]−𝜎 𝑛 ∫ (𝑐𝑗)1−𝜎𝑑𝑗 0

Vế trái của phương trình (5.7) cho thấy chi phí biên của việc gia tăng tỷ lệ lao

động nữ; trong khi đó, vế phải cho thấy lợi nhuận biên (với chi phí sản xuất giảm). Các

doanh nghiệp sẽ tuyển dụng lao động nam (nghĩa là 𝑧𝑖 < 1), nếu và chỉ nếu phần

không hữu dụng biên của thuê mướn lao động nữ là đủ cao (và cao hơn so với chi phí

tiền lương phải trả cao hơn của lao động nam).

xử” cao nhất (nghĩa là có giá trị 𝜙𝑖

Có hai vấn đề cần lưu ý: Một là, các doanh nghiệp có “khẩu vị phân biết đối ′(𝑧𝑖) cao nhất với bất kì 𝑧𝑖) sẽ có tỷ lệ lao động nữ thấp nhất (nghĩa là doanh nghiệp đó lựa chọn 𝑧𝑖 thấp nhất). Như đã đề cập bởi Becker

57

(1957) và Arrow (1973), tỷ lệ lao động nữ sẽ khác nhau giữa các doanh nghiệp, những

doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ có tỷ lệ lao động nữ thấp hơn và ngược

lại. Hơn nữa, những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn cũng sẽ thu lợi ít hơn, vì

có chi phí biên sản xuất cao hơn (nghĩa là 𝑐𝑖 cao hơn). Hai là, Becker (1957) và Arrow

(1973) cho rằng trong một môi trường cạnh tranh, dòng vốn sẽ chảy đến nơi có lợi

nhuận nhiều hơn (những doanh nghiệp ít phân biệt đối xử hơn); và trong dài hạn,

những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường. Vì vậy, lý

thuyết truyền thống về phân biệt đối xử lập luận rằng sự cạnh tranh sẽ làm giảm phân

biệt đối xử trong dài hạn thông qua hiệu ứng lựa chọn, trong đó, chỉ những doanh

nghiệp có lợi nhuận cao nhất (đồng thời ít phân biệt đối xử nhất) sẽ tồn tại.

Ederington và cộng sự (2009) đã đề xuất một cơ chế khác mà qua đó cạnh tranh

có thể tác động đến phân biệt đối xử, thông qua các quyết định tuyển dụng (bằng việc

tác động đến lựa chọn 𝑧𝑖 tối ưu). Để đơn giản, giả định rằng các doanh nghiệp có hàm

hữu dụng giống nhau (nghĩa là 𝑧𝑖 = 𝑧 tại điểm cân bằng). Theo đó, phương trình (5.7)

𝜎−1

được viết lại như sau:

′(𝑧𝑖) =

𝜎

(𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝐸 [𝑤𝑚−(𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝑧]𝑛

(5.8) 𝜙𝑖

Giả sử rằng có sự gia tăng trong cạnh tranh do sự gia tăng trong hệ số co giãn

thay thế 𝜎 (lưu ý rằng khi 𝜎 → ∞, với CES tuyến tính). Lấy đạo hàm bậc nhất vế phải

𝜕𝑅𝐻𝑆

phương trình (5.8) theo 𝜎, ta có:

𝜕𝜎

1 𝜎2

(𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝐸 [𝑤𝑚−(𝑤𝑚−𝑤𝑓)𝑧]𝑛

(5.9) = > 0

Cạnh tranh gia tăng sẽ làm tăng lợi nhuận biên của việc thuê mướn lao động nữ,

từ đó làm tăng tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp (nghĩa là 𝑧𝑖 tăng). Tác động

ngược chiều này của cạnh tranh đến phân biệt đối xử là do hiệu ứng co giãn: Nếu cầu

sản phẩm của doanh nghiệp càng co giãn, thì doanh nghiệp sẽ chịu chi phí của hành vi

phân biệt đối xử càng cao. Kết quả là chi phí của doanh nghiệp tăng, và giá cả sản

phẩm cũng tăng; dẫn đến thị phần doanh nghiệp sụt giảm. Để giải quyết khó khăn nêu

trên, doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm chi phí, làm giảm chênh lệch giới tiền lương; đồng

thời tuyển dụng thêm nhiều lao động nữ. Tương tự, Krugman (1979) đã chứng minh

cạnh tranh trong thương mại quốc tế sẽ làm gia tăng độ co giãn cầu sản phẩm của các

doanh nghiệp; như vậy các doanh nghiệp hoạt động trong bối cảnh tự do hóa thương

58

mại sẽ trả giá càng cao cho hành vi phân biệt đối xử của mình, nên sẽ chuyển hướng

tuyển dụng thêm nhiều lao động nữ để có thể tồn tại. Nói cách khác, thương mại quốc

tế đã giúp làm giảm thiểu phân biệt đối xử trên thị trường lao động.

2.5.1.2.2. Mô hình của Menon & Van der Meulen Rodgers (2009)

Khác với mô hình của Ederington và cộng sự (2009) giả định rằng thị trường

cạnh tranh độc quyền, Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) phân tích tác động

của thương mại quốc tế đến phân biệt đối xử về giới trong bối cảnh thị trường độc

quyền nhóm. Những ngành có mức độ tập trung thấp (và mức độ cạnh tranh cao) sẽ

chịu cạnh tranh bởi cả đối thủ trong và ngoài nước, nên không tách bạch được phần

nào của sự thay đổi trong khoảng cách giới về tiền lương là do tác động của thương

mại quốc tế (Black & Brainer, 2004). Ngược lại, doanh nghiệp trong các ngành có

mức độ tập trung cao sẽ ít bị cạnh tranh bởi các đối thủ trong nước, nên ít chịu áp lực

phải cắt giảm chi phí nội địa (Borjas & Ramey, 1995). Do đó, Menon & Van der

Meulen Rodgers (2009) kì vọng bất kì sự thay đổi nào trong phân biệt đối xử về tiền

lương đối với lao động nữ trong các ngành có mức độ tập trung cao đều được quy cho

tác động của thương mại quốc tế.

Đầu tiên, các tác giả dựa trên mô hình của Abowd & Lemieux (2007) và Borjas

& Ramey (1995), giả định nền kinh tế nội địa bao gồm 2 khụ vực: những ngành có

mức độ cạnh tranh cao (khu vực 0) và những ngành có mức độ tập trung cao (khu vực

01). Khu vực có mức độ cạnh tranh cao sản xuất hàng hóa 𝑦0, khu vực có mức độ tập

trung cao sản xuất hàng hóa 𝑦1. Khu vực 01 bao gồm n doanh nghiệp, hoạt động trong

thị trường độc quyền nhóm như mô hình Cournot.

Đầu tiên, các tác giả xem xét đường cầu nghịch đảo của giá hàng hóa 𝑦1 liên

quan đến giá 𝑦0(𝑝1) và tổng cầu của hàng hóa 𝑦1:

(6.1) 𝑝1 = 𝛽0 − 𝛽1𝑦1, 𝛽0, 𝛽1 > 0

Tổng sản lượng của khu vực có mức độ tập trung cao trong nền kinh tế nội địa

(ký hiệu là 𝑦1) bằng tổng sản lượng của doanh nghiệp 𝑖 (ký hiệu là 𝑦1𝑖), cộng với tổng ′ , sản lượng của (𝑛 − 1) doanh nghiệp khác, mà trong đó mỗi doanh nghiệp sản xuất 𝑦1

và 𝜐, là khối lượng thương mại ròng của hàng hóa 1. Tương tự Borjas & Ramey

(1995), Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) giả định rằng 𝜐 là ngoại sinh. Điều

này cần thiết để đảm bảo rằng nghiên cứu đo lường chính xác tác động của thương mại

59

quốc tế đến chênh lệch tiền lương tương đối theo giới. Viết lại phương trình (6.1),

đường cầu nghịch đảo là:

′ + 𝜐)

(6.2) 𝑝1 = 𝛽0 − 𝛽1(𝑦1𝑖 + (𝑛 − 1)𝑦1

Tiếp theo, giả định rằng 𝐿1𝑖 là tổng số lao động mà doanh nghiệp 𝑖 tuyển dụng

trong khu vực có mức độ tập trung cao. Căn cứ hàm sản xuất của Borjas & Ramey

(1995), giả định việc sản xuất 𝑦1𝑖 tỷ lệ thuận với 𝐿1𝑖. Ngoài ra, giả định rằng doanh

nghiệp 𝑖 và công đoàn cùng liên kết để tối đa hóa một khoản tô kinh tế (rent) trong

khuôn khổ thương lượng Nash. Theo đó, công đoàn sẽ nhận được một tỷ lệ 𝜆 của mức

tô cân bằng để phân phối lại cho người lao động. Với 𝜔0 là tiền lương trong khu vực

có mức độ cạnh tranh cao (giả định rằng không có chênh lệch tiền lương nam và nữ

trong khu vực có mức độ cạnh tranh cao), khoản tô của doanh nghiệp 𝑖 tính bằng:

(6.3) 𝑅𝑒𝑛𝑡𝑠𝑖 = 𝑝1𝑦1𝑖 − 𝜔0(1 + 𝑑)𝐿1𝑖

Trong đó: 𝜔0(1 + 𝑑) thể hiện tiền lương trong khu vực có mức độ tập trung

cao; với 𝑑 là tham số thể hiện chênh lệch tiền lương giữa khu vực có mức độ cạnh

tranh cao và khu vực có mức độ tập trung cao. Sự chênh lệch này phát sinh do tiền

lương tương đối của nam giới làm việc trong khu vực mức độ tập trung cao là nhiều

hơn.

Tối đa hóa phương trình (6.3) với mức sản xuất tối ưu của 𝑦1𝑖, tại trạng thái cân

bằng, ta có:

∗ =

𝛽0−𝜔0(1+𝑑)−𝛽1𝜐 𝛽1(𝑛+1)

(6.4) 𝑦1𝑖

Với mức tô tối đa hóa sản lượng trong phương trình (6.4), các tác giả suy ra

mức tô cân bằng của doanh nghiệp 𝑖 và người lao động của doanh nghiệp đó, căn cứ

phương trình (6.3), cụ thể như sau:

∗ =

(𝛽0−𝜔0(1+𝑑)−𝛽1𝜐)2 𝛽1(𝑛+1)2

(6.5) 𝑅𝑒𝑛𝑡𝑠𝑖

Căn cứ phương trình (6.5) và thực tế là phần tô cho lực lượng lao động trong

khu vực tập trung cao bằng tỷ lệ 𝜆 của mức tô cân bằng (nghĩa là (𝜔1 − 𝜔0)𝐿1𝑖 = ∗), tiền lương cân bằng của lao động trong khu vực có mức độ tập trung cao 𝜔1 ∗ 𝜆𝑅𝑒𝑛𝑡𝑠𝑖

là:

∗ = 𝜔0 + 𝜆

(𝛽0−𝜔0(1+𝑑)−𝛽1𝜐) (𝑛+1)

(6.6) 𝜔1

60

Phương trình (6.6) làm thể hiện 2 nội dung: (i) tiền lương trong khu vực mức độ

tập trung cao thường nhiều hơn so với khu vực mức độ cạnh tranh cao, (ii) vì tiền

lương thực trung bình trong khu vực mức độ tập trung cao là nhiều hơn, nên lao động

nữ vẫn muốn làm việc trong khu vực đó mặc dù sẽ nhận được mức lương tương đối

thấp hơn.

Tiếp đó, Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) mô hình hóa phân phối tiền

lương giữa lao động nam và nữ trong khu vực có mức độ tập trung cao. Để xác định

khoảng cách tiền lương trong khu vực này, các tác giả giả định rằng tiền lương cân

bằng trong phương trình (6.6) là bình quân gia quyền của tiền lương trả cho lao động

nam và nữ, với trọng số là tỷ lệ lao động nam và nữ. Cụ thể:

∗ = 𝑠𝑚𝜔1

𝑓 𝑚 + (1 − 𝑠𝑚)𝜔1

(6.7) 𝜔1

Trong đó: 𝑠𝑚 là tỷ lệ lao động nam trong tổng số lao động khu vực có mức độ tập

𝑚 là tiền lương của lao động nam.

trung cao.

𝑓là tiền lương của lao động nữ trong khu vực này.

𝜔1

𝜔1

Theo Becker (1971), tồn tại khoảng cách giới về tiền lương trong khu vực có

mức độ tập trung cao, vì lao động nam được tuyển dụng trong doanh nghiệp 𝑖 với mức

lương tương đối cao hơn, cụ thể:

𝑓(1 + 𝑑)

𝑚 = 𝜔1

(6.8) 𝜔1

Trong đó: 𝑑 là tham số đại diện cho mức lương vượt trội phải trả cho lao động

nam trong khu vực có mức độ tập trung cao.

𝑚∗

Từ phương trình (6.7) và (6.8), ta có:

∗ 𝜔1

1+𝑑 (1+𝑑𝑠𝑚)

(𝛽0−𝜔0(1+𝑑)−𝛽1𝜐) 𝑛+1

1+𝑑 (1+𝑑𝑠𝑚)

(6.9) = ) = (𝜔0 + 𝜆 𝜔1

∗ 𝜔1

𝑓∗ 𝜔1

1 (1+𝑑𝑠𝑚)

(𝛽0−𝜔0(1+𝑑)−𝛽1𝜐) 𝑛+1

1 (1+𝑑𝑠𝑚)

(6.10) = ) = (𝜔0 + 𝜆

Như vậy, tham số 𝑑 chịu tác động cùng chiều từ khối lượng thương mại ròng

đối với hàng hóa 01, đo lường bởi 𝜐. Mối tương quan thuận chiều giữa 𝑑 và 𝜐 là do khi

thương mại quốc tế gia tăng, thì khoản tô trong khu vực tập trung cao sẽ giảm. Điều

này đã chứng minh bởi Krishna & Mitra (1998); cụ thể, tự do hóa thương mại làm tăng

cạnh tranh trong nền kinh tế Ấn Độ, lợi nhuận giảm so với chi phí biên. Nếu doanh

61

nghiệp trong khu vực có mức độ tập trung cao phân biệt đối xử với nữ giới, thì doanh

nghiệp đó sẽ muốn duy trì tiền lương của nam giới bằng mức tiền lương của lao động

nữ. Với khoản tô nhỏ hơn, nghĩa là tiền lương của lao động nữ sẽ giảm nhiều hơn, vì

vậy 𝑑 tăng.

Sự gia tăng của 𝑑 cùng với thương mại quốc tế cũng phù hợp với mô hình phát

triển bởi Rosén (2003) mở rộng lập luận của Becker. Hệ số phân biệt đối xử thể hiện

mức độ không hữu dụng của một doanh nghiệp cụ thể liên quan đến việc tuyển dụng

lao động nữ, và hệ số này cũng tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua

tiền lương và việc tuyển dụng. Mặc dù, các doanh nghiệp phân biệt đối xử thuê mướn

cả lao động nam lẫn lao động nữ, nhưng doanh nghiệp có hệ số phân biệt đối xử cao

hơn thường tuyển dụng ít lao động nữ hơn số lượng tối ưu. Đồng thời, doanh nghiệp

phân biệt đối xử sẽ trả cho người lao động nữ mức lương tương đối thấp, nên doanh

nghiệp đó sẽ có tổng chi phí lương thấp hơn so với doanh nghiệp không phân biệt đối

xử. Bởi vì tác động cùng chiều từ tổng chi phí lương thấp là lớn hơn so với tác động

ngược chiều từ quyết định tuyển dụng dưới mức tối ưu, nên doanh nghiệp phân biệt

đối xử sẽ được hưởng lợi, với điều kiện là doanh nghiệp không quá phân biệt đối xử.

Trong nghiên cứu của Rosén (2003), giá trị trung bình của 𝑑 (giữa các doanh nghiệp)

tăng theo thương mại quốc tế, vì các doanh nghiệp có 𝑑 thấp hơn sẽ thu được lợi

nhuận ít hơn và rời bỏ thị trường. Vì vậy, Menon & Van der Meulen Rodgers (2009)

mô hình mối tương quan thuận chiều giữa 𝑑 và 𝜐 như sau:

(6.11) 𝑑 = 𝛼0 + 𝛼1𝑣; 𝛼1 > 0

Phương trình (6.11) cho thấy rằng 𝜐 xác định 𝑑; trong khi 𝑑 ảnh hưởng đến tiền

lương cân bằng giữa nam và nữ trong khu vực có mức độ tập trung cao, như trong

phương trình (6.9) và (6.10).

Cuối cùng, Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) xác định 𝜓 là chênh lệch

𝑚∗

𝜔1

tiền lương tương đối trong khu vực mức độ tập trung cao, cụ thể như sau:

𝑓∗ −𝜔1 𝑚∗ = 1 −

𝜔1

𝑓∗ 𝜔1 𝑚∗ 𝜔1

(6.12) 𝜓 =

𝑑

Thay từ (6.9) đến (6-11) vào phương trình (6.12), ta có:

(1+𝑑)

(𝛼0+𝛼1𝜐) (1+𝛼0+𝛼1𝜐)

(6.13) 𝜓 = =

62

Như vậy, 𝜓 là một hàm của 𝑑. Nhằm phân tích tác động của sự gia tăng trong

thương mại quốc tế đến chênh lệch tiền lương trong khu vực có mức độ tập trung cao,

𝜕𝜓

Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) lấy đạo hàm của phương trình (6.13):

𝜕𝜐

𝛼1 (1+𝛼0+𝛼1𝜐)

(6.14) = > 0

Từ phương trình (6.14), chênh lệch tiền lương tương đối trong khu vực có mức

độ tập trung cao sẽ tăng theo thương mại quốc tế. Điều đó đồng nghĩa thương mại

quốc tế sẽ làm phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động tăng đối với các

ngành này.

2.5.2. Các nghiên cứu thực nghiệm

Bên cạnh các nghiên cứu lý thuyết, nhiều học giả đã kiểm định mối tương quan

giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động. Trong

đó, một số nghiên cứu cho thấy thương mại quốc tế có tác động ngược chiều đến phân

biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động (Autor và cộng sự, 2013; Berik và cộng

sự, 2004; Busse & Spielmann, 2006; Feenstra & Hanson, 1996; Menon & Van der

Meulen Rodgers, 2009; Sauré & Zoabi, 2014; Seguino, 2000). Hầu hết các nghiên cứu

này đều tập trung phân tích ở khía cạnh khoảng cách giới về tiền lương. Cụ thể:

Theo nghiên cứu của Feenstra & Hanson (1996) đánh giá ảnh hưởng của

“outsourcing” đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật; bằng dữ liệu về nhập khẩu được thu

thập bởi Cục Thống kê dân số Mỹ, sau đó tính toán chuyển đổi theo bảng phân ngành

SIC và MSIC. Kết quả cho thấy thương mại xuất khẩu tại các nước đang phát triển làm

trầm trọng hơn khoảng cách giới về tiền lương trong giai đoạn 1972 - 1990. Do các

doanh nghiệp giải quyết tình trạng cạnh tranh gia tăng bằng cách cố gắng cắt giảm chi

phí của lao động nữ - những người ít có quyền thương lượng. Kết quả này tương tự với

nghiên cứu của Menon &Van der Meulen Rodgers (2009) thực hiện với dữ liệu Ấn Độ

giai đoạn 1983 - 2004; hoặc Berik và cộng sự (2004) phân tích các doanh nghiệp Đài

Loan và Hàn Quốc. Tuy nhiên, những ngành công nghiệp được phân tích trong các

nghiên cứu này đều hoạt động trong khu vực có mức độ tập trung cao, ít chịu cạnh

tranh bởi đối thủ trong nước.

Sử dụng bộ dữ liệu 20 quốc gia Châu Á trong giai đoạn 1975 - 1990, Seguino

(2000) chứng minh mức lương thấp hơn của lao động nữ đã kích thích xuất khẩu và

hoạt động đầu tư. Theo đó, giá thành sản phẩm sẽ giảm, giao dịch ngoại tệ tăng. Nghĩa

63

là tồn tại tương quan giữa thương mại quốc tế và bất bình đẳng giới về thu nhập. Lý do

đằng sau việc lao động nữ chấp nhận mức lương thấp hơn có thể xuất phát từ các quan

niệm xã hội và sự bất ổn chính trị.

Tập trung vào lợi thế so sánh của hàng hóa thâm dụng lao động, Busse &

Spielmann (2006) kết hợp giữa phân tích dữ liệu chéo và dữ liệu bảng hiệu ứng cố

định, kết luận rằng các quốc gia có khoảng cách giới về tiền lương lớn sẽ xuất khẩu

nhiều hơn.

Ứng dụng lý thuyết của Galor & Weil (1996), Sauré & Zoabi (2014) cho thấy tỷ

lệ lao động nữ sẽ giảm nếu thương mại mở rộng những ngành thâm dụng lao động nữ,

do sự dịch chuyển của nam giới từ những ngành thâm dụng lao động nam sang những

ngành bản chất là thâm dụng lao động nữ. Thậm chí, tỷ lệ lao động nam và mức lương

tương ứng của cả hai giới cũng đều giảm, vì nhập khẩu tăng làm tỷ lệ thất nghiệp của

Mỹ cao hơn khi Mỹ phải đối mặt tình trạng gia tăng cạnh tranh của hàng nhập khẩu từ

Trung Quốc trong giai đoạn 1990 - 2007 (Autor và cộng sự, 2013).

Tuy nhiên, chủ đề này hiện còn tồn tại đang nhiều tranh cãi, do có một số

nghiên cứu đưa ra những kết luận ngược lại. Nghĩa là thương mại quốc tế ảnh hưởng

cùng chiều đến phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động (Becker, 1971; Black

& Brainerd, 2004; Ederington và cộng sự, 2009; Juhn và cộng sự, 2013; Korinek,

2005; Neumayer & De Soysa, 2007), cải thiện những hậu quả đối với bất bình đẳng

giới và xóa đói giảm nghèo (Fontana và cộng sự, 1998), nhằm thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế (Berik và cộng sự, 2009; Klasen & Lamanna, 2009; Seguino & Grown, 2006).

Trong đó, một số nghiên cứu tiếp cận ở góc độ thương mại quốc tế làm gia tăng cạnh

tranh (Becker, 1971; Black & Brainerd, 2004; Ederington và cộng sự, 2009), một số

khác tập trung phân tích ở các cấp độ và lĩnh vực khác nhau (Juhn và cộng sự, 2014).

Cụ thể:

Black & Brainerd (2004) cho thấy tự do hóa thương mại trong giai đoạn 1976 -

1993 sẽ giúp làm giảm khoảng cách giới về tiền lương. Ý tưởng nghiên cứu này xuất

phát từ hàm ý của mô hình phân biệt đối xử của Becker (1957), rằng sự gia tăng cạnh

tranh trên thị trường sản phẩm sẽ giúp giải quyết phân biệt đối xử trong dài hạn.

Tương tự, Ederington và cộng sự (2009) sử dụng dữ liệu tự do hóa thương mại

của Colombia trong giai đoạn 1984 - 1991, tại đó các doanh nghiệp được ưu đãi giảm

64

thuế quan đã tăng tuyển dụng lao động nữ cổ cồn xanh so với lao động nam cổ cồn

xanh. Kết quả nghiên cứu chứng minh tỷ lệ lao động nữ cao hơn ở những doanh

nghiệp xuất khẩu, và gia tăng tương ứng theo khối lượng xuất khẩu.

Ở cấp độ quốc gia, với dữ liệu chéo giữa các quốc gia theo đuổi chiến lược tăng

trưởng định hướng xuất khẩu ở châu Phi, châu Á, Caribbean và Mỹ La tinh, kết quả

nghiên cứu của Korinek (2005) cho thấy việc mở cửa thương mại đã mang đến nhiều

việc làm hơn cho phụ nữ, thông qua các chính sách về y tế và giáo dục trẻ em. Nghiên

cứu của Neumayer & De Soysa (2007) phân tích bộ dữ liệu 143 quốc gia (trong đó có

120 quốc gia đang phát triển) với kỹ thuật hồi quy logit thứ bậc hiệu ứng ngẫu nhiên,

chứng minh rằng những quốc gia thực hiện chính sách tự do hóa thương mại sẽ trao

quyền nhiều hơn cho lao động nữ.

Ở cấp độ ngành, tự do hóa thương mại giúp làm giảm thuế suất nói chung và

thuế xuất khẩu nói riêng. Từ đó đã kích thích tăng trưởng khu vực kinh tế, và truyền

dẫn những tác động cùng chiều đến lao động nữ, vì hầu hết các ngành đều có sự tham

gia của nữ giới (theo Aguayo-Tellez và cộng sự (2014) thực hiện phân tích hồi quy với

dữ liệu thu thập từ hai cuộc tổng điều tra 1990 và 2000 cho giai đoạn 1984 đến 2004

tại Mexico).

Ở cấp độ doanh nghiệp, việc cắt giảm thuế quan nhờ tự do hóa thương mại là

nguyên nhân một số doanh nghiệp bắt đầu xuất khẩu và tăng cường ứng dụng khoa

học kỹ thuật. Những công nghệ mới này giúp tự động hóa quy trình sản xuất và giảm

nhu cầu lao động thể chất. Kết quả là tiền lương tương đối và số lượng việc làm của

phụ nữ gia tăng trong các nghề cổ cồn xanh. Đây là những phát hiện chính của Juhn và

cộng sự (2014) kiểm định mô hình bằng dữ liệu cấp doanh nghiệp ở Mexico dưới bối

cảnh NAFTA.

Mặc dù vậy, chỉ bằng cách mở rộng thương mại quốc tế, hay nói cách là tăng

cường tự do hóa thương mại thì không thể giải quyết triệt để vấn đề phân biệt đối xử

về giới trong lực lượng lao động (Chen và cộng sự, 2017). Do còn nhiều nguyên nhân

quan trọng khác làm giãn rộng khoảng cách giới trong việc làm và thu nhập của lao

động nữ (Korinek, 2005). Vì vậy, một số nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp để tăng

cường bình đẳng giới trong việc làm, ví dụ như cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục,

tài chính, và đất đai… (Korinek, 2005), ban hành và triển khai các quy định pháp lý

65

tăng cường quyền lợi của lao động nữ (Berik và cộng sự, 2009; Neumayer & De

Soysa, 2007).

2.6. Khoảng trống nghiên cứu

2.6.1. Khoảng trống về lý thuyết

Đối với chủ đề phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động, các nghiên

cứu trước đây được thực hiện dựa trên lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử

(Arrow, 1973; Becker, 1971; Phelps, 1972) hoặc lý thuyết về khoảng cách giới, mức

sinh và tăng trưởng (Galor & Weil, 1996); chưa có nghiên cứu nào sử dụng cả hai lý

thuyết. Do đó, nghiên cứu này kỳ vọng sẽ xem xét đồng thời cả hai lý thuyết nêu trên,

phát triển khung phân tích mới, nhằm nghiên cứu mối tương quan giữa thương mại

quốc tế và sự tham gia của nữ giới, ở cả khía cạnh cung và cầu lao động.

2.6.2. Khoảng trống về thực nghiệm

Bằng phương pháp phân rã, các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung lý giải

nguyên nhân của “khoảng cách giải thích được” và “khoảng cách không giải thích

được” trong chênh lệch tiền lương giữa hai giới (Blinder, 1973; Cotton, 1988; Oaxaca,

1973), chưa đề cập đến chênh lệch trong việc làm; trong khi tiền lương và việc làm là

hai trọng tâm nghiên cứu trong phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động. Vì

vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét cả chênh lệch giới về việc làm và chênh lệch giới về

tiền lương.

Mặt khác, khi đánh giá tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của nữ

giới trong thị trường lao động, các nghiên cứu trước tiếp cận vấn đề này với dữ liệu

kinh tế vĩ mô (Autor và cộng sự, 2013; Contessi và cộng sự, 2014; Korinek, 2005;

Maqsood, 2014; Neumayer & De Soysa, 2007; Orbeta, 2002; Rahman, 2014; Schultz,

2007; Seguino, 2000; Siegmann, 2006; Spielmann & Busse, 2005), hoặc dữ liệu kinh

tế vi mô (Aguayo-Tellez và cộng sự, 2014; Black & Brainerd, 2004; Ederington và

cộng sự, 2009; El-Hamidi, 2008; Fofana và cộng sự, 2005; Juhn và cộng sự, 2014;

Sauré & Zoabi, 2014); nhưng việc sử dụng dữ liệu kinh tế vĩ mô là phổ biến hơn. Do

đó, nghiên cứu này ứng dụng các bộ dữ liệu vi mô, để làm nổi bật vai trò sự phân biệt

đối xử về giới trong dữ liệu kinh tế vi mô liên kết với các mô hình kinh tế vĩ mô.

Ngoài ra, cũng nhằm mục tiêu kết nối vấn đề vĩ mô - thương mại quốc tế - và

vấn đề vi mô - sự tham gia của lao động nữ ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ hộ gia

66

đình, nghiên cứu này dựa vào lý thuyết về tác động của tự do hóa thương mại đến vấn

đề nghèo đói thông qua kênh các thị trường nhân tố (Winters, 2002, 2004); trong đó

ảnh hưởng của thương mại có thể truyền dẫn qua kênh tiền lương hoặc kênh việc làm

(Winters, 2002). Tuy nhiên nhiều nghiên cứu có liên quan trước đây đã không lượng

hóa được mối tương quan này ở cấp độ hộ gia đình, do không đo lường được biến

thương mại quốc tế ở cấp độ hộ gia đình. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng bộ chỉ số đo

lường mức độ hộ gia đình tham gia vào thương mại quốc tế - đây là bộ chỉ số mới,

được đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021) - nhằm khắc phục nhược điểm của các bộ chỉ

số trước đây chỉ ghi nhận thu nhập có được từ tác động của thương mại quốc tế

(Squalli & Wilson, 2011), bỏ qua vấn đề nội sinh (Cavallo & Frankel, 2008) và không

xem xét tới khả năng đáp ứng của hộ gia đình trước các cơ hội mới do cải cách thương

mại mang lại.

2.6.3. Khoảng trống về thực tiễn chính sách

Tại Việt Nam xét đến thời điểm hiện nay không nhiều nghiên cứu thực hiện

phân tích với tiếp cận ở góc độ vi mô, để đưa ra các hàm ý chính sách về chủ đề này.

Hầu hết nghiên cứu tại Việt Nam trước đây tập trung vào khoảng cách tiền lương theo

giới hơn là phân tích về việc làm, bằng phương pháp phổ biến là hồi quy phân vị dữ

liệu chéo (Le & Nguyen, 2018; Liu, 2004a; Pham & Reilly, 2007; Rand & Torm,

2012). Song song đó, nghiên cứu này sẽ xem xét sự tham gia vào lực lượng lao động

của phụ nữ ở cả phía cầu lẫn phía cung trong thị trường lao động, thông qua việc sử

dụng đồng thời bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ” và bộ dữ liệu

“Điều tra mức sống dân cư”.

2.7. Khung phân tích

Luận án thực hiện xem xét đồng thời lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử

(Arrow, 1973; Becker, 1971; Phelps, 1972) và lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh

và tăng trưởng (Galor & Weil, 1996); xem xét ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến

sự tham gia vào lực lượng lao động của người nữ qua kênh tiền lương và kênh việc

làm (lý thuyết của Winters (2002), mở rộng của Winters & Martuscelli (2014), và

chứng minh bởi Ederington và cộng sự (2009) đối với thị trường cạnh tranh độc

quyền, và Menon & Van der Meulen Rodgers (2009) đối với thị trường độc quyền

nhóm), hoặc qua cân bằng giá nhân tố sản xuất giữa các quốc gia đối tác và trong nước

67

khi có chênh lệch về vốn (Chen và cộng sự (2017) mở rộng lý thuyết của Galor &

Weil (1996)). Đây là khung phân tích của luận án, nhằm nghiên cứu mối tương quan

của thương mại quốc tế đến phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động từ cả

khía cạnh cầu và cung lao động.

Đầu tiên, trọng tâm của nghiên cứu là “phân biệt đối xử về giới” trong lực

lượng lao động. Thuật ngữ này được định nghĩa là sự chênh lệch giới về vấn đề tiền

lương, hoặc về việc làm (Chen và cộng sự, 2017). Lý thuyết kinh tế học về phân biệt

đối xử được sử dụng, nhằm xem xét khía cạnh cầu lao động, từ góc độ của người sử

dụng lao động. Theo đó, đối với mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị, Becker

(1971) cho rằng nếu một cá nhân có “khẩu vị phân biệt đối xử”, thì cá nhân đó sẽ sẵn

sàng trả giá, trực tiếp hoặc dưới hình thức giảm thu nhập, để được liên kết với những

người này thay vì những người khác. Cụ thể, khi một người chủ lao động phân biệt đối

xử đối với lao động nữ, thì người đó sẽ chấp nhận chi trả mức lương cao hơn cho lao

động nam. Mặt khác, đối với mô hình phân biệt đối xử dựa trên thống kê, phân biệt đối

xử là phản ứng hợp lý của người chủ lao động do tình trạng thông tin bất cân xứng về

năng suất của người lao động (Arrow, 1973; Phelps, 1972). Mặc dù phân biệt đối xử

về giới trong lực lượng lao động có thể xảy ra đối với bất kỳ đối tượng nào; nhưng nữ

giới thường được phân tích dưới góc độ là nhóm bất lợi hơn trong các nghiên cứu

trước đây (Cook & Wilcox, 1991; European Institute for Gender Equality, 2021;

UNICEF, 2017). Tóm lại, tình trạng phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động

cho thấy lao động nữ nhận được mức lương thấp hơn, nhưng việc làm của lao động

nam là nhiều hơn.

Kế đó, lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor &

Weil (1996) xem xét khía cạnh cung lao động, từ góc độ các thành viên trong hộ gia

đình. Do sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động là kết quả từ quyết định của

hộ gia đình giữa việc sinh con hay đi làm. Tiền lương tương đối của phụ nữ cao hơn

dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em gia tăng nhiều hơn so với thu nhập của hộ, do đó số

lượng con của mỗi cặp vợ chồng sẽ giảm. Đồng thời, mức sinh thấp hơn làm gia tăng

vốn bình quân lao động. Cuối cùng, vốn bình quân lao động cao hơn làm gia tăng tiền

lương tương đối của phụ nữ.

68

Như vậy, sự khác biệt trong tiền lương tương đối và việc làm theo giới là điểm

kết nối giữa lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử (Arrow, 1973; Becker, 1971;

Phelps, 1972) và lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng (Galor &

Weil, 1996). Có thể nói: đây là điểm kết nối giữa cung - cầu lao động trong khung

phân tích được đề xuất trong luận án này.

Vấn đề phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động cần được nghiên cứu

dưới mối tương quan với thương mại quốc tế; do những tác động của thương mại quốc

tế đối với tính hiệu quả của thị trường lao động (Bell & Heitmueller, 2009), hoặc đối

với phúc lợi của hộ gia đình (Winters, 2002). Cụ thể, cơ chế thương mại quốc tế tác

động đến phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động được xem xét thông qua cơ

chế thương mại quốc tế tác động đến sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động,

cụ thể theo hai hướng tiếp cận như sau: (i) Một là, hướng tiếp cận thứ nhất theo lý

thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil (1996) và mở

rộng lý thuyết này của Chen và cộng sự (2017); (ii) Hai là, hướng tiếp cận thứ hai theo

lý thuyết về tác động của thương mại quốc tế đến phúc lợi hộ gia đình của Winters

(2002) và mở rộng lý thuyết này của Winters & Martuscelli (2014), được chứng minh

bởi Ederington và cộng sự (2009) đối với thị trường cạnh tranh độc quyền, và Menon

& Van der Meulen Rodgers (2009) đối với thị trường độc quyền nhóm.

Đối với hướng tiếp cận thứ nhất, Chen và cộng sự (2017) trình bày cơ chế tác

động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ thông qua mô hình ba

yếu tố sản xuất chính1, bao gồm: (i) lao động thể chất (là yếu tố sản xuất mà chỉ lao

động nam mới có), (ii) lao động trí óc (là yếu tố sản xuất mà lao động nam và lao động

nữ có năng lực như nhau), (iii) vốn (là yếu tố sản xuất chỉ bổ sung cho lao động trí óc).

Tác giả lập luận rằng giá của yếu tố lao động thể chất và lao động trí óc chịu ảnh

hưởng không chỉ từ nhân tố nội địa mà còn từ yếu tố sản xuất của các quốc gia đối tác

thương mại. Nếu mức vốn bình quân của quốc gia đối tác cao hơn so với trong nước,

thì thu nhập của lao động trí óc của quốc gia đối tác sẽ cao hơn so với trong nước. Căn

cứ định lý cân bằng giá nhân tố sản xuất, giá của lao động trí óc trong nước sẽ tăng

dưới điều kiện mở cửa thương mại. Trong khi đó, giá lao động thể chất không đổi. Do

1 Mở rộng lý thuyết về khoảng cách giới, mứcsinh và tăng trưởng của Galor & Weil (1996)

đó, thương mại quốc tế giúp cải thiện tiền lương tương đối của lao động nữ so với lao

69

động nam, quy mô lực lượng lao động nữ sẽ tăng; kéo theo sự thay đổi khoảng cách

giới trong hộ gia đình.

Đối với hướng tiếp cận thứ hai, lý thuyết của Winters (2002) chứng minh ảnh

hưởng của thương mại quốc tế đến phúc lợi hộ gia đình. Kết nối lý thuyết này với sự

tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ, Winters and Martuscelli (2014) cho rằng

tiền lương của phụ nữ - một trong những yếu tố quan trọng quyết định tình trạng giàu

nghèo của một hộ gia đình - chịu ảnh hưởng bởi tự do hóa thương mại. Đồng thời,

trong bối cảnh nền kinh tế mở, phân biệt đối xử là tốn kém đối với người sử dụng lao

động (Becker, 1971). Khi đối mặt với áp lực gia tăng từ cạnh tranh quốc tế làm cầu sản

phẩm co giãn, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí liên quan đến phân biệt đối xử; vì

vậy, chênh lệch tiền lương theo giới giảm (Ederington và cộng sự, 2009), hoặc doanh

nghiệp chuyển hướng tuyển dụng thêm nhiều lao động nữ (Krugman, 1979). Tất cả

những điều này sẽ dẫn đến những thay đổi trong khoảng cách giới tại các hộ gia đình.

Mặc dù khung phân tích này xem xét đồng thời hai lý thuyết phản ánh hai khía

cạnh khác nhau trong thị trường lao động (cung lao động và cầu lao động); tuy nhiên,

hai lý thuyết này không chỉ đơn giản là đặt cạnh nhau, mà toàn bộ khung phân tích sẽ

được vận dụng khi giải quyết từng mục tiêu nghiên cứu. Đầu tiên, mục tiêu nghiên cứu

thứ nhất (bài báo thứ nhất - chương 3) và mục tiêu nghiên cứu thứ hai (bài báo thứ hai

- chương 4) đều phân tích ở khía cạnh cầu lao động dựa trên lý thuyết kinh tế học về

phân biệt đối xử; nhưng để giải quyết hai mục tiêu này, cần xem xét cả những nhân tố

xuất phát từ lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil

(1996). Cụ thể đó là vốn bình quân lao động, đặc điểm ngành nghề và tiền lương tương

đối giữa nữ và nam. Do hạn chế của lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử là mặc

dù đưa ra lời giải thích cho sự tồn tại của phân biệt đối xử, nhưng không chỉ ra được

nguyên nhân tại sao mọi người có “khẩu vị phân biết đối xử”, nên kết quả nghiên cứu

sẽ không đáng tin cậy nếu chỉ phân tích dựa trên các đặc điểm sở thích. Vì vậy, những

nhân tố đề xuất từ lý thuyết của Galor & Weil (1996) sẽ giúp củng cố kết quả nghiên

cứu. Ngược lại, mục tiêu nghiên cứu thứ ba (bài báo thứ ba - chương 5) phân tích ở

khía cạnh cung lao động với nền tảng là lý thuyết về khoảng cách giới, mức sinh và

tăng trưởng; nhưng việc lựa chọn các biến nhân khẩu học trong mô hình có liên quan

đến lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử. Các đặc điểm cá nhân như trình độ học

70

vấn sẽ giúp cung cấp thông tin để cải thiện tình trạng bất cân xứng thông tin gây ra

phân biệt đối xử thống kê. Mặt khác, trên thực tế, mức sinh đã giảm trước khi tỷ lệ

tham gia vào công việc được trả lương của phụ nữ đã kết hôn tăng. Nguyên nhân có

thể là do tình trạng phân biệt đối xử đã tồn tại từ lâu. Như vậy, việc xem xét đồng thời

hai lý thuyết trong khung phân tích đã giúp làm giảm hạn chế trong từng lý thuyết.

Nguồn: Tác giả đề xuất

Hình 2.4. Khung phân tích

Trên cơ sở đó, luận án tiến hành giải quyết các mục tiêu nghiên cứu đã trình bày

ở phần trên, với nội dung xoay quanh chủ đề “Thương mại quốc tế và phân biệt đối xử

theo giới tính trong lực lượng lao động ở Việt Nam”.

71

CHƯƠNG 3. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG VIỆC LÀM TẠI

CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Nội dung chương này tập trung giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ nhất của

luận án. Đầu tiên, tổng quan nghiên cứu kinh tế học về phân biệt đối xử dựa trên cơ sở

giới tính về việc làm được trình bày. Sau đó, phương pháp xác định các nhân tố ảnh

hưởng đến sự tham gia của lao động nữ, phương pháp phân rã để ước lượng mức độ

phân biệt đối xử và dữ liệu nghiên cứu được giới thiệu lần lượt. Tiếp theo là phần thảo

luận kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, chương này kết thúc với kết luận từ những phát

hiện chính.

3.1. Giới thiệu

Hiện nay, phụ nữ ngày càng bình đẳng hơn trong việc tiếp cận thông tin, giáo

dục, chăm sóc y tế, hôn nhân và hưởng thụ phúc lợi. Khoảng cách giới trong tuyển

dụng và thu nhập đã giảm đáng kể (Juhn & McCue, 2017), và phụ nữ tham gia ngày

càng nhiều vào những công việc mà nam giới thống trị (Goldin, 2006). Tuy nhiên, trên

một số phương diện đời sống kinh tế xã hội vẫn tồn tại những hạn chế, cản trở việc thi

hành quyền bình đẳng của phụ nữ; đặc biệt là việc làm, chất lượng công việc, tiền

lương (ILO, 2015b), và cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp (ILO, 2015a). Phân biệt đối

xử về giới trong việc làm được phát hiện ở cả quốc gia phát triển (Blau & Kahn, 2000;

Juhn và cộng sự, 2013; Sauré & Zoabi, 2014) và quốc gia đang phát triển (Menon &

Van der Meulen Rodgers, 2009). Đối với lĩnh vực phi chính thức, phụ nữ thường phải

chấp nhận điều kiện làm việc kém với mức lương thấp (Kabeer, 2004); tương tự trong

các ngành sản xuất xuất khẩu (Kabeer, 2004). Tuy nhiên, gia tăng việc làm cho lao

động nữ sẽ thúc đẩy tích cực đến quyền tự quyết, khả năng kiểm soát, và quyền lực;

đây là những nhân tố ảnh hưởng đến hạnh phúc và thành công của họ (Buchhave và

cộng sự, 2020). Theo “báo cáo Triển vọng Việc làm và Xã hội Thế giới: Xu hướng cho

Phụ nữ 2017” (ILO, 2017), nếu khoảng cách giới được thu hẹp 25% vào năm 2025 thì

lợi ích đem lại cho nền kinh tế toàn cầu lên đến 5,8 nghìn tỷ USD. Cho nên, các quốc

gia vẫn tiếp tục cần có các cơ chế và chính sách phù hợp vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Nghiên cứu này đóng góp vào tổng quan nghiên cứu ở ít nhất bốn khía cạnh.

Thứ nhất, nghiên cứu cung cấp bằng chứng về phân biệt đối xử về giới trong sự tham

gia vào lực lượng lao động từ phía cầu trong thị trường lao động; trong khi đó, hầu hết

72

những nghiên cứu cùng chủ đề trước đây đều tập trung vào khoảng cách giới trong

chênh lệch tiền lương. Thứ hai, nghiên cứu này bổ sung một tình huống nghiên cứu ở

quốc gia đang phát triển về sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động. Việt

Nam là một tình huống thú vị vì quốc gia này có tỷ lệ lao động nữ khá cao và bất bình

đẳng giới vẫn còn tồn tại dù tương đối thấp (IFC, 2017; WEF, 2021). Thứ ba, từ các

vòng “khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” trong giai đoạn

2011 - 2015, nghiên cứu đã xây dựng một dữ liệu bảng, để sử dụng phân tích. Đây là

cách xử lý dữ liệu hiếm được tiến hành trước đây. Luận án không chỉ xác định những

nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ, mà còn phân tích nguyên nhân

các doanh nghiệp có khuynh hướng thích sử dụng lao động nam hơn lao động nữ. Thứ

tư, phương pháp phân rã của Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom (1994) được sử

dụng trong nghiên cứu này là phù hợp hơn so với cách tiếp cận truyền thống của

Oaxaca - Blinder. Từ đó, phương pháp này không chỉ giúp đưa ra các ước lượng chính

xác hơn về các thành phần của chênh lệch, mà còn mô hình hóa trạng thái thực của các

tác động (Cotton, 1988).

Phần còn lại của nội dung chương này được cấu trúc như sau: Mục 2 sẽ cung

cấp tổng quan nghiên cứu. Phần kế tiếp sẽ mô tả dữ liệu, và các phương pháp được sử

dụng. Mục 4 sẽ trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận. Cuối cùng, Mục 5 sẽ điểm

lại các kết luận chính, nêu hàm ý chính sách và đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu

tương lai.

