ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
MAI THỊ THANH MAI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
HÀ NỘI – NĂM 2025
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
MAI THỊ THANH MAI
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Quốc tế
Mã số: 9310106.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Anh Thu
HÀ NỘI – NĂM 2025
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về sự cần thiết về tính trung thực, liêm chính trong nghiên
cứu học thuật. Tôi xin cam đoan, nội dung luận án là kết quả nghiên cứu do cá nhân
tôi thực hiện, không vi phạm các nguyên tắc, quy định về sự trung thực và liêm chính
trong nghiên cứu. Nội dung của luận án có tham khảo các nghiên cứu, thông tin được
công bố trên các tạp chí, sách, báo cáo, trang web. Nội dung tham khảo được trích
dẫn nguồn đầy đủ trong luận án; đồng thời, được liệt kê đầy đủ trong danh mục tài
liệu tham khảo của luận án.
Hà Nội, ngày ..... tháng ….. năm 2025
Tác giả luận án
Mai Thị Thanh Mai
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Anh Thu.
Trước hết, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn của tôi
- PGS.TS. Nguyễn Anh Thu - người đã luôn truyền cảm hứng cho tôi trong nghiên
cứu khoa học, người đã đưa ra những định hướng, chỉ dẫn về ý tưởng và phương pháp
nghiên cứu phù hợp với mục đích và yêu cầu của Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Hội đồng Trường, Ban Giám hiệu, Ban
lãnh đạo, cán bộ và giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Phòng Đào tạo,
Phòng NCKH và HTPT, cùng toàn thể các phòng ban, cán bộ, giảng viên và chuyên
viên tại Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn là điểm tựa, là nguồn động viên,
hỗ trợ để tôi có thể vượt qua các thử thách và hoàn thành được luận án.
Tôi sẽ luôn ghi nhớ, trân trọng những sự đồng hành và giúp đỡ để tiếp tục
vững bước hơn trên con đường học tập, nghiên cứu và công tác của mình.
Trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, ngày ..... tháng ….. năm 2025
Nghiên cứu sinh
Mai Thị Thanh Mai
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC ............. 8
BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN ......................... 8
1.1. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến thương mại hàng hoá .................. 9
1.2. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến số lượng hàng nông sản
xuất khẩu ....................................................................................................... 10
1.3. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến giá hàng nông sản xuất khẩu ....... 14
1.4. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội .......................... 15
1.5. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất khẩu nông sản theo nhóm
quốc gia ............................................................................................................................. 17
1.6. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản ... 18
1.7. Đánh giá tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu ................................. 20
1.7.1. Đánh giá tổng quan nghiên cứu ............................................................................. 20
1.7.2. Khoảng trống nghiên cứu ....................................................................................... 21
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIỆN PHÁP PHI THUẾ
QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NỒNG SẢN ............................................................ 24
2.1. Cơ sở lý luận về biện pháp phi thuế quan ................................................................ 24
2.1.1. Khái niệm về biện pháp phi thuế quan .................................................................. 24
2.1.2. Phân loại ................................................................................................................. 27
2.1.3. Quan niệm về các biện pháp SPS và TBT ............................................................ 32
2.2. Các phương pháp đo lường và đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế
quan .................................................................................................................................. 35
2.2.1. Phương pháp đo lường mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan ........ 35
2.2.2. Phương pháp định lượng sử dụng mô hình lực hấp dẫn ....................................... 37
2.2.3. Phương pháp tiếp cận về giá: ước lượng tương tương thuế quan giá trị .............. 39
2.3. Xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản ...................... 42
2.3.1. Quan niệm về hàng nông sản ................................................................................. 42
2.3.2. Quan niệm về xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông
sản ..................................................................................................................... 42
2.4. Lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ........ 50
2.4.1. Minh hoạ về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu ............... 50
2.4.2. Tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ...... 52
2.4.3. Tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ...... 54
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 56
3.1. Quy trình nghiên cứu và khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế
quan đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU ..................................................... 56
3.1.1. Quy trình nghiên cứu ............................................................................................. 56
3.1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với xuất
khẩu nông sản Việt Nam sang EU ................................................................................... 57
3.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 62
3.2.1. Phương pháp định tính ........................................................................................... 62
3.2.2. Phương pháp kiểm đếm và tính toán các chỉ số đánh giá mức độ phổ biến của các
BPPTQ áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU ........................................... 63
3.2.3. Phương pháp định lượng: Mô hình lực hấp dẫn ................................................... 63
3.3. Dữ liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu ....................................................................... 67
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................. 70
CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI
THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG EU ............. 71
4.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU .......................................... 71
4.1.1. Kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng xuất khẩu .............................................. 71
4.1.2. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo thị trường .......................... 77
4.1.3. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo các mặt hàng ..................... 79
4.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông sản nhập
khẩu ......................................................................................................................... 101
4.2.1. Hệ thống quy định của EU về các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản nhập
khẩu ............................................................................................................. 101
4.2.2. Đánh giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng
nông sản nhập khẩu vào EU ........................................................................................... 111
4.3. Kết quả đánh giá tác động định tính thông qua thực trạng hàng hoá nông sản Việt
Nam bị EU cảnh báo do vi phạm các BPPTQ .............................................................. 123
4.4. Kết quả định lượng tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với xuất
khẩu nông sản Việt Nam ................................................................................................ 128
4.4.1. Kết quả tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với tổng thể xuất
khẩu nông sản Việt Nam ................................................................................................ 128
4.4.2. Kiểm định tác động của các BPPTQ đến các nhóm hàng nông sản .................. 138
4.5. Đánh giá chung về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản
Việt Nam ......................................................................................................................... 143
4.5.1. Tác động tích cực ................................................................................................. 143
4.5.2. Tác động tiêu cực ................................................................................................. 146
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................................... 149
CHƯƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP .................................................................. 150
5.1. Xu hướng chính sách điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan của EU đối với hàng
nông sản nhập khẩu vào EU ........................................................................................... 150
5.2. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Liên minh châu Âu ............ 156
5.3. Kiến nghị các giải pháp ........................................................................................... 158
5.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước ................................................................................ 158
5.3.2. Giải pháp về phía Hiệp hội nông sản Việt Nam ................................................. 160
5.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp .......................................................................... 163
Tiểu kết chương 5 ........................................................................................................... 166
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 167
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ... 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 170
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa
1 Agreement on Agriculture Hiệp định về Nông nghiệp AoA
2 Ad Valorem Equivalent Thuế giá trị tương đương AVE
3 Coverage ratio Chỉ số bao phủ CR
4 European Community Cộng đồng châu Âu EC
5 European Union Liên minh Châu Âu EU
6 EVFTA European-Vietnam Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu Âu-Việt Nam
7 FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc
8 Fixed Effects Model Mô hình tác động cố định FEM
9 Frequency ratio Chỉ số tần suất xuất hiện FR
10 Gross Domestic Product Tổng sản phẩm trong nước GDP
11 Global Good Agricultural Practice GLOBAL GAP Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu
12 GMP Good Manufacturing Practice Thực hành sản xuất tốt
13 HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn
14 HS Harmonized Commodity Description and Coding System Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa
15 International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF
16 ISO International Organization for Standardization Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế
17 ITC International Trade Center Trung tâm Thương mại Quốc tế
18 Maximum Residue Level MRL Giới hạn tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
19 Non-Tariff Barriers Rào cản phi thuế quan NTB
20 Non-Tariff Measures Biện pháp phi thuế quan NTM
21 OECD Organization for Economic Cooperation and Development Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
22 Ordinary Least Square OLS Phương Pháp Bình Phương Nhỏ Nhất
i
23 Prevalence ratio Chỉ số phổ biến PR
STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa
24 RASFF Rapid Alert System for Food and Feed Hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn nuôi
25 REACH Đăng ký, Đánh giá, Cấp phép và Hạn chế Hóa chất Registration, Evaluation, Authorisation, Restriction of Chemical substances
26 REM Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên
27 SITC Standard International Trade Classification Phân loại tiêu chuẩn thương mại quốc tế
28 SPS Sanitary and Phytosanitary Biện pháp kiểm dịch vệ sinh động thực vật
29 TBT Technical Barriers to Trade Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
30 TRAINS Trade Analysis Information System Hệ thống thông tin và phân tích thương mại UNCTAD
31 UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
32 VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
33 WB World Bank Ngân hàng Thế giới
34 WITS World Integrated Trade Solution Giải pháp thương mại tích hợp
35 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa
1 BPPTQ Biện pháp phi thuế quan
2 NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
3 RCPTQ Rào cản phi thuế quan
ii
4 XKNS Xuất khẩu nông sản
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân loại các biện pháp phi thuế quan theo UNCTAD ................................. 28
Bảng 2.2. Minh hoạ về cấu trúc cây phân loại các chương của UNCTAD ................... 31
Bảng 3.1. Thống kê các biến, nguồn dữ liệu và kỳ vọng dấu ......................................... 68
Bảng 4.1. Xếp hạng các đối tác thương mại nông sản chính của EU, giai đoạn 2021 -
2023 (%) ........................................................................................................................... 76
Bảng 4.2. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính,
2012 – 2023 (%) ............................................................................................................... 81
Bảng 4.3. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo mã HS 2 chữ số
(nghìn USD) ..................................................................................................................... 83
Bảng 4.4. Số lượng các loại BPPTQ mà EU áp dụng với hàng nông sản của Việt Nam,
phân loại theo mã BPPTQ .............................................................................................. 111
Bảng 4.5. Mức độ phổ biến của BPPTQ đối với hàng nông sản phân theo nhóm hàng tại
thị trường EU năm 2022 ................................................................................................. 117
Bảng 4.6.. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU
đối với nhóm hàng động vật chi tiết theo mã BPPTQ .................................................. 120
Bảng 4.7. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU
đối với nhóm hàng thực vật chi tiết theo mã BPPTQ ................................................... 121
Bảng 4.8. Tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất tác động thương mại của các BPPTQ của EU
đối với nhóm hàng thực phẩm chế biến chi tiết theo mã BPPTQ ................................ 122
Bảng 4.9. Thống kê mô tả các biến ............................................................................... 129
Bảng 4.10. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS và TBT là thông
báo hàng năm .................................................................................................................. 130
Bảng 4.11. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS, TBT là số lượng
thông báo cộng dồn luỹ kế theo năm ............................................................................. 131
Bảng 4.12. Phân tích nhân tử phóng đại phương sai VIF ............................................. 134
Bảng 4.13. Kết quả ước lượng của mô hình đối với tổng giá trị nông sản Việt Nam xuất
khẩu sang EU .................................................................................................................. 135
Bảng 4.14. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất
khẩu Nhóm 1 – Động vật và sản phẩm từ động vật của Việt Nam sang EU ............... 139
Bảng 4.15. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất
khẩu Nhóm 2 – Thực vật và sản phẩm từ thực vật của Việt Nam sang EU ................ 140
Bảng 4.16. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất
iii
khẩu Nhóm 3 – Hàng nông sản, thực phẩm chế biến của Việt Nam sang EU ............ 141
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu ........................................................... 45
Hình 2.2. Cung và cầu thay đổi do thực hiện các BPPTQ (Nội địa hoá chi phi phí
thiệt hại) .................................................................................................................... 52
Hình 2.3. Cung và cầu thay đổi do thực hiện các BPPTQ (Áp dụng tiêu chuẩn chung) . 52
Hình 3.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu ................................................................ 56
Hình 3.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với
hàng nông sản xuất khẩu ........................................................................................... 58
Hình 4.1. Cán cân thương mại nông sản Việt Nam – EU (triệu USD) ..................... 71
Hình 4.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU so với kim ngạch sang
toàn thế giới (triệu USD) .......................................................................................... 73
Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU (%) ....... 74
Hình 4.4. Tỷ trọng thị phần của 6 đối tác lớn nhất nhập khẩu nông sản Việt Nam, giai
đoạn 2012 – 2023 (%) ............................................................................................... 75
Hình 4.5. Diễn tiến xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo quốc gia, 2012
– 2022 (nghìn USD) .................................................................................................. 77
Hình 4.6. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo quốc gia 2012 (%) ...... 78
Hình 4.7. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo quốc gia 2023(%) 78
Hình 4.8. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm ngành
hàng chính, 2012-2023 (triệu USD) ......................................................................... 79
Hình 4.9. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính
năm 2012 (%) ............................................................................................................ 80
Hình 4.10. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính
năm 2023 (%) ............................................................................................................ 80
Hình 4.11. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính
năm 2023 (%) ............................................................................................................ 80
Hình 4.12. Diễn tiến xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sang
EU, 2012 – 2023 (nghìn USD) ................................................................................. 82
Hình 4.13. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm
2012 (%) ................................................................................................................... 84
Hình 4.14. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm
iv
2023 (%) ................................................................................................................... 84
Hình 4.15: Tỷ trọng cà phê trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%) ................................................................................ 85
Hình 4.16: Diễn tiến xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU theo phân loại mã hàng HS
6 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................... 87
Hình 4.17: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu cà phê (HS 090111) Việt Nam sang EU theo
thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ....................................................... 88
Hình 4.18: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hoa quả và các loại hạt của Việt Nam sang
EU theo mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................... 89
Hình 4.19: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt điều của Việt Nam sang EU theo thị
trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................................ 90
Hình 4.20: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu hạt điều (HS 080132) Việt Nam sang EU
theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................... 91
Hình 4.21: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU theo mã HS
4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................... 92
Hình 4.22: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU, giai
đoạn 2012 – 2023 (%) ............................................................................................... 93
Hình 4.23: Cơ cấu các đối tác nhập khẩu rau quả chính của Việt Nam năm ........... 94
2023 (%) ................................................................................................................... 94
Hình 4.24: Cơ cấu các thị trường nhập khẩu rau quả trong EU của Việt Nam năm
2023 (%) ................................................................................................................... 94
Hình 4.25: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam sang EU, giai đoạn
2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................................................... 95
Hình 4.26: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng của Việt Nam sang EU,
giai đoạn 2012 – 2023 (%) ........................................................................................ 96
Hình 4.27: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo thị trường trong EU của Việt
Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................................... 97
Hình 4.28: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU, giai đoạn 2012
– 2023 (nghìn USD) .................................................................................................. 98
Hình 4.29: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU theo các thị
trường chính, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ................................................ 100
Hình 2.4. Sơ đồ các quy định liên quan Luật Thực phẩm chung của EU ............... 102
Hình 4.30. Số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và TBT
v
của EU, giai đoạn 2012 - 3/2023 ............................................................................ 114
Hình 4.31. Mức độ phổ biến của các BPPTQ đối với mặt hàng nông sản tại một số
quốc gia/khu vực trên thế giới ................................................................................ 116
Hình 4.32. Điểm chỉ số thịnh hành và số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt các BPPTQ
tại EU đối với các nhóm hàng nông sản ................................................................. 118
Hình 4.33. Số lượng thông báo từ RASFF về hàng nông sản nhập khẩu vào các nước
EU giai đoạn 2012 – 2022 ...................................................................................... 124
Hình 4.34. Thông báo từ hệ thống RASFF giai đoạn 2012 – 2022 phân theo quốc gia
thành viên EU đưa ra thông báo ............................................................................. 125
Hình 4.35. Số lượng lô hàng nông sản của Việt Nam bị cảnh báo từ hệ thống RASFF
giai đoạn 2012 – 2022 ............................................................................................. 127
Hình 5.1. Hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về các chính sách mới của EU
vi
(%) .......................................................................................................................... 163
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp phi thuế quan (BPPTQ) là công cụ chính sách chủ chốt (bên cạnh
thuế quan) được các quốc gia sử dụng trong thương mại quốc tế. Kể từ những năm
1960, BPPTQ đã liên tục thay thế thuế quan như một vấn đề cốt lõi trong các chương
trình nghị sự, đặc biệt trên các bàn đàm phán thương mại; cho đến nay BPPTQ đã
được đưa lên vị trí hàng đầu trong các cuộc thảo luận về mô hình thương mại toàn
cầu bền vững trong thế kỷ 21. Sự chuyển dịch giữa các công cụ chính sách thể hiện
khi thuế suất đối với hàng hóa đã liên tục giảm trong bối cảnh tổ chức thương mại
thế giới (WTO) thực hiện quá trình tự do hóa thương mại, cùng với nhiều Hiệp định
thương mại tự do (FTA) được ký kết và thực thi nên việc áp dụng các BPPTQ thay
cho thuế quan đang là xu hướng của các quốc gia. Theo UNCTAD (2022), trên 70%
giá trị hàng hoá tham gia thương mại toàn cầu chịu ảnh hưởng của ít nhất một BPPTQ.
Từ khởi nguyên, việc áp dụng BPPTQ hướng tới các mục tiêu phi thương mại,
vì lợi ích của con người, vì các mục tiêu xã hội như bảo vệ sức khỏe con người, động
thực vật, bảo vệ môi trường, vì an ninh quốc gia,... Tuy nhiên, trước bối cảnh thế giới
với nhiều biến động khó lường và phức tạp như chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay lại và trỗi dậy mạnh mẽ,… thì các quốc gia đã
và đang có xu hướng áp dụng các BPPTQ ngày càng dày đặc như một công cụ để bảo
hộ hàng hoá nội địa vì việc tuân thủ các BPPTQ làm tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu,
giảm sự cạnh tranh, ngăn chặn hàng hoá thâm nhập vào thị trường nội địa. Theo
UNCTAD (2019), BPPTQ có tác động làm tăng giá hàng hoá gấp 3 lần so với thuế
quan. Tuy nhiên, khi hàng hoá sản xuất tuân thủ tốt các BPPTQ cũng sẽ có thể tăng
nhu cầu nhập khẩu. Nếu như trước đây, thuế quan là công cụ duy nhất được WTO
công nhận, cho phép các quốc gia sử dụng một cách hợp pháp để bảo hộ nền sản xuất
trong nước (Salvatore, 2019) thì hiện nay BPPTQ đang dần thay thế thuế quan. Nếu như
thuế quan rất minh bạch, dễ dự đoán thì BPPTQ đã phát triển, biến tướng rất phức tạp,
khó thu thập, thiếu minh bạch do còn nhiều khó khăn trong quá trình thu thập (UNCTAD,
2022). Do đó, việc xác định BPPTQ có tác động như thế nào, tích cực hay tiêu cực đến
thương mại quốc tế thì vẫn là vấn đề rất cần tiếp tục được nghiên cứu.
Nông sản là mặt hàng chịu tác động lớn từ các BPPTQ. Theo UNCTAD (2021),
1
trong thời kỳ đại dịch Covid-19, hàng hoá nông sản là hàng hoá có số lượng lớn bị
áp đặt các BPPTQ lớn thứ hai (chỉ đứng sau mặt hàng vật tư, bảo hộ y tế), chiếm tới
16% tổng số sản phẩm trên toàn cầu chịu tác động gia tăng từ các BPPTQ. Tại Việt
Nam, nông sản mặc dù là mặt hàng có lợi thế so sánh nhưng luôn gặp phải các thách
thức lớn từ các BPPTQ đặc biệt là các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), và
biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS). Trong giai đoạn 10 năm,
số lượng hàng hoá nông sản của Việt Nam bị cảnh báo, cấm nhập khẩu vào các thị
trường đối tác chính là 5483 trường hợp, trong đó có 793 trường hợp tại EU. Nguyên
nhân chính khiến hàng nông sản Việt Nam bị từ chối là do doanh nghiệp không tuân
thủ các quy định về an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chất phụ
gia, chất gây ô nhiễm,… vượt mức quy định, hoặc vi phạm trong quá trình đóng gói,
ghi nhãn (Văn phòng SPS Việt Nam, 2022).
Hơn thế nữa, các quốc gia hiện nay thường xuyên thay đổi, ban hành mới hoặc
sửa đổi các quy định liên quan đến BPPTQ với nhiều loại biện pháp đa dạng khác
nhau. Điều đó khiến cho các quốc gia xuất khẩu nông sản (XKNS) như Việt Nam gặp
rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng được ngay lập tức các quy định mới. Theo Văn
phòng SPS Việt Nam, từ năm 2015 đến 2019, đã có hơn 2.200 thông báo thay đổi
quy định SPS từ 18 thị trường đối tác chính. Số lượng thông báo đã tăng dần qua các
năm, từ 219 thông báo vào năm 2015 lên đến 579 thông báo vào năm 2019. Trong giai
đoạn 2020–2023, có 498 thông báo mới được ghi nhận, trong đó EU là thị trường có
số lượng thông báo cao nhất với 84 thông báo, theo sau là Nhật Bản (82), Canada (59),
Mỹ (51), Hàn Quốc (30). Do đó, việc hệ thống hóa và nghiên cứu tác động của các
BPPTQ áp dụng với nông sản xuất khẩu của Việt Nam chưa bao giờ trở nên cấp thiết
như hiện nay.
Liên minh châu Âu (EU) là đối tác nhập khẩu đứng thứ 3 của nông sản Việt
Nam. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8
năm 2020 đã đưa đến hàng loạt các cơ hội cho hàng nông sản Việt Nam, đặc biệt là
từ các cam kết cắt giảm thuế quan về 0% cho 74,6% số dòng thuế trong năm đầu tiên
và 97,3% dòng thuế sau 10 năm. Mặc dù vậy, EU lại luôn là một trong những thị
trường được đánh giá là khó tính nhất với những yêu cầu liên quan các BPPTQ cực
kỳ nghiêm ngặt, chặt chẽ. Hiện nay, EU đang có xu hướng gia tăng việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật khi giảm thuế quan. Trong giai đoạn từ 2012 - 2023, số lượng
thông báo liên quan đến việc thay đổi quy định về các BPPTQ của EU đạt 922 thông
2
báo về SPS và 1067 thông báo về TBT, nghĩa là trung bình mỗi năm EU có thêm
khoảng 90 thông báo mới về SPS và hơn 100 thông báo về TBT (I-TIP - WTO, 2023).
Do đó, XKNS Việt Nam sang EU đã, đang và sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn, đặc
biệt là việc đáp ứng với các quy định liên quan các BPPTQ của EU sẽ gia tăng chi
phí cho doanh nghiệp, dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh. Vì vậy, việc xác định và
phân tích đánh giá tác động của các BPPTQ theo quy định của EU đối với XKNS
Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.
Hơn thế nữa, hiện nay, EU đang đi đầu trong việc triển khai các chính sách mới
nhằm hướng tới phát triển bền vững. EU đã ban hành Thoả thuận xanh châu Âu 2019
với một hệ thống các định hướng chính sách nhắm đến mục tiêu giúp EU trở thành nền
kinh tế trung hoà khí hậu vào năm 2045. EU công bố chính sách thương mại 2021 nhằm
định hướng thương mại đến năm 2030, theo đó, mở rộng cánh cửa hợp tác với các đối
tác ngoài khối nhưng thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh, bền vững. Theo
đó, các BPPTQ của EU sẽ được định hình lại theo hướng xanh hoá, thay đổi, bổ sung
theo hướng siết chặt hơn, đặc biệt là các tiêu chuẩn TBT và SPS để nhằm đạt được các
mục tiêu trong các bộ chính sách triển khai theo Thoả thuận xanh châu Âu.
Từ các lý do về mặt lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, việc nghiên cứu
toàn diện các BPPTQ và tác động của nhóm biện pháp chính sách này đến XKNS
nhằm củng cố các luận cứ khoa học và đánh giá được thực trạng tác động đến XKNS
của Việt Nam; từ đó đưa ra các kiến nghị chính sách giúp thúc đẩy XKNS Việt Nam
sang thị trường EU, là một công việc thực sự cần thiết và cấp thiết. Do đó, nghiên
cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Tác động của các biện pháp phi thuế quan của Liên
minh châu Âu đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam” cho luận án tiến sỹ chuyên
ngành Kinh tế quốc tế của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu hướng tới mục tiêu chủ đạo là đánh giá tác động của các BPPTQ
mà EU áp dụng đối với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU.
Từ đó, có thể đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy XKNS Việt Nam sang EU.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu chung, nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hoá các cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của các BPPTQ
3
đối với XKNS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn
2012 – 2023;
- Hệ thống hoá và đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ của EU đối với nông
sản nhập khẩu vào EU;
- Đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp để giải quyết các tác động do các BPPTQ mang lại nhằm
thúc đẩy XKNS Việt Nam sang EU.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên nhiệm vụ nghiên cứu, luận án hướng tới trả lời các câu hỏi nghiên cứu:
Thứ nhất, việc tác động của các BPPTQ đối với XKNS được dựa trên hệ thống
cơ sở lý luận và thực tiễn như thế nào?
Thứ hai, XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023 ra sao?
Thứ ba, các BPPTQ của EU đang áp dụng với hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam gồm các biện pháp nào với mức độ áp dụng ra sao?
Thứ tư, các BPPTQ của EU có tác động như thế nào đối với XKNS Việt Nam?
Thứ năm, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp gì để giảm thiểu các tác
động tiêu cực hoặc/và phát huy các tác động tích cực đến từ các BPPTQ của EU
nhằm tăng cường XKNS sang EU?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của các BPPTQ của EU đối với
XKNS Việt Nam sang thị trường EU.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung
+ Về phạm vi loại BPPTQ mà nghiên cứu tập trung đánh giá tác động là hai loại
BPPTQ điển hình là SPS và TBT. Đây là hai nhóm các biện pháp được áp dụng rộng rãi
nhất trong tổng các loại BPPTQ được áp dụng. Đặc biệt, thông qua thu thập dữ liệu, tác
giả nhận thấy đối với mặt hàng nông sản nhập khẩu vào EU thì SPS và TBT chiếm trên
90% so với tổng số BPPTQ được áp dụng. Ngoài ra, theo dữ liệu từ I-TIP của WTO, đối
với hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam thì EU chủ yếu áp dụng hai loại biện pháp
này, chưa có ghi nhận các biên pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, tự vệ
4
hay tự vệ đặc biệt,...
+ Phạm vi nội dung về hàng nông sản: Quan niệm hàng nông sản được luận án
sử dụng là theo quan niệm của Hiệp định nông nghiệp của WTO; theo đó, nông sản
là các mặt hàng thuộc HS01 đến HS24 (trừ HS 03 và một phần HS16 gồm HS1603,
HS1604 và HS1605 là mặt hàng thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản) theo Bảng hệ
thống hài hoà mã hoá sản phẩm HS2017 (Harmonized Commodity Description and
Coding System 2017). Bên cạnh việc phân tích, đánh giá tổng quát về tổng các mặt
hàng nông sản nói chung, nghiên cứu còn đi sâu phân tích thực trạng và đánh giá tác
động dựa trên phân loại các mặt hàng nông sản thành 03 nhóm hàng chính gồm:
- Nhóm 1: Nhóm hàng động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ
động vật (HS 01 – 05, trừ HS 03);
- Nhóm 2: Nhóm hàng thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật (HS
06 - 14);
- Nhóm 3: Nhóm hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS
15 – 24, trừ HS1604, HS1605).
Trong đó, thực trạng XKNS được phân tích chi tiết với 05 mặt hàng nông sản
chủ lực xuất khẩu sang EU bao gồm cà phê, hạt điều, hạt tiêu, gạo và rau quả.
Luận án thống nhất theo quan điểm hàng nông sản của WTO chứ không phải
theo quan niệm về hàng nông sản của Việt Nam (gồm cả ngành thuỷ sản và lâm
nghiệp) vì Việt Nam khi thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế thì cần tuân thủ
theo các quy định chung của quốc tế. Đặc biệt, trong trường hợp này, Việt Nam
XKNS sang EU nên việc áp dụng thống nhất theo WTO sẽ thuận lợi trong quá trình
nghiên cứu, tìm kiếm, phân tích dữ liệu, giúp kết quả đánh giá tác động sẽ phù hợp
và chính xác hơn.
- Phạm vi thời gian: Luận án tiến hành phân tích, đánh giá từ năm 2012 đến
2023. Trong đó, đối với các phân tích, đánh giá liên quan đến thực trạng XKNS và
thực trạng các BPPTQ mà EU đang áp dụng thì sẽ được nghiên cứu từ 2012 đến 2023.
Còn đối với phân tích, đánh giá tác động dựa trên mô hình kinh tế lượng, thời gian
nghiên cứu sẽ là 2012 – 2022 do các dữ liệu đưa vào mô hình mới được các nguồn
dữ liệu cập nhật đến 2022. Tác giả lựa chọn phạm vi thời gian từ năm 2012 vì đây là
một năm bước ngoặt trong quan quan hệ giữa Việt Nam và EU khi hai bên đã ký kết
Hiệp định hợp tác và đối tác toàn diện (PCA). Hiệp định này tăng cường các lĩnh vực
hợp tác của hai bên, đặc biệt, tạo tiền đề quan trọng để Việt Nam và EU tiến hành
đàm phán EVFTA. Năm 2022 - 2023 là giai đoạn cập nhật nhất khi mà EVFTA đã
5
có hiệu lực được 02 – 03 năm. Như vậy, phạm vi thời gian nghiên cứu bao gồm cả
giai đoạn trước và sau khi EVFTA có hiệu lực; điều này sẽ giúp cho các phân tích
đánh giá được bao quát và cập nhật.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tập trung vào thị trường EU gồm 27 quốc
gia thành viên, và Việt Nam.
4. Những đóng góp mới của nghiên cứu
Luận án đã đem đến các đóng góp mới nhất định cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, nghiên cứu đã hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận
về tác động của các BPPTQ, đặc biệt đối với XKNS trong bối cảnh thương mại quốc
tế với nhiều biến động do tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới có nhiều
biến động.
Luận án đã tiếp cận và sử dụng kết hợp đa dạng các phương pháp gồm kiểm đếm,
tính toán chỉ số, và mô hình lực hấp dẫn và các phương pháp định tính để đánh giá
tác động của BPPTQ một cách toàn diện và khách quan, giúp làm rõ các khía cạnh
khác nhau của vấn đề nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn, luận án đã hệ thống hoá các quy định về các BPPTQ của EU áp
dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU. Trên cơ sở đó đánh giá được mức độ áp
dụng các BPPTQ của EU đối với nông sản nhập khẩu vào EU thông qua các chỉ số về
mức độ bao phủ, tần suất áp dụng các BPPTQ. Đồng thời, luận án đã cập nhật đánh giá
thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023. Thực trạng hàng
hoá nông sản Việt Nam bị cảnh báo do vi phạm các BPPTQ của EU trong giai đoạn
2012 – 2023 cũng đã được đánh giá, từ đó, đưa ra được các hạn chế của doanh nghiệp
Việt Nam trong việc tuân thủ các BPPTQ của EU.
Luận án đã phân tích và đánh giá chi tiết các tác động của các BPPTQ (SPS và
TBT) đối với XKNS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy các BPPTQ của EU
có cả tác động tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực có được là do nhờ tuân thủ các
BPPTQ, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế mà chất lượng sản phẩm nông sản được
nâng cao, tạo được niềm tin cho người tiêu dùng EU giúp cho doanh nghiệp giảm
thiểu được các chi phí thâm nhập thị trường, tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản Việt
Nam, tù đó thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu của EU. Tuy nhiên, các tác động tiêu cực vẫn
còn tồn tại thể hiện qua số lượng các lô hàng vi phạm bị cảnh báo, cấm nhập khẩu.
Luận án đã cập nhật các xu hướng mới trong chính sách thương mại của EU,
6
như Thỏa thuận Xanh Châu Âu gồm một hệ thống các chiến lược và Chiến lược
thương mại, từ đó đưa ra các dự báo và đề xuất phù hợp. Trên cơ sở đó, luận án đã
cung cấp các giải pháp cụ thể để Nhà nước, các Hiệp hội cùng các doanh nghiệp Việt
Nam có thể thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật
và kiểm dịch của EU, các đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực tuân thủ các
BPPTQ của EU cho doanh doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội từ các
chính sách mới của EU và xuất khẩu bền vững nông sản sang EU.
5. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 05
chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về tác động của các biện pháp phi thuế quan
đến xuất khẩu nông sản.
Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất
khẩu nông sản.
Chương 3: Khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Thực trạng và tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu
nông sản Việt Nam sang EU.
7
Chương 5: Kiến nghị giải pháp.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC
BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
Chủ đề nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất nhập khẩu hàng hoá
quốc tế nói chung là một chủ đề không mới. Rất nhiều các nhà khoa học đã thực
hiện các nghiên cứu từ giữa thế kỉ XIX. Chủ đề này đặc biệt được quan tâm hơn
từ cuối thập niên 1970 đến nay. Các BPPTQ đã trở thành một vấn đề phức tạp
trong thương mại quốc tế do những tác động của các BPPTQ rất rộng và khó định
lượng. Sự phức tạp của các BPPTQ đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu thực hiện,
đánh giá với nhiều hướng tác động đến thương mại quốc tế nói chung và đến xuất
khẩu nông nghiệp nói riêng.
Với tính chất lịch sử và tính phức tạp của các BPPTQ thì việc tổng quan nghiên
cứu một cách toàn diện và rõ ràng không phải là một công việc dễ dàng. Các nghiên
cứu thực nghiệm về tác động của BPPTQ đến thương mại thường được thực hiện một
cách đa chiều, bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau như tác động của một hoặc các
BPPTQ đến xuất khẩu hay nhập khẩu một sản phẩm của một quốc gia sang một quốc
gia, vùng lãnh thổ trong những thời kỳ nhất định. Nghĩa là các nghiên cứu thường đi
theo cấu trúc nghiên cứu về các BPPTQ/quốc gia/sản phẩm/thời kỳ (Ronen, 2017).
Vì vậy, khi thực hiện phần tổng quan nghiên cứu, việc phân nhóm các nghiên cứu để
trả lời hết các câu hỏi như nghiên cứu về BPPTQ nào? BPPTQT tác động đến hoạt
động nào? đối với sản phẩm hay quốc gia nào?; hay phương pháp nghiên cứu nào
được sử dụng để đánh giá tác động?,… là dễ dẫn đến việc tổng quan chồng chéo ở
một mức độ đáng kể.
Do đó, trong phạm vi luận án, việc phân chia các nhóm chỉ mang tính chất tương
đối, tiêu chí tổng quan dựa trên các đối tượng/kênh chịu tác động của BPPTQ để
nhằm đưa ra một bức tranh tổng thể các khía cạnh nghiên cứu, các nghiên cứu đã
được nhắc trong nhóm trước sẽ không được nhắc đến trong nhóm sau dù có nội dung
thuộc nhóm để tránh sự trùng lặp. Sau cùng, tác giả sẽ tổng hợp các nghiên cứu vào
các bảng phân loại dựa trên hai hướng tác động chính của các BPPTQ nhằm nhấn
mạnh vào việc làm nổi bật các phát hiện chính của nghiên cứu.
Tác giả thực hiện tổng quan các nghiên cứu về tác động của BPPTQ đến XKNS
thông qua việc phân chia tổng quan thành các nhóm gồm các nghiên cứu về tác động
8
của BPPTQ đến: (i) thương mại hàng hoá; (ii) đến số lượng hàng nông sản xuất khẩu;
(iii) đến giá hàng nông sản xuất khẩu; (iv) đến phúc lợi xã hội;v(v) đến XKNS theo
nhóm quốc gia (vi) Tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS.
1.1. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến thương mại hàng hoá
Tác động của các BPPTQ đối với thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu
hàng hoá nói riêng mang tính đa chiều, có ảnh hưởng khác nhau đến các ngành/mặt
hàng và các quốc gia, thường đem lại cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, tùy
thuộc vào bối cảnh và các biện pháp cụ thể liên quan. Các nghiên cứu cho thấy trong
khi một số BPPTQ có thể thúc đẩy thương mại bằng cách đảm bảo chất lượng và an
toàn, thì những biện pháp khác lại áp đặt chi phí tuân thủ đáng kể, gây cản trở hiệu
quả xuất khẩu.
Một số nghiên cứu cho rằng các BPPTQ cản trở thương mại (Peterson và cộng
sự, 2013; Dal Bianco và cộng sự, 2016), trong khi những nghiên cứu khác kết luận
rằng các BPPTQ thúc đẩy thương mại (Cadot và cộng sự (2018), Ronen (2017)), và
nhiều nghiên cứu lại chỉ ra rằng các BPPTQ có tác động hỗn hợp đối với thương mại
(Xiong & Beghin, 2011; Santeramo và cộng sự (2019). Sự đa dạng này có thể được
giải thích bởi các đặc điểm của các nghiên cứu thực nghiệm, vốn khác nhau về thiết
kế và phương pháp.
Chỉ một số ít nghiên cứu cung cấp đánh giá tổng quan về tác động của NTMs
đối với thương mại như nghiên cứu của Hoeckman và Nicita (2011) cho rằng các
BPPTQ là các yếu tố cản trở lớn đối với thương mại các sản phẩm nông sản thực
phẩm. Còn lại, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều mang tính cục bộ và tập trung
vào các trường hợp cụ thể về từng BPPTQ, sản phẩm hoặc quốc gia.
Các loại BPPTQ khác nhau có thể dẫn đến các kết quả thực nghiệm khác nhau.
Các biện pháp can thiệp khác nhau có thể có tác động khác nhau đối với thương mại
(Schlueter và cộng sự, 2009). Hơn nữa, mức độ chi tiết của các BPPTQ được nghiên
cứu càng thấp, các hàm ý chính sách cho các vấn đề cụ thể càng rõ ràng hơn (Li và
Beghin, 2012). Theo đó, các biện pháp TBT có xu hướng trở thành chất xúc tác cho
thương mại (Frahan và Vancauteren, 2006), trong khi các biện pháp SPS lại có tác
động hỗn hợp (Schlueter và cộng sự, 2009; Crivelli và Gröschl, 2016). Trong đó, các
quy định SPS về mức dư lượng tối đa (MRLs) thường có xu hướng như rào cản đối
với thương mại (Otsuki và cộng sự, 2001a, b; Henson và Loader, 2001, Disdier và
9
cộng sự, 2008).
Tác động của các BPPTQ cũng có thể mang tính đặc thù theo ngành và sản
phẩm. các BPPTQ có khả năng cản trở thương mại đối với các mặt hàng thuỷ hải sản
(Anders và Caswell, 2009), các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, trái cây và rau
củ, ngũ cốc và hạt có dầu (Otsuki và cộng sự, 2001a, b; Xiong & Beghin, 2012 ;
Drogué và DeMaria, 2012). Ngược lại, thương mại các loại chất béo và dầu dường
như không bị ảnh hưởng bởi các chính sách của các quốc gia nhập khẩu (Xiong và
Beghin, 2011).
Các BPPTQ cũng có tác động khác nhau đối với dòng thương mại nhập khẩu
hay xuất khẩu. Nguyễn Bích Ngọc (2020), thông qua việc áp dụng mô hình trọng lực,
đã đánh giá tác động của chính sách phi thuế quan của Việt Nam đối với hàng nông
sản nhập khẩu từ 2007 đến 2017. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong khi SPS có ảnh
hưởng tích cực đến khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam thì TBT chưa thể hiện tác
động cụ thể, rõ ràng. Mặc dù các doanh nghiệp phải chi trả chi phí cố định và chi phí
biến đổi cao hơn do đáp ứng các biện pháp nhưng mức độ tác động còn rất nhỏ so
với các yếu tố còn lại.
1.2. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến số lượng hàng nông sản
xuất khẩu
Các BPPTQ có thể gây tác động cản trở, thúc đẩy hoặc có tác động hỗn hợp
thương mại hàng hoá nông sản thông qua số lượng, kim ngạch xuất khẩu tăng lên hay
giảm xuống. Tác động tích cực, tiêu cực hay tác động hỗn hợp còn tuỳ thuộc vào các
trường hợp cụ thể (Grubler & Reiter, 2021).
Về hướng tác động tiêu cực, Henn và McDonald (2011) đã sử dụng phân tích
cấp độ sản phẩm và nhận thấy rằng các biện pháp hậu biên giới, bao gồm cả BPPTQ
được thực hiện trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã kiến cho dòng
chảy thương mại bị giảm 7%. Trong khi đó, Orden (2013) cũng tìm thấy bằng chứng
cho thấy BPPTQ có thể dẫn đến các tác động chuyển hướng thương mại vì BPPTQ
nghiêm ngặt hơn sẽ khiến các nhà xuất khẩu tìm kiếm thị trường mới với BPPTQ ít
nghiêm ngặt hơn. Tương tự, Fontagné và cộng sự (2005) nhận thấy các biện pháp
SPS hay TBT tác động tiêu cực đến xuất khẩu song phương ở các quốc gia, đặc biệt
là đối với các sản phẩm nông nghiệp.
Melo và Solleder (2020) lại nhận thấy việc chi phí để đáp ứng và tuân thủ BPPTQ
10
quá cao trong nhiều trường hợp và mặc dù nhu cầu tiêu dùng gia tăng nhưng cũng
không thể bù đắp những tác động tăng chi phí đó; lúc này BPPTQ lại trở thành các rào
cản phi thuế quan, tác động tiêu cực đến lượng hàng hoá xuất khẩu.
Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng BPPTQ gây tác động cản trở
xuất khẩu của Việt Nam như các nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Hiền và cộng sự
(2014), Nguyễn Anh Thu, Nguyễn Thị Minh Phương (2015), Nguyễn Anh Thu
(2020), Nguyễn Bích Thuỷ (2020),… đã sử dụng các đánh giá, phân tích định tính số
liệu đã kết luận rằng các nước nhập khẩu áp dụng các BPPTQ nhằm mục đích hạn
chế xuất khẩu, từ đó, tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thương (2018), Đoàn Ngọc Thắng
và Lê Thị An (2019), Nguyễn Bích Ngọc (2020), Lê Thị Việt Nga và cộng sự (2023),
Nguyễn Thị Thu Hiền (2022),… bằng việc sử dụng mô hình lực hấp dẫn đã đánh giá
tác động của các BPPTQ đối với XKNS Việt Nam sang các quốc gia đối tác. Nguyễn
Thị Thu Thương (2018) đã đánh giá tác động của các biện pháp SPS đến xuất khẩu
gạo của Việt Nam sang 20 nước đối tác nhập khẩu chính từ 2000 đến 2015 với kết
luận rằng các biện pháp SPS đã tác động lớn tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trong
khi đó, Đoàn Ngọc Thắng và Lê Thị An (2019) đã đánh giá tác động của các BPPTQ
tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối với 28 nước đối tác thương mại lớn trong
giai đoạn 1999-2017. Các BPPTQ được đo lường thông qua ba chỉ số gồm tỷ lệ bao
phủ, mức độ áp dụng thường xuyên và điểm thịnh hành của các BPPTQ. Nghiên cứu
chỉ ra rằng các BPPTQ đã thể hiện tác động tiêu cực tới xuất khẩu của Việt Nam hơn
cả tác động của thuế quan do quá trình cắt giảm thuế quan đã bắt đầu sau khi Việt
Nam gia nhập vào các FTA.
Tương tự, Lê Thị Việt Nga và cộng sự (2023) bằng phương pháp mô hình
trọng lực với ước lượng PPLM, đã thực hiện đánh giá tác động của các BPPTQ đến
xuất khẩu mặt hàng rau quả, gạo, cà phê và thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2016-
2021 sang EU, Mỹ Trung Quốc, Nhật Bản. Kết quả của mô hình cho thấy các BPPTQ
có mức độ tác động khác nhau đối với từng nhóm hàng hóa. Nhưng nhìn chung, các
BPPTQ của các thị trường đều có tác động tiêu cực đến xuất khẩu các mặt hàng nông
sản chủ lực của Việt Nam.
Ngược lại, các BPPTQ có thể tạo thuận lợi cho thương mại nhờ việc đáp ứng
được sự hài hoà trong các quy định, nâng cao chất lượng, giúp người tiêu dùng tin
tưởng hơn từ đó dẫn đến người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nhiều hơn.
11
Trong trường hợp này, các chi phi mà doanh nghiệp phải chi trả để đáp ứng, tuân thủ
các quy định của BPPTQ sẽ có thể được bù đắp bởi nguồn thu tăng nhờ nhu cầu tiêu
dùng tăng lên của sản phẩm đó. Nghiên cứu của Cadot và cộng sự (2018) cho thấy
hiệu quả đáng kể trong việc tăng nhu cầu tiêu thụ của các BPPTQ, điều đó có nghĩa
là BPPTQ có thể được sử dụng để sửa chữa các thất bại thị trường hiện tại.
Tương tự, Ronen (2017) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về mức độ ảnh
hưởng của các BPPTQ đến nhập khẩu dầu ô liu từ năm 2002 đến năm 2014. Kết quả
chỉ ra rằng mặc dù thuế quan vẫn là một rào cản nghiêm ngặt nhưng hầu hết các
BPPTQ đều có tác động tích cực đến nhập khẩu thay vì tăng cường các biện pháp hạn
chế. Nghiên cứu khẳng định rằng phần lớn BPPTQ đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cao hơn và bảo vệ sức khỏe con người,
đồng thời tăng cường thông tin sẵn có và tính minh bạch. Điều đó dẫn đến việc mở
rộng quy mô nhập khẩu các sản phẩm dầu ô liu (Ronen, 2017).
Đồng thời, tác động hỗn hợp của các BPPTQ đến lượng hàng nông sản xuất
khẩu cũng được chỉ ra trong các nghiên cứu như Disdier và cộng sự (2008) chỉ ra rằng
các BPPTQ gây ra cả tác động tích cực và tiêu cực đối với thương mại khi đánh giá
tác động ở cấp ngành hay Santeramo và cộng sự (2019) đã chỉ ra rằng BPPTQ có thể
là tạo thuận lợi hoặc là rào cản của thương mại hàng hoá nông sản.
Trong khi đó, Dolabella (2018) cho rằng các biện pháp TBT dường như hạn chế
thương mại hơn các biện pháp SPS: biện pháp TBT bổ sung có liên quan đến việc
giảm 1,95% thương mại trong khi SPS mới có thể đẩy nhanh thương mại 1,42%. Bao
& Qiu (2010) đã sử dụng mô hình trọng lực để đánh giá tác động của BPPTQ đối với
việc nhập khẩu nông sản của Trung Quốc tại HS2 từ 43 quốc gia khác, nhận thấy
rằng mức tăng TBT 1 đơn vị sẽ làm giảm nhập khẩu nông nghiệp khoảng 0,8%.
Kareem và Rau (2018) đã áp dụng mô hình của Helpman, Melitz và Rubinstein
để ước tính các yếu tố quyết định thương mại song phương xuất khẩu trái cây và rau
quả của châu Phi sang EU. Nghiên cứu cho thấy cả hai yêu cầu SPS và TBT đều gây
cản trở thương mại, tức là không khuyến khích xuất khẩu rau quả phát hiện ra rằng
việc tăng 1% các quy định an toàn thực phẩm dẫn đến giảm 0,6% xuất khẩu rau (HS2)
và 4,34% xuất khẩu trái cây (HS2). Tuy nhiên, khi sử dụng cùng một mô hình cho
xuất khẩu chuối và cà chua tại HS06, các tác giả nhận thấy rằng việc tăng 1% các
biện pháp kỹ thuật kích thích xuất khẩu chuối 7% nhưng giảm xuất khẩu cà chua
0,4%. Nói cách khác, rõ ràng là tác động của BPPTQ là không đồng nhất, có nhiều
12
khả năng cụ thể theo ngành và cụ thể theo biện pháp.
Các loại BPPTQ khác nhau, đặc biệt là SPS và TBT, có nhiều khả năng có tác
động khác nhau đối với xuất khẩu và nhập khẩu. Hướng của hiệu ứng cũng phụ thuộc
vào tính đặc hiệu của sản phẩm. Đặc biệt, TBT có thể hạn chế thương mại ở cấp độ
HS2 nhưng chia thành cấp độ phụ, các hiệu ứng không đồng nhất: hạn chế thương
mại đối với một số sản phẩm nhưng tăng cường thương mại cho các sản phẩm khác.
Santeramo và cộng sự (2019) đã sử dụng công cụ ước tính PPML để đánh giá
mức độ ảnh hưởng của thương mại rượu vang thế giới cụ thể đến nhập khẩu rượu
vang toàn cầu bằng mô hình trọng lực. Dữ liệu từ 24 nhà nhập khẩu rượu vang trên
thế giới, chủ yếu là các nước phát triển (chiếm hơn 90% tổng xuất khẩu rượu vang
thế giới), cho thấy các BPPTQ cụ thể của quốc gia, bao gồm SPS và các biện pháp
liên quan đến xuất khẩu, có xu hướng tạo thuận lợi cho thương mại trong khi TBT
cản trở thương mại trong một số lĩnh vực rượu vang.
Xiong và Beghin (2011) sử dụng mô hình trọng lực truyền thống ước tính tác
động ròng của các SPS và TBT đối với đối với thương mại nông nghiệp giữa các
nước OECD vào năm 2004. Nghiên cứu cho thấy các biện pháp này thúc đẩy thúc
đẩy nhu cầu nhập khẩu thông qua công bố thông tin và cải thiện chất lượng nhưng lại
gây cản trở nguồn cung xuất khẩu của nước ngoài thông qua việc áp đặt chi phí tuân
thủ lớn, về lâu dài sẽ là động lực thúc đẩy xuất khẩu. Đồng thời, nghiên cứu phân
tách dữ liệu sâu hơn cho thấy sự tác động là không đồng nhất giữa các ngành, mặc
dù có chung các tác động tăng cường nhu cầu và cản trở nguồn cung. Hơn nữa, các
BPPTQ làm giảm khả năng thương mại các sản phẩm sữa nhưng lại giúp tăng khả
năng thương mại các chế phẩm ngũ cốc trong nội bộ OECD (Xiong & Beghin, 2011).
Nguyễn Thị Thu Hiền (2022) cũng sử dụng mô hình trọng lực để phân tích tác
động của các biện pháp SPS và TBT đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Nghiên cứu
đã chỉ ra rằng cho thấy trong khi các biện pháp TBT cản trở thì các biện pháp SPS lại
có tác động tích cực đến xuất khẩu cà phê nhưng mức độ tác động của các biện pháp
này là rất nhỏ; ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra GDP bình quân của nước nhập khẩu,
tỷ giá hối đoái, khoảng cách địa lý và các dạng thức của FTA có tác động đáng kể
đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Như vậy, chiều hướng tác động còn phụ thuộc vào loại BPPTQ được áp dụng,
13
các ngành hàng và loại mặt hàng cụ thể cũng chịu các tác động khác nhau bởi BPPTQ.