3.2. Phân biệt đối xử về giới trong việc làm

Chênh lệch giới trong việc làm là một phần quan trọng của phân biệt đối xử về

giới, cho nên việc đo lường những thành phần đóng góp vào chênh lệch giới cũng

chính là đo lường mức độ phân biệt đối xử về giới trong việc làm. Do phân biệt đối xử

về giới có thể bị ảnh hưởng bởi các động lực cạnh tranh thị trường. Những doanh

nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ có tỷ lệ lao động nữ thấp hơn và ngược lại. Hơn

nữa, những doanh nghiệp này cũng có chi phí biên của sản xuất cao hơn, nên sẽ thu lợi

ít hơn so với các doanh nghiệp ít phân biệt đối xử. Đồng thời, trong môi trường cạnh

tranh, dòng vốn sẽ chảy đến nơi có lợi nhuận nhiều hơn (doanh nghiệp ít phân biệt đối

xử hơn) và trong dài hạn, những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ bị đẩy ra

khỏi thị trường (Becker, 1971; Arrow, 1973). Vì vậy, lý thuyết truyền thống về phân

73

biệt đối xử lập luận rằng sự cạnh tranh sẽ làm giảm phân biệt đối xử trong dài hạn

thông qua hiệu ứng lựa chọn, trong đó, chỉ những doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất

(đồng thời ít phân biệt đối xử nhất) sẽ tồn tại.

Tuy nhiên, tác động tổng thể của cạnh tranh đến phân biệt đối xử tùy thuộc hiệu

ứng co giãn và hiệu ứng theo quy mô (Ederington và cộng sự, 2009). Với hiệu ứng co

giãn, cạnh tranh lớn hơn làm gia tăng độ co giãn của cầu sản phẩm của doanh nghiệp,

do đó sẽ làm gia tăng chi phí của hành vi phân biệt đối xử, đưa đến kết quả là nhiều

lao động nữ được tuyển dụng hơn. Với hiệu ứng theo quy mô, cạnh tranh gia tăng làm

thu hẹp quy mô doanh nghiệp, dẫn đến chi phí của hành vi phân biệt đối xử giảm và vì

vậy doanh nghiệp tuyển dụng thêm nhiều lao động nam. Lưu ý rằng tác động của cạnh

tranh đến quyết định tuyển dụng lao động và mức độ phân biệt đối xử về giới trong lực

lượng lao động phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh hiện có trong các ngành. Trong các

ngành công nghiệp không cạnh tranh, hiệu ứng co giãn có xu hướng thống trị. Ngược

lại, trong các ngành công nghiệp cạnh tranh, hiệu ứng quy mô là chủ đạo.

Tại Việt Nam, có khoảng 69% phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, so với

tỷ lệ 79,9% của nam giới (General Statistics Office, 2021b). Đồng thời, do tập trung

đông ở những nhóm ngành và nghề nghiệp được trả lương thấp (OXFAM, 2016), lao

động nữ luôn có tiền lương bình quân thấp hơn khoảng 10% so với lao động nam ở

cùng trình độ chuyên môn (ADB, 2016; Buchhave và cộng sự, 2020). Phụ nữ còn chịu

áp lực phải cân bằng giữa gia đình và công việc do chuẩn mực xã hội truyền thống tồn

tại tại Việt Nam (Buchhave và cộng sự, 2020), cụ thể nữ giới chiếm gần như toàn bộ

số người không hoạt động kinh tế vì lý do nội trợ, với tỷ lệ 96,2% (General Statistics

Office, 2021b). Ngoài ra, lao động nữ khó tìm được việc làm khi tái gia nhập thị

trường lao động sau thời gian nghỉ việc để chăm sóc gia đình (Buchhave và cộng sự,

2020). Tại nông thôn, nữ giới hiếm được tiếp cận các nguồn lực sản xuất và bị giới hạn

khả năng lãnh đạo cộng đồng (Cunningham và cộng sự, 2018; IFC, 2017). Hơn nữa,

những rào cản mà lao động nữ phải vượt qua dường như còn cao hơn nếu họ thuộc về

các nhóm dân tộc thiểu số (Buchhave và cộng sự, 2020; Cunningham và cộng sự,

2018; IFC, 2017). Như vậy, bối cảnh Việt Nam cho thấy những động lực cạnh tranh

thị trường đã góp phần làm giảm tình trạng phân biệt đối xử, và giúp tăng sự tham gia

của lao động nữ, phù hợp với tác động của hiệu ứng co giãn. Tuy nhiên, sự thay đổi về

74

lượng này chưa hoàn toàn song hành với sự cải thiện về chất, thể hiện qua chêch lệch

giới trong việc làm vẫn còn tồn tại ở các doanh nghiệp Việt Nam.

3.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

3.3.1. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ

Để nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của nữ giới vào lực lượng

lao động, nghiên cứu sử dụng phương pháp Feasible Generalized Least Squares

(FGLS). Đây là phương pháp phù hợp khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi trong

dữ liệu dạng bảng có số cá thể quan sát lớn xét trong chuỗi thời gian ngắn (Hsiao,

2014). Bằng cách ước tính ma trận phương sai - hiệp phương sai của phần dư, phương

pháp FGLS hiệu quả hơn so với phương pháp Ordinary Least Squares (OLS) khi xét

đến sự tồn tại của phương sai thay đổi (heteroscedasticity), cũng như tương quan trong

dữ liệu chuỗi và dữ liệu chéo (Bai, Choi, & Liao, 2020). Nghiên cứu thực hiện kiểm

định phương sai thay đổi cho cả mô hình ảnh hưởng cố định (FEM), và mô hình ảnh

hưởng ngẫu nhiên (REM); cho thấy rằng tất cả các phương pháp ước lượng này đều

gặp phải hiện tượng phương sai thay đổi (Phụ lục 3.3). Nghĩa là, các ước lượng FEM

và REM bị chệnh, không hiệu quả và không vững (Baltagi, 2008). Vì vậy, nghiên cứu

lựa chọn sử dụng phương pháp FGLS.

Mô hình ước lượng có dạng như sau:

𝑛 𝑗=1

(7.1) 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡 = 𝛼 + ∑ 𝛽𝑗𝑋𝑗𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

Trong đó: 𝐹𝐿𝐹𝑃 là biến phụ thuộc thể hiện sự tham gia của lao động nữ.

Biến này được đo lường bằng hai cách (số lượng lao động nữ và tỷ lệ lao động nữ trên

tổng số lao động) nhằm thể hiện sự thay đổi cả về quy mô lẫn tỷ trọng của lao động nữ

trong doanh nghiệp (Chen và cộng sự, 2017);

j là biến giải thích thứ j; n là tổng số biến giải thích; i là doanh

nghiệp thứ i, t là năm (tương ứng 2011, 2013, và 2015);

𝑋 là các biến giải thích, bao gồm: hoạt động xuất khẩu, vốn bình

quân lao động, đặc điểm ngành nghề, quy mô doanh nghiệp và thời gian hoạt động,

chế độ đãi ngộ lao động, giới tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý

doanh nghiệp (Bảng 3.1). Đầu tiên, tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy đặc

điểm ngành nghề của các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế có tác động đến

sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ (Aguayo-Tellez, Airola, & Juhn, 2014;

75

Black & Brainerd; 2004; Oaxaca, 1973; Sauré & Zoabi, 2014). Việc cắt giảm thuế

quan của Mỹ đối với những hàng hóa được xuất khẩu từ Mexico đã mở rộng những

ngành thâm dụng lao động nữ, và mang lại nhiều việc làm hơn cho nữ giới (Aguayo-

Tellez, Airola, & Juhn, 2014). Do thương mại quốc tế đã tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp tăng ngưỡng tuyển dụng (Chen và cộng sự, 2017). Tuy nhiên, nếu thương mại

quốc tế mở rộng ngành thâm dụng lao động nữ, nhưng đồng thời cũng làm thu hẹp

ngành thâm dụng lao động nam (như trường hợp Mỹ sau NAFTA); thì lao động nam

sẽ chuyển sang làm việc tại các ngành thâm dụng lao động nữ, làm giảm tỷ lệ vốn trên

lao động của ngành thâm dụng lao động nữ (Sauré & Zoabi, 2014). Dưới tác động bổ

trợ qua lại cao giữa vốn và lao động nữ, năng suất biên của nữ giới sẽ giảm nhiều hơn

nam giới, nên khoảng cách tiền lương theo giới sẽ giãn rộng theo hướng bất lợi cho lao

động nữ, và sự tham gia của nữ giới trong thị trường lao động cũng giảm (Sauré &

Zoabi, 2014). Bên cạnh đó, tác động của thương mại quốc tế còn được so sánh giữa

doanh nghiệp thuộc nhóm ngành có mức độ tập trung cao và nhóm ngành có mức độ

tập trung thấp; vì những ngành có mức độ tập trung thấp sẽ phải đối mặt với đối thủ

cạnh tranh cả trong và ngoài nước, nên không tách bạch được phần nào trong thay đổi

khoảng cách tiền lương theo giới là do ảnh hưởng của thương mại quốc tế; ngược lại,

các ngành có mức độ tập trung cao sẽ không chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh trong nước,

nên bất kì sự thay đổi nào cũng được quy cho tác động của tự do hóa thương mại

(Black & Brainerd, 2004). Kế đó, sự gia tăng vốn bình quân lao động làm gia tăng

mức lương tương đối của phụ nữ, dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em tăng nhiều hơn so

với thu nhập của hộ gia đình nên mức sinh giảm và sự tham gia vào thị trường lao

động của nữ giới tăng (Galor & Weil, 1996). Mở rộng nghiên cứu của Galor & Weil

(1996), Kimura & Yasui (2010) giải thích sự sụt giảm trong mức sinh là do sự phổ

biến của giáo dục trình độ cao có liên quan đến việc tăng vốn bình quân lao động, với

bằng chứng tìm thấy trong mối tương quan ngược chiều giữa mức sinh và trình độ giáo

dục trung bình của các quốc gia. Đồng thời, quy mô và thời gian hoạt động của doanh

nghiệp cũng là yếu tố có tác động đến sự tham gia của lao động nữ ở cấp độ doanh

nghiệp (Chen và cộng sự, 2017; Contessi và cộng sự, 2014; Menon & Van der Meulen

Rodgers, 2009; Neumayer & De Soysa, 2007; Seguino, 2000). Đây thường là những

biến kiểm soát trong mô hình, để xác định liệu có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp

76

trong mẫu dữ liệu hay không. Mặt khác, chế độ đãi ngộ lao động cũng là một nhân tố

thể hiện sự tham gia của lao động nữ, vì nó phản ánh thái độ phân biệt đối xử của

người sử dụng lao động. Cụ thể, nếu một người sử dụng lao động có “khẩu vị phân

biệt đối xử” đối với lao động nữ, thì cá nhân đó sẽ sẵn sàng trả giá, trực tiếp hoặc dưới

hình thức giảm thu nhập, để tuyển dung lao động nam thay vì lao động nữ (Becker,

1971). Cuối cùng, giới tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh

nghiệp có ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ. Do sự phân biệt đối xử về giới

trong thị trường lao động xuất phát từ sự bất cân xứng thông tin (Altonji & Blank,

1999; Arrow, 1973; Bergmann, 1971; Phelps, 1972); nên vốn xã hội cao hơn sẽ giúp

cải thiện thông tin tốt hơn, vì sự không chắc chắn của người chủ lao động về năng suất

của người lao động sẽ được giảm đi khi người chủ lao động có nhiều cơ hội hơn để tìm

hiểu về hiệu quả công việc của người lao động (Cain, 1986). Điều này tương tự khi

người chủ lao động có cùng giới tính với người lao động (Cornell & Welch, 1996;

Ederington và cộng sự, 2009).

77

Bảng 3.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 3

Tên biến Ý nghĩa Đo lường

FLFP1 Sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động theo quy mô

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng số lao động nữ trong doanh nghiệp (đơn vị tính trước khi lấy logarit: người)

FLFP2 Sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động theo tỷ trọng Được tính bằng tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động trong doanh nghiệp (đơn vị tính: %)

Export = 1 nếu doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu Xem xét doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu hay không? = 0 nếu ngược lại

Capital per worker Vốn bình quân lao động

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng vốn chia cho tổng số lao động (vào thời điểm cuối năm) (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng/người)

Human capital investment Đầu tư cho vốn nhân lực = 1 nếu doanh nghiệp có đầu tư cho vốn nhân lực

= 0 nếu ngược lại

Female manager = 1 nếu người quản lý/ chủ sở hữu doanh nghiệp là nữ giới Xem xét người quản lý hoặc chủ sở hữu của doanh nghiệp có phải là nữ giới hay không? = 0 nếu ngược lại

VSIC Đặc điểm ngành nghề của doanh nghiệp = 1 nếu ngành nghề doanh nghiệp hoạt động thâm dụng lao động nữ

= 0 nếu ngành nghề doanh nghiệp hoạt động thâm dụng

78

lao động nam

Network Thông tin về kết nối mạng lưới của doanh nhân.

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng số người mà doanh nhân có liên hệ thường xuyên ít nhất 03 tháng 01 lần, bao gồm: đối tác trong cùng lĩnh vực, đối tác khác lĩnh vực, nhân viên tổ chức tài chính, nhân viên công vụ và một số đối tượng khác (đơn vị tính trước khi lấy logarit: người)

Association = 1 nếu là thành viên của ít nhất 01 hiệp hội.

= 0 nếu ngược lại. Xem xét người quản lý/ chủ sở hữu doanh nghiệp có là thành viên của một hiệp hội nào hay không.

Communist = 1 nếu là đảng viên

= 0 nếu ngược lại. Xem xét người quản lý/chủ sở hữu doanh nghiệp có phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hay không.

Salary

Tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tiền lương bình quân tháng mà doanh nghiệp chi trả cho một người lao động sản xuất (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng)

Firm age Số năm hoạt động của doanh nghiệp

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của số năm hoạt động của doanh nghiệp tính đến năm được khảo sát (đơn vị tính trước khi lấy logarite: năm)

Firm size Quy mô doanh nghiệp

Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng tài sản doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng)

79

3.3.2. Ước lượng mức độ phân biệt đối xử với lao động nữ bằng phương pháp

phân rã

Mức độ những tác động ước tính được của phân biệt đối xử phụ thuộc vào sự

lựa chọn các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy. Theo đó, thông qua việc lựa chọn

các biến kiểm soát, nhà nghiên cứu đã ngầm tiết lộ thái độ của bản thân đối với nguồn

gốc gây ra phân biệt đối xử trong thị trường lao động (Oaxaca, 1973). Vì vậy, vấn đề

bỏ sót biến sẽ có tác động đến việc đo lường bất bình đẳng (Cotton, 1988). Cụ thể, bởi

vì thành phần thứ hai là phần dư, để kết quả tính toán phân biệt đối xử về giới chính

xác thì tất cả các nhân tố xác định tiền lương (hoặc việc làm) phải được xem xét đến.

Nếu do hạn chế về mặt dữ liệu mà một số nhân tố bị loại trừ và một số nhân tố bị đo

lường kém, thì phần dư sẽ phản ánh những ảnh hưởng bị bỏ sót này; do đó sẽ đánh giá

quá cao hoặc quá thấp mức độ phân biệt đối xử (Cotton, 1988). Hạn chế này đã tồn tại

từ lâu, nhưng chưa có nghiên cứu nào trước đây tìm được giải pháp thật sự hữu hiệu

ngoại trừ việc nhận diện được nó. Vì vậy, Cotton (1988) và sau này là Oaxaca &

Ransom (1994) đã đề xuất quy trình phân rã nhằm giải quyết khoảng trống nghiên cứu

nêu trên. Phương pháp này không chỉ ước lượng chính xác các thành phần của chênh

lệch, mà còn mô hình hóa trạng thái thực của các tác động; bằng cách ước tính chi phí

của nhóm phân biệt đối xử, và lợi ích của nhóm được ưu đãi.

Luận án áp dụng phương pháp của Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom (1994)

để so sánh sự tham gia của lao động nữ giữa doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm

dụng lao động nữ và doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam. Đây

là phương pháp được phát triển dựa trên nghiên cứu của Oaxaca (1973) và Blinder

(1973), với các ước lượng tương tự phương trình (7.1) đối với mỗi nhóm cụ thể như

sau:

𝐹 = 𝛼𝐹 + ∑

𝑛 𝑗=1

(7.2) 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡

𝑀 = 𝛼𝑀 + ∑

𝐹𝑋𝑗𝑖𝑡 𝛽𝑗 𝑀𝑋𝑗𝑖𝑡 𝛽𝑗

𝐹 𝐹 + 𝜀𝑖𝑡 𝑀 𝑀 + 𝜀𝑖𝑡

𝑛 𝑗=1

(7.3) 𝐹𝐿𝐹𝑃𝑖𝑡

Trong đó: Chỉ số trên F thể hiện doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động

nữ, chỉ số trên M thể hiện doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Từ (7.2) và (7.3) cho trước, ta có phần khác biệt trong sự tham gia của lao động

𝑀𝑋̅

𝐹𝑋̅

𝑗

𝑀 𝑗𝑖𝑡

𝐹 𝑗𝑖𝑡

. nữ được giải thích bởi hồi quy là ∑ 𝛽𝑗 − ∑ 𝛽𝑗 𝑗

80

Với giả định doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam là nhóm

𝐹; và khác biệt trong giá trị trung bình của

𝑀và 𝛽𝑗

có phân biệt đối xử trong tuyển dụng lao động nữ, thì phần khác biệt giải thích được

này bao gồm cả khác biệt do hệ số, 𝛽𝑗 từng nhân tố, 𝑋̅ 𝑀và 𝑋̅ 𝐹; cụ thể.

𝑀𝑋̅

𝐹𝑋̅

𝑀(

𝐹)

𝑗

𝑀 𝑗𝑖𝑡

𝐹) + ∑ 𝑋̅ 𝑀 − 𝑋̅ 𝑋̅ 𝐹( 𝑗 𝑗 𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

𝑀(

𝑗

(7.4) ∑ 𝛽𝑗 𝑗 − ∑ 𝛽𝑗 𝑗 = ∑ 𝛽𝑗 𝑗

𝐹 𝑗𝑖𝑡 𝑀 − 𝑋̅ 𝑋̅ 𝐹) thể hiện sự khác biệt “do đặc tính” giữa hai nhóm. 𝑗 𝑗

𝐹) thể hiện sự khác biệt “do hệ số” giữa hai nhóm.

Trong đó: ∑ 𝛽𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

∑ 𝑋̅ 𝐹( 𝑗 𝑗

Xuất phát từ giả định của Becker (1971) rằng nếu không tồn tại phân biệt đối

xử tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì các nhóm đối lập sẽ thay thế hoàn hảo cho

nhau. Để tránh tình trạng định giá sai nhóm có phân biệt đối xử và nhóm không có

phân biệt đối xử, kết hợp với các giả định khác, Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom

𝑀𝑋̅

𝐹𝑋̅

∗(

∗) +

𝐹)

𝑀 𝑗𝑖𝑡

𝐹 𝑗𝑖𝑡

= ∑ 𝛽𝑗

𝐹) + ∑ 𝑋̅ 𝑀 − 𝑋̅ 𝑋̅ 𝑀(𝛽𝑗 𝑗 𝑗 𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗

∗ − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

𝑗

𝑗

∑ 𝑋̅ 𝐹( 𝑗 𝑗

∑ 𝛽𝑗 𝑗

− ∑ 𝛽𝑗 𝑗

(1994) phát triển phương trình (7.4) như sau:

(7.5)

𝑗

(7.6)

∗) là

𝑗

∗( hàng năm bình quân giai đoạn 2009 - 2018 tại Việt Nam. ∑ 𝛽𝑗 biệt do đặc tính của hai nhóm khi không có phân biệt đối xử. ∑ 𝑋̅ 𝑀( 𝑗

𝑀 − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

Với: 𝛽∗ = 𝑓𝑀𝛽𝑀 + 𝑓𝐹𝛽𝐹 Trong đó: 𝑓𝑀 và 𝑓𝐹 là tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của nam và nữ 𝑀 − 𝑋̅ 𝑋̅ 𝐹) là sự khác 𝑗 𝑗

𝐹) là những đặc tính bị định giá cao của các doanh nghiệp ngành thâm

những đặc tính được định giá thấp của các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động

∗ − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

nam (hay còn gọi là “chi phí” của các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nam). ∑ 𝑋̅ 𝐹( 𝑗 𝑗

dụng lao động nữ (tức “lợi thế” của các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nữ).

Tuy nhiên, Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom (1994) bỏ qua sự khác biệt do

thay đổi hệ số chặn. Để đánh giá đầy đủ phần giải thích bởi phân biệt đối xử, nghiên

cứu này tính toán 𝛼𝑀 − 𝛼𝐹, tương tự như cách thực hiện của Blinder (1973).

Tóm lại, nghiên cứu này phân rã chênh lệch giới trong việc làm thành các thành

phần như sau:

81

R

𝑗

𝑗

𝑀𝑋̅ 𝑀 𝑗

𝐹𝑋̅ 𝐹) 𝑗

= E + C + U = toàn bộ sự khác biệt = 𝛼𝑀 + ∑ 𝛽𝑗 − (𝛼𝐹 + ∑ 𝛽𝑗

E = phần khác biệt do đặc tính khác nhau

𝑀 − 𝑋̅ ∗(𝑋̅ 𝐹 𝑗 𝑗

) = ∑ 𝛽𝑗 𝑗

∗) +

𝐹)

𝑗

C = phần khác biệt do hệ số khác nhau

𝑀 − 𝛽𝑗

∗ − 𝛽𝑗 𝛽𝑗

= CM + CF = ∑ 𝑋̅ 𝑀(𝛽𝑗 𝑗 ∑ 𝑋̅ 𝐹( 𝑗 𝑗

U = phần khác biệt không giải thích được

= 𝛼𝑀 − 𝛼𝐹

D = phần khác biệt do phân biệt đối xử

= C + U

3.3.3. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện với dữ liệu từ “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ

và siêu nhỏ của Việt Nam” được thực hiện bởi UNU-WIDER phối hợp với các tổ chức

trong và ngoài nước (gồm: ILSSA, DoE và CIEM). Cuộc điều tra này phỏng vấn trực

tiếp các đơn vị sản xuất hoạt động trong ngành chế biến, chế tạo tại chín tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương.

Mặt khác, ngoài các đơn vị sản xuất có đăng ký với các cơ quan chính thức, các

hộ kinh doanh (không chính thức) cũng được đưa vào bộ dữ liệu. Mẫu dữ liệu bao

gồm 2.512 doanh nghiệp năm 2011, 2.542 doanh nghiệp năm 2013 và 2.647 doanh

nghiệp năm 2015. Do đặc điểm của cuộc khảo sát này là mẫu điều tra năm sau được

lặp lại từ mẫu điều tra năm trước, đồng thời thay thế ngẫu nhiên đối với các đơn vị đã

ngừng hoạt động. Dữ liệu khảo sát từng năm sẽ được nối lại thành một bộ dữ liệu tổng

hợp cho cả ba năm, và loại bỏ những doanh nghiệp không được khảo sát lặp lại. Kết

quả kiểm định t-test (Phụ lục 3.2) giữa nhóm các quan sát bị xóa bỏ và nhóm các quan

sát được sử dụng trong từng năm cho thấy hầu như không có sự khác biệt giữa hai

nhóm. Vì vậy, dữ liệu bảng sử dụng trong mô hình sẽ tránh được vấn đề hao mòn

(attrition) nghiêm trọng.

Dữ liệu bảng sử dụng trong chương này bao gồm 1.720 doanh nghiệp với tổng

số 5.160 quan sát cho cả 3 năm. Sau đó, để đánh giá mức độ tác động của các nguyên

nhân khác nhau đến khác biệt trong sự tham gia của lao động nữ, dữ liệu nghiên cứu

căn cứ số lượng lao động nữ trung bình trong từng doanh nghiệp để phân loại các

82

doanh nghiệp thành hai nhóm, bao gồm: ngành thâm dụng lao động nữ và ngành thâm

dụng lao động nam.

3.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.4.1. Thống kê mô tả

Kết quả thống kê mô tả cho thấy các doanh nghiệp trong mẫu dữ liệu có số

lượng lao động nữ trung bình là 07 người, và tỷ lệ lao động nữ trung bình là 38,1%.

Đồng thời, hầu hết các doanh nghiệp chỉ cung ứng sản phẩm cho thị trường nội địa.

Mặc dù vậy, nhóm ngành thâm dụng lao động nữ tham gia hoạt động thương mại quốc

tế nhiều hơn nhóm ngành thâm dụng lao động nam. Vốn bình quân lao động trung

bình của các doanh nghiệp là 384,396 triệu đồng/người; trong đó, vốn bình quân lao

động trung bình của nhóm ngành thâm dụng lao động nữ (446,949 triệu đồng/người)

cao hơn so với nhóm ngành thâm dụng lao động nam (361,303 triệu đồng/người). Các

doanh nghiệp trong mẫu dữ liệu ít đầu tư vào vốn nhân lực; đồng thời, chủ yếu do nam

giới quản lý hoặc sở hữu, và thường hoạt động trong trong các ngành thâm dụng lao

động nam. Tuy nhiên, nhóm ngành thâm dụng lao động nữ sẽ có tỷ lệ nữ giới quản lý

hoặc là chủ sở hữu cao hơn. Trung bình chủ doanh nghiệp có liên hệ thường xuyên ít

nhất 03 tháng 01 lần với 36 người. Mặt khác, không nhiều chủ doanh nghiệp tham gia

vào các tổ chức hiệp hội, hoặc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này là

tương tự nếu xét trong hai nhóm ngành thâm dụng lao động nữ và thâm dụng lao động

nam, nhưng người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp thâm dụng lao động nữ có

nhiều kết nối xã hội, cũng như tham gia vào nhiều hiệp hội hơn. Tiền lương bình quân

tháng của một người lao động sản xuất trong doanh nghiệp là 2,699 triệu đồng. Thời

quan hoạt động tính từ lúc thành lập đến hiện tại của các doanh nghiệp trong mẫu dữ

liệu trung bình là 16 năm và quy mô tài sản trung bình đạt 5,829 tỷ đồng. Nếu so sánh

giữa nhóm ngành thâm dụng lao động nữ và nhóm ngành thâm dụng lao động nam, thì

các doanh nghiệp thâm dụng lao động nữ trả lương bình quân cao hơn, có thời gian

hoạt động ngắn hơn và quy mô nhỏ hơn nhiều so với các doanh nghiệp thâm dụng lao

động nam.

83

Bảng 3.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 3

Toàn bộ dữ liệu Tên biến

Trung bình Trung bình

Độ lệch chuẩn 28,736 Số quan sát 5.160 Nhóm ngành thâm dụng lao động nữ Độ lệch chuẩn 51,333 Số quan sát 1.392 Trung bình 15,569 Nhóm ngành thâm dụng lao động nam Độ lệch chuẩn 11,053 Số quan sát 3.768 4,060 7,165 FLFP1

0,449 0,266 0,355 0,253 0,381 0,260 5.160 1.392 3.768 FLFP2

0,116 0,321 0,050 0,217 0,068 0,251 5.160 1.392 3.768 Export

Capital per worker 384,396 607,008 446,949 660,739 361,303 584,331 5.159 1.391 3.768

Human capital investment 0,101 0,302 5.157 0,141 0,348 1.391 4.226 0,161 0,367

Female manager 0,387 0,487 5.160 0,455 0,498 1.392 3.768 0,362 0,481

0,270 0,444 5.160 1 0 1.392 3.768 0 0 VSIC

36,734 52,758 40,899 58,971 35,195 50,190 5.160 1.392 3.768 Network

0,084 0,277 5.160 0,125 0,331 1.392 3.768 0,068 0,253 Association

0,092 0,290 5.160 0,089 0,285 1.392 3.768 0,094 0,292 Communist

2,699 1,739 4.746 2,942 1,321 1.352 3.394 2,603 1,872 Salary

16,069 9,780 5.160 14,279 8,851 1.392 3.768 16,730 10,022 Firm age

Ghi chú:

Sự khác nhau về số lượng quan sát trong bảng 3.2 giữa các biến là do dữ liệu bị thiếu.

Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 3.1

5.829 2.460 5.159 1.020 3.790 1.391 3.768 4.202 1.690 Firm size

84

3.4.2. Xác định các nhân tố tác động đến sự tham gia của lao động nữ

Bảng 3.3 trình bày kết quả hồi quy bằng phương pháp FGLS. Kết quả ước

lượng cho thấy thương mại quốc tế có tác động cùng chiều đến sự tham gia của nữ giới

trong thị trường lao động cả về quy mô lẫn tỷ trọng. So sánh giữa doanh nghiệp có

xuất khẩu và không xuất khẩu, số lao động nữ trong doanh nghiệp xuất khẩu cao hơn

40,2%. Tương tự, tỷ trọng lao động nữ trong doanh nghiệp đó cũng cao hơn 9,3%.

Hoạt động xuất khẩu đã giúp tạo ra nhiều việc làm hơn cho nữ giới. Điều này đã được

chứng minh trong nhiều nghiên cứu trước đây (Becker, 1971; Black & Brainerd, 2004;

Contessi và cộng sự, 2014; Ederington và cộng sự, 2009).

Bảng 3.3. Các nhân tố tác động đến sự tham gia của lao động nữ

Biến Số lượng lao động nữ

trong tổng số lao động trong doanh nghiệp.

Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 3.1.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

se là sai số chuẩn.

Sự khác biệt giữa bảng 3.1 và phụ lục 3.2 là do số liệu của một số biến được lấy logarith cơ

số tự nhiên trước khi đưa vào mô hình hồi quy.

Tỷ lệ lao động nữ se 0,009*** 0,002*** 0,006 0,003*** 0,004*** 0,002*** 0,007*** 0,006*** 0,001*** 0,003*** 0,002*** 0,019*** β 0,402 -0,802 0,068 0,109 0,281 0,015 0,095 0,044 -0,094 0,042 0,828 -0,659 4.014 92.135,06 0,0000 se 0,021*** 0,005*** 0,014*** 0,006*** 0,010*** 0,002*** 0,016*** 0,008*** 0,002*** 0,005*** 0,005*** 0,027*** β 0,093 -0,034 -0,004 0,108 0,080 0,013 0,031 0,022 -0,063 0,031 0,033 0,585 4.708 5.223,64 0,0000 Export Capital per worker Human capital investment Female manager VSIC Network Association Communist Salary Firm age Firm size _cons Số quan sát Wald chi2 (11) Prob > chi2 Ghi chú: Biến phụ thuộc là logarit cơ số tự nhiên của tổng số lao động nữ và tỷ trọng lao động nữ

Đồng thời, nếu người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp là nữ sẽ làm tăng

sự xuất hiện của lao động nữ trong doanh nghiệp (ILO, 2020). Số lượng và tỷ trọng lao

động nữ tăng 10,9% và 10,8% tương ứng. Khi cùng giới tính, người chủ lao động có

85

thể sẽ nhận diện tốt hơn về năng lực của các ứng viên đăng ký tuyển dụng (Gorman,

2005), phù hợp với kết quả nghiên cứu của Cornell & Welch (1996).

Xét đặc điểm ngành nghề, số lượng lao động nữ trong doanh nghiệp hoạt động

trong ngành thâm dụng lao động nữ (ví dụ như dệt may) cao hơn 28,1% so với doanh

nghiệp hoạt động trong ngành thâm dụng lao động nam (ví dụ như sản xuất thuốc lá,

kim loại). Đồng thời, tỷ trọng lao động nữ sẽ cao hơn 8,0%. Việc mở rộng các ngành

thâm dụng lao động nữ ở Việt Nam đưa đến khả năng làm gia tăng sự tham gia của

phụ nữ trong thị trường lao động (Chen và cộng sự, 2017).

Về nhân tố vốn xã hội, nhìn chung, nếu người chủ sở hữu có tham gia vào tổ

chức chính trị - xã hội, hiệp hội ngành nghề thì sự tham gia vào lực lượng lao động của

phụ nữ sẽ tăng. Đây là kết quả của việc cải thiện thông tin bất cân xứng (Cain, 1986).

Khi số lượng kết nối mạng lưới thay đổi 1%, thì số lao động nữ tăng 1,5%, và tỷ trọng

lao động nữ tăng 1,3%. Kết nối mạng lưới đề cập ở đây bao gồm: những người hoạt

động kinh doanh cùng ngành, những người hoạt động kinh doanh khác ngành, nhân

viên tổ chức tín dụng (cả tín dụng chính thức và phi chính thức), các nhà chính trị và

nhân viên công vụ, và một số đối tượng khác. Tương tự, số lao động nữ và tỷ trọng lao

động nữ trong doanh nghiệp mà chủ sở hữu quản lý có tham gia hiệp hội ngành nghề

lần lượt là 9,5% và 3,1%. Ngoài ra, nếu người chủ sở hữu quản lý là Đảng viên Đảng

Cộng sản Việt Nam thì số lượng và tỷ trọng lao động nữ trong doanh nghiệp đó cao

hơn 4,4% và 2,2% tương ứng.

Việc mở rộng quy mô doanh nghiệp có thể giúp tạo ra nhiều việc làm hơn đối

với các lao động nữ (Ederington và cộng sự, 2009). Trong nghiên cứu này, nếu tổng

tài sản của doanh nghiệp tăng 1%, thì số lao động nữ tăng 82,8% và tỷ trọng lao động

nữ tăng 3,3%. Đồng thời, nếu thời gian hoạt động của doanh nghiệp tăng 1% thì số

lượng và tỷ trọng lao động nữ tăng 4,2 % và 3,1% tương ứng; đồng nghĩa khi doanh

nghiệp hoạt động càng lâu thì nhu cầu tuyển dụng lao động nữ trong doanh nghiệp sẽ

càng cao.

Đối với vấn đề đầu tư cho nguồn nhân lực, kết quả cho thấy hoạt động tập huấn

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động giúp số lượng lao động

nữ tăng 6,8%; nhưng lại làm giảm tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp. Như vậy, mặc

dù số lượng lao động nữ có tăng, nhưng số lượng lao động nam tăng nhiều hơn.

86

Phù hợp với mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị của (Becker, 1971), nếu

thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp tăng 1% thì lao động nữ trong doanh

nghiệp giảm 9,4% và tỷ trọng lao động nữ giảm 6,3%. Nghĩa là, người chủ lao động có

thể đã có “khẩu vị phân biệt đối xử”, và cắt giảm lao động nữ2.

Galor & Weil (1996) phát biểu rằng cung lao động nữ sẽ tăng theo sự gia tăng

của tiền lương tương đối của nữ giới so với nam giới, dưới tác động tăng trưởng vốn

bình quân lao động. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy nếu vốn bình quân lao động

tăng 1% thì số lao động nữ trong doanh nghiệp giảm 80,2% và tỷ trọng lao động nữ

giảm 3,4%. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng sự tham gia của nữ giới trong thị

trường là theo hình chữ U (Çağatay & Özler, 1995; Durand, 1975; Goldin, 1992;

Pampel & Tanaka, 1986; Tam, 2011). Nghĩa là, tại các mức thu nhập thấp, sự gia tăng

trong thu nhập sẽ làm tăng tỷ lệ sinh và giảm số lượng phụ nữ cung ứng sức lao động,

cho đến khi có sự tích lũy đủ vốn thì sự gia tăng trong tiền lương tương đối của nữ giới

sẽ đủ để hạ thấp tỷ lệ sinh kỳ vọng. Ngoài ra, kết quả tìm thấy trong luận án này còn

phù hợp với phát biểu của Goldin (1992) rằng phụ nữ có thể vừa làm việc tại nhà, vừa

chăm sóc con cái.

Bên cạnh đó, nếu chạy hồi quy FGLS với mẫu dữ liệu chọn ngẫu nhiên 50%

(hoặc 90%) trong 5.160 quan sát ban đầu, kết quả thể hiện độ lớn hệ số hồi quy tương

đối ít thay đổi qua các phương trình khác nhau (phụ lục 3.4 và 3.5).

3.4.3. Phân tích khác biệt về sự tham gia của lao động nữ

Sau khi đã nhận diện được các nhân tố tác động đến sự tham gia của lao động

nữ - “khoảng cách giải thích được”, nghiên cứu tiếp tục tính toán “khoảng cách không

giải thích được” liên quan đến phân biệt đối xử bằng phương pháp phân rã.

Nghiên cứu tiến hành hồi quy để phân rã 97,45% sự khác biệt thô về số lượng

lao động nữ giữa doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam và doanh

nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ, tại bảng 3.4. Cột thứ hai thể hiện

đóng góp chung của từng nhân tố; trong khi cột thứ ba cho biết phần khác biệt do đặc

tính. Hai cột cuối cùng lần lượt thể hiện phần khác biệt do hệ số hồi quy tương ứng

2 Với giả định thu nhập lao động nam là cao hơn lao động nữ, nên thu nhập bình quân lao động trong doanh nghiệp sẽ tăng khi số lượng lao động nữ giảm.

cho hai nhóm thâm dụng lao động nam và nữ.

87

Bảng 3.4. Phân rã sự khác biệt số lượng lao động nữ

Tổng đóng góp Đóng góp từ đặc tính

Export Capital per worker Human capital investment Female manager Network Association Communist Salary Firm age Firm size -0,019 1,735 -0,013 0,005 0,019 -0,002 -0,002 -0,125 0,133 -2,163

Cộng -0,4315 -0,026 0,212 -0,003 -0,010 -0,001 -0,005 0,000 0,033 0,004 -0,925 E = -0,7200 (73,88%) Đóng góp từ hệ số hồi quy “Lợi thế” “Chi phí” nhóm thâm nhóm thâm dụng lao dụng lao động động nữ nam 0,005 0,002 0,793 0,730 -0,006 -0,004 0,008 0,006 0,010 0,009 0,003 0,001 -0,001 -0,001 -0,084 -0,074 0,064 0,064 -0,662 -0,575 CF = 0,1304 CM = 0,1581 (-13,38%) (-16,22%)

Phần khác biệt không giải thích được

Dấu – biểu thị lợi thế của doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ.

Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 3.1.

Tổng cộng U = -0,5430 (55,72%) D = C + U = -0,2544 (26,11%) R = -0,9745 (100%) Ghi chú: Dấu + biểu thị lợi thế của doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Phần liên quan đến hồi quy (bỏ qua hệ số chặn) chiếm tỷ lệ 43,15% chênh lệch

số lượng lao động nữ với lợi thế nghiêng về các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao

động nữ (cột 2). Những nhân tố có hệ số ước lượng âm sẽ khuyến khích tăng sử dụng

nữ giới (ví dụ, quy mô sản xuất, hoạt động xuất khẩu); trong khi nhân tố có hệ số ước

lượng dương sẽ làm giảm việc sử dụng nữ giới (ví dụ, vốn bình quân lao động, thời

gian doanh nghiệp hoạt động).

Giá trị E trong cột thứ 3 chỉ ra rằng 72% của sự khác biệt do hồi quy là do đặc

tính vốn có của ngành. Chẳng hạn, các ngành thâm dụng lao động nữ thường có quy

mô lớn hơn (hệ số là -0,925). Cho nên quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến

số lượng lao động nữ trong doanh nghiệp. Trong khi đó, nhóm ngành thâm dụng lao

động nam thường có vốn bình quân trên một lao động cao hơn (hệ số là 0,212). Ngoài

ra, doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam còn có ưu thế về thời

gian doanh nghiệp hoạt động; do nếu hoạt động càng lâu thì càng sử dụng nhiều lao

động nam hơn (hệ số là 0,004). Vấn đề này cũng liên quan đến độ tuổi bắt đầu hưởng

88

chế độ hưu trí của nam lớn hơn so với nữ, đồng nghĩa nam giới sẽ có thời gian làm

việc dài hơn.

Từ kết quả ước lượng của D = -25,44% và R =-98,45%, ta có thể tính được tỷ lệ

D/R bằng 26,11%. Kết quả này cho thấy 26,11% sự khác biệt thô về số lượng lao động

nữ giữa doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam và doanh nghiệp

thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ là do phân biệt đối xử.

Bảng 3.5. Phân rã sự khác biệt tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động

Tổng đóng góp Đóng góp từ đặc tính

Export Capital per worker Human capital investment Female manager Network Association Communist Salary Firm age Firm size -0,005 0,069 0,000 0,002 0,072 -0,009 -0,003 -0,194 0,101 0,186

Cộng 0,2175 -0,005 0,008 0,000 -0,010 -0,001 -0,003 0,000 0,024 0,003 -0,030 E = -0,0124 (12,22%) Đóng góp từ hệ số hồi quy “Lợi thế” “Chi phí” nhóm thâm nhóm thâm dụng lao dụng lao động nữ động nam 0,000 0,000 0,032 0,029 0,000 0,000 0,007 0,005 0,038 0,035 -0,004 -0,002 -0,002 -0,002 -0,116 -0,103 0,049 0,049 0,115 0,100 CF = 0,1185 CM = 0,1113 (-116,75%) (-109,66%)

Phần khác biệt không giải thích được

Dấu – biểu thị lợi thế của doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ.

Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 3.1.

Tổng cộng U = -0,3190 (314,86%) D = C + U = -0,0891 (87,78%) R = -0,1015 (100%) Ghi chú: Dấu + biểu thị lợi thế của doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Bảng 3.5 trình bày kết quả hồi quy để phân rã sự khác biệt thô về tỷ lệ lao động

nữ giữa doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nam và nhóm ngành

thâm dụng lao động nữ. Phần liên quan đến hồi quy (bỏ qua hệ số chặn) dự đoán

21,75% lợi thế nghiêng về nhóm ngành thâm dụng lao động nam. Các nhân tố chính

khuyến khích lao động nữ là tiền lương, xuất khẩu và hiệp hội nghề nghiệp. Trong khi

đó, các nhân tố góp phần giảm tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp là quy mô và thời

gian hoạt động của doanh nghiệp, vốn bình quân lao động, và kết nối mạng lưới.

Tương tự Bảng 3.4, sự khác biệt do đặc tính vốn có khuyến khích tăng sử dụng lao

89

động nữ (E = -1,24%). Tuy nhiên, phần khác biệt do hệ số hồi quy (CM + CF =

22,98%), lớn hơn nhiều so với sự khác biệt do đặc tính vốn có của hai nhóm ngành.

Với D = -8,91% và R = -10,15%, kết quả tính toán cho thấy 87,78% (tỷ lệ D/R

= -8,91/-10,15) sự khác biệt về tỷ lệ lao động nữ giữa doanh nghiệp thuộc nhóm ngành

thâm dụng lao động nam và doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động nữ

là do phân biệt đối xử. Kết quả đối với tỷ lệ lao động nữ này lớn hơn so với kết quả đối

với số lượng lao động nữ. Từ đó, nghiên cứu cho thấy sự phân biệt đối xử về giới3

trong việc làm vẫn rất gay gắt, mặc dù số lao động nữ tham gia vào lực lượng lao động

ngày càng gia tăng.

3.5. Kết luận và hàm ý chính sách

Trong 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, mục tiêu thứ 5

hướng đến đạt được “bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái”. Để

hoàn thành mục tiêu này, tất cả các hình thức phân biệt đối xử với nữ giới cần được

xóa bỏ; cụ thể trong thị trường lao động là phân biệt đối xử giữa nam và nữ về tiền

lương và việc làm. Tuy nhiên, không nhiều nghiên cứu thực hiện về chênh lệch giới về

việc làm. Nghiên cứu thực nghiệm này nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham

gia của lao động nữ. Đồng thời, nghiên cứu cung cấp một điển hình mới để kiểm định

lý thuyết phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị của Becker (1971), và lý thuyết về khoảng

cách giới, mức sinh và tăng trưởng của Galor & Weil (1996). Việt Nam là một tình

huống thú vị vì quốc gia này đang trong quá trình tự do hóa thương mại mạnh mẽ và

tình trạng tồn tại bất bình đẳng giới dù tương đối thấp, với tỷ lệ lao động nữ khá cao.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng phân biệt đối xử về giới trong việc làm vẫn diễn

ra trong các doanh nghiệp Việt Nam. So sánh giữa doanh nghiệp ngành thâm dụng lao

động nam và doanh nghiệp ngành thâm dụng lao động nữ, phân biệt đối xử đã giải

thích 26,11% sự khác biệt về số lượng lao động nữ; và 87,78% sự khác biệt về tỷ lệ lao

động nữ so với tổng số lao động. Hoạt động xuất khẩu, đầu tư vào vốn nhân lực, đặc

điểm ngành nghề, quy mô và thời gian hoạt động doanh nghiệp, giới tính và vốn xã hội

của người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng cùng chiều với lao

động nữ trong doanh nghiệp; ngược lại, chế độ đãi ngộ lao động và vốn bình quân lao

3 Những kết luận liên quan đến tình trạng phân biệt đối xử tại Chương 3 là xuất phát từ cách đọc kết quả tính toán được bằng phương pháp phân rã.

động lại thể hiện tương quan ngược chiều.

90

CHƯƠNG 4. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ SỰ THAM GIA CỦA

LAO ĐỘNG NỮ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Nội dung chương này tập trung giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ hai của luận

án. Sau khi tổng quan ngắn gọn nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm có liên quan,

luận án thảo luận về dữ liệu nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu giả thí nghiệm.

Tiếp theo, kết quả nghiên cứu phân tích mối tương quan giữa thương mại quốc tế và

phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động tại Việt Nam ở cấp độ doanh nghiệp

được trình bày. Từ đó, luận án đưa ra những kết luận từ các phát hiện chính.

4.1. Giới thiệu

Toàn cầu hóa được công nhận là động lực tăng trưởng kinh tế và thay đổi xã hội

(Chen và cộng sự, 2013); trong bối cảnh đó, thương mại quốc tế giữ vai trò quan trọng

trong quá trình phát triển của các quốc gia trong dài hạn (Fukuda, 2019; George, 2013;

Naito, 2017; Onafowora & Owoye, 1998; Wacziarg & Welch, 2008; Winters và cộng

sự, 2004), thậm chí trong giai đoạn khủng hoảng (Falvey và cộng sự, 2012). Tuy

nhiên, tự do hóa thương mại cũng đồng thời đưa đến những thách thức lớn đối với các

doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường (Domínguez-Villalobos &

Brown-Grossman, 2010; Mertens, 2020). Trong khi việc hội nhập toàn cầu có thể giúp

giảm đáng kể chi phí vận chuyển, gia tăng quy mô thị trường sản phẩm, và mở rộng

mạng lưới sản xuất, nó cũng làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh (Menon & Van der

Meulen Rodgers, 2009; Mertens, 2020). Cách thức phản ứng của các doanh nghiệp

trước những điều kiện thị trường mới này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực

trong nước, về năng suất và mức sống dân cư (Mertens, 2020). Nói cách khác, mở

rộng thương mại quốc tế có thể có tác động đến thị trường lao động nói chung (Busse,

2002; Naylor, 1998; Slaughter, 2001), và đến từng cá nhân nói riêng tùy theo đặc điểm

của cá nhân đó (Helpman và cộng sự, 2017; Helpman và cộng sự, 2010).

Cụ thể, thương mại quốc tế được chứng minh có tác động không tốt đến phân

biệt đối xử về giới trong việc làm, khi làm giãn rộng khoảng cách tiền lương theo giới

(Busse & Spielmann, 2006; Feenstra & Hanson, 1996; Menon & Van der Meulen

Rodgers, 2009; Seguino, 2000), và làm giảm tỷ lệ nữ giới tham gia vào thị trường lao

động (Autor và cộng sự, 2013), nhất là trong các ngành thâm dụng lao động nữ (Sauré

& Zoabi, 2014). Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn đang tranh cãi. Do nhiều nghiên cứu

91

đã tìm thấy bằng chứng ngược lại về ảnh hưởng cùng chiều của thương mại quốc tế

đến sự tham gia của lao động nữ, khi tiếp cận ở góc độ thương mại quốc tế làm gia

tăng cạnh tranh (Becker, 1971; Black & Brainerd, 2004; Ederington và cộng sự, 2009);

phân tích ở cấp độ quốc gia (Korinek, 2005; Neumayer & De Soysa, 2007) hoặc cấp

độ ngành (Aguayo-Tellez và cộng sự, 2014).

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm bổ sung một tình huống nghiên cứu ở

quốc gia đang phát triển, bằng cách đánh giá tác động của việc mở rộng thương mại

quốc tế (thông qua việc doanh nghiệp tăng cường hoạt động xuất khẩu) đến sự tham

gia của nữ giới trong lực lượng lao động. Việt Nam là một trường hợp thú vị vì quốc

gia này đang tự do hóa thương mại mạnh mẽ và tồn tại tình trạng bất bình đẳng giới dù

tương đối thấp. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP của Việt Nam gia tăng từ

6,6% năm 1986 - thời điểm bắt đầu thực hiện chính sách Đổi mới phát triển nền kinh

tế thị trường - lên đến 50% vào năm 2000 trước khi vượt mức 100% vào năm 2017

(WB, 2022). Song song đó, tại Việt Nam, có khoảng 72% nữ giới tham gia vào lực

lương lao động, so với tỷ lệ 82% của nam giới (General Statistics Office, 2021b).

Đồng thời, lao động nữ luôn có mức tiền lương bình quân thấp hơn khoảng 10% so với

lao động nam ở cùng trình độ chuyên môn kỹ thuật (ADB, 2016; Buchhave và cộng

sự, 2020; General Statistics Office, 2019), do tập trung đông ở những nhóm ngành và

nghề nghiệp được trả lương thấp (OXFAM, 2016).

Phương pháp Propensity Score Matching (PSM) được ứng dụng, để so sánh lực

lượng lao động nữ giữa các doanh nghiệp có hoặc không có hoạt động xuất khẩu, và so

sánh giữa các doanh nghiệp có mức độ hoạt động xuất khẩu khác nhau. Đáng chú ý,

nghiên cứu này đóng góp vào chủ đề phân biệt đối xử về giới ở hai nội dung: Thứ

nhất, trong khi với hầu hết nghiên cứu trước đây tập trung vào vấn đề khoảng cách giới

về tiền lương, trọng tâm của nghiên cứu này là việc làm. Thứ hai, nghiên cứu đưa ra

bằng chứng về sự khác biệt giữa các doanh nghiệp có hoặc không có hoạt động xuất

khẩu, và giữa các doanh nghiệp có mức độ hoạt động xuất khẩu khác nhau. Từ đó kết

luận rằng thương mại quốc tế có tác động cùng chiều đến sự tham gia của lao động nữ.

Song song đó, việc doanh nghiệp duy trì hoạt động xuất khẩu liên tục qua các năm sẽ

giúp làm giảm phân biệt đối xử về giới trong việc làm. Trong trường hợp Việt Nam,

thương mại quốc tế không chỉ tạo ra nhiều việc làm hơn cho phụ nữ, mà còn gia tăng

92

cạnh tranh trong các ngành có xu hướng thâm dụng lao động nữ, kết quả là phân biệt

đối xử giảm.

Phần còn lại của chương này được cấu trúc như sau: Mục 2 sẽ cung cấp tổng

quan nghiên cứu. Phần kế tiếp sẽ mô tả dữ liệu, và phương pháp được sử dụng. Mục 4

sẽ trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận. Cuối cùng, Mục 5 sẽ điểm lại các kết

luận chính, nêu hàm ý chính sách và đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu tương lai.

4.2. Tổng quan nghiên cứu

4.2.1. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động

Phân biệt đối xử về giới có thể bị ảnh hưởng bởi các động lực cạnh tranh thị

trường (Becker, 1971; Arrow, 1973). Những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn

sẽ có chi phí biên của sản xuất cao hơn, nên có tỷ lệ lao động nữ thấp hơn, và sẽ thu

lợi ít hơn so với các doanh nghiệp ít phân biệt đối xử. Trong một môi trường cạnh

tranh, dòng vốn sẽ chảy đến nơi có lợi nhuận nhiều hơn (những doanh nghiệp ít phân

biệt đối xử hơn) và trong dài hạn, những doanh nghiệp phân biệt đối xử nhiều hơn sẽ

bị đẩy ra khỏi thị trường. Vì vậy, lý thuyết truyền thống về phân biệt đối xử lập luận

rằng sự cạnh tranh sẽ làm giảm phân biệt đối xử trong dài hạn thông qua hiệu ứng lựa

chọn, trong đó, chỉ những doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất (đồng thời ít phân biệt

đối xử nhất) sẽ tồn tại.

Tuy nhiên, tác động tổng thể của cạnh tranh đến phân biệt đối xử tùy thuộc hiệu

ứng co giãn và hiệu ứng theo quy mô (Ederington và cộng sự, 2009). Với hiệu ứng co

giãn, cạnh tranh lớn hơn làm gia tăng độ co giãn của cầu sản phẩm của doanh nghiệp,

do đó sẽ làm gia tăng chi phí của hành vi phân biệt đối xử, đưa đến kết quả là nhiều

lao động nữ được tuyển dụng hơn. Với hiệu ứng theo quy mô, cạnh tranh gia tăng làm

thu hẹp quy mô doanh nghiệp, nên chi phí của hành vi phân biệt đối xử giảm và vì vậy

doanh nghiệp tăng tuyển dụng lao động nam.

4.2.2. Thương mại quốc tế và sự tham gia của lao động nữ

4.2.2.1. Bằng chứng lý thuyết

Theo lý thuyết của Winters (2002), ảnh hưởng của thương mại đến phúc lợi hộ

gia đình được truyền dẫn qua ba kênh: 1) kênh giá cả, 2) kênh các thị trường nhân tố,

và 3) kênh tài khóa. Thị trường lao động được xem là một thị trường nhân tố. Theo đó,

ảnh hưởng của thương mại quốc tế đến hộ gia đình phụ thuộc vào độ co giãn cung lao

93

động. Trong một số điều kiện cụ thế, nếu cung lao động cố định hoàn toàn, tiền lương

thực sẽ gia tăng khi tự do hóa thương mại diễn ra. Ngược lại, khi cung lao động co

giãn hoàn toàn, tiền lương sẽ cố định, việc điều chỉnh diễn ra về mặt việc làm, nghĩa là

người lao động sẽ dịch chuyển giữa các ngành để theo đuổi mức lương cao hơn.

Kết nối lý thuyết này với sự tham gia của lao động nữ, Winters & Martuscelli

(2014) cho rằng tiền lương của lao động nữ - yếu tố quan trọng quyết định hiện trạng

kinh tế của hộ gia đình, sẽ chịu ảnh hưởng bởi tự do hóa thương mại theo ba kênh

chính như sau: 1) phân bổ giữa các ngành, 2) phân bổ nội bộ ngành, 3) phân biệt đối

xử. Đầu tiên, nếu tự do hóa thương mại tạo động lực các ngành thâm dụng lao động

nữ, thì tiền lương hoặc việc làm của lao động nữ sẽ gia tăng (Aguayo-Tellez và cộng

sự, 2014; Gaddis & Pieters, 2012). Hai là, thương mại quốc tế có thể tác động đến yếu

tố giới tính trong nội bộ ngành; vì quá trình đổi mới công nghệ sẽ giúp bộc lộ lợi thế

so sánh của lao động nữ trong các ngành ít thâm dụng thể chất và đòi hỏi nhiều lao

động trí óc (Juhn và cộng sự, 2013, 2014). Cuối cùng, tự do hóa thương mại làm gia

tăng cạnh tranh, do đó phân biệt đối xử về giới giảm (Becker, 1971; Ederington và

cộng sự, 2009), trừ trường hợp các ngành có mức độ tập trung cao (Menon & Van der

Meulen Rodgers, 2009).

4.2.2.2. Bằng chứng thực nghiệm

Một số nghiên cứu trước đây cho thấy thương mại quốc tế có tác động ngược

chiều đến phân biệt đối xử về giới trong việc làm (Autor và cộng sự, 2013; Busse &

Spielmann, 2006; Menon & Van der Meulen Rodgers, 2009; Sauré & Zoabi, 2014;

Seguino, 2000). Đa số các nghiên cứu này đều chủ yếu phân tích ở khía cạnh khoảng

cách tiền lương theo giới. Ví dụ, Sauré & Zoabi (2014) cho thấy nếu thương mại mở

rộng những ngành thâm dụng lao động nữ thì tỷ lệ lao động nữ sẽ giảm, do sự dịch

chuyển của lao động nam từ những ngành thâm dụng lao động nam sang những ngành

vốn thâm dụng lao động nữ. Tuy nhiên, Ederington và cộng sự (2009) ứng dụng dữ

liệu tự do hóa thương mại của Colombia trong giai đoạn 1984 - 1991, tại đó các doanh

nghiệp được ưu đãi giảm thuế quan đã đăng tuyển dụng lao động nữ cổ cồn xanh so

với lao động nam cổ cồn xanh. Kết quả nghiên cứu chứng minh tỷ lệ lao động nữ cao

hơn ở những doanh nghiệp xuất khẩu, và gia tăng tương ứng theo khối lượng xuất

khẩu.

94

Ở cấp độ quốc gia, với dữ liệu chéo giữa các quốc gia áp dụng chiến lược tăng

trưởng định hướng xuất khẩu ở châu Phi, châu Á, Caribbean và Mỹ La tinh, Korinek

(2005) cho thấy việc mở cửa thương mại đã mang đến nhiều việc làm hơn cho phụ nữ,

thông qua các chính sách về y tế và giáo dục trẻ em. Tương tự, nghiên cứu của

Neumayer & De Soysa (2007) phân tích bộ dữ liệu 143 quốc gia (trong đó có 120

quốc gia đang phát triển) với kỹ thuật hồi quy logit thứ bậc hiệu ứng ngẫu nhiên,

chứng minh rằng những quốc gia thực hiện chính sách tự do hóa thương mại sẽ trao

quyền nhiều hơn cho lao động nữ.

4.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

4.3.1. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện với dữ liệu từ “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ

và siêu nhỏ” của Việt Nam được thực hiện bởi UNU-WIDER phối hợp với các tổ chức

trong và ngoài nước. Người quản lý hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp thuộc ngành chế

biến, chế tạo được phỏng vấn trực tiếp tại chín tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

bao gồm: Nghệ An, Long An, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Quảng Nam, Hà Nội, thành phố

Hồ Chí Minh, Phú Thọ, và Hải Phòng. Mặt khác, ngoài các đơn vị sản xuất có đăng

ký chính thức với các cơ quan nhà nước, các hộ kinh doanh (không chính thức) cũng

được đưa vào bộ dữ liệu. Đây là các tổ chức không đăng ký tại các chính quyền cấp

quận/huyện, không được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh hoặc không có mã số thuế.

Mẫu dữ liệu ban đầu bao gồm 2.512 doanh nghiệp năm 2011, 2.542 doanh

nghiệp năm 2013 và 2.647 doanh nghiệp năm 2015. Mẫu điều tra năm sau được lặp lại

từ mẫu điều tra năm trước, đồng thời thay thế ngẫu nhiên đối với các tổ chức đã ngừng

hoạt động. Tác giả lọc ra các doanh nghiệp được khảo sát trong cả ba năm; kết quả bao

gồm 1.720 doanh nghiệp được khảo sát lặp lại và 1.749 doanh nghiệp thay thế mới. Để

phân tích chi tiết hơn về tác động của việc mở rộng hoạt động xuất khẩu, các doanh

nghiệp được khảo sát lặp lại sẽ được phân loại thành bốn nhóm: (1) doanh nghiệp xuất

khẩu thường xuyên - doanh nghiệp xuất khẩu trong cả ba năm được khảo sát; (2)

doanh nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên - doanh nghiệp xuất khẩu hai trong số

ba năm được khảo sát; (3) doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên - doanh nghiệp

xuất khẩu trong ít nhất một năm được khảo sát; và (4) doanh nghiệp không xuất khẩu.

Theo đó, ta có 73 doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, 45 doanh nghiệp xuất khẩu

95

tương đối thường xuyên, 40 doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên, 1.562 doanh

nghiệp không xuất khẩu trong tổng số 1.720 doanh nghiệp được khảo sát lặp lại.

4.3.2. Phương pháp nghiên cứu

Để ước tính tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ,

nghiên cứu so sánh số lượng và tỷ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp xuất khẩu

(nhóm tham gia) và các doanh nghiệp chỉ cung ứng sản phẩm nội địa (nhóm đối

chứng). Bởi vì hoạt động xuất khẩu không được chỉ định ngẫu nhiên đối với các doanh

nghiệp, nên việc lựa chọn nhóm tham gia và nhóm đối chứng qua việc xác định các

nhân tố có tương quan với sự tham gia của phụ nữ trong lực lượng lao động có thể đưa

đến sai lệch trong ước lượng (Caliendo & Kopeinig, 2008). Vì vậy, nghiên cứu ứng

dụng phương pháp Propensity Score Matching (PSM) để làm giảm thiểu những sai

lệch tiềm ẩn này trong việc lựa chọn quan sát.

Phương pháp PSM được đề xuất ban đầu bởi Rosenbaum & Rubin (1983), và

sau đó được phát triển bởi nhiều học giả, như Becker & Ichino (2002), Dehejia &

Wahba (2002) và Khandker và cộng sự (2009). Đây là phương pháp xây dựng nhóm

so sánh thống kê trên cơ sở mô hình xác suất tham gia can thiệp, thông qua các đặc

điểm quan sát được. Sau đó, đối tượng tham gia được so sánh với đối tượng không

tham gia căn cứ trên xác suất này (còn được gọi là điểm xu hướng). Hiệu quả can thiệp

trung bình của chương trình được đo lường bằng chênh lệch trung vị trong kết quả

giữa hai nhóm. Theo đó, hai điều kiện để tính hợp lý của PSM thỏa mãn, gồm: 1) tính

độc lập có điều kiện (nghĩa là các yếu tố không quan sát được không tác động đến tình

trạng tham gia); 2) hỗ trợ chung lớn hay sự trùng hợp về điểm xu hướng giữa mẫu các

đối tượng không tham gia và đối tượng tham gia, nhằm đảm bảo các quan sát trong hai

nhóm này có những đặc điểm giống nhau. Vì vậy, PSM giúp chỉ ra được những đặc

điểm quan sát được có tác động đến tình trạng tham gia chương trình (Khandker và

cộng sự, 2009).

Nghiên cứu kết hợp với quan sát đại diện doanh nghiệp không xuất khẩu với

một quan sát đại diện doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách sử dụng xác suất xuất khẩu

(điểm xu hướng) dựa trên những nhân tố kiểm soát được mô tả trong phần trình bày

tổng quan nghiên cứu. Nghiên cứu lần lượt đánh giá tác động của thương mại quốc tế

trong từng nhóm doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, xuất khẩu tương đối thường

96

xuyên và xuất khẩu ít thường xuyên, để so sánh giữa các nhóm doanh nghiệp có mức

độ xuất khẩu khác nhau. Sau đó, việc kiểm định cân bằng được thực hiện để đảm bảo

việc so sánh giữa doanh nghiệp tham gia và doanh nghiệp tương đồng là hợp lý. Cuối

cùng, kết quả nghiên cứu sử dụng phương pháp Kernel Matching và sai số được tính

theo phương pháp Bootstrapped để các quan sát ở nhóm kiểm soát được tận dụng tối

đa khi tính đến yếu tố trọng số của các quan sát và phù hợp với trường hợp mẫu nhỏ

(Caliendo & Kopeinig, 2008).

Quy trình tiến hành đánh giá tác động bằng PSM được thực hiện tuần tự theo

các bước sau:

Bước 1: Thực hiện hồi quy Probit để nhận diện những nhân tố quyết định khả

năng tham gia hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Xác suất ước tính của việc tham

gia (hoặc điểm xu hướng) của mỗi doanh nghiệp được tính toán từ mô hình này.

Phương trình hồi quy được trình bày cụ thể như sau:

𝑛 𝑗=1 𝑋𝑗𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

(8.1) Pr(𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1) = 𝛽0 + ∑ 𝛽𝑗

Trong đó: 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡 biểu thị khả năng tham gia hoạt động xuất khẩu (1 =

Doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu; 0 = Doanh nghiệp không xuất khẩu).

j là biến giải thích thứ j; n là tổng số biến giải thích; i là doanh

nghiệp thứ i, t là năm (tương ứng 2011, 2013, và 2015).

𝑋 đại diện những nhân tố có thể ảnh hưởng đến cả khả năng tham

gia hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và sự tham gia của lao động nữ trong doanh

nghiệp, bao gồm: vốn bình quân lao động, đầu tư cho vốn nhân lực, đặc điểm ngành

nghề, thời gian và quy mô hoạt động của doanh nghiệp, chế độ đãi ngộ lao động, giới

tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp. Đây là các nhân

tố đã được chứng minh có tương quan với sự tham gia của lao động nữ tại chương 3.

Vì vậy, phần trình bày tiếp theo sẽ lý giải nguyên nhân các biến này được lựa chọn,

thông qua ảnh hưởng của chúng đến khả năng tham gia hoạt động xuất khẩu của doanh

nghiệp. Đầu tiên, quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp thường đi kèm với các khoản

đầu tư vốn lớn, nghĩa là vốn bình quân lao động gia tăng (Aw và cộng sự, 2011). Tầm

quan trọng của các yếu tố liên quan đến nhân lực đối với hành vi xuất khẩu của các

doanh nghiệp cũng được khẳng định nghiên cứu trước đây. Tại các quốc gia đang

chuyển đổi, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn

97

cao hơn sẽ có xu hướng và cường độ xuất khẩu lớn hơn (Gashi và cộng sự, 2014).

Tương tự, chế độ đãi ngộ lao động, thể hiện qua tiền lương bình quân thường được

xem xét trong các nghiên cứu về thương mại quốc tế ở cấp doanh nghiệp (Basile,

2001). Bên cạnh đó, đặc điểm ngành nghề - phản ánh qua độ phức tạp trong sản xuất,

được chứng minh có tác động cùng chiều đến hoạt động xuất khẩu (Zou & Stan,

1998a). Ngoài ra, các yếu tố quan trọng khác có tương quan cùng chiều với thương

mại quốc tế có thể kể đến là thời gian và quy mô doanh nghiệp (Bleaney & Wakelin,

2002; Wignaraja, 2002). Cuối cùng, đặc điểm của người sở hữu hoặc quản lý có tác

động đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp, vì vốn xã hội cao sẽ giúp giảm được

rủi ro liên quan đến việc bán hàng ở thị trường quốc tế (Ruzzier và cộng sự, 2007), nên

mạng lưới thông qua các hiệp hội kinh doanh lớn là một lợi thế của doanh nghiệp

trong thương mại quốc tế (Gashi và cộng sự, 2014). Mặt khác, doanh nghiệp do nữ

giới sở hữu thường ít có khả năng xuất khẩu hơn so với các doanh nghiệp được sở hữu

bởi nam giới (Orser và cộng sự, 2010).

Bước 2: Xác định vùng hỗ trợ chung. Trong bước này, một số quan sát của

nhóm đối chứng sẽ được loại bỏ, bởi vì các quan sát này có xác suất ước tính quá cao

hoặc quá thấp. Đồng thời, trong bước này, kiểm định tính cân bằng cũng được thực

hiện, nhằm đảm bảo rằng, trong mỗi khối, điểm xu hướng trung bình và giá trị trung

bình của 𝑋 là không khác biệt, khi so sánh giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng.

Bước 3: Khớp mỗi đối tượng tham gia với một hoặc một số đối tượng không

tham gia, dựa trên điểm xu hướng tương đương khi so sánh, bằng phương pháp khớp

Kernel Matching.

Bước 4: Tính toán giá trị trung bình của từng khác biệt riêng lẻ, để ghi nhận

toàn bộ giá trị trung bình - đây được xem là tác động của hoạt động xuất khẩu đến các

đối tượng tham gia. Tác động can thiệp trung bình đối với nhóm can thiệp (Average

effect of Treatment for the Treated – ATT) có thể được ước tính bằng công thức sau:

𝐴𝑇𝑇𝑡 = 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃1𝑖𝑡 − 𝐹𝐿𝐹𝑃0𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1)

(8.2) = 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃1𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1) − 𝐸(𝐹𝐿𝐹𝑃0𝑖𝑡|𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 = 1)

Trong đó: 𝐹𝐿𝐹𝑃1và 𝐹𝐿𝐹𝑃0 lần lượt đại diện cho sự tham gia của phụ nữ vào lực

lượng lao động (đo lường bằng hai cách: (1) số lượng lao động nữ; hoặc (2) tỷ lệ lao

98

động nữ trên tổng số lao động). i là doanh nghiệp thứ i, t là năm (tương ứng 2011,

2013, và 2015).

Quy trình tiến hành đánh giá tác động bằng PSM sẽ được thực hiện lần lượt

trong từng nhóm doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, tương đối thường xuyên và ít

thường xuyên. Nghĩa là, luận án sẽ so sánh giữa doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên

và doanh nghiệp không xuất khẩu; hoặc so sánh giữa doanh nghiệp xuất khẩu tương

đối thường xuyên và doanh nghiệp không xuất khẩu; hoặc so sánh giữa doanh nghiệp

xuất khẩu ít thường xuyên và doanh nghiệp không xuất khẩu.

Biến “số lượng lao động nữ” được sử dụng để xem xét liệu doanh nghiệp càng

xuất khẩu thường xuyên thì có càng tuyển thêm lao động nữ hay không? Trong khi đó,

biến “tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao động” dùng để dự đoán sự thay đổi của tình

trạng phân biệt đối xử. Nguyên nhân là do theo mô hình phân biệt đối xử dựa trên

khẩu vị của Becker (1971), nếu người chủ lao động có khẩu vị phân biệt đối xử đối với

lao động nữ, thì họ sẵn sàng giảm lợi nhuận để tuyển dụng lao động nam thay vì lao

động nữ. Như vậy, sự thay đổi tỷ lệ lao động nữ có thể phản ánh phân biệt đối xử trong

doanh nghiệp. Cách lập luận này đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây

(tham khảo Chen và cộng sự (2017)). Tuy nhiên, việc sử dụng tỷ lệ lao động nữ làm

thước đo phân biệt đối xử còn tồn tại nhiều bất cập, và sẽ được trình bày rõ hơn trong

nội dung hạn chế của nghiên cứu tại chương 6.

99

Bảng 4.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 4

Tên biến Ý nghĩa Đo lường

FLFP1 Sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động theo quy mô

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng số lao động nữ trong doanh nghiệp (đơn vị tính trước khi lấy logarit: người)

FLFP2 Sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động theo tỷ trọng Được tính bằng tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động trong doanh nghiệp (đơn vị tính: %)

Export = 1 nếu doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu Xem xét doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu hay không? = 0 nếu ngược lại

Capital per worker Vốn bình quân lao động

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng vốn chia cho tổng số lao động (vào thời điểm cuối năm) (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng/người)

Human capital investment Đầu tư cho vốn nhân lực = 1 nếu doanh nghiệp có đầu tư cho vốn nhân lực

= 0 nếu ngược lại

Female manager = 1 nếu người quản lý/ chủ sở hữu doanh nghiệp là nữ giới Xem xét người quản lý hoặc chủ sở hữu của doanh nghiệp có phải là nữ giới hay không? = 0 nếu ngược lại

VSIC Đặc điểm ngành nghề của doanh nghiệp = 1 nếu ngành nghề doanh nghiệp hoạt động thâm dụng lao động nữ

= 0 nếu ngành nghề doanh nghiệp hoạt động thâm dụng

100

lao động nam

Network Thông tin về kết nối mạng lưới của doanh nhân.

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng số người mà doanh nhân có liên hệ thường xuyên ít nhất 03 tháng 01 lần, bao gồm: đối tác trong cùng lĩnh vực, đối tác khác lĩnh vực, nhân viên tổ chức tài chính, nhân viên công vụ và một số đối tượng khác (đơn vị tính trước khi lấy logarit: người)

Association = 1 nếu là thành viên của ít nhất 01 hiệp hội.

= 0 nếu ngược lại. Xem xét người quản lý/ chủ sở hữu doanh nghiệp có là thành viên của một hiệp hội nào hay không.

Salary Tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tiền lương bình quân tháng mà doanh nghiệp chi trả cho một người lao động sản xuất (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng)

Firm age Số năm hoạt động của doanh nghiệp

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của số năm hoạt động của doanh nghiệp tính đến năm được khảo sát (đơn vị tính trước khi lấy logarite: năm)

Firm size Quy mô doanh nghiệp

Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất

Được tính bằng logarit cơ số tự nhiên của tổng tài sản doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm (đơn vị tính trước khi lấy logarit: triệu đồng)

101

4.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

4.4.1. Thống kê mô tả

Bảng 4.2 cho thấy các doanh nghiệp trong dữ liệu nghiên cứu có tỷ lệ lao động

nữ thấp, ít đầu tư vào vốn nhân lực, và không tham gia nhiều vào các hiệp hội ngành

nghề. Đồng thời, đây đa số là các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa nội địa, hoạt động

trong các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nam, và có người chủ sở hữu hoặc quản

lý là nam giới.

Bảng 4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 4

Tên biến

Ghi chú:

Sự khác nhau về số lượng quan sát trong bảng 4.2 giữa các biến là do dữ liệu bị thiếu.

Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 4.1.

FLFP1 FLFP2 Export Capital per worker Human capital investment Female manager VSIC Network Association Salary Firm age Firm size Toàn bộ dữ liệu Trung bình Độ lệch chuẩn Số quan sát 28,736 0,260 0,251 607,008 0,302 0,487 0,444 52,758 0,277 1,739 9,780 2.460 7,165 0,381 0,068 384,396 0,101 0,387 0,270 36,734 0,084 2,699 16,069 5.829 5.160 5.160 5.160 5.159 5.157 5.160 5.160 5.160 5.160 4.746 5.160 5.159

Trong đó, các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất trang phục, dệt; cao su; hóa

chất; sản phẩm điện tử; và sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại có số lượng

(hoặc tỷ lệ) lao động nữ cao (Phụ lục 4.1). Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu trong

nhiều năm hơn sẽ có số lao động nữ bình quân mỗi doanh nghiệp cao hơn; tương tự

nếu xét về tỷ lệ lao động nữ (Phụ lục 4.2). Xét cụ thể hai ngành có số lượng và tỷ lệ

lao động nữ bình quân mỗi doanh nghiệp cao là sản xuất trang phục và dệt, thì đây

cũng là những ngành xuất khẩu liên tục trong nền kinh tế Việt Nam (Phụ lục 4.3).

4.4.2. Kết quả nghiên cứu

Bảng 4.3 trình bày kết quả ước lượng Probit trong nhóm các doanh nghiệp xuất

khẩu thường xuyên cho thấy nếu vốn bình quân lao động tăng 1% sẽ làm giảm xác

suất tham gia thương mại quốc tế của doanh nghiệp 69,7% năm 2011, 52,6% năm

2013 và 63,6% năm 2015. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu tại các quốc gia

102

đang phát triển nơi vốn khan hiếm (Van Dijk, 2002). Ngược lại, các doanh nghiệp

thâm dụng lao động nữ sẽ tăng cường xuất khẩu; cụ thể nếu gia tăng 1% tỷ lệ lao động

nữ trong doanh nghiệp thì xác suất xuất khẩu tăng 37,6% năm 2011, 38,6% năm 2013

và 47,1% năm 2015. Đặc điểm ngành nghề được chứng minh có ảnh hưởng đến hoạt

động xuất khẩu (Cavusgil & Zou, 1994). Tương tự, quy mô tài sản doanh nghiệp càng

lớn thì càng tăng cường giao thương quốc tế. 1% gia tăng trong quy mô sẽ dẫn đến xác

suất xuất khẩu tăng 81,3% năm 2011, 66,7% năm 2013 và 67,6% năm 2015; xác nhận

rằng quy mô là một nhân tố trọng yếu ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu (Sousa và

cộng sự, 2018). Điều này có thể giải thích là vì doanh nghiệp đã cải thiện được khả

năng nắm bắt cơ hội và giải quyết rủi ro (Bonaccorsi, 1992; Leonidou, 1998;

Sterlacchini, 2001; Wagner, 1995).

2011

2013

2015

se 0,067*** 0,162 0,148 0,158** 0,104*** 0,184 0,176 0,141 0,070*** 1,668***

β -0,697 0,164 -0,069 0,376 -0,300 0,443 -0,069 -0,179 0,813 -3,972 1.623 243,92 0,0000 -166,558 0,4227

β -0,526 -0,124 -0,166 0,386 -0,280 0,302 0,041 -0,162 0,667 -4,433 1.247 163,91 0,0000 -187,644 0,3040

se 0,078*** 0,216 0,147 0,164*** 0,096 0,192 0,150 0,165 0,072*** 1,406***

se β Capital per worker 0,079*** -0,636 Human capital investment 0,225 0,075 Female manager 0,162 -0,171 VSIC 0,166** 0,471 Network 0,107*** 0,056 Association 0,184*** 0,198 Salary 0,146 0,113 Firm age 0,129 -0,063 Firm size 0,081*** 0,676 _cons 1,305*** -5,282 Số quan sát 1.590 LR chi2 (9) 213,53 Prob>chi2 0,0000 Log likelihood -185,405 0,3642 Pseudo R2 Ghi chú: Biến phụ thuộc là Export. Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 4.1. se là sai số chuẩn.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Bảng 4.3. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên

Bảng 4.4 trình bày kết quả ước lượng Probit trong nhóm các doanh nghiệp xuất

khẩu tương đối thường xuyên. Vốn bình quân doanh nghiệp, đặc điểm ngành nghề

thâm dụng lao động nữ và quy mô tài sản vẫn là nhân tố có tác động mạnh đến xác

suất doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Ngoài ra, thời gian hoạt động của doanh nghiệp

càng lâu thì nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ tăng cường xuất khẩu (LiPuma và cộng

sự, 2013; Shinkle & Kriauciunas, 2010), với xác suất tăng lên tương ứng 29,2% năm

2011, 40,7% năm 2013 và 26,0% năm 2015.

103

2015

2013

2011

β

se

se 0,082** 0,170 0,158 0,179** 0,107 0,200* 0,194 0,149*** 0,074*** 1,846***

β -0,183 0,106 0,046 0,422 0,058 0,363 0,086 0,407 0,323 -6,801 1.222 48,13 0,0000 -148,647 0,1393

β -0,255 -0,176 -0,017 0,515 -0,195 0,321 0,235 0,292 0,245 -4,902 1.597 31,66 0,0002 -104,535 0,1315

-0,512 0,105*** 0,306 0,104 0,216 0,072 0,261** 0,627 0,139 0,146 0,333 -0,251 0,398 0,569 0,241 0,260 0,629 0,102*** -11,754 3,402*** 1.561 97,23 0,0000 -83,635 0,3676

se Capital per worker 0,095*** Human capital investment 0,405 Female manager 0,191 VSIC 0,220** Network 0,134 Association 0,253 Salary 0,143 Firm age 0,149** Firm size 0,090*** _cons 1,364*** Số quan sát LR chi2 (9) Prob>chi2 Log likelihood Pseudo R2 Ghi chú: Biến phụ thuộc là Export. Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 4.1. se là sai số chuẩn.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Bảng 4.4. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên

2015

2013

2011

β -0,528 0,728 0,026 0,118 -0,269 0,582 0,253 -0,229 0,449 -3,274 1.555 97,52 0,0000 -87,446 0,3580

se 0,188 0,467 0,366 0,371 0,222 0,506 0,333 0,317 0,169** 3,470**

se 0,185 . 0,414 . 0,316** 0,465** 0,461 0,342 0,188 4,236

β -0,188 . -0,460 . -0,649 0,914 -0,052 0,336 0,166 -0,882 568 11,82 0,1066 -27,360 0,1776

β -0,069 0,394 0,180 -0,212 0,059 -0,035 0,003 -0,126 0,397 -7,946 1.593 18,02 0,0350 -24,803 0,2664

se 0,108*** 0,242*** 0,207 0,214 0,152* 0,235** 0,284 0,251 0,092*** 2,470

Capital per worker Human capital investment Female manager VSIC Network Association Salary Firm age Firm size _cons Số quan sát LR chi2 (9) Prob>chi2 Log likelihood Pseudo R2 Ghi chú: Biến phụ thuộc là Export. Tên biến được diễn giải chi tiết tại bảng 4.1. se là sai số chuẩn.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Bảng 4.5. Hồi quy Probit - Doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên

Tuy nhiên, đối với nhóm các doanh nghiệp chỉ có xuất khẩu tại duy nhất một

trong ba năm được khảo sát, nghiên cứu tìm thấy bằng chứng thương mại quốc tế phụ

thuộc vào những nhân tố khác, ngoài những nhân tố đã xác định trong nhóm doanh

nghiệp xuất khẩu thường xuyên và tương đối thường xuyên (Bảng 4.5).

104

Bảng 4.6 trình bày tác động của thương mại quốc tế đến sự tăng trưởng số

lượng lao động nữ đối với từng nhóm doanh nghiệp với những mức độ xuất khẩu khác

nhau. Tối thiểu 28,1% và tối đa 84,6% lao động nữ tăng là do hoạt động xuất khẩu.

Nghĩa là, số lượng lao động nữ tại các doanh nghiệp xuất khẩu tăng đáng kể so với

doanh nghiệp không xuất khẩu. Kết quả tại Việt Nam này phù hợp với phát hiện của

Chen và cộng sự (2017) và Korinek (2005) rằng doanh nghiệp cung cấp hàng hóa ra

thị trường nước ngoài làm tăng nhu cầu tuyển dụng lao động nữ.

Bảng 4.6. Tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ xét

2015

2011 se

2013 ATT T C se 0,631 0,131 70 750 0,600 0,175 39 710 307 0,846 0,460 6

0,281 0,502 5

ATT T C se 0,660 0,092 72 400 0,755 0,263 26 395 0,483 0,186 27 337

ATT T C High 0,414 0,109 70 386 Medium 0,630 0,297 23 881 Low 425 Ghi chú: ATT là tác động can thiệp trung bình. se là sai số chuẩn.

T là số trường hợp trong nhóm can thiệp, C là số trường hợp trong nhóm đối chứng.

High, Medium và Low tương ứng với nhóm doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, tương đối

thường xuyên và ít thường xuyên.

về quy mô

Bảng 4.6 cho thấy giá trị ATT bình quân của nhóm các doanh nghiệp xuất khẩu

thường xuyên và tương đối thường xuyên (61,5%) cao hơn giá trị ATT bình quân của

nhóm doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên (53,7%). Đồng thời, quy mô tác động

của thương mại quốc tế đến nhóm các doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên và tương

đối thường xuyên ít thay đổi; trong khi đó, giá trị ATT ước tính của nhóm doanh

nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên dao động mạnh qua các năm. Như vậy, việc mở

rộng hoạt động xuất khẩu làm tăng số lao động nữ trong doanh nghiệp, và có ảnh

hưởng ổn định hơn đối với doanh nghiệp duy trì xuất khẩu qua các năm.

Bảng 4.7 trình bày tác động của thương mại quốc tế đến tỷ trọng lao động nữ

đối với từng nhóm doanh nghiệp có những mức độ xuất khẩu khác nhau. Theo đó,

thương mại quốc tế cũng có tác động làm gia tăng tỷ lệ lao động nữ trong doanh

nghiệp (Chen và cộng sự, 2017; Ederington và cộng sự, 2009), với tối thiểu 4,8% và

tối đa 12,6% gia tăng trong tỷ lệ này là do doanh nghiệp cung ứng hàng hóa ra thị

trường quốc tế (trừ giá trị ATT của nhóm xuất khẩu ít thường xuyên năm 2011 là

không đáng kể).

105

Bảng 4.7. Tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ xét

2015

2011 se

2013 ATT T C se 0,116 0,031 70 750 0,081 0,036 39 710 307 0,048 0,114 6

0,000 0,089 5

ATT T C se 0,110 0,037 72 400 0,061 0,053 26 395 0,064 0,069 27 337

ATT T C High 0,094 0,042 70 386 Medium 0,126 0,042 23 881 Low 425 Ghi chú: ATT là tác động can thiệp trung bình.se là độ lệch chuẩn.

T là số trường hợp trong nhóm can thiệp, C là số trường hợp trong nhóm đối chứng.

High, Medium và Low tương ứng với nhóm doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, tương đối

thường xuyên và ít thường xuyên.

về tỷ trọng

Bên cạnh đó, sự khác biệt bình quân trong nhóm doanh nghiệp xuất khẩu

thường xuyên và nhóm xuất khẩu tương đối thường xuyên là 9,8%, cao hơn so với giá

trị trung bình của nhóm doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên (3,7%). Như vậy,

mặc dù các nhóm doanh nghiệp với mức độ xuất khẩu khác nhau có nhóm đối chứng

khác nhau, nhưng kết quả cho thấy nếu hoạt động xuất khẩu càng mở rộng thì tình

trạng phân biệt đối xử về giới trong việc làm sẽ càng được cải thiện. Điều này phù hợp

với phát hiện của Chen và cộng sự (2017), theo cơ chế giải thích của Ederington và

cộng sự (2009) về việc cạnh tranh tác động đến phân biệt đối xử là do hiệu ứng co

giãn. Cụ thể, nếu cầu sản phẩm càng co giãn, thì chi phí của hành vi phân biệt đối xử

càng cao. Chi phí tăng sẽ ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm, làm giảm năng lực cạnh

tranh, dẫn đến thu hẹp thị phần và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

giảm; vì vậy buộc doanh nghiệp phải cắt giảm chi phí và tuyển dụng thêm nhiều lao

động nữ. Kết quả này phù hợp với những nhận định của Krugman (1979). Trong khi

đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, ví dụ như hàng dệt may, và sản

phẩm điện tử (WB, 2020) bị cạnh tranh gay gắt bởi nhiều quốc gia trên thế giới. Cụ

thể, trong ngành dệt, tỷ trọng Việt Nam trong kim ngạch xuất khẩu thế giới tăng từ

0,2% năm 2000 lên đến 1,2% năm 2010 và 3,2% năm 2021, nhưng vẫn thấp hơn rất

nhiều so với thị phần của Trung Quốc có xu hướng tăng và đạt 41,4% năm 2021

(WTO, 2016, 2021, 2022) (Phụ lục 4.8). Tương tự, thị phần xuất khẩu của ngành sản

xuất trang phục Việt Nam đạt 5,8% năm 2021; trong khi các đối thủ cạnh tranh lớn

như Trung Quốc và Liên minh Châu Âu vẫn chiếm thị phần lớn trong kim ngạch xuất

khấu cùng năm (WTO, 2016, 2021, 2022) (Phụ lục 4.9). Tương tự Aguayo-Tellez và

cộng sự (2014), trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy tự do hóa thương mại

106

ủng hộ những ngành thâm dụng lao động nữ, thể hiện tác động cùng chiều của thương

mại quốc tế đối với sự tham gia của lao động nữ.

4.5. Kết luận và hàm ý chính sách

Thương mại quốc tế giữ vị trí như một tác nhân tạo nên tính cạnh tranh của kinh

tế các quốc gia, với những ảnh hưởng đến trực tiếp đến lao động nam và nữ trong thị

trường lao động. Theo đó, sự cạnh tranh sẽ làm giảm phân biệt đối xử về giới trong dài

hạn (Becker, 1971). Tuy nhiên, thực tế cho thấy mặc dù tình trạng này đã được cải

thiện, nhưng hiện vẫn rất nghiêm trọng. Điều này mang lại nhiều thách thức đối với

các nhà hoạch định cơ chế chính sách, nhà điều hành doanh nghiệp và những đối

tượng có liên quan. Đồng thời, không nhiều các nghiên cứu trước đây xem xét ảnh

hưởng trực tiếp của thương mại quốc tế đến chênh lệch trong việc làm, do chỉ tập

trung phân tích chênh lệch về tiền lương trong bối cảnh tăng cường tự do hóa thương

mại.

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thu hẹp khoảng cách nghiên cứu nêu trên,

bằng cách phân tích tác động của thương mại quốc tế đến việc làm của phụ nữ trong

thị trường. Việt Nam là một tình huống thú vị vì quốc gia này đang trong tự do hóa

thương mại mạnh mẽ, với tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại dù tương đối thấp, và tỷ

lệ lao động nữ khá cao. Nghiên cứu sử dụng phương pháp PSM để so sánh sự tham gia

của lao động nữ trong các doanh nghiệp xuất khẩu và các doanh nghiệp chỉ cung ứng

sản phẩm nội địa.

Luận án cho thấy hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài của

doanh nghiệp sẽ giúp làm gia tăng sự tham gia của lao động nữ. Bên cạnh đó, nếu

doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất khẩu, thì tình trạng phân biệt đối xử về giới

trong việc làm sẽ được cải thiện. Vì vậy, các chính sách giải quyết việc làm và bình

đẳng giới về việc làm trong tương lai nên thực hiện song song với các chính sách

khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường nước ngoài.

107

CHƯƠNG 5. CHÊNH LỆCH GIỚI TRONG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG HỘ

GIA ĐÌNH VIỆT NAM: VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

VÀ MỨC SINH

Nội dung chương này tập trung giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ ba của luận

án. Đầu tiên, luận án tổng quan ngắn gọn về các nghiên cứu có liên quan. Sau đó, cách

thức đo lường chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình được

giới thiệu - Đây là biến giải thích quan trọng trong mô hình kiểm định. Phần tiếp theo

trong chương này, luận án sẽ thảo luận về phương pháp hồi quy, và dữ liệu nghiên

cứu. Dựa trên mô hình ước lượng được phát triển, mối tương quan giữa thương mại

quốc tế, mức sinh và khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực lượng lao động của

hộ gia đình được phân tích; để đưa đến những kết luận chính của chương.

5.1. Giới thiệu

Trong thời gian gần đây, sự tham gia của lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ đã kết

hôn, có xu hướng tăng liên tục (Cohen & Blanchi, 1999; Goldin, 2021). Tỷ lệ lao động

nữ đã tiệm cận với tỷ lệ lao động nam tại một số quốc gia (Bergmann, 2005; Bianchi

& Spain, 1986; Spain & Bianchi, 1996). Tuy nhiên, phụ nữ vẫn phải đối mặt với tình

trạng phân biệt đối xử trong lực lượng lao động, và luôn nhận được mức lương thấp

hơn nam giới có cùng trình độ (Doan và cộng sự, 2023; Marini & Fan, 1997;

McAllister, 1990; Shelton & John, 1996). Đồng thời, công việc do lao động nữ đảm

nhận thường có địa vị thấp hơn lao động nam (Chaffins, Forbes, Fuqua Jr, & Cangemi,

1995), nên mức độ thỏa mãn công việc và phần thưởng vật chất cũng ít hơn ((Blau &

Kahn, 2017). Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phụ nữ phải nỗ lực

trong công việc hơn so với nam giới (Bielby & Bielby, 1988), nhưng lại chịu nhiều rào

cản cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp (ILO, 2015a).

Việc nữ giới đảm nhận công việc có trả lương phản ánh sự thay đổi quan trọng

trong vai trò giới theo tư tưởng bình đẳng hơn (Presser, 1994); nhưng phân công lao

động trong hộ gia đình không thay đổi ở mức độ tương ứng (Brines, 1994), mặc dù

thời gian làm việc nhà của người chồng đã tăng (Brayfield, 1992; Goldscheider &

Waite, 1991; Presser, 1994). Người vợ vẫn giữ trách nhiệm chính đối với việc nội trợ

(Bianchi và cộng sự, 2000; Coltrane, 2000). Trước đây đã có nhiều học giả nghiên cứu

về vấn đề phân công lao động trong hộ gia đình (Braun và cộng sự, 2008; Calasanti &

108

Bailey, 1991; Cohen, 2004; Fuwa, 2004; Greenstein, 1996; McAllister, 1990). Tuy

nhiên, ít nghiên cứu định lượng về khoảng cách giới về tiền lương và thời gian làm

việc giữa vợ và chồng.

Thương mại quốc tế được kỳ vọng là một trong những cách để làm giảm phân

biệt đối xử trong tham gia của lao động nữ (Becker, 1971; Black & Brainerd, 2004;

Juhn và cộng sự, 2013; Korinek, 2005; Neumayer & De Soysa, 2007); dựa trên cơ chế

thương mại quốc tế làm gia tăng cạnh tranh thông qua hiệu ứng co giãn (Ederington và

cộng sự, 2009). Nhiều nghiên cứu cho thấy thương mại quốc tế thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế (Berik và cộng sự, 2009; Klasen & Lamanna, 2009; Seguino & Grown, 2006),

nên tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng giới sẽ giảm (Fontana và cộng sự, 1998).