1.3. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến giá hàng nông sản xuất khẩu
Bằng việc sử dụng phương pháp ước lượng tương đương thuế quan giá trị
(AVE), tác động của BPPTQ đã được định lượng. AVE là phương pháp đo lường
khác biệt giá giữa có và không có BPPTQ. Nhìn chung, hầu hết các BPPTQ có tác
động dương đến giá cả (nghĩa là làm tăng giá), trong đó các biện pháp SPS có tác
động tăng giá nhiều nhất trong các BPPTQ. Cadot và Gourdon (2014) đã sử dụng hồi
quy bảng điều khiển trên 1.260 cặp sản phẩm quốc gia, nhấn mạnh rằng SPS có AVE
cao nhất là 14%. Điều đó có nghĩa là SPS gây ra sự gia tăng 14% giá thực phẩm châu
Phi, đặc biệt là gạo, ngũ cốc, thịt và dầu ăn. Đối với các nước ASEAN, các biện pháp
SPS có xu hướng có tác dụng tăng giá đáng kể đối với động vật và rau quả (21 – 23%)
và đồ uống (59%) (Cadot và cộng sự, 2013). Cadot và cộng sự (2018) đã tính toán
AVE song phương, nghiên cứu nhận thấy rằng trên cùng một thị trường, tác động
của BPPTQ đối với giá trị thương mại song phương (và dòng chảy thương mại)
có thể khác nhau giữa các nước xuất khẩu do chi phí tuân thủ và các đặc điểm xuất
nhập khẩu, xuất khẩu khác (bao gồm khoảng cách quy định). AVEs của BPPTQ
do các nước OECD áp đặt cao hơn. AVE cao có nghĩa là các nhà sản xuất phải thay
đổi thiết kế sản phẩm hoặc cải thiện chất lượng để đáp ứng các BPPTQ. Điều này rất
đúng đối với các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp, đặc biệt là động vật sống – nguồn
rủi ro lớn đối với người tiêu dùng.
Tác động cản trở thương mại của các BPPTQ và tác động tăng giá của chúng
được xác nhận bởi các nghiên cứu khác nữa như Hoekman và Nicita (2011) cho rằng
việc giảm một nửa AVE của các BPPTQ sẽ làm tăng thương mại từ 2 đến 3%.
Andriamananjara và cộng sự (2004) đã nghiên cứu tác động giá của các BPPTQ theo
lĩnh vực. Theo đó, giá ở Hoa Kỳ, EU và Canada lần lượt cao hơn 15%, 66% và 25%
do chi phí tuân thủ các BPPTQ. Đối với mặt hàng da giày, các BPPTQ làm tăng giá
ở Nhật Bản lên 39% và ở Mexico lên 80% trong khi đó, đối với dầu thực vật và chất
béo, các BPPTQ làm tăng giá ở Mexico lên 30%, ở Đông Nam Á lên 49% và ở Nam
Phi lên 90%.
Gần đây, nghiên cứu của Baldwin và Evenett (2020) đã chỉ ra rằng các BPPTQ là
một trong những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng sự chậm trễ và chi phí thương
mại xuyên biên giới, can thiệp vào các hoạt động giao thương nông sản, thực phẩm
thiết yếu và các vấn đề an ninh lương thực và dinh dưỡng, thay vì hướng tới việc giải
14
quyết các vấn đề này trong bối cảnh Covid-19.
Nghiên cứu của Nguyen, Bouët và Traore (2021) thì chỉ ra rằng có 96% đến
100% hàng hoá từ nông nghiệp tại quốc gia ASEAN chịu tác động của ít nhất một
BPPTQ. Đặc biệt, ở các nước như Campuchia, Indonesia, Malaysia và Việt Nam thì
100% hàng hoá thực phẩm bị áp dụng ít nhất một BPPTQ . Nghiên cứu cũg chỉ ra
rằng các biện pháp SPS áp dụng với thương mại nông sản có giá trị AVE trung bình
tương đương 44,3% đối với các nước trong khối ASEAN, trong khi con số này là
48,3% đối với các quốc gia khác trên thế giới.
Như vậy, hầu hết các nghiên cứu với phương pháp ước lượng tương đương
thuế quan giá trị đã chỉ ra rằng, các BPPTQ làm tăng giá cả hàng hoá xuất khẩu do
các doanh nghiệp phải trả thêm các chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn mà các BPPTQ
của các nước nhập khẩu yêu cầu tuân thủ.
1.4. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội
Các BPPTQ có các tác động phức tạp hơn thuế quan. Ban đầu, BPPTQ được
áp dụng nhằm hỗ trợ các mục đích phi thương mại như bảo vệ sức khỏe con người,
bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc gia. Do đó, ngoài các tác động liên quan
đến số lượng hay giá cả hàng hoá xuất khẩu thì BPPTQ còn có các tác động liên quan
đến phúc lợi, xã hội, môi trường. Các BPPTQ có thể làm tăng phúc lợi quốc gia của
các nước nhập khẩu bằng cách cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm sự khác biệt về
thông tin, giảm tỷ lệ tử vong. Đặc biệt đối với các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng, tác động của BPPTQ đối với
phúc lợi là đáng kể.
Tuy nhiên, phúc lợi là một thuật ngữ trừu tượng khiến cho việc đo lường hoặc
chọn đại diện cho phúc lợi là vô cùng khó khăn. Do đó, số lượng bài nghiên cứu về
các tác động phi thương mại của BPPTQ vẫn còn khiêm tốn. Các nghiên cứu tiêu
biểu đề cập đến tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội như Andriamananjara
và cộng sự (2004), Maertens và Swinnen (2009), Beghin và cộng sự (2012), Ronen
(2017), Porto (2018), Yew và cộng sự (2020), Kareem (2020).
Andriamananjara và cộng sự (2004) đã sử dụng một mô hình cân bằng chung
có thể tính toán để mô phỏng tác động đến phúc lợi của việc loại bỏ BPPTQ, chẳng
hạn như hạn ngạch nhập khẩu, lệnh cấm, giấy phép, trong số những người khác.
Nghiên cứu cho thấy lợi ích phúc lợi toàn cầu từ việc loại bỏ các BPPTQ này lên đến
90 – 92 tỷ USD, với tác động lớn nhất từ việc loại bỏ các BPPTQ trong lĩnh vực may
15
mặc (64 tỷ USD).
Beghin và cộng sự (2012) đã đánh giá tác động của BPPTQ, tức là SPS và
TBT, đối với thương mại và phúc lợi trong bối cảnh thị trường không hoàn hảo. Các
tác giả áp dụng khung chi phí-lợi ích để đánh giá tác động của các tiêu chuẩn quy
định tôm, nhận thấy rằng việc thực thi tiêu chuẩn an toàn thực phẩm có thể có lợi cho
xã hội đối với tình hình hiện tại, cả trong nước và quốc tế.
Ronen (2017) đã đánh giá tác động phúc lợi của các biện pháp TBT và SPS
đối với nhập khẩu dầu ô liu nguyên chất. Sử dụng mô hình kinh tế lượng, tác giả nhận
thấy rằng SPS liên quan đến yêu cầu MRL cải thiện phúc lợi, trong đó nó làm giảm
khả năng của các sản phẩm nguy hiểm và cải thiện chất lượng thông tin. Do đó, các
biện pháp liên quan đến MRL cải thiện đáng kể xuất khẩu bằng cách tăng nhu cầu
của người tiêu dùng đối với dầu ô liu nguyên chất.
Một số nghiên cứu đánh giá tác động của BPPTQ đối với việc làm và thu nhập
hộ gia đình. Các bài báo chủ yếu tiến hành trên các nước đang phát triển, nơi ngành
thực phẩm nông nghiệp chiếm một phần đáng kể trong tổng số lao động.
Maertens và Swinnen (2009) đã điều tra một khía cạnh về tác động phúc lợi của
BPPTQ, tức là nghèo đói. Các tác giả đã đánh giá tác động của các biện pháp của EU
(SPS) đối với việc làm rau quả tươi và nghèo đói ở Senegal. XKNS từ Senegal sang EU
đã tăng đáng kể từ năm 1991. Sử dụng các cuộc khảo sát và dữ liệu hộ gia đình của công
ty, kết quả cho thấy tác động tích cực của BPPTQ trong việc thay đổi cơ cấu lao động ở
Sénégal: một sự thay đổi đáng kể từ canh tác hợp đồng với các trang trại nhà nhỏ sang
các trang trại tích hợp quy mô lớn. Các hộ gia đình nghèo hơn không bị loại trừ khi tham
gia vào chuỗi cung ứng xuất khẩu tiêu chuẩn cao, cuối cùng chiếm tỷ lệ lợi nhuận cao
hơn từ thương mại. Thương mại nông nghiệp tiêu chuẩn cao mang lại lợi ích cho thu
nhập nông thôn và giảm nghèo ngay cả khi ngành xuất khẩu hợp nhất và xuất khẩu được
thực hiện trên các trang trại bất động sản công nghiệp.
Porto (2018) đã kiểm tra tác động của thị trường lao động của BPPTQ ở Mỹ
Latinh. Các tác giả mô phỏng hai kịch bản khi các quốc gia nâng BPPTQ của họ lên
các lĩnh vực thực phẩm và đồ uống, và phần còn lại của thế giới nâng BPPTQ lên các
lĩnh vực thực phẩm và đồ uống của đất nước. Nhìn chung, khi phần còn lại của thế
giới hạ thấp BPPTQ, thu nhập thực tế của người lao động trong lĩnh vực thực phẩm
và đồ uống ở các nước Mỹ Latinh tăng lên, nhưng sự gia tăng này không đồng nhất
16
giữa các quốc gia.
Yew và cộng sự (2020) đã sử dụng mô hình CGE để điều tra ảnh hưởng của
BPPTQ đối với việc làm trong lĩnh vực chế biến thực phẩm của Malaysia. Hai kịch
bản được tạo ra để đánh giá tác động của sự thay đổi BPPTQ: kịch bản đầu tiên là
giảm 10% AVE của BPPTQ (MS) và kịch bản thứ hai là giảm 50% AVE của BPPTQ
(AS). Nhìn chung, tác động của việc giảm BPPTQ là thuận lợi cho việc làm trong
ngắn hạn (tăng 1,1% việc làm theo MS và tăng 1,4% theo AS) và dài hạn (tăng 14%
việc làm cho cả hai kịch bản). Tuy nhiên, những thay đổi chính sách có lợi cho lao
động lành nghề và bán lành nghề trong khi làm tổn thương lao động không có tay
nghề. Hơn nữa, hiệu quả của việc giảm BPPTQ tùy thuộc vào việc sản phẩm được
xuất khẩu hay nhập khẩu chuyên sâu. Lợi ích sản xuất sản phẩm thâm dụng xuất khẩu
từ những thay đổi BPPTQ này trong khi sản xuất sản phẩm thâm dụng nhập khẩu bị
ảnh hưởng xấu.
Kareem (2020) đã đánh giá tác động giới của các quy định an toàn thực phẩm
của EU đối với thị trường lao động nông nghiệp từ năm 1995 đến 2012 ở 90 nước
đang phát triển. Phụ nữ chiếm phần lớn lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
ở các nước đang phát triển. Phát hiện cho thấy việc làm của phụ nữ và việc áp dụng
các biện pháp SPS và TBT có mối tương quan nghịch: tăng 10% trong các biện pháp
của EU dẫn đến giảm 3,7% việc làm nữ trong các lĩnh vực nông nghiệp. Kết quả này
có thể được giải thích là sự phân biệt giới tính trong đào tạo với sở thích dành cho
nam giới. Ở các nước đang phát triển, nam giới có nhiều khả năng tiếp cận giáo dục
và đào tạo kỹ thuật cao hơn phụ nữ. Tuân thủ các tiêu chuẩn đó phù hợp hơn với nam
giới ở các nước đang phát triển, cuối cùng dẫn đến sự dư thừa của phụ nữ.
1.5. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất khẩu nông sản theo
nhóm quốc gia
Nghiên cứu về tác động của BPPTQ theo nhóm nước có nghiên cứu của
Henson và Loader (2001), UNCTAD (2009), Ferro, Wilson và Otsuki (2013),
những tác động tiêu cực đối với thương mại của các quốc gia đang phát triển, nhưng vẫn có
khả năng tác động tích cực giúp mở rộng thị trường quốc tế nếu đáp ứng được các yêu cầu
về giá cả, chất lượng và tiêu chuẩn liên quan đến BPPTQ. Nghiên cứu của Wilson và Otsuki
(2004) đã phân tích và đưa ra kết quả rằng các nước đang phát triển thường phải dành một
khoản chi phí đáng kể để tuân thủ BPPTQ, trong đó chi phí này có thể chiếm tới 3,85% tổng
chi phí sản xuất, đồng thời chi phí cho thủ tục hải quan trung bình vào khoảng 6,95% tổng
giá trị xuất khẩu.
17
UNCTAD (2013). Henson và Loader (2001) nhận định rằng, dù các BPPTQ có thể gây ra
Theo UNCTAD (2013), một số yếu tố có thể cản trở khả năng thích ứng của
các nước đang phát triển đối với các biện pháp phi thuế quan (BPPTQ), đồng thời
nhấn mạnh vai trò của phản ứng chính sách từ Chính phủ và cộng đồng quốc tế trong
việc giải quyết các thách thức liên quan. Nghiên cứu chỉ ra rằng tính minh bạch là
yếu tố then chốt ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với BPPTQ. Việc thiếu minh bạch
không chỉ làm gia tăng chi phí thương mại mà còn trở thành rào cản đáng kể đối với
các nhà hoạch định chính sách trong quá trình đàm phán thương mại, cũng như gây
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác trên thị trường quốc tế.
Disdier và cộng sự (2008) cũng tập trung vào đánh giá tác động của các biện
pháp SPS và TBT trong thương mại nông nghiệp với 690 mặt hàng 6 chữ số bị áp
dụng các BPPTQ với bộ số liệu thống kê thương mại song phương giữa OECD là
nước nhập khẩu và 114 quốc gia khác là nước xuất khẩu vào năm 2004. Nghiên cứu
đã chỉ ra rằng trong khi lượng xuất khẩu của nước đang phát triển sang các nước OECD
giảm mạnh khi bị áp dụng các quy định về SPS/TBT thì giữa các nước OECD với nhau
lại không bị ảnh hưởng. Hơn nữa, nhập khẩu của châu Âu có xu hướng bị ảnh hưởng
tiêu cực hơn bởi các biện pháp SPS/TBT so với nhập khẩu của các nước OECD khác.
Ngoài ra, nghiên cứu của Xiong và Beghin (2014) bằng việc sử dụng mô hình
trọng lực tổng thể để đánh giá tác động của MRL đối với nhu cầu nhập khẩu và nguồn
cung của các nhà xuất khẩu nước ngoài đã chỉ ra rằng các quy định về mức dư lượng
tối đa (MRL) trong các sản phẩm thực vật một mặt có thể tạo ra các rào cản thương
mại và mặt khác thúc đẩy nhu cầu thông qua giảm thiểu rủi ro hoặc đảm bảo chất
lượng. Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng với quy định MRL đối với thuốc trừ sâu
do các quốc gia OECD áp đặt, rằng MRL đã nâng cao nhu cầu nhập khẩu nhưng cản
trở nguồn cung của các nhà xuất khẩu nước ngoài. Ngoài ra, các nước kém phát triển
và kém phát triển bị hạn chế bởi MRL nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh từ các
nước phát triển (Xiong & Beghin, 2014).
Melo và Solleder (2020) cho rằng các nước đang phát triển bị cho là dễ bị tổn
thương trước tác động của BPPTQ do lợi thế so sánh của các quốc gia này chủ yếu là
trong các lĩnh vực truyền thống như XKNS thường đóng vai trò là sản phẩm xuất khẩu
chính của quốc gia, và phải chịu tác động lớn từ các biện pháp SPS và TBT.
1.6. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản
EU là đối tác nhập khẩu nông sản của rất nhiều quốc gia trên thế giới với các
18
quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ về các BPPTQ. Do đó, chủ đề tác động của chính
sách phi thuế quan của EU đối với XKNS của các quốc gia cũng là một chủ đề được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Otsuki và cộng sự (2001a) đã tiến hành nghiên cứu tác động của tiêu chuẩn
aflatoxin do EU thiết lập đối với xuất khẩu thực phẩm từ châu Phi, mô hình lực hấp
dẫn được sử dụng để đánh giá tác động của các mức độ bảo vệ khác nhau theo tiêu
chuẩn EU so với các quy định quốc tế. Nghiên cứu được thực hiện với 15 nước ở
châu Âu và 9 nước ở châu Phi trong giai đoạn 1989–1998. nghiên cứu đã chỉ ra rằng
tiêu chuẩn aflatoxin mới của EU có thể gây tác động tiêu cực đến xuất khẩu ngũ cốc
và trái cây sấy khô từ châu Phi sang châu Âu. Cụ thể, tiêu chuẩn khiến lượng xuất
khẩu từ châu Phi giảm 64%, so với khi áp dụng tiêu chuẩn quốc tế. Tương tự, ở nghiên
cứu tiếp theo, Otsuki và cộng sự (2001b) đã tính toán tác động của các tiêu chuẩn
aflatoxin đối với dòng chảy thương mại của lạc xuất khẩu từ châu Phi sang châu Âu.
Kết quả cho thấy, nếu các nước châu Âu siết chặt tiêu chuẩn aflatoxin thêm 10%,
nhập khẩu lạc sẽ giảm 11%. Quy định mới của EU về aflatoxin có thể khiến khối
lượng thương mại giảm tới 63% so với khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế Codex.
Trong khi đó, Xiong và Beghin (2012) lại không tìm thấy bằng chứng nào cho
thấy sự thay đổi theo hướng thắt chặt hơn về giới hạn dư lượng tối đa trong quy định
của EU có tác động tiêu cực đến thương mại đối với hoạt động xuất khẩu lạc từ Châu
Phi năm 2002 qua các phương pháp ước tính khác nhau. Nhóm tác giả cho rằng nguồn
cung nội địa của Châu Phi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng và
xu hướng thương mại. Điều đó cho thấy tiềm năng thương mại của các nhà xuất khẩu
lạc châu Phi bị hạn chế nhiều hơn bởi các vấn đề nguồn cung trong nước hơn là do
khả năng tiếp cận thị trường hạn chế.
Uprasen (2014) đã nghiên cứu tác động của các RCPTQ đối với xuất khẩu từ
Trung Quốc sang 14 nước thuộc EU từ 1999 đến 2010. Kết quả thực nghiệm cho thấy
các RCPTQ tại thị trường EU có tác động kép đến xuất khẩu của Trung Quốc. RCPTQ
không có tác động đáng kể đến xuất khẩu tổng thể. Tuy nhiên, RCPTQ tạo ra cả tác
động tích cực và tiêu cực, tùy thuộc vào chủng loại sản phẩm xuất khẩu khác nhau.
Ngoài ra, các biện pháp SPS có xu hướng cản trở xuất khẩu tổng thể, trong khi TBT
có xu hướng khuyến khích xuất khẩu tổng thể (Uprasen, 2014).
Kareem và cộng sự (2015) đã xem xét tác động của hai BPPTQ đến quyết định
xuất khẩu cà chua của các công ty của Châu Phi sang EU từ 2008 đến 2013 bằng
19
phương pháp sử dụng mô hình trọng lực. Kết quả nghiên cứu cho thấy tiêu chuẩn về
thuốc trừ sâu nghiêm ngặt của EU đã ngăn cản sự gia nhập mới vào thị trường EU, đẩy
các công ty kém năng suất ra đi và ngăn cản các nhà xuất khẩu mở rộng thị trường.
Kareem và cộng sự (2018) cho rằng các BPPTQ như tiêu chuẩn an toàn thực
phẩm nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng nhưng cũng có thể được sử
dụng làm công cụ bảo hộ để hạn chế nhập khẩu nên đã điều tra mục đích bảo hộ của
các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của EU bằng cách sử dụng mẫu thực phẩm nhập
khẩu của EU từ các nước châu Phi bằng cách so sánh các tiêu chuẩn của EU với các
tiêu chuẩn quốc tế. Kết quả của nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết rằng các ngành phụ
thuộc nhiều vào nhập khẩu ít được bảo hộ hơn, đồng thời, không có sự gia tăng đáng
kể nào trong việc sử dụng các biện pháp này như một công cụ bảo hộ trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính.
Guimarães (2012) bất chấp sự hài hòa hóa quy định của EU và nguyên tắc
công nhận lẫn nhau, các BPPTQ trong thương mại nông sản xuyên biên giới thường
vi phạm thỏa thuận của EU về tự do di chuyển hàng hóa. Nghiên cứu đã đánh giá tính
phổ biến và các đặc điểm chính của các BBPTQ trong thương mại nông sản thực
phẩm nội khối EU từ năm 1961 đến năm 2002. Nghiên cứu này dựa trên một tập dữ
liệu lớn duy nhất về việc tuân thủ luật pháp EU và cung cấp đánh giá toàn diện theo
ngành cụ thể về BPPTQ trong thương mại nội khối EU.
1.7. Đánh giá tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
1.7.1. Đánh giá tổng quan nghiên cứu
Như vậy, thông qua tổng quan nghiên cứu có thể đưa ra các đánh giá như sau:
Về phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng để đánh giá tác
động của các BPPTQ được các nghiên cứu sử dụng gồm cả phương pháp định tính
và định lượng. Phương pháp định lượng được sử dụng phổ biến nhất bao gồm:
phương pháp định lường bằng mô hình trọng lực, phương ước lượng tương đương
thuế quan giá trị, các chỉ số đánh giá mức độ, tần suất áp dụng các BPPTQ để đánh
giá tác động của các BPPTQ đến thương mại nông sản.
Về loại BPPTQ được các nghiên cứu đánh giá nhiều nhất, có tác động lớn đến
XKNS đó là biện pháp SPS và TBT.
Về kết quả tác động: Các nghiên cứu trước đã chỉ ra các tác động đa chiều của
các BPPTQ. Các BPPTQ có thể có tác động tích cực, tiêu cực hoặc có tác động hỗn
20
hợp đối với XKNS. Không có khẳng định chắc chắn nào là BPPTQ chỉ tác động tích
cực hay tiêu cực đến thương mại giữa các quốc gia. Ảnh hưởng của BPPTQ còn phụ
thuộc vào những trường hợp cụ thể, đối với các sản phẩm và quốc gia cụ thể khác
nhau. Ngay cả đối với cùng một BPPTQ áp dụng với nông sản thì tác động của
BPPTQ đối với các sản phẩm ở cấp độ HS6 hoàn toàn khác với tác động của BPPTQ
ở cấp độ HS2. Ngoài ra, ở các quốc gia phát triển, BPPTQ có nhiều khả năng thúc
đẩy thương mại vì nó giúp cải thiện chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, BPPTQ có
xu hướng có những tác động khác nhau ở các nước đang phát triển, tùy thuộc phần
lớn vào mức độ nghiêm ngặt của BPPTQ. Đồng thời, các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam thường chịu tác động lớn hơn bởi các BPPTQ do các quốc gia phát
triển áp đặt.
Các kênh tác động chủ yếu của các BPPTQ gồm các kênh tác động về số lượng
và giá cả hàng hoá nông sản, ngoài ra, các BPPTQ còn tác động đến phúc lợi xã hội.
1.7.2. Khoảng trống nghiên cứu
Thông qua tổng quan các nghiên cứu, có thể thấy chủ đề nghiên cứu đánh giá
tác động của các BPPTQ đến thương mại quốc tế nói chung và XKNS nói riêng đã
được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Tuy nhiên, còn có những khoảng trống cần
được bổ sung nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, cần có thêm các nghiên cứu hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận
về BPPTQ trong thương mại quốc tế nói chung và BPPTQ của EU đối với XKNS
Việt Nam nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh thế giới xảy ra biến động lớn về kinh tế,
chính trị, xã hội khiến các quốc gia lớn như EU đang tiến hành ban hành và áp dụng
một hệ thống những chính sách mới, trong đó các BPPTQ được sửa đổi, bổ sung theo
hướng ngày càng phức tạp và nghiêm ngặt.
Thứ hai, các công trình đề cập sâu sắc, đầy đủ về thực trạng các quy định về
BPPTQ của EU đang áp dụng với nông sản nhập khẩu vào EU và tác động đối với
XKNS Việt Nam từ 2012 đến 2023 còn chưa được đầy đủ; đây là một giai đoạn thế
giới chứng kiến nhiều biến động phức tạp, khó lường; dẫn đến các quốc gia liên tục
đưa ra các thay đổi trong chính sách thương mại. Mặc dù, trong khoảng 05 năm gần
đây, các nhà khoa học trong nước đã quan tâm nhiều đến chủ đề này, cũng có những
nghiên cứu tác động của BPPTQ nhưng lại tập trung ở tác động của BPPTQ của Việt
Nam đến nông sản nhập khẩu hoặc liên quan đến các ngành hàng xuất khẩu khác
21
hoặc XKNS; thậm chí có một số bài báo đã có đề cập đến tác động của BPPTQ đến
XKNS sang thị trường EU. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các công bố chỉ dừng
lại ở phạm vi đánh giá tác động đối với một vài mặt hàng. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu
của luận án có tính mới, tính bổ sung, hệ thống, chuyên sâu và cập nhập được những
diễn biến và xu hướng mới nhất về các BBPQT của EU đối với XKNS của Việt Nam
trong giai đoạn 2012 – 2023.
Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu, trong các nghiên cứu đi trước về tác động
của các BPPTQ đến XKNS thì có các nghiên cứu chỉ sử dụng chuyên về một phương
pháp: hoặc là phương pháp kiểm đếm, hoặc là phương pháp tính toán các chỉ số đánh
giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng; hoặc là mô hình định lượng. Trong nghiên
cứu này, tác giả sử dụng đồng bộ cả 3 phương pháp trên, để đưa ra bức tranh bao quát
nhất của tất cả các khía cạnh của BPPTQ của EU đang áp dụng và các hướng tác
động của các biện pháp này đến XKNS Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các đề xuất giải pháp nhằm
hiểu và đáp ứng các quy định liên quan BPPTQ cho hàng nông sản xuất khẩu Việt
Nam sang EU trong 2012 – 2023 cần được bổ sung thêm, đặc biệt là trong giai đoạn
từ 2019 đến nay – giai đoạn mà EU có nhiều sự thay đổi về chính sách. Như năm
2019, EU ban hành Thoả thuận xanh Châu Âu; năm 2021, EU ban hành Chiến lược
thương mại định hướng tầm nhìn đến 2030. Các bộ chính sách mới này đã, đang và
sẽ định hình lại các quy định BPPTQ của EU, các quy định được thay thế, sửa đổi,
bổ sung liên tục, thường xuyên theo chiều hướng thắt chặt, nghiêm ngặt hơn. Do đó,
các đề xuất giải pháp được đưa ra dựa trên thực tiễn ban hành và thực thi BPPTQ của
EU để định hướng cho XKNS Việt Nam trong tương lai.
Với các khoảng trống nêu trên, nghiên cứu đánh tác động của các BPPTQ đối
với XKNS Việt Nam sang EU thông qua nghiên cứu thực trạng các BPPTQ của EU
đối với XKNS Việt Nam giai đoạn 2012 – 2023, hệ thống hóa, nêu bật được các đặc
trưng của các BPPTQ của EU trong giai đoạn này. Trên cơ sở kết quả tác động được
phân tích, nghiên cứu đánh giá các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực, tiêu
cực, các hạn chế để làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh XKNS của Việt
22
Nam sang EU trong giai đoạn tới.
Tiểu kết chương 1
Thông qua tổng quan các nghiên cứu về tác động của BPPTQ đến XKNS có
thể thấy đây là một chủ đề được rất nhiều các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.
Tác động của BPPTQ đến XKNS bao gồm cả tác động tích cực, tiêu cực và hỗn hợp,
tuỳ vào từng trường hợp cụ thể đối với từng biện pháp, từng quốc gia và từng mặt
hàng khác nhau. Tại Việt Nam, vấn đề này cũng ngày càng được nhà nghiên cứu, các
nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp quan tâm nhằm đánh giá được tác động,
từ đó thấy được các nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đẩy mạnh XKNS
nông sản sang các thị trường quốc tế. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác
động các BPPTQ đến xuất khẩu các ngành hàng nói chung và XKNS sang EU nói
riêng là rất cần thiết và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang hội
nhập, hợp tác ngày càng sâu rộng và khi bối cảnh thế giới có nhiều biến động như
chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,…khiến cho các quốc gia trên thế giới có xu
hướng áp dụng các BPPTQ ngày càng nhiều với những quy định ngày càng nghiêm
23
ngặt và chặt chẽ hơn.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIỆN PHÁP PHI
THUẾ QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NỒNG SẢN
2.1. Cơ sở lý luận về biện pháp phi thuế quan
2.1.1. Khái niệm về biện pháp phi thuế quan
BPPTQ là vấn đề hoàn toàn không mới, đã được hình thành, phát triển và
nghiên cứu từ lâu trong lịch sử thương mại quốc tế. Ban đầu, BPPQT thường được
coi là một phần quan trọng trong các chính sách nhằm hạn chế thương mại (Salvatore,
2013). Nguyên nhân của sự hình thành và phát triển BPPTQ là do các rào cản truyền
thống (như thuế quan, hạn ngạch,…) đã dần được cắt giảm và gỡ bỏ thông qua các
cuộc đàm phán thương mại từ sau chiến tranh thế giới thứ II.
Theo Baldwin (1970), BPPTQ là: "bất kỳ biện pháp nào khiến hàng hóa và
dịch vụ thương mại quốc tế, hoặc các nguồn lực dành cho sản xuất các hàng hóa và
dịch vụ đó, được phân bổ theo hướng làm giảm thu nhập thực tế tiềm năng thế giới”.
Theo đó, BPPTQ chính là những biện pháp chính sách của nhà nước nhằm tác động
tới dòng thương mại; bóp méo thị trường, tạo ra những bất lợi cho các nhà xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu, từ việc ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước. Như vậy, BPPTQ
trong giai đoạn này được nhìn dưới góc độ là các biện pháp có tác động tiêu cực vào
thương mại quốc tế do nó mang tính chất bảo hộ sâu sắc.
Trong khi đó, dưới góc độ chi phí, các BPPTQ là các biện pháp làm phát sinh
chi phí trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Những biện pháp này có
thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá thành và số lượng hàng hóa bằng cách
tác động đến thị hiếu và quan điểm của người tiêu dùng về sản phẩm (Beghin và cộng
sự, 2012).
Dưới góc độ của cơ quan ban hành, Movchan & Eremeko (2003) nhấn mạnh
vai trò của chính phủ trong việc thiết lập và triển khai BPPTQ. Các biện pháp này có
sự liên kết mật thiết với các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ đó ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất, định hình cơ cấu cũng như quy mô giao dịch hàng hóa. Đồng
thời, chúng góp phần định hướng nguồn lực đầu tư vào sản xuất và điều chỉnh xu thế
thương mại trên thị trường.
Ở một cách tiếp cận rộng hơn, EU, trên cổng thông tin EU Trade Repository
(ATR) đưa ra quan điểm: các BPPTQ được hiểu theo nghĩa rộng hơn là các biện pháp
khác thuế có ảnh hưởng đến thương mại (tức là không phải các khoản thuế hải quan
24
thông thường và các khoản thu khác mà áp dụng cho việc nhập khẩu hàng hoá).
Định nghĩa được đưa ra bởi Nhóm hỗ trợ đa cơ quan (MAST - gồm 8 tổ chức:
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF), Tổ chức Quốc tế Trung tâm Thương mại (ITC), Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc(UNIDO),
Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và UNCTAD) đã
đưa ra định nghĩa thống nhất rằng BPPTQ là "các biện pháp chính sách, ngoài thuế
quan hải quan thông thường, có khả năng có ảnh hưởng kinh tế đến thương mại hàng
hóa quốc tế, thay đổi số lượng giao dịch, hoặc giá cả hoặc cả hai" (UNCTAD, 2009;
UNCTAD, 2012; UNCTAD, 2019; UNCTAD, 2021).
Định nghĩa trên của UNCTAD được đánh giá là trung lập và không ngụ ý về
một hướng tác động kinh tế (UNESCAP, 2019; UNCTAD, 2021). Định nghĩa này
mang tính toàn diện và đảm bảo tính khách quan cao khi xác định rằng BPPTQ là
một phần trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia, bên cạnh các biện
pháp thuế quan. Đồng thời, định nghĩa này cũng làm rõ các cơ chế tác động của
BPPTQ đối với hoạt động thương mại mà không thiên vị hay mặc định chúng gây ra
ảnh hưởng tiêu cực hoặc làm méo mó thương mại quốc tế.
Ở góc độ pháp lý, dù thuật ngữ "biện pháp phi thuế quan" không được đề cập
trực tiếp trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm cả trong Luật Quản lý Ngoại thương
năm 2017, nhưng văn bản này cũng liệt kê các quy định liên quan đến các biện pháp
này gồm (1) biện pháp hành chính; (2) biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch (TBT, SPS);
(3) biện pháp phòng vệ thương mại; và (4) biện pháp kiểm soát khẩn cấp trong ngoại
thương (Luật quản lý Ngoại thương Việt Nam, 2017).
Một điểm cần lưu ý liên quan đến khái niệm BPPTQ và khái niệm rào cản phi
thuế quan (RCPTQ) cần phải được phân biệt do trước đây hai khái niệm này vẫn
thường bị nhầm lẫn và dùng thay thế cho nhau.
Thuật ngữ "biện pháp" là một thuật ngữ mang tính chất chung chung. Trong
khi đó, thuật ngữ "rào cản" lại đề cập đến việc một quy định mang tích chất gây khó
khăn cho chủ thể thực hiện (Shi, 2022). Trước đây, các nghiên cứu về các BPPQT
thường với vai trò là các chính sách mang tính chất cản trở thương mại như Deardorff
và Stern (1997) cho rằng RCPTQ là tất cả các hàng rào trong thương mại ngoài thuế
quan. Trong khi đó, ITC (2012) đã đề cập rằng các RCPTQ là một tập hợp con của
25
BPPTQ với mục đích bảo hộ hoặc phân biệt đối xử và chúng có tác động tiêu cực đến
thương mại. Ngoài ra, thông qua việc liệt kê các biện pháp thì RCPTQ được định nghĩa
là tất cả những rào cản thương mại không phải thuế quan như thuế chống bán phá giá,
hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp, hàng rào kĩ thuật hay những cản trở việc thiết lập
hay cung cấp các dịch vụ (OECD, 2014). UNESCAP (2019) thì cho rằng RCPTQ là
những công cụ chính sách được áp dụng nhằm mục đích cản trở thương mại bằng việc
phân biệt đối xử đối với hàng hoá. UNCTAD (2021) khẳng định RCPTQ là một tập hợp
con của các BPPTQ và có tác động tiêu cực đến thương mại.
Với những quan niệm, định nghĩa được nêu trên thì BPPQT và RCPTQ đều là
các biện pháp, công cụ chính sách mà các quốc gia áp dụng trong thương mại quốc
tế và có tác động nhất định tới thương mại quốc tế. Nếu như BPPTQ là các biện pháp
được thiết kế để đáp ứng các mục tiêu chính sách nhất định, có tính chất rộng hơn và
chủ yếu được thể hiện bằng các yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật thì RCPTQ là các biện
pháp được lựa chọn phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nước ngoài và do đó ảnh
hưởng xấu đến hoạt động thương mại và phát triển của các quốc gia khác. Trong
trường hợp này, các biện pháp này trở thành rào cản đối với thương mại và được coi
là RCPTQ (UNCTAD, 2021). BPPTQ có thể trở thành RCPTQ.
Điểm cốt lõi để phân biệt hai khái niệm này đó chính là mục đích sử dụng và
tác động của các biện pháp này tới thương mại quốc tế. Nếu như BPPQT được đề cập
đến nhưng không chỉ rõ mục đích áp dụng là tích cực hay tiêu cực, thì RCPTQ được
áp dụng mang lại những tác động tiêu cực đối với thương mại quốc tế, ngăn chặn sự
tự do lưu thông của hàng hoá.
Như vậy, RCPTQ là một tập con là một bộ phận của BPPQT (UNCTAD,
2021). RCPTQ là BPPTQ nhưng BPPTQ chưa chắc đã là RCPTQ. Định nghĩa về
BPPTQ là trung lập và không nhất thiết đại diện cho một tác động tiêu cực đến thương
mại. Một số BPPTQ có thể có tác động tích cực, đó là lý do tại sao từ "biện pháp"
được sử dụng thay vì "rào cản". BPPTQ không nhất thiết ngụ ý các biện pháp bất hợp
pháp và/hoặc tác động hạn chế đối với thương mại. Trên thực tế, WTO cho phép áp
dụng BPPTQ trong những trường hợp cụ thể. Trong một số trường hợp việc áp dụng
các BPPTQ hợp pháp thậm chí có thể làm tăng thương mại bằng cách cung cấp thêm
thông tin và sự chắc chắn cho người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên, một số
BPPTQ là rào cản vì được thực hiện với mục đích bảo hộ cụ thể ảnh hưởng tiêu cực
26
đến thương mại. Thêm nữa, nhiều BPPTQ không minh bạch do được che giấu trong
các quy định hoặc xuất hiện dưới dạng chính sách ngụy trang (APEC, 2014). Trong
khi đó, RCPTQ không được WTO công nhận vì áp dụng RCPQT là bất hợp pháp và
vi phạm các nguyên tắc và mục tiêu phát triển của WTO.
Tuy nhiên, việc phân biệt một biện pháp có hợp pháp hay không là thách thức
lớn, vì các đối tác thương mại có thể có quan điểm khác nhau. Một bên có thể coi một
biện pháp là rào cản thực sự trong khi bên kia có thể không. Hiện nay có thể thấy tỷ lệ
RCPTQ trong tổng số BPPQT hiện nay là tương đối lớn và đang ngày càng có xu hướng
tăng lên. Do vậy, việc giảm thiểu các BPPTQ có tác động tiêu cực, bóp méo thương mại
là rất cần thiết để tạo điều kiện cho thương mại quốc tế được thuận lợi hơn.
Tựu chung lại, từ các quan điểm và các góc độ tiếp cận khác nhau nêu trên,
BPPTQ cần được hiểu là các biện pháp thuộc chính sách thương mại quốc tế của các
quốc gia mà không phải thuế quan, có thể có tác động hoặc không có tác động đến
thương mại trong các trường hợp áp dụng cụ thể. Nếu có tác động thì tác động theo
nhiều hướng khác nhau, có thể là tích cực hoặc tiêu cực hoặc cả hai.
Việc hiểu và phân định rõ ràng được khái niệm BPPTQ là đặt biệt quan trọng
trong quá trình ban hành và áp dụng BPPTQ khi mà thương mại quốc tế phát triển và
đóng vai trò trung tâm của kinh tế quốc tế hiện nay.
2.1.2. Phân loại
Việc phân loại các BPPTQ đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử, việc phân
loại rất đa dạng và dựa trên các tiêu chí khác nhau. Việc phân loại các BPPTQ đã
được phát triển theo mục đích của chủ thể thu thập dữ liệu.
Dựa vào các đặc điểm chung về việc gây cản trở thương mại, Baldwin (1970)
phân loại BPPTQ thành bốn nhóm chính: (1) hạn chế định lượng như hạn ngạch, lệnh
cấm nhập khẩu; (2) trợ cấp tài chính của chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu;
(3) tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn, bao bì, nhãn mác có thể tạo rào cản cho hàng
nhập khẩu; (4) chính sách mua sắm của chính phủ ưu tiên hàng hóa, dịch vụ trong
nước. Đây là một trong những cách phân loại từ rất sớm. Theo thời gian, các BPPTQ
đã thay đổi và phát triển theo nhiều hướng khác nhau khiến cho cách phân loại trên
không có tính bao quát.
Dựa trên nguồn gốc của các BPPTQ thì các RCPQT trong nghiên cứu của
Deardorff và Stern (1997) thì được phân loại xuất phát từ 3 nguồn gốc gồm (1) các
quy trình hành chính, quy định và chính sách của chính phủ (ví dụ như quy định hải
27
quan về các thủ tục, quy định về cấp phép hạn ngạch,… hay các quy định ưu đãi cho
hàng hoá nội địa gây cản trở cho hàng nhập khẩu,…); (2) BPPTQ bắt nguồn từ cơ
cấu thị trường (từ thị trường cạnh tranh độc quyền đến thị trường cạnh tranh hoàn
hảo). Đối với các dạng thị trường khác nhau thì các chính sách được ban hành và áp
dụng cũng khác nhau. Đặc biệt, đối với các quốc gia khác nhau với các cơ chế thị
trường không giống nhau thì thương mại hàng hoá giữa các quốc gia cũng sẽ gặp
những chính sách gây trở ngại cho thương mại; (3) BPPTQ bắt nguồn từ các yếu tố
thể chế (như các yếu tố về chính trị, xã hội, văn hoá,… định hình quan điểm, thị hiếu
hành vi khác nhau của người tiêu dùng. Khác biệt về thể chế giữa các quốc gia cũng
được coi là các trở ngại cho thương mại.
Nhận thức được sự gia tăng và ngày càng quan trọng của BPPTQ, UNCTAD
đã tích cực làm việc về chủ đề này từ những năm 1994. Theo UNCTAD vì định nghĩa
chính thức về BPPTQ rất rộng nên việc phân loại chi tiết là rất quan trọng để xác định
và phân biệt rõ ràng giữa các dạng BPPTQ khác nhau. Nhóm hỗ trợ đa cơ quan
(MAST) đã thảo luận rộng rãi và xây dựng Bảng phân loại quốc tế về các BPPTQ
trong giai đoạn 2007 – 2017 và đã nhất trí về phiên bản đầu tiên của bảng phân loại
này vào năm 2012. Việc phân loại không ngừng phát triển và thích ứng với thực tế
của nhu cầu thu thập dữ liệu và thương mại quốc tế.
Bảng 2.1. Phân loại các biện pháp phi thuế quan theo UNCTAD
Nhóm Mã/Chương Phân loại BPPTQs
Các biện pháp kỹ thuật
A B C D
E
F
Các biện pháp phi kỹ thuật
G H I J K L M N O SPS - Biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật TBT – Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc Cấp phép, hạn ngạch và các biện pháp kiểm soát số lượng Các biện pháp kiểm soát giá bao gồm thuế, phí bổ sung Các biện pháp tài chính Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Hạn chế phân phối Hạn chế về dịch vụ sau bán hàng Trợ cấp (không bao gồm trợ cấp xuất khẩu) Hạn chế mua sắm của Chính phủ Sở hữu trí tuệ Quy tắc xuất xứ
P Các biện pháp liên quan đến xuất khẩu Các biện pháp xuất khẩu
28
Nguồn: UNCTAD (2022)
Tính đến năm 2018, UNCTAD đã thu thập dữ liệu BPPTQ toàn diện và có thể
so sánh được ở 109 quốc gia, bao gồm hơn 65.000 biện pháp. Phân loại của UNCTAD
được quốc tế công nhận và đã trở thành nền tảng cho việc thu thập dữ liệu, đồng thời,
giúp cho các chính sách liên quan các BPPTQ được rõ ràng và minh bạch hơn. Đây
là cơ sở dữ liệu được đánh giá là toàn diện nhất hiện nay về cả phạm vi quốc gia và
mã sản phẩm.
Theo hệ thống cơ sở dữ liệu này của UNCTAD thì BPPTQ được phân thành
các chương, phụ thuộc vào phạm vi, đặc tính của từng BPPTQ. Bảng 2.1 cho thấy
BPPTQ chia thành 16 chương: từ chương A đến chương O là các BPPTQ liên quan
đến nhập khẩu, trong khi chương P bao gồm các biện pháp mà các quốc gia áp đặt
đối với hàng xuất khẩu. Trong các BPPTQ liên quan đến nhập khẩu lại phân loại
thành các biện pháp kỹ thuật (chương A, B và C) và các biện pháp phi kỹ thuật (từ
chương D đến chương O).
Tất cả các biện pháp này đều là các quy định trong các văn bản pháp lý được
các quốc gia ban hành một cách chính thức (như luật, nghị định, chỉ thị,…). Một quy
định chính thức có thể bao gồm một số BPPTQ theo phân loại của UNCTAD trên.
Cụ thể các chương trong bảng phân loại gồm:
Chương A – SPS là các quy định trong luật, nghị định, quy định, yêu cầu, tiêu
chuẩn và thủ tục để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe con người, động thực vật. Gồm
các biện pháp ảnh hưởng đến các khu vực như hạn chế đối với các chất, yêu cầu vệ
sinh hoặc các biện pháp khác để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh; hay các biện
pháp đánh giá sự phù hợp liên quan đến an toàn thực phẩm, như chứng nhận, thử
nghiệm, kiểm tra, và kiểm dịch.
Chương B - TBT là các quy chuẩn, tiêu chuẩn đề cập đến đặc tính kỹ thuật của
sản phẩm như quy định về dán nhãn hay các biện pháp khác để bảo vệ môi trường.
TBT cũng bao gồm các quy trình, hệ thống đánh giá sự phù hợp liên quan đến các
yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm như chứng nhận, thử nghiệm và kiểm tra.
Chương C - Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác gồm việc kiểm tra
thực tế hàng hóa tại nước xuất khẩu trước khi vận chuyển, nhằm xác định bản chất
hay sự phù hợp của hàng hóa. Các thủ tục phải hoàn thành tại Hải quan, không liên
quan đến việc quản lý các biện pháp SPS/TBT, yêu cầu nhà xuất khẩu xuất trình các
chứng từ cần thiết được sử dụng để khai báo lô hàng với Hải quan tại nước nhập khẩu.
Chương D - Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc là các biện
29
pháp được thực hiện để chống lại các tác động bất lợi cụ thể của hàng nhập khẩu tại thị
trường của nước nhập khẩu, bao gồm các biện pháp nhằm vào các hành vi ngoại thương
không công bằng; gồm các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Chương E - Cấp phép, hạn ngạch và các biện pháp kiểm soát số lượng là các
biện pháp nhằm hạn chế số lượng hàng hóa có thể được nhập khẩu. Các biện pháp
này có thể dưới hình thức cấp phép hạn chế, ấn định hạn ngạch định trước hoặc thông
qua các lệnh cấm nhập khẩu không liên quan đến các biện pháp SPS và TBT.
Chương F - Các biện pháp kiểm soát giá bao gồm thuế, phí bổ sung là những
biện pháp được thực hiện để kiểm soát hoặc tác động đến giá hàng hóa nhập khẩu
nhằm hỗ trợ giá trong nước của một số sản phẩm nhất định khi giá nhập khẩu của
những hàng hóa này thấp hơn; thiết lập giá trong nước của một số sản phẩm do biến
động giá ở thị trường trong nước hoặc bất ổn giá ở thị trường nước ngoài; hoặc để
tăng hoặc bảo toàn doanh thu thuế.
Chương G - Các biện pháp tài chính là các biện pháp nhằm điều chỉnh khả năng
tiếp cận và chi phí ngoại hối đối với hàng nhập khẩu và xác định các điều khoản thanh
toán. Các biện pháp này có thể làm tăng chi phí nhập khẩu.
Chương H - Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh: Các biện pháp dành ưu đãi
hoặc đặc quyền độc quyền hoặc đặc biệt cho một hoặc nhiều nhóm hạn chế các nhà điều
hành kinh tế, vì các lý do xã hội, tài chính, kinh tế hoặc chính trị. chủ yếu đề cập đến các
biện pháp độc quyền, chẳng hạn như thương mại Nhà nước, hoặc các cơ quan nhập khẩu
duy nhất, hoặc bắt buộc sử dụng các dịch vụ hoặc vận tải quốc gia.
Chương I - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: nhóm các biện pháp
hạn chế đầu tư bằng cách yêu cầu hàm lượng địa phương hoặc yêu cầu đầu tư phải
liên quan đến xuất khẩu để cân bằng nhập khẩu.
Chương J - Hạn chế phân phối: đề cập đến các biện pháp hạn chế liên quan đến
phân phối nội bộ các sản phẩm nhập khẩu. Điều này có thể được kiểm soát thông qua
các yêu cầu về giấy phép hoặc chứng nhận bổ sung.
Chương K - Hạn chế về dịch vụ sau bán hàng: Các biện pháp hạn chế nhà sản
xuất hàng hóa xuất khẩu ở nước xuất khẩu cung cấp dịch vụ sau bán hàng ở nước
nhập khẩu. ví dụ: hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ phụ kiện.
Chương L - Trợ cấp: Những trợ cấp này đề cập đến sự đóng góp tài chính của
chính phủ hoặc cơ quan chính phủ cho cơ cấu sản xuất, cho dù là một ngành hoặc
công ty cụ thể, chẳng hạn như chuyển tiền trực tiếp hoặc chuyển tiền tiềm năng, thanh
30
toán cho một cơ chế tài trợ và hỗ trợ thu nhập hoặc giá cả.
Chương M - Hạn chế mua sắm của chính phủ: Đây là những biện pháp kiểm
soát việc mua hàng hóa của các cơ quan chính phủ, thường bằng cách ưu tiên các nhà
cung cấp quốc gia.
Chương N - Sở hữu trí tuệ: các biện pháp này bao gồm bằng sáng chế, nhãn
hiệu, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bản quyền, chỉ dẫn địa lý
và bí mật thương mại.
Chương O - Quy tắc xuất xứ: Bao gồm các luật, quy định và quyết định hành
chính được chính phủ các nước nhập khẩu áp dụng để xác định quốc gia xuất xứ
của hàng hóa. Quy tắc xuất xứ có thể hạn chế thương mại khi khó xác định nguồn
gốc của sản phẩm cuối cùng nếu nguyên liệu thô và các bộ phận đến từ các quốc
gia khác nhau.