Trong khi đó, mức sinh cao lại có thể là một trong những lý do kiềm hãm sự

tham gia của người nữ vào thị trường lao động (Ahn & Mira, 2002; Bloom và cộng sự,

2009; Bumpass, 1990), đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển, nơi thường có mức

sinh cao (Agüero & Marks, 2011; Heath & Jayachandran, 2016; Klasen, 2019; Verick,

2014). Lý giải của vấn đề này là do truyền thống vai trò trung tâm của người mẹ trong

xã hội (Rindfuss & Brewster, 1996). Theo đó, người nữ phải quyết định một trong hai

lựa chọn: (1) đầu tư tiền cho con, nghĩa là gia tăng cung lao động và dùng tiền kiếm

được để sử dụng các dịch vụ chăm sóc trẻ em; (2) đầu tư thời gian cho con, nghĩa là

giảm cung lao động, và dùng thời gian thay vì đi làm để chăm sóc con (Heath, 2017).

Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu đo lường tác động đồng thời của

thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh lệch giới trong lực lượng hộ gia đình ở

quốc gia đang phát triển, làm tiền đề cho các nghiên cứu về chênh lệch giới dưới tác

động đồng thời của các nhân tố quan trọng. Việt Nam là một trường hợp nghiên cứu

thú vị vì quốc gia này có tỷ lệ lao động nữ cao, với khoảng 72% nữ giới tham gia vào

lực lượng lao động (General Statistics Office, 2019). Trong khi đó, quốc gia này đã

từng bước tiến hành tự do hóa thương mại và đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong

hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu (Sebastian, Gabriel, & Diji, 2016). Tỷ

trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP tăng từ 6,6% năm 1986 - thời điểm bắt đầu

thực hiện chính sách Đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường - lên đến 50% vào năm

2000 trước khi vượt mức 100% vào năm 2017 (WB, 2022). Đồng thời, tỷ trọng trong

thương mại toàn cầu tăng từ 0,03% năm 1988 lên đến 1,43% năm 2017 (OECD,

109

2021). Cũng trong khoảng thời gian này, mức sinh của Việt Nam đã giảm gần một nửa

trong vòng 30 năm qua, từ 3,80 con/phụ nữ vào năm 1989 xuống còn 2,09 con/phụ nữ

vào năm 2019 (General Statistics Office, 2020).

Đóng góp chính của luận án tại chương này thể hiện ở ít nhất ba khía cạnh. Thứ

nhất, nghiên cứu thực hiện đánh giá đồng thời tác động của thương mại quốc tế và

mức sinh đến khoảng cách giới về tiền lương và thời gian làm việc tại các hộ gia đình

ở một nước đang phát triển. Thứ hai, chỉ số đo lường mức độ tham gia vào thương mại

quốc tế ở cấp độ hộ gia đình - đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021) - đã khắc phục được

nhược điểm của các bộ chỉ số về tự do thương mại quốc tế trước đây vì đo lường được

khả năng đáp ứng của hộ gia đình trước các cơ hội mới do thương mại quốc tế mang

lại (Cavallo & Frankel, 2008; Squalli & Wilson, 2011). Thứ ba, việc sử dụng nhiều bộ

dữ liệu VHLSS giai đoạn 2002 - 2016 (thời gian ghi nhận hầu hết các chính sách cải

cách thương mại của Việt Nam) giúp so sánh ảnh hưởng của mở cửa thương mại và

mức sinh tại những thời điểm khác nhau, đặc biệt là trước và sau khủng hoảng toàn

cầu năm 2008.

Kết quả nghiên cứu trình bày thương mại quốc tế giúp giảm chênh lệch giới về

thời gian làm việc theo hướng có lợi cho người nữ, phù hợp với tổng quan nghiên cứu

tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Đồng thời, cắt giảm thuế quan có ảnh

hưởng đến thời gian làm việc của người nữ nhanh hơn giá trị xuất khẩu, vì giá trị xuất

khẩu thường đi sau sự thay đổi trong thuế quan. Trong khi đó, thương mại quốc tế lại

làm tăng chênh lệch giới về tiền lương; nguyên nhân có thể do sức ép từ các đối thủ

cạnh tranh quốc tế buộc doanh nghiệp phải giải quyết khó khăn bằng cắt giảm chi phí

tiền lương của lao động nữ làm việc trong các ngành có mức độ tập trung cao, ít chịu

cạnh trạnh bởi đối thủ trong nước.

Mặt khác, kết quả xác nhận lại lý thuyết về mối tương quan ngược chiều giữa

mức sinh và sự tham gia của lao động nữ, khi hộ gia đình có thêm con nhỏ dưới 6 tuổi

thì chênh lệch giới về thời gian làm việc tăng. Trong trường hợp này, người nữ Việt

Nam lựa chọn chăm sóc con thay vì đi làm. Tuy nhiên, tổng số con lại giúp thu hẹp

chênh lệch giới về thời gian làm việc. Nguyên nhân là do khi con lớn thì khả năng

tham gia vào lực lượng lao động của người mẹ có thể tăng. Tuy nhiên, việc có thêm

con nhỏ không ảnh hưởng đến chênh lệch giới về tiền lương trong hộ.

110

Như vậy, việc có con nhỏ ngăn cản người nữ tham gia vào thị trường lao động,

mặc dù thương mại quốc tế đã tạo ra nhiều việc làm hơn cho họ. Tỷ lệ thời gian làm

việc của người vợ so với chồng chỉ tăng lên nếu con đã qua 6 tuổi. Khi đó, cả thương

mại quốc tế và mức sinh đều làm giảm khoảng cách giới về thời gian làm việc.

Những yếu tố khác có tác động đến sự tham gia của lao động nữ có thể kể đến

là thu nhập và trình độ học vấn của người chồng, và việc sống chung với người có khả

năng hỗ trợ chăm sóc trẻ khi người mẹ đi làm.

Phần còn lại của chương này được cấu trúc như sau: Mục 2 sẽ cung cấp tổng

quan nghiên cứu. Phần kế tiếp sẽ mô tả dữ liệu, và các phương pháp được sử dụng.

Mục 4 sẽ trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận. Cuối cùng, Mục 5 sẽ điểm lại các

kết luận chính, đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu tương lai.

5.2. Tổng quan nghiên cứu

5.2.1. Khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực lượng lao động của hộ gia đình

Nếu như trong thị trường lao động có trả lương diễn ra hai xu hướng phân biệt

đối xử về giới - về tiền lương hoặc về thời gian làm việc (Azmat & Petrongolo, 2014;

Chen và cộng sự, 2017; Goldin & Katz, 2008), thì trong hộ gia đình tồn tại hai khoảng

cách giới tương ứng giữa các cặp vợ chồng. Việc chăm sóc con và hoàn thành việc nhà

đã ảnh hưởng đến công việc mà người phụ nữ đảm nhận trong thị trường lao động

(Kalleberg & Rosenfeld, 1990), nên họ sẽ có thời gian làm việc và thu nhập nhận được

thấp hơn so với người chồng. Mặc dù sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ

đã gia tăng nhờ vào sự xuất hiện của các dịch vụ, sản phẩm và công nghệ giúp làm

giảm nghĩa vụ nội trợ và tăng nhu cầu lao động nữ trong thị trường (Coen-Pirani và

cộng sự, 2010; Cohen, 1998; Cohen & Blanchi, 1999; Cotter và cộng sự, 2001;

Presser, 1999; Uttal, 2002), sự phân công lao động trong hộ gia đình vẫn bất cân bằng

và phụ thuộc vào nhận thức về giới (Bianchi và cộng sự, 2000; Orloff, 2002). Phụ nữ

vẫn đảm nhận chính trong việc nội trợ (Batalova & Cohen, 2002; Bianchi và cộng sự,

2000; Coltrane, 2000). Mặc dù thời gian phụ nữ đầu tư cho việc nhà đã giảm

(Brayfield, 1992; Goldscheider & Waite, 1991; Presser, 1994), nhưng thời gian gia

tăng của nam giới dành cho việc nhà không đủ bù đắp cho sự sụt giảm đó (Coltrane,

2000; Gershuny & Sullivan, 2003); ngoại trừ đối với những người chồng có trình độ

cao (Klumb, Hoppmann, & Staats, 2006). Dưới tác dụng của giáo dục, với học vấn tốt

111

hơn, nam giới sẽ đảm nhận nhiều công việc nhà hơn, vì họ ít bị ảnh hưởng bởi định

kiến giới, hoặc vì họ có nhiều nguồn lực thời gian hơn (Coverman, 1985).

5.2.2. Tác động của thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế là nhân tố tác động quan trọng đến sự tham gia của lao

động nữ (Becker, 1971), và do đó có ảnh hưởng đến khoảng cách giới về tiền lương và

thời gian làm việc trong hộ gia đình. Cơ chế tác động được giải thích bằng hai hướng:

Đối với hướng tiếp cận thứ nhất, Chen và cộng sự (2017) trình bày cơ chế tác

động của thương mai quốc tế đến sự tham gia của lao động nữ thông qua mô hình ba

yếu tố sản xuất chính, bao gồm: (1) lao động thể chất (là yếu tố sản xuất mà chỉ lao

động nam mới có), (2) lao động trí óc (là yếu tố sản xuất mà lao động nam và lao động

nữ có năng lực như nhau), (3) vốn (là yếu tố sản xuất chỉ bổ sung cho lao động trí óc)

(Chen là cộng sự (2017) mở rộng lý thuyết của Galor & Weil (1996)). Tác giả lập luận

rằng giá của yếu tố lao động thể chất và lao động trí óc chịu ảnh hưởng không chỉ từ

nhân tố nội địa mà còn từ yếu tố sản xuất của các quốc gia đối tác thương mại. Nếu

mức vốn bình quân của quốc gia đối tác cao hơn so với trong nước, thì thu nhập của

lao động trí óc của quốc gia đối tác sẽ cao hơn so với trong nước. Căn cứ định lý cân

bằng giá nhân tố sản xuất, giá của lao động trí óc trong nước sẽ tăng dưới điều kiện mở

cửa thương mại. Trong khi đó, giá lao động thể chất không đổi. Do đó, thương mại

quốc tế giúp cải thiện tiền lương tương đối của lao động nữ so với lao động nam, quy

mô lực lượng lao động nữ sẽ tăng; kéo theo sự thay đổi khoảng cách giới trong hộ gia

đình.

Đối với hướng tiếp cận thứ hai, lý thuyết của Winters (2002) chứng minh ảnh

hưởng của thương mại quốc tế đến vấn đề xóa đói giảm nghèo phụ thuộc vào độ co

giãn cung lao động. Trong một số điều kiện cụ thể, nếu cung lao động cố định hoàn

toàn, tiền lương thực sẽ gia tăng nếu sản xuất hàng hóa gia tăng khi tự do hóa thương

mại. Ngược lại, khi cung lao động co giãn hoàn toàn, tiền lương sẽ cố định, và việc

điều chỉnh diễn ra về mặt việc làm, nghĩa là người lao động sẽ dịch chuyển giữa các

ngành để theo đuổi mức lương cao hơn. Kết nối lý thuyết này với sự tham gia vào lực

lượng lao động của phụ nữ, Winters & Martuscelli (2014) cho rằng tiền lương của phụ

nữ - một trong những yếu tố quan trọng quyết định tình trạng giàu nghèo của một hộ

gia đình - chịu ảnh hưởng bởi tự do hóa thương mại. Đồng thời, trong bối cảnh nền

112

kinh tế mở, phân biệt đối xử là tốn kém đối với người sử dụng lao động (Becker,

1971). Khi đối mặt với áp lực gia tăng từ cạnh tranh quốc tế làm cầu sản phẩm co giãn,

các doanh nghiệp sẽ cắt giảm chi phí liên quan đến phân biệt đối xử; vì vậy, chênh

lệch tiền lương theo giới giảm (Ederington và cộng sự, 2009), hoặc doanh nghiệp

chuyển hướng tuyển dụng thêm nhiều lao động nữ (Krugman, 1979). Tất cả những

điều này sẽ dẫn đến những thay đổi trong khoảng cách giới tại các hộ gia đình.

5.2.3. Tác động của mức sinh

Nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ lao động nữ thấp có tương quan với mức sinh

cao (Angrist & Evans, 1998; Bloom và cộng sự, 2009; Cruces & Galiani, 2007). Điều

này được lý giải thông qua lý thuyết khoảng cách giới, mức sinh và tăng trưởng của

Galor & Weil (1996). Cụ thể, Galor & Weil (1996) cho rằng quyết định sinh con phụ

thuộc vào mức lương tương đối của phụ nữ và nam giới. Tiền lương cao hơn của phụ

nữ dẫn đến chi phí chăm sóc trẻ em gia tăng nhiều hơn so với thu nhập của hộ gia

đình, và do đó người nữ lựa chọn đi làm thay vì chăm sóc con, hệ quả là số lượng con

của mỗi cặp vợ chồng sẽ giảm. Như vậy, tăng sự tham gia của lao động nữ có tương

quan đến việc giảm mức sinh của hộ.

Tuy nhiên, hiện có một số nghiên cứu khẳng định tại một số quốc gia có mức

sinh cao nhưng tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của nữ giới cũng cao, và ngược

lại (Ahn & Mira, 2002; Hilgeman & Butts, 2009; Rindfuss và cộng sự, 2003).

5.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

5.3.1. Đo lường chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình

Tuy thương mại quốc tế là nhân tố quan trọng, nhưng thường bị bỏ qua trong

các nghiên cứu trước đây, do không lượng hóa được mối tương quan này và không đo

lường được biến mức độ hộ gia định tham gia vào thương mại quốc tế. Vì vậy, nghiên

cứu này sử dụng bộ chỉ số đo lường mới được đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021) để xử

lý nhược điểm của các bộ chỉ số trước đây, như chỉ ghi nhận thu nhập có được từ tác

động của thương mại quốc tế (Squalli & Wilson, 2011), bỏ qua vấn đề nội sinh

(Cavallo & Frankel, 2008) và không xem xét tới khả năng đáp ứng của hộ gia đình

trước các cơ hội mới do cải cách thương mại mang lại (Vo & Nguyen, 2021). Chỉ số

này được Vo & Nguyen (2021) ứng dụng lần đầu trong kiểm định tác động của tự do

113

hóa thương mại đến thu nhập, chi tiêu và tính dễ bị tổn thương đối với nghèo đói của

hộ gia đình.

Bằng dữ liệu về các đối tác thương mại và thuế xuất nhập khẩu, Vo & Nguyen

(2021) đã tính toán chỉ số mức độ tham gia và thương mại quốc tế của hộ gia đình với

các bước thực hiện tuần tự như sau:

Xây dựng chỉ số cầu lao động do xuất khẩu đối với ngành i trong năm t (ký

hiệu là 𝐿𝐷𝑖𝑡)

(9.1) 𝐿𝐷𝑖𝑡 = 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 − 𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡−1

Trong đó:

𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡 là giá trị xuất khẩu của ngành i trong năm t

𝐸𝑥𝑝𝑜𝑟𝑡𝑖𝑡−1là giá trị xuất khẩu của ngành i trong năm t – 1

Tất cả các hộ gia đình đều giống nhau đối với cầu lao động trong xuất khẩu của

ngành i. Tuy nhiên, quyết định của hộ gia đình có tham gia vào thị trường lao động

hay không tùy thuộc vào khả năng đáp ứng của họ trước cơ hội được tạo bởi tự do hóa

thương mại. Ngoài ra, khoảng cách từ nhà họ đến khu vực thành thị - nơi xảy ra hầu

hết các hoạt động thương mại - có thể tác động đến quyết định này. Do đó, Vo &

Nguyen (2021) đã lấy trọng số cầu lao động bằng tỷ lệ thành viên hộ hoạt động trong

ngành i và khoảng cách từ hộ đến khu vực thành thị. Các cú sốc thương mại quốc gia

được chuyển hóa thành cú sốc thương mại của hộ gia đình, Vo & Nguyen (2021) đề

xuất đây là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình tính theo

giá trị xuất khẩu (ký hiệu là 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡):

𝑖

1 𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡

𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡

(9.2) 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 = ∙ ∑ 𝐿𝐷𝑖𝑡 ∙

Trong đó:

𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡 là khoảng cách từ hộ gia đình h đến khu vực thành trị trong năm t

𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 là số thành viên hộ gia đình h hoạt động trong ngành i trong năm t

𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡 là tổng số thành viên của hộ gia đình h trong năm t

Ngoài ra, Vo & Nguyen (2021) còn sử dụng thuế quan để đại diện chỉ số mức

độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (ký hiệu là 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡):

𝑖

1 𝐷𝑖𝑠𝑡𝑎𝑛𝑐𝑒ℎ𝑡

1 𝑇𝑎𝑟𝑖𝑓𝑓𝑀𝐹𝑁𝑖

𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟𝑖ℎ𝑡 𝑇𝑜𝑡𝑎𝑙𝑊𝑜𝑟𝑘𝑒𝑟ℎ𝑡

(9.3) ∙ ∑ ∙ 𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 =

114

Trong đó: 𝑇𝑎𝑟𝑖𝑓𝑓𝑀𝐹𝑁𝑖là giá trị trung bình của thuế suất tối huệ quốc áp dụng

cho mặt hàng ngành i của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và

Hàn Quốc - bốn đối tác thương mại lớn của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.

5.3.2. Phương pháp hồi quy

Quyết định việc sinh con hay tham gia lực lượng lao động sẽ được thực hiện

đồng thời, dẫn đến nhiều câu hỏi xoay quanh hướng tác động nhân quả của hai yếu tố

này, cũng như tác động của các yếu tố ngoại sinh khác đến chúng (Browning, 1992;

Steiber & Haas, 2012); nên biến mức sinh - một trong hai biến giải thích chính của mô

hình - bị nội sinh (Ahn & Mira, 2002; Angrist & Evans, 1998; Cruces & Galiani,

2007; Eissa & Hoynes, 2004; Mincer, 1962). Những nhân tố không quan sát được như

sở thích về số lượng con và kỳ vọng nghề nghiệp là không đồng nhất giữa các cá nhân;

ví dụ những người có tham vọng nghề nghiệp sẽ có số con kì vọng thấp hơn và tham

gia vào thị trường lao động nhiều hơn. Bất kì ước lượng nào không kiểm soát được sự

không đồng nhất này sẽ dẫn đến sai lệch, vì tham vọng nghề nghiệp có tương quan

ngược chiều với mức sinh, nhưng tương quan cùng chiều với cung lao động, nên sẽ

đánh giá quá cao tác động ngược chiều của cung lao động đến mức sinh.

Để tránh vấn đề nội sinh, nhiều nghiên cứu cùng chủ đề trước đây đã giả định

rằng quyết định kết hôn và sinh con được hoàn thành sớm trong cuộc đời; do đó,

những nghiên cứu này chọn đối tượng nghiên cứu là phụ nữ đã kết hôn (Heckman,

2014; Mroz, 1987), hoặc phụ nữ đã sinh con (Heckman, 1974; Klerman & Leibowitz,

1994). Tuy nhiên, lựa chọn mẫu kiểu như vậy có thể dẫn đến sai lệch chọn mẫu

(Sheran, 2007). Như vậy, những nghiên cứu đó mặc dù có thể giải quyết vấn đề nội

sinh, nhưng lại mắc phải sai lệch chọn mẫu.

Vì vậy, để giải quyết nội sinh nhưng không phạm phải sai lầm như một số

nghiên cứu trước đây, phương pháp tốt nhất vẫn là sử dụng các biến công cụ (Angrist

& Evans, 1998). Do đó, nghiên cứu này sử dụng kết hợp hồi quy Instrumental Variable

và phương pháp Tobit, phù hợp dữ liệu nghiên cứu bị lọc (censored) và lớn hơn hoặc

bằng 0, nhằm xem xét tác động của thương mại quốc tế và/hoặc mức sinh đến khoảng

cách giới trong lực lượng lao động hộ gia đình.

Mô hình hồi quy giai đoạn 01 có dạng như sau:

𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐼𝑉1ℎ𝑡 + 𝛽2𝐼𝑉2ℎ𝑡 + 𝛽3𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸ℎ𝑡 + 𝛽4𝑍ℎ𝑡 + 𝜀1ℎ𝑡

(9.4)

115

Trong đó: FERTILITY là mức sinh, tính bằng (i) số lượng con (đại diện bằng

biến 𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌1), và (ii) số lượng con dưới 6 tuổi (đại diện bằng biến 𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌2).

Đây là các biến bị nội sinh. Trong tổng quan nghiên cứu trước đây, vấn đề nội sinh

được giải quyết bằng ba biến công cụ sau, bao gồm: (i) sự xuất hiện của cặp sinh đôi

trong lần sinh đầu; những người mẹ đã sinh đôi sẽ có xu hướng sinh thêm con

(Angrist, 2001; Angrist & Evans, 1998; Bronars & Grogger, 1994; Jacobsen và cộng

sự, 1999); (ii) tổ hợp giới tính của các con; do cha mẹ có hai con cùng giới tính sẽ

nhiều khả năng có thể con thứ ba (Angrist & Evans, 1998; Carrasco, 2001; Conley &

Glauber, 2006; Cruces & Galiani, 2007; Ebenstein, 2009; Michaud & Tatsiramos,

2011), (iii) giới tính của con đầu; do tại các quốc gia có truyền thống trọng nam, phụ

nữ sinh con trai đầu sẽ có mức sinh thấp hơn những người sinh con gái đầu (Chun &

Oh, 2002; Grogan, 2013). Tuy nhiên, do hạn chế về mặt dữ liệu, nên nghiên cứu này

chỉ lựa chọn hai biến công cụ, là tổ hợp giới tính các con và giới tính của con đầu, để

xử lý nội sinh. Như vậy, 𝐼𝑉1 và 𝐼𝑉2 lần lượt đại diện cho hai biến công cụ nêu trên

trong mô hình hồi quy giai đoạn 01.

TRADE là chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia

đình; với hai cách đo lường cụ thể, bao gồm: (1) chỉ số tham gia vào thương mại quốc

tế của của hộ gia đình tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu (đại diện bằng biến

HHExposureEX); hoặc (2) chỉ số tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình

tính theo thuế quan (đại diện bằng biến HHExposureTR).

Z là các biến kiểm soát bao gồm: tuổi và bình phương tuổi của người vợ

và người chồng (Coen-Pirani và cộng sự, 2010), trình độ học vấn của người vợ

(Besamusca và cộng sự, 2015; Coen-Pirani và cộng sự, 2010; Hare, 2016; Keats, 2018;

Lincove, 2008), trình độ học vấn của người chồng (Coverman, 1985; Spierings và

cộng sự, 2010), sống cùng với người có thể chăm hộ con (ví dụ như ông bà, hoặc

người giúp việc) (Guo và cộng sự, 2018; Heath, 2017), thu nhập của người chồng

(Angrist & Evans, 1998; Chiappori, 1992; Kleven và cộng sự, 2009; Malathy, 1994),

và nghề nghiệp của người chồng (nhằm tránh tình trạng bỏ sót biến, do nghề nghiệp

người chồng có thể có tương quan đối với thu nhập của họ). Cụ thể: Tăng cường giáo

dục và đào tạo giúp trang bị cho nữ giới khả năng thích ứng với nhiều công việc khác

nhau và nâng cao trình độ kỹ năng tương đối của họ so với nam giới; vì vậy, giáo dục

116

vừa có thể mở rộng cơ hội trên thị trường lao động, vừa cho thể việc làm được trả

lương hấp dẫn hơn các công việc chăm sóc gia đình (Besamusca và cộng sự, 2015).

Đặc biệt, trong thị trường lao động, vị thế của người phụ nữ được coi là yếu tố quyết

định sự tham gia của họ. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy nếu thu nhập của chồng

ngày càng tăng thì phụ nữ thường dành nhiều thời gian cho công việc nhà (Malathy,

1994). Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học dự đoán rằng khi trình độ học vấn của người

nữ tăng lên, chi phí cơ hội của việc rời bỏ thị trường lao động để sinh con và chăm sóc

gia đình cũng tăng lên, nên phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn thường được tuyển

dụng nhiều hơn vì hiệu ứng chi phí cơ hội lớn hơn hiệu ứng thu nhập (Engelhardt &

Prskawetz, 2004). Nghĩa là, thay vì rút lui khỏi thì trường lao động khi tiền lương của

người chồng đủ (hiệu ứng thu nhập), người vợ có trình độ học vấn cao từ chối từ bỏ

những nghề nghiệp mang lại thu nhập bổ sung và áp dụng các kỹ năng đã được đào tạo

(hiệu ứng chi phí cơ hội). Ở đây, ta còn thấy được thu nhập của người chồng là một

trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động nữ. Song song đó, trình

độ giáo dục của người chồng có tương quan cùng chiều với sự tham gia của lao động

nữ; vì nam giới có học vấn tốt hơn sẽ ít bị ảnh hưởng bởi định kiến giới, hoặc vì họ có

nhiều nguồn lực thời gian hơn (Coverman, 1985). Cuối cùng, trên thực tế, cơ hội tham

gia lực lượng lao động của phụ nữ thường bị giới hạn do việc phân chia công việc

chăm sóc trong xã hội, vì gánh nặng công việc chăm sóc là một trở ngại đối với phụ nữ

đi làm ở bất kỳ quốc gia nào (Barrientos & Kabeer (2004). Nhiều người sử dụng lao

động e ngại việc tuyển lao động nữ đang trong độ tuổi mang thai và sinh con, vì phải

tốn chi phí tìm người thay thế tạm thời cho lao động nữ nghỉ thai sản, hoặc giải quyết

khó khăn khi lao động nữ nghỉ phép chăm sóc con ốm bệnh (Becker và cộng sự,

2019). Do đó, yếu tố quan trọng này được coi là nguồn gốc của nhu cầu cạnh tranh về

thời gian mà phụ nữ phải đối mặt. Như vậy, xu hướng phát triển các hoạt động giữ trẻ

phi chính thức và việc các gia đình đa thế hệ sống cùng nhau có thể giúp cải thiện sự

tham gia của lao động nữ nhờ sự xuất hiện của các đối tượng có khả năng hỗ trợ chăm

sóc trẻ khi người mẹ đi làm.

h là hộ gia đình thứ h, t là năm (tương ứng 2002, 2004, 2006, 2008,

2010, 2012, 2014 và 2016).

Mô hình hồi quy giai đoạn 02 có dạng như sau:

117

(9.5) 𝐺𝐺ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝑇𝑅𝐴𝐷𝐸ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡

Trong đó: GG là biến phụ thuộc thể hiện khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực

lượng lao động của nữ giới, được đo lường bằng hai cách là (i) tỷ lệ tiền lương thực tế

theo giờ của chồng so với vợ (đại diện bằng biến 𝐺𝐺1), (ii) tỷ lệ giờ làm việc trung

bình trong vòng 30 ngày gần thời điểm khảo sát nhất của chồng so với vợ (đại diện

bằng biến 𝐺𝐺2); để xem xét hai kênh tác động của thương mại quốc tế đến việc làm và

tiền lương theo Winters (2002). Tiền lương và số giờ làm việc cũng là hai đơn vị đo

lường phổ biến (tham khảo Albanesi & Olivetti (2016); Attanasio và cộng sự (2008);

Biến Khoảng cách giới về thời gian làm việc Khoảng cách giới về tiền lương Số lượng con Số lượng con dưới 6 tuổi Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Tuổi vợ Kinh nghiệm của vợ Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng Kinh nghiệm của chồng Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Đo lường (đơn vị) Tỷ lệ giờ làm việc trung bình trong vòng 30 ngày gần thời điểm khảo sát nhất của chồng so với vợ Tỷ lệ tiền lương thực tế theo giờ của chồng so với vợ Số lượng con (người) Số lượng con dưới 6 tuổi (người) = 1 nếu con đầu lòng là nam = 0 nếu ngược lại = 1 nếu hai con lớn đều là nam hoặc đều là nữ = 0 nếu ngược lại Tuổi vợ (năm) Bình phương tuổi vợ = 0 nếu không bằng cấp = 1 nếu tiểu học = 2 nếu THCS = 3 nếu TPPT = 4 nếu cao đẳng, đại học trở lên Tuổi chồng (năm) Bình phương tuổi chồng = 0 nếu không bằng cấp = 1 nếu tiểu học = 2 nếu THCS = 3 nếu TPPT = 4 nếu cao đẳng, đại học trở lên Tổng thu nhập trong năm của chồng (1.000 VNĐ) =1 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề chuyên môn kỹ thuật =0 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề khác =1 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề dịch vụ - bán hàng =0 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề khác =1 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề lao động kỹ thuật =0 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề khác =1 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề lao động giản đơn

Bảng 5.1. Giải thích các biến sử dụng trong mô hình tại chương 5

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại”

=0 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề khác =1 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề quân đội – lãnh đạo và các nghề còn lại = 0 nếu chồng làm việc trong nhóm nghề khác = 1 nếu sống cùng ông bà hoặc người giúp việc = 0 nếu ngược lại Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu)

Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo thuế quan)

Sống cùng với người hỗ trợ chăm con khi người mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu) Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo thuế quan) Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất

118

Fernández & Fogli (2009); Greenwood và cộng sự (2005); Jones và cộng sự (2015)).

Theo đó, các thành viên hộ gia đình gia nhập thị trường lao động vì họ muốn kiếm

tiền, và họ sẽ phân chia thời gian giữa đi làm và các hoạt động phục vụ gia đình sao

cho tối đa hóa lợi ích (Psacharopoulos & Tzannatos, 1989).

Do nghiên cứu xem xét một cách độc lập hai biến phụ thuộc và hai biến giải

thích chính liên quan đến thương mại quốc tế, nên sẽ có bốn mô hình hồi quy được

trình bày. Phương trình (9.5) được viết lại như sau:

𝐺𝐺1ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.6)

Hoặc: 𝐺𝐺1ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.7)

Hoặc: 𝐺𝐺2ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝐸𝑋ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.8)

Hoặc: 𝐺𝐺2ℎ𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐸𝑅𝑇𝐼𝐿𝐼𝑇𝑌ℎ𝑡 + 𝛽2𝐻𝐻𝐸𝑥𝑝𝑜𝑠𝑢𝑟𝑒𝑇𝑅ℎ𝑡 + 𝛽3𝑍ℎ𝑡 + 𝜀ℎ𝑡 (9.9)

5.3.3. Dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư” được tiến hành bởi

Tổng cục Thống kê Việt Nam với sự hỗ trợ của UNDP và WB, thực hiện 02 năm một

lần kể từ năm 2002 vào những năm chẵn, nhằm thu thập những thông tin về các đặc

điểm nhân khẩu học cơ bản liên quan đến mức sống, giáo dục, y tế và chăm sóc sức

khỏe, việc làm và thu nhập, chi tiêu, tài sản của hộ gia đình, và việc tham gia các

chương trình xóa đói giảm nghèo.

Để phù hợp với lý thuyết của Galor & Weil (1996) khi xem xét quyết định của

hộ gia đình giữa việc sinh con và cung lao động, dữ liệu được lọc chỉ giữ lại những hộ

gia đình có đầy đủ vợ và chồng. Mặt khác, nhiều cá nhân trong mẫu có làm việc,

nhưng lại bị thiếu dữ liệu về tiền lương. Do đó, nghiên cứu sử dụng phương pháp

119

Multiple Imputation (MI) điền các giá trị bị khuyết với 20 vòng lặp, để có được bộ dữ

liệu đầy đủ.

Từ bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư của các năm 2002, 2004, 2006, 2008,

2010, 2012, 2014 và 2016 sau khi thực hiện MI, nghiên cứu tính toán tất cả các biến

được sử dụng trong mô hình; ngoại trừ biến thương mại quốc tế sử dụng dữ liệu được

cung cấp bởi Vo & Nguyen (2021). Như vậy, dữ liệu chéo sử dụng trong mẫu phân

tích tương ứng cho từng năm là 11.903 quan sát năm 2002, 7.321 quan sát năm 2004,

7.343 quan sát năm 2006, 7.328 quan sát năm 2008, 7.485 quan sát năm 2010, 7.447

quan sát năm 2012, 7.365 quan sát năm 2014 và 7.318 quan sát năm 2016.

5.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

5.4.1. Thống kê mô tả

Bảng 5.2 mô tả giá trị trung bình của khoảng cách giới trong sự tham gia vào

lực lượng lao động, các chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia

đình, các đặc điểm nhân khẩu học của vợ và chồng, và thông tin về các biến kiểm soát

khác. Nhìn chung khoảng cách giới về tiền lương và thời gian làm việc trong hộ gia

đình có xu hướng tăng mạnh hơn vào năm 2010, hai năm sau khủng hoảng tài chính

2008. Đồng thời, chênh lệch tiền lương trong hộ thường lớn hơn chênh lệch về thời

gian làm việc trong hộ. Trong khi đó, mức sinh của hộ (số lượng con) có xu hướng

giảm dần theo thời gian, thể hiện mức độ già hóa dân số tăng dần ở Việt Nam trong

thời gian nghiên cứu. Mặc dù học vấn của người chồng vẫn cao hơn so với vợ, nhưng

khoảng cách này đã từng bước được thu hẹp khi trình độ của cả hai giới được cải

thiện. Thu nhập của người chồng có sự tăng trưởng nhanh và liên tục trong cả giai

đoạn, cho thấy dấu hiệu thay đổi tích cực trong mức sống hộ gia đình Việt Nam. Bên

cạnh đó, không nhiều cặp vợ chồng sống chung với người có khả năng hỗ trợ chăm

sóc trẻ khi người vợ đi làm, ví dụ như ông bà hoặc người giúp việc; và vấn đề này

dường như không thay đổi theo thời gian. Trước cuộc khủng hoảng toàn cầu năm

2008, chỉ số thương mại quốc tế tính theo thuế quan hoặc khối lượng xuất khẩu có dao

động cùng chiều nhau, và đạt đỉnh vào năm 2008. Tuy nhiên, sau năm 2008, mặc dù

chỉ số thương mại quốc tế tính theo thuế quan tăng, nhưng chỉ số thương mại quốc tế

tính theo khối lượng xuất khẩu vẫn tiếp tục dao động; qua đó cho thấy kim ngạch xuất

khẩu không gia tăng tương ứng với những cơ hội mang lại từ cắt giảm thuế quan.

120

2002 1,121

2008 1,198

2010 1,299

2004 1,160

2006 1,224

2012 1,251

2014 1,208

2016 1,211

1,362

1,420

1,366

1,261

1,331

1,251

1,212

1,223

2,374 0,327 0,533 0,380 42,471 1.958 1,116 45,372 2.227 1,379

1,993 0,224 0,519 0,319 45,241 2.188 1,338 48,086 2.465 1,589

1,854 0,302 0,506 0,297 43,736 2.071 1,398 46,608 2.339 1,603

2,310 0,250 0,532 0,358 44,095 2.093 1,261 46,950 2.366 1,517

2,135 0,223 0,518 0,333 44,734 2.145 1,378 47,582 2.421 1,446

1,796 0,256 0,496 0,279 44,954 2.176 1,426 47,790 2.447 1,623

1,703 0,226 0,495 0,259 45,912 2.261 1,467 48,734 2.535 1,667

1,635 0,210 0,482 0,243 46,991 2.363 1,518 49,781 2.636 1,694

35.516 0,058

16.090 0,047

8.512 0,040

8.191 0,046

5.585 0,074

46.975 0,061

54.447 0,056

60.409 0,053

0,028 0,021 0,529 0,127

0,033 0,046 0,581 0,184

0,084 0,098 0,436 0,236

0,014 0,010 0,281 0,186

0,027 0,031 0,634 0,160

0,085 0,103 0,426 0,235

0,089 0,105 0,422 0,234

0,092 0,100 0,405 0,248

0,096

0,096

0,107

0,083

0,087

0,084

0,086

0,094

-0,006

0,173

0,177

0,101

0,732

0,367

0,270

0,332

1,622

2,030

1,475

1,198

2,700

1,535

1,540

1,749

Biến Khoảng cách giới về thời gian làm việc Khoảng cách giới về tiền lương Số lượng con Số lượng con dưới 6 tuổi Giới tính của con đầu Tổ hợp giới tính các con Tuổi vợ Kinh nghiệm của vợ Trình độ học vấn của vợ Tuổi chồng Kinh nghiệm của chồng Trình độ học vấn của chồng Thu nhập của chồng Nghề “chuyên môn kỹ thuật” Nghề “dịch vụ - bán hàng” Nghề “lao động kỹ thuật” Nghề “lao động giản đơn” Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Sống cùng với người hỗ trợ chăm con khi người mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu) Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo thuế quan) Nguồn: Tính toán của tác giả từ dữ liệu VHLSS (Ghi chú: Số liệu là giá trị trung bình)

Bảng 5.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu chương 5

121

5.4.2. Tác động của thương mại quốc tế đến khoảng cách giới trong sự tham gia

vào lực lượng lao động

Bảng 5.3 và 5.4 cho thấy việc gia tăng khối lượng xuất khẩu ở Việt Nam làm

giảm tỷ lệ thời gian làm việc giữa chồng và vợ trong hộ gia đình từ sau khủng hoảng

2008, trừ năm 2010. Kết quả này phù hợp tại các quốc gia đang phát triển (Gaddis &

Pieters, 2012; Neumayer & De Soysa, 2007), hoặc quốc gia theo đuổi chiến lược tăng

trưởng định hướng xuất khẩu (Korinek, 2005). Điều này tương tự mô hình tăng trưởng

hướng xuất khẩu mà Việt Nam đã áp dụng thời gian qua (Pham và cộng sự, 2019).

Tuy nhiên, tác động của giá trị hàng hóa xuất khẩu không có ý nghĩa thống kê

trước năm 2008; trong khi đó, việc giảm thuế quan làm giảm chênh lệch giới cả trước

và sau khủng hoảng năm 2008. Tác động có ý nghĩa thống kê của thuế quan vào năm

2004 (trong khi giá trị hàng hóa xuất khẩu không có ý nghĩa) cho thấy việc giảm thuế

xuất khẩu có thể đã ảnh hưởng gián tiếp đến một số ngành sản xuất hàng không xuất

khẩu (mà phụ nữ tham gia làm việc nhiều hơn). Ngoài ra, tác động của việc giảm thuế

quan đối với nền kinh tế (bao gồm cả sản xuất và tiêu dùng hàng hóa phi ngoại

thương) thường xảy ra sớm hơn so với hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu trước đây đã

cho thấy giá trị xuất khẩu phản ứng với sự thay đổi trong thuế quan với một độ trễ nhất

định (Bustos, 2011). Sự không chắc chắn về chính sách thương mại sẽ làm chậm sự

gia nhập của các nhà xuất khẩu vào các thị trường mới (Handley, 2014). Từ khi Việt

Nam gia nhập WTO vào năm 2007, chính sách thương mại ổn định hơn do thực hành

các cam kết của WTO, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng nhanh hơn với việc

cắt giảm thuế quan (Handley, 2014). Điều này lý giải tác động của giá trị xuất khẩu và

thuế quan đồng thời có ý nghĩa thống kê.

Mặt khác, thương mại quốc tế không cho thấy bất kì tác động nào đến tỷ lệ thời

gian làm việc giữa chồng và vợ vào năm 2010. Nguyên nhân là do hệ quả kéo dài từ

cuộc khủng hoảng chưa được giải quyết dứt điểm; xuất phát từ tình trạng thiếu lao

động có kỹ năng, thị trường lao động cứng nhắc và hệ thống quan hệ lao động kém

phát triển tại Việt Nam (Manning, 2010). Sau đó, xu hướng ảnh hưởng của thương mại

quốc tế trở nên rõ rệt vào giai đoạn 2012 - 2016, khi nền kinh tế vĩ mô trở nên ổn định

và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng (ILO & ILSSA, 2018).

122

Bảng 5.3. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về thời gian làm việc, biến giải thích là chỉ số mức độ

Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

2006 0,056 (1,19) 0,026 (0,87) -0,152 (-2,03)**

2004 0,025 (0,68) 0,033 (1,38) 0,085 (2,04)**

2008 -0,052 (-4,62)*** -0,067 (-2,89)*** 0,026 (0,47)

2010 -0,062 (-1,47) -0,014 (-0,54) 0,061 (1,14)

2012 -0,037 (-2,62)*** -0,004 (-0,16) 0,105 (2,14)**

2014 -0,048 (-4,33)*** -0,040 (-1,91)* 0,141 (2,99)***

2016 -0,033 (-2,87)*** -0,102 (-3,92)*** 0,145 (2,07)**

2002 0,022 (0,28) -0,020 (-1,14) 0,100 (3,32)*** Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ). Các biến kiểm soát được trình bày trong phụ lục 5.2.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu)

Bảng 5.4. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về thời gian làm việc, biến giải thích là chỉ số mức độ

Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

2006 -0,001 (-0,41) 0,025 (0,86) -0,154 (-2,05)**

2004 -0,006 (-2,59)** 0,033 (1,39) 0,084 (2,02)**

2008 -0,007 (-4,71)*** -0,064 (-2,74)*** 0,027 (0,50)

2010 -0,004 (-1,56) -0,015 (-0,56) 0,062 (1,15)

2012 -0,009 (-4,22)*** -0,002 (-0,09) 0,103 (2,10)**

2014 -0,009 (-4,12)*** -0,042 (-2,00)** 0,138 (2,95)***

2016 -0,007 (-2,98)*** -0,100 (-3,84)*** 0,144 (2,06)**

2002 -0,004 (-1,36) -0,020 (-1,15) 0,098 (3,26)*** Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ). Các biến kiểm soát được trình bày trong phụ lục 5.3.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo thuế quan)

123

Trong khi đó, tác động của thương mại quốc tế lên chênh lệch tiền lương trong

hộ gia đình không rõ ràng, và có mức ý nghĩa không cao. Cụ thể thương mại quốc tế

làm tăng chênh lệch tiền lương giữa chồng và vợ năm 2010 (nếu tính theo thuế quan)

và 2014 (nếu tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu), ngược lại vào năm 2004 và 2012

(nếu tính theo thuế quan). Tương quan cùng chiều giữa thương mại quốc tế và tỷ lệ

tiền lương giữa chồng và vợ có thể được giải thích là tại các quốc gia thặng dư lao

động, nghĩa là cung lao động co giãn cao (Joekes, 1999), doanh nghiệp đôi khi có thể

giải quyết tình trạng cạnh tranh gia tăng từ các đối thủ quốc tế bằng cách cố gắng cắt

giảm chi phí tiền lương của lao động nữ làm việc trong các ngành có mức độ tập trung

cao, ít chịu cạnh tranh từ đối thủ trong nước (Feenstra & Hanson, 1996). Tác động

không mong muốn này đã được chứng minh trong các nghiên cứu cùng chủ đề trước

đây tại Việt Nam của Pham & Reilly (2007) và Le & Nguyen (2018).

124

Bảng 5.5. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về tiền lương, biến giải thích là chỉ số mức độ

Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

2006 0,048 (0,97) -0,003 (-0,09) 0,009 (0,11)

2004 0,027 (0,57) 0,041 (1,31) -0,052 (-0,72)

2008 0,015 (1,11) 0,025 (0,87) -0,021 (-0,34)

2010 -0,024 (-0,38) -0,000 (-0,00) -0,023 (-0,25)

2012 0,012 (0,85) 0,060 (2,24)** -0,075 (-1,23)

2014 0,021 (1,70)* -0,047 (-2,07)** 0,021 (0,41)

2016 0,005 (0,36) -0,023 (-0,82) -0,071 (-1,24)

2002 -0,087 (-0,77) -0,019 (-0,73) 0,010 (0,19) Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ). Các biến kiểm soát được trình bày trong phụ lục 5.4.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu)

Bảng 5.6. Kết quả hồi quy giai đoạn 02 - biến phụ thuộc là khoảng cách giới về tiền lương, biến giải thích là chỉ số mức độ

Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

2004 -0,009 (-2,72)*** 0,041 (1,33) -0,059 (-0,83)

2006 -0,002 (-0,70) -0,002 (-0,07) 0,005 (0,06)

2008 -0,002 (-1,17) 0,024 (0,85) -0,018 (-0,30)

2010 0,007 (1,95)* -0,000 (-0,01) -0,016 (-0,17)

2012 -0,004 (-1,93)* 0,061 (2,28)** -0,079 (-1,31)

2014 0,004 (1,56) -0,046 (-2,03)** 0,022 (0,43)

2016 -0,002 (-0,81) -0,022 (-0,79) -0,074 (-1,31)

2002 0,002 (1,54) -0,019 (-0,74) 0,014 (0,26) Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ). Các biến kiểm soát được trình bày trong phụ lục 5.5.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình (tính theo thuế quan)

125

5.4.3. Tác động của mức sinh đến khoảng cách giới trong sự tham gia vào lực

lượng lao động

Kết quả bảng 5.3 và 5.4 cho thấy tác động của trẻ dưới 6 tuổi làm tăng tỷ lệ thời

gian làm việc giữa chồng và vợ (trừ năm 2006), đặc biệt lớn sau năm 2010. Điều này

có thể là do thời gian làm việc của phụ nữ ít hơn hoặc người chồng tham gia vào lực

lượng lao động nhiều hơn sau khủng hoảng. Bên cạnh đó, người nữ vẫn chịu trách

nhiệm chính trong nuôi dưỡng trẻ vào những năm đầu đời (Hochschild & Machung,

2012; Sheran, 2007), hoặc vì lý do thuộc về khía cạnh tâm lý tình cảm (Lehrer &

Nerlove, 1986).

Tuy nhiên, tổng số con của hộ sẽ giúp giảm tỷ lệ thời gian làm việc của chồng

so với vợ, nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê trong vài năm (2008, 2014, 2016); có thể

được giải thích là do khi con lớn thì người nữ có thể sẽ tăng khả năng tham gia vào thị

trường lao động. Cụ thể trong nghiên cứu này, Phụ lục 5.6 cho thấy độ tuổi phổ biến

của con trong hộ gia đình 12 - 18 tuổi, là độ tuổi mà người mẹ không phải dành nhiều

thời gian để chăm sóc. Đã có nghiên cứu cho thấy, tại một số quốc gia, phụ nữ ngày

càng tham gia vào thị trường lao động nhiều hơn mặc dù mức sinh gia tăng

(Engelhardt & Prskawetz, 2004; Gornick và cộng sự, 1997; Siegel, 2017).