Chương P - Biện pháp liên quan đến xuất khẩu: là nhóm các biện pháp mà một
quốc gia áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của chính quốc gia đó. Bao gồm thuế
xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu hoặc cấm xuất khẩu.
Bảng 2.2. Minh hoạ về cấu trúc cây phân loại các chương của UNCTAD
Cấu trúc cây phân loại của chương A A. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS) A1. Cấm/hạn chế nhập khẩu vì lý do SPS A2. Giới hạn cho phép đối với dư lượng và chất hạn chế sử dụng (...) A8. Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các khía cạnh SPS A81. Yêu cầu đăng ký sản phẩm. A82. Yêu cầu kiểm tra A83. Yêu cầu chứng nhận A84. Yêu cầu kiểm tra A85. Yêu cầu truy xuất nguồn gốc A851. Xuất xứ của vật liệu và bộ phận cấu thành A852. Lịch sử xử lý A853. Phân phối và vị trí của sản phẩm sau khi giao hàng A859. Yêu cầu truy xuất nguồn gốc mới A86. yêu cầu kiểm dịch A89. Đánh giá sự phù hợp liên quan đến SPS, mới A9. Các biện pháp SPS mới B. Rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) C. Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác D. Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc (…)
Nguồn: UNCTAD (2022)
Ngoài việc phân thành các chương thì UNCTAD còn phân loại cụ thể hơn ở
31
mỗi chương. Các chương sẽ được chia thành các nhóm khác nhau sử dụng cấu trúc
cây/nhánh với độ chi tiết lên đến ba, bốn chữ số. Cấp độ phân chia càng nhiều chữ số
thì cho thấy sự phân chia chi tiết hơn. Ví dụ: chương A bao gồm chín mã có hai chữ
số, từ A1 đến A9. Sau đó, mỗi mã hai chữ số được phân biệt thêm bằng cách cung
cấp mã ba chữ số. Ví dụ: A8 bao gồm A81 đến A86 và cả A89. A85 được chia nhỏ
hơn nữa thành các mã gồm bốn chữ số: A851, A852, A853 và A859 (Bảng 2.2). Chỉ
có một vài nhóm đạt đến cấp độ phân tách bốn chữ số, hầu hết dừng lại ở ba chữ số
(UNCTAD, 2021). Theo cách phân loại này thì BPPTQ đang được phân chia thành
178 loại biện pháp riêng biệt.
Việc phân loại chi tiết như vậy của UNCTAD nhằm minh bạch hoá hệ thống
các BPPTQ của các quốc gia, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình thu thập dữ liệu
nghiên cứu. Ngoài ra, cũng cho thấy sự phức tạp và khác biệt đáng kết giữa các
BPPTQ, đặc biệt là các biện pháp SPS và TBT.
Như vậy, có thể thấy các BPPTQ được phân loại theo nhiều cách. Tuy nhiên,
hiện nay, cách phân loại của UNCTAD (2019) vẫn là hệ thống phân loại được sử
dụng phổ biến và rộng rãi nhất vì tính minh bạch và bao quát, là cơ sở để xây dựng
hệ thống phân loại và cơ sở dữ liệu về BPPTQ tại các quốc gia trên thế giới.
2.1.3. Quan niệm về các biện pháp SPS và TBT
2.1.3.1. Biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)
Theo Hiệp định an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) của
WTO, SPS được định nghĩa là “tất cả các quy định, điều kiện, yêu cầu bắt buộc có
tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của con người,
vật nuôi, động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm và/hoặc ngăn chặn
sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật”. Hình thức của các
biện pháp SPS có thể rất đa dạng, có thể là yêu cầu về chất lượng, về bao bì, về quy
trình đóng gói, phương tiện và cách thức vận chuyển động thực vật, kiểm dịch,
phương pháp lấy mẫu, thống kê,...
Phụ lục A, Hiệp định SPS của WTO cũng quy định cụ thể mục đích áp dụng
các biện pháp SPS gồm các mục đích nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khỏe động, thực
vật trong lãnh thổ của quốc gia thành viên khỏi: (i) nguy cơ xâm nhập, xuất hiện hay
lan truyền của sâu, bệnh, vật mang bệnh hay vật gây bệnh; (ii) nguy cơ từ các chất
phụ gia thực phẩm, tạp chất, độc chất hoặc vật gây bệnh trong thực phẩm, đồ uống
hoặc thức ăn gia súc; (iii) nguy cơ từ các bệnh do động vật, thực vật hay sản phẩm
32
của chúng đem lại hoặc từ việc xâm nhập, xuất hiện hay lan truyền sâu hại; đồng
thơngf, (iv) ngăn chặn, hạn chế tác hại khác trong lãnh thổ các quốc gia khỏi sự xâm
nhập, xuất hiện hay lan truyền của sâu hại.
Đồng thời, Hiệp định SPS quy định rằng các quốc gia thành viên của WTO phải
tuân thủ một số nguyên tắc nhất định khi xây dựng và thực thi các biện pháp SPS. Cụ
thể, các biện pháp này chỉ được áp dụng trong phạm vi cần thiết nhằm bảo vệ sức
khỏe con người, động vật và thực vật, phải dựa trên cơ sở khoa học, ngoại trừ một số
trường hợp đặc biệt như dịch bệnh khẩn cấp. Bên cạnh đó, các biện pháp SPS không
được tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tùy tiện hoặc thiếu căn cứ, cũng như không
được lợi dụng để dựng lên các rào cản thương mại trá hình. Ngoài ra, các quốc gia
thành viên nên căn cứ vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế (nếu
có) khi áp dụng các biện pháp này. Cuối cùng, Hiệp định SPS cũng khuyến khích
việc hài hòa hóa các biện pháp giữa các quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động thương mại toàn cầu.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử (giữa hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác
nhau với nhau, giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa) là một trong những nguyên tắc
trụ cột của WTO. Đối với trường hợp các biện pháp SPS, nguyên tắc này vẫn áp dụng
nhưng có giới hạn. Cụ thể, Hiệp định SPS không cấm các biện pháp SPS phân biệt
đối xử mà chỉ cấm các biện pháp SPS phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không
có căn cứ. Nói cách khác, nếu một nước có lý do để áp dụng các biện pháp SPS khắt
khe hơn đối với hàng hoá nhập khẩu đến từ một khu vực nhất định so với hàng hoá
đến từ các khu vực khác hoặc hàng hóa trong nước (như khu vực đó đang có dịch
bệnh nguy hiểm) thì vẫn được chấp nhận theo Hiệp định SPS.
2.1.3.2. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
Theo Hiệp định TBT của WTO, TBT bao gồm các quy chuẩn kỹ thuật và quy
trình kiểm định mức độ phù hợp của sản phẩm với các tiêu chuẩn kỹ thuật, ngoại trừ
những biện pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định SPS. Những biện pháp này
có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như tiêu chuẩn sản phẩm,
quy định kỹ thuật, phương pháp thử nghiệm, chứng nhận chất lượng và các thủ tục
liên quan đến việc xác minh sự tuân thủ của sản phẩm đối với các yêu cầu kỹ thuật.
Trên thực tế, các biện pháp TBT có thể tạo ra những rào cản nhất định đối với thương
mại quốc tế, nhưng đồng thời cũng giữ vai trò thiết yếu trong việc định hướng và
33
kiểm soát luồng lưu chuyển hàng hóa trên thị trường toàn cầu.
Theo quy định của WTO, các biện pháp TBT có thể bao gồm những yêu cầu
bắt buộc đối với sản phẩm, các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, cũng như quy trình
đánh giá sự phù hợp của sản phẩm (có thể dựa trên các quy định bắt buộc hoặc tiêu
chuẩn tự nguyện). Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này không được tạo ra
những rào cản không cần thiết hoặc gây cản trở đến hoạt động thương mại.
Bên cạnh đó, Hiệp định TBT cũng phân loại ba nhóm biện pháp kỹ thuật gồm:
(1) Quy định kỹ thuật là các yêu cầu bắt buộc về đặc tính sản phẩm, quy trình và
phương pháp sản xuất, bao gồm cả thuật ngữ chuyên môn, ký hiệu, bao bì, mã hiệu
hoặc nhãn mác; (2) Tiêu chuẩn kỹ thuật do tổ chức có thẩm quyền ban hành để sử
dụng rộng rãi, quy định về sản phẩm và phương pháp sản xuất nhưng mang tính tự
nguyện; (3) Quy trình đánh giá sự phù hợp là các thủ tục nhằm xác định sản phẩm có
đáp ứng các yêu cầu của quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật hay không.
Khi ban hành các biện pháp TBT, các quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc
nhằm đảm bảo tính công bằng và không gây cản trở không cần thiết đến thương mại
quốc tế. Cụ thể, các biện pháp này không được mang tính phân biệt đối xử và cần
tránh tạo ra rào cản thương mại không cần thiết, ưu tiên sử dụng các biện pháp ít hạn
chế hơn nếu có thể. Đồng thời, việc hài hòa hóa với các quy định quốc tế và cân nhắc
các tiêu chuẩn chung được khuyến khích nhằm tạo sự đồng bộ trong thương mại toàn
cầu. Ngoài ra, các quốc gia cũng cần đảm bảo nguyên tắc tương đương và công nhận
lẫn nhau với các nước khác để thúc đẩy hợp tác kinh tế. Cuối cùng, tính minh bạch
phải được duy trì trong toàn bộ quá trình thực thi nhằm đảm bảo sự rõ ràng và công
khai trong áp dụng các biện pháp TBT.
Tóm lại, các biện pháp TBT cần phải được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu
hợp pháp không liên quan đến những mục tiêu đã được quy định trong Hiệp định SPS.
Mục đích của mỗi biện pháp cụ thể là để xác định liệu biện pháp đó có tuân thủ các
nguyên tắc của Hiệp định SPS hay TBT hay không, thay vì chỉ tập trung vào việc xem
xét sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cụ thể. Ví dụ, một quy định liên quan đến việc xử
lý trái cây nhập khẩu nhằm ngăn ngừa sự lây lan của sâu bệnh sẽ được phân loại là biện
pháp SPS, trong khi một biện pháp liên quan đến chất lượng, phân loại và ghi nhãn trái
cây nhập khẩu sẽ được coi là biện pháp TBT. Tương tự, một biện pháp quy định các
vật liệu được phép sử dụng trong sản xuất nước đóng chai để bảo vệ sức khỏe con
34
người, chẳng hạn như việc ngăn ngừa ô nhiễm nước bởi các chất độc hại từ vật liệu, sẽ
thuộc phạm vi Hiệp định SPS. Trong khi đó, một biện pháp quy định kích thước chai
nhằm đảm bảo thể tích tiêu chuẩn lại thuộc phạm vi Hiệp định TBT.
2.2. Các phương pháp đo lường và đánh giá tác động của các biện pháp phi
thuế quan
BPPTQ là một công cụ chính sách ngày càng được sử dụng phổ biến và phức
tạp trong việc điều chỉnh thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sự phổ biến và tác động của
BPPTQ đến thương mại quốc tế rất phức tạp, chưa minh bạch. Do đó, việc xác định
các phương pháp nhằm đo lường, định lượng mức độ phổ biến và đánh giá tác động
của các BPPTQ rất cần thiết. Tác động của các BPPTQ có thể được đánh giá theo
nhiều cách. Có một số phương pháp được sử dụng điển hình như:
- Phương pháp tiếp cận trực tiếp nhằm đo lường mức độ phổ biến của BPPTQ
(thông qua phương pháp kiểm đếm số lượng BPPTQ và phương pháp tính toán
các chỉ số mức độ phổ biến của BPPTQ);
- Phương pháp tiếp cận về số lượng bằng mô hình trọng lực hấp dẫn;
- Phương pháp tiếp cận về giá.
2.2.1. Phương pháp đo lường mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan
2.2.1.1. Phương pháp kiểm đếm
Phương pháp đơn giản nhất để đo lường và định lượng BPPTQ là thông qua
việc kiểm đếm số lượng các BPPTQ được ban hành và áp dụng đối với các mặt hàng
nhập khẩu. Quá trình này bao gồm việc kiểm đếm, thống kê các quy định, tiêu chuẩn
áp dụng cho từng ngành hàng và quốc gia, dựa trên các thông báo mà các quốc gia
nhập khẩu gửi lên WTO. Những thông báo này được phát hành khi có sự thay đổi
trong việc áp dụng các quy định mới, mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế hoặc
phản hồi từ doanh nghiệp. Để đánh giá tác động kinh tế của các BPPTQ, phương
pháp kiểm đếm số lượng thường được kết hợp với các phương pháp định lượng khác
như mô hình trọng lực.
Phương pháp kiểm đếm số lượng các BPPTQ được thực hiện là số lượng
BPPTQ một quốc gia áp dụng đối với mặt hàng nhập khẩu cụ thể vào quốc gia đó
hoặc kiểm đếm số lượng các thông báo thay đổi, sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy
định BPPTQ của các quốc gia.
2.2.1.2. Phương pháp tính toán các chỉ số liên quan đến mức độ áp dụng phổ biến
các biện pháp phi thuế quan
Để đánh giá mức độ phổ biến của BPPTQ, ngoài việc sử dụng phương pháp
35
kiểm đếm thì các chỉ số như tỷ lệ bao phủ (Coverage Ratio – CR), chỉ số tần suất
(Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành (Prevalance Score – PS) được sử dụng.
Việc tính toán các chỉ số về tỷ lệ áp dụng BPPTQ được đánh giá là một trong
những phương pháp tiếp cận đơn giản nhất để đánh giá được mức độ phổ biến của
BPPTQ (Deardorff & Stern, 1997). Các chỉ số này dựa trên cường độ của các công
cụ chính sách và đo lường mức độ điều chỉnh mà không xem xét tác động của nó đối
với thương mại hoặc nền kinh tế (Melo & Nicita, 2018).
Các chỉ số này được tính toán dựa trên số lượng các BPPTQ đã được quan sát,
thu thập và kiểm đếm. Trong đó, hệ số bao phủ (CR) đo lường tỷ lệ giá trị thương mại
bị áp dụng các BPPTQ, chỉ số tần suất (FI) cho biết tỷ lệ phần trăm sản phẩm áp dụng
BPPTQ và chỉ số thịnh hành (PS) là số BPPTQ trung bình áp dụng cho sản phẩm
(UNCTAD, 2022). Các chỉ số này thường được tính toán trên thương mại tổng thể, xem
xét tất cả các loại BPPTQ; đồng thời, các chỉ số này cũng có thể biểu thị mức độ ảnh
hưởng của các BPPTQ cụ thể đối với các nhóm sản phẩm cụ thể như số biện pháp
SPS/TBT trung bình được áp dụng đối với nhóm hàng nông sản (Melo & Nicita, 2018).
• Chỉ số tần suất (FI)
Chỉ số tần suất cho biết tỷ lệ phần trăm hàng hoá nhập khẩu bị áp dụng một
hoặc nhiều BPPTQ (UNCTAD, 2022), giải thích cho việc có hay không có BPPTQ
được áp dụng. Chỉ số tần suất được được tính theo công thức:
𝐹𝐼𝑗 = 𝑥100 ∑𝐷𝑖𝑀𝑖 ∑𝑀𝑖
Trong đó, FIj là chỉ số tần suất của quốc gia j; Mi, Di đều là các biến giả; trong
đó Di phản ánh có hay không có BPPTQ được áp dụng đối với dòng sản phẩm i (Di
sẽ nhận giá trị 1 nếu có ít nhất một BPPTQ được áp dụng, nếu không có BPPTQ nào
được áp dụng thì Di sẽ nhận giá trị 0); Mi phản ánh các dòng sản phẩm i bị ảnh hưởng
bởi các BPPTQ.
Chỉ số tần suất phản ánh mức độ phổ biến của BPPTQ đối với các dòng hàng
hoá. Chỉ số tần suất càng lớn thì cho thấy tỷ lệ mặt hàng/nhóm mặt hàng bị ảnh hưởng
bởi BPPTQ càng lớn. Vì vậy, trường hợp nhập khẩu tất cả các mặt hàng thì tổng giá
trị của Ms khoảng 5200 mã sản phẩm mô tả chi tiết 6 chữ số (tương ứng với 5200
dòng thuế).
• Tỷ lệ bao phủ (CR)
Tỷ lệ bao phủ của BPPTQ được tính bằng cách xác định giá trị nhập khẩu của
từng mặt hàng chịu các BPPTQ, tổng hợp theo nhóm hàng HS áp dụng và thể hiện tỷ
36
lệ phần trăm của tổng giá trị hàng nhập khẩu bị áp dụng BPPTQ (UNCTAD, 2022).
Khác với chỉ số tần suất, CR được tính toán thông qua giá trị hàng nhập khẩu, thay
vì dòng sản phẩm được trao đổi (UNCTAD, 2022).
𝐶𝑅𝑗 = 𝑥100 ∑𝐷𝑖𝑉𝑖 ∑𝑉𝑖
Trong đó, CRj là tỷ lệ bao phủ tại quốc gia j. Vi là giá trị của hàng hoá nhập
khẩu i chịu ảnh hưởng của BPPTQ. CR phản ánh mức độ áp dụng của BPPTQ đối
với giá trị hàng hoá nhập khẩu. CR càng lớn nghĩa là tỷ lệ giá trị hàng hoá bị áp dụng
BPPTQ càng cao.
Cả hai chỉ số FI và CR chỉ phản ánh tỷ lệ số lượng mặt hàng/nhóm mặt hàng,
hoặc tỷ lệ giá trị hàng hóa bị áp dụng BPPTQ nói chung, mà không phản ánh đầy đủ
mức độ tác động khác nhau của BPPTQ đối với các mặt hàng. Cụ thể, chúng không
thể phân biệt được sự ảnh hưởng của BPPTQ khi một mặt hàng/nhóm mặt hàng chỉ
bị áp dụng một biện pháp so với trường hợp một mặt hàng/ nhóm mặt hàng phải chịu
nhiều hơn một biện pháp BPPTQ.
• Điểm số thịnh hành (PS)
Nếu hàng hoá bị áp dụng nhiều hơn một BPPTQ thì chỉ số thịnh hành được sử
dụng. Chỉ số thịnh hành phản ánh số lượng trung bình của các BPPTQ riêng biệt áp
dụng cho các sản phẩm nhập khẩu qua đó đo lường mức độ đa dạng và cường độ của
các BPPTQ (UNCTAD, 2022).
𝑃𝑆 = ∑𝑁𝑖𝑀𝑖 ∑𝑀𝑖
Trong đó, Ni là số lượng trung bình của các BPPTQ áp dụng đối với hàng hoá Mi.
Như vậy, ba chỉ số trên được sử dụng để xác định chỉ số mức độ áp dụng phổ
biến các BPPTQ của các quốc gia, từ đó phản ánh về mặt hình thức mức độ ảnh
hưởng của BPPTQ đối với hàng hóa; gồm tỷ lệ số lượng mặt hàng hoặc nhóm mặt
hàng, tỷ lệ giá trị hàng hóa bị ảnh hưởng bởi BPPTQ, hoặc giá trị trung bình của một
mặt hàng bị ảnh hưởng bởi bao nhiêu loại BPPTQ.
2.2.2. Phương pháp định lượng sử dụng mô hình lực hấp dẫn
Ferrantino (2006) đã trình bày chi tiết về các phương pháp thường được sử
dụng để định lượng tác động của các BPPTQ) lên dòng chảy thương mại và giá cả,
tùy theo từng loại BPPTQ. Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của BPPTQ đến thương
37
mại quốc tế, mô hình lực hấp dẫn là phương pháp được các nhà nghiên cứu áp dụng
phổ biến, như Disdier và Marette (2010), Yousefi và Liu (2013),… Đồng thời, để so
sánh trực tiếp tác động của các BPPTQ đối với thương mại với tác động của thuế
quan đối với thương mại, các nghiên cứu Kee và cộng sự (2009), Beghin và cộng sự
(2014) hay Cadot và cộng sự (2018),… đã sử dụng phương pháp ước lượng tương
đương thuế quan giá trị (AVE) của các BPPTQ.
Từ đầu những năm 1960, Tinbergen (1962) và Pöyhönen (1963) đã cho rằng
dòng chảy thương mại quốc tế có xu hướng lớn hơn giữa các cặp nền kinh tế gần
nhau và và nhỏ hơn giữa các cặp nền kinh tế cách xa nhau hơn. Từ đó, dựa vào thuyết
lực hấp dẫn của Newton, mô hình lực hấp dẫn đã được đưa ra để đánh giá về mức độ
của các dòng thương mại chỉ với ba biến (GDP của nước xuất khẩu, GDP của nước
nhập khẩu và khoảng cách giữa hai quốc gia đó).
Mô hình lực hấp dẫn là một công cụ phổ biến để định lượng tác động của các
yếu tố đến dòng chảy thương mại quốc tế. Mô hình này được xây dựng dựa trên mối
quan hệ giữa quy mô kinh tế và khoảng cách địa lý giữa các quốc gia. Theo mô hình
truyền thống, khoảng cách địa lý đóng vai trò như một rào cản đối với thương mại,
trong khi quy mô kinh tế phản ánh đặc điểm của cả quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu,
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại giữa hai bên. Cụ thể: thương mại giữa
hai nước i và j là một hàm số phụ thuộc vào quy mô nền kinh tế và khoảng cách địa
lý của hai quốc gia này, theo đó dòng thương mại tỷ lệ thuận với quy mô và tỷ lệ
j
.a=
T ij
YY i D ij
nghịch với khoảng cách (Tinbergen,1962).
Trong đó:
Tij: Kim ngạch thương mại giữa hai nước i và j
α: hằng số
Yi,Yj: Quy mô nền kinh tế của nước i và j
Dij: Khoảng cách giữa hai nước i và j
Mặc dù còn hạn chế do thiếu cơ sở lý thuyết vững chắc, mô hình này vẫn được
đánh giá là một công cụ mạnh mẽ trong nghiên cứu thực nghiệm. Do đó, sau nghiên
cứu của Tinbergen (1962), nhiều nhà nghiên cứu đã tiếp tục ứng dụng và mở rộng
mô hình này nhằm cải thiện độ chính xác và khả năng giải thích trong các phân tích
kinh tế.
Việc sử dụng nhiều các mô hình lực hấp dẫn, đặc biệt là cho các mục đích
38
chính sách ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn. Các nhà nghiên cứu
đã chỉ ra rằng các trở ngại đối với thương mại có thể được coi là các yếu tố bổ sung
làm tăng khoảng cách kinh tế. Do đó, kết quả của nghiên cứu không chỉ cung cấp một
bức tranh tổng thể về các yếu tố chính quyết định thương mại, mà còn xác định tác
động của các chính sách cụ thể như BPPTQ hay FTA. Do đó, các nghiên cứu sau này
đã đưa vào mô hình cơ sở nhiều biến số hơn. Các biến bổ sung có thể được đưa vào
mô hình hầu như không có giới hạn (Ferrantino, 2006) như biến là thành viên của
Hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) (Aitken, 1973); yếu tố khoảng cách văn hóa về
ngôn ngữ (Boisso và Ferrantino, 1997, Noland, 2005), mạng lưới dân tộc (Rauch và
Trinidade, 2002); biến tỷ giá hối đoái đối với thương mại; Hơn nữa, các nhà nghiên
cứu đã đưa thêm các biến liên quan đến chính sách thương mại như thuế quan,
BPPTQ, sự hiện diện hay vắng mặt của các hiệp định thương mại tự do (FTA), tư
cách thành viên trong các tổ chức quốc tế, hay các thước đo về tự do kinh tế, chất
lượng thể chế, tính minh bạch hay tham nhũng cũng đã được sử dụng trong các mô
hình trọng lực (Ferrantino, 2006).
Anderson và Wincoop (2003) đã có đóng góp quan trọng trong việc củng cố
nền tảng lý thuyết cho mô hình lực hấp dẫn bằng cách phát triển mô hình lực hấp dẫn
cấu trúc. Nghiên cứu này dựa trên lý thuyết về hệ số co giãn thay thế không đổi của
Armington (Armington – CES), với giả định rằng hàng hóa được phân biệt theo
nguồn gốc xuất xứ và chịu tác động của hệ số co giãn thay thế.
Với việc đưa BPPTQ vào hệ thống biến của mô hình, mô hình trọng lực đã
được sử dụng phổ biến trong việc đánh giá tác động của BPPTQ đến thương mại quốc
tế (Bao và Qiu, 2010; Melo và cộng sự, 2014).
2.2.3. Phương pháp tiếp cận về giá: ước lượng tương tương thuế quan giá trị
Trong phương pháp ước lượng tương đương thuế quan giá trị (Ad Valorem
Equivalence – AVE) có hai cách tiếp cận về cách tính AVE tương ứng của các
BPPTQ. Một là, cách tiếp cận trực tiếp sẽ là đánh giá sự khác biệt về giá cả trước và
sau khi BPPTQ được áp dụng (Deardorff và Stern, 1997; Dean và cộng sự, 2009,
Rickard & Lei, 2011; Nimenya và cộng sự, 2012). Hai là phương pháp tính AVE gián
tiếp sử dụng độ co giãn của cầu nhập khẩu được phát triển bởi Kee và cộng sự (2009).
Thứ nhất, theo cách tiếp cận trực tiếp của phương pháp ước lượng AVE của
BPPTQ hay còn gọi là phương pháp nêm giá, dựa trên ước tính chênh lệch giữa giá
nhập khẩu và giá trong nước do BPPTQ gây ra do BBPTQ được cho là làm tăng mức
giá mà người tiêu dùng phải trả cao hơn mức giá mà lẽ ra phải trả (Ferrantino, 2006).
39
Từ sự chênh lệch về giá được tính toán này thì một mức thuế nhập khẩu tương đương
được khấu trừ. Mức chênh lệch giữa giá trong nước và giá nhập khẩu chính là do
BPPTQ tạo ra. Do đó, phương pháp này đánh giá tác động của BPPTQ gây ra tương
tự như tác động do thuế quan nhập khẩu gây ra. Phương pháp được đánh giá là tương
đối dễ thực hiện khi có sẵn giá trong nước và giá nhập khẩu của cùng một mặt hàng.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế như (1) bằng phương pháp này, các
nhà nghiên cứu mới chỉ lượng hóa được tác động của một số BPPTQ tác động đến
một sản phẩm cụ thể, nhưng chưa thể nói được tác động của từng BPPTQ hay việc
xác định các BPPTQ tác động lên sản phẩm đó; (2) nhiều mặt hàng nhập khẩu và
hàng sản xuất trong nước không có nhãn mác riêng khiến giá cả trên thị trường ngang
nhau; (3) Một nhược điểm khác của phương pháp này là không thể quan sát được giá
trong nước khi không có BPPTQ. Do đó, giá trong nước bị ảnh hưởng bởi các BPPTQ
thường được so sánh trực tiếp với giá quốc tế, bỏ qua tác động có thể có của sự khác
biệt về chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, các BPPTQ xảy ra ở các giai đoạn khác nhau
trong chuỗi cung ứng, trong đó tạo ra sự so sánh các mức giá khác nhau dọc theo
chuỗi sản xuất và phân phối (ví dụ như chi phí, bảo hiểm và vận chuyển (CIF), giao
hàng đã nộp thuế (DDP)) cho một sản phẩm là cần thiết. Và trong trường hợp các
BPPTQ bị cấm, không có mức giá nào có thể quan sát được (Grübler & Reiter, 2016);
(4) Thêm một hạn chế quan trọng của phương pháp này là khả năng thực hiện đối với
các ngành có quy mô lớn, dữ liệu quá lớn để có thể tổng hợp để xác định những khác
biệt cụ thể (Deardorff & Stern, 1997).
Thứ hai, ở một hướng khác, Kee và cộng sự (2009) đã gián tiếp tính toán AVE
của các BPPTQ theo cách tiếp cận hai bước. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đánh giá
tác động của các BPPTQ đối với giá trị nhập khẩu bằng mô hình trọng lực. Các kết
quả sau đó được chuyển đổi thành AVE sử dụng độ co giãn của cầu nhập khẩu, được
ước tính trước. Các tác giả đã chỉ rằng AVE trung bình của tất cả các sản phẩm bị
ảnh hưởng bởi BPPTQ là 45% và 32% khi tính theo giá trị nhập khẩu. Hơn nữa, kết
quả nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt lớn về AVE giữa các sản phẩm và quốc gia, với
AVE cao nhất được tìm thấy đối với các sản phẩm nông nghiệp và đối với các quốc
gia có thu nhập thấp ở Châu Phi. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu của Kee và cộng
sự (2009) là dựa trên mô hình cạnh tranh hoàn hảo, AVE chỉ nhận giá trị dương, nghĩa
là bằng cách sử dụng các tham số hạn chế, Kee và cộng sự (2009) đã buộc tất cả các
BPPTQ chỉ có tác động hạn chế nhập khẩu tương đương với thuế quan và hạn ngạch.
40
Tuy nhiên, các biện pháp phi thuế quan cũng có thể có tác động tạo thuận lợi cho
thương mại trong thực tế thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Beghin và cộng sự
(2014) đã ước tính lại phương pháp trọng lực được đề xuất bởi Kee và cộng sự (2009)
đối với các BPPTQ trong giai đoạn 2001 - 2003, cho phép các giá trị dương và âm
của AVE của BPPTQs. Kết quả chỉ ra rằng 12% tổng số sản phẩm ở cấp HS 6 chữ số
bị ảnh hưởng bởi các quy chuẩn kỹ thuật. Trong số đó, 39% có AVE âm, tức là
BPPTQ có tác động tạo thuận lợi cho nhập khẩu. Bratt (2014) kết luận rằng về tổng
thể, các biện pháp phi thuế quan có tác động cản trở hơn là tạo thuận lợi cho thương
mại, với AVE trung bình là 15,7%. Tuy nhiên, 46,1% trong tất cả các AVE được tính
toán có tác động tích cực đến thương mại. So sánh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu
và doanh nghiệp nhập khẩu ở các quốc gia có thu nhập khác nhau giữa lĩnh vực thực
phẩm và chế tạo, Bratt (2017) đã chỉ ra rằng AVE của các BPPTQ cao nhất đối với
các quốc gia thu nhập thấp trong cả hai lĩnh vực. Ngoài ra, Bratt (2017) cũng nhấn
mạnh rằng các BPPTQ tác động tới lĩnh vực thực phẩm nhiều hơn so với các BPPTQ
trong lĩnh vực sản xuất chế tạo.
Ưu điểm chính của phương pháp sử dụng mô hình lực hấp dẫn để gián tiếp suy
ra AVE so với phương pháp tiếp cận về giá trực tiếp (nêm giá, chênh lệch giá phía trên)
là mô hình lực hấp dẫn được sử dụng dựa trên dữ liệu thương mại phong phú hơn ở cấp
độ sản phẩm được phân tách rõ ràng so với dữ liệu về giá. Ngoài ra, mô hình lực hấp dẫn
cũng có thể được sử dụng để phân tích bảng số liệu mảng rộng cho một nhóm lớn các
quốc gia và sản phẩm với các BPPTQ khác nhau phát triển theo thời gian. Tuy nhiên,
cách suy ra AVE gián tiếp như Kee và cộng sự (2009) cũng có nhược điểm là không
phân biệt được chất lượng hàng nội với hàng ngoại, ảnh hưởng đến tác động của các
BPPTQ (nhược điểm giống như cách tính chênh lệch giá).
Ngoài ra, để đánh giá tác động của BPPTQ đối với thương mại, các nhà nghiên
cứu còn sử dụng mô hình cân bằng từng phần (PE) như Van Tongeren và cộng sự (2009);
Beghin và cộng sự (2012); mô hình cân bằng tổng thể (CGE) như Ganslandt và
Markkusen (2001), Yew và cộng sự (2020). Các tác giả đã làm rõ cả hai chiều hướng
tác động của các BPPTQ, bao gồm tác động tiêu cực và tác động tích cực. Đồng thời,
nghiên cứu cũng giải thích được cách thức BPPTQ có thể cản trở thương mại hoặc
thúc đẩy cầu của hai BPPTQ SPS và TBT, mặc dù mức độ ảnh hưởng thương mại có
thể khác nhau, trong nông nghiệp và đối với lĩnh vực thực phẩm, các biện pháp này
41
đang hạn chế mạnh mẽ thương mại.
2.3. Xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản
2.3.1. Quan niệm về hàng nông sản
Hiện nay, quan điểm về hàng nông sản trên thế giới vẫn chưa có sự thống nhất.
Theo định nghĩa của Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO), nông sản bao gồm các
sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp, có thể tồn tại dưới dạng thô hoặc đã qua chế
biến (không gồm nước, muối và các chất phụ gia). FAO phân chia nông sản thành
các nhóm sản phẩm cụ thể như nhóm nông sản nhiệt đới; nhóm thịt và các sản phẩm
từ thịt, nhóm dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu; nhóm sữa và các chế phẩm từ sữa,
nhóm nông sản nguyên liệu, nhóm rau quả.
Theo Hiệp định Nông nghiệp (AoA) của WTO, hàng nông sản được định nghĩa
trong mối liên quan đến Hệ thống hài hòa phân loại sản phẩm (HS). Theo đó, hàng
nông sản chính là các hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp, thuộc
Chương I đến Chương XXIV của Hệ thống thuế mã HS, trừ cá (HS03) và các sản
phẩm từ cá (HS16 gồm HS1604, HS1605). Như vậy, hàng hoá nông sản gồm các
mặt hàng hàng là sản phẩm từ nông nghiệp cơ bản và tất cả các mặt hàng có nguồn
gốc và được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp cơ bản.
Khác với quan điểm của WTO, pháp luật Việt Nam quy định “nông sản là sản
phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, diêm nghiệp” (Khoản 7 Điều
3 Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn). Như vậy, nông nghiệp theo quan điểm của Việt Nam được hiểu
theo nghĩa rộng nhưng các mặt hàng do ngành chế biến nông lâm thuỷ sản tạo ra lại
được xếp vào sản phẩm của ngành công nghiệp.
Hiện nay, quan niệm của WTO được các quốc gia áp dụng nhiều nhất. Phân
loại của WTO cũng là căn cứ để thống nhất quản lý hoạt động thương mại hàng nông
sản trên toàn thế giới một cách thống nhất theo hệ thống HS.
Trong các nghiên cứu khoa học, quan niệm về hàng nông sản của WTO cũng
được các nhà nghiên cứu trên thế giới áp dụng vì sự thuận tiện trong thu thập dữ liệu
nghiên cứu đồng bộ giữa các nước, từ đó đưa ra được nhưng đánh giá liên quan đến
thương mại nông sản một cách thống nhất và chính xác.
2.3.2. Quan niệm về xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu
nông sản
2.3.2.1. Xuất khẩu nông sản
Theo các học thuyết về thương mại quốc tế, khi quá trình phân công lao động
42
xã hội đạt đến một mức độ nhất định, chuyên môn hóa sản xuất sẽ diễn ra, góp phần
nâng cao năng suất. Kết quả là lượng hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều, không
chỉ đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tất yếu dẫn đến sự mở rộng
trao đổi hàng hóa ra ngoài phạm vi quốc gia. Theo Salvatore (2019), xuất khẩu là
hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các quốc gia khác trên
thế giới dưới hình thức mua bán thông qua các quan hệ thị trường nhằm mục đích thu
ngoại tệ. Như vậy, hoạt động xuất khẩu chính là hoạt động trao đổi hàng hoá vượt qua
biên giới của một quốc gia. Tương tự, trong pháp luật thương mại Việt Nam, “xuất
khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu
vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật” (khoản 1, điều 28, Luật Thương mại 2005).
Nông sản là một loại hàng hoá được mua bán, trao đổi, do đó, XKNS là
việc một quốc gia bán nông sản sang các quốc gia trên thế giới, nhằm mục đích
thu lợi nhuận.
Căn cứ vào các hình thức xuất khẩu nói chung, XKNS được thực hiện qua các
hình thức gồm xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu trung gian, xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập
tái xuất.
- Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức XKNS trong đó người mua và người bán
thiết lập quan hệ trực tiếp mà không qua trung gian. Quá trình này diễn ra thông qua
các phương thức như gặp gỡ trực tiếp, trao đổi thư tín hoặc các kênh liên lạc khác để
đàm phán về giá cả, điều kiện giao dịch và các thỏa thuận thương mại.
- Xuất khẩu trung gian (hình thức XKNS ủy thác): đây là hình thức bán hàng
nông sản thông qua nhân tố trung gian thứ ba, nhân tố trung gian thứ ba thường là
các đại lý, doanh nghiệp xuất nhập khẩu hay các doanh nghiệp vận tải. XKNS ủy thác
thường xảy ra khi người sản xuất nông sản không đủ điều kiện hoặc năng lực để xuất
khẩu nên trực tiếp ủy thác cho bên trung gian để tiến hành xuất khẩu. Phía bên được
ủy thác sẽ thu phí ủy thác từ hoạt động ủy thác này. Hình thức này khá phổ biến tại
các quốc gia đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng nông sản tại chỗ: là hình thức mà hàng nông sản được bán cho
người nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia của bên xuất khẩu. Đặc điểm của hình thức
này là bên xuất khẩu không cần phải tìm kiếm bên nhập khẩu mà ngược lại bên nhập
khẩu sẽ đến đàm phán trực tiếp với bên xuất khẩu. Với hình thức này tất cả các hoạt
43
động như hải quan, vận tải,… thường sẽ do bên nhập khẩu thực hiện.
- Tạm nhập tái xuất: Là hình thức xuất khẩu trở lại những hàng nông sản được
nhập từ nước khác chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Thương mại nông sản nói chung và XKNS nói riêng luôn đóng một vai trò quan
trọng đối với an ninh lương thực toàn cầu, bằng cách đảm bảo rằng thâm hụt lương
thực tạm thời hoặc kéo dài do khí hậu bất lợi và các điều kiện khác từ thị trường thế
giới có thể được đáp ứng. Thương mại nông sản ở nhiều nước là một phần quan trọng
của hoạt động kinh tế nói chung và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp của quốc gia như: (i) Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế; (ii) Mở
rộng thị trường xuất khẩu (iii) Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế (iv) Góp phần giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các tầng lớp dân cư (v)
Góp phần giúp hội nhập sâu rộng vào hoạt động kinh tế quốc tế và tăng cường quan
hệ đối ngoại với các nước.
Hơn nữa, mặt hàng nông sản có những đặc điểm riêng biệt khiến nó khác biệt
so với các loại hàng hóa khác trong hoạt động xuất khẩu. Trước tiên, nông sản thường
là hàng hóa có tính chất thời vụ cao, phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất và điều kiện thời
tiết. Điều này dẫn đến nguồn cung không ổn định và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
ngoại cảnh như thiên tai hay biến đổi khí hậu. Thứ hai, nông sản là loại hàng hóa có
tính dễ hư hỏng, đòi hỏi phải có các biện pháp bảo quản và vận chuyển đặc biệt như
kho lạnh hay đóng gói phù hợp để duy trì chất lượng. Ngoài ra, nông sản thường
mang tính chất thô sơ, giá trị gia tăng thấp nếu không qua chế biến, điều này khiến
giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng nguyên liệu thô và thị trường tiêu
thụ. Cuối cùng, các quy định về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và
truy xuất nguồn gốc là những rào cản kỹ thuật đặc thù trong XKNS, đòi hỏi nhà xuất
khẩu phải tuân thủ nghiêm ngặt để đáp ứng yêu cầu của các thị trường quốc tế. Những
đặc điểm này tạo nên sự khác biệt lớn của hàng nông sản so với các mặt hàng công
nghiệp hay dịch vụ khác trong thương mại quốc tế, yêu cầu các doanh nghiệp và quốc
gia XKNS phải đầu tư vào công nghệ bảo quản, chế biến và đáp ứng các tiêu chuẩn
quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.3.2.2. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản
Hoạt động XKNS là hoạt động mua bán nông sản giữa hai quốc gia, trong đó,
bên bán là quốc gia xuất khẩu và bên mua là quốc gia nhập khẩu. Do đó, xác định các
44
yếu tố tác động đến XKNS là xác định tất cả các yếu tố tác động tới xuất khẩu của
quốc gia bán và các yếu tố tác động tới nhập khẩu của quốc gia mua. Các lý thuyết
của Anderson (1979), Eaton và Kortum (2002), và Chaney (2008); Melitz và cộng sự
(2008) đã cho thấy rằng các hoạt động thương mại của hai quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng
của 3 nhóm yếu gồm các yếu tố tác động từ phía cầu nhập khẩu, các yếu tố tác động
từ phía cung xuất khẩu và các yếu tố hấp dẫn hoặc cản trở thương mại. Hoạt động
XKNS cũng là một hoạt động thương mại quốc tế; do đó, về mặt lý thuyết chung,
hoạt động XKNS cũng chịu tác động của 3 nhóm yếu tố này. Hình 2.1 minh hoạ các
nhóm yếu tố tác động đến XKNS.
Hình 2.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu
• Nhóm yếu tố tác động từ phía cung tác động đến XKNS
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Nhóm yếu tố từ phía cung đánh giá năng lực, quy mô sản xuất và XKNS
bao gồm các yếu tố như sự phát triển của nền kinh tế trong nước thể hiện quy mô
và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (đại diện bởi GDP hoặc GDP bình quân đầu
người), quy mô dân số, tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp, diện tích
đất nông nghiệp.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của nước xuất khẩu
45
Quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế được đại diện bởi GDP hoặc GDP
bình quân đầu người GDP là một chỉ số đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc
gia trong một khoảng thời gian nhất định. Khi GDP tăng cao, có nghĩa là nền kinh tế
đang tăng trưởng, sản lượng và thu nhập của người dân đều tăng lên. Ngược lại, khi
GDP giảm thấp, có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái, sản lượng và thu nhập của
người dân đều giảm đi. Kinh tế tăng trưởng sẽ thúc đẩy sản xuất và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực, tăng năng suất lao động và lợi nhuận cho doanh nghiệp, khuyến khích
sự đầu tư vào công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, mở rộng và đa dạng hóa
thị trường, giảm rủi ro và gia tăng cạnh tranh cho các sản phẩm của quốc gia, nâng
cao uy tín và hình ảnh của quốc gia trên thị trường quốc tế, góp phần xây dựng quan
hệ hợp tác và hữu nghị với các nước đối tác, thúc đẩy xuất khẩu.
Như vậy, quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thường có tác động
cùng chiều với xuất khẩu. Tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, góp phần đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Một
quốc gia có quy mô và tốc độ tăng trưởng tốt tạo điều kiện góp phần nâng cao năng
lực sản xuất và phát triển các ngành công nghiệp, trong đó có ngành nông sản. Đây
là yếu tố then chốt để nâng cấp thành phần các sản phẩm xuất khẩu. Thực tiễn đã
chứng minh rằng một quốc gia có nền tảng công nghiệp mạnh mẽ sẽ thúc đẩy sản
xuất và xuất khẩu hàng hóa.
- Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực hay tỷ lệ dân số lao động trong ngành
nông nghiệp
Quy mô dân số tác động đến kim ngạch xuất khẩu, đại diện cho quy mô lao
động và quy mô thị trường thông qua quy mô sản xuất của nước xuất khẩu. Đây là
một yếu tố quan trọng đối với xuất khẩu. Theo lý thuyết Heckscher-Ohlin, nếu một
nền kinh tế có lợi thế tốt về nguồn lực nào thì sẽ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa
chuyên sâu về nguồn lực đó. Ngành nông sản có đặc trưng là sử dụng nhiều lao động;
ngành nông sản thâm dụnng về lao động, do đó, lao động là yếu tố quan trọng trong
ngành. Một quốc gia có quy mô dân số lớn sẽ có khả năng tăng cung ứng nguồn lao
động ra thị trường, từ đó tăng lao động sản xuất và lượng xuất khẩu. Đồng thời, nguồn
nhân lực có kỹ năng và trình độ cao là yếu tố cốt lõi để đạt được chất lượng sản phẩm
mong muốn và giảm giá thành sản xuất. Kỹ năng kỹ thuật cao không chỉ giúp tối ưu
hóa quy trình sản xuất thông qua việc giảm thiểu lỗi và tăng hiệu suất làm việc, mà
còn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng. Điều này đặc biệt
46
quan trọng trong ngành nông sản.
- Diện tích đất nông nghiệp
Lý thuyết Heckscher-Ohlin, một phần của lý thuyết tài nguyên và thương mại
quốc tế, tập trung vào vai trò của tài nguyên và nhân công trong quá trình quyết định
thương mại. Theo Heckscher-Ohlin, quỹ đất nông nghiệp có sẵn trong một quốc gia
sẽ ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của quốc gia đó trong việc sản xuất và XKNS.
Nếu một quốc gia có tỷ lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất cao, điều
này có thể gợi ý rằng quốc gia đó có một lợi thế so sánh trong việc sản xuất nông sản.
Lý do là quỹ đất nông nghiệp đủ lớn có thể hỗ trợ sản xuất nông sản với giá thành
thấp hơn. Khi có lợi thế về giá thành, quốc gia có thể sản xuất nông sản với chi phí
thấp hơn và có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp tỷ
lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất của một quốc gia thấp hơn, điều này có thể
ảnh hưởng đến khả năng XKNS của quốc gia đó. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp
thấp không đồng nghĩa là một trở ngại đối với việc XKNS. Các quốc gia có thể sử
dụng tài nguyên khác như nhân công hoặc vốn đầu tư để nâng cao năng suất và hiệu
• Nhóm yếu tố tác động từ phía cầu tác động đến XKNS
suất trong nông nghiệp.
Nhóm yếu tố từ phía cầu đánh giá năng lực, quy mô nhập khẩu, nhu cầu tiêu
thụ nông sản của nước nhập khẩu bao gồm các yếu tố như sự phát triển của nền kinh
tế trong nước thể hiện quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (đại diện bởi
GDP hoặc GDP bình quân đầu người), quy mô dân số, tỷ lệ dân số lao động trong
ngành nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp, thị hiếu người tiêu dùng (đại diện bởi
yếu tố văn hoá).
- Quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: đây là yếu tố thể hiện khả năng
tiêu thụ của nước nhập khẩu và thu nhập của người dân nước nhập khẩu. Nếu quy mô
nền kinh tế (GDP) càng lớn thì thu nhập bình quân đầu người càng tăng, điều đó cho
thấy người dân có thu nhập tốt thì sẽ gia tăng nhu cầu tiêu dùng, từ đó gia tăng lượng
nhập khẩu. Nên các quốc gia xuất khẩu có thể gia tăng nguồn cung ứng xuất khẩu
của mình vào quốc gia nhập khẩu.
- Quy mô dân số của nước nhập khẩu: Dân số nước nhập khẩu thể hiện quy mô
thị trường nhập khẩu. Theo lý thuyết thì dân số nước nhập khẩu càng nhiều khả năng
nhập khẩu càng nhiều và từ đó sẽ càng làm lượng tăng xuất khẩu của nước xuất khẩu.
Đặc biệt là trong lĩnh vực nông sản là mặt hàng thiết yếu, dân số càng lớn thì nhu cầu
47
về nông sản, thực phẩm càng lớn.
- Tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp: Khi nước nhập khẩu có tỷ lệ dân
số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp nhỏ có thể dẫn đến sản lượng nguồn cung nông
sản trong nước nhỏ, từ đó thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu để đáp ứng đủ lương thực, thực
phẩm và tác động tích cực đến xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào tỷ lệ lao động
trong ngành nhỏ cũng đồng nghĩa với năng suất và sản lượng không cao. Có những quốc
gia với trình độ khoa học kĩ thuật cao, cơ giới hoá trong nông nghiệp tốt thì dẫn đến năng
suất và chất lượng vẫn cao, từ đó sẽ hạn chế lượng nhập khẩu.
- Tỷ lệ đất nông nghiệp: Nước nhập khẩu nông sản mà có diện tích đất nông
nghiệp nhỏ, sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều các mặt hàng nông sản hơn là các quốc
gia có tỷ lệ đất nông nghiệp lớn.
- Thị hiếu người tiêu dùng: Đây cũng là một yếu tố quan trọng. Người tiêu dùng
thường sẽ lựa chọn sản phẩm theo văn hoá, sở thích ẩm thực, ý thức bảo vệ môi
trường,… Vì nông sản là mặt hàng thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con
người nên người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đế chất lượng sản phẩm như thành phần,
nguồn gốc của sản phẩm,… Do đó, chất lượng và thương hiệu nông sản đáp ứng được
các yêu cầu thị hiếu người tiêu dùng thì sẽ tác động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu
và ngược lại. Do đó, trước khi XKNS sang một quốc gia, doanh nghiệp xuất khẩu cần
• Nhóm yếu tố cản trở/hấp dẫn thương mại nông sản
tìm hiểu kĩ thị hiếu người tiêu dùng.
Nhóm yếu tố cản trở/hấp dẫn XKNS bao gồm các yếu tố về tự nhiên (khoảng
cách địa lý giữa hai quốc gia, chung đường biên giới quốc gia), chính sách thương
mại quốc tế của quốc gia như chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan, chính
- Các yếu tố về tự nhiên:
sách tỷ giá hối đoái.
Khoảng cách giữa hai quốc gia là một yếu tố cơ bản trong mô hình trọng lực
hấp dẫn khi nghiên cứu về thương mại hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói
riêng. Khoảng cách chính là đại diện cho chi phí vận chuyển và giao dịch giữa hai
quốc gia; khoảng cách càng xa thì chi phí vận chuyển càng lớn, tác động tiêu cực đến
dòng thương mại khi làm tăng chi phí biến đổi của sản phẩm. Khoảng cách đã được
chứng minh là tỷ lệ nghịch với kim ngạch xuất khẩu. Đây là yếu tố cản trở thương
mại (Tinbergen, 1962; Poyhonen, 1963; Anderson và Wincoop, 2003). Do đó, các
quốc gia thường có xu hướng có quan hệ thương mại với các quốc gia láng giềng, có
48
chung đường biên giới quốc gia hơn với các quốc gia có khoảng cách xa.