Bên cạnh đó, kết quả bảng 5.5 và 5.6 cho thấy mức sinh tác động đến tỷ lệ tiền

lương giữa chồng và vợ trong hộ không theo một xu hướng tác động rõ rệt. Tổng số

con của hộ tương quan dương với tiền lương tương đối của chồng so với vợ vào năm

2012, nhưng lại tương quan âm đi vào năm 2014. Đồng thời, số lượng con dưới 6 tuổi

không có ảnh hưởng đến khoảng cách giới về tiền lương trong hộ gia đình, vì tất cả

các hệ số đều không có ý nghĩa thống kê.

5.4.4. So sánh giữa tác động của thương mại quốc tế và tác động của mức sinh

Việc có con nhỏ dưới 6 tuổi ngăn cản người nữ tham gia vào lực lượng lao

động, mặc dù thương mại quốc tế đã tạo ra nhiều việc làm hơn cho họ cả trước và sau

khủng hoảng 2008. Tỷ lệ thời gian làm việc của người vợ so với chồng chỉ tăng lên

nếu con đã qua 6 tuổi. Khi đó, cả thương mại quốc tế và mức sinh đều làm giảm

khoảng cách giới về thời gian làm việc; người lao động trong các ngành được hưởng

lợi từ việc tăng xuất khẩu có triển vọng việc làm tốt hơn và mức sinh cao hơn

(Giuntella và cộng sự, 2021).

126

5.4.5. Kết quả hồi quy của các biến kiểm soát khác

Ngoài hai biến giải thích chính là thương mại quốc tế và mức sinh, mô hình còn

hồi quy với một số biến kiểm soát khác. Kết quả cho thấy việc sống chung người có

khả năng hỗ trợ chăm con như ông bà, hoặc người giúp việc có nhiều ý nghĩa đối với

tiền lương và cung lao động nữ, phù hợp với nghiên cứu trước đây (Guo và cộng sự,

2018). Tác động của học vấn cả người vợ lẫn người chồng đều có xu hướng làm tăng

sự tham gia của lao động nữ. Giáo dục và đào tạo đã trang bị cho người phụ nữ năng

lực làm việc trong nhiều ngành nghề khác nhau và nâng cao trình độ kỹ năng so với

nam giới, tương tự kết quả nghiên cứu của Engelhardt & Prskawetz (2004) hoặc của

Lincove (2008). Tỷ lệ trẻ em gái đi học cao hơn cũng giúp cải thiện thái độ bình đẳng

giới, vì trẻ em trai và trẻ em gái đi học cùng nhau và được dạy những nội dung giống

nhau (Spierings và cộng sự, 2010). Ngược lại, thu nhập của người chồng làm tăng

khoảng cách giới về sự tham gia trong lực lượng lao động của hộ theo hướng bất lợi

cho người vợ, như khẳng định trong nghiên cứu của Mincer (1962); vì thu nhập của

chồng cao hơn sẽ khiến vợ dành nhiều thời gian cho chăm sóc gia đình hơn (Malathy,

1994).

5.5. Kết luận và hàm ý chính sách

“The family is the first essential cell of human society” - Pope John XXIII. Vì

vậy, giải quyết bất bình đẳng giới trước hết phải bắt đầu từ gia đình. Tuy nhiên, hiện

nay không nhiều nghiên cứu chú trọng đến lý giải các nguyên nhân dẫn đến chênh lệch

giới về tiền lương và thời gian làm việc trong hộ gia đình; đồng thời thường bỏ qua tác

động của yếu tố thương mại quốc tế. Trong khi đó, thương mại quốc tế được kỳ vọng

là một trong những biện pháp làm tăng sự tham gia của người nữ vào thị trường lao

động, trái ngược với tác động của mức sinh. Vì vậy, luận án này được thực hiện để

nhận diện tác động đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh lệch giới

trong lực lượng hộ gia đình, làm tiền đề cho các nghiên cứu về chênh lệch giới dưới

tác động đồng thời của các nhân tố quan trọng. Bằng việc vận dụng lý thuyết về

khoảng cách giới của Galor & Weil (1996), nghiên cứu sẽ xem xét trường hợp các hộ

gia đình ở Việt Nam - quốc gia có tỷ lệ lao động nữ khá cao, và còn tồn tại tình tạng

bất bình đẳng giới dù tương đối thấp.

127

Luận án cho thấy việc có con nhỏ ngăn cản người nữ tham gia vào thị trường

lao động, mặc dù thương mại quốc tế đã tạo ra nhiều việc làm hơn cho họ. Tỷ lệ thời

gian làm việc của người vợ so với chồng chỉ tăng lên nếu con đã qua 6 tuổi. Khi đó, cả

thương mại quốc tế và mức sinh đều làm giảm khoảng cách giới về thời gian làm việc.

Ngoài ra, những yếu tố khác có tác động đến sự tham gia của lao động nữ có thể kể

đến là thu nhập và học vấn của người chồng, và việc sống chung với người có khả

năng hỗ trợ chăm sóc trẻ khi người mẹ đi làm.

128

CHƯƠNG 6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng lao động đã có nhiều thay đổi dưới tác

động của thương mại quốc tế; với đối tượng bị ảnh hưởng không chỉ là lao động nữ,

mà còn là phúc lợi hộ gia đình. Do đó, hiểu được những vấn đề nghiên cứu này là rất

quan trọng đối với các chính sách thu hẹp khoảng cách giới về tiền lương và việc làm,

xét cả ở phía cung và phía cầu lao động. Dựa trên bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp

vừa, nhỏ và siêu nhỏ” của Việt Nam và bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư”, luận

án này nghiên cứu về mối tương quan giữa thương mại quốc tế và phân biệt đối xử về

giới trong lực lượng lao động.

Nội dung chương này dựa trên kết quả nghiên cứu để trình bày tổng hợp những

phát hiện chính của luận án. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các ý kiến đề xuất cho các

nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý doanh nghiệp. Các giới hạn của luận án và

kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo cũng được trình bày cuối chương này.

6.1. Những kết quả nghiên cứu chính

Đầu tiên, tại chương 3, luận án giải quyết mục tiêu nghiên cứu xác định nguyên

nhân chênh lệch giới trong việc làm tại các doanh nghiệp ở Việt Nam; bằng cách sử

dụng bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ”, cùng phương pháp

Feasible Generalized Least Squares (FGLS) và phương pháp phân rã của Cotton

(1988) và Oaxaca & Ransom (1994). Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ nhất “Những

nhân tố nào có ảnh hưởng đến sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ Việt

Nam ở cấp độ doanh nghiệp?”, kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) hoạt động xuất khẩu,

đầu tư vào vốn nhân lực, đặc điểm ngành nghề, thời gian và quy mô hoạt động của

doanh nghiệp, giới tính và vốn xã hội của người chủ sở hữu hoặc quản lý doanh nghiệp

có ảnh hưởng cùng chiều đến lao động nữ trong doanh nghiệp; (ii) ngược lại, chế độ

đãi ngộ lao động và vốn bình quân lao động lại thể hiện tương quan ngược chiều. Đối

với câu hỏi nghiên cứu thứ hai “Nếu so sánh nhóm ngành thâm dụng lao động nam và

nhóm ngành thâm dụng lao động nữ, thì phần chênh lệch giới trong việc làm đối với

lao động nữ được giải thích do phân biệt đối xử là bao nhiêu?”, kết quả nghiên cứu cho

thấy phân biệt đối xử đã giải thích 26,11% sự khác biệt về số lượng lao động nữ; và

87,78% sự khác biệt về tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động.

129

Kế đó, luận án phân tích sâu hơn về tác động của thương mại quốc tế đến sự

tham gia của lao động nữ trong chương 4, nhằm giải quyết mục tiêu nghiên cứu đánh

giá tác động của thương mại quốc tế đến sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ

nữ ở cấp độ doanh nghiệp Việt Nam. Với phương pháp Propensity Score Matching

(PSM) và bộ dữ liệu “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ”, những phát hiện

chính của chương này giúp trả lời câu hỏi nghiên cứu “Liệu thương mại quốc về và

việc mở rộng thương mại quốc tế (mở rộng hoạt động xuất khẩu tại các doanh nghiệp)

có giúp gia tăng sự tham gia vào lực lượng lao động của phụ nữ ở cấp độ doanh nghiệp

hay không?”. Theo đó, kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) thương mại quốc tế có tác

động cùng chiều đến đến sự tham gia của lao động nữ, qua so sánh giữa doanh nghiệp

có hoặc không có hoạt động xuất khẩu; (ii) đồng thời, nếu doanh nghiệp càng mở rộng

hoạt động xuất khẩu, số lượng lao động nữ và tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp

càng tăng.

Cuối cùng, với bộ dữ liệu “Điều tra mức sống dân cư” và phương pháp hồi quy

Instrumental Variable (IV), chương 5 giải quyết mục tiêu nghiên cứu xem xét ảnh

hưởng đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh lệch giới trong lực

lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ nhất “Mức độ

tham gia vào t hương mại quốc tế của hộ gia đình được đo lường như thế nào?”, nội

dung chương đã giới thiệu phương pháp tính của bộ chỉ số đo lường mức độ tham gia

vào thương mại quốc tế của hộ gia đình được đề xuất bởi Vo & Nguyen (2021). Đối

với câu hỏi nghiên cứu thứ hai “Thương mại quốc tế và mức sinh tác động đến khoảng

cách giới trong lực lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam như thế nào?”, kết quả

nghiên cứu cho thấy: (i) việc có con nhỏ ngăn cản người nữ tham gia vào thị trường

lao động, mặc dù thương mại quốc tế đã tạo ra nhiều việc làm hơn cho họ; (ii) tỷ lệ

thời gian làm việc của người vợ so với chồng chỉ tăng lên nếu con đã qua 6 tuổi. Khi

đó, cả thương mại quốc tế và mức sinh đều làm giảm khoảng cách giới về thời gian

làm việc. Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba “Những nhân tố nào khác có ảnh hưởng

đến khoảng cách giới trong lực lượng lao động hộ gia đình ở Việt Nam?”, thì thu nhập

và học vấn của người chồng, và việc sống chung với người có khả năng hỗ trợ chăm

sóc trẻ khi người mẹ đi làm là các yếu tố khác có tác động đến sự tham gia của lao

động nữ.

130

6.2. Đóng góp mới của nghiên cứu

6.2.1. Những điểm mới về lý thuyết

Tổng quan nghiên cứu cho thấy chưa có nghiên cứu nào trước đây sử dụng

đồng thời lý thuyết kinh tế học về phân biệt đối xử và lý thuyết về khoảng cách giới,

mức sinh và tăng trưởng làm lý thuyết nền. Do đó, khung phân tích được luận án này

đề xuất bằng cách kết hợp hai lý thuyết nêu trên là điểm khác biệt so với các nghiên

cứu khác. Nội dung khung phân tích thể hiện đầy đủ mối liên hệ giữa các khái niệm

chính, cách thức hai lý thuyết này bổ trợ cho nhau để làm giảm hạn chế của từng lý

thuyết, và việc vận dụng trong từng bài báo để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu.

Mặt khác, khung phân tích này là cơ sở để luận án xem xét sự tham gia vào lực lượng

lao động của phụ nữ ở cả phía cầu lẫn phía cung trong thị trường lao động.

Bên cạnh đó, nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu đo lường tác động

đồng thời của thương mại quốc tế và mức sinh đến chênh lệch giới trong lực lượng hộ

gia đình ở quốc gia đang phát triển, làm tiền đề cho các nghiên cứu về chênh lệch giới

dưới tác động đồng thời của các nhân tố quan trọng. Do trong khi thương mại quốc tế

được kỳ vọng là một trong những cách để làm giảm chênh lệch giới trong lực lượng

lao động hộ gia đình; thì mức sinh lại có thể là một trong những lý do kiềm hãm sự

tham gia của lao động nữ. Như vậy, đây cũng là một trong những đóng góp mới của

luận án.

6.2.2. Những điểm mới về thực nghiệm

Phương pháp phân rã đã được sử dụng nhiều để lý giải nguyên nhân chênh lệch

giới về tiền lương, tuy nhiên ít có nghiên cứu đề cập đến chênh lêch giới về việc làm.

Trong khi đó, tiền lương và việc làm là hai trọng tâm nghiên cứu trong phân biệt đối

xử về giới trong lực lượng lao động. Vì vậy, luận án có đóng góp mới khi sử dụng

phương pháp phân rã của Cotton (1988) và Oaxaca & Ransom (1994) để giải thích lý

do các doanh nghiệp có khuynh hướng thích sử dụng lao động nam hơn lao động nữ,

và xem xét chênh lệch giới về việc làm. Đồng thời, phương pháp phân rã nêu trên

được đánh giá là phù hợp hơn so với cách tiếp cận truyền thống của Oaxaca – Blinder,

do không chỉ giúp đưa ra các ước lượng chính xác hơn về các thành phần của chênh

lệch, mà còn mô hình hóa trạng thái thực của các tác động.

131

Ngoài ra, trong khi dữ liệu kinh tế vĩ mô được sử dụng phổ biến hơn trong các

nghiên cứu cùng chủ đề, thì luận án này sẽ ứng dụng các bộ dữ liệu vi mô. Vì vậy, đây

là sự khác biệt của luận án so với các nghiên cứu khác. Bên cạnh đó, tại chương 3,

nghiên cứu đã xây dựng một dữ liệu bảng từ các vòng “khảo sát doanh nghiệp vừa,

nhỏ và siêu nhỏ của Việt Nam” trong giai đoạn 2011 - 2015. Đây cũng là cách xử lý

dữ liệu ít được tiến hành trong các nghiên cứu trước đây.

Mặt khác, nhiều nghiên cứu trước đây không đo lường được tác động của

thương mại quốc tế ở cấp độ vi mô hộ gia đình. Vì vậy, việc luận án sử dụng bộ chỉ số

mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia đình - đề xuất bởi Vo & Nguyen

(2021), nhằm khắc phục nhược điểm của các bộ chỉ số trước đây cho trường hợp

nghiên cứu cũng là một đóng góp mới của luận án cho chủ đề nghiên cứu này. Mặc dù

trong luận án này, số liệu tính toán từ bộ chỉ số này được cung cấp sẵn bởi Vo &

Nguyen (2021), nhưng đây cũng là cơ hội để bộ chỉ số được giới thiệu rộng rãi đến các

nhà nghiên cứu có quan tâm.

6.2.3. Những điểm mới về thực tiễn chính sách

Các hoạt động thương mại quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra nhiều cơ hội

nhưng cũng đưa đến những thách thức lớn đối với sự tham gia và lực lượng lao động

của phụ nữ. Tuy nhiên, tại Việt Nam xét đến thời điểm hiện nay không nhiều nghiên

cứu thực hiện phân tích với tiếp cận ở góc độ vi mô, để đưa ra các kết luận về chủ đề

này. Hệ quả là các chính sách hướng đến làm giảm phân biệt đối xử về giới đối với lao

động nữ chưa thực sự chi tiết và đầy đủ. Do đó, đóng góp mới của luận án này thể hiện

qua việc bổ sung một tình huống nghiên cứu thú vị ở Việt Nam - quốc gia đang phát

triển có quá trình hội nhập mạnh mẽ và bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại dù tương đối

thấp, với tỷ lệ lao động nữ khá cao.

6.3. Đề xuất gợi ý một số chính sách

Những phát hiện chính của luận án này kỳ vọng mang lại cái nhìn sâu sắc về

các chính sách hướng đến xóa bỏ phân biệt đối xử về giới đối với tiền lương và việc

làm trong thị trường lao động, không chỉ áp dụng ở Việt Nam mà còn ở các quốc gia

đang phát triển khác.

Theo đó, kết quả nghiên cứu tại chương 3 hàm ý rằng các giải pháp trong tương

lai nên tập trung vào vấn đề tăng cường xúc tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu cho

132

doanh nghiệp; cải thiện hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành nghề, với các giải

pháp thu hút thêm nhiều hội viên mới. Hơn nữa, các ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp mở

rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh cũng mang lại nhiều lợi ích cho các lao

động nữ. Đồng thời, các chính sách nhằm thay đổi định kiến giới nên được tăng

cường; thông qua thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức bằng các khóa học và

các minh chứng cụ thể về những người đã chống lại được các thiên kiến tiêu cực.

Đồng thời, việc phụ nữ khởi sự kinh doanh cũng góp phần quan trọng trong tạo thêm

nhiều việc làm cho lao động nữ; vì vậy, công tác tăng cường hỗ trợ tài chính và tập

huấn cho các doanh nghiệp do nữ làm chủ hoặc quản lý là hết sức cần thiết.

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu tại chương 4 đề xuất các chính sách giải quyết

việc làm và bình đẳng giới về việc làm trong tương lai nên được thực hiện song song

với các chính sách khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường tham gia hoạt

động thương mại quốc tế. Do mặc dù các lĩnh vực chính sách trong nước nên được ưu

tiên đúng mức, nhưng chính sách thương mại quốc tế cũng góp phần nhất định trong

việc thúc đẩy mục tiêu trao quyền cho phụ nữ. Cụ thể, Việt Nam là một trong 127

thành viên WTO đã tán thành và thừa nhận “Tuyên bố chung về Thương mại và Trao

quyền kinh tế cho phụ nữ” (còn gọi là Tuyên bố Buenos Aires), khẳng định rằng “việc

cải thiện khả năng tiếp cận các cơ hội của phụ nữ, và loại bỏ các rào cản đối với sự

tham gia của họ trong thương mại quốc tế và đầu tư sẽ góp phần phát triển kinh tế bền

vững”. Vì vậy, các bên ký kết Tuyên bố Buenos Aires đã đồng ý chia sẻ kinh nghiệm

và phương pháp phân tích dựa trên giới đối với các chính sách thương mại quốc tế, để

giám sát tác động của các chính sách này. Đây là những nội dung cần tiếp tục thực

hiện trong thời gian tới.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu tại chương 5 cho thấy các giải pháp hỗ trợ cho

phụ nữ trong hoàn thành thiên chức làm mẹ cũng như tái sản xuất sức lao động cần

được tiếp tục thúc đẩy; trong đó, chú trọng các chương trình nuôi dưỡng trẻ em và nhà

giữ trẻ với giá cả phải chăng và dễ tiếp cận, như tiếp tục mở rộng việc cung cấp và

nâng cao chất lượng dịch vụ giữ trẻ từ 0 đến 03 tuổi và giáo dục mầm non từ 04 đến 06

tuổi. Ngoài ra, một số hoạt động can thiệp nhằm khuyến khích phân chia việc chăm

sóc gia đình và gánh nặng công việc cần được triển khai, ví dụ các quy định cho phép

nam và nữ giới có thời gian nghỉ chăm sóc con cái như nhau, hoặc những chương trình

133

thay đổi định kiến và thái độ của nam giới đối với các hoạt động phục vụ gia đình. Mặt

khác, cần tạo điều kiện cho nữ giới và trẻ em gái tiếp cận giáo dục và được đào tạo kỹ

năng.

6.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Một trong những hạn chế của luận án là về khung thời gian phân tích và số liệu

thu thập trong quá trình thực hiện. Cụ thể, dữ liệu bảng sử dụng trong chương 3 mặc

dù đáp ứng điều kiện thực hiện theo kinh tế lượng, nhưng độ dài thời gian chỉ gồm ba

vòng “Khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ”, với vòng khảo sát mới nhất là

năm 2015. Điều này tuy không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách

đề xuất từ nghiên cứu; nhưng các khuyến nghị đưa ra có thể lạc hậu so với thực tế.

Đồng thời, cũng do giới hạn về mặt dữ liệu, nội dung nghiên cứu tại chương 4

chỉ mới xem xét được việc duy trì hoạt động xuất khẩu qua tối đa ba thời kỳ. Trong

khi đó, ảnh hưởng cùng chiều của thương mại quốc tế trong vấn đề cải thiện phân biệt

đối xử về giới trong thị trường lao động được chứng minh dài hạn trong tổng quan

nghiên cứu. Vì vậy, việc sử dụng bộ dữ liệu có thời gian dài hơn sẽ giúp kiểm định tốt

hơn. Đây là gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo.

Mặt khác, trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu trước đây (ví dụ Chen và cộng

sự (2017)), luận án lập luận giả thuyết rằng tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao động sẽ

dự đoán được tình trạng phân biệt đối xử về việc làm trong doanh nghiệp. Điều này

phù hợp với mô hình phân biệt đối xử dựa trên khẩu vị của Becker (1971). Tuy nhiên,

có thể xảy ra tình huống tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp đang cao hơn tỷ lệ lao

động nam, nên khó kết luận rằng chủ doanh nghiệp phân biệt đối xử đối với nữ. Tương

tự, khi đề cấp đến vấn đề phân công lao động trong hộ gia đình, biến nghiên cứu được

sử dụng là tỷ lệ thời gian làm việc giữa chồng và vợ (tham khảo Bianchi và cộng sự

(2000)). Tuy nhiên, có thể xảy ra tình huống người chồng bị cắt giảm giờ làm việc,

còn người vợ không có thêm cơ hội việc làm nào; nên khi đó khó kết luận tình trạng

chênh lệch giới trong hộ gia đình được cải thiện mặc dù tỷ lệ thời gian làm việc giữa

chồng và vợ giảm. Vì không tìm được những công cụ đo lường tốt hơn, nên luận án

này vẫn xem xét tình trạng phân biệt đối xử trong doanh nghiệp cũng như chênh lệch

giới trong hộ gia đình thông qua sự thay đổi trong tỷ lệ lao động nữ và tỷ lệ thời gian

làm việc giữa chồng và vợ, như cách thực hiện trong nghiên cứu của các tác giả khác

134

trước đây, nhưng sẽ hết sức cẩn trọng khi đưa ra các nhận định; đồng thời, lưu ý các

nghiên cứu cùng chủ đề trong thời gian tới lựa chọn biến phù hợp hơn.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu chủ đề phân công lao động trong hộ gia đình tập

trung phân tích ba khía cạnh quan trọng dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa vợ và

chồng, bao gồm sự phụ thuộc nguồn lực, thời gian sẵn có và tư tưởng về giới (Braun

và cộng sự, 2008; Calasanti & Bailey, 1991). Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu, vấn đề

tư tưởng về giới chưa được đề cập đến trong nghiên cứu này. Vì vậy, gợi ý hướng

nghiên cứu tương lai là mở rộng phân tích khoảng cách giới về tiền lương và thời gian

làm việc trong hộ gia đình trên cơ sở xem xét những nhận thức liên quan đến giới.

135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

Vo, T. T., & Ha, T. T. (2021). Decomposition of gender bias in enterprise

employment: Insights from Vietnam. Economic Analysis and Policy, 70, 182-

194.

Thang T. Vo & Truong Thiet Ha (2022). Can international trade increase female

employment? Evidence from Vietnamese enterprises. In Proceedings of The 4rd

Asia Conference on Business and Economic Studies (ACBES 2022) by

University of Economics Ho Chi Minh City on 29th - 31st August 2022 at Ho

Chi Minh City, Vietnam. UEH Publishing House.

Thang T. Vo & Thiet-Ha Truong (2023). Gender division of household labor in

Vietnam: Role of international trade and fertility. Minor revision to Economic

Analysis and Policy.

136

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006). Luật Bình đẳng giới, số

73/2006/QH11.

Trần Thị Tuấn Anh (2016). Ứng dụng phương pháp hồi quy phân vị phân tích chênh

lệch tiền lương ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam.

Ủy ban Quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2004). Hướng tới bình đẳng giới

ở Việt Nam thông qua chu trình chính sách quốc gia có trách nhiệm giới. Dự án

VIE 01-015-01 “Giới trong chính sách công”.

Tiếng Anh

Abowd, J. M., & Lemieux, T. (2007). 13. The Effects of International Competition on

Collective Bargaining Outcomes: A Comparison of the United States and

Canada: University of Chicago Press.

ADB. (2016). Viet Nam, 2016 - 2020 Fostering More Inclusive and Environmentally

Sustainable Growth. Retrieved from

https://www.adb.org/sites/default/files/institutional-document/199661/cps-vie-

2016-2020.pdf

Agrawal, T. (2013). Are there glass-ceiling and sticky-floor effects in India? An

empirical examination. Oxford Development Studies, 41(3), 322-342.

doi:https://doi.org/10.1080/13600818.2013.804499

Aguayo-Tellez, E., Airola, J., & Juhn, C. (2014). Did trade liberalization help women?

The case of Mexico in the 1990s. Research in Labor Economics, 1-35.

doi:https://doi.org/10.1108/S0147-9121(2013)0000038001

Aguero, J. M., & Marks, M. S. (2008). Motherhood and female labor force

participation: evidence from infertility shocks. American Economic Review,

98(2), 500-504. doi:https://doi.org/10.1257/aer.98.2.500

Agüero, J. M., & Marks, M. S. (2011). Motherhood and female labor supply in the

developing world evidence from infertility shocks. Journal of Human

resources, 46(4), 800-826. doi:https://doi.org/10.3368/jhr.46.4.800

137

Ahn, N., & Mira, P. (2002). A note on the changing relationship between fertility and

female employment rates in developed countries. Journal of Population

Economics, 15(4), 667-682. doi:https://doi.org/10.1007/s001480100078

Aisenbrey, S., Evertsson, M., & Grunow, D. (2009). Is there a career penalty for

mothers' time out? A comparison of Germany, Sweden and the United States.

Social forces, 88(2), 573-605. doi:https://doi.org/10.1353/sof.0.0252

Albanesi, S., & Olivetti, C. (2016). Gender roles and medical progress. Journal of

Political Economy, 124(3), 650-695. doi:https://doi.org/10.1086/686035

Albrecht, J., Björklund, A., & Vroman, S. (2003). Is there a glass ceiling in Sweden?

Journal of labor Economics, 21(1), 145-177.

doi:https://doi.org/10.1086/344126

Altonji, J. G., & Blank, R. M. (1999). Race and gender in the labor market. Handbook

of labor economics, 3, 3143-3259. doi:https://doi.org/10.1016/S1573-

4463(99)30039-0

Angrist, J. D. (2001). Estimation of limited dependent variable models with dummy

endogenous regressors: simple strategies for empirical practice. Journal of

business & economic statistics, 19(1), 2-28.

doi:https://doi.org/10.1198/07350010152472571

Angrist, J. D., & Evans, W. N. (1998). Children and Their Parents' Labor Supply:

Evidence from Exogenous Variation in Family Size. American Economic

Review, 88(3), 450-477. doi:https://doi.org/10.3386/w5778

Arrow, K. (1973). The theory of discrimination, discrimination in labor markets.

Achenfelter, A. Ress (eds.), Princeton–New Jersey.

Arulampalam, W., Booth, A. L., & Bryan, M. L. (2007). Is there a glass ceiling over

Europe? Exploring the gender pay gap across the wage distribution. ILR

Review, 60(2), 163-186. doi:https://doi.org/10.1177%2F001979390706000201

Attanasio, O., Low, H., & Sánchez-Marcos, V. (2008). Explaining changes in female

labor supply in a life-cycle model. American Economic Review, 98(4), 1517-

1552. doi:https://doi.org/10.1257/aer.98.4.1517

138

Autor, D. H., Dorn, D., & Hanson, G. H. (2013). The China Syndrome: Local Labor

Market Effects of Import Competition in the United States. American Economic

Review, 2121-2168. doi:https://doi.org/10.1257/aer.103.6.2121

Aw, B. Y., Roberts, M. J., & Xu, D. Y. (2011). R&D investment, exporting, and

productivity dynamics. American Economic Review, 101(4), 1312-1344.

doi:https://doi.org/10.1257/aer.101.4.1312

Azmat, G., & Petrongolo, B. (2014). Gender and the labor market: What have we

learned from field and lab experiments? Labour Economics, 30, 32-40.

doi:https://doi.org/10.1016/j.labeco.2014.06.005

Bai, J., Choi, S. H., & Liao, Y. (2020). Feasible generalized least squares for panel

data with cross-sectional and serial correlations. Empirical Economics, 1-18.

doi:https://doi.org/10.1007/s00181-020-01977-2

Baker, M., & Fortin, N. M. (1999). Women's wages in women's work: A US/Canada

comparison of the roles of unions and" public goods" sector jobs. American

Economic Review, 89(2), 198-203. doi:https://doi.org/10.1257/aer.89.2.198

Baltagi, B. (2008). Econometric analysis of panel data: John Wiley & Sons.

Barcucci, V., Cole, W., & Gammarano, R. (2021). Gender and the labour market in

Viet Nam: An analysis based on the Labour Force Survey. Retrieved from

https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilo-

hanoi/documents/publication/wcms_774434.pdf

Barrientos, S., & Kabeer, N. (2004). Enhancing female employment in global

production: Policy implications. Global Social Policy, 4(2), 153–169.

Basile, R. (2001). Export behaviour of Italian manufacturing firms over the nineties:

the role of innovation. Research policy, 30(8), 1185-1201.

doi:https://doi.org/10.1016/S0048-7333(00)00141-4

Batalova, J. A., & Cohen, P. N. (2002). Premarital cohabitation and housework:

Couples in cross‐national perspective. Journal of Marriage and Family, 64(3),

743-755. doi:https://doi.org/10.1111/j.1741-3737.2002.00743.x

Beal, F. M. (2008). Double jeopardy: To be Black and female. Meridians: feminism,

race, transnationalism, 8(2), 166-176.

doi:https://doi.org/10.2979/MER.2008.8.2.166

139

Becker, G. S. (1957). The economics of discrimination (chicago: University of

chicago).

Becker, G. S. (1971). The Economics of Discrimination.(2d ed.)–Chicago. IL:

University of.

Becker, G. S. (1985). Human capital, effort, and the sexual division of labor. Journal

of labor Economics, 3(1, Part 2), S33-S58. doi:https://doi.org/10.1086/298075

Becker, S. O., Fernandes, A., & Weichselbaumer, D. (2019). Discrimination in hiring

based on potential and realized fertility: Evidence from a large-scale field

experiment. Labour Economics, 59, 139-152.

doi:https://doi.org/10.1016/j.labeco.2019.04.009

Becker, S. O., & Ichino, A. (2002). Estimation of average treatment effects based on

propensity scores. The stata journal, 2(4), 358-377.

doi:https://doi.org/10.1177%2F1536867X0200200403

Bell, D., & Heitmueller, A. (2009). The Disability Discrimination Act in the UK:

Helping or hindering employment among the disabled? Journal of health

economics, 28(2), 465-480. doi:https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2008.10.006

Bergmann, B. (2005). The economic emergence of women: Springer.

Bergmann, B. R. (1971). The effect on white incomes of discrimination in

employment. Journal of Political Economy, 79(2), 294-313.

doi:https://doi.org/10.1086/259744

Berik, G., Rodgers, Y. v. d. M., & Seguino, S. (2009). Feminist economics of

inequality, development, and growth. Feminist Economics, 15(3), 1-33.

doi:https://doi.org/10.1080/13545700903093524

Berik, G., Rodgers, Y. v. d. M., & Zveglich, J. E. (2004). International trade and

gender wage discrimination: Evidence from East Asia. Review of Development

Economics, 8(2), 237-254. doi:https://doi.org/10.1111/j.1467-

9361.2004.00230.x

Besamusca, J., Tijdens, K., Keune, M., & Steinmetz, S. (2015). Working women

worldwide. Age effects in female labor force participation in 117 countries.

World Development, 74, 123-141.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2015.04.015

140

Bianchi, S. M., Milkie, M. A., Sayer, L. C., & Robinson, J. P. (2000). Is anyone doing

the housework? Trends in the gender division of household labor. Social forces,

79(1), 191-228. doi:https://doi.org/10.1093/sf/79.1.191

Bianchi, S. M., & Spain, D. (1986). American women in transition: Russell Sage

Foundation.

Bielby, D. D., & Bielby, W. T. (1988). She works hard for the money: Household

responsibilities and the allocation of work effort. American journal of

sociology, 93(5), 1031-1059. doi:https://doi.org/10.1086/228863

Bimber, B. (2000). Measuring the gender gap on the Internet. Social science quarterly,

868-876. doi:https://doi.org/10.1.1.170.2885

Black, D. A. (1995). Discrimination in an equilibrium search model. Journal of labor

Economics, 13(2), 309-334. doi:https://doi.org/10.1086/298376

Black, S. E., & Brainerd, E. (2004). Importing equality? The impact of globalization

on gender discrimination. Industrial and Labor Relations Review, 57(4), 540-

559. doi:https://doi.org/10.1177%2F001979390405700404

Blackaby, D., Booth, A. L., & Frank, J. (2005). Outside offers and the gender pay gap:

Empirical evidence from the UK academic labour market. The Economic

Journal, 115(501), F81-F107. doi:https://doi.org/10.1111/j.0013-

0133.2005.00973.x

Blau, D. M., & Robins, P. K. (1988). Child-care costs and family labor supply. The

review of economics and statistics, 374-381.

doi:https://doi.org/10.2307/1926774

Blau, F. D., & Kahn, L. M. (2000). Gender differences in pay. Journal of Economic

perspectives, 14(4), 75-99. doi:https://doi.org/10.1257/jep.14.4.75

Blau, F. D., & Kahn, L. M. (2017). The gender wage gap: Extent, trends, and

explanations. Journal of economic Literature, 55(3), 789-865.

doi:https://doi.org/10.1257/jel.20160995

Blau, P. M., & Duncan, O. D. (1967). The American occupational structure. New

York: Wiley.

141

Bleaney, M., & Wakelin, K. (2002). Efficiency, innovation and exports. Oxford

Bulletin of economics and Statistics, 64(1), 3-15.

doi:https://doi.org/10.1111/1468-0084.00001

Blinder, A. S. (1973). Wage discrimination: reduced form and structural estimates.

Journal of Human resources, 436-455. doi:https://doi.org/10.2307/144855

Bloom, D. E., Canning, D., Fink, G., & Finlay, J. E. (2009). Fertility, female labor

force participation, and the demographic dividend. Journal of Economic

Growth, 14(2), 79-101. doi:https://doi.org/10.1007/s10887-009-9039-9

Bonaccorsi, A. (1992). On the relationship between firm size and export intensity.

Journal of international business studies, 23(4), 605-635.

doi:https://doi.org/10.1057/palgrave.jibs.8490280

Borjas, G. J., & Ramey, V. A. (1995). Foreign competition, market power, and wage

inequality. The Quarterly journal of economics, 110(4), 1075-1110.

doi:https://doi.org/10.2307/2946649

Braun, M., Lewin‐Epstein, N., Stier, H., & Baumgärtner, M. K. (2008). Perceived

equity in the gendered division of household labor. Journal of Marriage and

Family, 70(5), 1145-1156. doi:https://doi.org/10.1111/j.1741-

3737.2008.00556.x

Brayfield, A. A. (1992). Employment resources and housework in Canada. Journal of

Marriage and Family, 19-30. doi:https://doi.org/10.2307/353272

Brines, J. (1994). Economic dependency, gender, and the division of labor at home.

American journal of sociology, 100(3), 652-688.

doi:https://doi.org/10.1086/230577

Bronars, S. G., & Grogger, J. (1994). The economic consequences of unwed

motherhood: Using twin births as a natural experiment. The American

Economic Review, 1141-1156. Retrieved from

https://www.jstor.org/stable/2117765

Browning, M. (1992). Children and household economic behavior. Journal of

economic Literature, 30(3), 1434-1475. Retrieved from

https://www.jstor.org/stable/2728065

142

Buchhave, H., Cunningham, W., Nguyen, G. T., & Weimann-Sandi, N. (2020).

Perceptions of Gender Disparities in Vietnam’s Labor Market Retrieved from

https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/34895/Perceptio

ns-of-Gender-Disparities-in-Vietnam-s-Labor-

Market.pdf?sequence=1&isAllowed=y

Bui, Q. N., Hoang, T. X., & Le, N. T. (2018). The effect of domestic violence against

women on child welfare in Vietnam. Children and Youth Services Review, 94,

709-719. doi:https://doi.org/10.1016/j.childyouth.2018.09.024

Bumpass, L. L. (1990). What’s happening to the family? Interactions between

demographic and institutional change. Demography, 27(4), 483-498.

doi:https://doi.org/10.2307/2061566

Busse, M. (2002). Do labor standards affect comparative advantage in developing

countries? World Development, 30(11), 1921-1932.

doi:https://doi.org/10.1016/S0305-750X(02)00117-1

Busse, M., & Spielmann, C. (2006). Gender inequality and trade. Review of

International Economics, 14(3), 362-379. doi:https://doi.org/10.1111/j.1467-

9396.2006.00589.x

Bustos, P. (2011). Trade liberalization, exports, and technology upgrading: Evidence

on the impact of MERCOSUR on Argentinian firms. American Economic

Review, 101(1), 304-340. doi:https://doi.org/10.1257/aer.101.1.304

Cáceres-Delpiano, J. (2012). Can we still learn something from the relationship

between fertility and mother’s employment? Evidence from developing

countries. Demography, 49(1), 151-174. doi:https://doi.org/10.1007/s13524-

011-0076-6

Çağatay, N., & Özler, Ş. (1995). Feminization of the labor force: The effects of long-

term development and structural adjustment. World Development, 23(11),

1883-1894. doi:https://doi.org/10.1016/0305-750X(95)00086-R

Cain, G. G. (1966). Married women in the labor force. Chicago: University of Chicago

Press.

143

Cain, G. G. (1986). The economic analysis of labor market discrimination: A survey.

Handbook of labor economics, 1, 693-785. doi:https://doi.org/10.1016/S1573-

4463(86)01016-7

Calasanti, T. M., & Bailey, C. A. (1991). Gender inequality and the division of

household labor in the United States and Sweden: A socialist-feminist

approach. Social Problems, 38(1), 34-53. doi:https://doi.org/10.2307/800637

Caliendo, M., & Kopeinig, S. (2008). Some practical guidance for the implementation

of propensity score matching. Journal of economic surveys, 22(1), 31-72. doi:

Carrasco, R. (2001). Binary choice with binary endogenous regressors in panel data:

Estimating the effect of fertility on female labor participation. Journal of business &

economic statistics, 19(4), 385-394. doi:https://doi.org/10.1198/07350010152596637

https://doi.org/10.1111/j.1467-6419.2007.00527.x

Cavallo, E. A., & Frankel, J. A. (2008). Does openness to trade make countries more

vulnerable to sudden stops, or less? Using gravity to establish causality. Journal

of International Money and Finance, 27(8), 1430-1452.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2007.10.004

Cavusgil, S. T., & Zou, S. (1994). Marketing strategy-performance relationship: an

investigation of the empirical link in export market ventures. Journal of

Marketing, 58(1), 1-21. doi:https://doi.org/10.1177%2F002224299405800101

Chaffins, S., Forbes, M., Fuqua Jr, H. E., & Cangemi, J. P. (1995). The glass ceiling:

Are women where they should be? Education, 115(3), 380-387. Retrieved from

https://link.gale.com/apps/doc/A17039288/AONE?u=tacoma_comm&sid=goog

leScholar&xid=e62bc57f

Chen, H., Zhao, C., & Yu, W. (2017). Continued export trade, screening-matching and

gender discrimination in employment. China Economic Review, 42, 88-100.

doi:https://doi.org/10.1016/j.chieco.2016.12.001

Chen, J., Sousa, C. M., & He, X. (2016). The determinants of export performance: a

review of the literature 2006-2014. International Marketing Review.

doi:https://doi.org/10.1108/IMR-10-2015-0212

144

Chen, Z., Ge, Y., Lai, H., & Wan, C. (2013). Globalization and gender wage inequality

in China. World Development, 44, 256-266.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2012.11.007

Chi, W., & Li, B. (2008). Glass ceiling or sticky floor? Examining the gender earnings

differential across the earnings distribution in urban China, 1987–2004. Journal

of Comparative Economics, 36(2), 243-263.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jce.2007.12.001

Chiappori, P.-A. (1992). Collective labor supply and welfare. Journal of Political

Economy, 100(3), 437-467. doi:https://doi.org/10.1086/261825

Christofides, L. N., Polycarpou, A., & Vrachimis, K. (2013). Gender wage

gaps,‘sticky floors’ and ‘glass ceilings’ in Europe. Labour Economics, 21, 86-

102. doi:https://doi.org/10.1016/j.labeco.2013.01.003

Chun, H., & Oh, J. (2002). An instrumental variable estimate of the effect of fertility

on the labour force participation of married women. Applied Economics Letters,

9(10), 631-634. doi:https://doi.org/10.1080/13504850110117850

CIEM; DoE; ILSSA; UNU-WIDER (2012). Characteristics of the Vietnamese

business environment - Evidence from a SME survey in 2011. Retrieved from

https://www.wider.unu.edu/sites/default/files/Report-

Characteristics%20of%20the%20Vietnamese%20Business%20Environment-

Eng.pdf

CIEM; DoE; ILSSA; UNU-WIDER (2014). Characteristics of the Vietnamese

business environment - Evidence from a SME survey in 2013. Retrieved from

https://static-curis.ku.dk/portal/files/128889714/SME_report_2013.pdf

CIEM; DoE; ILSSA; UNU-WIDER (2016). Characteristics of the Vietnamese

business environment - Evidence from a SME survey in 2015. Retrieved from

https://www.wider.unu.edu/sites/default/files/SME2015-report-English.pdf

Coen-Pirani, D., León, A., & Lugauer, S. (2010). The effect of household appliances

on female labor force participation: Evidence from microdata. Labour

Economics, 17(3), 503-513. doi:https://doi.org/10.1016/j.labeco.2009.04.008

145

Cohen, P. N. (1998). Replacing housework in the service economy: Gender, class, and

race-ethnicity in service spending. Gender & Society, 12(2), 219-231.

doi:https://doi.org/10.1177%2F089124398012002006

Cohen, P. N. (2004). The Gender Division of Labor: “Keeping House” and

Occupational Segregation in the United States. Gender & Society, 18(2), 239-

252. doi:https://doi.org/10.1177%2F0891243203262037

Cohen, P. N., & Blanchi, S. M. (1999). Marriage, children, and women's employment:

What do we know. Monthly Lab. Rev., 122, 22. Retrieved from

http://www.terpconnect.umd.edu/~pnc/mlr1999.pdf

Coltrane, S. (2000). Research on household labor: Modeling and measuring the social

embeddedness of routine family work. Journal of Marriage and Family, 62(4),

1208-1233. doi:https://doi.org/10.1111/j.1741-3737.2000.01208.x

Conley, D., & Glauber, R. (2006). Parental educational investment and children’s

academic risk estimates of the impact of sibship size and birth order from

exogenous variation in fertility. Journal of Human resources, 41(4), 722-737.

doi:https://doi.org/10.3368/jhr.XLI.4.722

Contessi, S., De Nicola, F., & Li, L. (2014). International trade, female labor and

entrepreneurship in MENA countries. In The Economic and Political Aftermath

of the Arab Spring: Edward Elgar Publishing.

Cook, E. A., & Wilcox, C. (1991). Feminism and the gender gap--a second look. The

Journal of Politics, 53(4), 1111-1122. doi:https://doi.org/10.2307/2131869

Cornell, B., & Welch, I. (1996). Culture, information, and screening discrimination.

Journal of Political Economy, 104(3), 542-571.

doi:https://doi.org/10.1086/262033

Cotter, D. A., Hermsen, J. M., & Vanneman, R. (2001). Women's work and working

women: The demand for female labor. Gender & Society, 15(3), 429-452.

doi:https://doi.org/10.1177%2F089124301015003006

Cotton, J. (1988). On the decomposition of wage differentials. The review of

economics and statistics, 236-243. doi:https://doi.org/10.2307/1928307

Coverman, S. (1983). Gender, domestic labor time, and wage inequality. American

Sociological Review, 623-637. doi:https://doi.org/10.2307/2094923

146

Coverman, S. (1985). Explaining husbands'participation in domestic labor.

Sociological quarterly, 26(1), 81-97. doi:https://doi.org/10.1111/j.1533-

8525.1985.tb00217.x

Cramer, J. C. (1980). Fertility and female employment: Problems of causal direction.

American Sociological Review, 167-190. doi:https://doi.org/10.2307/2095117

Cruces, G., & Galiani, S. (2007). Fertility and female labor supply in Latin America:

New causal evidence. Labour Economics, 14(3), 565-573.

doi:https://doi.org/10.1016/j.labeco.2005.10.006

Cunningham, W., Alidadi, F., & Buchhave, H. (2018). Vietnam's Future Jobs : The

Gender Dimension. Retrieved from

http://documents.worldbank.org/curated/en/398191532522140333/pdf/128839-

WP-PUBLIC-P163147-WBFutureJobsGenderDimensionTA.pdf

De la Rica, S., Dolado, J. J., & Llorens, V. (2008). Ceilings or floors? Gender wage

gaps by education in Spain. Journal of Population Economics, 21(3), 751-776.

doi:https://doi.org/10.1007/s00148-006-0128-1

Dehejia, R. H., & Wahba, S. (2002). Propensity score-matching methods for

nonexperimental causal studies. Review of Economics and statistics, 84(1), 151-

161. doi:https://doi.org/10.1162/003465302317331982

Del Río, C., Gradín, C., & Cantó, O. (2011). The measurement of gender wage

discrimination: the distributional approach revisited. The Journal of Economic

Inequality, 9(1), 57-86. doi:https://doi.org/10.1007/s10888-010-9130-7

Doan, T., Ha, V., Tran, T., & Yang, J. (2023). Dynamics of wage inequality over the

pro-longed economic transformation: The case of Vietnam. Economic Analysis

and Policy, 78, 816-834. doi:https://doi.org/10.1016/j.eap.2023.04.029

Domínguez-Villalobos, L., & Brown-Grossman, F. (2010). Trade liberalization and

gender wage inequality in Mexico. Feminist Economics, 16(4), 53-79.

doi:https://doi.org/10.1080/13545701.2010.530582

Duflo, E. (2003). Grandmothers and granddaughters: old‐age pensions and

intrahousehold allocation in South Africa. The World Bank Economic Review,

17(1), 1-25. doi:https://doi.org/10.1093/wber/lhg013

147

Durand, J. D. (1975). The labor force in economic development and demographic

transition. Population Growth and Economic Development in the Third World.

Dolhain, Belgium: Oridna Edition, 47-78.

Ebenstein, A. (2009). When is the local average treatment close to the average?

Evidence from fertility and labor supply. Journal of Human resources, 44(4),

955-975. doi:https://doi.org/10.3368/jhr.44.4.955

Ederington, J., Minier, J., & Troske, K. R. (2009). Where the Girls Are: Trade and

labor market segregation in Colombia. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1395078

Eissa, N., & Hoynes, H. W. (2004). Taxes and the labor market participation of

married couples: the earned income tax credit. Journal of public Economics,

88(9-10), 1931-1958. doi:https://doi.org/10.1016/j.jpubeco.2003.09.005

El-Hamidi, F. (2008). Trade liberalization, gender segmentation, and Wage

Discrimination: Evidence from Egypt. Retrieved from http://d-

scholarship.pitt.edu/5756/1/F.El-Hamidi_Sectoral_Text8.pdf

Engelhardt, H., & Prskawetz, A. (2004). On the changing correlation between fertility

and female employment over space and time. European Journal of

Population/Revue européenne de Démographie, 20(1), 35-62.

doi:https://doi.org/10.1023/B:EUJP.0000014543.95571.3b

European Institute for Gender Equality (2021). Gender mainstreaming: concepts and

definition. Retrieved from https://eige.europa.eu/gender-

mainstreaming/concepts-and-definitions

Falvey, R., Foster, N., & Greenaway, D. (2012). Trade liberalization, economic crises,

and growth. World Development, 40(11), 2177-2193.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2012.03.020

Feenstra, R. C., & Hanson, G. H. (1996). Globalization, outsourcing, and wage

inequality. The American Economic Review, 86(2), 240-245.

doi:https://www.jstor.org/stable/2118130

Ferber, M. A., & Green, C. A. (1982). Traditional or reverse sex discrimination? A

case study of a large public university. ILR Review, 35(4), 550-564.

doi:https://doi.org/10.1177%2F001979398203500407

148

Fernández, R., & Fogli, A. (2009). Culture: An empirical investigation of beliefs,

work, and fertility. American economic journal: Macroeconomics, 1(1), 146-

177. doi:https://doi.org/10.1257/mac.1.1.146

Floge, L. (1989). Changing household structure, child-care availability, and

employment among mothers of preschool children. Journal of Marriage and

the Family, 51-63. doi:https://doi.org/10.2307/352368

Fofana, I., Cockburn, J., & Decaluwe, B. (2005). Developing country superwomen:

impacts of trade liberalisation on female market and domestic work. Retrieved

from https://papers.ssrn.com/soL3/papers.cfm?abstract_id=747666

Fontana, M., Joekes, S. P., & Masika, R. (1998). Global trade expansion and

liberalisation: gender issues and impacts: Institute of Development Studies

Brighton.

Fox, K. D., & Nickols, S. Y. (1983). The time crunch: Wife's employment and family

work. Journal of Family Issues, 4(1), 61-82.

doi:https://doi.org/10.1177%2F019251383004001004

Fukuda, K. (2019). Effects of trade liberalization on growth and welfare through basic

and applied researches. Journal of Macroeconomics, 62, 103058.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jmacro.2018.08.011

Fuwa, M. (2004). Macro-level gender inequality and the division of household labor in

22 countries. American Sociological Review, 69(6), 751-767.

doi:https://doi.org/10.1177%2F000312240406900601

Gaddis, I., & Pieters, J. (2012). Trade liberalization and female labor force

participation: Evidence from Brazil. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2157951

Galor, O., & Weil, D. N. (1996). The gender gap, fertility, and growth. The American

Economic Review, 86(3), 374-387. doi:https://doi.org/10.3386/w4550

Galor, O., & Weil, D. N. (2000). Population, technology, and growth: From

Malthusian stagnation to the demographic transition and beyond. American

Economic Review, 90(4), 806-828. doi:https://doi.org/10.1257/aer.90.4.806

149

Gashi, P., Hashi, I., & Pugh, G. (2014). Export behaviour of SMEs in transition

countries. Small Business Economics, 42(2), 407-435.

doi:https://doi.org/10.1007/s11187-013-9487-7

GEM (2012). 2012 Women’s Report. Retrieved from

https://www.gemconsortium.org/report/gem-2012-womens-report

GEM (2016). Global Entrepreneurship monitor Vietnam 2015/2016. Retrieved from:

https://www.gemconsortium.org/file/open?fileId=49759

GEM (2018). Global Entrepreneurship monitor Vietnam 2017/2018. Retrieved from:

https://www.gemconsortium.org/file/open?fileId=50236

General Statistics Office (2012). Report on Labor force survey 2011. Retrieved from

https://www.gso.gov.vn/wp-

content/uploads/2019/03/Sach_LDVL_2011_Vie_Final.pdf

General Statistics Office (2016). Report on Labor force survey 2015. Retrieved from

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2019/05/LDVL-2015.pdf

General Statistics Office (2019). Report on Labor force survey 2018. Retrieved from

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=19513

General Statistics Office. (2020). Completed results of the 2019 Viet Nam Population

and Housing Census. Retrieved from Ha Noi: https://www.gso.gov.vn/wp-

content/uploads/2019/12/Ket-qua-toan-bo-Tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-

2019.pdf

General Statistics Office (2021a). Gender Statistics in Vietnam 2020. Retrieved from

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2021/10/SACH-GIOI-_-

printed.pdf

General Statistics Office (2021b). Report on Labor force survey 2020. Retrieved from

https://www.gso.gov.vn/wp-

content/uploads/2022/02/sach_laodong_2020_b6.pdf

George, C. (2013). The truth about trade: the real impact of liberalization: Zed Books

Ltd.

Gershuny, J., & Sullivan, O. (2003). Time use, gender, and public policy regimes.

Social Politics: International Studies in Gender, State & Society, 10(2), 205-

228. doi:https://doi.org/10.1093/sp/jxg012

150

Giuntella, O., Rotunno, L., & Stella, L. (2021). Trade shocks, fertility, and marital

behavior. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3813651

Goldin, C. (1992). Understanding the gender gap: An economic history of American

women. OUP Catalogue.

Goldin, C. (2006). The quiet revolution that transformed women's employment,

education, and family. American Economic Review, 96(2), 1-21.

doi:https://doi.org/10.1257/000282806777212350

Goldin, C. (2021). Career and family: Women’s century-long journey toward equity.

Princeton University Press.

Goldin, C., & Katz, L. F. (2008). Transitions: Career and family life cycles of the

educational elite. American Economic Review, 98(2), 363-369.

doi:https://doi.org/10.1257/aer.98.2.363

Goldscheider, F. K., & Waite, L. J. (1991). New families, no families?: The

transformation of the American home (Vol. 6): Univ of California Press.

Goraus, K., Tyrowicz, J., & Van der Velde, L. (2017). Which gender wage gap

estimates to trust? A comparative analysis. Review of Income and Wealth,

63(1), 118-146. doi:https://doi.org/10.1111/roiw.12209

Gorman, E. H. (2005). Gender stereotypes, same-gender preferences, and

organizational variation in the hiring of women: Evidence from law firms.

American Sociological Review, 70(4), 702-728.

doi:https://doi.org/10.1177%2F000312240507000408

Gornick, J. C., Meyers, M. K., & Ross, K. E. (1997). Supporting the employment of

mothers: Policy variation across fourteen welfare states. Journal of European

social policy, 7(1), 45-70.

doi:https://doi.org/10.1177%2F095892879700700103

Greenstein, T. N. (1996). Gender ideology and perceptions of the fairness of the

division of household labor: Effects on marital quality. Social forces, 74(3),

1029-1042. doi:https://doi.org/10.1093/sf/74.3.1029

151

Greenwood, J., Seshadri, A., & Yorukoglu, M. (2005). Engines of liberation. The

Review of economic studies, 72(1), 109-133. doi:https://doi.org/10.1111/0034-

6527.00326

Grogan, L. (2013). Household formation rules, fertility and female labour supply:

Evidence from post-communist countries. Journal of Comparative Economics,

41(4), 1167-1183. doi:https://doi.org/10.1016/j.jce.2012.11.001

Gronau, R. (1977). Leisure, home production, and work--the theory of the allocation

of time revisited. Journal of Political Economy, 85(6), 1099-1123.

doi:https://doi.org/10.1086/260629

Guo, R., Li, H., Yi, J., & Zhang, J. (2018). Fertility, household structure, and parental

labor supply: Evidence from China. Journal of Comparative Economics, 46(1),

145-156. doi:https://doi.org/10.1016/j.jce.2017.10.005

Guryan, J., Hurst, E., & Kearney, M. (2008). Parental education and parental time with

children. Journal of Economic perspectives, 22(3), 23-46.

doi:https://doi.org/10.1257/jep.22.3.23

Handley, K. (2014). Exporting under trade policy uncertainty: Theory and evidence.

Journal of international Economics, 94(1), 50-66.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2014.05.005

Hare, D. (2016). What accounts for the decline in labor force participation among

married women in urban China, 1991–2011? China Economic Review, 38, 251-

266. doi:https://doi.org/10.1016/j.chieco.2016.01.004

Heath, R. (2017). Fertility at work: Children and women's labor market outcomes in

urban Ghana. Journal of Development Economics, 126, 190-214.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2016.11.003

Heath, R., & Jayachandran, S. (2016). The causes and consequences of increased

female education and labor force participation in developing countries.

Retrieved from:

https://www.nber.org/system/files/working_papers/w22766/w22766.pdf

Heckman, J. (1974). Shadow prices, market wages, and labor supply. Econometrica:

journal of the Econometric Society, 679-694.

doi:https://doi.org/10.2307/1913937

152

Heckman, J. J. (2014). Sample selection bias as a specification error with an

application to the estimation of labor supply functions: Princeton University

Press.

Helpman, E., Itskhoki, O., Muendler, M.-A., & Redding, S. J. (2017). Trade and

inequality: From theory to estimation. The Review of economic studies, 84(1),

357-405. doi:https://doi.org/10.1093/restud/rdw025

Helpman, E., Itskhoki, O., & Redding, S. (2010). Inequality and unemployment in a

global economy. Econometrica, 78(4), 1239-1283.

doi:https://doi.org/10.3982/ECTA8640

Hilgeman, C., & Butts, C. T. (2009). Women’s employment and fertility: A welfare

regime paradox. Social Science Research, 38(1), 103-117.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ssresearch.2008.08.005

Hochschild, A., & Machung, A. (2012). The second shift: Working families and the

revolution at home: Penguin.

Hollweg, C. (2017). How Do Exports Support Labor in Vietnam. Background paper

for “Vietnam’s Future Jobs: Leveraging Mega-Trends for Greater Prosperity,”

World Bank, Washington, DC.

Hsiao, C. (2014). Analysis of panel data: Cambridge university press.

Human Resources Development Canada (2002). Gender Equality in the Labour

Market. Retrieved from https://publications.gc.ca/collections/Collection/RH63-

2-149-10-99E.pdf

Hwang, J., Park, S., & Shin, D. (2018). Two birds with one stone: Female labor

supply, fertility, and market childcare. Journal of Economic Dynamics and

Control, 90, 171-193. doi:https://doi.org/10.1016/j.jedc.2018.02.008

IFC (2014). Women-owned SMEs: A Business Opportunity for Financial Institutions.

Retrieved from

http://documents.worldbank.org/curated/en/574801510949557053/pdf/933530

WP0Women0s0Box385379B00OUO090.pdf

IFC (2017). Women-onwed enterprises in Vietnam: Perceptions and Potential.

Retrieved from https://www.ifc.org/wps/wcm/connect/86bc0493-78fa-4c7d-

153

86ec-5858aa41fa1a/Market-study-on-Women-owned-enterprises-in-

Vietnam_Eng_v1.pdf?MOD=AJPERES&CVID=l-Yi6gF

ILO (2015a). Gender Equality in Recruitment and Promotion Practices in Viet Nam.

Retrieved from http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-

bangkok/---ilo-hanoi/documents/publication/wcms_349666.pdf

ILO (2015b). Women in Business and Management_Gaining momentum. Retrieved

from https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---dgreports/---dcomm/---

publ/documents/publication/wcms_316450.pdf

ILO (2015c). World Employment and Social Outlook: Trends 2015. Retrieved from

https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---dgreports/---dcomm/---

publ/documents/publication/wcms_337069.pdf

ILO (2016). Key indicators of the labour market. Retrieved from Geneva:

https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---dgreports/---

stat/documents/publication/wcms_498929.pdf

ILO (2017). World Employment and Social Outlook: Trends for women 2017.

Retrieved from Geneva: https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---

dgreports/---dcomm/---publ/documents/publication/wcms_541211.pdf

ILO (2020). Leading to Success: The business case for women in business and

management in Viet Nam. Retrieved from

https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilo-

hanoi/documents/publication/wcms_761063.pdf

ILO (2021a). Moving the needle: Gender equality and decent work in Asia's garment

sector. Retrieved from https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-

bangkok/documents/publication/wcms_807523.pdf

ILO (2021b). World Employment and Social Outlook: Trends 2021. Retrieved from

https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---dgreports/---dcomm/---

publ/documents/publication/wcms_795453.pdf

ILO & ILSSA (2018). Labour and Social Trends in Viet Nam 2012 - 2017. Retrieved

from Hanoi: https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/--

-ilo-hanoi/documents/publication/wcms_626102.pdf

154

Jacobsen, J. P., Pearce III, J. W., & Rosenbloom, J. L. (1999). The effects of

childbearing on married women's labor supply and earnings: using twin births

as a natural experiment. Journal of Human resources, 449-474.

doi:https://doi.org/10.2307/146376

Joekes, S. (1999). A gender-analytical perspective on trade and sustainable

development. Trade, sustainable development and gender, 33-59. Retrieved

from https://unctad.org/system/files/official-

document/poedmm78.en.pdf#page=30

Jones, F. L. (1983). Sources of gender inequality in income: what the Australian

Census says. Social forces, 62(1), 134-152.

doi:https://doi.org/10.1093/sf/62.1.134

Jones, L. E., Manuelli, R. E., & McGrattan, E. R. (2015). Why are married women

working so much? Journal of Demographic Economics, 81(1), 75-114.

doi:https://doi.org/10.1017/dem.2014.7

Juhn, C., & McCue, K. (2017). Specialization then and now: Marriage, children, and

the gender earnings gap across cohorts. Journal of Economic perspectives,

31(1), 183-204. doi:https://doi.org/10.1257/jep.31.1.183

Juhn, C., Ujhelyi, G., & Villegas-Sanchez, C. (2013). Trade liberalization and gender

inequality. American Economic Review, 103(3), 269-273.

doi:http://doi.org/10.1257/aer.103.3.269

Juhn, C., Ujhelyi, G., & Villegas-Sanchez, C. (2014). Men, women, and machines:

How trade impacts gender inequality. Journal of Development Economics, 106,

179-193. doi:https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2013.09.009

Kabeer, N. (2004). Globalization, labor standards, and women's rights: dilemmas of

collective (in) action in an interdependent world. Feminist Economics, 10(1), 3-

35. doi:https://doi.org/10.1080/1354570042000198227

Kalleberg, A. L., & Rosenfeld, R. A. (1990). Work in the family and in the labor

market: A cross-national, reciprocal analysis. Journal of Marriage and the

Family, 331-346. doi:https://doi.org/10.2307/353030

155

Keats, A. (2018). Women's schooling, fertility, and child health outcomes: Evidence

from Uganda's free primary education program. Journal of Development

Economics, 135, 142-159. doi:https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2018.07.002

Kee, H. J. (2006). Glass ceiling or sticky floor? Exploring the Australian gender pay

gap. Economic Record, 82(259), 408-427. doi:https://doi.org/10.1111/j.1475-

4932.2006.00356.x

Khandker, S., B. Koolwal, G., & Samad, H. (2009). Handbook on impact evaluation:

quantitative methods and practices: The World Bank.

Khandker, S. R. (1988). Determinants of women's time allocation in rural Bangladesh.

Economic Development and Cultural Change, 37(1), 111-126.

doi:https://doi.org/10.1086/451710

Kikuchi, T., Yanagida, K., & Vo, H. (2018). The effects of mega-regional trade

agreements on Vietnam. Journal of Asian Economics, 55, 4-19.

doi:https://doi.org/10.1016/j.asieco.2017.12.005

Killingsworth, M. R., & Heckman, J. J. (1986). Female labor supply: A survey.

Handbook of labor economics, 1, 103-204. doi:https://doi.org/10.1016/S1573-

4463(86)01005-2

Kimura, M., & Yasui, D. (2010). The Galor–Weil gender-gap model revisited: from

home to market. Journal of Economic Growth, 15(4), 323-351.

doi:https://doi.org/10.1007/s10887-010-9058-6

Klasen, S. (2019). What explains uneven female labor force participation levels and

trends in developing countries? The World Bank Research Observer, 34(2),

161-197. doi:https://doi.org/10.1093/wbro/lkz005

Klasen, S., & Lamanna, F. (2009). The impact of gender inequality in education and

employment on economic growth: new evidence for a panel of countries.

Feminist Economics, 15(3), 91-132.

doi:https://doi.org/10.1080/13545700902893106

Klerman, J. A., & Leibowitz, A. (1994). The work-employment distinction among new

mothers. Journal of Human resources, 277-303.

doi:https://doi.org/10.2307/146099

156

Kleven, H. J., Kreiner, C. T., & Saez, E. (2009). The optimal income taxation of

couples. Econometrica, 77(2), 537-560. doi:https://doi.org/10.3982/ECTA7343

Klumb, P., Hoppmann, C., & Staats, M. (2006). Division of labor in German

theoretical hypotheses. Journal of dual‐earner families: Testing equity

Marriage and Family, 68(4), 870-882. doi:https://doi.org/10.1111/j.1741-

3737.2006.00301.x

Korinek, J. (2005). Trade and gender: Issues and interactions. OECD Trade Policy

Papers(No. 24). doi:https://doi.org/10.1787/18166873

Korinek, J., Moïsé, E., & Tange, J. (2021). Trade and gender: A Framework of

analysis. Retrieved from https://www.oecd-ilibrary.org/docserver/6db59d80-

en.pdf?expires=1659664097&id=id&accname=guest&checksum=9B3902C900

80F30EDCCB2E5F18D13583

Krishna, P., & Mitra, D. (1998). Trade liberalization, market discipline and

productivity growth: new evidence from India. Journal of Development

Economics, 56(2), 447-462. doi:https://doi.org/10.1016/S0304-3878(98)00074-

1

Krugman, P. R. (1979). Increasing returns, monopolistic competition, and international

trade. Journal of international Economics, 9(4), 469-479.

doi:https://doi.org/10.1016/0022-1996(79)90017-5

Le, H. T., & Nguyen, H. T. (2018). The Gender Wage Gap in the Vietnamese

Transition, 1993–2008. Journal of Vietnamese Studies, 13(4), 71-111.

doi:https://doi.org/10.1525/vs.2018.13.4.71

Lee, B. S., Jang, S., & Sarkar, J. (2008). Women's labor force participation and

marriage: The case of Korea. Journal of Asian Economics, 19(2), 138-154.

doi:https://doi.org/10.1016/j.asieco.2007.12.012

Lehrer, E., & Nerlove, M. (1986). Female labor force behavior and fertility in the

United States. Annual review of sociology, 12(1), 181-204.

doi:https://doi.org/10.1146/annurev.so.12.080186.001145

Leonidou, L. C. (1998). Organizational determinants of exporting: conceptual,

methodological, and empirical insights. MIR: Management International

Review, 7-52. Retrieved from https://www.jstor.org/stable/40228472

157

Lincove, J. A. (2008). Growth, girls’ education, and female labor: a longitudinal

analysis. Journal of Developing Areas, 41(2), 45-68. Retrieved from

https://www.jstor.org/stable/40376175

Lindley, J. T., Fish, M., & Jackson, J. (1992). Gender differences in salaries: An

application to academe. Southern Economic Journal, 241-259.

doi:https://doi.org/10.2307/1060528

LiPuma, J. A., Newbert, S. L., & Doh, J. P. (2013). The effect of institutional quality

on firm export performance in emerging economies: a contingency model of

firm age and size. Small Business Economics, 40(4), 817-841.

doi:https://doi.org/10.1007/s11187-011-9395-7

Liu, A. Y. (2004a). Gender wage gap in Vietnam: 1993 to 1998. Journal of

Comparative Economics, 32(3), 586-596.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jce.2004.04.004

Liu, A. Y. (2004b). Sectoral gender wage gap in Vietnam. Oxford Development

Studies, 32(2), 225-239. doi:https://doi.org/10.1080/13600810410001699966

Lundberg, S. J., & Startz, R. (1983). Private discrimination and social intervention in

competitive labor market. The American Economic Review, 73(3), 340-347.

Retrieved from https://www.jstor.org/stable/1808117

Malathy, R. (1994). Education and women's time allocation to nonmarket work in an

urban setting in India. Economic Development and Cultural Change, 42(4),

743-760. doi:https://doi.org/10.1086/452118

Manning, C. (2010). Globalization and labour markets in boom and crisis: The case of

Vietnam. ASEAN Economic Bulletin, 136-157.

doi:https://doi.org/10.1355/ae27-1h

Maqsood, F. (2014). Impact of Globalization on Female Labor Force Participation in

the SAARC Region. Pakistan Journal of Social Sciences (PJSS), 34(2), 523-

533.

Marini, M. M., & Fan, P.-L. (1997). The gender gap in earnings at career entry.

American Sociological Review, 588-604. doi:https://doi.org/10.2307/2657428

Maurer-Fazio, M., Connelly, R., Chen, L., & Tang, L. (2011). Childcare, eldercare,

and labor force participation of married women in urban China, 1982–2000.

158

Journal of Human resources, 46(2), 261-294.

doi:https://doi.org/10.3368/jhr.46.2.261

McAllister, I. (1990). Gender and the household division of labor: employment and

earnings variations in Australia. Work and Occupations, 17(1), 79-99.

doi:https://doi.org/10.1177%2F0730888490017001004

McKay, S., & Tate, U. (2001). Student attitudes regarding gender bias in performance

evaluations of salespeople. Journal of Business and Psychology, 16(2), 249-

258. doi:https://doi.org/10.1023/A:1011161217231

Melly, B. (2006). Estimation of counterfactual distributions using quantile regression.

Retrieved from https://www.alexandria.unisg.ch/22644/2/Counterfactual.pdf

Menon, N., & Van der Meulen Rodgers, Y. (2009). International trade and the gender

wage gap: New evidence from India’s manufacturing sector. World

Development, 37(5), 965-981.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2008.09.009

Mertens, M. (2020). Labor market power and the distorting effects of international

trade. International Journal of Industrial Organization, 68, 102562.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ijindorg.2019.102562

Michaud, P. C., & Tatsiramos, K. (2011). Fertility and female employment dynamics

in Europe: the effect of using alternative econometric modeling assumptions.

Journal of applied econometrics, 26(4), 641-668.

doi:https://doi.org/10.1002/jae.1133

Miesenbock, K. J. (1988). Small businesses and exporting: a literature review.

International small business journal, 6(2), 42-61.

doi:https://doi.org/10.1177%2F026624268800600204

Mincer, J. (1962). Labor force participation of married women: A study of labor

supply. In Aspects of labor economics (pp. 63-105): Princeton University Press.

Ministry of Planning and Investment (2021). The White Book on Vietnamese

Businesses 2021. Retrieved from https://www.gso.gov.vn/wp-

content/uploads/2021/08/02-Sach-trang-DNVN-2021-so-lieu.pdf

159

Moffitt, R. (1984). Profiles of fertility, labour supply and wages of married women: A

complete life-cycle model. The Review of economic studies, 51(2), 263-278.

doi:https://doi.org/10.2307/2297691

Mroz, T. A. (1987). The sensitivity of an empirical model of married women's hours

of work to economic and statistical assumptions. Econometrica: journal of the

Econometric Society, 765-799. doi:https://doi.org/10.2307/1911029

Musick, K., Bea, M. D., & Gonalons-Pons, P. (2020). His and her earnings following

parenthood in the United States, Germany, and the United Kingdom. American

Sociological Review, 85(4), 639-674.

doi:https://doi.org/10.1177%2F0003122420934430

Naito, T. (2017). Growth and welfare effects of unilateral trade liberalization with

heterogeneous firms and asymmetric countries. Journal of international

Economics, 109, 167-173. doi:https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2017.08.011

Naylor, R. (1998). International trade and economic integration when labour markets

are generally unionised. European Economic Review, 42(7), 1251-1267.

doi:https://doi.org/10.1016/S0014-2921(97)00075-5

Neumark, D. (1988). Employers' discriminatory behavior and the estimation of wage

discrimination. Journal of Human resources, 279-295.

doi:https://doi.org/10.2307/145830

Neumark, D., Bank, R. J., & Van Nort, K. D. (1996). Sex discrimination in restaurant

hiring: An audit study. The Quarterly journal of economics, 111(3), 915-941.

doi:https://doi.org/10.2307/2946676

Neumayer, E., & De Soysa, I. (2007). Globalisation, women's economic rights and

forced labour. World Economy, 30(10), 1510-1535.

doi:https://doi.org/10.1111/j.1467-9701.2007.01060.x

Ngai, L. R., & Petrongolo, B. (2017). Gender gaps and the rise of the service

economy. American economic journal: Macroeconomics, 9(4), 1-44.

doi:https://doi.org/10.1257/mac.20150253

Nguyen, D. H. L., & Hoang, L. (2006). Public-private sector wage differentials for

males in females in Vietnam. In: Vietnam-Netherlands project for Master

degree on Economics of Development, Hanoi.

160

Oaxaca, R. (1973). Male-female wage differentials in urban labor markets.

International economic review, 693-709. doi:http://doi.org/10.2307/252598

Oaxaca, R. L., & Ransom, M. R. (1994). On discrimination and the decomposition of

wage differentials. Journal of econometrics, 61(1), 5-21.

doi:https://doi.org/10.1016/0304-4076(94)90074-4

OECD (2014). Women, Government and Policy Making in OECD Countries:

Fostering Diversity for Inclusive Growth. Retrieved from https://read.oecd-

ilibrary.org/governance/women-government-and-policy-making-in-oecd-

countries_9789264210745-en#page1

OECD (2021). SME and Entrepreneurship Policy in Viet Nam. Retrieved from Paris:

https://www.oecd-ilibrary.org/sites/30c79519-

en/index.html?itemId=/content/publication/30c79519-en

Onafowora, O. A., & Owoye, O. (1998). Can trade liberalization stimulate economic

growth in Africa? World Development, 26(3), 497-506.

doi:https://doi.org/10.1016/S0305-750X(97)10058-4

Orbeta, A. C. (2002). Globalization and employment: The impact of trade on

employment level and structure in the Philippines. Retrieved from

https://www.econstor.eu/bitstream/10419/127787/1/pids-dps2002-04.pdf

Orloff, A. S. (2002). Women’s employment and welfare regimes: Globalization,

export orientation and social policy in Europe and North America. Retrieved

from https://hdl.handle.net/1813/99043

Orser, B., Spence, M., Riding, A., & Carrington, C. A. (2010). Gender and export

propensity. Entrepreneurship Theory and Practice, 34(5), 933-958.

doi:https://doi.org/10.1111/j.1540-6520.2009.00347.x

OXFAM (2016). Underpaid and Undervalued: How Innequality defines women’s

work in Asia. Retrieved from https://cng-

cdn.oxfam.org/vietnam.oxfam.org/s3fs-public/file_attachments/Underpaid-

Undervalued%20(1).pdf

Padavic, I., & Reskin, B. F. (2002). Women and men at work: Pine Forge Press.

161

Pampel, F. C., & Tanaka, K. (1986). Economic development and female labor force

participation: A reconsideration. Social forces, 64(3), 599-619.

doi:https://doi.org/10.1093/sf/64.3.599

Pham, D. M., Hollweg, C. H., Mtonya, B., Winkler, D. E., & Nguyen, T. (2019).

Vietnam: Connecting Value Chains for Trade Competitiveness: World Bank.

Pham, T.-H., & Reilly, B. (2007). The gender pay gap in Vietnam, 1993–2002: A

quantile regression approach. Journal of Asian Economics, 18(5), 775-808.

doi:https://doi.org/10.1016/j.asieco.2007.04.001

Pham, T., & Talavera, O. (2018). Discrimination, social capital, and financial

constraints: The case of Viet Nam. World Development, 102, 228-242.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2017.10.005

Phelps, E. S. (1972). The statistical theory of racism and sexism. The American

Economic Review, 62(4), 659-661. Retrieved from

https://www.jstor.org/stable/1806107

Piazzalunga, D., & Di Tommaso, M. L. (2019). The increase of the gender wage gap

in Italy during the 2008-2012 economic crisis. The Journal of Economic

Inequality, 17(2), 171-193. doi:https://doi.org/10.1007/s10888-018-9396-8

Presser, H. B. (1994). Employment schedules among dual-earner spouses and the

division of household labor by gender. American Sociological Review, 348-364.

doi:https://doi.org/10.2307/2095938

Presser, H. B. (1999). Toward a 24-Hour Economy. Science, 284(5421), 1778-1778.

doi:https://doi.org/10.1126/science.284.5421.1778

Psacharopoulos, G., & Tzannatos, Z. (1989). Female labor force participation: An

international perspective. The World Bank Research Observer, 4(2), 187-201.

doi:https://doi.org/10.1093/wbro/4.2.187

Qian, N. (2008). Missing women and the price of tea in China: The effect of sex-

specific earnings on sex imbalance. The Quarterly journal of economics,

123(3), 1251-1285. doi:https://doi.org/10.1162/qjec.2008.123.3.1251

Rahman, M. M. (2014). Trade Liberalization and Gender Gap: Bangladesh

Experience. The Journal of Applied Business and Economics, 16(2), 57.

162

Retrieved from

https://eprints.usq.edu.au/20801/2/Rahman_ETSG_2011_PV.pdf

Rand, J., & Torm, N. (2012). The informal sector wage gap among Vietnamese micro-

firms. Journal of the Asia Pacific Economy, 17(4), 560-577.

doi:https://doi.org/10.1080/13547860.2012.724544

Riach, P. A., & Rich, J. (2006). An experimental investigation of sexual discrimination

in hiring in the English labor market. Advances in Economic Analysis & Policy,

5(2). doi:https://doi.org/10.2202/1538-0637.1416

Rindfuss, R. R., & Brewster, K. L. (1996). Childrearing and fertility. Population and

Development Review, 22, 258-289. doi:https://doi.org/10.2307/2808014

Rindfuss, R. R., Guzzo, K. B., & Morgan, S. P. (2003). The changing institutional

context of low fertility. Population Research and Policy Review, 22(5-6), 411-

438. doi:https://doi.org/10.1023/B:POPU.0000020877.96401.b3

Rosén, Å. (2003). Search, bargaining, and employer discrimination. Journal of labor

Economics, 21(4), 807-829. doi:https://doi.org/10.1086/377018

Rosenbaum, P. R., & Rubin, D. B. (1983). The central role of the propensity score in

observational studies for causal effects. Biometrika, 70(1), 41-55.

doi:https://doi.org/10.1093/biomet/70.1.41

Rosenzweig, M. R., & Wolpin, K. I. (1980). Life-cycle labor supply and fertility:

Causal inferences from household models. Journal of Political Economy, 88(2),

328-348. doi:https://doi.org/10.1086/260868

Ruiz-Cantero, M. T., Vives-Cases, C., Artazcoz, L., Delgado, A., Calvente, M. d. M.

G., Miqueo, C., . . . Ruiz, I. (2007). A framework to analyse gender bias in

epidemiological research. Journal of Epidemiology & Community Health,

61(Suppl 2), ii46-ii53. doi:https://doi.org/10.1177%2F0049124184012003004

Ruzzier, M., Antoncic, B., Hisrich, R. D., & Konecnik, M. (2007). Human capital and

SME internationalization: A structural equation modeling study. Canadian

Journal of Administrative Sciences/Revue Canadienne des Sciences de

l'Administration, 24(1), 15-29. doi:https://doi.org/10.1002/cjas.3

163

Sauré, P., & Zoabi, H. (2014). International trade, the gender wage gap and female

labor force participation. Journal of Development Economics, 111, 17-33.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2014.07.003

Schultz, T. P. (2007). 11 Does the liberalization of trade advance gender equality in

schooling and health? The Future of Globalization: Explorations in Light of

Recent Turbulence, 178.

Sebastian, E., Gabriel, D., & Diji, C. B. (2016). Sustaining success: Priorities for

Inclusive and Sustainable Growth. Retrieved from Washington:

https://documents1.worldbank.org/curated/en/334491474293198764/pdf/10834

8-REVISED-PUBLIC-ACS.pdf

Seguino, S. (2000). Accounting for gender in Asian economic growth. Feminist

Economics, 6(3), 27-58. doi:https://doi.org/10.1080/135457000750020128

Seguino, S., & Grown, C. (2006). Gender equity and globalization: Macroeconomic

policy for developing countries. Journal of International Development: The

Journal of the Development Studies Association, 18(8), 1081-1104.

doi:https://doi.org/10.1002/jid.1295

Semyonov, M. (1980). The social context of women's labor force participation: A

comparative analysis. American journal of sociology, 86(3), 534-550.

doi:https://doi.org/10.1086/227280

Shelton, B. A., & John, D. (1996). The division of household labor. Annual review of

sociology, 299-322. doi:https://doi.org/10.1146/annurev.soc.22.1.299

Sheran, M. (2007). The career and family choices of women: A dynamic analysis of

labor force participation, schooling, marriage, and fertility decisions. Review of

Economic Dynamics, 10(3), 367-399.

doi:https://doi.org/10.1016/j.red.2006.11.004

Shinkle, G. A., & Kriauciunas, A. P. (2010). Institutions, size and age in transition

economies: Implications for export growth. Journal of international business

studies, 41(2), 267-286. doi:https://doi.org/10.1057/jibs.2009.9

Siegel, C. (2017). Female relative wages, household specialization and fertility.

Review of Economic Dynamics, 24, 152-174.

doi:https://doi.org/10.1016/j.red.2017.01.010

164

Siegmann, K. A. (2006). Gender and globalisation in South Asia. South Asian Journal,

12, 50-64.

Simon, R. J., & Landis, J. M. (1989). A report: Women's and men's attitudes about a

woman's place and role. Public Opinion Quarterly, 53(2), 265-276.

doi:https://doi.org/10.1086/269508

Slaughter, M. J. (2001). International trade and labor–demand elasticities. Journal of

international Economics, 54(1), 27-56. doi:https://doi.org/10.1016/S0022-

1996(00)00057-X

Sousa, C. M., Martínez‐López, F. J., & Coelho, F. (2008). The determinants of export

performance: A review of the research in the literature between 1998 and 2005.

International Journal of Management Reviews, 10(4), 343-374.

doi:https://doi.org/10.1111/j.1468-2370.2008.00232.x

Spain, D., & Bianchi, S. (1996). Balancing act: Motherhood, marriage, and

employment among American women: Russell Sage Foundation.

Spielmann, C., & Busse, M. (2005). Gender inequality and Trade. Retrieved from

https://www.econstor.eu/bitstream/10419/19801/1/Busse.pdf

Spierings, N., Smits, J., & Verloo, M. (2010). Micro‐and macrolevel determinants of

women's employment in six Arab countries. Journal of Marriage and Family,

72(5), 1391-1407. doi:https://doi.org/10.1111/j.1741-3737.2010.00772.x

Squalli, J., & Wilson, K. (2011). A new measure of trade openness. The World

Economy, 34(10), 1745-1770. doi:https://doi.org/10.1111/j.1467-

9701.2011.01404.x

Steiber, N., & Haas, B. (2012). Advances in explaining women's employment patterns.

Socio-Economic Review, 10(2), 343-367.

doi:https://doi.org/10.1093/ser/mwr039

Sterlacchini, A. (2001). The determinants of export performance: A firm-level study of

Italian manufacturing. Review of World Economics, 137(3), 450-472.

doi:https://doi.org/10.1007/BF02707626

Swamy, G. (2004). International trade and women. Economic and Political weekly,

4885-4889. Retrieved from https://www.jstor.org/stable/4415765

165

Tam, H. (2011). U-shaped female labor participation with economic development:

Some panel data evidence. Economics Letters, 110(2), 140-142.

doi:https://doi.org/10.1016/j.econlet.2010.11.003

Terborg, J. R., & Ilgen, D. R. (1975). A theoretical approach to sex discrimination in

traditionally masculine occupations. Organizational behavior and human

performance, 13(3), 352-376. doi:https://doi.org/10.1016/0030-5073(75)90056-

2

Thomas, D. (1990). Intra-household resource allocation: An inferential approach.

Journal of Human resources, 635-664. doi:https://doi.org/10.2307/145670

Treiman, D. J., & Terrell, K. (1975). Sex and the process of status attainment: A

comparison of working women and men. American Sociological Review, 174-

200. doi:https://doi.org/10.2307/2094344

UN Women (2015). Gender Responsive Budgeting in the Verification and Monitoring

of the Budger Implementation of the People’s Council (Toward the application

of the gender equality principle of the Sate Budget Law 2015). Retrieved from

https://vietnam.un.org/sites/default/files/2019-08/GRB-ENG-FINAL-

COMPRESSED.pdf

UNDP (2015). Gender and Economic Policy Management Initiative - Asia and the

Pacific: Gender and Trade. Retrieved from Thailand:

https://www.undp.org/asia-pacific/publications/gepmi-module-09-

%E2%80%93-gender-and-trade

UNICEF (2017). Gender Equality: Glossary of Terms and Concepts. Retrieved from

https://www.unicef.org/rosa/media/1761/file/Gender%20glossary%20of%20ter

ms%20and%20concepts%20.pdf

Uttal, L. (2002). Making care work: Employed mothers in the new childcare market:

Rutgers University Press.

Van Dijk, M. (2002). The determinants of export performance in developing countries:

The case of Indonesian manufacturing. Eindhoven Centre for Innovation

Studies Working Paper, 2(01).

Verick, S. (2014). Female labor force participation in developing countries. IZA World

of Labor. doi:https://doi.org/10.15185/izawol.87

166

VEPR & GRIPS (2020). Viet Nam Productivity Report. Retrieved from

https://www.grips.ac.jp/forum/pdf20/[EN]VNProductivityReport_PreliminaryF

inal2020_0904.pdf

Vo, T. T., & Nguyen, D. X. (2021). Impact of Trade Liberalization on Household

Welfare: An Analysis Using Household Exposure-to-Trade Indices. Social

Indicators Research, 153(2), 503-531. doi:https://doi.org/10.1007/s11205-020-

02499-1

Wacziarg, R., & Welch, K. H. (2008). Trade liberalization and growth: New evidence.

The World Bank Economic Review, 22(2), 187-231.

doi:https://doi.org/10.1093/wber/lhn007

Wagner, J. (1995). Exports, firm size, and firm dynamics. Small Business Economics,

7(1), 29-39. doi:https://doi.org/10.1007/BF01074314

WB (2020). Vibrant Vietnam: Forging the Foundation of a High-Income Economy.

Retrieved from Ha Noi:

https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/33831

WB (2022). World Bank economic indicators database. Retrieved from

https://data.worldbank.org/indicator

WB & WTO (2020). Women and Trade : The Role of Trade in Promoting Gender

Equality. Retrieved from Washington:

https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/34140

WEF (2020). Global Gender Gap Report 2020. Retrieved from

http://www3.weforum.org/docs/WEF_GGGR_2020.pdf

WEF (2021). Global Gender Gap Report 2021. Retrieved from

http://www3.weforum.org/docs/WEF_GGGR_2021.pdf

Wharton, A. S. (2009). The sociology of gender: An introduction to theory and

research: John Wiley & Sons.

Wignaraja, G. (2002). Firm size, technological capabilities and market-oriented

policies in Mauritius. Oxford Development Studies, 30(1), 87-104.

doi:https://doi.org/10.1080/136008101200114912

Winters, L. A. (2002). Trade liberalisation and poverty: what are the links? World

Economy, 25(9), 1339-1367. doi:https://doi.org/10.1111/1467-9701.00495

167

Winters, L. A. (2004). Trade liberalisation and economic performance: an overview.