- Chính sách thuế quan:
Thuế quan là một trong các công cụ chính sách quan trọng trong thương mại
quốc tế. Các quốc gia thường sử dụng công cụ thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu
nhằm mục bảo hộ doanh nghiệp nội địa, giúp cho hàng hoá nội địa có năng lực cạnh
tranh hơn đối với hàng ngoại nhập vì giá của hàng nhập khẩu khi bị áp thuế quan sẽ
cao hơn so với hàng nội địa. Thuế quan sẽ được các doanh nghiệp tính toán và đưa
vào chi phí biến đổi của doanh nghiệp và tính vào cấu thành giá sản phẩm bán ra. Vì
vậy, thuế quan sẽ có ảnh hưởng lớn đến đến lượng hàng xuất khẩu.
Thông qua các lý thuyết về đánh giá tác động của thuế quan, thuế quan có thể
tác động khác nhau đối với các chủ thể khác nhau trong một quốc gia; tuy nhiên, về
lâu về dài, thuế quan luôn có tác động tiêu cực, gây tổn thất đối với lợi ích của người
tiêu dùng và lợi ích tổng thể của xã hội. Do đó, WTO luôn khuyến nghị với các quốc
gia thực hiện chính sách giảm bớt, hướng tới xoá bỏ thuế quan, giúp cho thương mại
tự do hơn. Thực tiễn thương mại quốc tế đã chứng minh rằng thuế quan trung bình
của thế giới đã giảm rất nhiều trong nhiều thập kỷ trong xu hướng toàn cầu hoá và
khu vực hoá nền kinh tế thế giới khi các quốc gia đã ký kết hàng loạt cácFTA. Thuế
quan theo các cam kết trong các FTA đối với hàng nông sản đang được cắt giảm,
thậm chí về 0%. Do đó, thuế quan giảm sẽ thúc đẩy XKNS.
- Chính sách phi thuế quan:
Trong khi thuế quan có xu hướng giảm nhưng các BPPTQ lại có xu hướng ngày càng
tăng lên. Đặc biệt đối với hàng nông sản là một mặt hàng mà yêu cầu về xuất xứ, các
yêu cầu về kĩ thuật trong thương mại, bảo vệ môi trường, lao động,…hiện nay đang
rất được quan tâm. Các BPPTQ có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực thương mại
nông sản. Nếu các quốc gia xuất khẩu có thể đáp ứng tốt các quy định về các BPPTQ
thì về lâu dài sẽ mang đến các tác động tích cực, thúc đầy xuất khẩu bền vững; ngược
lại, các BPPTQ sẽ là nhân tố kìm hãm XKNS.
- Chính sách về tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ. Mục tiêu thực
hiện các chính sách tỷ giá hối đoái của một quốc gia là kiểm soát lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu,
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,… Đối với hoạt động xuất khẩu nói chung và XKNS
49
nói riêng, tỷ giá hối đoái có thể mang đến tác động tích cực hoặc tiêu cực. Khi tỷ giá hối
đoái thấp, đồng nghĩa với giá trị đồng nội tệ cao sẽ khiến cho giá cả hàng hóa xuất khẩu
tăng cao hơn so với giá hàng hóa của nước nhập khẩu. Do đó, hàng nông sản xuất khẩu
bị giảm năng lực canh tranh, hạn chế người mua, từ đó dẫn đến XKNS bị giảm sút.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái cao, giá trị đồng nội tệ thấp sẽ làm cho giá cả hàng nông
sản xuất khẩu thấp hơn hàng hóa của các quốc gia khác, làm tăng khả năng cạnh tranh;
thúc đẩy sản lượng tiêu thụ của nước nhập khẩu; từ đó thúc đẩy XKNS. Do đó, các quốc
gia cần phải có những chính sách phù hợp trong quá trình điều tiết công cụ tỷ giá hối
đoái trong các giai đoạn lịch sử.
- Các chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế:
Xu hướng của các quốc gia hiện nay là tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế
quốc tế thế giới và khu vực, đặc biệt thông qua việc ký kết các FTA thế hệ mới đã
tạo ra những cơ hội lớn đặc biệt là các ưu đãi về thuế quan đã giúp các doanh nghiệp
mở rộng thị trường, từ đó thúc đẩy phát triển XKNS. Bên cạnh đó, các FTA giúp cải
thiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu từ các nước. Tuy nhiên, các quy định về xuất
xứ, hàng rào kỹ thuật, các điều khoản về lao động, môi trường quy định trong các
FTA cũng có thể tạo ra các thách thức lớn các quốc gia XKNS do chưa đủ điều kiện
đáp ứng được các quy định. Điều này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới XKNS.
- Chính sách về thu hút đầu tư vào ngành nông sản:
Đầu tư nước ngoài là nguồn lực tài chính quan trọng trong phát triển sản xuất,
từ đó có thể tác động làm gia tăng XKNS. Ngoài ra, việc thu hút được nguồn lực này
cũng gián tiếp làm tăng mặt bằng khoa học công nghệ của quốc gia và từ đó có ảnh
hưởng tốt đến việc tăng năng suất và khả năng XKNS.
Như vậy, thông qua phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động XKNS có thể
thấy, cả ba nhóm yếu tố trên đều đóng vai trò rất quan trọng. Các nhân tố trên vừa có
tác động hút (nước nhập khẩu) và cũng có tác động đẩy (nước xuất khẩu) khiến hoạt
động thương mại giữa các quốc gia có thể được thúc đẩy hoặc bị hạn chế. Do đó, để
giúp các hoạt động XKNS được thúc đẩy, các quốc gia xuất khẩu cần nghiên cứu kĩ
lưỡng các nhóm yếu tố này để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy
hoạt động XKNS.
2.4. Lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản
2.4.1. Minh hoạ về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu
BPPTQ là những công cụ chính thương mại phức tạp. Các BPPTQ hoạt động
50
thông qua nhiều kênh ảnh hưởng và có nhiều tác động không chỉ đối với thương mại
mà còn đối với phúc lợi và phân phối thu nhập. Tác động của các BPPQT cũng có
thể tương tác với cấu trúc thị trường vì các BPPTQ có thể phân khúc thị trường và
tạo ra sức mạnh thị trường (Fugazza, 2013). Các nhà nghiên cứu thường lựa chọn
cách tiếp cận trực tiếp thông qua việc đo lường những thay đổi về giá cả hay khối
lượng hàng hoá trên thị trường để đánh giá tác động của các BPPTQ.
Tác động thương mại của các BPPTQ có thể nghiên cứu thông qua dịch
chuyển của đường cung và cầu. Fugazza (2013) đã minh hoạ tác động của các BPPTQ
đối với giá cả và số lượng giao dịch. Các BPPTQ ảnh hưởng đến số lượng (q) và giá
cả (p) được giao dịch và thực hiện các BPPTQ dẫn đến sự dịch chuyển nhu cầu cho
những thay đổi trong chi phí và hành vi tiêu dùng.
Đầu tiên, Fugazza (2013) đã xem xét tác động của nội địa hóa đến người tiêu
dùng không phụ thuộc vào việc thực hiện BPPTQ hay không (Hình 2.2). Với giả định
trong một thị trường với một hàng hóa, hàng hóa và thị trường đồng nhất (các loại
hàng hóa có thể thay thế hoàn hảo cho nhau). Cầu bắt đầu có dạng hàm sở thích bậc
hai: hàm này ngụ ý rằng sự hài lòng từ tiêu dùng tăng với tốc độ giảm dần làm phát
sinh mối quan hệ tuyến tính giữa giá và lượng cầu. Cung trong và ngoài nước từ hàm
chi phí sản xuất bậc hai: S là tổng nguồn cung (trong và ngoài nước), SF là nguồn
cung nước ngoài. Đường cầu dịch chuyển sang trái (từ D sang D’) dẫn đến nhu cầu
và giá giảm dịch chuyển từ qA sang qA′ (do nhập khẩu giảm), và pA sang p ′; lúc này
điểm cân bằng mới chuyển từ A ′sang A1.
Trong khi đó, các nhà sản xuất nước ngoài khi muốn thực hiện tuân thủ các
BPPTQ sẽ phải mất các chi phí sản xuất, khiên cho nguồn cung bị giảm (Hình 2.3).
Đường cung lúc này sẽ dịch chuyển từ SF′ sang SF′′. Sau khi thực hiện các BPPTQ,
giá trong nước tăng (từ pA′ lên pA′′), nhập khẩu giảm, do đó tiêu dùng trong nước
cũng giảm (chuyển từ pA′ sang pA′′ ). So với trạng thái cân bằng ban đầu (A1), tác
động tổng thể của việc nội địa hóa tác hại chi phí và thực hiện các BPPTQ là làm
giảm lượng tiêu thụ, dịch chuyển từ qA′′ xuống qA và tác động vô thời hạn đến giá
51
cân bằng (Fugazza, 2013).
Hình 2.2. Cung và cầu thay đổi do thực
Hình 2.3. Cung và cầu thay đổi do thực
hiện các BPPTQ (Nội địa hoá chi phi phí hiện các BPPTQ (Áp dụng tiêu chuẩn
thiệt hại) chung)
Nguồn: Fugazza (2013)
Như vậy, tác động của các BPPTQ đến XKNS mang những đặc điểm chung
của tác động của BPPTQ đối với tất cả các ngành hàng trong thương mại quốc tế, bao
gồm cả tác động tích cực và tác động tiêu cực.
2.4.2. Tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản
Các nhà nghiên cứu như Salvatore (2019) đã đánh giá các tác động của một số
BPPTQ truyền thống như hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp
xuất khẩu,... tới dòng thương mại. bằng phương pháp phân tích mô hình đường cung
cầu thị trường Salvatore (2019) đã đánh giá tác động của hạn ngạch nhập khẩu và so
sánh biện pháp này với thuế nhập khẩu. Kết quả chỉ ra rằng việc áp dụng hạn ngạch
nhập khẩu đối với một hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có thể làm tăng giá hàng
hóa ở thị trường nội địa, từ đó làm giảm lượng hàng nhập khẩu, giúp sản xuất nội địa
được thúc đẩy. Đồng thời, hạn ngạch nhập khẩu sẽ khiến cho giá cả hàng hóa tăng
nhiều hơn khi so sánh với một mức thuế quan gây ra sự tăng giá tương ứng nếu có sự
thay đổi tăng của cầu trong nước.
Krugman & cộng sự (2012) lại chỉ ra rằng hạn chế xuất khẩu tự nguyện
(voluntary export restraint – VER) cũng có tác động đến giá cả và khối lượng hàng
hóa thương mại quốc tế, tuy nhiên chi phí để thực hiện VER lại cao hơn so với việc
thực hiện một hàng rào thuế quan mang đến tác động tương đương.
52
Như vậy, tác động tiêu cực của các BPPTQ đến xuất khẩu bao gồm:
Thứ nhất, BPPTQ có thể làm cho lượng hàng hoá xuất khẩu bị giảm đi. Tác
động này xuất phát từ mục đích áp dụng BPPTQ ban đầu của các quốc gia nhập khẩu
là muốn bảo hộ sản xuất nội địa, tạo ra các rào cản đối với hàng hoá nước ngoài. Với
những tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh tiên tiến, cùng với các biện pháp hết sức khắt
khe, để vượt qua các rào cản kỹ thuật đối với các nước đang phát triển là một thách
thức lớn, bên cạnh đó những tiêu chuẩn này lại thường xuyên thay đổi và nâng cao.
Chính vì vậy, BPPTQ sẽ có những tác động cản trở đối với nước xuất khẩu, gây khó
khăn đến việc xuất khẩu và làm giảm tổng kim ngạch XKNS.
Thứ hai, BPPTQ làm cho giá cả của hàng hoá xuất khẩu vào thị trường nhập
khẩu cao lên và giảm lợi nhuận của các doanh nghiêp của nước xuất khẩu vì các chi
phí cho việc đáp ứng các BPPTQ tăng lên như chi phí sản xuất, quản lý, chi phí chứng
minh sự phù hợp,... Nếu các doanh nghiệp xuất khẩu muốn đáp ứng được các quy
định liên quan đến các BPPTQ như về chất lượng, đóng gói, ghi nhãn, kiểm định,
chứng nhận… thì cần đầu tư vào máy móc, thiết bị, quy trình quản lý và công nghệ.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể bị kiện do tranh chấp trong thương mại quốc tế
dẫn đến phải chịu thêm các chi phí phán quyết bất lợi, chi phí theo kiện, kháng kiện…
Những chi phí trên tăng lên sẽ làm cho lợi nhuận cũng sẽ bị giảm đi.
Thứ ba, BPPTQ là thay đổi độ co giãn của cầu hàng hoá. Đây là một tác động
rất quan trọng của BPPTQ khi mà giá cả hàng hoá khi xuất khẩu sang thị trường nhập
khẩu thay đổi, dẫn đến hành vi của người tiêu dùng lại thị trường nhập khẩu cũng
thay đổi theo.
Thứ tư, các BPPTQ làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước xuất
khẩu. Lý do bởi chi phí tăng dẫn tới các doanh nghiệp xuất khẩu phải tăng giá bán,
điều này làm giảm năng lực cạnh tranh so với các mặt hàng tương tự ở nước nhập
khẩu. Ngoài ra, khi áp những BPPTQ lên các mặt hàng xuất khẩu sẽ gây ra tâm lý e
ngại cho doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng đó.
Thứ năm, bên cạnh những tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu
đã đề cập trên thì các BPPTQ còn gián tiếp ảnh hưởng tới người lao động trong các
ngành sản xuất xuất khẩu, gây xáo trộn đời sống người sản xuất do doanh nghiệp phải
thường xem xét tới chuyển hướng sang thị trường khác do gặp nhiều khó khăn bởi
các BPPTQ.
Thứ sáu, BPPTQ tác động tới chi phí phúc lợi do sự thay đổi về giá và độ co
giãn đối với cầu nhập khẩu, thặng dư sản xuất và tiêu dùng của quốc gia nhập khẩu
áp dụng các BPPTQ sẽ bị thay đổi và từ đó sẽ khiến phúc lợi trên toàn thị trường thay
53
đổi theo.
Thứ bảy, bên cạnh các chi phí liên quan tới thị trường, BPPTQ còn tác động
đến chi phí cho các nguồn lực như chi phí thực thi, quản lý, giám sát thực hiện các
BPPTQ. Việc đo lường hay ước lượng để đánh giá tác động đến chi phí này được
đánh giá là rất khó khăn.
2.4.3. Tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản
Mặc dù nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng BPPTQ đã và đang trở thành rào cản của
thương mại quốc tế, gây ra nhiều tác động tiêu cực tới xuất khẩu hàng hoá của các
quốc gia, tuy nhiên, trên phương diện cơ sở lý luận, cũng có nhiều tác động tích cực
được nhìn thấy khi các BPPTQ được áp dụng.
- Thúc đẩy thương mại: Việc các quốc gia áp dụng nhiều BPPTQ không phải
là các rảo cản, dù có thể mang lại tác động tiêu cực nhưng vẫn mang lại những tác
động tích cực. Ví dụ như khi có sự khác biệt về các quy định về tiêu chuẩn như tiêu
chuẩn chất lượng tối thiểu thì sẽ giúp làm tăng lòng tin của người tiêu dùng, giảm chi
phí giao dịch và thúc đẩy thương mại (Grübler và Reiter, 2016).
- Những khó khăn do các BPPTQ gây ra sẽ tạo động lực cho nước xuất khẩu
nâng cao nhận thức trong thương mại quốc tế, sẵn sàng đáp ứng với các quy định và
tiếp tục xuất khẩu sang thị trường của nước đối tác; thúc đẩy các doanh nghiệp xuất
khẩu chủ động tìm hiểu luật, quy định, quy tắc của nước nhập khẩu.
- Những quy định khắt khe từ nước đối tác sẽ tạo động lực cho các doanh
nghiệp xuất khẩu nâng cao chất lượng, đổi mới kỹ thuật, công nghệ và nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhờ đó chất lượng sản phẩm sẽ ngày được tăng lên.
Hơn nữa, các nhà sản xuất và xuất khẩu có năng lực khác nhau để đáp ứng với các
BPPTQ mới, điều đó dẫn đến việc tăng tính cạnh tranh trong nước; do đó, thúc đẩy
doanh nghiệp xuất khẩu tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng hàng hóa vượt qua
các BPPTQ, tăng năng lực cạnh trạnh cho doanh nghiệp trong nước.
- Các BPPTQ có thể ảnh hưởng tích cực đến vấn đề bảo vệ môi trường. Các
BPPTQ đặc biệt là nhóm biện pháp về kỹ thuật đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ
môi trường. Khi áp dụng một biện pháp kỹ thuật về môi trường trong thương mại cần
xem xét các yếu tố: Mục tiêu hướng đến có thực sự nhằm bảo vệ môi trường không;
Có cách thức nào khác để đạt được mục đích đó với hiệu quả tương đương không;
Các bằng chứng hoặc nghiên cứu khoa học đối với yêu cầu về việc áp dụng biện pháp
môi trường đó, ảnh hưởng cụ thể của nhóm sản phẩm bị áp dụng biện pháp môi
54
trường, từ đó có tác động tích cực tới bảo vệ môi trường.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, nghiên cứu hệ thống hoá và củng cố thêm cơ sở lý luận của
BPPTQ nhằm tạo một nền tảng vững chắc để phát triển các nghiên cứu nhằm đánh
giá tác động của BPPTQ đến XKNS. Các cơ sở lý luận được nghiên cứu gồm:
- Cơ sở lý luận về BPPTQ (từ các quan niệm, phân loại đến nhận thức về vai
trò của BPPTQ đối với XKNS đến các phương pháp đo lường mức độ tác động của
các BPPTQ);
- Lý luận về xuất khẩu và các nhân tố tác động đến XKNS;
- Lý luận về tác động của các BPPTQ đến XKNS;
Thông qua việc hệ thống và củng cố cơ sở lý luận và thực tiễn này có thể thấy
BPPTQ là một trong các yêu tố quan trọng nhất đại diện cho chính sách thương mại
của các quốc gia và có tác động trực tiếp đến XNKS của một quốc gia. Đây sẽ là cơ
sở lý luận vững chắc để tác giả thực hiện xây dựng mô hình nghiên cứu và lựa chọn
phương pháp nghiên cứu phù hợp để đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối
55
với XKNS Việt Nam.
CHƯƠNG 3. KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu và khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp
phi thuế quan đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU
3.1.1. Quy trình nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo quy trình được minh hoạ ở Hình 3.1.
Hình 3.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu
56
Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp
3.1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với
xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU
Nghiên cứu tác động của các BPPTQ đến hoạt động XKNS của Việt Nam sang
EU được đặt trong mối quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Tác giả thực hiện
xây dựng khung nghiên cứu dựa trên các nền tảng lý thuyết thương mại quốc tế mà
các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra. Bắt nguồn từ các học thuyết thương mại cổ
điển và tân cổ điển như học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1895), thuyết
thương mại dựa trên nguồn lực của Heckscher (1919) và Ohlin (1933), hay lý thuyết
thương mại mới của Krugman (1980) đã lý giải cơ sở, nguồn gốc, lợi ích của thương
mại quốc tế và các cách thức tham gia thương mại quốc tế của các quốc gia.
Đối với khung tác động của BPPTQ đến XKNS, nghiên cứu kế thừa cơ sở lý
thuyết trong nghiên cứu của Disdier và Marette (2010) và Fugazza (2013) về tác động
của biện pháp SPS và TBT đến giá cả và lượng hàng hoá thương mại. Theo Fugazza
(2013), các BPPTQ có thể tác tác động đến sự thay đổi của đường cung và đường cầu
trên thị trường do để hàng hoá đáp ứng được các quy định của các BPPTQ của thị
trường nhập khẩu thì cần chi phí để đáp ứng, các chi phí này sẽ được tính vào cả các
chi phí biến đổi và chi phí cố định của doanh nghiệp. Từ đó, gây ảnh hưởng tới giá
cả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dẫn đến sự thay đổi trong lượng hàng hoá
xuất khẩu. Mặt khác, trong trường hợp các BPPTQ có các tác động tích cực đến việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, khiến cho sản phẩm chiếm được lòng tin của người
tiêu dùng thì khi đó đường cầu cũng sữ được dịch chuyển và cũng làm biến đổi lượng
nhập khẩu (Disdier và Marette, 2010).
Do đó, dựa trên cơ sở lý luận về các yếu tố tác động đến XKNS đã đề cập ở
Chương 2, nghiên cứu phân tích 02 nhóm các nhân tố tác động đến kim ngạch XKNS
của Việt Nam sang EU gồm: (1) Nhóm nhân tố đại diện cho chính sách thương mại
thúc đẩy/cản trở thương mại; (2) Nhóm nhân tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và
Việt Nam mà có thể tác động đến XKNS của Việt (từ phía cung) và tác động đến
nhập khẩu nông sản của EU (từ phía cầu). Khung nghiên cứu tác động của các BPPTQ
57
đối với XKNS Việt Nam sang EU được mô tả qua Hình 3.2.
Hình 3.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối
với hàng nông sản xuất khẩu
*Chú thích: (1): Disdier và Maretter (2010), Nicita và Gourdon (2013), Cadot và cộng sự (2018). (2): Disdier và cộng sự (2008), Cadot và cộng sự (2018). (3): Hiệu ứng Marshall-Lerner, Krugman và Maurice (1994), (4), (5): Tinbergen (1962), Poyhonen (1963), Anderson và Wincoop (2003), Disdier và cộng sự (2008). (6) Lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo (1817). (7) Ricardo (1817). (8) Lý thuyết Heckscher (1919) và Ohlin (1933).
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên kế thừa các nghiên cứu*
3.1.2.1. Nhóm các nhân tố đại diện chính sách thúc đẩy/cản trở thương mại
58
Thông qua việc tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến XKNS cho
thấy các BPPTQ được cho một trong các nhân tố quan trọng tác động đến XKNS.
Bên cạnh đó, nghiên cứu lựa chọn đưa vào ba chính sách được các quốc gia áp dụng
trong quá trình điều tiết thương mại đó là thuế quan, các BPPTQ và tỷ giá hối đoái.
- Thứ nhất, về các chính sách về thuế quan
Trong thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU, thuế quan cũng là một
trong các yếu tố tác động mạnh đến khả năng XKNS của Việt Nam, đặc biệt là giai
đoạn trước năm 2020 vì thuế quan tác làm tác động tới thu nhập khả dụng của người
tiêu dùng nước ngoài, khiến cho nhu cầu hàng nhập khẩu giảm nên làm giảm xuất
khẩu của Việt Nam. Từ tháng 8 năm 2020, khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, nhiều
nhóm mặt hàng nông sản của Việt Nam đã được cắt giảm hoặc xoá bỏ thuế quan. Tuy
nhiên, thuế quan vẫn có tác động tiêu cực, cản trở đối với xuất khẩu hàng hoá nói
chung và XKNS nói riêng. Nghiên cứu vẫn đưa biến thuế quan vào đánh giá tác động
vì phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là 2012-2023; do đó, trước năm 2020 thì
thuế quan vẫn là một yếu tố tác động mạnh tới XKNS sang EU.
- Thứ hai, về các chính sách về các BPPTQ
Căn cứ vào lý luận các yếu tố tác động đến XKNS ở chương 2, nếu như thuế
quan có xu hướng giảm thì BPPTQ lại có xu hướng được các quốc gia sử dụng ngày
càng phổ biến. đặc biệt là trong tình hình thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa bảo
hộ đã quay lại ngày càng mạnh mẽ. Các BPPTQ với nhiều hình thức áp dụng và tác
động khó dự đoán đến thương mại quốc tế. Theo lý luận ở Chương 2 có thể thấy
BPPTQ có thế có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến thương mại quốc tế.
Trong khung nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến XKNS Việt Nam
sang EU thì hai biện pháp SPS và TBT được lựa chọn để đưa vào đánh giá vì trên
90% các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản là các biện pháp SPS và TBT. Xu
hướng của EU cũng đang ngày càng gia tăng các BPPTQ nói chung và thắt chặt
hơn các điều kiện, tiêu chuẩn SPS và TBT. Các biện pháp này sẽ có tác động đến
cả chi phí cố định và chi phí biến đổi của doanh nghiệp XKNS Việt Nam. Các
doanh nghiệp sẽ phải chịu các chi phí để đáp ứng các BPPTQ trong quá trình thông
quan hàng hoá; hay để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn, các
doanh nghiệp cần phải đầu tư vào máy móc, trang thiết bị, thay đổi quy trình sản
xuất, đóng gói,…nông sản. Từ đó, tạo ra các chi phí cấu thành vào giá của sản
59
phẩm. Và ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, về lâu về dài, nếu nông sản đáp ứng được các yêu cầu của thị trường;
doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu, tạo được niềm tin cho khách hàng để
lựa chọn sản phẩm nông sản Việt Nam thì các biện pháp SPS và TBT sẽ có những
tác động tích cực và thúc đẩy xuất khẩu.
- Thứ ba, về chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái thực song phương giữa Việt Nam và EU cũng sẽ có tác động trực
tiếp đến XKNS Việt Nam sang EU. Theo lý thuyết đường cong J, tỷ giá tác động tới
thương mại, Krugman và Maurice (1994) giải thích rằng khi đồng nội tệ giảm giá, cán
cân thương mại ban đầu có thể xấu đi do hợp đồng ngắn hạn bị ràng buộc, nhưng sau
một thời gian, xuất khẩu sẽ tăng lên khi giá trị đồng nội tệ thấp thúc đẩy nhu cầu quốc
tế. Trong trường hợp này, khi giá trị đồng Việt Nam đồng cao sẽ khiến cho giá cả hàng
nông sản xuất khẩu tăng cao hơn so với giá hàng nông sản tại EU. Điều đó dẫn đến hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị giảm năng lực canh tranh, hạn chế người mua
khiến XKNS bị tác động tiêu cực. Ngược lại, khi giá trị đồng Việt Nam giảm, giá cả
hàng nông sản xuất khẩu thấp hơn, làm tăng khả năng cạnh tranh; thúc đẩy sản lượng
tiêu thụ của nước nhập khẩu; từ đó thúc đẩy tích cực XKNS.
3.1.2.2. Nhóm nhân tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam
Nhóm nhân tố thứ hai được đưa vào khung nghiên cứu chính là nhóm nhân tố
đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam mà có thể tác động đến XKNS của
Việt (từ phía cung) và tác động đến nhập khẩu nông sản của EU (từ phía cầu), nghĩa
là các nhân tố có tác động đến sự co giãn cung cầu trên thị trường nông sản, bao gồm
các yếu tố như khoảng cách, quy mô nền kinh tế (có thể là tổng sản phẩm quốc nội
(GPD) hoặc thu nhập bình quân đầu người), dân số, tỷ lệ lao động trong ngành nông
nghiệp, diện tích đất nông nghiệp, giá tương đối của các sản phẩm nông sản, hay sản
phẩm nông sản.
- Thứ nhất, về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và EU
Theo lý luận, khoảng cách đại diện cho chi phí vận chuyển vào giao dịch giữa
hai quốc gia nên trong mối quan hệ thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU thì
khoảng cách cũng là một yếu tố tác động. Hơn nữa, khoảng cách giữa Việt Nam với mỗi
quốc gia thành viên của EU cũng là khác nhau, do đó cũng sẽ có ảnh hưởng khác nhau.
Khoảng cách giữa Việt Nam với các quốc gia thuộc EU, tính từ thủ đô Hà Nội
của Việt Nam đến thủ đô các quốc gia thành viên EU, đại diện cho chi phí vận chuyển
60
hàng nông sản (giả định chi phí vận chuyển không thay đổi theo thời gian), mặc dù
thực tế khoảng cách không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển.
Theo mô hình lực hấp dẫn thì, khối lượng thương mại sẽ có mối tương quan dương với
quy mô kinh tế và tương quan âm với khoảng cách địa lý. Do đó, hoảng cách càng xa thì
chi phí vận chuyển càng cao, làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và giảm lợi nhuận.
- Thứ hai, về quy mô kinh tế
Khung nghiên cứu lựa chọn GDP là nhân tố đại diện cho quy mô kinh tế có
thể tác động đến độ co giãn cung cầu mặt hàng nông sản, nghĩa là tác động đến khả
năng xuất khẩu của Việt Nam và khả năng nhập khẩu của EU.
Các nghiên cứu thường kỳ vọng mối quan hệ thuận chiều giữa GDP với giá trị
xuất khẩu. Các quốc gia có GDP cao có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn các quốc gia
có GDP thấp. GDP cao nghĩa thu nhập bình quân đầu người tăng, kéo theo sự gia
tăng nhu cầu tiêu dùng và khả năng sản xuất của quốc gia. Tuy nhiên, lượng cầu nhập
khẩu của một quốc gia còn phụ thuộc vào mức thiết yếu của mặt hàng nhập khẩu.
Với những mặt hàng thiết yếu như nông sản, cầu thường ít biến đổi theo thu nhập.
Đối với trường hợp nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU thì hàng nông sản là mặt
hàng thiết yếu, EU cần nhập khẩu mô đặc biệt trong bối cảnh hiện nay là nước có lợi
thế so sánh về nông sản, là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng nhất.
- Thứ ba, dân số và tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp
Theo lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, các quốc gia nên tập trung
sản xuất những mặt hàng mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà
họ không có lợi thế đó. Do đó, một quốc gia có dân số đông có thể tạo ra lợi thế về
quy mô lao động, giúp quốc gia đó sản xuất những mặt hàng với chi phí thấp hơn, từ
đó tạo ra sự cạnh tranh trong xuất khẩu. Quy luật lợi tức giảm dần của Thomas Robert
Malthus nêu ra quy luật lợi tức giảm dần, mà theo đó, tăng trưởng dân số sẽ dẫn đến
sự cạnh tranh gay gắt về tài nguyên và làm tăng giá thành sản xuất. Tuy nhiên, điều
này cũng có thể tạo ra động lực để các quốc gia tìm kiếm thị trường ngoại quốc để
tiêu thụ sản phẩm dư thừa, thúc đẩy xuất khẩu.
Thêm vào đó, dân số còn tác động đến kim ngạch xuất khẩu, đại diện cho quy
mô lao động và quy mô thị trường thông qua quy mô sản xuất (của nước xuất khẩu)
và khả năng tiêu thụ (của đối tác nhập khẩu).
- Thứ tư, diện tích đất nông nghiệp
Lý thuyết Heckscher-Ohlin, một phần của lý thuyết tài nguyên và thương mại
61
quốc tế, tập trung vào vai trò của tài nguyên và nhân công trong quá trình quyết định
thương mại. Theo Heckscher-Ohlin, quỹ đất nông nghiệp có sẵn trong một quốc gia
sẽ ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của quốc gia đó trong việc sản xuất và XKNS.
Nếu một quốc gia có tỷ lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất cao, điều
này có thể gợi ý rằng quốc gia đó có một lợi thế so sánh trong việc sản xuất nông sản.
Lý do là quỹ đất nông nghiệp đủ lớn có thể hỗ trợ sản xuất nông sản với giá thành
thấp hơn. Khi có lợi thế về giá thành, quốc gia có thể sản xuất nông sản với chi phí
thấp hơn và có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp tỷ
lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất của một quốc gia thấp hơn, điều này có thể
ảnh hưởng đến khả năng XKNS của quốc gia đó. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp
thấp không đồng nghĩa là một trở ngại đối với việc XKNS. Các quốc gia có thể sử
dụng tài nguyên khác như nhân công hoặc vốn đầu tư để nâng cao năng suất và hiệu
suất trong nông nghiệp. Ngược lại, đối với các quốc gia có diện tích đất nông nghiệp
nhỏ, sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều các mặt hàng nông sản.
Trong trường hợp của Việt Nam và EU, diện tích đất nông nghiệp là yếu tố có
tác động tăng cung xuất khẩu từ phía Việt Nam và tăng cầu nhập khẩu từ phía EU.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính và phương pháp định lượng để
đánh giá tác động của các BPPTQ đối với hoạt động XKNS của Việt nam sang EU.
3.2.1. Phương pháp định tính
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích và tổng hợp để làm rõ cơ sở
lý luận về các BPPTQ; làm rõ thực trạng BPPTQ của EU đối với hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam và các ứng phó của Việt Nam. Tổng hợp phân tích và so sánh các
kết quả nghiên cứu để đưa ra đánh giá tổng quan tác động của BPPTQ đối với XKNS.
Từ đó, phân tích nguyên nhân Việt Nam gặp những khó khăn đối với các BPPTQ của
EU? Những thành công cũng như những tồn tại trong đáp ứng các BPPTQ đó.
- Phương pháp so sánh:
+ So sánh hoạt động XKNS của Việt Nam sang thị trường EU qua từng năm,
từng thời kỳ để thấy rõ những tác động của các BPPTQ của EU đến hoạt động XKNS
của Việt Nam;
+ So sánh các quy định về các BPPTQ của EU qua từng thời kỳ để thấy rõ
những thay đổi trong chính sách bảo hộ của EU.
- Phương pháp kế thừa: nghiên cứu sẽ kế thừa những công trình nghiên cứu về
62
các BPPTQ như đã nêu ở phần tổng quan và phụ lục tài liệu tham khảo kèm theo.
3.2.2. Phương pháp kiểm đếm và tính toán các chỉ số đánh giá mức độ phổ biến
của các BPPTQ áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU
Căn cứ vào cơ sở lý luận về phương pháp tính toán các chỉ số liên quan đến
mức độ áp dụng phổ biến các BPPTQ ở chương 2, nghiên cứu tiến hành thực hiện
kiểm đếm và tính toán, phân tích ba chỉ số để đánh giá mức độ áp dụng phổ biến các
BPPTQ của EU đối với hàng nông sản nhập vào EU dựa trên các công thức đã được
nêu tại tiểu mục 2.2.1.2 trong Chương 2, bao gồm tỷ lệ bao phủ (Coverage Ratio –
CR), chỉ số tần suất (Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành (Prevalance Score –
PS).
3.2.3. Phương pháp định lượng: Mô hình lực hấp dẫn
Dựa trên khung lý thuyết nghiên cứu như trên và lý luận về các phương pháp
đánh giá tác động của các BPPTQ đến thương mại đã nêu ở chương 2, nghiên cứu
lựa chọn sử dụng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc để đánh giá tác động của các BPPTQ
đến XKNS Việt Nam sang EU.
Dựa trên lý thuyế mô hình lực hấp dẫn truyền thống của Tinbergen (1962), các
nghiên cứu sau này đã đưa vào mô hình cơ sở nhiều biến số. Đặc biệt, Anderson và
Wincoop (2003) đã đề xuất một trong những phương trình trọng lực thành công nhất
và được sử dụng rộng rãi nhất. Trong đó, các yếu tố rào cản đa phương được bổ sung
vào biến của mô hình. Anderson và Wincoop (2003) cho rằng chi phí thương mại
giữa hai quốc gia không chỉ bao gồm các chi phí trực tiếp mà còn được tính trong bộ
tổng thể chi phí thương mại mà hai quốc gia này phải chi trả khi tham gia thương mại
quốc tế. Mô hình do Anderson và Wincoop (2003) đề xuất và phát triển được gọi là
mô hình trọng lực hấp dẫn cấu trúc với phương trình như sau:
Trong đó:
• Phương trình thực nghiệm tổng quát như sau:
α0 là hằng số R là rào cản đa phương, π là các biến giả và ε là các sai số ngẫu nhiên
LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +
β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +
β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA
63
+ β15COVID + ε (1)
Trong đó:
Ln: Logarit tự nhiên
EXkit : Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng k của Việt Nam sang nước i thuộc EU vào năm t
GDPEUit : Tổng sản phẩm quốc nội của nước i thuộc EU nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam năm t
GDPVNt : Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam năm t.
TARIFFki(t-1) : Biện pháp thuế quan nước i thuộc EU áp dụng đối với nhóm hàng xuất
khẩu của Việt Nam năm t - 1 đối với mặt hàng k.
SPSki(t-1): Số lượng biện pháp SPS mà nước i thuộc EU áp dụng với mặt hàng k của
Việt Nam năm t -1.
TBTki(t-1): Số lượng biện pháp TBT nước i áp dụng với mặt hàng k năm t-1
DISTi: Khoảng cách giữa Việt Nam và nước i.
POPEUit : Dân số nước i thuộc EU nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm t.
POPVNt : Dân số Việt Nam năm t.
AGRLDEUit: Tỷ lệ đất nông nghiệp của nước i thuộc EU vào năm t.
AGRLDVNt: Tỷ lệ đất nông nghiệp của Việt Nam vào năm t.
AGREMEUit: Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp so với tổng lực lượng lao
động của nước i thuộc EU vào năm t.
AGREMVNt: Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp so với tổng lực lượng lao
động của Việt Nam vào năm t.
NEERt: Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Euro và VND.
EVFTA: là biến giả thể hiện hiệu lực thi hành của EVFTA (nhận giá trị 0 đối với các
năm từ 2011 – 2019 và nhận giá trị 1 từ năm 2020 – 2022).
COVID: là biến giả thể hiện sự xuất hiện của đại dịch Covid - 19 (nhận giá trị 0 đối
với các năm từ 2011-2018 và nhận giá trị 1 với các năm 2019 – 2022)
ε: Sai số của mô hình
Trong phương trình trọng lực này, thương mại xuất khẩu như một biến phụ
thuộc được giải thích bằng các biến xác định điều kiện cung của nước xuất khẩu, các
biến mô tả gồm các yếu tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam mà có thể
tác động đến XKNS của Việt Nam (từ phía cung) và đến nhu cầu nhập khẩu nông sản
của EU (từ phía cầu), nghĩa là các nhân tố có tác động đến sự co giãn cung cầu trên
thị trường nông sản, bao gồm các yếu tố như khoảng cách, tổng sản phẩm quốc nội
64
(GPD), dân số, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp và
các yếu tố khác như các chính sách, công cụ thương mại (thuế quan, BPPTQ, tỷ giá)
thúc đẩy hoặc kìm hãm thương mại song phương. Như vậy, trong phương trình trọng
lực mở rộng này các BPPTQ (SPS và TBT) có vai trò là các biến giải thích.
Trong mô hình này, nghiên cứu chọn sử dụng độ trễ cho các biến giải thích thuế
quan và các BPPTQ (TBT và SPS). Lý giải cho việc lựa chọn như vậy vì đối với các
biến liên quan đến chính sách thì cần phải có thời gian để phản ứng, đáp ứng được
với những thay đổi chính sách nên xem xét độ trễ ở các biến này sẽ giúp giảm được
vấn đề nội sinh (Goshi và cộng sự, 2016).
Phương trình thực nghiệm (1) nhằm ước lượng và kiểm định các giả thuyết về
tác động của hai BPPTQ chính (SPS và TBT) cũng với các yếu tố khác tác động đến
XKNS Việt Nam sang EU. Dựa trên cơ sở lý luận và khung nghiên cứu các nhân tố
đã phân tích ở trên, các giả thuyết được đưa ra gồm:
(1) Các biện pháp SPS và TBT có thể có tác động thuận chiều hoặc ngược chiều
với kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU;
(2) Các biện pháp SPS có thể có tác động mạnh hơn các biện pháp TBT đến giá
trị XKNS Việt Nam sang EU;
(3) Các biện pháp SPS và TBT có thể có tác động tiêu cực mạnh hơn thuế quan
đến giá trị XKNS Việt Nam sang EU;
(4) Các biện pháp SPS và TBT sẽ có tác động khác nhau tới các nhóm hàng
nông sản khác nhau;
Để đánh giá thực nghiệm tác động của các BPPTQ đối với XKNS của Việt
Nam sang thị trường 27 quốc gia thành viên thuộc EU, đồng thời, dựa vào các số liệu
liệu thu thập được từ các cơ sở dữ liệu về các BPPTQ, nghiên cứu thực hiện hai mô
hình riêng biệt với các loại biến khác nhau cho các BPPTQ để đánh giá tác động của
• Mô hình (1): Biến đếm số lượng BPPTQ hàng năm
các BPPTQ một cách toàn diện nhất có thể.
Ở mô hình 1, nghiên cứu sử dụng dạng là số lượng thông báo về các BPPTQ
mà EU ban hành, sửa đổi hàng năm trong giai đoạn 2011- 2022. Dạng dữ liệu này sẽ
phản ánh được mức độ tác động đối với số lượng sửa đổi nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn,
có tác động đến XKNS Việt Nam sang EU hay không.
Phương trình thực nghiệm:
LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +
65
β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +
β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA
• Mô hình (2): Biến đếm BPPTQ cộng dồn, luỹ kế theo năm
+ β15COVID + ε (2)
Mô hình 2 sử dụng dạng dữ liệu đối với các biện pháp SPS và TBT là số lượng
các biện pháp được cộng dồn, luỹ kế theo năm. Dữ liệu này sẽ phản ánh được tổng
số BPPTQ mà EU đang áp dụng đối hàng nông sản nhập khẩu vào EU.
Phương trình thực nghiệm:
LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPS’ik(t-1) +
β5TBT’ik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +
β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA
+ β15COVID + ε (3)
Ý nghĩa của thực hiện hai mô hình riêng biệt: Ở mô hình (2), số liệu đưa vào
chạy mô hình là dữ liệu cộng dồn của các năm, trừ đi các quy định hết hiệu lực. Vì
có những quy định có hiệu lực 2012 và đến 2022 vẫn có hiệu lực; là số liệu của năm
trước cộng với số quy định mới ban hành. Dữ liệu này sẽ phản ánh được tổng số
BPPTQ mà EU đang áp dụng đối hàng nông sản nhập khẩu vào EU. Tuy nhiên, như
vậy thì chưa đánh giá được các quy định sửa đổi, bổ sung hàng năm vì thường các
quy định bị sửa đổi theo hướng thắt chặt hơn, nghiêm ngặt hơn, bổ sung thêm biến
về số lượng quy định sửa đổi hàng năm có gây tác động tới XKNS theo năm theo mô
• Về phạm vi đánh giá tác động:
hình (1).
Nghiên cứu triển khai đánh giá tác động của các BPPTQ (SPS và TBT) trên hai
phạm vi.
- Thứ nhất, đánh giá tác động của các BPPTQ đối với tổng thể hàng nông
sản xuất khẩu sang EU.
- Thứ hai đánh giá tác động của các BPPTQ đối với các nhóm hàng nông
sản Việt Nam xuất khẩu sang EU.
Đối với mỗi nhóm hàng nông sản khác nhau sẽ chịu tác động khác nhau bởi
các BPPTQ. Do đó, nghiên cứu tách dữ liệu tổng hợp, đồng thời thu thập dữ liệu đối với
từng nhóm ngành hàng để đánh giá tác động đối với 3 nhóm hàng nông sản chính gồm:
- Nhóm 1: Động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ động vật (HS
01 – 05, trừ HS 03);
66
- Nhóm 2: Thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật (HS 06 - 14);
- Nhóm 3: Hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS 15 –
24, trừ HS16 - HS1604, HS1605).
3.3. Dữ liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp, thiết kế dữ liệu theo dữ liệu bảng về dòng
XKNS giữa Việt Nam và 27 nước thuộc EU đối với hàng hóa phân loại theo Hệ thống
hài hòa mô tả hàng hóa 02 chữ số trong 11 năm từ 2011 – 2022 với 6831 quan sát (23
mã HS 2 chữ số x 11 năm x 27 quốc gia thuộc EU).
Hai dạng dữ liệu về biện pháp SPS và TBT để đưa vào mô hình định lượng đều
được thu thập từ hệ thống cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO. Cơ sở dữ liệu TRAINS cũng
là cơ sở mạnh, tuy nhiên qua quá trình tìm kiếm, lọc và phân tích dữ liệu thì TRAINS
không phân tách số lượng theo năm, trường dữ liệu về năm của EU không được đầy
đủ, dẫn đến việc khó xác định trong các năm có bao nhiêu BPPTQ được sửa đổi, ban
hành mới. Trong khi đó, I-TIP có trường dữ liệu có thể biết đâu là văn bản có hiệu
lực hiện hành, sửa đổi, ban hành mới.... Đồng thời cũng có thể lọc được các BPPTQ
theo mã sản phẩm bị áp đặt.
Ngoài ra, dữ liệu về các BPPTQ (SPS và TBT) của EU áp dụng đối với hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn được thu thập từ:
+ Cơ sở dữ liệu thống kê BPPTQ của Hệ thống thông tin phân tích thương mại
UNCTAD – TRAINS (hệ thống này cung cấp dữ liệu về các BPPTQ đối với các loại
sản phẩm mô tả chỉ tiết đến 6 chữ số (HS06);
+ Cổng thông tin SPS&TBT Platform của WTO với số lượng các thông báo
hàng năm liên quan đến việc thay đổi, áp dụng các BPPTQ của các quốc gia thành
viên WTO.
+ Dữ liệu về các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ được thu thập từ
WITS (World Intergrated Trade Solution).
- Giá trị xuất nhập khẩu được cập nhật từ cơ sở dữ liệu Trademap thuộc Trung
tâm thương mại quốc tế (ITC – International Trade Center) cụ thể theo từng cặp nước
và từng dòng sản phẩm mô tả chi tiết 02 chữ số, 04 chữ số và 06 chữ số.
- Dữ liệu thuế quan: được trích xuất từ cơ sở dữ liệu Macmap thuộc ITC.
- Các số liệu về GDP, dân số, tỷ lệ dân số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp,
diện tích đất nông nghiệp được thu thập từ dữ liệu thống kê của ngân hàng thế giới
(World Bank); số liệu về tỷ giá hối đoái của Việt Nam và EU được thu thập và tính
67
toán từ nguồn dữ liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
- Dữ liệu về khoảng cách giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên EU từ hệ
thống cơ sở dữ liệu CEPII. CEPII đã tính toán khoảng cách bằng hai cách thức khác
nhau. Một là, tính dựa trên khoảng cách địa lý giữa các thủ đô của các quốc gia; hai
là, tính dữ liệu khoảng cách có trọng số do Head và Mayer (2002) phát triển, tính toán
khoảng cách giữa hai quốc gia dựa trên khoảng cách song phương giữa các thành phố
lớn nhất của hai quốc gia đó, sử dụng dữ liệu cấp thành phố để đánh giá sự phân bố
địa lý của dân số bên trong mỗi quốc gia.Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn dữ
liệu khoảng cách có trọng số để thấy được mức độ cản trở thương mại.
Bảng 3.1. Thống kê các biến, nguồn dữ liệu và kỳ vọng dấu
Tên biến Nội dung Nguồn dữ liệu Đơn vị/ Dạng biến Kỳ vọng dấu
USD EX
Cơ sở dữ liệu Trademap, ITC https://trademap.org ngạch Kim XKNS của Việt Nam EU
+ USD GDPEU World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/
Tổng sản phẩm quốc nội của các quốc gia thành viên EU
+ USD GDPVN World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/ Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam
- % TARIFF
Trung tâm thương mại quốc tế ITC/Market Access Map https://www.macmap.org/
Tỷ lệ giá trị thuế quan quy đổi tương đương (Total ad Valorem Equivalent tariff)
+/- SPS Dạng số đếm
Cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO http://i-tip.wto.org/goods Cơ sở dữ liệu TRAINS của UNCTAD: https://trainsonline.unctad.o rg/home xCơ sở dữ liệu WITS của WB: https://wits.worldbank.org/ - Số lượng thông báo về SPS mà EU áp dụng đối với nông sản Việt Nam; - Số lượng thông báo SPS cộng dồn theo năm của EU áp dụng với nông sản Việt Nam vào EU
TBT +/- Dạng số đếm
68
lượng - Số thông báo hàng năm biện pháp TBT mà Cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO http://i-tip.wto.org/goods
Tên biến Nội dung Nguồn dữ liệu Đơn vị/ Dạng biến Kỳ vọng dấu
Cơ sở dữ liệu TRAINS của UNCTAD: https://trainsonline.unctad.o rg/home Cơ sở dữ liệu WITS của WB: https://wits.worldbank.org/
EU áp dụng đối với nông sản Việt Nam; - Số lượng thông báo SPS cộng dồn theo năm của EU áp dụng với nông sản Việt Nam vào EU
DIST km - CEPII www.cepii.fr
Khoảng cách giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên thuộc EU
POPEU Người World Bank Open Data: + https://data.worldbank.org/ Dân số của quốc gia thành viên thuộc EU
POPVN Người World Bank Open Data: + https://data.worldbank.org/ Dân số Việt Nam
AGRLDEU % - World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/
Tỷ lệ đất nông nghiệp của các quốc gia thành viên thuộc EU
AGRLDVN % + World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/ Tỷ lệ đất nông nghiệp của Việt Nam
% - World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/
AGREMEU Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của các quốc gia thành viên thuộc EU
% + World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/
AGREMVN Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam
NEER VND Monetary +
International Fund Data: https://data.imf.org
Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Euro và VND.
69
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Tiểu kết chương 3
Dựa trên các cơ sở lý luận về các nhân tố tác động đến xuất khẩu đã phân
tích ở chương 2 và kế thừa khung lý thuyết của Disdier và Marette (2010) và
Fugazza (2013), tác giả đã xây dựng khung đánh giá tác động của các BPPTQ
của EU đối với XKNS Việt Nam với các nhân tố được phân tích cụ thể trong
trường hợp XKNS từ Việt Nam sang EU tại chương 3. Chương này đã mô tả các
phương pháp định tính, phương pháp các chỉ số và phương pháp định lượng bằng
mô hình trọng lực để đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS
Việt Nam. Đồng thời, các nguồn dữ liệu, cách thức thu thập dữ liệu cũng được
mô tả chi tiết để từ đó tác giả thu thập được các dữ liệu, tiến hành nghiên cứu
bằng các phương pháp để đưa ra được các kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày
70
tại các chương 4, chương 5 dưới đây.
CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI
THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG EU
4.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU
4.1.1. Kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng xuất khẩu
4.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2012 - 2023 có
xu hướng tăng giảm không ổn định liên tục qua các năm. Nếu như năm 2013, giá trị
XKNS sang EU chứng kiến một sự sụt giảm nhẹ so với 2012 thì trong năm 2014 lại
chứng kiến một sự tăng mạnh từ 1,78 tỷ USD (năm 2013) lên 2,35 tỷ USD (năm
2014) trước khi lại có sự giảm xuống còn 2,15 tỷ USD vào năm 2015. Từ 2015 đến
2017, kim ngạch XKNS tăng đều qua các năm, đạt đỉnh kỷ lục năm 2017 với 2,68 tỷ
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Cán cân thương mại
Xuất khẩu
Nhập khẩu
USD.
Hình 4.1. Cán cân thương mại nông sản Việt Nam – EU (triệu USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Tuy nhiên, sang 2018 đến 2020, một xu hướng giảm đều được nhìn thấy trong
bức tranh XKNS của Việt Nam sang EU. Trong năm 2018 và 2019, kim ngạch xuất
khẩu đã giảm từ 2,68 tỷ USD năm 2017 xuống còn 2,57 tỷ USD năm 2018 và 2,46 tỷ
USD năm 2019 một số nguyên nhân khiến cho kim ngạch sụt giảm được đưa ra như
do xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã qua giai đoạn phát triển nóng. Các mặt hàng
nông sản như cà phê, hạt tiêu, hạt điều chủ yếu là xuất khẩu thô bị tác động mạnh từ
71
giá cả thế giới giảm mạnh do nguồn cung tăng cao (VCCI, 2019). Bên cạnh đó, hàng
rào kỹ thuật với các quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm và dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật của EU cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm này. Một
nguyên nhân khác nữa được đưa ra là xuất hiện hiện tượng trước khi EVFTA có hiệu
lực là các doanh nghiệp có thể muốn giữ hàng để hưởng lợi từ các cam kết trong
EVFTA.
Đặc biệt, trong năm 2020, mặc dù EVFTA có hiệu lực đã mang lại những cơ hội
lớn cho nông sản Việt Nam vào thị trường EU, nhưng đại dịch Covid – 19 đã xuất hiện
và tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Do đó, việc kim ngạch XKNS Việt
Nam sang EU năm 2020 vẫn đạt 2,37 tỷ USD, chỉ giảm 4% so với 2019 thì vẫn là một
tín hiệu đáng mừng và là một điểm sáng trong giai đoạn thế giới phải oằn mình chống
chịu với đại dịch Covid -19 khiến hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh.
Sang năm 2021 khi đại dịch Covid – 19 được khống chế, khi các biện pháp giãn
cách được tháo gỡ, kim ngạch XKNS sang EU đã có những khởi sắc khi đạt 2,6 tỷ
USD, tăng hơn 10% so với 2020. Kết quả này được đánh giá là rất tốt trong tình hình
vừa phải ứng phó với dịch bệnh Covid-19, vừa phải ứng phó với tình trạng thiếu
container, chi phí logistics tăng cao. Từ 2021 đến 2023, xu hướng XKNS sang EU
ngày càng tăng lên với năm 2022 cán mốc trên 3,26 tỷ USD và 2023 đạt 3,68 tỷ USD
theo số liệu nhập khẩu nông sản của EU từ Việt Nam. Điều đó là một tín hiệu cho
thấy doanh nghiệp XKNS Việt Nam đã tận dụng rất tốt cơ hội từ EVFTA, đồng thời
đã từng bước đáp ứng với các quy định của EU.
Tựu chung lại, mặc dù trải qua nhiều biến động trong giai đoạn 2012 thì đến
năm 2023, kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU đã tăng 35%, từ khoảng 1,9 tỷ USD
lên hơn 2,6 tỷ USD.
Xét kim ngạch xuất khẩu trong cán cân thương mại nông sản giữa Việt Nam và
EU có thể thấy trong khi EU nhập khẩu các mặt hàng cà phê, hạt điều chè, rau quả,
gạo,… của Việt Nam; thì Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng như sữa, thịt động vật,
đồ uống, chế phẩm nông sản từ EU (Europa, 2022). Có thể thấy từ 2012 - 2019, cán
cân thương mại hàng nông sản sang EU luôn duy trì ở mức thặng dư, trung bình
khoảng 1.25 tỷ USD, đặc biệt đột phá lên mức 1,55 tỷ USD vào năm 2017. Từ năm
2020 - 2023, EVFTA có hiệu lực trong bối cảnh thương mại bị ảnh hưởng tiêu cực
bởi đại dịch nhưng vẫn đã tạo cơ hội cho thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU
72
gia tăng cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tính riêng năm 2021, Việt Nam xuất siêu 1.07
tỷ USD sang thị trường EU, tăng 10.45% so với năm 2020, tăng 6.22% so với 2019;
năm 2022 thặng dư 1,98 tỷ USD và đạt kỷ lục thặng dư lớn nhất trong giai đoạn này
25000
20000
15000
10000
5000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Xuất khẩu sang EU
Xuất khẩu sang toàn thế giới
là năm 2023 với 2,33 tỷ USD.
Hình 4.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU so với kim ngạch
sang toàn thế giới (triệu USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu Trademap, ITC (2024)
Xét trong mối tương quan với kim ngạch XKNS của Việt Nam sang toàn thế
giới: Giá trị XKNS Việt Nam luôn ở mức cao vì nông sản là một trong những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam qua các thời kỳ. Giai đoạn 2012 – 2021, kim
ngạch XKNS ra thế giới đã tăng từ 14,4 tỷ USD năm 2012 lên 21 tỷ USD năm 2022
và khoảng 23 tỷ USD vào năm 2023. Như vậy, kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU
chiếm khoảng 1/7 so với tổng kim ngạch xuất khẩu ra thế giới.
4.1.1.2. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU
Tốc độ tăng trưởng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 - 2021
biến động không ngừng theo các năm. Đặc biệt, từ 2012 - 2017, tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu không ổn định, trong đó, tăng mạnh vào năm 2014 và 2016 (tương ứng ở
mức 31% và trên 16%). Năm 2015 chứng kiến một sự giảm mạnh mẽ xuống - 8%.
Trong giai đoạn từ 2018 - 2020, tốc độ tăng trưởng XKNS sang EU giảm liên tục -
73
4%/năm trước khi phục hồi tăng trưởng lên 10% vào năm 2021.
35%
31%
30%
25%
25%
20%
16%
16%
15%
13%
13%
13%
10%
10%
10%
7%
7%
6%
5%
-2%
-4%
1%
0%
0%
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
-4%
-5%
-3%
-8%
-8%
-4%
-8%
-10%
-15%
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thế giới
Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
XKNS sang EU dao động mạnh và kém ổn định hơn so với XKNS của Việt Nam
sang toàn thế giới. Trong hai năm 2014 và 2016, khi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam sang EU đạt đỉnh trên lần lượt là 31% và trên 16% thì XKNS sang toàn thế
giới chỉ đạt 16% và 13% theo thứ tự trong hai năm trên. Khi XKNS của Việt Nam sang
toàn thế giới chỉ giảm xuống còn 1% năm 2015 hay 0% năm 2020 thì xuất khẩu sang
EU giảm mạnh tương ứng theo năm còn - 8% và - 4%. Sang năm 2021, tốc độ tăng
trưởng XKNS sang toàn thế giới đạt 13%, cao hơn 3% so với xuất khẩu sang EU. Tuy
nhiên, sang năm 2022 và 2023, trong khi tốc độ tăng trưởng của XKNS sang thế giới có
sự hồi phục thì con số này ở XKNS sang EU lại có sự giảm mạnh.
4.1.1.3. Tỷ trọng thương mại
Thị phần của EU trong kim ngạch XKNS của Việt Nam ra thế giới từ năm 2012
đến 2023 là tương đối ổn định, trung bình là khoảng 14%. Năm 2023, EU đang là thị
trường lớn thứ ba của XKNS Việt Nam với gần 16%, đứng sau Trung Quốc (20,68%)
và ASEAN (gần 20%). Theo sau EU, Mỹ chiếm 11.85%, Nhật Bản và Hàn Quốc
chiếm khoảng 4%. Trong giai đoạn từ 2012 đến 2023, thị phần của các đối tác chính
trong XKNS của Việt Nam khá ổn định. Tuy rằng có sự biến động giữa các năm
nhưng không có sự thay đổi lớn, dẫn đến không có sự thay đổi về thứ tự các thị trường
74
xuất khẩu. Chỉ có giai đoạn từ giữa 2015 đến giữa 2017 khi mà EU có sự sụt giảm
mạnh trong nhập khẩu nông sản từ Việt Nam thì EU đã vượt EU, đưa EU vươn lên
trở thành thị trường XKNS lớn thứ 2 của Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối 2017 đến
2023, EU đã lấy lại vị trí số hai với kim ngạch xuất khẩu tăng vọt và đẩy EU trở lại
vị trí số 3. Bên cạnh đó, có thể thấy sự cách biệt giữa tỷ trọng XKNS sang EU và các
35,00%
30,00%
25,00%
20,00%
15,00%
10,00%
5,00%
0,00%
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
TRUNG QUỐC
ASEAN
EU
MỸ
NHẬT BẢN
HÀN QUỐC
nước còn lại trong top 6 thị trường XKNS của Việt Nam là tương đối lớn.
Hình 4.4. Tỷ trọng thị phần của 6 đối tác lớn nhất nhập khẩu nông sản Việt
Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Thị phần của Việt Nam trong kim ngạch nhập khẩu nông sản của EU: Kim
ngạch XKNS Việt Nam sang EU đã tăng trưởng vượt bậc trong giai đoạn 2021 -
2023, tuy nhiên, tỷ trọng nông sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU trong tổng thương
mại nông sản của EU vẫn rất hạn chế. Trong bảng xếp hạng các đối tác thương mại
nông sản chính của EU giai đoạn 2021 - 2023 (Bảng 4.1), nếu Việt Nam là đối tác
XKNS sang EU đứng thứ 17 với tỷ trọng còn rất khiêm tốn chỉ 1,7% vào năm 2021
thì sau một năm, thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng các đối tác XKNS sang
EU đã được cải thiện hơn vào 2022 với vị trí thứ 13 với tỷ trọng trong tổng nông sản
75
nhập khẩu của EU đạt 2%.
Bảng 4.1. Xếp hạng các đối tác thương mại nông sản chính của EU,
giai đoạn 2021 - 2023 (%)
STT Năm 2021 Năm 2022 Năm 2023
Quốc gia xuất khẩu sang EU Quốc gia xuất khẩu sang EU Quốc gia xuất khẩu sang EU
Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27
1 2 3 4 5 Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27 10.5 9.2 7.2 5.3 4.7 Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27 11.8 8.9 7.7 7.2 5.7 10.9 9.8 7.5 7.4 5.3
Brazil Anh Mỹ Ukraine Trung Quốc Indonesia 6 4.3 Brazil Anh Ukraine Mỹ Trung Quốc Argentina 4.1 4.2
7 8 4.0 3.9 3.9 3.3 3.5 3.1 Brazil Anh Ukraine Mỹ Trung Quốc Thổ Nhĩ Kỳ Indonesia Thuỵ Sĩ
9 10 3.5 2.6 Indonesia Thổ Nhĩ Kỳ Thuỵ Sĩ Australia 2.8 2.2 2.9 2.5
Argentina Thổ Nhĩ Kỳ Thuỵ Sĩ Bờ Biển Ngà Ấn Độ Canada 11 12 2.3 2.2 Argentina Bờ Biển Ngà Ấn Độ Việt Nam 2.1 2.0 2.1 2.0
Peru
Nga
13 14 Malaysia 15 Morocco Nam Phi 16 17 Việt Nam 18 19 Colombia 20 2.1 2.1 2.0 1.8 1.7 1.7 1.7 1.5 25.0 2.0 2.0 2.0 1.9 1.7 1.5 1.5 1.4 23.4 2.0 2.0 1.9 1.8 1.8 1.6 1.4 1.3 24.6
Serbia Các nước còn lại Morocco Peru Malaysia Nam Phi Canada Úc Colombia Ecuador Các nước còn lại
Ấn Độ Bờ Biển Ngà Việt Nam Malaysia Peru Morocco Canada Colombia Nam Phi Thailand Các nước còn lại Nguồn: Uỷ ban Châu Âu – EC (2022, 2023,2024)
Như vậy, chỉ sau một năm, nông sản Việt Nam đã chiếm được thêm 0,3% thị
phần nông sản nhập khẩu của EU. Đây không phải là mức độ tăng quá lớn, tỷ trọng
76
nông sản Việt Nam nhập khẩu vào EU vẫn còn rất khiêm tốn; tuy nhiên, điều này cho
thấy một tín hiệu tích cực rằng XKNS Việt Nam vào EU đang tăng trưởng qua các
năm; Việt Nam đang dần đáp ứng được các yêu cầu của EU và tận dụng được các lợi
thế mà EVFTA mang lại để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu sang EU. Sang năm 2023,
tỷ trọng này vẫn duy trì ở mức 2% trong tổng thị phần nông sản nhập khẩu vào EU
với xếp hạng thứ 12 theo bảng xếp hạng đối tác mà EU công bố. Điều này cho thấy
dủ năm 2023, kim ngạch nông sản Việt Nam sang EU đã tăng so với 2022, tuy nhiên,
tỷ trọng thị phần vẫn duy trì ở mức 2%, không tăng so với 2022, nghĩa là EU cũng đã
tăng cường nhập khẩu nông sản từ các đối tác.
Việc chiếm một thị phần nhỏ trong tổng thương mại nông sản của EU cũng cho
thấy rằng, dung lượng thị trường EU vẫn còn rất lớn và EU là một thị trường rất tiềm
năng đối với nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần xem xét, đánh giá
lại nguyên nhân vì sao nông sản Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ tại EU.
Các yếu tố nào tác động hạn chế XKNS của Việt Nam vào thị trường EU trong giai
đoạn hiện nay.
900000
800000
Đức
700000
Hà Lan
600000
Tây Ban Nha
500000
Ý
Bỉ
400000
Pháp
300000
Ba Lan
200000
Bồ Đào Nha
19 nước EU còn lại
100000
0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
4.1.2. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo thị trường
Hình 4.5. Diễn tiến xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo quốc gia,
2012 – 2022 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Các thị trường đối tác nhập khẩu nông sản Việt Nam trong EU gồm tám quốc
gia: Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Pháp, Ba Lan và Bồ Đào Nha. Trong giai
đoạn từ 2012 – 2023, Đức vẫn duy trì là đối tác nhập khẩu nông sản hàng đầu của
77
Việt Nam, và theo sau là Hà Lan. Kim ngạch XKNS Việt Nam sang các thị trường
này đều tương ổn định và có có sự gia tăng mạnh mẽ. Đáng chú ý là ở thị trường Hà
Lan và Đức. XKNS sang Hà Lan đã tăng từ trên 300 triệu USD năm 2012 lên đỉnh
điểm 700 triệu USD vào năm 2017, trước khi giảm còn khoảng 650 triệu USD vào
2023 do tác động của đại dịch Covid – 19 (Hình 4.5).
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, hoạt động XKNS sang EU có sự chênh lệch rất
lớn giữa các nước thành viên. Tám đối tác chủ chốt chiếm trung bình 92% kim ngạch
nhập khẩu nông sản của toàn EU từ Việt Nam trong giai đoạn 2012 - 2023. Các quốc
gia còn lại có tỷ lệ nhập khẩu khá thấp, 19 nước còn lại ở mức dưới 1% và thậm chí
0%, không có quan hệ XKNS với Việt Nam như Luxembourg từ 2012 đến 2019. Năm
2020 - 2023, hai nước đã bắt đầu có quan hệ thương mại, nhưng không đáng kể.
19 nước EU …
19 nước EU còn lại: 9%
Ba Lan 3%
Bồ Đào Nha 2%
Bồ Đào Nha 1%
Ba Lan 4%
Đức 29%
Đức 27%
Pháp 6%
Pháp 8%
Bỉ 8%
Bỉ 7%
Ý 13%
Hà Lan 17%
Hà Lan 24%
Tây Ban Nha 14%
Ý 12% Tây Ban Nha 8%
Hình 4.6. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Hình 4.7. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam
Việt Nam sang EU theo quốc gia 2012 (%) sang EU theo quốc gia 2023(%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Trong giai đoạn này, Đức là thị trường đối tác lớn nhất trong EU của Việt Nam,
cụ thể trong 2023, Đức chiếm 27% tổng kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU, đạt
hơn 718 triệu USD. Hà Lan đứng thứ hai với 24% thị phần. Tiếp theo là Italy với
12%, đạt gần 326 triệu USD. Tây Ban Nha và Pháp lần lượt chiếm 8,37% và 7,94%,
với kim ngạch xuất khẩu tương ứng là 219 triệu USD và 208 triệu USD. Bên cạnh
đó, một số thị trường mặc dù kim ngạch nhập khẩu nông sản từ Việt Nam còm rất
nhỏ nhưng đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ như Phần Lan với kim ngạch nhập khẩu
tăng 198%, Hungary tăng 86,9% và Cộng hòa Séc tăng 49,2%.
Như vậy, xét về cơ cấu thị trường trong EU, Đức, Hà Lan vẫn là hai đối tác
78
nhập khẩu nông sản quan trọng nhất. Tuy nhiên, nông sản Việt Nam sẽ còn rất nhiều
tiềm năng mở rộng xuất khẩu sang các quốc gia khác trong EU nếu tận dụng được cơ
hội từ EVFTA và đáp ứng được tốt các quy định của EU.
4.1.3. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo các mặt hàng
4.1.3.1. Cơ cấu theo nhóm ngành hàng
Giai đoạn 2012 – 2023, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuộc 3 nhóm hàng
nông sản đều có sự gia tăng theo thời gian. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn trong giá
trị xuất khẩu giữa các nhóm ngành hàng. Chiếm tỷ trọng chủ yếu với giá trị xuất khẩu
cao vượt bậc là các mặt hàng thuộc Nhóm 2– nhóm hàng thực vật; theo sau là Nhóm 3
– nhóm hàng nông sản, thực phẩm chế biến và cuối cùng Nhóm 1 - nhóm hàng động vật
3500,0
3000,0
2985,43
2564,122
2500,0
2410,5
2292,9
2266,6
2223,3
2168,0
2101,1 2026,4
2000,0
1965,1
1838,7
1634,9
1500,0
1000,0
628,443 593,436
500,0
97,816 144,394 170,035 174,514 195,416 254,833 278,071 310,337 323,32 368,821
102,481
58,3
30,7
25,5
15,2
0,0
11,3
11,6
8,9
10,1
5,2
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2022
2023
31,1 73,725 2021
Nhóm 2 (HS06-14): Thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật
Nhóm 3 (HS15-24) : Hàng nông sản, thực phẩm chế biến
Nhóm 1 (HS01-05): Động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ động vật
có giá trị xuất khẩu sang EU là không đáng kể so với hai nhóm hàng còn lại.
Hình 4.8. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm
ngành hàng chính, 2012-2023 (triệu USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Các nhóm hàng đều chứng kiến sự tăng trưởng nhưng mức độ tăng là khác
nhau. Mặc dù là nhóm chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất nhưng nhóm 2 chỉ chứng
kiến sự tang gấp khoảng hơn 1,6 lần, từ 1,8 tỷ USD năm 2012 lên 2,98 tỷ USD năm
2023; trong khi đó, nhóm 3 và nhóm 1 mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng giá trị xuất
khẩu đã tăng mạnh. Cụ thể kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của nhóm 3 đã gấp hơn 6
lần so với năm 2012 (từ gần 98 triệu USD lên 593,4 triệu USD); và của nhóm 1 là
79
gấp hơn 19 lần từ 5,2 triệu USD năm 2012 lên 102,4 triệu USD năm 2023.
Nhóm 3 14,06%
Nhóm 1 1,19%
Nhóm 2 84,75%
Hình 4.9. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Hình 4.10. Tỷ trọng xuất khẩu nông
Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm
chính năm 2012 (%) hàng chính năm 2023 (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Theo cơ cấu xuất khẩu: Nhóm 2 chiếm tỷ trọng chủ yếu lên đến 94,7% năm
2012, tuy nhiên, tỷ trọng này đã giảm liên tục theo thời gian xuống còn 91,7% năm
2016 và đến 2023 chỉ chiếm 84,7% và 2023 với 81,1%. Ngược lại thì, cơ cấu nhóm
3 và nhóm 1 ngày được cải thiện theo thời gian (Hình 4.9, Hình 4.10, Hình 4.11 và
Bảng 4.2). Điều này chứng tỏ thời gian qua Việt Nam đã tích cực chuyển đổi từ hàng
Nhóm 1 2,78%
Nhóm 3 16,12%
Nhóm 2 81,10%
nông sản tươi sống sang hàng nông sản chế biến giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Hình 4.11. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng
chính năm 2023 (%)
80
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Bảng 4.2. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng
chính, 2012 – 2023 (%)
Năm/nhóm Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 1
2012 94,70% 5,04% 0,27%
2013 91,43% 8,08% 0,50%
2014 92,33% 7,24% 0,43%
2015 91,36% 8,11% 0,52%
2016 91,72% 7,82% 0,47%
2017 89,93% 9,51% 0,57%
2018 88,01% 10,80% 1,19%
2019 85,08% 12,57% 2,36%
2020 85,31% 13,61% 1,07%
2021 84,75% 14,06% 1,19%
2022 78,50% 19,24% 2,26%
2023 81,10% 16,12% 2,78%
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
4.1.3.2. Cơ cấu theo nhóm mặt hàng - HS 2 chữ số
Hoạt động XKNS của Việt Nam sang EU có mức độ tập trung lớn về chủng loại
sản phẩm. Bảng 4.3 cho thấy những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt
Nam theo. Mã HS sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023.
Có thể thấy sự tăng trưởng trong xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông sản
Việt Nam sang EU trong giai đoạn từ 2012 – 2023. Tuy nhiên, chỉ 06 nhóm mặt hàng
chính có giá trị xuất khẩu cao vượt bậc so với các nhóm hàng còn lại gồm HS 09 (cà
phê, chè, chè Paragoay và các loại gia vị), HS 08 (quả và quả hạch ăn được; vỏ quả
thuộc họ cam quýt hoặc các loại dưa), HS 19 (Chế phẩm từ ngũ cốc, bột, tinh bột
hoặc sữa; các loại bánh); HS 10 (ngũ cốc), HS 20 (các chế phẩm từ rau, quả, quả hạch
hoặc các sản phẩm khác của cây), HS21 (các chế phẩm khác). Các mặt hàng còn lại
đều cho thấy giá trị xuất khẩu không cao (dưới 20 triệu USD). Cụ thể:
Kim ngạch xuất khẩu cao nhất thuộc về nhóm HS 09 với giá trị xuất khẩu gần 1,5
tỷ USD năm 2012. Đây là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu XKNS của
Việt Nam sang EU, chiếm tới 76,38% trong tổng kim ngạch XKNS sang EU năm 2012.
Từ 2012 – 2015, giá trị xuất khẩu của mặt hàng này lên xuống liên tục: có những năm,
81
đạt giá trị xuất khẩu gần 1,7 tỷ USD (2014), cũng có những năm giá trị xuất khẩu giảm
chỉ còn gần 1,3 tỷ USD (2013). Từ 2015 – 2021, HS 09 chứng kiến một sự giảm liên tục
trong kim ngạch xuất khẩu; từ 1,56 tỷ USD năm 2015 xuống mức thấp kỉ lục vào năm
2019và 2020 chỉ còn gần 1,1 tỷ USD, tuy nhiên từ 2021 – 2023, kim ngạch xuất khẩu
HS 09 đã lấy lại đà tăng trưởng đạt 1,2 tỷ USD năm 2021; 1,6 tỷ USD năm 2022 và đạt
đỉnh vào năm 2023 với 1,87 tỷ USD.
Nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai thuộc về nhóm HS 08. Kim
ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này tăng liên tục từ năm 2012 với khoảng 300 triệu
USD đạt đỉnh kim ngạch xuất khẩu hơn 900 triệu USD vào năm 2017. Từ 2018 –
2020, kim ngạch xuất khẩu giảm nhẹ liên tục dao động trong khoảng 800 - 850 triệu
USD trước khi phục hồi đạt trên 897 triệu USD năm 2021 và 909 triệu USD năm
2000000
1800000
1600000
1400000
1200000
1000000
800000
600000
400000
200000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
HS 09
HS 08
HS 19
HS 10
HS 20
HS 21
2023. Trong giai đoạn 12 năm, kim ngạch xuất khẩu HS 08 đã tăng gấp khoảng 3 lần.
Hình 4.12. Diễn tiến xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam
sang EU, 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Tiếp theo là nhóm HS 19 và HS 21 với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 100 triệu
USD vào năm 2021; trong khi, HS 19 đạt được giá trị xuất khẩu gấp hơn 2 lần so với
năm 2012 thì HS 21 chứng kiến một tốc độ tăng trưởng ấn tượng, giá trị xuất khẩu
82
đạt gần 114 triệu USD, tăng gấp hơn 7,6 lần so với năm 2012.
Bảng 4.3. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo mã HS 2 chữ số (nghìn USD)
2013 614 4220 1320 2709 4486 14325 281949
2019 2270 11825 4189 39972 7149 16561 828136
2018 2483 5817 5192 17194 5852 12640 842561
2017 1805 5047 3855 4469 4599 12927 908438
2015 1177 5341 704 4062 3880 11319 540760
2016 1447 4756 1383 4052 4035 13829 681049
2014 1100 4289 1774 2937 4655 13798 436730
2020 2538 5932 3429 13581 7798 17188 853545
2021 2890 5245 3192 19803 10599 18030 897601
2022 3813 13936 15921 40055 10213 16156 765015
Mã HS/ Năm 01 02 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 17
2023 2012 51327 565 18126 2737 16406 11 16622 1854 10018 4701 14184 13535 302785 909078 1482981 1294726 1685975 1373358 1563143 1457480 1369941 1195245 1089484 1218483 1679700 1877435 80807 29091 13948 1305 19073 2998 59860 915 1027 387 36114 2092 22894 2909
65147 12848 8359 4747 1937 145823 6403
18789 4079 5473 835 1710 1999 4963
33336 2181 3400 193 273 3996 4291
44952 10669 8628 12527 1840 33179 4260
13201 2653 6446 3164 1637 7974 4992
20684 974 4518 25 599 3054 5105
28446 2011 4109 14 1197 943 2627
14842 5796 8952 4759 1293 9445 5474
30148 8039 8138 6580 1153 16306 6208
33827 10938 8337 3901 1356 11518 4143
18
3135
3909
4566
5426
4866
5260
6232
7201
6694
9513
11404
9628
19
51837
57531
62278
61378
69862
83308
99551
111459
112792
118382
181134
146909
20
17575
33697
35125
37613
51269
54304
43407
64500
68081
68692
125914
201466
21
13191
29197
45084
52949
52508
81315
87131
76402
100602
113945
131357
137482
22
1321
1484
3430
3854
6311
9973
13408
14444
10041
10036
12026
18894
23
2160
4134
4579
3933
1752
4461
7021
7504
8483
10140
12080
16255
24
3596
6155
6814
5791
1886
3246
6402
6313
966
674
2302
3794
83
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Nhóm HS 10 và HS 20 là hai nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng trên
50 triệu USD năm 2021. Mặc dù giá trị xuất khẩu chưa lớn, tuy nhiên, đây là hai nhóm
mặt hàng chủ lực, có lợi thế của Việt Nam; trong giai đoạn 2012 – 2021 cũng đã có
những sự tăng trưởng liên tục trong xuất khẩu sang EU, dù chưa được như kì vọng.
Như vậy, ngoại trừ HS 09, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm trong giai
đoạn 2012 – 2020, nhưng giai đoạn 2021 – 2023 đã đảo chiều với xu hướng tăng lên.
Các mã hàng còn lại đều có xu hướng tăng theo từng năm. Điều đó cho thấy, nông
sản Việt Nam đang từng bước tiếp cận và chiếm được thị phần nhiều hơn ở thị trường
EU.
Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng: chiếm tỷ trọng lớn nhất thuộc về HS 09
với 76,38% năm 2012; tuy nhiên, tỷ trọng này đã giảm xuống một cách đáng kể, chỉ
còn 51 % năm 2023. HS 08 chiếm tỷ trong đứng thứ 2; sau 10 năm đã tăng hơn gấp
2 lần trong tỷ trọng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu từ 15,59% (2012) lên 34,22% (2021),
tuy nhiên, đến 2023, tỷ trọng của mặt hàng này giảm xuống còn 24,69%. Trong khi
HS khác; 8,91%
đó, HS 19 và HS 21 đều chiếm khoảng gần 4% năm 2023.
HS 10; 1,50%
HS khác; 3,86%
HS 21; 3,73%
HS 19; 2,67%
HS 20; 5,47%
HS 10; 2,20%
HS 09; 51,00%
HS 19; 3,99%
HS 08; …
HS 08; 24,69%
HS 09; 76,38%
HS 09
HS 08
HS 19
HS 10
HS 09
HS 08
HS 19
HS 10
HS khác
HS 20
HS 21
HS khác
Hình 4.13. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Hình 4.14. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt
Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm 2023
2012 (%) (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Từ phân tích số liệu trên, có thể thấy nguyên nhân gây ra sự chênh lệch rõ rệt
giữa các nhóm ngành hàng là do hầu hết các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam sang thị trường EU đều thuộc nhóm 2 (HS 06 -14); trong đó chủ yếu là HS
84
09, HS 08 và HS 10; theo sau là Nhóm 3 với HS 19, HS 20, HS 21.
4.1.3.3. Thực trạng xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU
Như vậy, 06 nhóm mặt hàng nông sản chính xuất khẩu sang EU gồm nhóm
HS 09, HS 08, HS 19; HS 10, HS 20 và HS21. Trong mục này, nghiên cứu phân tích
cụ thể hơn các mặt hàng chủ lực trong các nhóm mặt hàng trên gồm: mặt hàng cà phê
(HS 0901) và các chế phẩm từ cà phê (HS 2101 gồm HS 210111 và HS 210112), hạt
điều (HS 080132), rau quả (HS 07, HS 08 trừ HS 0801 và HS 20), hạt tiêu (HS 0904
gồm HS 090411 và HS 090412), gạo (HS1006). Đây là các mặt hàng tiêu biểu, có
kim ngạch xuất khẩu lớn sang EU.
4.1.3.3.1. Mặt hàng cà phê
Theo cơ sở dữ liệu thương mại Trademap, hàng năm EU nhập khẩu mặt hàng
cà phê đạt khoảng 10 tỷ USD từ các quốc gia đối tác, đặc biệt đạt đỉnh trong năm
2022 với 13,6 tỷ USD; thị trường EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất toàn cầu
(chiếm khoảng trên 30% lượng tiêu thụ trên thế giới). Vì vậy, EU là thị trường đối
tác quan trọng của Việt Nam trong ngành hàng này.
Cà phê và các chế phẩm từ cà phê là mặt hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng kim ngạch nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU. Tỷ trọng
này có xu hướng thay đổi trong giai đoạn 2012 – 2023 nhưng vẫn đạt trong khoảng
120%
100%
80%
60%
40%
20%
0%
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023
Cà phê
Tổng nông sản xuất khẩu
từ 40% - 63% của tổng kim ngạch nông sản xuất khẩu sang EU (Hình 4.15).
Hình 4.15: Tỷ trọng cà phê trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam
sang EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
85
Về kim ngạch xuất khẩu: Trong thời kỳ 2012–2023, giá trị xuất khẩu trung bình
của toàn bộ các sản phẩm cà phê Việt Nam sang EU đạt khoảng 1,2 tỷ USD mỗi năm.
Riêng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU đạt 1,7 tỷ USD, khẳng định
EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 35% tổng giá trị xuất
khẩu cà phê.
Xu hướng xuất khẩu mặt hàng cà phê dao động tăng giảm không ổn định qua
các năm. Từ năm 2016 - 2020, giá trị xuất khẩu có xu hướng giảm liên tục từ 1,27 tỷ
USD năm 2016 xuống còn 914 triệu USD năm 2020 (Hình 4.16). Nguyên nhân của
sự sụt giảm này có thể vì hai lý do chính: thứ nhất là do sự cạnh tranh gay gắt của các
quốc gia khác cũng xuất khẩu cà phê sang EU như Brazil. Brazil cũng đã đã kí kết
FTA với EU, do đó, cũng được nhận những ưu đãi về thuế quan như Việt Nam. Hơn
nữa, Brazil xuất khẩu cả hai loại cà phê là Arabica và Robusta trong khi Việt Nam lại
chủ yếu sản xuất và xuất khẩu Robussta mà người tiêu dùng EU đang có xu hướng
yêu thích Arabica hơn. Thứ hai, xuất khẩu cà phê cũng chịu tác động nhất định từ đại
dịch Covid -19.
Việc thực thi Hiệp định EVFTA đã giúp 93% dòng thuế đối với cà phê xuất
khẩu sang EU được xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đây là cơ hội quan
trọng cho ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt khi EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn
nhất thế giới. Tuy nhiên, những thách thức từ đại dịch Covid-19 cùng với tình trạng
gián đoạn trong chuỗi logistics đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu cà phê
của Việt Nam sang khu vực này.
Giai đoạn từ 2021 – 2023, xuất khẩu cà phê chứng kiến xu hướng tăng trở lại
và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2022 và 2023 với kim ngạch đạt khoảng 1,7 tỷ
USD/năm (Hình 4.16). Điều này cho thấy ngành cà phê Việt Nam đang khai thác
hiệu quả các ưu đãi thuế quan từ EVFTA. Đồng thời, cà phê Việt Nam ngày càng đáp
ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường EU, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh và
khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng: Mã hàng cà phê xuất khẩu sang EU
chiếm tỷ trọng chủ yếu là mã HS 090111 (cà phê chưa rang hoặc chưa khử caffein),
chiếm trên 90% trong tổng giá trị xuất khẩu cà phê sang EU trong giai đoạn 2012-
2023. Theo sau đó là mã hàng HS 210111 (cà phê hoà tan) với giá trị xuất khẩu
đạt 88 triệu USD. Đứng thứ ba là mã HS 090112 (cà phê đã khử caffein). Cà phê
đã khử caffein có xu hướng tăng lên nhanh chóng theo các năm trong giai đoạn
2012 – 2023 từ chỉ hơn 6 triệu USD năm 2012 tăng đạt trên 75 triệu USD năm
86
2023. Các mã hàng khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Như vậy có thể thấy, giá
trị xuất khẩu mặt hàng cà phê còn chưa cao khi tỷ trọng chủ yếu thuộc về cà phê
2000000
1800000
1600000
1400000
1200000
1000000
800000
600000
400000
200000
0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023
HS 090111
HS 090112
HS 090121
HS 090122
HS 210111
HS 210112
chưa rang hoặc chưa khử caffein.
Hình 4.16: Diễn tiến xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU theo phân loại mã
hàng HS 6 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Về cơ cấu xuất khẩu cà phê theo thị trường: Các thị trường chính trong EU của
cà phê xuất khẩu Việt Nam bao gồm 5 quốc gia: Đức, Italy, Tây Ban Nha, Bỉ và Pháp,
chiếm khoảng trên 80% cà phê nhập khẩu từ Việt Nam trong toàn khối. Trong đó,
Đức luôn duy trì là thị trường đối tác lớn nhất với kim ngạch trung bình trong giai
đoạn 2012 – 2023 đạt trên 400 triệu USD/năm; theo sau là Italy với trên 220 triệu
USD, Tây Ban Nha với khoảng 200 triệu USD, Bỉ với khoảng 120 triệu USD và cuối
cùng là Pháp với khoảng 60 triệu USD (Hình 4.17).
Xu hướng xuất khẩu cà phê tại các thị trường chủ yếu này trong giai đoạn 2012
– 2023 dao động không ngừng theo các năm. Tuy nhiên sau đại dịch Covid – 19 với
nhiều khó liên quan đến tình hình vận chuyển, logisstics, đứt gãy chuỗi cung ứng,…
thì kim ngạch xuất khẩu cà phê đã phục hồi và có chiều hướng tăng lên từ 2021 -
2023. Đức được đánh giá là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất EU, hơn nữa đây còn
là cửa ngõ trung chuyển trong thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và EU. trong năm
2021, tỷ trong giá trị cà phê sang Đức chiếm đến 41.95%, năm 2023 chiếm khoảng
32,38% . Tronh khi Ý duy trì chiếm khoảng 23% trong tổng giá trị cà phê xuất khẩu
87
sang EU (Hình 4.17).
1800000
1600000
1400000
1200000
1000000
800000
600000
400000
200000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Đức
Ý
Tây Ban Nha
Bỉ
Pháp
EU27
Hình 4.17: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu cà phê (HS 090111) Việt Nam sang EU
theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Ngoài các thị trường chủ yếu nêu trên, trong giai đoạn từ 2020 – 2023, cà phê
Việt Nam còn ghi nhận các giá trị xuất khẩu sang các quốc gia khác trong EU như
Hungary, Estonia. Dù kim ngạch xuất khẩu còn thấp (Hungary với khoảng trên 7 triệu
USD và Estonia với khoảng gần 600 nghìn USD) nhưng tốc độ tăng trưởng đạt lần
lượt trên 500% và 380% thì đây là hai thị trường được đánh giá là tiềm năng đối với
cà phê Việt Nam mà các doanh nghiệp cần khai thác.
Hiện nay EVFTA đã bước sang năm thứ tư có hiệu lực. Các cam kết cắt giảm
thuế quan sâu rộng sẽ là một cơ hội lớn cho mặt hàng nông sản chủ lực này của Việt
Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê cần tiếp tục nâng
cao chất lượng cà phê để có chỗ đứng với thị phần lớn trong thị trường EU, cạnh
tranh được với các quốc gia khác cũng có thế mạnh xuất khẩu cà phê trên thế giới
như Brazil, Colombia, Peru,…
4.1.3.3.2. Mặt hàng hạt điều
Mã hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai sang EU là mặt hàng
hoa quả và các loại hạt thuộc HS 08. Trong đó, phân nhóm HS0801 (Dừa, hạt Brazil
và hạt điều, tươi hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc bóc vỏ) chiếm tỷ trọng chủ yếu,
88
trên 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Ngoài ra, các mặt hàng các loại
hạt khác (HS 0802), Chuối (HS 0803), cam quýt (HS 0805), các loại quả họ dâu tây,
mâm xôi (HS 0810) và các loại trái cây và hạt chưa hoặc đã qua chế biến (HS 0811)
cũng đã có những sự tăng trưởng trong giá trị xuất khẩu sang EU giai đoạn 2012 – 2023
1000000
900000
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
HS 0801
HS 0802
HS 0804
HS 0805
HS 0810
HS 0811
Các mặt hàng khác
với kim ngạch trung bình khoảng từ 6 - 20 triệu USD tuỳ mã hàng (Hình 4.18).
Hình 4.18: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hoa quả và các loại hạt của Việt Nam
sang EU theo mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Trong HS 0801 thì mặt hàng hạt điều (HS 080132) là mặt hàng chiếm tỷ trọng
xuất khẩu chủ yếu (95% trong tổng kim ngạch mã HS 0801) với giá trị trung bình
khoảng trên 600 triệu USD/năm trong giai đoạn 2012 – 2023. EU là đối tác đứng thứ
2 (sau Hoa Kỳ) trong các đối tác nhập khẩu hạt điều của Việt Nam với tỷ trọng trên
20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều.
Kim ngạch xuất khẩu hạt điều sang EU giai đoạn 2013- 2017 chứng kiến một
xu hướng tăng nhanh từ 272,6 triệu USD (2013), đạt đỉnh năm 2017 với 851,4 triệu
USD. Năm 2017, giá trị xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang EU tăng đột biến vì
trong giai đoạn này nhu cầu của thế giới nói chung và EU nói riêng tăng cao trong
khi nguồn cung tại quốc gia sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này trên thế giới lại giảm
trầm trọng khiến cho giá hạt điều tăng mạnh trên trên thế giới; điều đó đã giúp giá trị
xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đạt mức kỷ lục. Trong năm này, giá nhân điều của
Việt Nam trung bình đạt 10 nghìn USD/tấn, cao hơn năm trước 22,3 % (Bộ Công
thương, 2022), do đó, đã giúp hạt điều của Việt Nam khẳng định được vị trí số 1
89
trên thị trường xuất khẩu toàn cầu.
900000
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Hà Lan
Đức
Pháp
Tây Ban Nha
Ý
EU
Hình 4.19: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt điều của Việt Nam sang EU theo
thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Năm 2018 – 2019, kim ngạch xuất khẩu hạt điều giảm còn khoảng 740 triệu
USD/năm. Nguyên nhân của sự sụt giảm này được cho là do sự thiếu hụt nguồn cung
hạt điều thô, cùng với đó là ảnh hưởng nặng nề vì nạn mọt cứng (Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 2018).
Giai đoạn từ 2020 – 2023 giá trị xuất khẩu tăng nhẹ và ổn định với kim ngạch
trung bình khoảng 780 triệu USD/năm. Mặc dù trong giai đoạn này, xuất khẩu hạt
điều chiụ tác động tiêu cực từ nhiều yếu tố như đại dịch Covid-19, chi phí cước vận
tải biển tăng cao và tình trạng tắc nghẽn tại các cảng biển hay tình trạng thiếu nhân
công,… nhưng xuất khẩu hạt điều sang EU vẫn ghi nhận mức tăng trưởng dương là
nhờ nhu cầu tiêu dùng của EU tăng (Europa, 2022); đồng thời, hạt điều chế biến của
Việt Nam đã được hưởng các ưu đãi thuế quan 0% khi EVFTA có hiệu lực (trước đó
mức thuế cho điều chế biến là 7 – 12% , nhân điều là 0%).
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: Hà Lan là thị trường xuất khẩu chủ đạo. Trước
2020, giá trị nhập khẩu hạt điều Việt Nam của Hà Lan luôn đạt từ 50% - 65% tổng
giá trị nhập khẩu của toàn EU. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trọng từ 10 – 16%; theo
sau là Ý, Pháp, Tây Ba Nha. Từ 2021 – 2023, trong khi tỷ trọng này tại Hà Lan giảm
thì ở Đức lại tăng lên (Hình 4.20). Điều này cho thấy, nhu cầu hạt điều tại hai nước
90
cao để phục vụ cho ngành chế biến thực phẩm và tiêu thụ của người dân. Hơn nữa,
Hà Lan và Đức cũng là đầu mối thương mại quan trọng của mặt hàng này phục vụ
70,00%
60,00%
50,00%
40,00%
30,00%
20,00%
10,00%
0,00%
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Các nước còn lại
Hà Lan
Đức
Pháp
Tây Ban Nha
Ý
hoạt động tái xuất (Bộ Công thương, 2022).
Hình 4.20: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu hạt điều (HS 080132) Việt Nam sang EU
theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xuất khẩu hạt điều sang các quốc gia khác như
Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan, Phần Lan, Bồ Đào Nha,… Trong đó 5 đối tác
chính gồm Hà Lan, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha chiếm tỷ trọng trên 85% tổng giá trị
hạt điều xuất khẩu sang toàn EU. Như vậy, hạt điều Việt Nam có nhiều tiềm năng
phát triển xuất khẩu sang thị trường EU.
4.1.3.3.3. Rau quả
Rau quả cũng là một trong các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU. Các
mặt hàng rau củ nằm trong các mã HS 07 (Rau tươi và sơ chế) , HS 08 (quả tươi và
sơ chế, trừ HS 080132) và HS 20 (Rau quả đã qua chế biến). Đây được đánh giá là
mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh nhờ vào điều kiện tự nhiên và khí hậu phù hợp
• Về kim ngạch xuất khẩu:
cho việc sản xuất và xuất khẩu.
Tổng giá trị xuất khẩu các mặt rau quả Việt nam sang EU giai đoạn 2012 –
2023 chứng kiến xu hướng tăng liên tục và mạnh mẽ qua các năm. Nếu như năm
2012, kim ngạch chỉ đạt trên 50 triệu USD thì năm 2023 đã đạt 326,79 triệu USD.
91
Như vậy, trong 11 năm, xuất khẩu rau quả sang EU đã tăng gấp hơn 6 lần. Mặc dù
tốc độ tăng trưởng không ổn định do các quy định nghiêm ngặt liên quan đến quy
trình bảo quản rau quả và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Năm 2020, EVFTA có
hiệu lực đã tiếp tục giúp cho kim ngạch xuất khẩu rau quả tiếp tục tăng trưởng nhờ
những cam kết cắt giảm thuế quan về 0 cho 94% trong tổng số 547 dòng thuế đối với
rau quả và các chế phẩm từ rau quả. Trong đó, các mặt hàng như vải, nhãn, thanh
long, chôm chôm, dứa,… là thế mạnh của Việt Nam sẽ được hưởng lợi ngay lập tức
trong khi trước đây mức thuế MFN trung bình áp với các mặt hàng. Này là từ 10%, -
trên 20%. Như vậy, cam kết mở cửa sâu rộng như vậy của EU đối với Việt Nam sẽ
giúp ngành rau quả của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh với các quốc gia là đối thủ
cạnh tranh của Việt Nam nhưng chưa ký kết FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc,
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
HS 07(Rau tươi và sơ chế)
HS 08 (Quả tươi và sơ chế, trừ HS 0801)
HS 20 (Eau quả đã qua chế biến)
Tổng
Malaysia hay Indonesia (Bộ Công thương, 2022).
Hình 4.21: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU theo
mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
• Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng:
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Trong giai đoạn từ 2012 - 2023, nhóm rau quả chế biến (HS20) chiếm tỷ trọng
cao nhất trong ba nhóm rau quả. Kim ngạch HS 20 đã có xu hướng tăng mạnh trong
giai đoạn này từ 17,57 triệu USD năm 2012 lên 125,9 triệu USD năm 2022 và đạt
đỉnh với 201,46 triệu USD. Như vậy trong 12 năm, kim ngạch đã tăng gấp hơn 10
lần. Đồng thời với đó, tỷ trọng nhóm rau quả chế biến đã tăng từ 34,9% năm 2012
92
lên 65% năm 2022 (Hình 4.22). Sự tăng trưởng này cho thấy rằng các sản phẩm rau
quả chế biến đang dần phát triển và có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường EU.
Đặc biệt, nhóm hàng này đã tăng trưởng mạnh mẽ nhờ sự đầu tư lớn của tập đoàn
như VinGroup, T&T, LaviFoods,...
Đứng thứ hai là nhóm quả tươi và sơ chế (HS 08 trừ HS 0801). Giai đoạn từ 2012
– 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm này tăng mạnh qua các năm từ 19 triệu
USD (2012) lên gần 101 triệu USD (2021). Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu đã giảm mạnh
trong năm 2022 xuống chỉ còn 51 triệu USD trước khi tăng trưởng trở lại vào 2023
với 111 triệu USD. Trong cơ cấu xuất khẩu ngành rau quả, năm 2022, tỷ trọng HS
08 trong tổng xuất khẩu ngành rau quả giảm từ 53,8% xuống còn 26,4% (giảm hơn
27%) (Hình 4.22).
Cuối cùng, giá trị xuất khẩu của nhóm rau tươi và sơ chế (HS 07) đạt trung bình
quả 12 triệu USD/ năm trong giai đoạn 2012 – 2018 và trung bình khoảng 16 triệu
USD/ năm giai đoạn 2019 – 2023. Nhóm HS 07 chiếm tỷ trọng thấp nhất và có xu
120,0%
100,0%
34,9%
80,0%
32,9% 38,6% 38,8% 36,6%
48,6% 45,3% 46,2% 48,5% 45,9%
65,2% 61,6%
60,0%
38,1%
40,0%
57,5% 51,4% 51,4% 53,8%
30,7% 36,9% 39,8% 38,5% 43,2%
26,4% 34,0%
20,0%
26,9% 20,7% 17,8% 13,9% 13,1% 10,9% 9,6% 9,9% 9,8% 9,6% 8,4% 4,3%
0,0%
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
HS 20 (Eau quả đã qua chế biến)
HS 08 (Quả tươi và sơ chế, trừ HS 0801)
HS 07(Rau tươi và sơ chế)
hướng giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2012 – 2023 (Hình 4.22).
Hình 4.22: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU,
giai đoạn 2012 – 2023 (%)
• Về cơ cấu thị trường xuất khẩu:
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
EU hiện là đối tác nhập khẩu rau quả lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Mỹ,
ASEAN) của Việt Nam chiếm 6,1% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong
93
năm 2023.
Trung Quốc
7,14%
2,27% 1,77% 2,35%
Hoa Kỳ
3,99%
ASEAN
EU
4,53%
Hàn Quốc
46,43%
Nhật Bản
5,98%
Đài Loan
6,11%
Úc
Hồng Kong (Trung Quốc)
8,99%
Canada
10,42%
Các nước khác
Hình 4.23: Cơ cấu các đối tác nhập khẩu rau quả chính của Việt Nam, 2023 (%)
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
Xét về cơ cấu thị trường các quốc gia thuộc EU: Hà Lan là quốc gia nhập khẩu
rau quả từ Việt Nam nhiều nhất trong khối EU chiếm hơn 48% (115 triệu USD) trong
tổng kim ngạch rau quả Việt Nam xuất sang EU năm 2023. Hơn nữa, Hà Lan cũng
được coi là “cửa ngõ” để hàng hoá Việt Nam xuất sang EU. Theo sau là Pháp với 38
triệu USD chiếm 15,9% trong tổng cơ cấu và và Đức với 27 triệu USD chiếm 11,42%.
Theo sau là quốc gia như Bỉ, Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha với tỷ trọng khoảng trên
3%/nước. Ngoài ra, các quốc gia khác, mặc dù giá trị xuất khẩu còn khiêm tốn nhưng
9,21
3,04
3,33
3,39
5,4
48,3
11,42
chứng tỏ thị trường EU còn rất nhiều tiềm năng cho rau quả của Việt Nam.