The Economic Journal, 114(493), F4-F21. doi:https://doi.org/10.1111/j.0013-

0133.2004.00185.x

Winters, L. A., & Martuscelli, A. (2014). Trade liberalization and poverty: What have

we learned in a decade? Annu. Rev. Resour. Econ., 6(1), 493-512.

doi:https://doi.org/10.1146/annurev-resource-110713-105054

Winters, L. A., McCulloch, N., & McKay, A. (2004). Trade liberalization and poverty:

the evidence so far. Journal of economic Literature, 42(1), 72-115.

doi:https://doi.org/10.1257/002205104773558056

WTO. (2016). World trade statistical review 2016. Retrieved from

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/wts2016_e/wts2016_e.pdf

WTO. (2021). World trade statistical review 2021. Retrieved from

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/wts2021_e/wts2021_e.pdf

WTO. (2022). World trade statistical review 2022. Retrieved from

https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/wtsr_2022_e.pdf

Zou, S., & Stan, S. (1998a). The determinants of export performance: a review of the

empirical literature between 1987 and 1997. International Marketing Review.

doi:https://doi.org/10.1108/02651339810236290

Zou, S., & Stan, S. (1998b). The determinants of export performance: a review of the

empirical literature between 1987 and 1997. International Marketing Review,

15(5), 333-356. doi:https://psycnet.apa.org/doi/10.1108/02651339810236290

168

PHỤ LỤC 1.1

Năm/Số nước được xếp hạng

Chỉ số khoảng cách giới, Tiểu chỉ số “Sự tham gia và cơ hội kinh tế” và các chỉ số thành phần của Tiểu chỉ số này

2007 (128 nước)

2008 (130 nước)

2009 (130 nước)

2010 (134 nước)

2011 (135 nước)

2012 (135 nước)

2013 (136 nước)

2014 (142 nước)

2015 (145 nước)

2016 (144 nước)

2017 (144 nước)

2018 (149 nước)

2019 (153 nước)

2020 (156 nước)

72

71

68

42

83

73

79

66

76

65

69

77

87

Điểm chung

41

52

11

24

25

33

40

44

41

33

33

33

31

Sự tham gia và cơ hội kinh tế

Thứ hạng Chỉ số Thứ hạng Chỉ số

87 0,689 0.678 0,680 0,678 0,673 0,687 0,686 0,692 0,687 0,700 0,689 0,698 0,700 0,701 26 0,745 0,729 0,735 0,721 0,711 0,710 0,702 0,726 0,731 0,736 0,738 0,740 0,751 0,765

Thứ hạng

8

8

13

12

13

13

17

21

21

23

24

32

30

30

lực

Tham gia lượng lao động

Chỉ số

0,940 0,940 0,920 0,920 0,920 0,920 0,920 0,920 0,920 0,919 0,920 0,910 0,916 0,920

Thứ hạng

21

43

23

39

53

54

68

79

78

77

68

71

62

33

Chỉ số

0,770 0,720 0,740 0,710 0,690 0,680 0,650 0,630 0,630 0,636 0,646 0,647 0,678 0,729

Mức lương bình đẳng cho công tự tương việc (khảo sát)

Thứ hạng

9

12

16

28

29

32

34

17

19

7

9

9

8

11

Thu nhập (PPP US$)

Chỉ số

0,710 0,700 0,710 0,690 0,690 0,690 0,690 0,820 0,830 0,826 0,821 0,821 0,820 0,819

Thứ hạng

72

79

84

84

83

83

85

91

87

82

85

94

97

104

Chức vụ quản lý và cao cấp

Chỉ số

0,280 0,280 0,280 0,280 0,280 0,280 0,280 0,300 0,320 0,348 0,348 0,374 0,376 0,349

Thứ hạng

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

Chỉ số

1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000

Công nhân kỹ thuật chuyên nghiệp

Nguồn: Báo cáo Global Gender Gap (World Economic Forum) qua các năm

169

PHỤ LỤC 1.2

TỶ LỆ THAM GIA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG

Đơn vị tính: %

Địa bàn Chỉ tiêu

Toàn quốc

8,7 9,1 8,9 9,2 10,1

Châu Á Thái Bình Dương

Thế giới

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2020 và website https://www.ilo.org/wesodata/

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 77,4 77,0 76,8 77,5 77,7 77,8 77,3 76,7 76,8 76,8 74,4 82,0 81,7 81,2 82,1 82,5 83,0 82,4 81,9 82,3 81,9 79,9 73,0 72,6 72,5 73,2 73,3 72,9 72,5 71,9 71,6 71,8 69,0 9,9 10,0 10,7 10,1 10,9 9,0 67,8 68,3 68,3 67,8 67,8 67,6 67,2 66,8 67,1 67,1 65,7 79,6 80,2 80,2 79,7 79,7 79,4 78,9 78,4 78,5 78,4 76,8 56,3 56,7 56,7 56,2 56,2 56,1 55,8 55,5 55,9 56,1 54,8 23,3 23,5 23,5 23,5 23,5 23,3 23,1 22,9 22,6 22,3 22,0 62,2 62,0 61,7 61,4 61,2 61,1 60,9 60,7 60,6 60,5 58,6 75,5 75,4 75,1 74,8 74,5 74,3 74,0 73,7 73,4 73,3 71,3 48,8 48,6 48,3 48,1 48,0 47,9 47,9 47,8 47,7 47,8 46,0 26,7 26,8 26,8 26,7 26,5 26,4 26,1 25,9 25,7 25,5 25,3 Chung Nam Nữ Chênh lệch nam - nữ Chung Nam Nữ Chênh lệch nam - nữ Chung Nam Nữ Chênh lệch nam - nữ

170

PHỤ LỤC 1.3

THU NHẬP TỪ VIỆC LÀM BÌNH QUÂN/THÁNG CỦA LAO ĐỘNG LÀM CÔNG ĂN LƯƠNG Đơn vị tính: Nghìn đồng, %

Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Tổng số

9,7

9,4

10,9

10,1

10,4

13,1

13,9

10,7

Không có trình độ chuyên môn kỹ thuật

9,9

8,1

9,5

10,4

11,2

11,6

15,4

18,8

Dạy nghề

20,2

18,5

15,4

17,8

13,2

17,7

21,5

21,3

Trung cấp chuyên nghiệp

14,7

10,3

10,8

13,1

11,1

11,6

15,4

13,9

Cao đẳng

15,0

11,1

11,1

10,2

15,2

12,2

9,9

7,2

Đại học trở lên

Chung Nam Nữ Chênh lệch Chung Nam Nữ Chênh lệch Chung Nam Nữ Chênh lệch Chung Nam Nữ Chênh lệch Chung Nam Nữ Chênh lệch Chung Nam Nữ Chênh lệch

2.519,0 3.105,0 3.757,0 4.120,0 4.489,0 4.716,0 5.066,0 5.451,2 5.867,0 2.668,0 3.277,0 3.923,0 4.287,0 4.662,0 4.925,0 5.304,0 5.714,6 6.182,5 2.297,0 2.848,0 3.515,0 3.884,0 4.250,0 4.430,0 4.739,0 5.094,1 5.445,8 11,9 2.108,0 2.594,0 3.056,0 3.284,0 3.617,0 3.898,0 4.224,0 4.563,4 5.003,1 2.270,0 2.753,0 3.198,0 3.435,0 3.757,0 4.056,0 4.367,0 4.757,1 5.212,7 1.844,0 2.330,0 2.827,0 3.050,0 3.405,0 3.669,0 4.015,0 4.284,9 4.710,4 9,6 2.944,0 3.701,0 4.272,0 4.579,0 5.026,0 5.385,0 5.834,0 6.257,5 6.667,2 3.092,0 3.834,0 4.450,0 4.712,0 5.193,0 5.558,0 6.009,0 6.455,0 6.865,5 2.466,0 3.245,0 3.659,0 4.091,0 4.413,0 4.360,0 4.899,0 5.081,7 5.434,4 20,8 2.472,0 3.098,0 3.773,0 4.391,0 4.713,0 4.761,0 5.150,0 5.526,6 5.847,3 2.621,0 3.291,0 4.062,0 4.663,0 4.987,0 5.180,0 5.568,0 5.959,2 6.354,2 2.352,0 2.937,0 3.531,0 4.145,0 5.568,0 4.384,0 4.748,0 5.128,5 5.377,9 15,4 2.835,0 3.399,0 4.146,0 4.719,0 5.067,0 5.105,0 5.280,0 5.767,5 6.306,9 3.023,0 3.665,0 4.468,0 5.054,0 5.291,0 5.627,0 5.809,0 6.218,7 6.933,9 2.725,0 3.258,0 3.974,0 4.538,0 4.934,0 4.773,0 4.935,0 5.459,6 5.901,7 14,9 4.018,0 4.876,0 6.077,0 6.582,0 6.869,0 7.016,0 7.374,0 7.862,5 8.274,4 4.256,0 5.280,0 6.572,0 7.166,0 7.463,0 7.612,0 8.173,0 8.676,3 9.250,6 3.722,0 4.370,0 5.494,0 5.935,0 6.218,0 6.406,0 6.559,0 7.065,6 7.316,5 20,9

19,7

12,5

17,2

16,4

17,2

20,0

15,8

18,6

6.696,8 7.067,5 6.203,4 12,2 5.777,8 6.028,6 5.431,8 9,9 7.703,6 7.879,2 5.934,7 24,7 7.014,8 7.581,9 6.205,4 18,2 7.083,1 7.814,1 6.473,9 17,2 9.229,0 10.291,7 8.207,3 20,3

6.597,4 6.921,7 6.160,5 10,9 5.794,6 6.018,9 5.493,8 8,7 7.553,9 7.620,0 6.328,4 17,0 6.860,2 7.400,8 6.084,1 17,8 7.028,0 7.759,6 6.438,8 17,0 8.756,7 9.624,2 7.932,0 17,6

Ghi chú: Chênh lệch thu nhập theo giới tính được định nghĩa như sau (Em - Ew)/Em, trong đó Em là tiền lương bình quân của nam và Ew là tiền lương bình

quân của nữ. Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2020

171

PHỤ LỤC 1.4

TỶ LỆ LAO ĐỘNG NỮ TRONG DOANH NGHIỆP ĐANG HOẠT ĐỘNG

CÓ KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH THỜI ĐIỂM 31/12 THEO NGÀNH

KINH TẾ

Đơn vị tính: %

2017 2018 2019 Bình quân giai đoạn 2011 - 2015 Bình quân giai đoạn 2016 - 2018

35,3 48,3 57,3 18,2 59,9 20,5 34,4 35,8 38,0 50,1 50,7 51,0 58,0 57,5 57,3 17,3 18,0 19,2 59,9 59,3 59,1 20,1 19,8 19,8 35,8 50,4 57,7 18,2 59,6 19,9

38,3 18,3 38,1 36,7 37,8 37,3 18,6 19,3 20,1 39,2 40,3 41,1 37,6 19,1 40,0

38,2 22,9 53,6 33,6 38,7 39,5 40,9 23,3 26,1 27,0 53,7 53,3 53,1 33,2 34,7 36,9 39,7 24,8 53,6 34,8

56,6 56,5 57,2 57,1 57,0

37,3 40,3 41,1 37,1 39,7

34,1 35,5 35,9 36,6 35,7

36,4 37,5 37,2 61,2 59,7 61,4 59,4 62,2 61,8 45,6 45,1 45,0 44,2 45,3 45,1 36,8 61,2 61,6 45,6 45,3 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Công nghiệp Khai khoáng Công nghiệp chế biến, chế tạo Sản xuất và phân phối điện Cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải Xây dựng Dịch vụ Bán buôn và bán lẻ; sửa chưa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Vận tải, kho bãi Dịch vụ lưu trú và ăn uống Thông tin và truyền thông Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ 34,5 hỗ trợ 58,7 Giáo dục và đào tạo 63,5 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 48,5 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Hoạt động dịch vụ khác 45,6 Nguồn: Sách Trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021

172

PHỤ LỤC 1.5

TỶ LỆ LAO ĐỘNG NỮ CÓ VIỆC LÀM CHIA THEO NGHỀ NGHIỆP

48,5 23,3 50,2 55,3 44,8 63,1 43,0 27,7 36,9 52,4 48,6 23,4 49,7 55,3 46,8 63,6 41,6 29,0 37,6 53,7

Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2019

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 47,3 48,7 48,7 24,7 22,9 20,8 54,6 53,0 49,1 54,5 53,3 56,5 48,1 46,6 47,1 60,3 62,9 64,1 35,7 42,0 43,9 27,6 30,9 29,9 44,1 38,4 32,2 51,0 52,4 52,8 10,6 11,6 48,6 24,4 52,6 54,8 45,5 63,1 43,0 29,8 36,5 52,0 11,1 48,1 27,2 54,8 53,4 48,9 62,3 38,7 28,8 42,6 51,8 13,5 47,8 27,3 55,1 53,1 48,1 61,2 37,9 28,8 43,3 51,0 12,5 48,4 25,8 53,8 54,5 49,3 61,6 40,1 29,8 41,8 51,8 9,1 48,6 23,9 51,3 55,7 43,1 63,0 44,0 28,7 37,8 51,8 19,4 48,4 Tổng số 26,1 1. Các nhà lãnh đạo 53,7 2. CMKT bậc cao 55,6 3. CMKT bậc trung 49,2 4. Nhân viên 61,9 5. Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng 40,4 6. Lao động có kỹ thuật trong nông, lâm và ngư nghiệp 29,0 7. Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan 42,9 8. Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị 52,1 9. Lao động giản đơn 10. Khác (*) 15,2 Ghi chú: (*) bao gồm những trường hợp không xác định và lực lượng quân đội thường xuyên ăn ở tại hộ, không có số liệu năm 2009 - 2011

173

PHỤ LỤC 1.6

CƠ CẤU DÂN SỐ KHÔNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CHIA THEO LÝ DO

KHÔNG LÀM VIỆC

Đơn vị tính: %

Giới tính Đặc trưng cơ bản Tổng số % Nữ

Nam 100,0 11,3 0,9 2,4 29,3 5,5 3,2 7,3 0,3 0,7 1,3 0,7 0,0 0,0 20,9 0,0 4,0 12,2 100,0 8,2 0,8 23,9 19,8 2,8 2,8 5,7 0,6 0,3 0,7 0,4 0,0 0,0 21,9 0,0 2,5 9,7 Nữ 100,0 6,4 0,7 36,6 14,3 1,1 2,5 4,8 0,7 0,0 0,3 0,2 0,0 0,0 22,5 0,0 1,5 8,3 62,8 49,1 58,3 96,2 45,3 25,9 57,5 52,6 78,1 6,9 30,9 34,4 0,0 0,0 64,8 0,0 39,4 53,7 Tổng số Quá già/quá trẻ/tàn tật Mất khả năng lao động Nội trợ Bận học Không muốn/không cần đi làm Thiếu kinh nghiệm Tin là không có việc/không phù hợp Không biết tìm ở đâu Tạm nghỉ Đợi việc/đợi khai trương Nghỉ thời vụ Thời tiết xấu Ảnh hưởng môi trường Bận việc gia đình/đang nghỉ ngơi Làm nông nghiệp Ốm đau tạm thời Khác Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm năm 2019

174

PHỤ LỤC 3.1

Biến VSIC được lấy từ kết quả tính toán số lao động nữ trung bình đối với từng ngành

trong bộ dữ liệu.

STT Tên ngành

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 Số lao động nữ trung bình 4,427 2,000 17,698 34,382 9,343 5,400 16,642 4,556 1,300 9,820 11,261 8,855 4,898 2,423 9,521 8,621 5,250 3,646 Giá trị của biến VSIC 0 0 1 1 1 0 1 0 0 1 1 1 0 0 1 1 0 0

lao động nữ trung bình nhiều hơn những ngành khác. VSIC nhận giá trị 1 nếu số lao động nữ trung

bình của ngành cao hơn hoặc bằng trung vị 7,308; và nhận giá trị 0 nếu ngược lại.

Ngành nghề không phải tiêu chí chọn mẫu trong các cuộc khảo sát doanh nghiệp vừa, nhỏ và

siêu nhỏ. Do đó, việc kết quả điều tra chỉ bao gồm một số ngành là hoàn toàn ngẫu nhiên, nên đảm

bảo tính đại diện của dữ liệu nghiên cứu.

Thực phẩm và đồ uống Thuốc lá Dệt Trang phục Thuộc da Chế biến gỗ Giấy Xuất bản, in ấn Sản phẩm dầu mỏ Sản phẩm hóa chất Sản phẩm từ cao su Sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại Sản xuất kim loại Sản phẩm từ kim loại Sản phẩm điện tử, máy tính Xe có động cơ Phương tiện vận tải khác Giường tủ, bàn ghế, và các sản phẩm chưa được phân vào đâu Tái chế Dịch vụ 1,063 7,308 0 1 19 20 Ghi chú: Tác giả so sánh trong tập hợp 20 ngành đang được xem xét, để xác định 10 ngành nào có số

175

PHỤ LỤC 3.2

KIỂM ĐỊNH THỐNG KÊ T-TEST VỀ SỰ KHÁC BIỆT TRUNG BÌNH GIỮA NHÓM CÁC QUAN SÁT BỊ XÓA BỎ VÀ

2015

2011 Giá trị trung bình

2013 Giá trị trung bình

Giá trị trung bình

p-value

p-value

p-value

Số quan sát bị xóa bỏ 6,221 0,368 0,061 506,002 0,063 0,383 0,350 38,616 0,072 0,095 2,004 13,170 6.265

Số quan sát bị xóa bỏ 6,328 0,373 0,049 398,470 0,179 0,424 0,361 36,721 0,064 0,091 3,277 13,978 5.566

Số quan sát được sử dụng 7,580 0,393 0,069 383,877 0,187 0,391 0,270 37,932 0,090 0,097 3,262 16,334 5.274

Số quan sát bị xóa bỏ 7,867 0,393 0,060 343,132 0,071 0,419 0,311 38,672 0,060 0,047 3,056 13,144 6.820

Số quan sát được sử dụng 6,580 0,376 0,075 355,325 0,058 0,405 0,276 37,779 0,084 0,087 2,975 18,312 6.280

NHÓM CÁC QUAN SÁT ĐƯỢC SỬ DỤNG

Số quan sát được sử dụng FLFP1 7,336 FLFP2 0,372 Export 0,059 Capital per worker 414,003 Human capital investment 0,059 Female manager 0,366 VSIC 0,263 Network 34,491 Association 0,077 Communist 0,093 Salary 1,990 Firm age 13,560 Firm size 5.933 Ghi chú: Tên biến được diễn giải chi tiết trong phụ lục 3.2.

0,149 0,124 0,160 0,597 0,183 0,488 0,057 0,647 0,027 0,000 0,316 0,000 0,695 0,393 0,079 0,051 0,579 0,611 0,103 0,000 0,567 0,031 0,638 0,842 0,000 0,612 0,155 0,696 0,898 0,019 0,666 0,432 0,000 0,140 0,637 0,894 0,795 0,336 0,706

Giả thuyết: H0: Không có sự khác biệt về giá trị trung bình giữa hai nhóm

H1: Có sự khác biệt về giá trị trung bình giữa hai nhóm

Hầu hết các giá trị p-value > 5%, nên không bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa thống kê 5%.

Kết luận: Sự khác biệt giá trị trung bình giữa hai nhóm là không đáng kể.

176

PHỤ LỤC 3.3

KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI THAY ĐỔI

* Biến phụ thuộc: Số lượng lao động nữ

Phương pháp ước lượng Loại kiểm định Prob>Chi2

Breusch – Pagan Wald Breusch and Pagan Lagrangian Thống kê Chi2 376,13 3,1e+35 1315,60 0,000 0,000 0,000

POLS FEM REM

* Biến phụ thuộc: Tỷ lệ lao động nữ so với tổng số lao động trong doanh nghiệp

Phương pháp ước lượng Loại kiểm định Prob>Chi2

Breusch – Pagan Wald Breusch and Pagan Lagrangian Thống kê Chi2 15,93 1,4e+39 1307,67 0,000 0,000 0,000 POLS FEM REM

Giả thuyết: H0: Phương sai sai số trong các thực thể là không thay đổi

H1: Phương sai sai đó trong các thực thể là thay đổi

Các giá trị Prob > Chi2 = 0,000 < 5%, nên bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa

thống kê 5%..

Kết luận: Kết quả ước lượng bằng phương pháp OLS thô (pooled OLS),

phương pháp tác động cố định FEM và phương pháp tác động ngẫu nhiên REM đều bị

hiện tượng phương sai thay đổi.

177

PHỤ LỤC 3.4

SO SÁNH HỆ SỐ HỒI QUY GIỮA TOÀN BỘ MẪU DỮ LIỆU, MẪU DỮ LIỆU

GỒM 50% SỐ QUAN SÁT VÀ MẪU DỮ LIỆU GỒM 90% SỐ QUAN SÁT

(BIẾN PHỤ THUỘC LÀ SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG NỮ)

Export

Capital per worker

Human capital investment

Female manager

VSIC

Network

Association

Communist

Salary

Firm age

Firm size

_cons

Sai số chuẩn trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

N = 100%: toàn bộ mẫu dữ liệu.

N = 50%: mẫu dữ liệu gồm 50% số quan sát.

N = 90%: mẫu dữ liệu gồm 90% số quan sát.

FGLS (N = 50%) 0,437 (0,007)*** -0,795 (0,004)*** 0,082 (0,007)*** 0,112 (0,003)*** 0,268 (0,004)*** 0,006 (0,001)*** 0,080 (0,013)*** 0,109 (0,010)*** -0,092 (0,001)*** 0,052 (0,002)*** 0,824 (0,004)*** -0,659 (0,156)*** 1.987 497.583,4 0,0000 FGLS (N = 90%) 0,417 (0,021)*** -0,809 (0,005)*** 0,057 (0,009)*** 0,110 (0,006)*** 0,285 (0,010)*** 0,006 (0,003)** 0,060 (0,016)*** 0,058 (0,009)*** -0,095 (0,002)*** 0,041 (0,004)*** 0,832 (0,005)*** -0,593 (0,026)*** 3.593 82.697,06 0,0000 FGLS (N = 100%) 0,402 (0,021)*** -0,802 (0,005)*** 0,068 (0,014)*** 0,109 (0,006)*** 0,281 (0,010)*** 0,015 (0,002)*** 0,095 (0,016)*** 0,044 (0,008)*** -0,094 (0,002)*** 0,042 (0,005)*** 0,828 (0,005)*** -0,659 (0,027)*** 4.014 Số quan sát 92.135,06 Wald chi2 (11) Prob > chi2 0,0000 Ghi chú: Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 3.1..

178

PHỤ LỤC 3.5

SO SÁNH HỆ SỐ HỒI QUY GIỮA TOÀN BỘ MẪU DỮ LIỆU, MẪU DỮ LIỆU

GỒM 50% SỐ QUAN SÁT VÀ MẪU DỮ LIỆU GỒM 90% SỐ QUAN SÁT

(BIẾN PHỤ THUỘC LÀ TỶ LỆ LAO ĐỘNG NỮ SO VỚI TỔNG SỐ LAO

ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP)

Export

Capital per worker

Human capital investment

Female manager

VSIC

Network

Association

Communist

Salary

Firm age

Firm size

_cons

Sai số chuẩn trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

N = 100%: toàn bộ mẫu dữ liệu.

N = 50%: mẫu dữ liệu gồm 50% số quan sát.

N = 90%: mẫu dữ liệu gồm 90% số quan sát.

FGLS (50%) 0,088 (0,003)*** -0,034 (0,001)*** -0,002 (0,002) 0,131 (0,001)*** 0,090 (0,003)*** 0,011 (0,001)*** 0,052 (0,004)*** 0,027 (0,004)*** -0,054 (0,001)*** 0,029 (0,002)*** 0,029 (0,001)*** 0,578 (0,015)*** 2,347 49.099,4 0,0000 FGLS (90%) 0,091 (0,009)*** -0,036 (0,002)*** -0,012 (0,005)** 0,112 (0,003)*** 0,079 (0,004)*** 0,013 (0,002)*** 0,024 (0,007)*** 0,016 (0,005)*** -0,063 (0,001)*** 0,027 (0,003)*** 0,034 (0,002)*** 0,519 (0,018)*** 4.232 5.940,3 0,0000 FGLS (100%) 0,093 (0,009)*** -0,034 (0,002)*** -0,004 (0,006) 0,108 (0,003)*** 0,080 (0,004)*** 0,013 (0,0020*** 0,031 (0,007)*** 0,022 (0,006)*** -0,063 (0,001)*** 0,031 (0,003)*** 0,033 (0,002)*** 0,585 (0,019)*** 4.708 Số quan sát 5.223,64 Wald chi2 (11) Prob > chi2 0,0000 Ghi chú: Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 3.1..

179

PHỤ LỤC 3.6

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG NỮ CHIA THEO

NHÓM NGÀNH

VSIC = 1 VSCI = 0

β

VSIC = 0: nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 3.1.

se là sai số chuẩn.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Tổng số lượng quan sát của hồi quy doanh nghiệp thuộc nhóm thâm dụng lao động nữ và hồi

quy doanh nghiệp thâm dụng lao động nam theo biến phụ thuộc số lượng lao động nữ trong phụ lục

3.6 bằng với cột 1 trong bảng 3.2.

0,432 -0,750 0,011 0,123 0,016 0,115 0,052 -0,084 0,052 0,788 -0,842 2.774 50.476,57 0,0000 se 0,034*** 0,006*** 0,021*** 0,007*** 0,004*** 0,016*** 0,010*** 0,002*** 0,006*** 0,005*** 0,039*** β 0,353 -0,875 0,099 0,087 0,010 0,076 0,076 -0,063 0,002 0,874 -0,299 1.240 30.694,36 0,0000 se 0,028*** 0,010*** 0,020*** 0,015*** 0,008 0,028*** 0,029*** 0,007*** 0,012 0,009*** 0,103*** Export Capital per worker Human capital investment Female manager Network Association Communist Salary Firm age Firm size _cons Số quan sát Wald chi2 (10) Prob > chi2 Ghi chú: VSIC = 1: nhóm ngành thâm dụng lao động nữ.

180

PHỤ LỤC 3.7

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ LỆ LAO ĐỘNG NỮ SO VỚI TỔNG SỐ

LAO ĐỘNG CHIA THEO NHÓM NGÀNH

VSIC = 1 VSCI = 0

β

VSIC = 0: nhóm ngành thâm dụng lao động nam.

Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 3.1.

se là sai số chuẩn.

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Tổng số lượng quan sát của hồi quy doanh nghiệp thuộc nhóm thâm dụng lao động nữ và hồi

quy doanh nghiệp thâm dụng lao động nam theo biến phụ thuộc số lượng lao động nữ trong phụ lục

3.7 bằng với cột 1 trong bảng 3.2.

.

β 0,082 -0,034 -0,005 0,088 -0,002 0,087 0,048 -0,039 0,001 0,019 0,813 1.338 2.363,08 0,0000 se 0,013*** 0,003*** 0,011 0,006*** 0,003 0,008*** 0,015*** 0,003*** 0,005 0,003*** 0,024*** 0,084 -0,029 -0,009 0,116 0,020 0,022 0,010 -0,068 0,039 0,034 0,494 3.370 5.485,28 0,0000 se 0,010*** 0,003*** 0,007 0,004*** 0,003*** 0,007*** 0,007 0,002*** 0,003*** 0,002*** 0,020*** Export Capital per worker Human capital investment Female manager Network Association Communist Salary Firm age Firm size _cons Số quan sát Wald chi2 (10) Prob > chi2 Ghi chú: VSIC = 1: nhóm ngành thâm dụng lao động nữ.

181

PHỤ LỤC 3.8

CƠ CẤU LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CHIA THEO GIỚI TÍNH

Đơn vị tính: %

2009 51,3

2010 51,4

2011 51,5

2012 51,4

2014 51,3

2017 51,9

2015 51,6

2013 51,4

2016 51,6

2018 52,2

Bình quân 2009 - 2018 51,56

48,44

48,7

48,6

48,5

48,6

48,4

48,1

48,6

47,8

48,4

Nam 48,7 Nữ Nguồn: Báo cáo Điều tra Lao động việc làm của Tổng cục Thống kê Việt Nam từ năm 2009 đến năm

2018 và tính toán của tác giả

182

PHỤ LỤC 4.1

SỐ LƯỢNG (HOẶC TỶ LỆ) LAO ĐỘNG NỮ BÌNH QUÂN TRONG CÁC

80

80%

70

70%

n â u q

60

60%

50

50%

40

40%

h n ì b ữ n g n ộ đ

n â u q h n ì b ữ n g n ộ đ

30

30%

20

20%

o a l g n ợ ư l

o a l ệ l ỷ T

10

10%

ố S

0

0%

ỗ g

ụ v

u s

n ấ

t ệ D

… m i k

i ạ o l

i ạ o l

c á h k

y ấ i G

g n ố u

n i ,

ế h c i á T

h c ị D

ơ c g n ộ đ

ồ đ

i ả t

á l c ố u h T

h n í t y á m

a d c ộ u h T

o a c ừ t

n ả b

,

n ả s c á c à v

c ụ h p g n a r T

m i k ừ t

n ế i b ế h C

ử t

m i k t ấ u x

ỏ m u ầ d m ẩ h p

t ấ h c a ó h m ẩ h p

ó c e X

, ế h g

m ẩ h p

t ấ u X

i h p g n á o h k

à v m ẩ h p

n ả S

n ả S

n ả S

n à b

n ả S

,

m ẩ h p n ả S

c ự h T

n ệ i đ m ẩ h p

t ấ h c ừ t

n ậ v n ệ i t g n ơ ư h P

n ả S

m ẩ h p

ủ t g n ờ ư i G

n ả S

2011 (%)

2013 (%)

2015 (%)

NGÀNH

183

PHỤ LỤC 4.2

SỐ LƯỢNG (HOẶC TỶ LỆ) LAO ĐỘNG NỮ BÌNH QUÂN TRONG CÁC

DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU THƯỜNG XUYÊN, TƯƠNG ĐỐI THƯỜNG

60

60%

50

50%

n â u q

40

40%

30

30%

h n ì b ữ n g n ộ đ

n â u q h n ì b ữ n g n ộ đ

20

20%

o a l g n ợ ư l

o a l ệ l ỷ T

ố S

10

10%

0

0%

Doanh nghiệp không xuất khẩu

Doanh nghiệp xuất khẩu thấp

Doanh nghiệp xuất khẩu cao

Doanh nghiệp xuất khẩu trung bình

2011 (%)

2013 (%)

2015 (%)

XUYÊN VÀ ÍT THƯỜNG XUYÊN

184

PHỤ LỤC 4.3

CƠ CẤU DOANH NGHIỆP TRONG NGÀNH SẢN XUẤT TRANG PHỤC VÀ

NGÀNH DỆT, SO SÁNH VỚI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP TRONG TOÀN BỘ

100%

90%

80%

70%

60%

p ệ i h g n

50%

40%

h n a o d ệ l ỷ T

30%

20%

10%

0%

DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

Doanh nghiệp không xuất khẩu

Doanh nghiệp xuất khẩu thấp

Doanh nghiệp xuất khẩu trung bình Doanh nghiệp xuất khẩu cao

2011 DỆT 2013 DỆT 2015 DỆT 2011 TRANG PHỤC 2013 TRANG PHỤC 2015 TRANG PHỤC TẤT CẢ CÁC NGÀNH

185

PHỤ LỤC 4.4

KIỂM ĐỊNH TÍNH CÂN BẰNG - NHÓM DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU

THƯỜNG XUYÊN

Phụ lục 4.4 trình bày đặc điểm của doanh nghiệp có hoạt động giao thương

quốc tế trong nhóm các doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên và doanh nghiệp chỉ

tiêu thụ nội địa. Giá trị p-value của kiểm định giả thuyết không (còn gọi là giả thuyết

null) phát biểu rằng giá trị trung bình của nhóm can thiệp và nhóm đối chứng là bằng

nhau. Điều này cho thấy: Sau khi so sánh, nhóm can thiệp và nhóm đối chứng được

2011

2013

2015

p>|t|

p>|t|

p>|t|

per

Capital worker Human capital investment Female manager VSIC

Network

Association

Salary

Firm age

0,343 0,343 0,457 0,457 0,771 0,771 3,380 3,380 0,271 0,271 8,060 8,060 2,504 2,504

0,224 0,386 0,381 0,414 0,585 0,800 3,356 3,458 0,086 0,314 8,010 8,079 2,583 2,431

0,043 0,167 0,400 0,528 0,653 0,833 3,293 3,659 0,063 0,181 7,222 8,211 2,793 2,644

0,208 0,208 0,500 0,500 0,778 0,778 3,667 3,667 0,264 0,264 8,230 8,230 2,676 2,672

Firm size

Mean Treated Control 11,958 12,155 0,222 U M 11,958 11,744 0,361 0,053 U 0,000 0,186 0,1243 0,414 M 0,186 0,510 0,361 U 0,400 0,498 0,457 M 0,400 0,060 0,632 U 0,743 0,554 0,786 M 0,743 0,210 3,153 U 3,273 0,562 3,352 M 3,273 0,000 0,059 U 0,329 0,032 0,171 M 0,329 0,000 7,006 U 7,790 0,289 7,846 M 7,790 0,087 2,406 U 2,266 0,320 2,369 M 2,266 U 16,210 14,034 0,000 M 16,210 16,155 0,786

Mean Treated Control 11,985 12,278 0,048 11,985 11,808 0,455 0,022 0,601 0,201 0,612 0,002 0,683 0,769 0,520 0,000 0,581 0,409 0,738 0,260 0,369 16,005 14,443 0,000 16,005 15,830 0,437

Mean Treated Control 12,020 12,094 0,620 12,020 12,082 0,766 0,000 0,525 0,091 0,741 0,029 0,403 0,000 0,960 0,000 0,232 0,000 0,786 0,048 0,595 16,018 13,876 0,000 16,018 16,065 0,855

Ghi chú: Vùng hỗ trợ chung là [0,01790955, 0,93018277], [0,00746551, 0,9801911], và [0,02139784,

0,89661594].

Kiểm định tính cân bằng đối với điểm xu hướng được thỏa mãn.

Kiểm định tính cân bằng được tạo bởi lệnh pstest trong Stata.

Mean là giá trị trung bình.

Treated là nhóm can thiệp.

Control là nhóm đối chứng.

U và M lần lượt là giá trị trung bình trước và sau khi so sánh.

Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 4.1.

cân bằng tốt giữa các đặc điểm quan sát vì p-value không có ý nghĩa về mặt thống kê.

186

PHỤ LỤC 4.5

KIỂM ĐỊNH TÍNH CÂN BẰNG - NHÓM DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU

TƯƠNG ĐỐI THƯỜNG XUYÊN

Phụ lục 4.5 trình bày đặc điểm của doanh nghiệp có hoạt động giao thương

quốc tế trong nhóm các doanh nghiệp xuất khẩu tương đối thường xuyên và doanh

nghiệp chỉ tiêu thụ nội địa. Giá trị p-value của kiểm định giả thuyết không (còn gọi là

giả thuyết null) phát biểu rằng giá trị trung bình của nhóm can thiệp và nhóm đối

chứng là bằng nhau. Điều này cho thấy: Sau khi so sánh, nhóm can thiệp và nhóm đối

chứng được cân bằng tốt giữa các đặc điểm quan sát vì p-value không có ý nghĩa về

2011

2015

2013

Mean

Mean

p>|t|

p>|t|

per

Capital worker Human capital investment Female manager VSIC

Network

Association

Salary

Firm age

Firm size

Treated Control 12,182 12,182 0,192 0,192 0,654 0,654 0,846 0,846 3,839 3,839 0,115 0,115 8,359 8,359 2,688 2,688 16,325 16,325

Mean Treated Control 12,155 11,870 0,053 0,174 0,362 0,522 0,633 0,783 3,160 3,140 0,060 0,217 7,016 7,806 2,404 2,506 14,058 14,948

12,273 0,484 12,228 0,537 0,106 0,223 0,642 0,385 0,321 0,383 1,000 0,462 0,009 0,587 0,787 0,769 0,014 3,361 0,441 3,779 0,000 0,085 0,802 0,282 0,452 8,011 0,217 7,930 0,037 2,581 2,723 0,640 14,451 0,000 15,491 0,910

U 12,077 M 12,077 U 0,043 M 0,043 U 0,391 M 0,391 U 0,826 M 0,826 U 3,089 M 3,089 U 0,217 M 0,217 U 7,720 M 7,720 U 2,586 M 2,586 U 14,921 M 14,921

12,095 0,724 12,297 0,761 0,000 0,044 0,720 0,154 0,009 0,400 0,270 0,500 0,042 0,655 0,491 0,769 0,000 3,292 0,595 3,737 0,307 0,065 0,307 0,038 0,001 7,230 0,362 8,427 0,271 2,795 0,908 2,702 13,883 0,000 16,359 0,934

p>|t| 0,781 0,648 0,844 0,162 0,773 0,386 0,056 0,718 0,665 0,766 0,002 1,000 0,016 0,375 0,198 0,629 0,015 0,952

Treated Control 12,410 12,410 0,333 0,333 0,462 0,462 0,795 0,795 3,637 3,637 0,256 0,256 8,071 8,071 2,773 2,773 15,527 15,527 Ghi chú: Vùng hỗ trợ chung là [0,00510504, 0,1384452], [0,01180042, 0,19834228], và [0,00709863,

0,78406876].

Kiểm định tính cân bằng đối với điểm xu hướng được thỏa mãn.

Kiểm định tính cân bằng được tạo bởi lệnh pstest trong Stata.

Mean là giá trị trung bình.

Treated là nhóm can thiệp.

Control là nhóm đối chứng.

U và M lần lượt là giá trị trung bình trước và sau khi so sánh.

Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 4.1.

mặt thống kê.

187

PHỤ LỤC 4.6

KIỂM ĐỊNH TÍNH CÂN BẰNG - NHÓM DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU ÍT

THƯỜNG XUYÊN

Phụ lục 4.6 trình bày đặc điểm của doanh nghiệp có hoạt động giao thương

quốc tế trong nhóm các doanh nghiệp xuất khẩu ít thường xuyên và doanh nghiệp chỉ

tiêu thụ nội địa. Giá trị p-value của kiểm định giả thuyết không (còn gọi là giả thuyết

null) phát biểu rằng giá trị trung bình của nhóm can thiệp và nhóm đối chứng là bằng

nhau. Điều này cho thấy: Sau khi so sánh, nhóm cn thiệp và nhóm đối chứng được cân

2011

2015

2013

p>|t|

p>|t|

Mean

Mean

p>|t|

per

Capital worker Human capital investment Female manager VSIC

Network

Association

Salary

Firm age

Firm size

Mean Treated Control 13,145 U M 13,145 0,400 U 0,400 M 0,600 U 0,600 M 0,400 U 0,400 M 3,712 U 3,712 M 0,200 U 0,200 M 7,854 U 7,854 M 2,028 U 2,028 M U 16,941 M 16,941

Treated Control 11,778 11,778 0,407 0,407 0,519 0,519 0,593 0,593 3,330 3,330 0,407 0,407 8,269 8,269 2,557 2,557 15,833 15,833

12,353 0,519 11,903 0,831 . 0,000 . 0,000 0,211 0,420 0,341 0,000 . 1,000 . 1,000 0,109 3,380 0,406 2,572 0,004 0,057 0,145 0,000 0,878 7,977 0,619 8,071 0,288 2,574 0,182 3,217 14,472 0,849 13,652 0,064

12,155 0,094 12,907 0,670 0,001 0,053 0,580 0,600 0,270 0,362 1,000 0,600 0,281 0,632 1,000 0,400 0,116 3,160 0,691 3,965 0,201 0,062 1,000 0,200 0,181 7,018 0,649 7,924 0,213 2,403 0,918 2,067 14,063 0,000 16,460 0,660

12,098 0,185 11,719 0,849 0,000 0,043 0,788 0,444 0,205 0,398 1,000 0,519 0,503 0,654 0,256 0,741 0,812 3,295 0,915 3,311 0,000 0,065 0,785 0,370 0,001 7,225 0,696 8,236 0,014 2,792 0,574 2,501 13,887 0,000 15,652 0,629

Treated Control 12,020 12,020 0,000 0,000 0,167 0,167 1,000 1,000 2,923 2,923 0,333 0,333 8,006 8,006 2,826 2,826 14,580 14,580 Ghi chú: Vùng hỗ trợ chung [0,00176144, 0,3182889], [0,00299321, 0,14378719], và [0,00969724,

0,78760238].

Kiểm định tính cân bằng đối với điểm xu hướng được thỏa mãn.

Kiểm định tính cân bằng được tạo bởi lệnh pstest trong Stata.

Mean là giá trị trung bình.

Treated là nhóm can thiệp.

Control là nhóm đối chứng.

U và M lần lượt là giá trị trung bình trước và sau khi so sánh.

Tên biến được diễn giải chi tiết trong bảng 4.1.

bằng tốt giữa các đặc điểm quan sát vì p-value không có ý nghĩa về mặt thống kê.

188

PHỤ LỤC 4.7

VÙNG HỖ TRỢ CHUNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ HOẶC KHÔNG CÓ XUẤT KHẨU TRONG NHÓM DOANH

NGHIỆP XUẤT KHẨU THƯỜNG XUYÊN, TƯƠNG ĐỐI THƯỜNG XUYÊN VÀ ÍT THƯỜNG XUYÊN)

189

190

PHỤ LỤC 4.8

TỶ TRỌNG CỦA NHÓM CÁC QUỐC GIA DẪN ĐẦU XUẤT KHẨU NGÀNH

DỆT (%)

2000 2005 2010 2015 2020 2021

Trung Quốc 10,3 20,2 30,4 37,4 43,5 41,4

Liên minh Châu Âu 33,4 32,5 25,3 22,1 18,1 20,9

Ấn Độ 4,1 3,6 5,1 6,9 4,2 6,3

Hoa Kỳ 6,1 7,0 4,8 5,9 3,2 3,7

Thổ Nhĩ Kỳ 3,5 2,4 3,5 4,8 3,3 4,3

Hàn Quốc 5,1 8,1 4,3 3,8 2,2 2,5

Đài Loan 4,8 7,6 3,8 3,7 2,0 2,4

Paskistan 3,5 2,9 3,1 2,9 2,0 2,6

Ghi chú: * là giá trị bị thiếu

Nguồn: WTO (2016, 2021, 2022)

Việt Nam 0,4 0,2 1,2 * 2,8 3,2

191

PHỤ LỤC 4.9

TỶ TRỌNG CỦA NHÓM CÁC QUỐC GIA DẪN ĐẦU XUẤT KHẨU NGÀNH

SẢN XUẤT TRANG PHỤC (%)

2000 2005 2010 2015 2020 2021

Trung Quốc 18,2 26,6 36,6 39,3 31,6 32,8

Liên minh Châu Âu 26,4 29,3 26,9 25,2 27,9 28,1

Bangladesh 2,6 2,5 4,2 5,9 6,3 6,4

Ấn Độ 3,0 3,1 3,2 4,1 2,9 3,0

Thổ Nhĩ Kỳ 3,3 4,2 3,6 3,4 3,4 3,5

Indonesia 2,4 1,8 1,9 1,5 1,7 1,7

Nguồn: WTO (2016, 2021, 2022)

Việt Nam 0,9 1,7 2,9 4,8 6,4 5,8

192

PHỤ LỤC 5.1

Phụ lục 5.1 trình bày kết quả kiểm định chẩn đoán mô hình hồi quy IV khi biến phụ

thuộc lần lượt là khoảng cách giới về thời gian làm việc hoặc về tiền lương. Trong

kiểm định không thỏa điều kiện xác định, giả thuyết H0 là các biến công cụ không

tương quan với biến bị nội sinh bị bác bỏ, cho thấy các biến công cụ được chọn là hợp

lệ. Tiếp theo, trong kiểm định biến công cụ yếu, giả thuyết H0 là các biến công cụ có

tương quan với biến bị nội sinh nhưng tương quan yếu bị bác bỏ; từ đó, một lần nữa

khẳng định tính hợp lệ của các biến công cụ được chọn. Cuối cùng, trong kiểm định

thỏa hơn điều kiện xác định, giả thuyết H0 là số biến công cụ nhiều hơn số biến bị nội

sinh bị bác bỏ; do trong mô hình chỉ có hai biến công cụ tương ứng với hai biến bị nội

sinh.

2002

2004

2006

2008

2010

2012

2014

2016

EXPORT EXPOSURE

8,219

5,518

14,257

17,271 20,247 23,264

9,475

34,544

4,102

7,126

ID.: Cragg-Donald

2,751

8,636

10,129 11,650

4,731

17,342

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

TARIFF EXPOSURE

14,588

5,459

8,290

17,589 20,275 23,334

9,566

34,682

ID.: Cragg-Donald

7,292

4,138

2,722

8,796

10,143 11,685

4,776

17,412

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

Under ID.: Anderson canon. Corr. LM statistic Weak Wald F statistic Over ID.: Sargan statistic Under ID.: Anderson canon. Corr. LM statistic Weak Wald F statistic Over ID.: Sargan statistic Ghi chú:Under ID là kiểm định không thỏa điều kiện xác định.

0,000

Weak ID là kiểm định biến công cụ yếu.

Over ID là kiểm định thỏa hơn điều kiện xác định.

Export Exposure là trường hợp biến chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ

gia đình được tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu.

Tariff Exposure là trường hợp biến chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ

gia đình được tính theo thuế quan.

Bảng A.Chẩn đoán hồi quy hai giai đoạn (khoảng cách giới về thời gian làm việc)

193

2002

2004

2006

2008

2010

2012

2014

2016

EXPORT EXPOSURE

6,236

7,992

13,438

17,213 17,917 22,235

8,897

33,966

3,989

6,716

ID.: Cragg-Donald

3,109

8,607

8,960

11,132

4,442

17,049

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

TARIFF EXPOSURE

13,681

8,103

5,901

17,568 17,944 22,281

8,978

34,116

ID.: Cragg-Donald

6,837

4,044

2,942

8,785

8,973

11,155

4,482

17,125

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

Under ID.: Anderson canon. Corr. LM statistic Weak Wald F statistic Over ID.: Sargan statistic Under ID.: Anderson canon. Corr. LM statistic Weak Wald F statistic Over ID.: Sargan statistic Ghi chú:Under ID là kiểm định không thỏa điều kiện xác định.

0,000

Weak ID là kiểm định biến công cụ yếu.

Over ID là kiểm định thỏa hơn điều kiện xác định.

Export Exposure là trường hợp biến chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ

gia đình được tính theo giá trị hàng hóa xuất khẩu.

Tariff Exposure là trường hợp biến chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế của hộ gia

đình được tính theo thuế quan.

Bảng B.Chẩn đoán hồi quy hai giai đoạn (khoảng cách giới về tiền lương)

194

PHỤ LỤC 5.2

HỒI QUY 02 GIAI ĐOẠN - BIẾN PHỤ THUỘC LÀ KHOẢNG CÁCH GIỚI VỀ

THỜI GIAN LÀM VIỆC, BIẾN GIẢI THÍCH LÀ CHỈ SỐ MỨC ĐỘ THAM

GIA VÀO THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA HỘ GIA ĐÌNH (TÍNH THEO GIÁ

2002

2004

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,019 (-1,14) 0,100 (3,32)*** 0,004 (0,41) -0,000 (-0,52) -0,048 (-4,31)*** 0,013 (1,44) -0,000 (-1,67)* -0,021 (-2,09)** 0,129 (12,30)*** -0,032 (-1,06) 0,022 (0,28) 0,127 (2,83)*** 0,189 (2,66)*** 0,095 (1,30) 0,107 (5,84)*** 0,046 (2,04)**

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) 0,033 (1,38) 0,085 (2,04)** -0,028 (-2,05)** 0,000 (2,72)** -0,063 (-4,44)*** 0,012 (0,93) -0,000 (-1,56) -0,021 (-1,51) 0,335 (14,04)*** -0,110 (-3,21)*** 0,025 (0,68) 0,109 (0,92) 0,322 (2,59)** 0,006 (0,06) 0,078 (0,81) 0,141 (1,43)

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,223 (15,41)*** -0,003 (-10,38)*** -0,200 (-18,12)*** 0,069 (4,66)*** -0,001 (-4,84)*** -0,114 (-6,30)*** -0,040 (-2,11)** 0,349 (7,07)*** 0,227 (1,73)* 0,201 (2,52)** 0,085 (0,68) 0,341 (2,74)*** 0,207 (6,33)*** 0,209 (5,19)*** -0,001 (-0,36) 0,808 (28,35)*** -3,205 (-13,95)***

-0,208 (-1,08)

0,135 (7,16)*** -0,002 (-9,03)*** -0,217 (-10,01)*** 0,107 (5,62)*** -0,001 (-5,76)*** -0,137 (-6,44)*** 0,066 (1,69)* 0,166 (2,86)*** -0,063 (-1,17) -0,554 (-3,98)*** -0,543 (-3,63)*** -0,481 (-4,46)*** -0,447 (-6,73)*** -0,524 (-6,19)*** 0,183 (5,49)*** 0,748 (21,33)*** -2,674 (-6,47)***

-1,513 (-4,73)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,076 (-2,75)*** -0,001 (-1,88)* -0,050 (-1,96)* -0,099 (-4,28)*** 0,001 (3,68)*** -0,130 (-5,23)*** 0,034 (1,35) -0,134 (-1,10) 0,386 (2,08)** 0,356 (2,94)*** 0,072 (0,39) 0,445 (2,96)*** 0,149 (3,45)*** -0,060 (-1,06) -0,146 (-3,95)*** 0,487 (12,75)*** 4,948 (12,62)*** 8.970 Wald chi2(27) = 7527,85 Prob > chi2 = 0,0000

-0,118 (-2,95)*** -0,000 (-0,45) -0,012 (-0,34) -0,105 (-3,03)*** 0,001 (2,74)*** -0,125 (-3,62)*** 0,017 (0,26) 0,011 (0,13) 0,075 (0,85) -0,143 (-0,55) -0,130 (-0,45) 0,075 (0,35) -0,085 (-0,49) -0,016 (-0,09) 0,004 (0,09) 0,426 (7,99)*** 6,253 (8,31)*** 5.857 Wald chi2(27) = 3885,87 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

TRỊ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU)

195

2006

2008

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) 0,026 (0,87) -0,152 (-2,03)** -0,038 (-1,82)* 0,000 (1,71)* -0,015 (-0,84 0,032 (1,61) -0,000 (-1,60) -0,009 (-0,55) 0,022 (0,82) 0,047 (0,93) 0,056 (1,19) -0,015 (-0,15) 0,085 (0,86) -0,166 (-1,62) -0,063 (-1,20) 0,027 (0,43)

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,067 (-2,89)*** 0,026 (0,47) -0,009 (-0,61) 0,000 (0,78) -0,081 (-5,32)*** 0,006 (0,45) -0,000 (-0,69) -0,005 (-0,37) 0,311 (11,50)*** -0,075 (-2,18)** -0,052 (-4,62)*** -0,292 (-2,25 0,078 (0,59) -0,324 (-2,83)*** -0,248 (-2,33)** -0,098 (-0,91)

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,136 (8,48)*** -0,002 (-9,72)*** -0,051 (-3,35)*** 0,030 (1,83)* -0,000 (-2,28)** -0,084 (-5,69)*** 0,007 (0,31) 0,028 (0,57) -0,068 (-1,59) -0,199 (-2,44)** -0,136 (-1,50) -0,043 (-0,41) 0,061 (1,73)* -0,066 (-1,25) 0,310 (10,72)*** 0,906 (29,28)*** -1,560 (-5,68)***

1,191 (2,90)***

0,115 (6,36)*** -0,001 (-8,03)*** -0,181 (-8,58)*** 0,026 (1,39) -0,000 (-1,66)* -0,082 (-3,93)*** 0,136 (3,51)*** -0,027 (-0,54) -0,022 (-1,37) -0,388 (-2,85)*** -0,527 (-3,87)*** -0,500 (-5,30)*** -0,366 (-5,37)*** -0,347 (-4,35)*** 0,364 (11,34)*** 0898 (25,92)*** -1,655 (-3,94)***

-1,627 (-5,00)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,011 (-0,28) -0,002 (-3,08)*** -0,034 (-1,37) -0,091 (-2,54)** 0,001 (1,89)* -0,071 (-2,90)*** -0,036 (-0,95) 0,005 (0,07) -0,006 (-0,10) 0,360 (2,77)*** -0,359 (-2,10)** -0,096 (-0,55) -0,109 (-1,93)* -0,138 (-1,65)* 0,067 (1,43) 0,508 (10,37)*** 4,613 (7,33)*** 7.321 Wald chi2(27) = 4016,82 Prob > chi2 = 0,0000

-0,013 (-0,29) -0,002 (-2,86)*** 0,001 (0,01) -0,124 (-3,20)*** 0,001 (2,60)*** -0,056 (-1,61) 0,101 (1,57) -0,055 (-0,74) 0,043 (1,64) 0,047 (0,19) -0,012 (-0,05) 0,039 (0,19) -0,065 (-0,37) -0,040 (-0,22) 0,128 (2,39)** 0,630 (11,32)*** 3,976 (4,81)*** 5.700 Wald chi2(27) = 3600,70 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.2 (tiếp theo)

196

2010

2012

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,014 (-0,54) 0,061 (1,14) -0,019 (-1,22) 0,000 (1,60) -0,047 (-2,93)** 0,019 (1,29) -0,000 (-1,74)* -0,005 (-0,30) -0,047 (-1,00) -0,040 (-0,92) -0,062 (-1,47) 0,620 (3,35)*** 0,614 (3,42)*** 0,641 (3,60)*** 0,559 (3,19)*** 0,803 (4,54)***

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,004 (-0,16) 0,105 (2,14)** -0,026 (-1,57) 0,000 (1,85)* -0,057 (-3,37)*** 0,019 (1,22) -0,000 (-1,42) 0,005 (0,28) 0,406 (10,85)*** -0,102 (-2,38)** -0,037 (-2,62)*** -0,121 (-1,43) 0,020 (0,28) -0,208 (-4,60)*** -0,110 (-2,89)** . .