15,91
Hà Lan Pháp Đức Bỉ Ba Lan Italy Tây Ban Nha 20 nước còn lại
Hình 4.24: Cơ cấu thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam, 2023 (%)
94
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2023)
Như vậy, có thể nhận định rằng Việt Nam còn rất nhiều cơ hội trong việc xuất
khẩu rau quả sang EU. Tuy nhiên, đây là mặt hàng mà EU có những yêu cầu nghiêm
ngặt; vì vậy, ngành rau quả cần phải đáp ứng được đầu đủ các quy định về truy xuất
nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm
thì mới có thể chiếm lĩnh được thị trường này.
4.1.3.3.4. Mặt hàng hạt tiêu
Hạt tiêu (HS 0904 gồm HS 090411 và HS 090412) cũng là một trong các mặt
• Về kim ngạch xuất khẩu:
hàng nông sản chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang EU.
Giai đoạn 2012 – 2023 chứng kiến một xu hướng không ổn định trong tổng
giá trị xuất khẩu hạt tiêu sang EU. Giá trị xuất khẩu lớn nhất được ghi nhận trong giai
đoạn 2012 – 2015 với giá trị bình quân đạt 246 triệu USD/năm. Tuy nhiên, từ năm
2016, giá trị xuất khẩu bắt đầu sụt giảm mạnh, từ đỉnh với 261,8 triệu năm 2015 đã
giảm xuống còn 238 triệu USD năm 2016 và xu hướng giảm tiếp tục tiếp diễn đến
2020 còn 108 triệu USD, giảm khoảng 55% so với 2015. Nguyên nhân sụt giảm được
cho là trong bốn năm từ 2017 – 2020, nguồn cung hạt tiêu dư thừa do được mùa, diện
tích trồng và sản lượng của các quốc gia đều gia tăng, dẫn tới giá và lượng xuất khẩu
đều giảm; đồng thời, đại dịch Covid -19, giá logistics tăng cao cũng tác động mạnh
mẽ đến mặt hàng hạt tiêu trong giai đoạn này. Tuy nhiên, năm 2021 đã đánh dấu sự
tăng trưởng trở lại trong giá trị xuất khẩu hạt tiêu với 181,9 triệu USD, tăng 70.2%
so với năm 2020. Năm 2022 tiếp tục tăng đạt 203,2 triệu USD trước khi lại bị sụt
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
090411 (Hạt tiêu chưa xay, nghiền)
090412 (Hạt xêu đã xay, nghiền)
Tổng
giảm trong 2023 còn 145,7 triệu USD (Hình 4.24).
Hình 4.25: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam sang EU, giai
đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
95
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Có sự tăng trưởng trở lại từ 2021 là nhờ ưu đãi thuế quan từ EVFTA đã xóa
bỏ 100% thuế quan đối với hạt điều ngay khi có hiệu lực. Sự tăng trưởng trở lại cho
• Về cơ cấu xuất khẩu theo chủng loại mặt hàng
thấy Việt Nam đã tận dụng tốt ưu đãi này.
Hạt tiêu xuất khẩu sang EU bao gồm hạt tiêu chưa xay/nghiền (HS 090411) và hạt
tiêu đã xay/nghiền (HS 090412); trong đó hạt tiêu chưa xay/nghiền chiếm tỷ trọng chủ
yếu với giá trị bình quân chiếm 80% trong tổng giá trị xuất khẩu tại giai đoạn 2012 –
2023. Hình 4.25 minh hoạ chi tiết diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng
100,0%
90,0%
80,0%
70,0%
60,0%
50,0%
40,0%
30,0%
20,0%
10,0%
0,0%
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
090411 (Hạt tiêu chưa xay, nghiền)
090412 (Hạt xêu đã xay, nghiền)
của Việt Nam sang EU, giai đoạn 2012 – 2023.
Hình 4.26: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng của Việt Nam sang
EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%)
• Về cơ cấu xuất khẩu theo thị trường
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)
So với các thị trường đối tác trên thế giới thì EU chiếm 19.9% tổng giá trị hạt
tiêu xuất khẩu của Việt Nam. Đối với thị trường trong nội khối thì Đức và Hà Lan
hai quốc gia nhập khẩu hạt tiêu nhiều nhất, theo sau là Tây Ban Nha, Pháp, Ba Lan.
Đức là thị trường trong EU nhập khẩu hạt tiêu lớn nhất từ Việt Nam, chiếm
trung bình khoảng 30% thị phần/năm trong giai đoạn 2012-2023. Giá trị xuất khẩu
trong giai đoạn này có xu hướng giảm từ 79,2 triệu USD năm 2012 còn 32,6 triệu
USD năm 2020 (giảm gần 60%). Năm 2021 phục hồi và đạt được 61,4 triệu USD
96
năm 2022, sau đó lại chứng kiến một sự sụt giảm mạnh còn 44,8 triệu USD năm 2023.
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Đức
Pháp
Hà Lan
Tây Ban Nha
Ba Lan
EU 27
Hình 4.27: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo thị trường trong EU của Việt
Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Nhìn chung, hạt tiêu Việt Nam đã khẳng định được chất lượng, đáp ứng được các
quy định nghiêm ngặt của EU, đồng thời tận dụng được các ưu đãi mà EVFTA mang
lại. Tuy nhiên, để phát triển xuất khẩu hạt tiêu sang EU, doanh nghiệp cần tiếp tục thu
hút đầu tư, phát triển nhà máy sản xuất, tận dụng nguồn nguyên liệu và nhân lực.
4.1.3.3.5. Mặt hàng gạo
Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo. Từ đó cho đến nay, Việt Nam
luôn giữ vị trí trong top 3 các nước xuất khẩu gạo nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên,
phần gạo xuất khẩu sang EU chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng 1,3% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu; ở chiều ngược lại, thị phần gạo của Việt Nam tại EU cũng rất khiêm tốn, chỉ
• Về kim ngạch xuất khẩu:
chiếm 3,1% tổng lượng gạo ngoại khối nhập khẩu vào EU (Bộ Công thương, 2022).
Giai đoạn 2012 – 2023 đã chứng kiến một xu hướng tăng trong giá trị xuất khẩu
các mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU từ 29 triệu USD (năm 2012) lên 91,5 triệu USD
năm 2022 trước khi bị sụt giảm còn 80,49 triệu USD năm 2023 (Hình 4.28). Tuy nhiên,
trong giai đoạn này, thời kỳ 2016 – 2018, xuất khẩu các mặt hàng gaọ bị sụt giảm tương
đối mạnh vì những lý do như gạo Việt Nam chưa đáp ứng được những quy định liên
quan đến rào cản kỹ thuật, phải cạnh tranh với các quốc gia khác, trong khi điều kiện
97
trong nước gặp nhiều khó khăn do điều kiện thời tiết, thiên tai tác động.
Thời kỳ từ 2019 - 2022 đánh dấu một sự tăng trưởng vượt bậc của kim ngạch
xuất khẩu gạo Việt Nam sang EU với giá trị xuất khẩu đạt 29,33 triệu USD, tăng gấp
2,25 lần so với năm 2018. Đến năm 2022, giá trị xuất khẩu đã đạt 91,5 triệu USD.
Như vậy chỉ trong 4 năm, kim ngạch xuất khẩu gạo đã tăng gấp 3,12 lần. Mặc dù đây
là giai đoạn khó khăn vì đại dịch Covid – 19 và tình hình thời tiết bất lợi nhưng xuất
khẩu gạo Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Nguyên nhân cho sự tăng trưởng này đến
từ mộ số lý do là Việt Nam đã chú trọng tăng xuất khẩu gạo có chất lượng tốt như
ST24, ST25, với giá cao, giảm xuất khẩu các loại gạo chất lượng trung bình và thấp;
ngoài ra, nhu cầu về đảm bảo an ninh lương thực trong giai đoạn Covid – 19 tăng
cao. Hơn nữa, EVFTA có hiệu lực đã giúp gạo Việt Nam được hưởng thuế suất 0%
với hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm trong khi trước đây thuế suất của thể là 45%
(VCCI, 2023). Tuy nhiên, sang 2023, kim ngạch xuất khẩu gạp đã có sự sụt giảm do
100000
90000
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Tổng
HS 100610 (Thóc)
HS 100640 (Gạo tấm)
HS 100620 (Trấu hoặc gạo lứt) HS 100630 (Gạo đã xay xát)
chịu tác động của sức ép cạnh tranh từ các thị trường khác.
Hình 4.28: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU, giai đoạn
2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Tuy nhiên, tựu chung lại, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU
98
giai đoạn 2012 – 2023 đã tăng trưởng vượt bậc nhưng thị phần mới chiếm khoảng
trên 3,1% trong tổng kim ngạch gạo mà EU nhập khẩu từ các nước đối tác trên thế
giới. Do đó, EU vẫn là một thị trường nhiều tiềm năng đối với mặt hàng này. Tuy
nhiên, muốn tận dụng được các cơ hội, thâm nhập được vào EU thì gạo Việt Nam
cần phải giải quyết được những thách thức liên quan đến các quy định về các BPPTQ
như nguồn gốc xuất xứ, các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn
• Về cơ cấu xuất khẩu theo chủng loại gạo:
phát triển bền vững về lao động, môi trường.
Hiện nay, gạo đã xay xát (HS 100630) là mã hàng có kim ngạch xuất khẩu
sang EU lớn nhất. chiếm trung bình trên 80% trong tổng giá trị xuất khẩu sang EU.
Theo sau là mã gạo lứt và gạo tấm với hai xu hướng trái ngược nhau trong giai đoạn
2012 – 2023; trong khi gạo lứt có xu hướng tăng lên thì gạo tấm đang chứng kiến một
• Về thị trường xuất khẩu:
xu hướng giảm theo các năm (Hình 4.27).
Giai đoạn từ 2012 – 2018, gạo Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các thị
trường chính như Bỉ, Hà Lan, Đức. Từ 2018 – 2023, Ý, Pháp, Đức, Hà Lan, Ba Lan
là các quốc gia nhập khẩu chủ yếu (Hình 4.29).
Tại thị trường Bỉ, nếu như năm 2012 – 2013, tỷ trọng nhập khẩu gạo Việt Ma
của Bỉ đạt 12,5 triệu USD, chiếm đến trên 43,1 % trong tổng giá trị nhập khẩu của
toàn EU thì từ 2014, tỷ trọng này đã giảm dần, đến 2023, giá trị nhập khẩu gạo Việt
Nam của Bỉ chỉ còn chiếm 3,67%.
Ngược lại với Bỉ thì Italia lại có xu hướng nhập khẩu gạo từ Việt Nam ngày
càng nhiều. Năm 2012, Ý chỉ chiếm 1,14% trong tổng lượng gạo nhập khẩu của EU
từ Việt Nam. Thì năm 2019, tỷ trọng này đã đạt 17,51% và đạt đỉnh trong năm 2022
với 31,13%.
Còn các thị trường như Đức, Ba Lan, Hà Lan, Pháp thì chứng kiến một xu
hướng tăng dần đều về giá trị nhập khẩu gạo từ Việt Nam qua các năm trong giai
đoạn 2012 – 2023. Tại Đức, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp hơn 6,5
lần từ hơn 2 triệu USD năm 2012 lên 13,98 triệu USD năm 2023. Hà Lan tăng từ 2,2
triệu USD lên 6,69 triệu USD, Pháp từ 789 nghìn USD lên 15,29 triệu USD (gấp hơn
15 lần trong vòng 12 năm). Ba Lan cũng tăng gấp gần 9 lần từ 792 nghìn USD lên
99
6,86 triệu USD.
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
Đức
Ba lan
Hà Lan
Italy
Pháp
Bỉ
Lithuania
Hình 4.29: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU theo các thị
trường chính, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)
Như vậy, một bức tranh đầy đủ về thực trạng XKNS Việt Nam sang EU trong giai
đoạn từ 2012 đến 2023 với đầy đủ các phân tích về kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu
xuất khẩu theo thị trường, theo mặt hàng đã được phân tích đánh giá. Qua đó, có thể nhận
định rằng:
- Kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU có sự tăng giảm không ổn định qua
các năm. Tuy nhiên từ năm 2021 – 2023 trở đi kim ngạch đã tăng trưởng
ổn định.
- Về thị trường, EU hiện là đối tác lớn thứ ba nhập khẩu nông sản của Việt
Nam, tuy nhiên, nông sản xuất khẩu Việt Nam mới chiếm tỷ trọng khoảng
2% thị phần hàng nông sản của EU.
- Về cơ cấu thị trường, nông sản Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang 8 nước
thành viên của EU gồm Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Pháp, Ba Lan
và Bồ Đào Nha chiếm trung bình 92% tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản
của toàn EU từ Việt Nam.
- Nhóm hàng nông sản chiếm tỷ trọng chủ yếu là nhóm 2 - Nhóm thực vật,
100
chiếm trên 80% tổng hàng nông sản với các mặt hàng chủ lực gồm HS 09,
HS 08, HS 19; HS 10, HS 20, HS21; theo sau là Nhóm 3 – nhóm chế biến
và cuối cùng Nhóm 1 – nhóm hàng động vật có giá trị xuất khẩu sang EU là
không đáng kể.
- Các mặt hàng chủ lực, chiếm trên 95% tổng giá trị XKNS sang EU bao gồm
cà phê (HS 0901) và các chế phẩm từ cà phê (HS 2101 gồm HS 210111 và
HS 210112), hạt điều (HS 080132), rau quả, hạt tiêu, gạo.
4.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông sản
nhập khẩu
4.2.1. Hệ thống quy định của EU về các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản nhập
khẩu
Liên minh châu Âu (EU) là khối liên kết khu vực với hệ thống chính sách thống
nhất của 27 quốc gia thành viên. Trong EU, có một hệ thống cơ quan quyền lực siêu
quốc gia gồm các cơ quan chủ chốt như Uỷ ban châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Nghị
viện châu Âu. Việc ban hành các quy định pháp lý của EU sẽ được Ủy ban châu Âu
đệ trình và phải được Hội đồng Châu Âu và Nghị viện châu Âu thông qua. Hai văn
bản pháp lý mà EU ban hành bao gồm Quy định và chỉ thị. Các văn bản này sau khi
được thông qua sẽ có hiệu lực pháp lý đối với tất cả các quốc gia thành viên. Đối với
các văn bản là Quy định, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ tuyệt đối tất
cả các yêu cầu trong Quy định. Còn đối với văn bản là Chỉ thị thì sẽ nêu các chính
sách, định hướng chung; các quốc gia thành viên có quyền tự do lựa chọn cách thức
triển khai chính sách tuỳ thuộc vào điều kiện và ý chí của quốc gia thành viên.
Trong lĩnh vực liên quan đến các BPPTQ áp dụng đối với các mặt hàng nông
sản (gồm các nhóm hàng liên quan động vật, thực vật và thực phẩm chế biến) có các
Quy định cần lưu ý gồm:
4.2.1.1. Luật thực phẩm chung và các Quy định về nguyên tắc chung
Quy định số 178/2002/EU, còn được gọi là Luật Thực phẩm Chung của EU,
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người tiêu
dùng thông qua việc thiết lập các nguyên tắc chung về an toàn thực phẩm và thức
ăn chăn nuôi. Luật này đặt nền tảng cho hệ thống quản lý thực phẩm nghiêm ngặt
của EU, đảm bảo rằng mọi sản phẩm thực phẩm được kiểm soát chặt chẽ từ khâu
sản xuất, chế biến đến phân phối. Các quy định trong luật áp dụng cho toàn bộ
chuỗi cung ứng thực phẩm, từ giai đoạn nuôi trồng ban đầu tại trang trại đến khi
sản phẩm đến tay người tiêu dùng, nhằm đảm bảo chất lượng, an toàn và minh
101
bạch trong ngành thực phẩm.
Các quốc gia ngoài EU muốn xuất khẩu thực phẩm vào thị trường này phải tuân
thủ các quy định của Luật Thực phẩm Chung EU. Các nhà nhập khẩu EU có trách
nhiệm đảm bảo rằng thực phẩm nhập khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn và chất
lượng, đồng thời cung cấp bằng chứng tuân thủ khi cần. Vì vậy, các nhà nhập khẩu
EU có nghĩa vụ yêu cầu các nhà cung cấp ở nước xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu
chuẩn do Luật Thực phẩm EU đặt ra.
Sau khi Luật được thông qua bởi Nghị viện và Hội đồng châu Âu theo quy trình
lập pháp thì các Quy định này sẽ được áp dụng đồng bộ tại tất cả các nước thành viên.
Ngoài Luật Thực phẩm chung, EU còn ban hành bốn Quy định chi tiết để triển
khai Luật như Hình 2.4.
Các yêu cầu cốt lõi của Luật Thực phẩm Chung của EU nhằm đảm bảo an toàn
Quy định số 178/2002/EC: Luật Thực phẩm Chung EU
Quy định EC 852/2004: Các nguyên tắc vệ sinh thực phẩm.
Quy định EC 882/2004: Các nguyên tắc thanh tra kiểm tra.
Quy định EC 853/2004: Các nguyên tắc vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật.
Quy định CE 854/2004: Các nguyên tắc thanh tra kiểm tra thực phẩm có nguồn gốc động vật.
thực phẩm và bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng trong EU gồm:
Hình 2.4. Sơ đồ các quy định liên quan Luật Thực phẩm chung của EU
Nguồn: Tác giả tổng hợp
- An toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi: Thực phẩm và thức ăn chăn nuôi
phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng và vật nuôi. Chúng không được gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe hoặc không đáp ứng điều kiện tiêu thụ của con
người.
- Ghi nhãn, quảng cáo và trình bày thực phẩm phải trung thực và không được
gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng.
- Truy xuất nguồn gốc: Các doanh nghiệp thực phẩm phải xác định rõ nguồn
gốc của thực phẩm, nguyên liệu hoặc động vật dùng trong sản xuất mà họ
102
nhập từ nhà cung cấp, cũng như các đối tác nhận sản phẩm từ họ. Khi được
yêu cầu, họ phải cung cấp thông tin truy xuất đầy đủ. Quy định này được
xem là cốt lõi trong chính sách an toàn thực phẩm của EU.
được phép lưu hành trên thị trường. Trường hợp đã phân phối đến người tiêu
dùng, sản phẩm phải được thu hồi kịp thời.
- Thu hồi thực phẩm không an toàn: Thực phẩm không đảm bảo an toàn không
Các quy định này nhằm đảm bảo rằng thực phẩm trên thị trường EU không
chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn mà còn đảm bảo quyền lợi và sức khỏe của
người tiêu dùng, đồng thời duy trì tính minh bạch và trách nhiệm trong chuỗi cung
ứng thực phẩm.
4.2.1.2. Quy định về thuốc bảo vệ thực vật và dư lượng tối đa cho phép (MRL) trên
thực phẩm
Quy định về thuốc bảo vệ thực vật: •
Quy định (EC) 1107/2009 về lưu thông thuốc bảo vệ thực vật trên thị trường,
được EU ban hành vào năm 2011, thiết lập các tiêu chuẩn và quy định chi tiết về việc
phê duyệt và cấp phép các hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật tại EU. Việc phê duyệt chỉ
được thực hiện nếu các hoạt chất này đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, các hoạt chất phải đảm bảo an toàn cho sức khỏe con người và động
vật, tức là không gây hại tức thời hoặc lâu dài, bao gồm cả tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua nước uống, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, không khí hoặc tiếp
xúc tại nơi làm việc. Ngoài ra, chúng không được gây ảnh hưởng tiêu cực do tác động
tích lũy hoặc kết hợp, nếu có phương pháp khoa học để đánh giá những tác động này.
Thứ hai, các hoạt chất không được gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường, đặc biệt là đối với các loài sinh vật không thuộc đối tượng phòng trừ và hệ
sinh thái đa dạng sinh học.
Hiện nay, danh sách các hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật được EU phê duyệt
được liệt kê trong Quy định thực hiện (EC) 540/2011 cùng các bản sửa đổi. Danh
mục này có thể được tra cứu trên cơ sở dữ liệu thuốc bảo vệ thực vật của EU, cung
cấp thông tin chi tiết giúp doanh nghiệp và người tiêu dùng xác định các loại thuốc
bảo vệ thực vật được phép sử dụng trong thị trường EU.
• Về dư lượng tối đa cho phép (MRL) trên thực phẩm
Các cơ quan chức năng và người tiêu dùng tại EU đặc biệt lo ngại về dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm. Từ năm 2005, mức dư lượng tối đa (MRL)
103
đã được thiết lập theo một cách tiếp cận đồng bộ trên toàn EU, dựa trên Quy định
(EC) 396/2005 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng về MRL trong hoặc trên thực
phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ động thực vật. Quy định này nhằm đảm
bảo mức độ bảo vệ người tiêu dùng cao nhất, ngăn chặn các rủi ro không thể chấp
nhận đối với sức khỏe con người, đồng thời thiết lập mức dư lượng tối thiểu phù hợp
với Thực hành nông nghiệp tốt (GAP). Ngoài ra, quy định cũng chú trọng đến việc
bảo vệ các nhóm dễ bị ảnh hưởng như trẻ em và thai nhi, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại, đảm bảo sự lưu thông tự do của thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi trong EU, cũng như đề ra các quy định đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc
gia ngoài khối.
• Đảm bảo minh bạch và khả năng dự đoán.
Quy định này áp dụng cho các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật và thực vật,
bao gồm cả các bộ phận của chúng, được sử dụng làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn
nuôi, dù ở trạng thái tươi sống, đã qua chế biến hoặc hỗn hợp. Đồng thời, những sản
phẩm này có thể chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Theo Quy định (EC) 396/2005, các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật và
động vật khi đưa ra thị trường để sử dụng làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn nuôi phải
tuân thủ giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Cụ thể, mức dư lượng tối đa (MRL)
không được vượt quá các giá trị quy định trong Phụ lục II và III của Quy định này.
Đối với các sản phẩm chưa có MRL trong hai phụ lục trên hoặc chứa hoạt chất chưa
được liệt kê trong Phụ lục IV, mức dư lượng tối đa mặc định là 0,01 mg/kg, trừ khi
có một giá trị khác được xác định dựa trên các phương pháp phân tích tiêu chuẩn hiện
Hiện nay, có khoảng 70% MRL do EU ban hành và áp dụng tương đương hoặc cao
hơn tiêu chuẩn do CODEX đặt ra, chỉ có 30% có quy định thấp hơn. Danh mục MRL đối
với thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của EU được cập nhật thường xuyên, với xu hướng
chung là giảm giới hạn MRL nhằm tăng cường an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe người
tiêu dùng. Chẳng hạn, trong năm 2020, có tới 60 điều chỉnh trong danh mục thuốc
có. Những giá trị này sẽ được công bố trong Phụ lục V.
được EU phê duyệt. Phiên bản mới nhất được ban hành vào ngày 14/02/2022, với lần
cập nhật gần nhất vào ngày 16/05/2022.
Việc EU áp dụng tiêu chuẩn MRL nghiêm ngặt với phạm vi điều chỉnh rộng,
tạo rào cản kỹ thuật cho nông sản từ các nước đang phát triển, nơi vẫn phụ thuộc vào
104
phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Từ năm 2017, Ủy ban Châu Âu đã chuyển từ đánh
giá nguy cơ sang phòng ngừa rủi ro, mở rộng phạm vi MRL, hạ thấp giới hạn dư
lượng và siết chặt quy định về thuốc trừ sâu. Hiện EU đang xem xét bổ sung các hoạt
chất bị cấm dù ngành nông nghiệp chưa có giải pháp thay thế phù hợp.
4.2.1.3. Quy định về chất gây ô nhiễm thực phẩm (không phải thuốc bảo vệ thực vật)
EU đã ban hành Quy định Ủy ban (EC) 1881/2006 nhằm quy định giới hạn tối
đa cho một số chất gây ô nhiễm có trong thực phẩm. Những mức giới hạn này được
thiết lập để kiểm soát các chất có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng
EU, do độc tính cao hoặc mức độ phổ biến trong chuỗi cung ứng thực phẩm.
Những chất gây ô nhiễm chính trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật được
giám sát nghiêm ngặt tại EU bao gồm mycotoxin, kim loại nặng (như chì, cadmium),
dioxin và nitrate. Đặc biệt, các nhà sản xuất và xuất khẩu rau quả cần quan tâm đến
giới hạn cho phép đối với chì và cadmium. Các sản phẩm rau quả chế biến như trái
cây sấy khô hoặc nước ép trái cây có thể có quy định riêng, vì các yếu tố như độ pha
loãng hoặc đậm đặc cũng được xem xét.
Do các tiêu chuẩn về mức ô nhiễm tối đa thường xuyên được cập nhật và điều
chỉnh, các quốc gia xuất khẩu thực phẩm vào EU cần theo dõi thông tin mới nhất để
đảm bảo tuân thủ. Duy trì liên hệ chặt chẽ với đối tác nhập khẩu sẽ giúp doanh nghiệp
nắm bắt kịp thời những thay đổi trong quy định, hạn chế rủi ro ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh.
4.2.1.4. Các quy định về các thủ tục quản lý an toàn thực phẩm dựa trên nguyên tắc
phân tích các mối nguy và điểm kiểm soát quan trọng
Các doanh nghiệp cần xây dựng và duy trì một hoặc nhiều quy trình kiểm soát
dài hạn dựa trên các nguyên tắc của hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm
• Nhận diện các mối nguy tiềm ẩn cần được ngăn chặn, loại bỏ hoặc giảm thiểu
tới hạn (HACCP). Những quy trình này bao gồm:
• Xác định các điểm kiểm soát quan trọng trong quy trình sản xuất, nơi cần theo
đến mức an toàn.
• Đặt ra giới hạn cụ thể cho từng điểm kiểm soát nhằm phân biệt rõ ràng giữa
dõi nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn.
• Triển khai hệ thống giám sát liên tục tại các điểm kiểm soát để kịp thời phát
mức độ an toàn và không an toàn.
105
hiện sai lệch.
• Thiết lập phương án xử lý khi có dấu hiệu mất kiểm soát tại điểm kiểm soát
• Định kỳ kiểm tra và đánh giá lại hiệu quả của các biện pháp kiểm soát để đảm
quan trọng.
• Lưu trữ tài liệu và hồ sơ phù hợp với quy mô doanh nghiệp nhằm chứng minh
bảo tuân thủ quy định.
sự tuân thủ quy trình an toàn thực phẩm.
Bên cạnh đó, khi có bất kỳ sự thay đổi nào liên quan đến sản phẩm, quy trình sản
xuất hoặc các công đoạn liên quan, doanh nghiệp cần rà soát và điều chỉnh hệ thống
kiểm soát để đảm bảo hiệu quả và phù hợp với yêu cầu hiện hành.
4.2.1.5. Yêu cầu về chiếu xạ thực phẩm
Việc xử lý thực phẩm bằng phương pháp chiếu xạ phải tuân thủ theo Chỉ thị
1999/2/EC của EU, trong đó quy định danh mục thực phẩm được phép áp dụng, bao
gồm rau quả, cùng với mức liều tối đa có thể sử dụng. Phương pháp này chỉ được
thực hiện khi có lý do công nghệ hợp lý, chẳng hạn như loại bỏ vi sinh vật, virus, vi
khuẩn hoặc côn trùng gây hại; ngăn chặn sự nảy mầm của khoai tây, hành, tỏi; làm
chậm quá trình chín của rau quả, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản và giảm nguy
cơ gây bệnh từ thực phẩm như thịt, gia cầm và hải sản.
Theo Quyết định 2002/840/EC, thực phẩm đã qua chiếu xạ từ các nước ngoài
EU chỉ được phép nhập khẩu nếu đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn EU và được xử lý tại cơ
sở chiếu xạ đã được EU cấp phép. Bên cạnh đó, sản phẩm phải có giấy tờ chứng minh
nguồn gốc, thông tin cơ sở chiếu xạ và các tài liệu theo yêu cầu của EU. Ngoài ra,
bao bì và nhãn mác phải ghi rõ thực phẩm đã được chiếu xạ. Mỗi lô hàng khi xuất
khẩu sang EU cần cung cấp thông tin chi tiết bao gồm số lô, đơn vị yêu cầu xử lý,
ngày chiếu xạ, loại vật liệu đóng gói sử dụng, dữ liệu giám sát quá trình xử lý và tài
liệu xác nhận liều lượng chiếu xạ đã được thẩm định.
4.2.1.6. Yêu cầu về tiêu chuẩn marketing
Luật pháp EU quy định các tiêu chuẩn marketing chung và cụ thể nhằm đảm
bảo chất lượng và độ chín tối thiểu cho rau quả tươi. Những tiêu chuẩn này không
chỉ áp dụng cho chất lượng sản phẩm mà còn quy định về cách trình bày, phân loại
và bán hàng đến tay người tiêu dùng. Theo Quy định (EU) 543/2011, phần lớn rau
quả phải tuân thủ Tiêu chuẩn marketing chung, trong đó yêu cầu sản phẩm phải
106
nguyên vẹn, sạch sẽ, không nhiễm dịch hại, không có độ ẩm bất thường hay mùi, vị
lạ. Ngoài ra, trái cây cần đạt độ chín phù hợp, không quá chín, đảm bảo có thể tiếp
tục chín trong quá trình lưu thông. Đặc biệt, khi nhập khẩu vào EU, mỗi lô hàng chỉ
được phép có tối đa 10% sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, trong
đó không quá 2% bị thối hỏng. Các nước thành viên EU sẽ tiến hành kiểm tra hồ sơ
hoặc trực tiếp sản phẩm để đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn này, và tất cả các lô rau
quả tươi nhập khẩu đều phải có chứng nhận phù hợp. Gần đây, EU đã ban hành Quy
định số 2021/1890, đặt ra tiêu chuẩn marketing cụ thể cho 10 loại sản phẩm tươi gồm
táo, cam quýt, kiwi, rau diếp (lá xoăn và lá rộng), đào, xuân đào, lê, dâu tây, ớt ngọt,
nho và cà chua. Các sản phẩm này được chia thành ba nhóm (loại thượng hạng, loại
I và loại II) với các yêu cầu cụ thể về chất lượng, kích thước, cách trình bày, độ chín
và nhãn mác, đảm bảo đáp ứng các tiêu chí khắt khe trước khi được lưu thông trên
thị trường EU.
4.2.1.7. Yêu cầu của EU về ghi nhãn và đóng gói
Quy định về ghi nhãn thực phẩm và thông tin tối thiểu cần in trên bao bì được
thống nhất trên toàn EU theo Quy định (EU) 1169/2011. Bên cạnh đó, Chỉ thị (EU)
2019/904 về giảm tác hại của sản phẩm nhựa đối với môi trường yêu cầu hạn chế sử
dụng đồ nhựa dùng một lần, thúc đẩy xu hướng sử dụng bao bì thay thế thân thiện
với môi trường. Ngày càng nhiều khách hàng EU đặt ra yêu cầu cao hơn đối với bao
bì bền vững. Do quy định của EU liên tục được điều chỉnh và cập nhật, các nhà sản
xuất và doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này cần thường xuyên theo dõi, kiểm
tra các văn bản pháp luật mới cũng như thông tin do Ủy ban châu Âu (EC) cung cấp
để đảm bảo tuân thủ đầy đủ.
4.2.1.8. Quy định đối với sản phẩm hữu cơ nhập khẩu
EU áp dụng hệ thống kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tuân thủ quy tắc sản xuất
hữu cơ, duy trì niềm tin của người tiêu dùng và giám sát toàn bộ chuỗi cung ứng.
Theo Quy định (EU) 2018/848, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, chỉ các sản phẩm
nhập khẩu đáp ứng tiêu chuẩn tương đương với hàng hóa nội địa EU mới được công
nhận là hữu cơ, đánh dấu sự chuyển đổi từ nguyên tắc tương đương sang nguyên tắc
phù hợp. Các nhà sản xuất và xuất khẩu ngoài EU, bao gồm Việt Nam, có thời gian
chuyển tiếp đến 31/12/2024 để thích ứng. Mỗi quốc gia thành viên EU chỉ định cơ
quan kiểm tra giám sát chuỗi thực phẩm hữu cơ, yêu cầu nhà sản xuất, phân phối và
tiếp thị phải đăng ký trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Chứng nhận hữu cơ chỉ
107
được cấp sau khi sản phẩm đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn.
Việc nhập khẩu và bán sản phẩm hữu cơ tại EU đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu
chuẩn nghiêm ngặt như hàng hóa sản xuất trong EU. Nhà nhập khẩu phải tuân theo
các quy trình kiểm soát tùy theo nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm để đảm bảo tính
hợp lệ.
Logo hữu cơ của EU là dấu hiệu nhận diện chính thức giúp người tiêu dùng
dễ dàng nhận biết sản phẩm đạt chuẩn và hỗ trợ nông dân trong việc tiếp thị trên toàn
bộ thị trường EU. Logo này chỉ được sử dụng cho các sản phẩm đã được chứng nhận
bởi cơ quan kiểm soát có thẩm quyền, đảm bảo đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt về
sản xuất, vận chuyển và bảo quản.
4.2.1.9. Kiểm soát chính thức an toàn thực phẩm của EU với sản phẩm nhập khẩu
Quy định EC 2017/625 cùng với các quy định phân cấp và quy định thực hiện
thiết lập một hệ thống kiểm soát tổng hợp đối với thực phẩm nhập khẩu vào EU. Tất
cả thực phẩm và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu đều phải tuân theo các quy tắc chung,
trong khi các sản phẩm có nguồn gốc động vật và các sản phẩm có nguy cơ cao khác
chịu thêm các yêu cầu cụ thể.
Những sản phẩm có nguy cơ cao sẽ phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ theo quy
định của luật pháp. Mỗi quốc gia thành viên EU có trách nhiệm thực hiện các biện
pháp kiểm soát để đảm bảo sản phẩm nhập khẩu tuân thủ quy định. Việc kiểm tra
không chỉ diễn ra tại biên giới EU mà còn trên thị trường nội địa. Các nước thành
viên tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên, lấy mẫu sản phẩm để phân tích, đồng thời thực
hiện các biện pháp phù hợp nếu phát hiện rủi ro.
Hệ thống RASFF (Cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn nuôi) là
công cụ quan trọng trong việc trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên và EU.
Nếu phát hiện nguy cơ trong quá trình kiểm tra, quốc gia thành viên có thể tạm dừng
hoặc hạn chế việc nhập khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, quyết định này phải được thông
báo ngay lập tức đến Ủy ban châu Âu và các quốc gia thành viên khác, kèm theo lý
do giải thích rõ ràng.
Kiểm soát thực phẩm nhập khẩu và danh sách sản phẩm có nguy cơ cao: Tất
cả thực phẩm nhập khẩu vào EU, bao gồm nguyên liệu thực phẩm, thực vật, rau quả,
vật liệu tiếp xúc với thực phẩm, phụ gia và chất bổ sung dinh dưỡng, đều phải trải
qua kiểm soát chính thức về an toàn thực phẩm. Các biện pháp này nhằm ngăn ngừa
108
hoặc giảm thiểu nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, động vật và thực vật.
Một số thực phẩm và thức ăn chăn nuôi bị tăng cường kiểm soát khi nhập khẩu, danh
sách này được nêu trong Phụ lục I của Quy định (EU) 2021/608. Danh sách được cập
nhật thường xuyên dựa trên thông tin từ RASFF, báo cáo thanh tra, kết quả phân tích
thực phẩm, cũng như dữ liệu từ các quốc gia trong và ngoài EU. Nếu phát hiện nguy
cơ mới hoặc gia tăng rủi ro, EU sẽ bổ sung sản phẩm vào danh sách kiểm soát. Ví dụ,
một số sản phẩm từ Việt Nam như rau mùi, húng quế, bạc hà, ngò tây, đậu bắp và ớt
(không phải ớt ngọt) nằm trong danh sách kiểm soát với tần suất kiểm tra thực tế
50%. Thanh long Việt Nam cũng thuộc danh sách áp dụng điều kiện nhập khẩu đặc
biệt với tần suất kiểm tra là 10%. Tất cả lô hàng thanh long xuất khẩu sang EU đều
phải có chứng nhận chính thức, kèm theo kết quả phân tích dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật theo Quy định (EC) 396/2005.
Ủy ban châu Âu có thể yêu cầu chứng nhận kiểm soát từ cơ quan có thẩm
quyền của nước xuất khẩu trước khi nhập khẩu vào EU. Nếu được chứng nhận, tần
suất kiểm tra tại EU sẽ giảm. Quy trình này nhằm đảm bảo hàng hóa nhập khẩu đáp
ứng đầy đủ các quy định của EU trước khi được lưu hành trên thị trường.
4.2.1.10. Yêu cầu bổ sung của khách hàng EU về an toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm là một trong những tiêu chí quan trọng quyết định khả
năng tiếp cận thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Dù không phải là
yêu cầu pháp lý bắt buộc trong quy định của EU, nhưng trên thực tế, các nhà nhập
khẩu thực phẩm tại khu vực này gần như luôn yêu cầu nhà cung cấp phải có chứng
nhận an toàn thực phẩm. Điều này giúp đảm bảo sản phẩm đáp ứng được các tiêu
chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng, vệ sinh và an toàn tiêu dùng.
Đối với các sản phẩm thực vật, đặc biệt là rau củ và trái cây tươi (FFV), khách
hàng Châu Âu thường yêu cầu chứng nhận GLOBALG.A.P. hoặc các chứng nhận có
giá trị tương đương. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần đáp ứng các tiêu chí
về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, nhằm phù hợp với xu hướng tiêu dùng
bền vững tại khu vực này. Vì vậy, bên cạnh việc tuân thủ các quy định pháp luật của
EU, doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng để đáp ứng những tiêu chuẩn bổ sung mà
khách hàng đặt ra.
Bên cạnh GLOBALG.A.P., tùy theo từng thị trường và lĩnh vực cụ thể, các hệ
thống quản lý an toàn thực phẩm khác cũng có thể được yêu cầu. Ví dụ, đối với hoạt
109
động chế biến và cung ứng rau quả tươi, khách hàng tại Tây Bắc Âu thường đề cao
tiêu chuẩn BRC Global – một hệ thống được thiết lập nhằm đảm bảo vệ sinh và an
toàn thực phẩm. Trong khi đó, tại Đức, tiêu chuẩn thực phẩm IFS lại được áp dụng
rộng rãi. Những hệ thống này giúp nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ kiểm soát rủi ro về
an toàn thực phẩm, đảm bảo tính minh bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Không chỉ dừng lại ở các chứng nhận chuyên biệt, nhiều doanh nghiệp Châu
Âu còn yêu cầu nhà cung cấp áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm dựa trên
nguyên tắc HACCP. Hệ thống này được xem là bằng chứng quan trọng để khẳng định
cam kết của doanh nghiệp trong việc duy trì chất lượng và an toàn thực phẩm trong
suốt quá trình sản xuất, bảo quản và vận chuyển. Ngoài ra, một số chương trình chứng
nhận như SQF hoặc FSSC 22000 – tiêu chuẩn quản lý an toàn thực phẩm được ISO
phát triển – cũng có thể được lựa chọn tùy theo nhu cầu của từng thị trường.
Ngoài yếu tố an toàn thực phẩm, nhiều khách hàng EU cũng quan tâm đến
trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Họ có thể yêu cầu các
chứng nhận như ISO 26000 về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) hoặc ISO
14001 về quản lý môi trường. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này không chỉ giúp doanh
nghiệp nâng cao uy tín mà còn đáp ứng được xu hướng tiêu dùng bền vững ngày càng
phổ biến tại Châu Âu.
Hiện nay, các hệ thống chứng nhận trên đều được công nhận bởi Sáng kiến
An toàn Thực phẩm Toàn cầu (GFSI) và được nhiều nhà bán lẻ lớn tại EU chấp nhận.
Mặc dù mang tính chất tự nguyện, nhưng trên thực tế, những tiêu chuẩn này gần như
trở thành điều kiện bắt buộc nếu doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường thực
phẩm Châu Âu. Trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chất lượng
và nguồn gốc sản phẩm, yêu cầu về các chứng nhận này chắc chắn sẽ ngày càng khắt
khe hơn trong tương lai.
Như vậy, có thể thấy EU có một hệ thống cơ sở pháp lý liên quan đến các
BPPTQ áp dụng đối với hàng hoá nông sản. EU áp dụng rất đa dạng các loại biện
pháp để kiểm soát luồng hàng hoá nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng nội địa cũng
như bảo vệ môi trường. EU có một cách tiếp cận kép trong việc hài hòa luật thực
phẩm: hệ thống luật theo "chiều ngang" bao gồm các khía cạnh phổ biến cho tất cả
các loại thực phẩm (chẳng hạn như phụ gia, dán nhãn, vệ sinh...) và hệ thống luật
110
theo "chiều dọc" về các sản phẩm cụ thể.
4.2.2. Đánh giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng các BPPTQ của EU đối với
hàng nông sản nhập khẩu vào EU
Để đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU với hàng nông sản nhập
khẩu, tác giả sử dụng phương pháp kiểm đếm và phương pháp sử dụng các chỉ số đo
lường mức độ phổ biến của BPPTQ.
4.2.2.1. Kiểm đếm các BPPTQ mà EU áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu
Phương pháp đơn giản nhất để định lượng BPPTQ, đo lường mức độ phổ biến
của BPPTQ là kiểm đếm số lượng BPPTQ được ban hành và áp dụng với các mặt
hàng nhập khẩu. Bằng việc kiểm đếm, thống kê các quy định, tiêu chuẩn với từng
mặt hàng và từng quốc gia dựa trên thông báo của các nước nhập khẩu lên WTO.
Bằng phương pháp kiểm đếm số lượng BPPTQ mà EU đang áp dụng trên hệ
thống cơ sở dữ liệu TRAINS - UNCTAD và kiểm đếm số lượng các thông báo mới
hàng năm về các quy định của EU liên quan SPS và TBT đối với hàng nông sản trên
hệ thống ITIP – WTO và E-PING có thể thấy EU ngày càng tăng cường sử dụng
BPPTQ như một công cụ chính trong việc triển khai chính sách thương mại.
Bảng 4.4. Số lượng các loại BPPTQ mà EU áp dụng với hàng nông sản của Việt
Nam, phân loại theo mã BPPTQ
BPPTQ Mô tả Số lượng
108
SPS - Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật A12 A13 Các hạn chế về địa lý do không đáp ứng được đủ điều kiện Phương pháp tiếp cận hệ thống 8 2
A14 3
A15 4
A19 3
A21 12
A22 3
A31 A32 A33 14 1 7
111
A4 3 Yêu cầu ủy quyền vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật để nhập khẩu các sản phẩm nhất định Các yêu cầu đăng kí dành cho các nhà nhập khẩu Cấm hoặc hạn chế nhập khẩu vì các lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật chưa được quy định ở nơi khác Định mức dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định Hạn chế sử dụng một số chất trong thực phẩm và thức ăn và vật liệu tiếp xúc của chúng Yêu cầu về ghi nhãn Yêu cầu về đánh dấu Yêu cầu về đóng gói Yêu cầu vệ sinh liên quan đến điều kiện vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
BPPTQ Mô tả
A41 A42 Số lượng 3 2
A59 1
A6 1
Tiêu chuẩn vi sinh của sản phẩm cuối cùng Thực hành vệ sinh trong quá trình sản xuất Biện pháp xử lý để loại bỏ thực vật và động vật gây hại hoặc sinh vật gây bệnh trong sản phẩm cuối cùng chưa được quy định/cấm xử lý ở nơi khác Các yêu cầu khác liên quan đến quy trình sản xuất hoặc hậu kỳ Quy trình chăn nuôi hoặc đánh bắt động vật Quy trình xử lý thức ăn và chế biến thức ăn Điều kiện bảo quản và vận chuyển Yêu cầu kiểm tra Yêu cầu cấp giấy chứng nhận Yêu cầu giám định Yêu cầu truy xuất
A62 A63 A64 A82 A83 A84 A85 A851 Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần A852 A853 1 4 2 2 13 9 4 2 2 1
A89 1
Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các điều kiện SPS chưa được quy định ở nơi khác TBT - Các hàng rào kĩ thuật trong thương mại
B14 52 1
B21 1
B22 1
B31 B32 B33 B6 20 2 9 2
B7 6
B81 B82 B83 B84 B85 Yêu cầu uỷ quyền vì lý do TBT Giới hạn cho phép đối với dư lượng hoặc ô nhiễm bởi một số chất Hạn chế sử dụng một số chất làm thành phần hoặc vật liệu để ngăn ngừa mọi rủi ro phát sinh từ việc sử dụng chúng Yêu cầu về ghi nhãn Yêu cầu về đánh dấu Yêu cầu về đóng gói Yêu cầu về nhận diện sản phẩm Yêu cầu về chất lượng sản phẩm, độ an toàn hoặc hiệu suất sử dụng Yêu cầu đăng ký/phê chuẩn sản phẩm Yêu cầu thử nghiệm Yêu cầu chứng nhận Yêu cầu kiểm tra Yêu cầu truy xuất
Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt
D321 Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên khối lượng D322 Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên giá
112
1 3 4 1 1 64 24 40
BPPTQ Mô tả
Các biện pháp khác
C1 Số lượng 18 1
C4 1
E1 6
Giám định trước khi giao hàng Các biện pháp giám sát, giám sát và cấp phép tự động nhập khẩu Các thủ tục cấp phép nhập khẩu không tự động ngoài các giấy phép được đề cập trong các chương về các biện pháp SPS và TBT
E123 Giấy phép bảo vệ môi trường E125 E32 G11 P31 Cấp phép hoạt động bảo vệ sức khỏe cộng đồng Cấm vì lý do phi kinh tế Đặt cọc nhập khẩu ứng trước Cấm xuất khẩu 2 1 5 1 1
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu TRAINS – UNCTAD
Theo cơ sở dữ liệu TRAINS – UNCTAD, EU hiện đang áp dụng tổng 242
BPPTQ đối với hàng nông sản. Trong đó, SPS, TBT và các biện pháp ở nhóm D đang
là các biện pháp mà được EU áp dụng nhiều nhất cho các mặt hàng nông sản. Trong
đó, biện pháp liên quan đến đang chiếm số lượng được áp dụng nhiều nhất là SPS
(108 biện pháp); TBT với 52 biện pháp , các biện pháp tự vệ đặc biệt trong nông
nghiệp (D321 và D322) theo cơ sở dữ liệu TRAINS ghi nhận 64 biện pháp (Hai biện
pháp D321 và D322 là các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên số lượng và
dựa trên giá với số lượng áp dụng tương đối lớn đối với nhiều mặt hàng nông sản, lần
lượt là 24 và 40 biện pháp (Bảng 4.4). Hai biện pháp này được EU đưa vào áp dụng
từ những năm 1995 và tiếp tục ban hành thêm các quy định áp dụng với nhiều sản
phẩm nông nghiệp khác nhau cho đến nay. Hai biện pháp này EU không chỉ áp dụng
với Việt Nam mà áp dụng với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, các biện
pháp nhóm D này cũng có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định.
Cụ thể hơn, có 37 mã biện pháp có số lượng được EU áp dụng khoảng từ 1-5
biện pháp, chiếm 74 biện pháp. 6 mã biện pháp (A12, A33, A84, B33, B7, E1) chiếm
số lượng biện pháp áp dụng từ 6 - 9 biện pháp. Đặc biệt, mã A21 liên quan định mức
dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định và B31 liên quan
đến yêu cầu về ghi nhãn là hai mã biện pháp được ghi nhận là EU áp dụng nhiều đối
với nông sản Việt Nam với A21 có 12 biện pháp và B31 có 20 biện pháp (Bảng 4.4).
Ngoài việc kiểm đếm số lượng các BPPTQ mà EU đang áp dụng, việc tổng hợp,
kiểm đếm số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và TBT
113
của EU tới WTO cũng thấy được xu hướng thường xuyên sử dụng các BPPTQ thông
qua việc ban hành mới, sửa đổi các quy định liên quan đến BPPTQ. Theo quy định
của WTO, các quốc gia thành viên khi ban hành hoặc sửa đổi các quy định liên quan
SPS và TBT thì quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải thông báo lên WTO và thông
1200
1067
1000
922
800
600
400
108
88
200
124
120
115
109
106
101
99
100
96
101
88
86
83
76
73
65
61
56
48
45
28
13
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
Tổng
8/3/2023
SPS
TBT
báo tới các quốc gia thành viên khác.
Hình 4.30. Số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và
TBT của EU, giai đoạn 2012 - 3/2023
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu I-TIP, WTO
Từ Hình 4.30 có thể thấy, trong giai đoạn 2012 - đầu năm 2023, số lượng thông
báo mới của EU lên WTO rất thường xuyên và đều đặn trong từng năm. Trong hơn
10 năm, tổng số lượng thông báo mới của EU đạt 922 thông báo liên quan quy định
về SPS và 1067 thông báo liên quan TBT. Như vậy, trung bình mỗi năm EU có thêm
khoảng 90 thông báo mới về SPS và hơn 100 thông báo về TBT.
Nội dung các thông báo có thể là ban hành các quy định mới hoặc là sửa đổi các
quy định đã ban hành. Cụ thể như năm 2022, EU đã gửi thông báo cho các quốc gia
thành viên về việc điều chỉnh quy định về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa
trên các sản phẩm thực vật là 0,01mg/kg,… Điều đó cho thấy, EU không chỉ sử dụng
phổ biến các BPPTQ mà các quy định liên quan BPPTQ cũng khắt khe và nghiêm
ngặt hơn. Một trong những lý do có thể thể đưa ra là EU đã và đang thực hiện chính
sách Thỏa thuận Xanh Châu Âu đặt mục tiêu xây dựng một nền kinh tế bền vững và
114
trung hòa carbon vào năm 2050. Trong khuôn khổ kế hoạch hành động, EU hướng
tới cắt giảm 50% lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng và mở rộng diện tích canh tác
hữu cơ lên 25% tổng đất nông nghiệp vào năm 2030 (EC, 2019). Điều này đồng nghĩa
với việc nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật sẽ bị cấm tại EU, đồng thời mức dư lượng
tối đa cho phép trên các sản phẩm nông sản sẽ ngày càng được siết chặt và điều chỉnh
theo hướng nghiêm ngặt hơn.
4.2.2.2. Mức độ bao phủ, tần suất áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông
sản nhập khẩu
Ngoài việc sử dụng phương pháp kiểm đếm thì các chỉ số như tỷ lệ bao phủ
(Coverage Ratio – CR), chỉ số tần suất (Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành
(Prevalance Score – PS) được sử dụng để đánh giá được thực trạng mức độ phổ biến
của các BPPTQ của một quốc gia đối với các loại hàng hoá. Việc tính toán các chỉ số
về tỷ lệ áp dụng BPPTQ được đánh giá là một trong những phương pháp tiếp cận đơn
giản nhất để đánh giá được mức độ phổ biến của BPPTQ (Deardorff & Stern, 1997).
Các chỉ số này dựa trên cường độ của các công cụ chính sách và đo lường mức độ
điều chỉnh mà không xem xét tác động của nó đối với thương mại hoặc nền kinh tế
(Melo & Nicita, 2018).
Các chỉ số này được tính toán dựa trên số lượng các BPPTQ đã được quan sát,
thu thập và kiểm đếm. Trong đó, chỉ số tần suất (FI) cho biết tỷ lệ phần trăm hàng
hoá nhập khẩu bị áp dụng một hoặc nhiều BPPTQ (UNCTAD, 2022), giải thích cho
việc có hay không có BPPTQ được áp dụng. Tỷ lệ bao phủ (CR) của BPPTQ được
tính bằng cách xác định giá trị nhập khẩu của từng mặt hàng chịu các BPPTQ, tổng
hợp theo nhóm hàng HS áp dụng và thể hiện tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị hàng
nhập khẩu bị áp dụng BPPTQ (UNCTAD, 2022). Khác với chỉ số tần suất, CR được
tính toán thông qua giá trị hàng nhập khẩu, thay vì dòng sản phẩm được trao đổi
(UNCTAD, 2022). Chỉ số thịnh hành (PS) phản ánh số lượng trung bình của các
BPPTQ riêng biệt áp dụng cho các sản phẩm nhập khẩu qua đó đo lường mức độ đa
dạng và cường độ của các BPPTQ (UNCTAD, 2022). Các chỉ số này thường được
tính toán trên thương mại tổng thể, xem xét tất cả các loại BPPTQ (Melo & Nicita,
2018); đồng thời, các chỉ số này cũng có thể biểu thị mức độ ảnh hưởng của các
BPPTQ cụ thể đối với các nhóm sản phẩm cụ thể như số biện pháp SPS/TBT trung
bình được áp dụng đối với nhóm hàng nông sản.
Các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ đối với tất cả các mặt hàng
115
nói chung và với hàng nông sản nói riêng được UNCTAD xác định, tính toán và cập
nhật cụ thể trên hệ thống cơ sở dữ liệu của UNCTAD và WITS - WB. Hình 4.31 cho
thấy các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng phổ biến các BPPTQ đối với hàng nông sản
25
100,5
100
100
100
100
100
100
22,8
100
20
99,5
99
99
99
99
17,1
16,1
15,5
15
98,5
14,9
98
98
98
97
10
97,5
97
7,4
5
96,5
96
0
95,5
EU
Mỹ
Nhật Bản
Trung Quốc
Thái Lan
Philippines
FI
CR
PS
của một số quốc gia đối với nông sản nhập khẩu vào các quốc gia này.
Hình 4.31. Mức độ phổ biến của các BPPTQ đối với mặt hàng nông sản tại một
số quốc gia/khu vực trên thế giới
Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu tại UNCTAD.org, truy cập ngày 15/3/2023
Có thể thấy BPPTQ có ảnh hưởng lớn đến thương mại nông sản trên thế giới.
Chỉ số bao phủ và tần suất thường xuyên của các BPPTQ đều đạt từ 97% trở lên. Đặc
biệt, ở một số thị trường như Mỹ, Trung Quốc, Phillipines, EU, Thái Lan các chỉ số
này đều đạt 99 - 100%. Điều này cho thấy trên 99% dòng hàng hoá và trên 99% giá
trị hàng hoá nông sản nhập khẩu vào các thị trường này bị áp dụng BPPTQ. Dựa trên
chỉ số điểm thịnh hành thì tính bình quân, mỗi mặt hàng nông sản đang chịu ảnh
hưởng bởi 15 BPPTQ ở EU, 16 BPPTQ ở Mỹ, 14 ở Thái Lan, 7 BPPTQ ở Nhật Bản,...
thậm chí ở Trung Quốc con số này là 22 biện pháp.
Như vậy, đối với mặt hàng nông sản nhập khẩu vào EU, 98% loại mặt hàng
nông sản và 98% giá trị hàng nông sản nhập khẩu vào EU bị áp dụng BPPTQ.
Bảng 4.5 chỉ ra rằng gần như toàn bộ 100% các mặt hàng nông sản nhập khẩu
vào EU đều bị tác động bởi các biện pháp SPS và TBT. Do đó, nông sản Việt Nam
116
khi xuất khẩu sang EU sẽ phải chịu ảnh hưởng lớn từ các biện pháp này.
Bảng 4.5. Mức độ phổ biến của BPPTQ đối với hàng nông sản phân theo nhóm
hàng tại thị trường EU năm 2022
Mặt hàng Loại biện pháp
Động vật
Thực vật
Thực phẩm
CR (%) 99,91 99,29 6,35 9,81 9,81 99,13 99,68 0 10,65 10,16 91,77 99,77 4,87 12,22 12,22 FI (%) 99,69 97,52 9,63 9,94 9,94 94,89 98,58 0 7,39 5,97 91,47 99,05 4,87 10,9 10,9 PS 15,5
SPS TBT C E G SPS TBT C E G SPS TBT C E G Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS – UNCTAD
Cụ thể, đối với nhóm hàng động vật, trên 99% giá trị hàng hoá và 99% dòng sản
phẩm động vật chịu ảnh hưởng của các biện pháp SPS và TBT. Đối với nhóm hàng thực
vật và thực phẩm thì cho thấy các biện pháp TBT được áp dụng nhiều hơn SPS với tỷ lệ
nhiều hơn 10% (gần 100% giá trị hàng hoá thuộc nhóm thực vật và thực phẩm chịu tác
động của các biện pháp TBT; đối với biện pháp SPS, con số là trên 90%).
Ngoài ra, hàng nông sản còn phải đối mặt với một số loại hình BPPTQ khác
như kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác; các biện pháp liên quan hạn
chế định lượng, hay các biện pháp tài chính khác; tuy nhiên, mức độ bao phủ và tỉ lệ
tần suất thấp dưới 12%.
Tựu chung lại thì các chỉ số tần suất và bao phủ với tỉ lệ từ trên 90% đến 100%
cho thấy một thực trạng rằng hàng nông sản đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các
BPPTQ, đặc biệt là hai loại hình biện pháp SPS và TBT.
Phân tích điểm chỉ số thịnh hành của BPPTQ và số lượng dòng sản phẩm bị áp
đặt các BPPTQ tại EU đối với các nhóm hàng nông sản (Hình 4.32) có thể thấy số
lượng dòng sản phẩm chịu tác động của 2 BPPTQ là nhiều nhất ở cả ba nhóm hàng
nông sản với 251 dòng sản phẩm chiếm 74,7% so với tổng dòng hàng trong nhóm động
vật, 309 dòng sản phẩm chiếm 87,78% tổng hàng hoá thuộc nhóm thực vật và 169 dòng
sản phẩm chiếm 80,09% tổng hàng hoá thuộc nhóm thực phẩm chế biến. Số lượng
dòng hàng chịu ảnh hưởng bởi 3 BPPTQ trở lên ở nhóm động vật là 18,75%; ở nhóm
117
thực vật là 7,39% và ở nhóm thực phẩm chế biến là 12,32%. Tính trong tổng tất cả
dòng hàng nông sản thì hơn 81% dòng hàng hoá nông sản chịu tác động của 2 BPPTQ
và 13% dòng hàng bị áp dụng 3 BPPTQ trở lên. Trong khi đó, số lượng dòng hàng hoá
chịu tác động của một BPPTQ hay không chịu tác động của bất kì BPPTQ là rất thấp
ở cả ba nhóm hàng; và trong tổng 899 dòng hàng hoá nông sản, chỉ có 20 loại hàng hoá
là không bị áp dụng BPPTQ nào (chiếm 2% trong tổng dòng hàng nông sản) và 35 loại
350
309
300
250
251
200
169
150
100
63
50
26
26
15
15
13
7
4
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
1 0
n ê l ở r t
n ê l ở r t
n ê l ở r t
Q T P P B 1
Q T P P B 2
Q T P P B 1
Q T P P B 2
Q T P P B 1
Q T P P B 2
Q T P P B g n ô h K
Q T P P B g n ô h K
Q T P P B g n ô h K
Q T P P B 3
Q T P P B 3
Q T P P B 3
Động vật
Thực vật
Thực phẩm chế biến
Tỷ trọng trong nhóm hàng(%)
Số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt
hàng hoá chịu tác động bởi một BPPTQ chiếm 3,8% tổng dòng hàng nông sản.
Hình 4.32. Điểm chỉ số thịnh hành và số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt các
BPPTQ tại EU đối với các nhóm hàng nông sản
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS – UNCTAD
Phân tích về tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất áp dụng đối với nhóm hàng động
vật cho thấy, EU thực hiện các quy định về kiểm dịch vệ sinh động thực vật một cách
đồng bộ và nghiêm ngặt. Hầu hết các sản phẩm thuộc nhóm này đều phải tuân thủ
các yêu cầu về kiểm tra mức dư lượng tối đa của các chất tồn dư, tiêu chuẩn vi sinh
đối với sản phẩm cuối cùng, đảm bảo vệ sinh trong sản xuất và quy trình xử lý thức
ăn chăn nuôi. Ngoài ra, EU cũng áp dụng đồng bộ các biện pháp kiểm soát này đối
với phần lớn các sản phẩm từ động vật, đồng thời yêu cầu kiểm tra thủ tục giấy tờ tại
các nước thành viên (A820, A830, A840, A850). Trong số các loại biện pháp SPS,
có 8 trên tổng số 17 loại biện pháp được EU áp dụng với CR và FR ở mức cao, đó là
A120, A210, A310, A400, A820, A830, A840, A850, hầu hết chiếm tỷ lệ trên 95%
với chỉ số bao phủ và trên 80% với chỉ số tần suất xuất hiện, áp đặt trung bình 300
118
sản phẩm. Xét về biện pháp TBT, có 2 trên tổng số 5 loại biện pháp EU áp dụng với
mặt hàng này, đó là B140 và B310, chiếm tỷ lệ trên 98% với chỉ số bao phủ và trên
90% với chỉ số tần suất, hơn 300 sản phẩm bị áp đặt. Thị trường EU ưa chuộng các
sản phẩm có chất lượng tốt, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mức độ an toàn cao, đặc biệt
là phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Xu hướng tiêu dùng của thị trường EU
cũng chuộng các sản phẩm có thương hiệu, các dòng sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc
tự nhiên, thân thiện với môi trường. Đặc biệt, người tiêu dùng EU rất coi trọng yếu
tố trách nhiệm xã hội của các sản phẩm hàng hóa. Như vậy có thể thấy có nhiều biện
pháp SPS và TBT đã được EU áp dụng với tỷ lệ khá cao lên nhóm hàng động vật và
có nguồn gốc từ động vật của Việt Nam (Bảng 4.6 – 4.8).
Đối với nhóm 2 - hàng thực vật, EU áp dụng nhiều loại biện pháp SPS và TBT
hơn so với nhóm 1 - hàng động vật. Cụ thể, nhóm 1 bị áp 17 biện pháp SPS và 5 TBT,
trong khi có 22 biện pháp SPS và 11 biện pháp TBT mà EU đã áp lên nhóm hàng 2.
Có tới 9 loại biện pháp SPS chiếm tỷ lệ tần suất xuất hiện, tỷ lệ bao phủ cũng như số
sản phẩm bị áp đặt cao hơn đáng kể; hầu hết chiếm tỷ lệ trên 90% với chỉ số bao phủ
và trên 80% với chỉ số tần suất xuất hiện, áp đặt trung bình gần 300 sản phẩm (A130,
A150, A220, A310, A330, A410, A420, A630, A852). Xét về biện pháp TBT, có 2
trên tổng số 11 loại biện pháp EU áp dụng với mặt hàng này, đó là B140 và B310,
chiếm tỷ lệ trên 99% với chỉ số bao phủ và trên 98% với chỉ số tần suất xuất hiện,
hơn 300 sản phẩm bị áp đặt (Bảng 4.7). EU áp dụng các quy định nghiêm ngặt về
kiểm dịch động thực vật cũng như các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật nhằm bảo
vệ hệ sinh thái nông nghiệp khỏi sự xâm nhập của các sinh vật gây hại như sâu bệnh.
Theo chỉ thị 2000/29/EC, hàng hoá thực vật nhập khẩu vào EU không được chứa các
sinh vật gây hại nguy hiểm được liệt kê trong Chỉ thị. Các biện pháp kiểm dịch này
cũng được áp dụng tương tự đối với động vật và sản phẩm có nguồn gốc động vật khi
xuất khẩu vào EU.
Đối với nhóm 3 - hàng nông sản chế biến, quy định đánh giá sự phù hợp liên
quan đến vệ sinh và điều kiện kiểm dịch thực vật (A8) được áp dụng chủ yếu; đồng
thời, EU cũng có quy định rất khắt khe về ghi nhãn hàng hóa (A310) với hơn 90%
tổng số mặt hàng bị áp dụng. Với các quy định liên quan đến yêu cầu về đóng gói
(A330) và chỉ tiêu vi sinh của sản phẩm cuối cùng (A410) là các yêu cầu quan trọng
của EU cũng có kết quả tương tự. Xét về biện pháp TBT, EU chú trọng vào các yêu
cầu ủy quyền đối với các doanh nghiệp nhập khẩu (B140) và các yêu cầu liên quan
119
đến ghi nhãn (B310) (Bảng 4.8).
Bảng 4.6.. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 1 - Hàng động vật chi
tiết theo mã BPPTQ
Mã BPPTQ B B110 B140 B310 B320 B330 B830
FR CR (%) (%) 99,29 97,52 71,85 50,62 98,55 93,79 99,29 97,52 15,09 8,7 71,65 57,76 68,25 47,52
Giá trị thương mại bị tác động 27517902 19914269 27313048 27517902 4183209 19858602 18915748
Dòng sản phẩm bị áp đặt 314 163 302 314 28 186 153
C C400 E E100 G G110
9,63 9,63 9,94 9,94 9,94 9,94
6,35 6,35 9,81 9,81 9,81 9,81
31 31 32 32 32 32
1760567 1760567 2719087 2719087 2719087 2719087
Mã BPPTQ A A120 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A630 A640 A820 A830 A840 A850
FR CR (%) (%) 99,91 99,69 99,91 99,69 21,87 28,88 0,93 0,15 0,15 0,93 99,66 99,38 1,55 13,35 96,57 84,47 8,7 15,09 71,54 55,9 97,67 87,89 71,54 55,9 26,21 32,3 2,9 18,01 97,73 90,99 99,91 99,69 99,91 99,69 97,67 87,89
Dòng sản phẩm bị áp đặt 321 321 93 3 3 320 43 272 28 180 283 180 104 58 293 321 321 283
Giá trị thương mại bị tác động 27689659 27689659 6060278 41593 41593 27621042 430713 26764679 4183209 19827801 27068200 19827801 7263737 805044 27085777 27689659 27689659 27068200
120
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB
Bảng 4.7. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 2 - Hàng thực vật
chi tiết theo mã BPPTQ
Mã BPPTQ
Giá trị thương mại bị tác động
Mã BPPTQ
CR (%)
FR (%)
CR (%)
FR (%)
B B110 B140 B150 B210 B310 B320 B330 B700 B810 B820 B830 B840
Dòng sản phẩm bị áp đặt 347 60 346 59 5 347 64 59 159 13 16 2 120
Giá trị thương mại bị tác động 69097186 11850568 68927968 11845054 340519 69097186 11653662 11845054 25228393 1402378 2207164 38984 23018687
99,86 17,13 99,62 17,12 0,49 99,86 16,84 17,12 36,46 2,03 3,19 0,06 33,27
E E100 G G110
26 26 21 21
7370315 7370315 7029796 7029796
7,39 7,39 5,97 5,97
98,58 17,05 98,3 16,76 1,42 98,58 18,18 16,76 45,17 3,69 4,55 0,57 34,09 10,65 10,65 10,16 10,16
A A120 A130 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A420 A600 A630 A820 A830 A840 A850 A851 A852 A853
99,13 72,09 94,47 70,55 98,4 56,53 86,54 94,47 95,05 35,74 94,96 1,54 95,01 94,47 1,16 94,72 1,99 44,53 35,14 86,22 85,73 94,47 85,73
94,89 68,18 82,95 63,64 90,91 58,24 78,69 82,95 86,08 32,95 83,52 4,55 83,81 82,95 0,85 86,08 4,55 59,66 51,7 78,13 74,72 82,95 74,72
Dòng sản phẩm bị áp đặt 334 240 292 224 320 205 277 292 303 116 294 16 295 292 3 303 16 210 182 275 263 292 263
68592063 49881506 65364986 48816860 68080909 39114361 59878011 65364986 65767345 24727861 65700801 1064645 65737408 65364986 804787 65538531 1376163 30807690 24314494 59654629 59314487 65364986 59314487
121
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB
Bảng 4.8. Tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 3 - Hàng thực phẩm chế
biến chi tiết theo mã BPPTQ
Mã BPPTQ
Giá trị thương mại bị tác động
Mã BPPTQ
CR (%)
FR (%)
CR (%)
FR (%)
B B110 B140 B150 B220 B310 B330 B600 B700 B810 B820 B830 B840 B850
99,77 19,86 97,16 9,15 0,57 99,77 25,14 5,16 1,32 4,18 4,75 8,48 8,46 0,57
Dòng sản phẩm bị áp đặt 209 47 198 21 7 209 63 4 4 2 9 14 20 7
Giá trị thương mại bị tác động 50449156 10040924 49131752 4629048 286098 50449156 12714811 2607544 666937 2115688 2401786 4288379 4276980 286098
C C400 E E100 G G110
1,9 1,9 10,9 10,9 10,9 10,9
4 4 23 23 23 23
99,05 22,27 93,84 9,95 3,32 99,05 29,86 1,9 1,9 0,95 4,27 6,64 9,48 3,32 4,87 4,87 12,22 12,22 12,22 12,22
2462638 2462638 6180006 6180006 6180006 6180006
A A120 A130 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A420 A590 A630 A820 A830 A840 A850 A851 A852 A853
91,77 33,68 68,92 9,2 68,92 22,91 61,27 68,92 90,81 22,91 78,09 20,73 78,09 68,92 0,79 73,45 21,26 28,08 21,97 62,97 47,06 68,92 47,06
91,47 34,12 70,14 0,47 70,14 11,85 73,46 70,14 90,52 11,85 84,36 26,54 84,36 70,14 0,95 77,25 31,75 30,33 27,49 84,36 62,56 70,14 62,56
Dòng sản phẩm bị áp đặt 193 72 148 1 148 25 155 148 191 25 178 56 178 148 2 163 67 64 58 178 132 148 132
46403634 17030390 34850605 4651500 34850605 11585165 30981098 34850605 45919802 11585165 39489311 10483055 39489311 34850605 401560 37143539 10751384 14199305 11110640 31843812 23798610 34850605 23798610
122
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB
4.3. Kết quả đánh giá tác động định tính thông qua thực trạng hàng hoá nông
sản Việt Nam bị EU cảnh báo do vi phạm các BPPTQ
Liên minh châu Âu có những tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm ngặt nhất
trên thế giới - phần lớn nhờ vào bộ luật pháp vững chắc của EU, để giữ an toàn cho
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Là một phần của các công cụ kiểm soát và cảnh báo
an toàn thực phẩm, hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi (RASFF) theo Luật thực phẩm chung của EU được thành lập để đảm bảo truyền
tải thông tin giữa các quốc gia thành viên nhằm hỗ trợ phản ứng nhanh chóng của các
cơ quan an toàn thực phẩm trong trường hợp có rủi ro đối với sức khỏe cộng đồng do
chuỗi thực phẩm để có hành động ngay lập tức nhằm ngăn chặn rủi ro có thể dẫn đến
việc các sản phẩm bị thu hồi khỏi thị trường.
Hệ thống RASFF của EU đã hoạt động cực kỳ hiệu quả từ khi được thành lập.
Trong giai đoạn 10 năm từ 2012 đến 2022, RASFF đã truyền đi 35602 thông báo liên
quan đến các lô hàng nông sản nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới vào EU. Từ
2012 – 2016, trung bình mỗi năm RASFF phát đi trên dưới 3000 thông báo và trung
bình trên 4000 thông báo mỗi năm cho giai đoạn 2017 – 2021. Đặc biệt, trong năm
2021 và 2022, con số thông báo các lô hàng vi phạm lên đến lần lượt là 4607 và 4361
thông báo. Trong đó, số lượng thông báo liên quan đến việc từ chối nhập khẩu lô
hàng hoặc cảnh báo lô hàng do vi phạm các quy định liên quan BPPTQ là chiếm tỷ
trọng lớn nhất. Giai đoạn 2012 – 2017, số lượng lô hàng hoá nông sản bị từ chối nhập
khẩu chiếm đến khoảng trên 50% tổng thông báo trên RASFF, trong khi con số là
30% là các cảnh báo vi phạm. 20% còn lại là các thông báo liên quan các thông tin
cần lưu ý, cần theo dõi hoặc tin tức chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Từ 2018 – 2022, số thông
báo từ chối nhập khẩu vẫn giữ ở mức cao nhưng chỉ chiếm khoảng trên 30% tổng
thông báo, số lượng thông báo cảnh báo và thông tin cần lưu ý tăng lên so với giai
123
đoạn trước.
5000
4500
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
Thông tin cần lưu ý
Từ chối nhập khẩu
Cảnh báo
Thông xn cần theo dõi
Tin tức
Tổng
Hình 4.33. Số lượng thông báo từ RASFF về hàng nông sản nhập khẩu vào các
nước EU giai đoạn 2012 – 2022
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF
Phân tích cụ thể đối với những năm gần đây, có thể thấy vào năm 2020, tổng
cộng 3862 thông báo ban đầu đã được truyền qua RASFF, trong đó 1430 thông báo
được phân loại là cảnh báo, 572 thông tin để theo dõi, 791 thông tin cần chú ý, 1056
thông báo từ chối biên giới và 13 thông báo tin tức. So với năm 2019, số lượng
thông báo cảnh báo hàm ý nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng của một sản phẩm lưu
thông trên thị trường đã tăng 22%. Sự gia tăng cảnh báo là đáng kể trong năm thứ
sáu liên tiếp. Sự sụt giảm mạnh về thông báo từ chối biên giới (30%) có lẽ phần lớn
phản ánh tác động của đại dịch COVID-19 đối với thương mại toàn cầu nhiều hơn
là do chính các biện pháp kiểm soát được thực hiện. Loại thông báo lớn nhất liên
quan đến các biện pháp kiểm soát chính thức đối với thị trường. Các cuộc kiểm soát
chính thức thường được thực hiện tại một nhà điều hành kinh doanh (nhà sản xuất,
nhà bán buôn, nhà kho, nhà bán lẻ,…) và bao gồm việc kiểm tra và có thể là lấy
124
mẫu cho mục đích phân tích.
600
500
400
300
200
100
0
l
i
i
i
i
i
c i l
i
y l a t I
l
l
l
n a p S
l
l
a t l a M
a i v t a L
i
e c n a r F
s u r p y C
d n a o P
e c e e r G
l
d n a e r I
a i r t s u A
l
a i t a o r C
a n o t s E
d n a n F
n e d e w S
m u g e B
y a w r o N
a i r a g u B
a i k a v o S
d n a l r e z t i
a n a m o R
a n e v o S
y r a g n u H
a g u t r o P
k r a m n e D
y n a m r e G
a n a u h t i L
w S
s d n a l r e h t e N
g r u o b m e x u L
b u p e R h c e z C
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Hình 4.34. Thông báo từ hệ thống RASFF giai đoạn 2012 – 2022 phân theo quốc
gia thành viên EU đưa ra thông báo
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF
Năm 2021 cho thấy số lượng của từng loại thông báo đã tăng lên so với các
năm trước. Điều này thể hiện cam kết của các quốc gia thành viên EU trong việc phát
hiện và báo cáo các trường hợp không tuân thủ, dù có hoặc không có rủi ro về sức
khỏe hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận bất chấp bối cảnh đầy thách thức của đại dịch
Covid-19. Trong số 4607 thông báo RASFF được gửi vào năm 2021, 4102 thông báo
liên quan đến thực phẩm, 236 thức ăn chăn nuôi và 269 vật liệu tiếp xúc với thực
phẩm. So với năm 2020, số lượng thông báo ban đầu được đăng ký cho thực phẩm
và thức ăn chăn nuôi lần lượt tăng 19,6% và 3,5% (EC, 2022). Cũng như năm 2020,
một số lượng lớn các thông báo đó liên quan đến một sự cố lớn về thuốc trừ sâu là
mối nguy hiểm quan trọng nhất được thông báo, chiếm 27% các thông báo liên quan
đến sức khỏe. Trong số các loại thuốc trừ sâu, chất ethylene oxide trái phép được
cảnh báo nhiều nhất với 468 thông báo RASFF được truyền đi. Nhiều phát hiện liên
quan đến thuốc trừ sâu khiến EU phải bãi bỏ giấy phép của các nhà nhập khẩu (EC,
2022). Trong năm 2021, 30% tổng thông báo (1455), tăng 4% so với năm 2020.
Thông báo cảnh báo được truyền đi khi thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc nguyên
liệu tiếp xúc với thực phẩm có nguy cơ nghiêm trọng xuất hiện trên thị trường và khi
cần có hành động nhanh chóng ở một quốc gia thành viên khác ngoài quốc gia thông
125
báo. Điều này có nghĩa là trong 1455 trường hợp, các sản phẩm có nguy cơ nghiêm
trọng đối với sức khỏe, theo thông báo của RASFF, đã bị loại bỏ khỏi thị trường Châu
Âu. Tuy nhiên, số thông báo từ chối biên giới là 1457 trường hợp, nghĩa là các sản
phẩm đã bị chặn tại biên giới châu Âu tại các chốt kiểm soát biên giới và không bao
giờ được nhập khầu thị trường EU. Con số này đã trở lại mức của năm 2019, sau khi
mức giảm được ghi nhận vào năm 2020 (EC, 2022).
Xem xét các quốc gia không phải là thành viên, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia được
thông báo nhiều nhất với 613 thông báo, chủ yếu liên quan đến phát hiện thuốc trừ
sâu (405), tiếp theo là Ấn Độ (383), với 272 thông báo về thuốc trừ sâu và Trung
Quốc (331) với gần một nửa số thông báo (160) liên quan đến vật liệu tiếp xúc với
thực phẩm (EC, 2022).
• Đối với hàng nông sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU
Theo thống kê từ hệ thống RASFF, trong giai đoạn 10 năm từ 2012 đến 2022,
tổng số thông báo cảnh báo nhập khẩu của Việt Nam nhận được từ EU là 815 thông
báo do các sản phẩm nông sản xuất khẩu sang EU do vi phạm các quy định SPS và
TBT. Như vậy, trung bình mỗi năm có hơn 80 lô hàng nông sản của Việt Nam vi
phạm các quy định SPS và TBT. Lý do EU đưa ra cảnh báo đối với các mặt hàng này
chủ yếu là do các lô hàng nông sản của Việt Nam đều vi phạm quy định về dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật hoặc chứa một số chất cấm, mất an toàn thực phẩm trong quá
trình sơ chế, đóng gói (RASFF, 2022).
Các sản phẩm thuộc mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã nhận được
55 thông báo từ thị trường EU trong năm 2020. Trong đó có 6 lô hàng bị từ chối nhập
khẩu, 13 lô hàng còn lại nhận được các thông báo cảnh báo. Lý do EU đưa ra cảnh
báo đối với các mặt hàng này chủ yếu là do xuất hiện các chất hóa học trái phép và
dư lượng các chất vượt quá so với quy định mà EU đã đề ra; 7 cảnh báo đối với mặt
hàng rau quả bao gồm các sản phẩm như ớt, nấm khô, thanh long,… Ngoài mặt hàng
rau quả thì các mặt hàng như ngũ cốc, đồ uống không cồn, quả hạch và các sản phẩm
từ quả hạch, bánh kẹo, gia vị và sản phẩm thực phẩm khác cùng nằm trong danh mục
hàng hóa EU đưa ra cảnh báo (Phụ lục 3).
Năm 2021, EU đã đưa ra 44 thông báo với cảnh báo đối với hàng nông sản của
Việt Nam. Trong đó, mặt hàng hoa quả và rau chiếm số lượng nhiều nhất, các sản phẩm
bị cảnh báo như ổi, bưởi, chôm chôm, mướp đắng, nấm,... tiếp đó là các mặt hàng thực
phẩm khác/hỗn hợp như mì ăn liền, mì khô, thuốc,các loại thảo mộc và gia vị với 5
cảnh báo, các sản phẩm bị cảnh báo như ớt, hạt tiêu, quế,... Còn lại là các thông báo
126
của các sản phẩm như thực phẩm bổ sung; món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ; thịt, các
sản phẩm từ thịt và đồ uống không cồn. Các lô hàng này đều vi phạm vượt mức các
chất cho phép hoặc có một số chất cấm, vi phạm quy định về hóa chất bảo vệ thực vật,
mất an toàn thực phẩm trong quá trình sơ chế, đóng gói. Trong 44 lô hàng này, có 5 lô
hàng bị từ chối nhập khẩu và còn lại là các cảnh báo. Những lô hàng bị trả về xuất hiện
140
120
100
80
60
40
20
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
ở hầu hết các mặt hàng mà không tập trung vào một mặt hàng riêng biệt.
Hình 4.35. Số lượng lô hàng nông sản của Việt Nam bị cảnh báo từ hệ thống
RASFF giai đoạn 2012 – 2022
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF
Các loại nông sản Việt xuất khẩu sang thị trường EU liên tục bị cảnh báo về
chất lượng an toàn thực phẩm, thậm chí còn bị thu hồi. Theo RASFF, trong năm 2022
EU đã có 4361 cảnh báo đối với hàng nông sản thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trên
toàn thế giới, trong đó có 72 cảnh báo đối với hàng nông sản thực phẩm của Việt
Nam (chiếm 1,4%). Năm 2022 đã chứng kiến số lô hàng nông sản của Việt Nam bị
EU cảnh báo với số lượng cao nhất trong 3 năm gần nhất. Trong số đó, 5 mặt hàng bị
EU cảnh báo nhiều nhất lần lượt là món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ (14 cảnh báo),
các loại thảo mộc và gia vị (13 cảnh báo), hoa quả và rau (9 cảnh báo), ngũ cốc và
các sản phẩm bánh (6 cảnh báo) và sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp (5 cảnh báo).
Kết quả tổng hợp cho thấy các cảnh báo tập trung vào vi phạm dư lượng thuốc trừ
sâu vượt quá quy định của EU. Cũng trong năm 2022, một số nông sản như: Chôm
chôm, mộc nhĩ khô, hạt tiêu đen, bột quế,... của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
127
EU cũng bị cảnh báo dư lượng các chất có hại, thậm chí sản phẩm chôm chôm còn
phát hiện có chất cấm. Những lô hàng của Việt Nam bị EU từ chối nhập khẩu nhiều
nhất là sản phẩm mì ăn liền/phở ăn liền. Các sản phẩm mì ăn liền hương vị gà, mì ăn
liền hương vị cà ri, bánh phở nhập khẩu từ Việt Nam bị EU phát hiện dư lượng
ethylene oxide vượt ngưỡng quy định của EU. Đối với chỉ tiêu ethylene oxide trong
các sản phẩm thảo mộc, rau củ khô, hạt vừng (có trong gói gia vị của mì ăn liền), hiện
EU quy định ngưỡng cho phép rất thấp, từ 0,01 mg/kg – 0,02mg/kg. Do đó, các doanh
nghiệp xuất khẩu sang EU cần phải điều chỉnh công nghệ, kiểm soát nguyên liệu để
phù hợp với yêu cầu thị trường.
Hoạt động chặt chẽ của mạng lưới cảnh báo của EU đối với hàng hoá nông sản
nhập khẩu vào thị trường EU cho thấy EU không chỉ có xu hướng ban hành, áp dụng
ngày càng nhiều BPPTQ với các quy định ngày càng chặt chẽ mà EU còn thực hiện
việc kiểm soát thi hành, tuân thủ các BPPTQ đối với các quốc giá XKNS vào EU rất
chặt chẽ thông qua hệ thống mạng lưới cảnh báo, đặc biệt là hệ thống RASFF.
4.4. Kết quả định lượng tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối
với xuất khẩu nông sản Việt Nam
4.4.1. Kết quả tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với tổng thể
4.4.1.1. Kiểm định, đánh giá sự phù hợp của mô hình ước lượng
xuất khẩu nông sản Việt Nam
Trước hết, nghiên cứu kiểm tra độ cân bằng của dữ liệu bảng thì dữ liệu bảng cân
đối tuyệt đối về không gian và thời gian và hoàn toàn phù hợp để được ước lượng trên
phần mềm STATA. Số liệu thống kê mô tả các biến được thể hiện chi tiết tại Bảng 4.9.
Để kiểm định, đánh giá sự phù hợp của mô hình ước lượng, trước hết, tác giả
thực hiện phân tích tương quan Pearson. Đây được xem là một phân tích tiền mô hình
cần thiết cho tất cả các mô hình ước lượng, nếu không thực hiện phân tích tương quan
trước khi thực hiện các mô hình sẽ là một thiếu sót lớn. Phân tích tương quan nhằm
xác định mối quan hệ giữa các biến trong mô hình, đặc biệt là giữa biến độc lập và
biến phụ thuộc. Mục tiêu chính là kiểm tra xem liệu có mối tương quan có ý nghĩa
thống kê giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc hay không. Đồng thời, phân tích
này cũng giúp phát hiện khả năng đa cộng tuyến nếu các biến độc lập có hệ số tương
128
quan cao.
Bảng 4.9. Thống kê mô tả các biến
Số quan sát 6831 6831 6831 6831 6831 6831 6831 Giá trị trung bình 68173.29 289.6782 567.896 8400.116 9.39e+07 1.65e+07 0.0990633 Giá trị lớn nhất 30129203 408.8 4259.93 10549 98186856 84079811 0.4796518 Giá trị nhỏ nhất 0 195.59 9.46 7141.527 89301326 420028 0 Độ lệch chuẩn 905504 65.47351 892.9864 796.4086 2831597 2.17e+07 0.1082499
6831 2.671937 27 0 4.383982
6831 3.059289 25 0 5.814444
6831 16.45762 143 0 26.12896
56 0 6831 10.37154 14.67636
Tên biến (đơn vị) EX (nghìn USD) GDPVN (tỷ USD) GDPEU (tỷ USD) DIST (km) POPVN (người) POPEU (người) TARIFF (%) SPS1 (Số lượng thông báo hàng năm) TBT1 (Số lượng thông báo hàng năm) SPS2 (Số lượng luỹ kế theo năm) TBT2 (Số lượng luỹ kế theo năm) AGREMVN (%) 6831 39.08725 47.36676 6.58097
AGREMEU (%) 6831 5.224134 29.71217 4.707146
AGRLDVN (%) AGRLDEU (%) 6831 6831 37.8909 41.09666 39.5241 66.31578 2.038847 15.58109
NEER 6831 26107.62 24073.73 0.4453944
EVFTA Covid 6831 6831 0.1818182 0.2727273 1 1 29.04434 0.681636 8 34.43311 7.366343 0.792743 8 0 0 0.4453944 0.3857228
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata 17
Căn cứ vào kết quả ma trận tương quan (Bảng 4.10, Bảng 4.11) cho thấy, biến
GDPVN có khả có khả năng có tương quan cao với các biến POPVN, TBT,
AGREMVN, AGRLDVN. Biến GDPEU có tương quan cao với biến POPEU, DIST.
Biến POPVN, TBT có tương quan cao với AGREMVN, AGRLDVN, EVFTA,
Covid. Biến AGRLDVN có tương quan cao với hầu hết các biến, chỉ trừ GDPEU,
POPEU và DIST. Còn lại hệ số tương quan so sánh giữa các biến độc lập với nhau
có kết quả nhỏ hơn 0.8. Từ đó, nghi ngờ giữa các biến nêu trên có thể xảy ra đa cộng
tuyến với nhau. Tuy nhiên, theo lý thuyết thì kết quả phân tích tương quan sẽ giúp
tham khảo, nhận diện trước được chiều hướng và nhìn nhận kĩ hơn trong kết quả mô
hình, chứ không nhằm xem xét đưa đến quyết định loại bỏ hay không loại bỏ các biến
trong mô hình. Việc loại bỏ biến hay không sẽ được xem xét khi khi thực hiện kiểm
129
định đa cộng tuyến.
EX GDPVN GDPEU DIST POPVN POPEU TARIFF SPS
TBT NEER ARGEMVN ARGEMEU AGRLDVN AGRLDEU EVFTA COVID
EX
1.0000
GDPVN
0.0896 1.0000
GDPEU
-0.0043 0.0589 1.0000
DIST
-0.0124 0.0000 0.4582 1.0000
POPVN
0.0811 0.9953 0.0563 -0.0000 1.0000
POPEU
0.0165 0.0042 0.9065 0.3168 0.0056 1.0000
0.1439
TARIFF
-0.2645 -0.0170
-0.2667 -0.0015 1.0000
- 0.0000
SPS
0.1245 0.0847 0.0021 0.0000 0.0880 0.0005 0.0539 1.0000
TBT
0.1425 0.6137 0.0443 -0.0000 0.5776 0.0030 -0.1444 0.1036 1.0000
NEER
-0.0557 -0.2216 0.0166 0.0000 -0.2603 -0.0013 0.0443 -0.0736 -0.2242 1.0000
AGREMVN
-0.0854 -0.9705 -0.0610 -0.0000 -0.9704 -0.0055 0.2918 -0.0671 -0.6259 0.1582
1.0000
AGREMEU
0.0186 -0.1245 -0.1312 -0.2817 -0.1251 0.1666 0.0314 -0.0118 -0.0604 0.0288 0.1196
1.0000
AGRLDVN
0.0499 0.8180 0.0292 -0.0000 0.8582 0.0049 -0.1949 0.1188 0.3499 -0.6025 -0.7602
-0.1127
1.0000
AGRLDEU
0.0538 -0.0069 0.2555 0.4498 0.0071 0.3093 0.0025 0.0000 -0.0049 0.0007 0.0074
0.1349
-0.0044
1.0000
EVFTA
0.0634 0.7498 0.0523 0.0000 0.7530 0.0042 -0.3022 0.0175 0.5295 0.0125
-0.8500
-0.0817
0.4595
-0.0085 1.0000
Covid
-0.0294 0.4821 0.0337 -0.0000 0.5195 0.0031 -0.2204 0.0096 0.0481 0.2929
-0.6024
-0.0644
0.3538
-0.0058 0.7698 1.0000
Bảng 4.10. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS và TBT là thông báo hàng năm
130
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata
EX GDPVN GDPEU DIST POPVN POPEU TARIFF SPS TBT NEER ARGEMVN ARGEMEU AGRLDVN AGRLDEU EVFTA COVID
EX
1.0000
GDPVN
0.0896 1.0000
GDPEU
-0.0043 0.0589 1.0000
DIST
-0.0124 0.0000 0.4582 1.0000
POPVN
0.0811 0.9953 0.0563 -0.0000 1.0000
POPEU
0.0165 0.0042 0.9065 0.3168 0.0056 1.0000
0.1439
TARIFF
-0.2645 -0.0170
-0.2667 -0.0015 1.0000
- 0.0000
sps
0.1772 0.3149 0.0170 0.0001 0.3161 0.0003 -0.0214 1.0000
tbt
0.0863 0.6137 0.0519 -0.0000 0.7047 0.0038 -0.1843 0.3227 1.0000
NEER
-0.0557 -0.2216 0.0166 0.0000 -0.2603 -0.0013 0.0443 -0.0708 -0.0302 1.0000
-0.0854
-0.9705 -0.0610 -0.0000 -0.9704 -0.0055 0.2918 -0.3095 -0.7734 0.1582
1.0000
AGREMV N
0.0186
-0.1245 -0.1312 -0.2817 -0.1251 0.1666 0.0314 -0.0368 -0.0790 0.0288 0.1196
1.0000
AGREME U
0.0499
0.8180 0.0292 -0.0000 0.8582 0.0049 -0.1949 0.2679 0.4594 -0.6025 -0.7602
-0.1127
1.0000
AGRLDV N
0.0538
-0.0069 0.2555 0.4498 0.0071 0.3093 0.0025 -0.0043 -0.0067 0.0007 0.0074
0.1349
-0.0044
1.0000
AGRLDE U
EVFTA
0.0634 0.7498 0.0523 0.0000 0.7530 0.0042 -0.3022 0.2408 0.7374 0.0125
-0.8500
-0.0817
0.4595
-0.0085 1.0000
Covid
-0.0294 0.4821 0.0337 -0.0000 0.5195 0.0031 -0.2204 0.1730 0.4755 0.2929
-0.6024
-0.0644
0.3538
-0.0058 0.7698 1.0000
Bảng 4.11. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS, TBT là số lượng thông báo cộng dồn luỹ kế theo năm
131
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata
Tiếp theo, tác giả thực hiện một trong những bước đầu tiên quan trọng nhất
trong quy trình ước lượng và kiểm định dữ liệu bảng đó là kiểm định tính dừng của
chuỗi thời gian. Việc kiểm định tính dừng này là cần thiết đối với một bộ dữ liệu
chuỗi thời gian vì các biến phải dừng thì mới có thể phát hiện được thuộc tính của dữ
liệu là tăng hay giảm, có sự gia tăng đồng thời hay không, đồng thời để giúp các
phép kiểm định giả thuyết thông thường t, F, Chi bình phương và một số kiểm định
khác đáng tin cậy hơn.
Để kiểm định tính dừng cần căn cứ xem dữ liệu có sự phụ thuộc chéo hay
không. Nếu dữ liệu không có sự phụ thuộc chéo thì kiểm định tính dừng thế hệ thứ
nhất (xtuniroot) sẽ được thực hiện, còn nếu dữ liệu có sự phụ thuộc chéo thì kiểm
định tính dừng ở thế hệ thứ hai sẽ được triển khai (xtcips). Dựa vào kết quả kiểm định,
dữ liệu có sự phụ thuộc chéo, do đó tác giả tiến hành kiểm định tính dừng ở thế hệ thứ
nhất. Kết quả sau khi thực hiện là tất cả các biến đều có tính dừng vì hệ số CIPS lớn
hơn cả 3 giá trị critical value ở các lệnh kiểm định.
Cuối cùng, để xác định được dạng mô hình ước lượng để thực hiện cho nghiên
cứu, đồng thời nhận diện mối quan hệ dài hạn giữa các biến, nghiên cứu tiến hành
thực hiện kiểm định tính đồng liên kết. Do giữa các biến có sự phụ thuộc chéo như
đã kiểm định ở trên, nên nghiên cứu sử dụng kiểm định Westerlund để kiểm định tính
đồng liên kết. Kết quả kiểm định cho thấy tất cả hệ số sig của các biến đều lớn hơn
5%, do đó, kết luận không có đồng liên kết. Đối với dữ liệu bảng không có đồng liên
kết thì các dạng mô hình để ước lượng được đề xuất có thể là mô hình ước lượng bình
phương nhỏ nhất - Pooled OLS (Pooled Ordinary Least Square), mô hình hiệu ứng
cố định - FEM (Fixed Effects Model) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên - REM
(Random Effects Model), ước lượng bình phương nhỏ nhất tổng quát - GLS
(Generalized Least Squares) hoặc phương pháp ước lượng hợp lý cực đại theo phân
phối Poision (PPML - Poision Pseudo Maximum Likelihood). Đây là phương pháp
ước lượng giả (Pseudo) theo phương pháp khả năng lớn nhất (Maximum Likelihood)
theo phân phối (Poision) do Santos và Tenreyro (2006).
Vì dữ liệu bảng đưa vào nghiên cứu là dữ liệu theo quốc gia – ngành – năm
(country-sector-year). Nghiên cứu lựa chọn phương pháp ước lượng PPML với các
hiệu ứng cố định (FE) đa chiều cặp quốc gia – ngành - năm (country-sector-year-FE).
Đồng thời, khi triển khai thu thập và xây dựng bảng dữ liệu với mã sản phẩm HS 2
132
chữ số của ba nhóm hàng thì xuất hiện nhiều quan sát có giá trị xuất khẩu bằng 0 bởi
có những mã sản phẩm mà Việt Nam và các quốc gia thành viên của EU không có
thương mại; do đó để tránh việc các quan sát bằng 0 sẽ bị loại bỏ khỏi mẫu. Bên
cạnh đó, vấn đề hiện tượng phương sai sai số thay đổi thường xuất hiện trong số
liệu thương mại. Do đó, phương pháp PPML được đề xuất để giải quyết được các
(2019) để tiến hành ước lượng.
vấn đề này. Nghiên cứu sử dụng lệnh PPMLHDFE được đề xuất bởi Correia và cộng sự
Khi thực hiện ước lượng PPML, biến phụ thuộc của mô hình trọng lực sẽ được
biến đổi thành hàm phi lograrit. Do đó, phương trình kiểm định tác động của các
BPPTQ đối với hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU sẽ có dạng sau:
EXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +
β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +
β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA
+ β15COVID + ist_FE + jst_FE + ijh_FE + ε (4)
Trong đó, ngoài các biến đã được chú thích ở chương 3 thì một số hiệu ứng cố định
được đưa vào mô hình hồi quy gồm:
- ist_FE: Hiệu ứng cố định (FE) theo nước nhập khẩu – ngành - thời gian;
- jst_FE: Hiệu ứng cố định (FE) theo nước xuất khẩu – ngành - thời gian;
- ijh_FE: Hiệu ứng cố định (FE) nước nhập khẩu-nước xuất khẩu-sản phẩm
Bên cạnh đó, để kiểm tra độ mạnh và tính tin cậy của mô hình, nghiên cứu đã
sử dụng thêm phương pháp hồi quy tuyến tính OLS với các hiệu ứng cố định, tương
tự như trong phương trình ước lượng PPML.
4.4.1.2. Kết quả ước lượng, các kiểm định sau mô hình và thảo luận
Để kiểm tra mối quan hệ phụ thuộc tuyến tính giữa các biến độc lập, tác giả
đưa tất cả các biến vào để tiến hành thực hiện ước lượng thông qua hồi quy OLS và
sử dụng nhân tử phóng đại phương sai VIF để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến giữa
các biến độc lập. Kết quả kiểm tra cho thấy, hệ số VIF của các biến LnPOPVN,
LnGDPVN, LnGDPEU, LnPOPEU, EVFTA, Covid, LnAGRLDVN,
LnAGREMVN, LnAGRELDEU lớn hơn 10; còn các biến đều nhỏ hơn 10. Chứng tỏ
có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Đúng như dự đoán trong kết quả kiểm định tương
quan đã đưa ra. Tiến hành lựa chọn và loại bỏ lần lượt các biến có thể gây ra hiện
tượng đa cộng tuyến ra khỏi mô hình, chạy lại mô hình với phương trình ước lượng
133
áp dụng cho cả hai dạng biến SPS và TBT như sau:
LnEXkit = β0 + β1LnGDPVNt + β2 LnPOPEUit + β3LnDISTi + β4 LnTARIFFki(t-1) +
β5TBTik(t-1) + β6 SPSik(t-1) + β7 LnAGREMDEUit + β8 LnNEERt + β9 EVFTA +
β10COVID + ε (5)
Sau khi loại bỏ các biến có hiện tượng đa cộng tuyến, thực hiện lại mô hình
và kiểm tra lại thì các biến đã không còn hiện tượng đa cộng tuyến (xem Bảng 4.12).
Khuyết tật được loại bỏ, các biến có thể đưa vào thực hiện các ước lượng.
Bảng 4.12. Phân tích nhân tử phóng đại phương sai VIF
STT
Biến
Mô hình (1) Mô hình (2)
VIF
1/VIF
VIF
1/VIF
LnGDPVN
3.01
0.332091
3.07
0.325475
1
LnPOPEU
1.11
0.826772
1.21
0.826766
2
LnDIST
1.28
0.782372
1.28
0.782369
3
LnTARIFF
1.12
0.897362
1.12
0.894985
4
TBT
2.88
0.346631
2.72
0.367440
5
SPS
1.15
0.966198
1.15
0.870832
6
LnAGREMEU
1.20
0.830998
1.20
0.830986
7
LnNEER
1.39
0.720799
1.39
0.721210
8
EVFTA
7.24
0.138046
5.74
0.174283
9
COVID
5.29
0.189021
3.23
0.309685
10
Mean VIF
2.18
2.21
Sau khi mô hình đã khắc phục được hiện tượng đa cộng tuyến, các biến được
đưa vào các ước lượng OLS và PPML với các hiệu ứng cố định FE. Kết quả ước
lượng được thể hiện trong Bảng 4.13.
Kết quả ước lượng PPML với hiệu ứng cố định (FE) cho thấy các giá trị R
bình phương (Pseudo R-squared) ở Bảng 4.13 chỉ ra rằng các mô hình ước lượng đều
phù hợp, với R bình phương là 0.8261 (ở mô hình 1) và 0.8374 (ở mô hình 2) , điều này
có nghĩa sự thay đổi của các biến độc lập giải thích được lần lượt ở hai mô hình là
134
82.61% và 83.74% sự thay đổi của kim ngạch XKNS Việt Nam sang thị trường EU.