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,085 (6,41)*** -0,001 (-7,69)*** -0,149 (-9,85)*** 0,039 (2,89)*** -0,000 (-3,51)*** -0,047 (-3,51)*** -0,003 (-0,07) 0,061 (1,37) 0,082 (2,11)** -0,061 (-0,79) -0,163 (02,45)** -0,158 (-2,47)** -0,136 (-2,48)** -0,183 (-3,15)*** 0,358 (14,22)*** 0,904 (32,59)*** -0,469 (-0,94)

1,249 (2,18)**

0,078 (4,71)*** -0,001 (-6,12)*** -0,189 (-9,97)*** 0,029 (1,74)** -0,000 (-2,12)** -0,077 (-4,13)*** 0,132 (2,99)*** 0,004 (0,08) 0,020 (1,28) -0,278 (-2,33)** -0,189 (-1,75)* -0,326 (-4,03)*** -0,301 (-4,00)*** -0,373 (-4,68)*** 0,398 (13,19)*** 0,922 (27,38)*** -1,251 (-2,42)**

-2,739 (-5,75)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

0,052 (1,71)* -0,002 (-5,85)*** 0,064 (2,79)*** -0,108 (-4,29)*** 0,001 (3,53)*** 0,016 (0,68) 0,051 (0,73) -0,043 (-0,70) 0,086 (1,49) -0,103 (-0,62) -0,210 (-1,32) -0,286 (-1,80) -0,243 (-1,65) -0,234 (-1,57) 0,120 (3,38)*** 0,501 (12,44)*** 2,931 (3,59)*** 7.476 Wald chi2(27) = 5241,31 Prob > chi2 = 0,0000

0,015 (0,37) -0,002 (-3,82)*** 0,055 (1,77)* -0,127 (-3,67)*** 0,001 (3,30)*** -0,064 (-2,10)** 0,043 (0,59) 0,018 (0,23) 0,040 (1,61) 0,214 (0,62) 0,054 (0,16) -0,120 (-0,37) -0,104 (-0,33) -0,158 (-0,50) 0,133 (2,60)*** 0,626 (11,86)*** 3,954 (4,15)*** 5.484 Wald chi2(27) = 3874,79 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.2 (tiếp theo)

197

2014

2016

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,040 (-1,91)* 0,141 (2,99)*** -0,020 (-1,44) 0,000 (2,01) -0,061 (-4,36)*** 0,025 (1,88)* -0,000 (-2,08)** -0,008 (-0,56) 0,500 (17,18)*** -0,047 (-1,28) -0,048 (-4,33)*** -0,318 (-4,20)*** 0,191 (3,10)*** -0,068 (-1,78)* -0,003 (-0,11) . .

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,102 (-3,92)*** 0,147 (2,07)** 0,017 (1,06) -0,000 (-0,26) -0,056 (-3,71)*** -0,010 (-0,68) 0,000 (0,14) -0,030 (-2,03)** 0,490 (16,47)*** -0,017 (-0,46) -0,033 (-2,87)*** -0,062 (-0,80) 0,048 (0,81) -0,145 (-3,60)*** -0,016 (-0,49) . .

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,035 (2,12)*** -0,001 (-3,76)*** -0,140 (-7,68)*** 0,028 (1,68)* -0,000 (-1,94)* -0,037 (-2,03)** 0,071 (1,80)* 0,106 (2,11)** 0,033 (2,32)** -0,594 (-4,94)*** -0,491 (-4,77)*** -0,555 (-7,14)*** -0,614 (-8,58)*** -0,614 (-8,00)*** 0,506 (17,19)*** 0,957 (28,31)*** 0,365 (0,77)

-4,202 (-10,77)***

-0,013 (-0,73) -0,000 (-0,62) -0,149 (-7,82)*** 0,034 (1,84)* -0,000 (-2,39)** -0,057 (-2,94)*** 0,138 (3,48)*** 0,001 (0,01) 0,026 (1,94)* -0,308 (-2,44)** -0,229 (-2,24)** -0,444 (-5,43)*** -0,406 (-5,47)*** -0,398 (-4,94)*** 0,576 (18,71)*** 0,902 (24,53)*** 0,486 (0,20)

-4,001 (-9,38)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,083 (-1,97)*** -0,001 (-1,26) 0,132 (4,17)*** -0,079 (-2,08)** 0,001 (1,49) -0,056 (-1,71)* -0,003 (-0,03) -0,092 (-1,10) 0,041 (1,77)* 0,247 (0,70) -0,194 (-0,55) -0,108 (-0,33) -0,228 (-0,72) -0,131 (-0,41) 0,327 (5,86)*** 0,685 (12,03)*** 5,108 (5,22)*** 5,430 Wald chi2(27) = 3825,49 Prob > chi2 = 0,0000

-0,071 (-1,46) -0,001 (-1,41) 0,146 (4,36)*** -0,042 (-0,90) 0,000 (0,40) -0,006 (-0,18) 0,222 (2,99)*** 0,032 (0,48) -0,270 (-0,73) -0,020 (-0,06) -0,178 (-0,06) -0,159 (-0,49) -0,261 (-0,79) 0,030 (1,23) 0,270 (4,55)*** 0,585 (9,93)*** 1,804 (1,75)*** 5,344 Wald chi2(27) = 3655,31 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.2 (tiếp theo)

198

PHỤ LỤC 5.3

HỒI QUY 02 GIAI ĐOẠN - BIẾN PHỤ THUỘC LÀ KHOẢNG CÁCH GIỚI VỀ

THỜI GIAN LÀM VIỆC, BIẾN GIẢI THÍCH LÀ CHỈ SỐ MỨC ĐỘ THAM

2002

2004

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,020 (-1,15) 0,098 (3,26)*** 0,004 (0,38) -0,000 (-0,50) -0,047 (-4,23)*** 0,014 (1,47) -0,000 (-1,69)* -0,021 (-2,07)** 0,132 (12,50)*** -0,032 (-1,06) -0,004 (-1,36) 0,130 (2,91)*** 0,194 (2,72)*** 0,097 (1,32) 0,109 (5,95)*** 0,049 (2,19)**

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) 0,033 (1,39) 0,084 (2,02)** -0,028 (-2,09)** 0,000 (2,75)*** -0,058 (-4,10)*** 0,012 (0,96) -0,000 (-1,57) -0,020 (-1,48) 0,344 (14,33)*** -0,113 (-3,29)*** -0,006 (-2,59)** 0,098 (0,83) 0,300 (2,41) -0,024 (-0,22) 0,050 (0,52) 0,123 (1,24)

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,222 (15,38)*** -0,003 (-18,11)*** -0,197 (-10,24)*** 0,070 (4,71)*** -0,001 (-4,88)*** -0,113 (-6,28)*** -0,032 (-1,66)* 0,351 (7,12)*** -0,005 (-0,98) 0,208 (2,61)*** 0,107 (0,85) 0,346 (2,78)*** 0,213 (6,48)*** 0,219 (5,41)*** -0,012 (-0,43) 0,807 (28,32)*** -3,285 (-14,27)***

-0,226 (-1,17)

0,136 (7,20)*** -0,002 (-9,07)*** -0,217 (-10,04)*** 0,107 (5,60)*** -0,001 (-5,75)*** -0,138 (-6,48)*** 0,066 (1,68)* 0,166 (2,87)*** -0,003 (-0,66) -0,557 (-3,65)*** -0,546 (-3,65)*** -0,483 (-4,46)*** -0,479 (-6,72)*** -0,523 (-6,18)*** 0,184 (5,52)*** 0,747 (21,31)*** -2,681 (-6,45)***

-1,558 (-4,87)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,076 (-2,77)*** -0,001 (-1,87)* -0,051 (-1,98)** -0,98 (-4,26)*** 0,001 (3,66)*** -0,131 (-5,28)*** 0,032 (1,24) -0,135 (-1,11) 0,015 (2,00)** 0,347 (2,85)*** 0,075 (0,40) 0,456 (3,03)*** 0,146 (3,37)*** -0,062 (-1,08) -0,148 (-4,02)*** 0,488 (12,79)*** 5,290 (13,01)*** 8.970 Wald chi2(27) = 7533,86 Prob > chi2 = 0,0000

-0,119 (-2,99)*** -0,000 (-0,41) -0,013 (-0,41) -0,103 (-2,99)*** 0,001 (2,71)*** -0,126 (-3,65)*** 0,010 (0,17) 0,012 (0,14) 0,008 (1,37) -0,114 (-0,44) -0,097 (-0,34) 0,101 (0,47) -0,061 (-0,35) -0,003 (-0,02) 0,005 (0,09) 0,429 (8,04)*** 6,293 (8,34)*** 5.857 Wald chi2(27) = 3893,16 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

GIA VÀO TMQT CỦA HỘ GIA ĐÌNH (TÍNH THEO THUẾ QUAN)

199

2006

2008

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) 0,025 (0,86) -0,154 (-2,05)** -0,038 (-1,85)* 0,000 (1,73)* -0,014 (-0,79)*** 0,32 (1,64) -0,000 (-1,61) -0,009 (-0,53) 0,022 (0,83) 0,048 (0,95) -0,001 (-0,41) -0,014 (-0,12) 0,085 (0,86) -0,165 (-1,61) -0,065 (-1,23) 0,032 (0,50)

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,064 (-2,74)*** 0,027 (0,50) -0,008 (-0,55) 0,000 (0,75) -0,079 (-5,20)*** 0,005 (0,32) -0,000 (-0,59) -0,007 (-0,47) 0,323 (11,87)*** -0,077 (-2,24)** -0,007 (-4,71)*** -0,350 (-2,69)*** 0,020 (0,15) -0,396 (-3,45)*** -0,308 (-2,89)*** -0,153 (-1,43)

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,137 (8,53)*** -0,002 (-9,74)*** -0,053 (-3,49)*** 0,029 (1,76)* -0,000 (-2,23)** -0,084 (-5,70)*** 0,006 (0,24) 0,027 (0,56) 0,005 (1,88)* -0,199 (-2,43)** -0,138 (-1,51) -0,042 (-0,40) 0,067 (1,89)* -0,073 (-1,39) 0,310 (10,73) 0,905 (29,23)*** -1,548 (-5,63)***

1,201 (2,93)***

0,115 (6,36)*** -0,001 (-8,02)*** -0,184 (-8,69)*** 0,025 (1,36) -0,000 (-1,65) -0,085 (-4,08)*** 0,129 (3,29)*** -0,026 (-0,50) 0,002 (1,06) -0,381 (-2,80)*** -0,528 (-3,87)*** -0,487 (-5,13)*** -0,355 (-5,19)*** -0,342 (-4,28)*** 0,365 (11,34)*** 0,897 (25,87)*** -1,592 (-3,76)***

-1,187 (-3,15)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,011 (-0,27) -0,002 (-0,27) -0,034 (-1,39) -0,091 (-3,07)*** 0,001 (1,89)* -0,071 (-2,90)*** -0,037 (-0,97) 0,005 (0,08) 0,003 (0,47) 0,359 (2,76)*** -0,361 (-2,11) -0,095 (-0,55)* -0,108 (-1,90) 0,016 (-1,68)* 0,067 (1,43)*** 0,507 (10,36)*** 4,618 (7,34)*** 7.321 Wald chi2(27) = 4015,50 Prob > chi2 = 0,0000

-0,016 (-0,35) -0,002 (-2,79)*** -0,007 (-0,19) -0,114 (-2,89)*** 0,001 (2,28) -0,054 (-1,56) 0,069 (1,06) -0,055 (-0,74) 0,010 (3,24)*** 0,095 (0,38) 0,048 (0,19) 0,105 (0,52) -0,020 (-0,11) -0,000 (-0,00) 0,125 (2,32)** 0,626 (11,26)*** 4,119 (4,96)*** 5.700 Wald chi2(27) = 3598,33 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.3 (tiếp theo)

200

2010

2012

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,015 (-0,56) 0,062 (1,15) -0,019 (-1,21) 0,000 (1,59) -0,048 (-2,97)*** 0,019 (1,30) -0,000 (-1,75)* -0,005 (-0,32) -0,047 (-1,00) -0,39 (-0,90) -0,004 (-1,56) 0,626 (3,39)*** 0,620 (3,45)*** 0,642 (3,60)*** 0,560 (3,20)*** 0,806 (4,56)***

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,002 (-0,09) 0,103 (2,10)** -0,027 (-1,63) 0,000 (1,88)* -0,055 (-3,24)*** 0,020 (1,29) -0,000 (-1,46) 0,004 (0,23) 0,405 (10,84)*** -0,107 (-2,48)** -0,009 (-4,22)*** -0,095 (-1,12) 0,034 (0,47) -0,218 (-4,81)*** -0,119 (-3,14)*** . .

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,085 (6,40)*** -0,001 (-7,68)*** -0,149 (-9,80)*** 0,039 (2,89)*** -0,000 (-3,52)*** -0,047 (-3,04)*** -0,005 (-0,12) 0,060 (1,36) 0,004 (1,46) -0,065 (-0,85) -0,168 (-2,52)** -0,158 (-2,47)** -0,136 (-2,49)** -0,184 (-3,17)*** 0,358 (14,24)*** 0,905 (32,62)*** -0,443 (-0,89)

1,238 (2,16)**

0,078 (4,71)*** -0,001 (-6,12)*** -0,189 (-9,98)*** 0,029 (1,72)* -0,000 (-2,11)** -0,076 (-4,10)*** 0,133 (3,03)*** 0,006 (0,11) 0,003 (1,27) -0,286 (-2,39)** -0,194 (-1,79)* -0,323 (-3,99)*** -0,298 (-3,95)*** 0,004 (1,50) 0,398 (13,17)*** 0,922 (27,37)*** -1,264 (-2,45)***

-2,726 (-5,73)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

0,052 (1,72)* -0,002 (-5,85)*** 0,064 (2,84)*** -0,108 (-4,27)*** 0,001 (3,50)*** 0,016 (0,68) 0,048 (0,69) -0,043 (-0,71) 0,007 (1,90)* -0,115 (-0,69) -0,219 (-1,38) -0,289 (-1,83)* -0,247 (-1,68)* -0,243 (-1,63) 0,130 (3,39)*** 0,504 (12,49)*** 2,956 (3,62)*** 7.476 Wald chi2(27) = 5406,45 Prob > chi2 = 0,0000

0,013 (0,33)*** -0,002 (-3,77)*** 0,054 (1,72)* -0,126 (-3,64)*** 0,001 (3,25)*** -0,064 (-2,08)** 0,048 (0,65) 0,022 (0,28) 0,008 (2,17)** 0,185 (0,53) 0,039 (0,11) -0,117 (-0,36) -0,101 (-0,32) -0,162 (-0,51) 0,131 (2,56)** 0,624 (11,87)*** 3,924 (4,12)*** 5.484 Wald chi2(27) = 3886,06 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.3 (tiếp theo)

201

2014

2016

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,042 (-2,00)** 0,138 (2,95)*** -0,021 (-1,51) 0,000 (2,07)** -0,061 (-4,31)*** 0,025 (1,93)* -0,000 (-2,13) -0,008 (-0,60) 0,500 (17,16)*** -0,045 (-1,24) -0,009 (-4,12)*** -0,318 (-4,20)*** 0,192 (3,11) -0,065 (-1,71)* -0,001 (-0,02) . .

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về thời gian làm việc) -0,100 (-3,84)*** 0,144 (2,06)** 0,017 (1,03) -0,000 (-0,24) -0,054 (-3,52)*** -0,010 (-0,69) 0,000 (0,15) -0,032 (-2,12)** 0,491 (16,53)*** -0,021 (-0,56) -0,007 (-2,98)*** -0,053 (-0,68) 0,038 (0,64) -0,149 (-3,70)*** -0,020 (-0,62) . .

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,035 (2,16)** -0,001 (-3,80)*** -0,141 (-7,69)*** 0,027 (1,65) -0,000 (-1,91)* -0,037 (-2,05)** 0,071 (1,79)* 0,105 (2,09)** 0,006 (2,31)** -0,591 (-4,92)*** -0,489 (-4,75)*** -0,552 (-7,09)*** -0,611 (-8,53)*** -0,610 (-7,93)*** 0,506 (17,17)*** 0,959 (28,39)*** 0,369 (0,77)

-4,193 (-10,75)***

-0,013 (-0,71) -0,000 (-0,64) -0,153 (-7,98)*** 0,034 (1,84)* -0,000 (-2,40)** -0,056 (-2,40)** 0,131 (3,31)*** 0,006 (0,12) 0,008 (2,92)*** -0,332 (-2,63)*** -0,229 (-2,25)** -0,442 (-5,42)*** -0,406 (-5,48)*** -0,406 (-5,05)*** 0,575 (18,68)*** 0,900 (24,48)*** 0,552 (1,15)

-4,007 (-9,41)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,081 (-1,92)* -0,001 (-1,31) 0,131 (4,15)*** -0,081 (-2,15)** 0,001 (1,56) -0,057 (-1,74)* -0,004 (-0,05) -0,093 (-1,11) 0,008 (1,84)* 0,245 (0,69) -0,199 (-0,57) -0,110 (-0,34) -0,231 (-0,73) -0,130 (-0,41) 0,327 (5,86)*** 0,689 (12,10)*** 5,132 (5,25)*** 5.430 Wald chi2(27) = 3823,52 Prob > chi2 = 0,0000

-0,070 (-1,44) -0,001 (-1,43) 0,148 (4,39)*** -0,041 (4,39)*** 0,000 (0,39) -0,005 (-0,15) 0,224 (3,01)*** 0,039 (0,49) 0,001 (0,23) -0,259 (-0,70) -0,013 (-0,04) -0,185 (-0,55) -0,164 (-0,50) -0,262 (-0,80) 0,266 (4,50)*** 0,584 (9,93)*** 1,760 (1,71)* 5.344 Wald chi2(27) = 3664,59 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.3 (tiếp theo)

202

PHỤ LỤC 5.4

HỒI QUY 02 GIAI ĐOẠN - BIẾN PHỤ THUỘC LÀ KHOẢNG CÁCH GIỚI VỀ

TIỀN LƯƠNG, BIẾN GIẢI THÍCH LÀ CHỈ SỐ MỨC ĐỘ THAM GIA VÀO

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

2002 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2004 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,019 (-0,73) 0,010 (0,19) 0,030 (1,94)* -0,000 (-1,84)* 0,012 (0,78) -0,024 (-1,85)* 0,000 (1,86)* -0,001 (-0,06) 0,094 (6,29)*** 0,018 (0,41) -0,087 (-0,77) 0,040 (0,62) 0,012 (0,12) 0,201 (1,92)* 0,255 (9,75)*** 0,210 (6,52)***

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,041 (1,31) -0,052 (-0,72) 0,008 (0,45) -0,000 (-0,39) -0,078 (-4,11)*** -0,023 (-1,36) 0,000 (1,24) 0,069 (3,78)*** 0,365 (11,47)*** -0,022 (-0,49) 0,027 (0,57) 0,434 (2,76)*** 0,113 (0,69) -0,115 (-0,81) -0,207 (-1,64) 0,261 (2,01)**

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,223 (15,40)*** -0,003 (-18,12)*** -0,200 (-10,39)*** 0,069 (4,66)*** -0,001 (-4,84)*** -0,114 (-6,30)*** -0,040 (-2,11)** 0,349 (7,08)*** 0,227 (1,73)* 0,201 (2,52)** 0,085 (0,68) 0,341 (2,74)*** 0,207 (6,33)*** 0,209 (5,19)*** -0,010 (-0,37) 0,808 (28,38)*** -3,205 (-13,94)***

0,281 (0,90)

0,135 (21,41)*** -0,002 (-9,04)*** -0,217 (-10,01)*** 0,107 (5,62)*** -0,001 (-5,76)*** -0,137 (-6,43)*** 0,066 (1,68)* 0,166 (2,86)*** -0,064 (-1,18) -0,554 (-3,98)*** -0,543 (-3,63)*** -0,481 (-4,46)*** -0,478 (-6,74)*** -0,524 (-6,19)*** 0,181 (5,44)*** 0,749 (21,41)*** -2,673 (-6,47)***

-1,417 (-3,06)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,076 (-2,75)*** -0,001 (-1,88)* -0,050 (-1,94)* -0,099 (-4,27)*** 0,001 (3,67)*** -0,130 (-5,25)*** 0,032 (1,24) -0,132 (-1,09) 0,379 (2,04)** 0,352 (2,90)*** 0,065 (0,35) 0,442 (2,94)*** 0,148 (3,42)*** -0,060 (-1,05) -0,144 (-3,89)*** 0,485 (12,70)*** 5,303 (12,62)*** 8.970 Wald chi2(27) = 7380,95 Prob > chi2 = 0,0000

-0,117 (-2,92)*** -0,000 (-0,47) -0,013 (-0,37) -0,104 (-3,03)*** 0,001 (2,73)*** -0,125 (-3,62)*** 0,016 (0,26) 0,011 (0,13) 0,075 (0,84) -0,155 (-0,59) -0,129 (-0,44) 0,072 (0,34) -0,086 (-0,50) -0,016 (-0,09) 0,004 (0,08) 0,425 (7,98)*** 6,240 (8,40)*** 5.857 Wald chi2(27) = 4078,25 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

TMQT CỦA HỘ GIA ĐÌNH (TÍNH THEO GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU)

203

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2006 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2008 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,028 (-0,09) 0,009 (0,11) 0,018 (0,83) -0,000 (-0,58) -0,038 (-2,03)** -0,003 (-0,13) -0,000 (-0,38) 0,014 (0,75) 0,138 (4,71)*** 0,001 (0,02) 0,048 (0,97) 0,088 (0,82) -0,033 (-0,31) -0,023 (-0,20) -0,133 (-2,29)** 0,108 (1,52)

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,025 (0,87) -0,021 (-0,34) -0,032 (-1,74)* 0,000 (1,50) -0,093 (-5,00)*** 0,021 (1,19) -0,000 (-1,10) 0,052 (2,85)*** 0,274 (8,24)*** -0,124 (-2,96)*** 0,015 (1,11) 0,569 (3,59)*** 0,206 (1,28) 0,037 (0,27) -0,117 (-0,92) 0,252 (1,95)*

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,136 (8,49)*** -0,002 (-9,72)*** -0,051 (-3,35)*** 0,030 (1,83)* -0,000 (-2,28)** -0,084 (-5,69)*** 0,07 (0,32) 0,028 (0,57) -0,068 (-1,59) -0,199 (-2,44)** -0,136 (-1,49) -0,043 (-0,42) 0,061 (1,73)* -0,066 (-1,26) 0,310 (10,73)*** 0,906 (29,29)*** -1,561 (-5,68)***

-0,041 (-0,09)

0,115 (6,35)*** -0,002 (-8,03)*** -0,182 (-8,59)*** 0,026 (1,39) -0,000 (-1,67)* -0,082 (-3,92)*** 0,136 (3,51)*** -0,028 (-0,55) -0,022 (-1,38) -0,389 (-2,86)*** -0,529 (-3,88)*** -0,499 (-5,29)*** -0,366 (-5,38)*** -0,347 (-4,35)*** 0,364 (11,29)*** 0,897 (25,86)*** -1,652 (-3,93)***

-0,925 (-2,08)**

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,014 (-0,36) -0,002 (-3,00)*** -0,033 (-1,34) -0,088 (-2,46)** 0,001 (1,81)* -0,069 (-2,84)*** -0,037 (-0,96) 0,005 (0,07) -0,009 (-0,13) 0,354 (2,72)*** -0,359 (-2,10)** -0,093 (-0,54) -0,108 (-1,91)* -0,136 (-1,63) 0,069 (1,46) 0,507 (10,35)*** 4,627 (7,34)*** 7.318 Wald chi2(27) = 4097,33 Prob > chi2 = 0,0000

-0,015 (-0,33) -0,002 (-2,82)*** -0,000 (-0,00) -0,122 (-3,14)*** 0,001 (2,54)** -0,054 (-1,55) 0,099 (1,54) -0,056 (-0,75) 0,043 (1,62) 0,039 (0,15) -0,021 (-0,08) 0,038 (0,19) -0,066 (-0,38) -0,042 (-0,23) 0,128 (2,39)** 0,629 (11,30)*** 3,988 (4,82)*** 5.700 Wald chi2(27) = 3744,33 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.4 (tiếp theo)

204

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2010 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2012 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,000 (-0,00) -0,023 (-0,25) 0,012 (0,48) -0,000 (-0,58) -0,034 (-1,39) -0,006 (-0,29) 0,000 (0,47) -0,005 (-0,19) 0,996 (13,63)*** -0,066 (-0,99) -0,024 (-0,38) -0,527 (-1,83) -0,495 (-1,77)* -0,286 (-1,03) -0,199 (-0,73) -0,196 (-1,63)

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,060 (2,24)** -0,075 (-1,23) -0,025 (-1,47) 0,000 (1,48) -0,018 (-1,00) 0,010 (0,61) -0,000 (-0,40) 0,042 (2,51)** 0,372 (9,58)*** 0,074 (1,66)* 0,012 (0,85) 0,239 (2,80)*** -0,126 (-1,68)* -0,014 (-0,30) -0,053 (-1,37) . .

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,085 (6,40)*** -0,001 (-7,69)*** -0,149 (-9,85)*** 0,039 (2,89)*** -0,000 (-3,51)*** -0,047 (-3,06)*** -0,003 (-0,07) 0,061 (1,37) 0,081 (2,11)** -0,061 (-0,79) -0,163 (-2,44)** -0,158 (-2,47)** -0,135 (-2,48)** -0,182 (-3,14)*** 0,359 (14,26)*** 0,904 (32,59)*** -0,470 (-0,94)

-8,709 (-9,71)***

0,078 (4,70)*** -0,001 (-6,11)*** -0,189 (-9,99)*** 0,029 (1,75)* -0,000 (-2,13)** -0,077 (-4,14)*** 0,134 (3,04)*** 0,005 (0,10) 0,020 (1,30) -0,279 (-2,34)** -0,188 (-1,74)* -0,326 (-4,04)*** -0,301 (-4,00)*** -0,374 (-4,69)*** 0,400 (13,32)*** 0,918 (27,19)*** -1,272 (-2,46)***

-2,549 (-5,02)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

0,052 (1,71)* -0,002 (-5,84)*** 0,064 (2,80)*** -0,108 (-4,28)*** 0,001 (3,52)*** 0,016 (0,68) 0,051 (0,73) -0,042 (-0,69) 0,085 (1,48) -0,104 (-0,62) -0,210 (-1,32) -0,285 (-1,80)* -0,242 (-1,64) -0,234 (-1,57) 0,131 (3,39)*** 0,501 (12,44)*** 2,929 (3,58)*** 7.477 Wald chi2(27) = 5514,76 Prob > chi2 = 0,0000

0,016 (0,40) -0,002 (-3,86)*** 0,055 (1,79)* -0,128 (-3,69)*** 0,001 (3,32)*** -0,063 (-2,07)** 0,039 (0,53) 0,016 (0,20) 0,041 (1,65) 0,215 (0,62) 0,055 (0,16) -0,116 (-0,36) -0,103 (-0,33) -0,153 (-0,48) 0,131 (2,56)** 0,625 (11,989)*** 3,983 (4,18)*** 5.484 Wald chi2(27) = 3883,00 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.4 (tiếp theo)

205

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2014 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2016 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (giá trị XK) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,047 (-2,07)** 0,021 (0,41) -0,015 (-0,95) 0,000 (0,88) -0,020 (-1,27) 0,009 (0,60) -0,000 (-0,43) -0,002 (-0,15) 0,320 (10,03)*** 0,062 (1,57) 0,021 (1,70)* 0,259 (3,18)*** -0,201 (-3,02)*** -0,010 (-0,25) -0,028 (-0,82) . .

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,023 (-0,82) -0,071 (-1,24) -0,025 (-1,46) 0,000 (1,25) -0,041 (-2,45)** 0,011 (0,70) -0,000 (-0,45) 0,025 (1,48) 0,327 (9,88)*** 0,018 (0,44) 0,005 (0,36) 0,182 (2,08)** -0,060 (-0,91) -0,008 (-0,17) 0,011 (0,30) . .

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,035 (2,12)*** -0,001 (-3,76)*** -0,140 (-7,67)*** 0,028 (1,68)* -0,000 (-1,94)* -0,037 (-2,02)** 0,071 (1,80)* 0,106 (2,11)** 0,033 (2,31)** -0,593 (-4,94) -0,492 (-4,78)*** -0,554 (-7,13)*** -0,614 (-8,58)*** -0,614 (-7,99)*** 0,506 (17,18)*** 0,957 (28,31)*** 0,367 (0,77)

-2,030 (-4,77)***

-0,013 (-0,72) -0,000 (-0,63) -0,149 (-7,81)*** 0,034 (1,83)* -0,000 (-2,38)** -0,057 (-2,93)*** 0,137 (3,47)*** 0,001 (0,03) 0,026 (1,93)* -0,310 (-2,46)** -0,231 (-2,26)** -0,444 (-5,43)*** -0,406 (-5,47)*** -0,399 (-4,95)*** 0,573 (18,54)*** 0,903 (24,50)*** 0,495 (1,03)

-1,982 (-4,47)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,084 (-2,00)*** -0,001 (-1,24) 0,131 (4,16)*** -0,079 (-2,08)** 0,001 (1,49) -0,056 (-1,71)* -0,006 (-0,08) -0,089 (-1,06) 0,041 (1,77)* 0,247 (0,70) -0,203 (-0,58) -0,104 (-0,32) -0,228 (-0,72) -0,130 (-0,41) 0,326 (5,86)*** 0,684 (12,03)*** 5,163 (5,28)*** 5.430 Wald chi2(27) = 3616,55 Prob > chi2 = 0,0000

-0,071 (-1,47) -0,001 (-1,40) 0,145 (4,33)*** -0,041 (-0,89) 0,000 (0,39) -0,005 (-0,15) 0,222 (3,01)*** 0,046 (0,58) 0,031 (1,25) -0,267 (-0,73) -0,027 (-0,08) -0,183 (-0,55) -0,159 (-0,49) -0,259 (-0,79) 0,268 (4,54)*** 0,584 (9,93)*** 1,802 (1,77)* 5.344 Wald chi2(27) = 3431,04 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.4 (tiếp theo)

206

PHỤ LỤC 5.5

HỒI QUY 02 GIAI ĐOẠN - BIẾN PHỤ THUỘC LÀ KHOẢNG CÁCH GIỚI VỀ

TIỀN LƯƠNG, BIẾN GIẢI THÍCH LÀ CHỈ SỐ MỨC ĐỘ THAM GIA VÀO

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

2002 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2004 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,019 (-0,74) 0,014 (0,26) 0,030 (1,97)** -0,000 (-1,87)* 0,011 (0,72) -0,025 (-1,86)* 0,000 (1,86)* -0,001 (-0,07) 0,092 (6,08)*** 0,018 (0,41) 0,002 (0,54) 0,037 (0,58) 0,008 (0,08) 0,198 (1,90)* 0,253 (9,63)*** 0,206 (6,39)***

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,041 (1,33) -0,059 (-0,83) 0,07 (0,40) -0,000 (-0,34) -0,072 (-3,79)*** -0,023 (-1,35) 0,000 (1,24) 0,070 (3,83)*** 0,377 (11,79)*** -0,026 (-0,57) -0,009 (-2,72)*** 0,421 (2,68)*** 0,083 (0,51) -0,156 (-1,10) -0,244 (-1,93)* 0,237 (1,82)*

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,222 (15,38)*** -0,003 (-18,10)*** -0,197 (-10,24)*** 0,070 (4,72)*** -0,001 (-4,88)*** -0,113 (-6,28)*** -0,032 (-1,66)* 0,351 (7,12)*** -0,005 (-0,98) 0,208 (2,61)*** 0,107 (0,85) 0,346 (2,78)*** 0,213 (6,48)*** 0,219 (5,41)*** -0,012 (-0,44) 0,807 (28,35)*** -3,284 (-14,27)***

0,291 (0,92)

0,136 (7,20)*** -0,002 (-9,07)*** -0,218 (-10,04)*** 0,107 (5,60)*** -0,001 (-5,75)*** -0,137 (-6,47)*** 0,066 (1,67)* 0,166 (2,87)*** -0,002 (-0,66) -0,557 (-4,00)*** -0,546 (-3,65)*** -0,483 (-4,46)*** -0,479 (-6,73)*** -0,522 (-6,17)*** 0,182 (5,47)*** 0,749 (21,40)*** -2,680 (-6,45)***

-1,461 (-3,17)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,076 (-2,76)*** -0,001 (-1,87)* -0,051 (-1,97)** -0,098 (-4,25)*** 0,001 (3,65)*** -0,132 (-5,31)*** 0,029 (1,13) -0,133 (-1,09 0,015 (2,02)** 0,342 (2,81)*** 0,067 (0,36) 0,454 (3,01)*** 0,145 (3,35)*** -0,061 (-1,06)*** -0,146 (-3,97)*** 0,487 (12,74)*** 4,955 (12,63)*** 8.970 Wald chi2(27) = 7387,81 Prob > chi2 = 0,0000

-0,118 (-2,96)*** -0,000 (-0,44) -0,014 (-0,40) -0,103 (-2,99)*** 0,001 (2,71)*** -0,126 (-3,64)*** 0,009 (0,14) 0,012 (0,15) 0,008 (1,38) -0,127 (-0,49) -0,097 (-0,33) 0,098 (0,45) -0,064 (-0,37) -0,004 (-0,02) 0,004 (0,08) 0,428 (8,03)*** 6,290 (8,29)*** 5.857 Wald chi2(27) = 4086,96 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA HỘ GIA ĐÌNH (TÍNH THEO THUẾ QUAN)

207

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2006 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2008 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,002 (-0,07) 0,005 (0,06) 0,017 (0,78) -0,000 (-0,55) -0,037 (-1,97)** -0,002 (-0,09) -0,000 (-0,40) 0,014 (0,75) 0,139 (4,72)*** 0,002 (0,03) -0,002 (-0,70) 0,087 (0,81) -0,036 (-0,33) -0,027 (-0,24) -0,139 (-2,39)** 0,109 (1,54)

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,024 (0,85) -0,018 (-0,30) -0,032 (-1,72) 0,000 (1,46) -0,091 (-4,89)*** 0,021 (1,19) -0,000 (-1,08) 0,054 (2,96)*** 0,281 (8,39)*** -0,126 (-3,01)*** -0,002 (-1,17) 0,565 (3,56)*** 0,204 (1,27) 0,023 (0,17) -0,128 (-1,00) 0,246 (1,90)*

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,137 (8,53)*** -0,002 (-9,74)*** -0,053 (-3,49)*** 0,029 (1,76)* -0,000 (-2,23)** -0,084 (-5,70)*** 0,006 (0,25) 0,027 (0,56) 0,005 (1,88)* -0,199 (-2,43)** -0,138 (-1,51) -0,042 (-0,41) 0,067 (1,88)* -0,073 (-1,40) 0,310 (10,73)*** 0,905 (29,24)*** -1,548 (-5,63)***

-0,022 (-0,05)

0,115 (6,36)*** -0,001 (-8,02)*** -0,184 (-8,70)*** 0,025 (1,36) -0,000 (-1,66)* -0,084 (-4,06)*** 0,129 (3,29)*** -0,026 (-0,51) 0,002 (1,06) -0,383 (-2,81)*** -0,529 (-3,88)*** -0,486 (-5,12)*** -0,355 (-5,19)*** -0,342 (-4,28)*** 0,364 (11,30)*** 0,896 (25,81)*** -1,589 (-3,76)***

-0,982 (-2,20)**

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,014 (-0,36) -0,001 (-2,99)*** -0,034 (-1,37) -0,088 (-2,46)** 0,001 (1,80)* -0,069 (-2,85)*** -0,037 (-0,98) 0,005 (0,07) 0,003 (0,42) 0,352 (2,71)*** -0,361 (-2,12)** -0,093 (-0,53) -0,107 (-1,89)* -0,138 (-1,65)* 0,068 (1,45) 0,506 (10,33)*** 4,634 (7,35)*** 7.318 Wald chi2(27) = 4096,44 Prob > chi2 = 0,0000

-0,017 (-0,40) -0,002 (-2,76)*** -0,007 (-0,21) -0,112 (-2,84)*** 0,001 (2,24)** -0,052 (-1,50) 0,067 (1,03) -0,056 (-0,75) 0,010 (3,28)*** 0,087 (0,34) 0,039 (0,15) 0,105 (0,52) -0,020 (-0,12) -0,001 (-0,01) 0,125 (2,33)** 0,625 (11,24)*** 4,132 (4,98)*** 5.700 Wald chi2(27) = 3738,33 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.5 (tiếp theo)

208

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2010 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2012 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,000 (-0,01) -0,016 (-0,17) 0,013 (0,52) -0,000 (-0,60) -0,035 (-1,41) -0,006 (-0,28) 0,000 (0,45) -0,006 (-0,25) 0,990 (13,56)*** -0,067 (-1,00) 0,007 (1,95)* -0,530 (-1,84)* -0,494 (-1,77)* -0,282 (-1,02) -0,195 (-0,71) -0,455 (-1,65)*

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) 0,061 (2,28)** -0,079 (-1,31) -0,026 (-1,52) 0,000 (1,50) -0,015 (-0,85) 0,010 (0,64) -0,000 (-0,40) 0,043 (2,58)** 0,376 (9,70)*** 0,071 (1,61) -0,004 (-1,93) 0,256 (2,99)*** -0,123 (-1,65) -0,024 (-0,52) -0,061 (-1,58) . .

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,085 (6,39)*** -0,001 (-7,67)*** -0,149 (-9,80)*** 0,039 (2,89)*** -0,000 (-3,51)*** -0,047 (-3,04)*** -0,005 (-0,11) 0,060 (1,36) 0,004 (1,46) -0,065 (-0,84) -0,168 (-2,52)** -0,158 (-2,46)** -0,136 (-2,49)** -0,184 (-3,17) 0,360 (14,28)*** 0,905 (32,61)*** -0,444 (-0,89)

-8,687 (-9,68)***

0,078 (4,70)*** -0,001 (-6,11)*** -0,190 (-10,00)*** 0,029 (1,73)* -0,000 (-2,12)** -0,076 (-4,11)*** 0,135 (3,08)*** 0,007 (0,13) 0,003 (1,27) -0,287 (-2,40)** -0,193 (-1,78)* -0,323 (-3,99)*** -0,298 (-3,95)*** -0,373 (-4,68)*** 0,400 (13,30)*** 0,918 (27,18)*** -1,285 (-3,22)***

-2,572 (-5,07)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

0,052 (1,75)* -0,002 (-5,85)*** 0,65 (2,84)*** -0,108 (-4,27)*** 0,001 (3,50)*** 0,016 (0,67) 0,048 (0,69) -0,043 (-0,70) 0,007 (1,90) -0,115 (-0,69) -0,219 (-1,38) -0,288 (-1,82)* -0,246 (-1,67)* -0,243 (-1,63)* 0,131 (3,41)*** 0,504 (12,50)*** 2,952 (2,71)*** 7.477 Wald chi2(27) = 5517,04 Prob > chi2 = 0.0000

0,015 (0,36)*** -0,002 (-3,81)*** 0,054 (1,75)* -0,127 (-3,65)*** 0,002 (3,26)*** -0,063 (-2,06)** 0,043 (0,59) 0,020 (0,26) 0,008 (2,16)** 0,186 (0,54) 0,039 (0,11) -0,113 (-0,35) -0,100 (-0,32) -0,158 (-0,50) 0,129 (2,52)** 0,625 (11,91)*** 3,954 (4,15)*** 5.484 Wald chi2(27) = 3887,20 Prob > chi2 = 0.0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.5 (tiếp theo)

209

Biến

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Giai đoạn 1 (Số lượng con)

Số lượng con

2014 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

2016 Giai đoạn 1 (Số lượng con dưới 6 tuổi)

Số lượng con dưới 6 tuổi

Tuổi vợ

Kinh nghiệm của vợ

Trình độ học vấn của vợ

Tuổi chồng

Kinh nghiệm của chồng

Trình độ học vấn của chồng

Thu nhập của chồng

Sống chung với người hỗ trợ chăm sóc trẻ khi mẹ đi làm Chỉ số mức độ tham gia vào thương mại quốc tế (thuế quan) Nghề “chuyên môn kỹ thuật”

Nghề “dịch vụ - bán hàng”

Nghề “lao động kỹ thuật”

Nghề “lao động giản đơn”

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,022 (-0,79) -0,074 (-1,31) -0,026 (-1,49) 0,000 (1,26) -0,039 (-2,33)** 0,011 (0,70) -0,000 (-0,44) 0,025 (1,49) 0,328 (9,92)*** 0,017 (0,41) -0,002 (-0,81) 0,190 (2,17)** -0,058 (-0,89) -0,012 (-0,28) 0,007 (0,19) .

Nghề “quân đội - lãnh đạo và các nghề còn lại” Giới tính của con đầu

Giai đoạn 2 (Khoảng cách giới về tiền lương) -0,046 (-2,03)** 0,022 (0,43) -0,014 (-0,83) 0,000 (0,86) -0,020 (-1,29) 0,008 (0,58) -0,000 (-0,41) -0,002 (-0,14) 0,320 (10,03)*** 0,062 (1,55) 0,004 (1,56) 0,258 (3,17)*** -0,203 (-3,04)*** -0,012 (-0,29) -0,030 (-0,87) . .

.

Tổ hợp giới tính các con

Hằng số

0,035 (2,15)** -0,001 (-3,79)*** -0,140 (-7,68)*** 0,027 (1,65)* -0,000 (-1,92)* -0,037 (-2,05)** 0,071 (1,78)* 0,105 (2,09)** 0,006 (2,31)** -0,591 (-4,92)*** -0,490 (-4,76)*** -0,551 (-7,09)*** -0,611 (-8,53)*** -0,609 (-7,93)*** 0,505 (17,17)*** 0,959 (28,38)*** 0,371 (0,78)

-2,035 (-4,78)***

-0,013 (-0,71) -0,000 (-0,65) -0,153 (-7,96)*** 0,034 (1,83)* -0,000 (-2,38)** -0,056 (-2,91)*** 0,131 (3,30)*** 0,007 (0,13) 0,008 (2,93)*** -0,335 (-2,65)*** -0,231 (-2,26)*** -0,442 (-5,41)*** -0,406 (-5,47)*** -0,407 (-5,06)*** 0,572 (18,52)*** 0,901 (24,46)*** 0,561 (1,17)

-1,986 (-4,48)***

Số quan sát Mức ý nghĩa

-0,082 (-1,95)* -0,000 (-1,28) 0,131 (4,14)*** -0,081 (-2,14)** 0,001 (1,55)*** -0,057 (-1,73)* -0,007 (-0,10) -0,090 (-1,07) 0,008 (1,85)* 0,245 (0,69) -0,208 (-0,60) -0,106 (-0,33) -0,230 (-0,73) -0,129 (-0,41) 0,326 (5,86)*** 0,688 (12,10)*** 5,186 (4,36)*** 5.430 Wald chi2(27) = 3616,49 Prob > chi2 = 0,0000

-0,071 (-1,46) -0,001 (-1,42) 0,147 (4,36)*** -0,041 (-0,87) 0,000 (0,38) -0,004 (-0,12) 0,224 (3,04)*** 0,047 (0,59) 0,001 (0,18) -0,226 (-0,69) -0,021 (-0,06) -0,189 (-0,57) -0,164 (-0,50) -0,260 (-0,79) 0,265 (4,48)*** 0,583 (9,92)*** 1,756 (1,72)* 5.344 Wald chi2(27) = 3438,82 Prob > chi2 = 0,0000

Ghi chú: Thống kê z trong ngoặc ( ).

*, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

PHỤ LỤC 5.5 (tiếp theo)

210

PHỤ LỤC 5.6

Phân phối của tổng số con trong hộ theo giới tính và độ tuổi