Bảng 4.13. Kết quả ước lượng của mô hình đối với tổng giá trị nông sản Việt
Nam xuất khẩu sang EU
Biến phụ thuộc
Giá trị xuất khẩu
Mô hình (1)
Mô hình (2)
LnGDPVN
LnPOPEU
PPML (EX) - 0.4132 (-0.73) 0.1248*** (6.70)
PPML (EX) - 0.7422 (-0.79) 0.1523*** (7.21)
-
-
LnDIST
lnTARIFF
SPS
TBT
LnAGREMEU
3.0474 (1.57) 0.0063*** (7.97) - 0.0251*** (-11.21) - 0.0638* (-1.57)
3.4715 (1.32) 0.0085*** (11.90) 0.0042* (1.85) - 0.0573* (-1.55)
LnNEER
-
-
EVFTA
COVID
OLS (LnEX) - 0.524 (-0.83) 0.1719* (1.88) 0.0009 (0.00) 1.0818 (1.08) 0.0194** (2.18) 0.0065* (1.26) 0.0902 (0.83) - 0.1615* (-1.29) 1.3379 (0.46) - 1.1251* (-1.86)
0.6132*** (12.88) - 0.6435*** (-5.47)
OLS (LnEX) - 0.9723 (-0.68) 0.1678** (2.21) 0.2020 (0.38) 0.2191 (1.74) 0.0112** (2.20) - 0.0072 (-0.65) - 0.0392 (-0.96) - 0.1527* (-2.06) 1.7756 (0.76) - 1.2902** (-2.25)
0.7363*** (6.76) - 0.5730*** (-7.32)
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu- sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2
6831 0.6532 0.0000
6831 0.8261 0.0000
6831 0.6253 0.0000
6831 0.8374 0.0000
Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%
Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;
Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được ước lượng từ STATA 17
Xét tác động của các biện pháp SPS: Ở cả mô hình (1) và mô hình (2), biến
SPS đều có mối tương quan dương với mức ý nghĩa thống kê cao (p-value = 0.000).
Nghĩa là các biện pháp SPS có tác động tích cực tới giá trị xuất khẩu nông sản, mặc
135
dù mức tác động còn rất nhỏ. Cụ thể, nếu hàng năm, EU có một thông báo mới liên
quan biện pháp SPS thì sẽ khiến giá trị XKNS Việt Nam sang thị trường này tăng
0,6%; còn trong trường hợp các quy định SPS được cộng dồn, luỹ kế theo năm thì
mức độ tăng là trên 0,8%. Lý do của kết quả tăng khác nhau giữa hai mô hình có thể
bắt nguồn từ việc với dữ liệu cộng dồn theo năm thể hiện tổng số SPS mà EU áp dụng
với nông sản, Việt Nam đã có thời gian dài để đáp ứng được các BPPTQ nên mức độ
đáp ứng với tiêu chuẩn của thị trường cao hơn. Kết quả này phù hợp với kết quả của
các nghiên cứu của Xiong và Beghin (2012), Ronen (2017), Cadot và cộng sự (2018),
Dolabella (2018), Santeramo và cộng sự (2019), Nguyễn Thị Thu Hiền (2022). Điều
này có thể giải thích rằng các doanh nghiệp xuất khẩu đang dần thích nghi, đáp ứng
được các tiêu chuẩn chất lượng mà thị trường EU đưa ra, từ đó, tạo được lòng tin của
người tiêu dùng, từ đó, thúc đẩy cầu nhập khẩu nông sản từ EU, mặc dù, gia tăng các
biện pháp SPS có thể ban đầu về lâu dài sẽ là động lực thúc đẩy xuất khẩu.
Xét tác động của các biện pháp TBT: Ở mô hình (1), TBT có tác động ngược
chiều với mức ý nghĩa thống kê cao 1%., trong khi tại mô hình (2) có tác động thuận
chiều với ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Trong mô hình (1), biến TBT tác động tiêu cực
đến kim ngạch xuất khẩu, nếu hàng năm cứ có thêm một biện pháp TBT mới thì sẽ làm
giảm 2% kim ngạch xuất khẩu sang EU. Kết quả này tương đồng với kết quả của nghiên
cứu Disdier và cộng sự (2008), Ferro, Otsuki & Wilson (2015), phù hợp với tác động
của TBT đến các nước xuất khẩu là nước đang phát triển như Việt Nam vì khi có thêm
một thông báo quy định mới được ban hành nghĩa là các doanh nghiệp XKNS sẽ phải
gia tăng các chi phí cố định tăng để đáp ứng với quy định mới, từ đó, sức cạnh tranh về
giá trên thị trường giảm, dẫn đến tác động tiêu cực đến lượng xuất khẩu.
Tuy nhiên, tại mô hình (2) với số lượng biện pháp TBT cộng dồn, luỹ kế theo
năm, hướng tác động của của biến TBT đã đảo chiều tại mô hình (2), TBT có tác
động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên mức tác động hết sức khiêm tốn và
mức ý nghĩa thống kê không cao. Việc gia tăng 1 biện pháp TBT, có thể gia tăng
0,6% giá trị xuất khẩu. Điều này có thể đến từ việc các doanh nghiệp qua một quá
trình thích ứng các quy định TBT, sản phẩm đã thâm nhập được vào thị trường thì
doanh nghiệp có thể giảm chi phí nghiên cứu thị trường thúc đẩy xuất khẩu .
Xét tác động của các biến độc lập khác:
Đối với biến thuế quan (LnTariff): có tác động thuận chiều nhưng không có ý
nghĩa thống kê. Do đó, chưa đủ cơ sở để kết luận tác động của biến thuế quan đối với
136
XKNS Việt Nam sang EU trong giai đoạn nghiên cứu.
Biến tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam (LnGDPVN): Cả mô hình (1) và (2)
đều cho ra kết quả với hệ số âm biểu thị một mối quan hệ nghịch giữa GDP của Việt
Nam và giá trị xuất khẩu; tuy nhiên, kết quả này không có ý nghĩa thống kê. Do đó,
không có cơ sở để kết luận tác động của biến này đối với giá trị XKNS.
Biến dân số EU (LnPOPEU): Kết quả cho thấy dân số EU có tác động cùng
chiều với giá trị XKNS, có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%. nếu dân số EU tăng 1%
thì giá trị nông sản xuất sang EU tăng 12 – 15%. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng
dấu và các nghiên cứu đi trước vì dân số EU càng lớn đồng nghĩa với một thị trường
tiêu thụ tiềm năng lớn. Khi dân số EU tăng, nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu từ Việt
Nam cũng tăng theo, dẫn đến giá trị xuất khẩu cao hơn.
Ngược lại, với biến tỷ lệ người dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp của
EU (LnAGREMEU) thì kết quả ở cả hai mô hình đều có tác động ngược chiều với
mức ý nghĩa thống kê 1%. Điều này là phù hợp vì việc gia tăng tỷ lệ người dân làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp tại các quốc gia này có thể làm tăng nguồn cung nội
địa, giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam, do đó gây ra tác động
tiêu cực với giá trị nông sản xuất khẩu sang EU.
Biến EVFTA có tác động dương rất mạnh và ý nghĩa thống kê cao đặc biệt
trong cả hai mô hình, cho thấy EVFTA đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vì giảm
hoặc loại bỏ thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị
trường EU, từ đó làm gia tăng giá trị xuất khẩu. EVFTA đã mang lại nhiều cơ hội cho
xuất khẩu nông sản Việt Nam khi tiến trình cắt giảm thuế được tiếp tục.
Biến COVID-19: Đại dịch COVID – 19 mang hệ số âm và có ý nghĩa thống
kê cao trong tất cả các mô hình, cho thấy tác động tiêu cực của đại dịch lên xuất khẩu
do đại dịch Covid - 19 đã gây ra các gián đoạn trong chuỗi cung ứng, giảm nhu cầu
tiêu dùng, thời gian thông quan hàng hóa cũng lâu hơn, tốn kém hơn khiến các doanh
nghiệp e dè trong quyết định xuất khẩu.
Biến khoảng cách và biến tỷ giá bị loại bỏ do cộng tuyến với các hiệu ứng cố
định.
Đối với kết quả từ ước lượng OLS cũng sử dụng các mức hiệu ứng cố định
tương đương như PPML nhằm củng cố mức độ chuẩn mạnh của ước lượng PPML.
Có thể thấy các biến SPS và TBT có ý nghĩa thống kê thấp hơn hoặc không có ý nghĩa
thống kê. So sánh các giá trị R bình phương của ước lượng OLS đều thấp hơn so với
137
kết quả của PPML.
Tóm lại, qua ước lượng kết quả tác động của SPS và TBT đối với tổng thể
nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU như sau:
Thứ nhất, SPS có tác động thúc đẩy XKNS của Việt Nam sang thị trường EU,
tuy nhiên, mức độ thúc đẩy còn rất khiêm tốn. TBT lại có thể có tác động hỗn hợp
đến giá trị xuất khẩu.
Thứ hai, tác động của biện pháp SPS và TBT tương đối nhỏ so với các yếu tố
độc lập khác. Lý do cho điều này là vì các yếu tố truyền thống như quy mô nền kinh
tế và tỷ lệ dân số làm trong nông nghiệp, EVFTA, hay đại dịch Covid - 19,… thường
nằm ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp xuất khẩu. Những yếu tố này thường
bị quyết định bởi các vấn đề chính trị và kinh tế của quốc gia và không thay đổi một
cách nhanh chóng. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thường không có khả năng
can thiệp trực tiếp vào những yếu tố này; trong khi đó, đối với biện pháp SPS và TBT,
các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể dần thích nghi, tích lũy kinh nghiệm và
học hỏi cách đáp ứng chúng trong quá trình xuất khẩu hàng hóa.
4.4.2. Kiểm định tác động của các BPPTQ đến các nhóm hàng nông sản
Nhằm phân tích kỹ hơn tác động của SPS và TBT tới khả năng XKNS của
Việt Nam đối với từng nhóm hàng nông sản với những đặc tính khác biệt, tác giả tiến
hành đánh giá tác động của các biện pháp này đối với 3 nhóm mặt hàng gồm:
- Nhóm 1: Hàng nông sản liên quan đến động vật (HS 01 – 05, trừ HS 03);
- Nhóm 2: Hàng nông sản liên quan đến thực vật (HS 06 - 14);
- Nhóm 3: Hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS 15 –
24, trừ HS16 - HS1604, HS1605).
Bảng 4.14 trình bày kết quả ước lượng tác động của các biến độc lập đối với
giá trị xuất khẩu nhóm 1 . Ở cả hai mô hình, biến SPS đều có hệ số mang giá trị dương
với ý nghĩa thống kê cao đạt mức 1%. Điều đó cho thấy dù EU tăng cường các biện
pháp SPS nhưng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản từ động vật tăng lên,
nhưng mức độ gia tăng là không đáng kể, khoảng 0,1- 0,2%. Dù ban đầu có thể SPS có
thể gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng, tốn các chi phí nhưng
về dài hạn, nhờ có việc tuân thủ, đảm bảo chất lượng đã nâng cao uy tín, tạo được sự tin
tưởng của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy xuất khẩu. Trong khi đó, biến TBT lại mang
dấu âm ở cả hai mô hình, cho thấy TBT có thể gây tác động tiêu cực tới xuất khẩu các
sản phẩm liên quan đến động vật sống; tuy nhiên, mức ý nghĩa thống kê thấp. Ngoài ra,
các biến truyền thống khác như GDP, EVFTA, COVID trong mô hình này đều mang
138
dấu đúng với kỳ vọng chỉ ngoại trừ biến thuế quan và tỷ lệ lao động trong nông nghiệp
của EU mang dấu dương, nhưng đều không có ý nghĩa thống kê. Biến khoảng cách và
tỷ giá bị loại bỏ do đa cộng tuyến với các hiệu ứng cố định.
Bảng 4.14. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị
xuất khẩu Nhóm 1 – Động vật và sản phẩm từ động vật của Việt Nam sang EU
Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)
LnGDPVN
LnPOPEU
LnDIST
lnTARIFF
SPS
TBT
LnAGREMEU
LnNEER
EVFTA
COVID Mô hình (2 1.2461** (2.57) 0.5623*** (3.67) - 5.4363 (1.01) 0.0022*** (5.13) - 0.0356* (- 1.71) 1.2428 (0.17) - 1.3603*** (3.64) - 1.7931*** (-4.81) Mô hình (1) 1.0264*** (3.29) 0.5552*** (3.63) - 6.2431 (0.89) 0.0013*** (4.74) -0.0473* (-1.57) 1.157 (0.02) - 1.2647*** (3.78) - 1.3324*** (-4.27)
Có Có
Có Có
Có Có
1188 0.7829 0.0000 Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 1188 0.7956 0.0000
Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%
Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;
Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được ước lượng từ STATA 17
Xét kết quả tác động của các biện pháp SPS và TBT đến xuất khẩu Nhóm 2
tại Bảng 4.15. Đây là nhóm nông sản xuất khẩu chủ lực, chiếm đến từ 80% đến 95%
139
trong tổng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU tuỳ thuộc vào từng giai đoạn.
Bảng 4.15. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị
xuất khẩu Nhóm 2 – Thực vật và sản phẩm từ thực vật của Việt Nam sang EU
Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)
LnGDPVN
LnPOPEU
LnDIST
lnTARIFF
SPS
TBT
LnAGREMEU
LnNEER
EVFTA
COVID Mô hình (1) 0.4596*** (3.51) 0.3219*** (5.43) - 0.3279* (-1.97) 0.0039*** (3.16) 0.0011*** (13.29) - 0.0363 (-0.14) - 1.0133*** (9.04) - 1.8221*** (-19.42) Mô hình (2) 0.4623*** (4.01) 0.2903*** (5.90) - 0.3467* (-1.89) 0.0047*** (3.93) 0.0020*** (10.17) -0.0486 (- 0.57) - 1.3725*** (8.525) - 2.8736*** (- 29.43)
Có Có
Có Có
Có Có
Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 2673 0.7432 0.0000 2673 0.7251 0.0000
Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%
Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;
Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được tính toán, ước lượng từ STATA17
Biến SPS mang hệ số dương mang ý nghĩa các biện pháp SPS có tác động tích
cực tới XKNS của Việt Nam, hệ số có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%. Tuy nhiên,
mức độ tác động tích cực còn khá khiêm tốn khi cứ tăng một quy định liên quan SPS
hàng năm thì giá trị xuất khẩu tăng 0.3%; còn trong trường hợp biến số là tổng các
SPS mà các mặt hàng nông sản từ thực vật phải đáp ứng thì cứ tăng một biện pháp
140
thì chỉ giúp gia tăng 0,4% giá trị xuất khẩu. Tương tự đối với biến TBT, TBT cũng
có tác động cùng chiều với giá trị xuất khẩu nhóm hàng nông sản này, với mức ý
nghĩa thống kê cao. Mức độ tác động cũng không đáng kể. Các biến truyền thống
khác trong mô hình ước lượng với dữ liệu của nhóm nông sản này cũng mang dấu
đúng như kỳ vọng với ý nghĩa thống kê ở mức cao, ngoại trừ thuế quan, mức thống
kê chỉ ở 10%.
Bảng 4.16. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị
xuất khẩu Nhóm 3 – Hàng nông sản, thực phẩm chế biến của Việt Nam sang EU
Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)
LnGDPVN
LnPOPEU
LnDIST
lnTARIFF
SPS
TBT
LnAGREMEU
LnNEER
EVFTA
COVID Mô hình (2) - 0.4180 (-1.24) 0.1824*** (6.48) - - 0.1648*** (-4.23) 0.0078*** (4.02) -0.0181*** (- 4.30) -0.3963 (-1.06) - 0.5972*** (9.23) - 1.12448*** (- 7.72) Mô hình (1) 0.3129*** (3.16) 0.1561*** (6.17) - - 0.1920*** (-3.89) 0.0043*** (4.81) - 0.0172*** (-4.12) - 0.4026 (-0.65) - 0.4175** (1.85) - 0.8925*** (-3.69)
Có Có
Có Có
Có Có
2970 0.6690 0.0000 Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 2970 0.6573 0.0000
Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%
Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;
Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm
Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được tính toán, ước lượng từ STATA17
141
Đối với nhóm 3, biến SPS ở mô hình (1) và (2) đều mang giá trị dương và có
ý nghĩa thống kê cao 1%. Mức độ tác động tích cực cũng giống như các nhóm khác
cũng tương đối nhỏ. Đây là nhóm hàng có sự thay đổi về tỷ trọng xuất khẩu lớn trong
giai đoạn 10 năm. Nếu năm 2012, nhóm hàng này chỉ chiếm 5% trong tổng tỷ trọng
xuất khẩu thì năm 2023 đã nâng lên 16,12%. Điều này cho thấy, việc các doanh
nghiệp đáp ứng được tốt các quy định liên quan SPS và TBT mà EU đưa ra, cùng với
các tác động tích cực của EVFTA mang lại, sự phát triển của kinh tế, khuyến khích
chế biến trong nước,… đã giúp kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang EU ngày
càng nhiều. Ngược lại, TBT lại có tác động tiêu cực và có ý nghĩa thống kê cao.
Nguyên nhân có thể xuất phát từ đặc tính yêu cầu kĩ thuật đối với nhóm hàng chế
biến này liên quan đến các quy định về ghi nhãn sản phẩm. Các biến truyền thống
khác trong mô hình hầu như đều mang dấu như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê cao,
ngoại trừ biến LnAGREMEU không có ý nghĩa thống k, biến tỷ giá hối đoái (LnNeer)
và khoảng cách bị loại bỏ do đa cộng tuyến với hiệu ứng cố định.
Xem xét giá trị R bình phương trong Bảng 4.14, Bảng 4.15 và Bảng 4.16 cho
thấy tất cả phương trình được chọn đều giải thích được trên 60% đến trên 70% sự
thay đổi của kim ngạch xuất khẩu từng nhóm hàng nông sản của Việt Nam sang thị
trường EU.
So sánh tác động của biện pháp SPS và TBT cũng như các biến khác trong các
mô hình thì đối với từng nhóm mặt hàng khác nhau, các biến có những tác động khác
nhau đối với giá trị xuất khẩu, tuy nhiên, tựu chung lại thì:
Về tác động của biện pháp SPS: Ở cả 3 nhóm hàng, biện pháp SPS đều có tác
động dương, có ý nghĩa thống kê cao nhưng mức tác động còn rất khiêm tốn. Kết quả
này đi ngược với kết quả của nhiều nghiên cứu đi trước như Disdier và cộng sự
(2008),Wilson & Otsuki (2003) vì theo các nghiên cứu này thì nông sản là hàng hoá
chịu sự kiểm dịch chặt chẽ, đặc biệt là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, quá trình kiểm
dịch thường mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá. Nhưng kết quả SPS
tác động tích cực lại phù hợp với kết quả của các nghiên cứu của Xiong và Beghin
(2011), Ronen (2017), Dolabella (2018), Santeramo và cộng sự (2019), Nguyễn Thị
Thu Hiền (2022). Có thể giải thích theo cơ chế tác động về dài hạn, các doanh nghiệp
Việt Nam đã và đang dần thích nghi, đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng mà thị
trường EU đưa ra, tạo được uy tín đối với người tiêu dùng EU, từ đó, nhu cầu tiêu
142
thụ tăng lên, tăng nhu cầu nhập khẩu của EU.
Về tác động của biện pháp TBT: TBT có tác động tích cực đến xuất khẩu ở
cả nhóm 2 nhưng lại có tác động tiêu cực đối với nhóm 1 và nhóm 3. Như vậy, TBT
có tác động hỗn hợp, với các nhóm mặt hàng khác nhau, sẽ có những chiều hướng
tác động khác nhau. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước về tác động hai
mặt của TBT đối với sản xuất và chi phí thương mại. Một mặt, việc đáp ứng các quy
định TBT của từng thị trường nhập khẩu thường làm tăng chi phí cố định do doanh
nghiệp phải điều chỉnh quy trình và năng lực sản xuất (Ganslandt & Markusen, 2001;
Chen và cộng sự, 2008). Mặt khác, TBT có thể giúp giảm bớt chi phí tìm hiểu thị
trường đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, từ đó mở ra cơ hội thâm nhập thị trường
mới (Portugal-Perez và cộng sự, 2010). Khi chi phí tuân thủ các tiêu chuẩn thị trường
thấp hơn chi phí tự tìm kiếm thông tin, TBT có thể tạo ra hiệu ứng tích cực, thúc đẩy
hoạt động thương mại.
Hơn nữa, kết quả tác động tích cực của TBT có thể đến từ việc các quy định
TBT mới của EU đưa ra chưa đủ mạnh và khác biệt để tạo ra sự gia tăng lớn về chi
phí trong việc thay đổi công nghệ, máy móc đối với doanh nghiệp xuất khẩu; do đó,
doanh nghiệp vẫn ra quyết định có thể tăng cường xuất khẩu.
Xét về tác động của các biến độc lập khác, các biến khác trong mô hình có
tác động lớn hơn 2 biến TBT và SPS và đều có ý nghĩa thống kê, đặc biệt các biến có
tác động lớn nhất bao gồm LnGDPVN, LnPOPEU, cho thấy các yếu tố ảnh hưởng từ
phía cung và cầu vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất trong thúc đẩy giá trị XKNS sang
EU. Đối với biện pháp thuế quan, có tác động âm, có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên,
sự cắt giảm và xóa bỏ đáng của EU trong khuôn khổ Hiệp định EVFTA trên thực tế
đã mang lại nhiều cơ hội cho hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU.
4.5. Đánh giá chung về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông
sản Việt Nam
4.5.1. Tác động tích cực
Theo kết quả mô hình định lượng đã chỉ ra rằng các biện pháp SPS có tác động
tích cực ở cả mô hình tổng nông sản và ở cả ba nhóm hàng nông sản; trong khi đó,
biện pháp TBT cũng có tác động tích cực đối với nhóm 2, mặc dù mức độ tác động
còn rất khiêm tốn và không đáng kể và với mỗi loại mặt hàng cụ thể khác nhau, mức
độ thúc đẩy có thể là khác nhau.
Cơ chế tác động tích cực của các biện pháp SPS và TBT được xem xét trong
143
dài hạn. Nghĩa là các tác động tích cực không thể thấy được trong một thời gian ngắn
mà phải là một quá trình lâu dài. Khi các biện pháp SPS, TBT được thiết kế tốt, các
doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt, tuân thủ tốt các quy định, nâng cao được khả năng
cạnh trạnh, định vị được thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường thì sẽ tạo ra
một hiệu ứng tích cực, khi được người tiêu dùng tin tưởng, khiến nhu cầu tăng lên,
từ đó sẽ thúc đẩy cầu nhập khẩu của EU, và tạo ra hiệu ứng tích cực giúp hoạt động
xuất khẩu bền vững nông sản sang EU. Đồng thời, khi chi phí tuân thủ nhỏ hơn chi
phí tiếp cận thị trường, cũng sẽ tạo ra tác động tích cực đối với xuất khẩu.
Ngoài ra, các BPPTQ tập trung vào tính bền vững, chẳng hạn như các quy
định về phát thải carbon, có thể tạo ra động lực cho các phương pháp sản xuất xanh
hơn, phù hợp với các mục tiêu khí hậu quốc tế và sở thích của người tiêu dùng đối
với các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khi được thực hiện đúng cách, các
BPPTQ sẽ góp phần vào sự ổn định kinh tế lâu dài bằng cách giảm thiểu các thất bại
của thị trường và thúc đẩy lòng tin giữa các đối tác thương mạị, từ đó có thể đảo chiều
tác động từ tiêu cực sang tích cực tới kim ngạch XKNS Việt Nam.
Kết hợp phân tích đánh giá kết quả định lượng và phân tích thực tiễn, có thể
đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực của các BPPTQ đối với
XKNS.
Thứ nhất, các BPPTQ đã thúc đẩy thương mại, với mỗi loại mặt hàng cụ thể
khác nhau, mức độ thúc đẩy có thể là khác nhau.
Lý do giải thích cho tác động thúc đẩy thương mại này được đưa ra là tuy
rằng việc các doanh nghiệp xuất khẩu tuân thủ các quy định SPS, TBT của thị trường
EU dẫn đến sự gia tăng các chi phí cố định trong việc điều chỉnh khả năng sản xuất
và các quy trình sản xuất, nhưng cũng giảm bớt các chi phí liên quan đến nghiên
cứu thị trường và đồng thời tiết kiệm chi phí thu thập thông tin, tạo ra một môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Khi mà chi phí tuân thủ tiêu
chuẩn thị trường nhỏ hơn nhờ sự giảm bớt của chi phí thu thập thông tin cho doanh
nghiệp, giúp tiết kiệm chi phí và thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu; từ đây, tác động
của SPS và TBT đã được đổi chiều. Như vậy, tác động của biện pháp SPS, TBT
không chỉ xuất phát từ sự thúc đẩy tuân thủ quy chuẩn mà còn liên quan đến cơ hội
cải thiện quy trình sản xuất.
Thứ hai, để đáp ứng một cách chủ động các tiêu chuẩn về các BPPTQ của thị
144
trường EU, Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến tiêu chuẩn và
quy định đối với hàng nông sản xuất khẩu. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã xây dựng
các quy định pháp lý như Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013, các Thông tư
về quy định kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật trên cạn năm 2016 (được sửa
đổi mới nhất vào năm 2022), và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón
ban hành năm 2019,... Các quy định này đã được Việt Nam ban hành nhằm nâng cao
khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn liên quan đến SPS và TBT của thị trường EU cũng
như các quốc gia khác trên thế giới. Điều này cho thấy Việt Nam đang nỗ lực để tạo
ra một môi trường sản xuất an toàn và đáng tin cậy cho nông sản xuất khẩu, đồng thời
thể hiện cam kết đối với việc tham gia vào thương mại quốc tế và tuân thủ các tiêu
chuẩn quốc tế. Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp này cũng giúp đảm bảo sự bảo vệ
sức khỏe của người tiêu dùng và tăng cường uy tín của nông sản Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Thứ ba, các tác động tích cực này có thể đến từ sự quan tâm, các hoạt động
hỗ trợ chính sách của các cơ quan, bộ, ban ngành nhà nước. Từ khi Việt Nam trở
thành thành viên của WTO, các văn phòng SPS, TBT phối hợp với các cơ quan liên
quan đã triển khai, thực hiện rất hiệu quả việc đưa thông tin đến cho các doanh nghiệp
nông sản, giúp các doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin cập nhật về các
thay đổi, bổ sung trong các quy định liên quan đến các biện pháp SPS và TBT. Các
bộ ngành như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thường
xuyên tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, toạ đàm, tập huấn để phổ biến các quy định
của EVFTA, các quy định, chính sách mới của EU áp dụng với nông sản đến các hiệp
hội, doanh nghiệp, người nông dân.
Thứ tư, một bộ phận các doanh nghiệp đã ý thức được hơn trong việc tuân thủ
các quy định của thị trường nhập khẩu. Từ đó giúp hàng hoá đáp ứng và thâm nhập
được vào thị trường EU. Việc chủ động tìm hiểu và tuân thủ các quy định của EU là
yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập bền vững vào thị trường
EU. Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp đã có sự cải thiện đáng kể trong
việc cập nhật và đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, và
tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, mức độ chủ động vẫn chưa đồng đều giữa các
doanh nghiệp, đặc biệt là giữa doanh nghiệp lớn và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ. Những
doanh nghiệp lớn, có khả năng tiếp cận thông tin và nguồn lực tài chính tốt hơn, đã
tích cực áp dụng các tiêu chuẩn như GlobalG.A.P., HACCP, hay EU Organic để đảm
145
bảo chất lượng hàng hóa. Chẳng hạn, nhiều công ty xuất khẩu gạo đã đầu tư vào quy
trình sản xuất hữu cơ nhằm đáp ứng Quy định (EU) 2018/848 về nông sản hữu cơ,
giúp gia tăng giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường châu Âu.
4.5.2. Tác động tiêu cực
Mặc dù các biện pháp SPS trong mô hình định lượng có tác động thuận chiều
với kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU nhưng biện pháp TBT tác động đến nhóm
hàng nông sản liên quan đến động vật và thực phẩm chế biến vẫn mang dấu âm; đồng
thời, thông qua nghiên cứu, phân tích định tính tình hình thực tiễn thì các biện pháp
này vẫn có những tác động tiêu cực đến XKNS sang thị trường EU. Tác động tiêu
cực này được thể hiện thông qua số liệu các lô hàng nông sản, thực phẩm của Việt
Nam bị hệ thống RASFF cảnh báo, trả về, số liệu về việc áp dụng kiểm tra tần suất
đối với một số mặt hàng nông sản Việt Nam theo Quy định (EC) 2019/1973. Nghĩa
là các BPPTQ vẫn mang đến những tác động tiêu cực nhất định cho XKNS Việt Nam
sang EU.
Tuy nhiên, có thể nhận định rằng, số lượng các lô hàng vi phạm đang ngày
càng giảm, điều đó cho thấy, doanh nghiệp xuất khẩu đã ngày càng quan tâm đến vấn
đề kĩ thuật và chất lượng hàng nông sản sang EU. Đồng thời, số lượng lô hàng bị
cảnh báo, trả về chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với tổng giá trị hàng nông sản xuất
sang EU. Mặc dù vậy, những tác động tiêu cực vẫn còn tồn tại và cần được đánh giá
để khắc phục. Các tác động tiêu cực có thể kể đến gồm:
Một là, các BPPTQ có thể làm giảm kim ngạch xuất khẩu nông sản
Về số lượng các BPPTQ (SPS và TBT) mà EU đối với nông sản không nhiều
như một số quốc gia và khu vực khác trên thế giới; tuy nhiên, các quy định của EU
lại là các quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Số lượng biện pháp SPS
mà EU áp dụng cho mặt hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lượng biện
pháp SPS áp dụng cho tất cả các ngành hàng (chiếm 86,137%), tỷ trọng TBT áp dụng
với nông sản lên tới 29,543%. Khi EU thực hiện rộng rãi và nghiêm ngặt các quy
định về SPS và TBT, hoặc có xu hướng tăng cường các quy định liên quan đến hai
biện pháp này, có thể dẫn đến giảm giá trị XKNS do hàng loạt lô hàng không đáp
ứng yêu cầu bị trả về Việt Nam. Thông tin từ Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT),
các vi phạm về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm đang có chiều hướng gia tăng.
Tính từ năm 2021 đến 2023, đã có nhiều thông báo không tuân thủ về kiểm dịch thực
vật từ các nước nhập khẩu. Riêng trong 7 tháng năm 2023, 370 lô hàng chuối, thanh
146
long, xoài, sầu riêng và mít đã biệt liệt kê vào đối tượng kiểm dịch. Ngoài ra, còn có 107
cảnh báo về các lô hàng xuất khẩu không đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm
như chứa nấm mốc, vi khuẩn, kim loại nặng, chất gây dị ứng,... Từ đó, làm giảm kim
ngạch xuất khẩu.
Đồng thời điều này có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà nhập khẩu
khi hàng hóa bị trả về gây thất vọng và lo ngại khi nhập khẩu nông sản từ Việt Nam
trong tương lai và tìm kiếm các nguồn cung thay thế. Những tác động này có thể làm
giảm giá trị XKNS của Việt Nam sang thị trường EU. Điều này nhấn mạnh sự quan
trọng của việc tuân thủ và đáp ứng SPS và TBT của EU để duy trì lợi thế xuất khẩu
và đảm bảo tăng trưởng bền vững cho ngành nông nghiệp Việt Nam.
Hai là, giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam
Các biện pháp SPS làm tăng chi phí biến đổi liên quan đến việc đánh giá sự
phù hợp, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp phải tuân thủ các mức giới hạn đối với
thuốc bảo vệ thực vật, cũng như các yêu cầu về kiểm dịch, dán nhãn và đóng gói.
Trong khi đó, các biện pháp TBT đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng chi phí cố định để
đáp ứng các tiêu chuẩn riêng của từng thị trường nhập khẩu. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp còn phải chịu thêm các chi phí phát sinh như thử nghiệm, kiểm định, giám
định, công nhận và chứng nhận, vốn là yếu tố thiết yếu nhằm đảm bảo sản phẩm đạt
được các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn. Đối với các doanh nghiệp XKNS của Việt
Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự gia tăng chi phí cố định này gây
tác động nghiêm trọng, buộc doanh nghiệp phải điều chỉnh tăng giá xuất khẩu. Hậu
quả là, các đối tác tại thị trường EU có thể lo ngại trong việc hợp tác và tìm kiếm
nguồn cung thay thế, từ đó làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của nông sản Việt Nam so
với các sản phẩm nội địa và hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác.
Ba là, hàng hóa bị trả về gây thiệt hại lớn về kinh tế.
Theo kết quả phân tích về số lượng lô hàng nông sản Việt Nam bị trả về phần
trên có thể thấy tỷ lệ hàng bị trả lại hoặc phải xử lý lại ở mức độ khá cao. Doanh nghiệp
khía cạnh. Trước tiên, chi phí vận chuyển tăng cao do doanh nghiệp phải chịu chi phí hai
chiều khi hàng hóa bị trả về, kèm theo các chi phí xử lý như tiêu hủy hoặc tái chế sản phẩm
không đạt tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp mất đi nguồn doanh thu dự kiến, ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận và khả năng tái đầu tư. Ngoài ra, việc bị trả hàng liên tục có thể làm
giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, khiến đối tác mất niềm tin, dẫn đến
việc hủy hợp đồng hoặc giảm sản lượng đặt hàng trong tương lai. Các doanh nghiệp cũng có
thể phải đối mặt với các chi phí pháp lý và hành chính liên quan đến tranh chấp hợp đồng hoặc vi phạm quy định nhập khẩu.
147
sẽ phải chịu toàn bộ các tổn thất về kinh tế, thiệt hại cho doanh nghiệp bao gồm nhiều
Bốn là, hàng hoá trả về gây ảnh hưởng tới uy tín của thương hiệu nông sản
Việt Nam. Việc các sản phẩm nông sản xuất khẩu Việt Nam không đáp ứng được các
biện pháp SPS và TBT của các nước thành viên EU sẽ ảnh hưởng đến uy tín và thương
hiệu của nông sản Việt, khiến người tiêu dùng trong khối EU không tin tưởng vào
sản phẩm Việt Nam, làm giảm tính cạnh tranh. Hơn nữa, khi nông sản Việt Nam gặp
khó khăn tại thị trường EU, các quốc gia khác cũng có thể áp dụng các biện pháp
tương tự để giảm tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Các quy trình hải quan và
hành chính phức tạp và tốn thời gian cũng là một trở ngại làm mất ưu thế của nông
sản xuất khẩu Việt Nam so với các đối thủ khác trên thị trường.
Năm là, các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, tốn kém về mặt thời gian,
gây rủi ro lớn với hàng hóa, đặc biệt khi các lô hàng bị cảnh báo trả về do vi phạm
các BPPTQ thì gây ảnh hưởng đến các lô hàng sau sẽ phải chịu các sự kiểm soát
chặt chẽ hơn của EU.
Các biện pháp SPS và TBT làm phức tạp thêm thủ tục nhập khẩu nông sản vào
thị trường EU. Các sản phẩm nhập khẩu vào EU, tùy vào từng mặt hàng cụ thể, phải
có chứng nhận từ một cơ quan hoặc tổ chức cụ thể để xác nhận rằng chúng tuân theo
các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc an toàn cụ thể. Việc làm này đòi hỏi thêm thời gian để
làm các thủ tục chứng nhận và kiểm tra.
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy các quy định thương mại lỗi thời kết
hợp với các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch đã tạo ra một gánh nặng
cho tăng trưởng kinh tế tương đương với "mức thuế quan vô hình” lên tới 164,25%.
Giảm một ngày trong thời gian xử lý thương mại và thông quan xuất khẩu sẽ dẫn đến
mức tăng tối thiểu 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tương đương 2,13
tỷ USD. Đối với một số mặt hàng quan trọng trong nông nghiệp và các hàng hoá nhạy
cảm với thời gian, mức tăng có thể lên đến 6%. Giảm 5 ngày sẽ mang lại kim ngạch
xuất khẩu khoảng 10,65 tỷ USD.
Sáu là, có thể ảnh hưởng tới đời sống người sản xuất
Ngoài những tác động tiêu cực đến doanh nghiệp và ngành xuất khẩu, các
BPPTQ đã tác động gián tiếp đến đời sống của người lao động trong lĩnh vực sản
xuất nông sản xuất khẩu. Khi XKNS Việt Nam gặp khó khăn sang thị trường EU, các
doanh nghiệp buộc phải điều chỉnh hướng xuất khẩu sang các thị trường khác dễ tiếp
cận hơn. Tuy nhiên, việc chuyển hướng này mang theo rủi ro và phát sinh thêm chi
phí, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất trong nước và gây ra sự biến động
148
đáng kể trong hoạt động sản xuất nông sản và cuộc sống của người lao động.
Tiểu kết chương 4
Chương 4 đã tiến hành đánh giá thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU;
thực trạng mức độ áp dụng các BPPTQ của EU.Theo đó, về mức độ bao phủ và tần
suất áp dụng của EU thì có đến 98% loại mặt hàng và 98% giá trị hàng nông sản nhập
khẩu vào EU bị áp dụng BPPTQ; trong đó, gần 100% mặt hàng nông sản Việt Nam
xuất khẩu sang EU, bị áp đặt bởi các biện pháp SPS và TBT.
Chương 4 cũng đã đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của các BPPTQ
của EU đối với XKNS Việt Nam sang EU trong thời kỳ này với kết quả định lượng
cho thấy ở hầu hết các mô hình, đặc biệt là đối với ba nhóm hàng nông sản, các biện
pháp SPS có tác động tích cực nhưng mức tác động là không đáng kể đến XKNS
Việt Nam; trong khi đó, TBT mang đến những tác động hỗn hợp với XKNS, thể hiện
ở việc TBT có tác động tích cực đến XKNS nhóm 2 nhưng lại có tác động tiêu cực
đến XKNS nhóm 1 và nhóm 3. Đồng thời, với những kết quả thu được từ việc tổng
hợp, phân tích, đánh giá với hiện trạng số lượng lô hàng nông sản Việt Nam bị cảnh
báo vi phạm, trả về, các mặt tiêu cực do BPPTQ mang đến cho XKNS Việt Nam cũng
đã được làm sáng rõ. Từ đó, các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực và tiêu
cực của các BPPTQ đối với XKNS sang thị trường EU đã được đánh giá để làm căn
149
cứ để kiến nghị các giải pháp ở Chương 5.
CHƯƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Nền kinh tế thế giới đang chứng kiến rất nhiều biến động phức tạp và khó đoán
định. Những biến động kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu khiến cho các chính sách
phi thuế quan tại tất cả các quốc gia trên thế giới đang được điều chỉnh theo hướng
siết chặt và ngày các tăng cường các biện pháp bảo hộ nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia
và định hình lại trật tự thương mại quốc tế. Các sự kiện như căng thẳng địa chính trị,
đặc biệt là xung đột Nga – Ukraine, cạnh tranh giữa các nước lớn như Mỹ - Trung
Quốc, hay sự trỗi dậy của nhóm BRICS với nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào hệ thống
tài chính phương Tây,… đã thúc đẩy việc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế,
kiểm soát xuất nhập khẩu và tái cấu trúc chuỗi cung ứng nhằm giảm phụ thuộc vào
các đối thủ chiến lược. Bên cạnh chính sách thuế quan đang được các quốc gia sử
dụng như một công cụ trả đũa thương mại, đặc biệt, khi cựu tổng thống Donald Trump
tái đắc cử tổng thống Mỹ với mục tiêu đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại và nước Mỹ là trên
hết sẽ khiến Mỹ đã tăng cường chính sách bảo hộ thông qua việc áp thuế cao hơn đối
với hàng nhập khẩu, siết chặt kiểm soát đầu tư, đồng thời, các chính sách phi thuế
quan, yêu cầu về các tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại,…
nhằm bảo vệ ngành công nghiệp nội địa cũng được sử dụng một cách triệt để.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, chiến lược thương mại của EU với mục tiêu
“tự chủ chiến lược mở” hướng tới phát triển bền vững thông qua Thoả thuận xanh
châu Âu tiếp tục được triển khai, qua đó áp đặt các tiêu chuẩn nghiêm ngặt đối với
hàng hóa nhập khẩu, đồng thời đối phó với các chính sách bất định của các quốc gia
khác. Trong khi đó, tình hình Việt Nam vẫn triển khai mục tiêu tăng cường xuất khẩu
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Việt Nam cần có chiến lược thích ứng linh hoạt để
đối phó với những rào cản thương mại ngày càng gia tăng từ các nền kinh tế lớn.
5.1. Xu hướng chính sách điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan của EU đối
với hàng nông sản nhập khẩu vào EU
Xu hướng của EU trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai sẽ tiếp tục duy
trì việc sử dụng các BPPTQ như một rào cản bảo hộ thương mại cũng như một công
cụ bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng nội địa. Với nhu cầu nội địa tăng cao về an
toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như giải quyết các vấn đề về bảo vệ môi trường, EU
150
trong những năm gần đây đang sử dụng gia tăng các BPPTQ, đặc biệt là các biện
pháp SPS và TBT. Ngoài mục tiêu phi thương mại như bảo vệ người tiêu dùng, bảo
vệ sức khoẻ, tránh những rủi ro liên quan động thực vật, … BPPTQ còn được sử dụng
với mục đích bảo hộ thương mại, đặc biệt là trong nông nghiệp là ngành luôn có
truyền thống được bảo hộ đặc biệt ở tất cả các quốc gia. Xu hướng gia tăng BPPTQ
này sẽ càng được sử dụng triệt để khi mà EU đã và đang triển khai, ký kết nhiều hiệp
định thương mại tự do với nhiều đối tác trên thế giới, trong đó có Việt Nam; hàng rào
thuế quan được EU cắt giảm xuống mức rất thấp, thậm chí là xoá bỏ thì các BPPTQ
sẽ trở thành công cụ quan trọng trong bối cảnh hiện tại và tương lai.
Đối với mặt hàng nông sản, loại hình BPPTQ được dự đoán mà EU sẽ tập
trung sử dụng đó là các biện pháp SPS và TBT; và EU sẽ tập trung vào một vài các
mặt hàng cần kiểm soát về mặt chất lượng hoặc cần bảo hộ thương mại. Trong đó,
nhóm các mặt hàng nông sản sẽ được áp dụng triệt để gồm nhóm 1: các mặt hàng liên
quan động vật (với 321 dòng hàng chịu tác động bởi SPS; 314 dòng hàng chịu tác động
bới TBT); nhóm 2: các mặt hàng liên quan thực vật (334 dòng hàng chịu tác động bởi
SPS; 347 dòng hàng chịu tác động bới TBT) và nhóm 2 các sản phẩm nông sản chế
biến với 193 dòng hàng chịu tác động bởi SPS; 209 dòng hàng chịu tác động bới TBT.
Hiện nay, có một số xu hướng phát triển trong việc điều chỉnh pháp lý của EU
có tác động đến việc sử dụng BPPTQ liên quan đến bảo vệ môi trường và sức khỏe
con người trong thương mại quốc tế, đặc biệt là các chính sách xanh gắn liền nông
sản bền vững. Các thay đổi này có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất, xuất khẩu
nông sản của Việt Nam sang EU.
Thỏa thuận Xanh châu Âu •
Thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal - EGD) là một bộ chính
sách và hành động của EU nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa
carbon vào năm 2050. EGD được thông qua tháng 01/2020 đã đặt ra chiến lược để
EU đạt mức phát thải khí nhà kính bằng không và trở thành một khu vực kinh tế tiết
kiệm tài nguyên vào năm 2050 (VCCI, 2023). Đây là một bộ chính sách tổng thể gồm
nhiều chiến lược cụ thể như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Chiến lược
từ trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork), chiến lược kinh tế tuần hoàn (Circular
Economy Action Plan), và chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030. Mục tiêu của
EGD là giảm 50% việc sử dụng thuốc trừ sâu và tăng diện tích đất nông nghiệp hữu
151
cơ lên 25% vào năm 2030. Điều này sẽ dẫn đến việc cấm một số loại thuốc bảo vệ
thực vật tại EU và giảm dần mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật theo thời gian. Thỏa
thuận này chắc chắn sẽ tác động đến XKNS của Việt Nam, nhất là khi đây là nhóm
sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn vào thị trường EU, nơi có các chính sách xanh
được áp dụng mạnh mẽ.
Hiện tại, EU liên tiếp đưa ra động thái thực thi EDG. Điển hình là quy định
mới về việc thay đổi mức dư lượng tối đa (MRL) đối với một số chất có trong các
sản phẩm nông sản, thực phẩm (trong đó có nhiều sản phẩm xuất khẩu thế mạnh của
Việt Nam); Quy định về các sản phẩm không phá rừng (EUDR) yêu cầu truy xuất
nguồn gốc hàng hóa nhập khẩu vào EU không được nuôi, trồng trên đất phá rừng
hoặc làm suy thoái rừng; Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon quy định về việc trả
phí phát thải căn cứ vào mức độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại
nước xuất khẩu. Danh sách các chính sách xanh liên quan tới hàng nhập khẩu từ bên
ngoài vào EU sẽ còn tiếp tục được bổ sung cùng với tiến trình triển khai các mục tiêu
trong EGD đến năm 2050, đặc biệt là trong giai đoạn từ nay tới 2030. Cụ thể:
Thứ nhất, nổi bật trong số đó là Chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn” (Farm
to Fork - F2F) với các quy định quan trọng về (i) Quy định về sử dụng bền vững các
sản phẩm bảo vệ thực vật (giảm thiểu việc sử dụng thuốc trừ sâu và hạn chế mức dư
lượng trong các sản phẩm rau quả); (ii) Sửa đổi quy định EU về vật liệu tiếp xúc với
thực phẩm (tăng cường tiêu chuẩn môi trường cho thiết kế và vật liệu bao bì rau quả);
(iii) Quy định về sản xuất hữu cơ và ghi nhãn sản phẩm hữu cơ; (iv) Sửa đổi quy định
về thông tin thực phẩm cho người tiêu dùng (sửa đổi phương pháp ghi nhãn, vị trí và
nâng cao thông tin về các thuộc tính sản phẩm xanh để nâng cao nhận thức của người
tiêu dùng); (v) Bộ quy tắc ứng xử của EU về thực hành tiếp thị và kinh doanh thực
phẩm có trách nhiệm. Các quy định mới này trong F2F ảnh hưởng đến việc tăng
cường các quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và yêu cầu kiểm soát chặt chẽ
hơn về an toàn thực phẩm trong các biện pháp SPS; ảnh hưởng đến việc tăng cường
các quy định về bao bì và tiếp thị sản phẩm trong các biện pháp TBT.
Thứ hai, Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn (CEAP) với các quy định
quan trọng về i) Quy định về trao quyền cho người tiêu dùng trong thực hiện chuyển
đổi xanh, ii) Chiến lược hóa chất về sự bền vững sẽ yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn
mới về an toàn thực phẩm và môi trường hơn trong các biện pháp SPS; iii) Chỉ thị về
152
tuyên bố xanh; iv) Sửa đổi chỉ thị khung của EU về rác thải cũng sẽ đề xuất các yêu
cầu mới về tiêu chuẩn và ghi nhãn sản phẩm trong các biện pháp TBT.
Thứ ba, chiến lược đa dạng sinh học của EU liên quan đến việc thực hiện các
quy định nhằm chống phá rừng - EU Deforestation regulation (EUDR), cũng là một
phần quan trọng của Thỏa thuận Xanh của EU. Nghị viện châu Âu đã thông qua luật
cấm nhập khẩu hàng nông nghiệp liên quan đến quá trình suy thoái rừng, phác thảo
phạm vi của luật mới, bao gồm các sản phẩm như thịt bò, ca cao, cà phê, lọ dầu, đậu
nành, gỗ (bao gồm các dẫn xuất như da, sô cô la, đồ nội thất), giấy in, cao su và than
có nguồn gốc từ nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Các sản phẩm có nguồn gốc từ các
khu vực có rừng cạn kiệt sau ngày 31 tháng 12 năm 2020, sẽ bị cấm xuất khẩu sang
EU theo các quy định cập nhật. Mục tiêu chính của luật này là hạn chế dòng sản phẩm
liên quan đến phá rừng vào thị trường EU, đồng thời thúc đẩy thương mại các mặt
hàng bền vững và có nguồn gốc hợp pháp. Quy định về chống phá rừng này sẽ yêu
cầu sản phẩm nông sản nhập khẩu phải đảm bảo không liên quan đến phá hoại rừng,
tạo áp lực để cải thiện quy trình sản xuất. Bên cạnh đó, điều này có thể tạo ra các yêu
cầu mới về thông tin sản phẩm và quy tắc kinh doanh nông sản có trách nhiệm.
• Sáng kiến rau quả bền vững (SIFAV): Đây là một sáng kiến quan trọng ở
Châu Âu, với sự tham gia của các nhà bán lẻ, thương hiệu, và thương nhân nổi tiếng,
được giám sát bởi Sáng kiến thương mại bền vững (IDH). Mục tiêu chủ yếu của
SIFAV là đảm bảo tất cả trái cây và rau quả nhập khẩu đều đáp ứng các tiêu chuẩn
bền vững. Chương trình này đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng cho giai đoạn 2020-
2025, bao gồm giảm tác động môi trường, cải thiện thu nhập cho người lao động,
giảm lãng phí thực phẩm và thúc đẩy việc quản lý nguồn nước một cách bền vững.
Đến năm 2020, SIFAV đã hoàn thành mục tiêu đạt được sự bền vững đối với toàn bộ
trái cây và rau quả nhập khẩu từ Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. SIFAV giải quyết
các vấn đề trong chuỗi cung ứng, như thu hút nông dân quy mô nhỏ, đảm bảo các tiêu
chuẩn về an toàn và sức khỏe, đồng thời khuyến khích việc sử dụng nước một cách
hợp lý. Các mục tiêu bền vững của SIFAV, như giảm khí thải carbon và tối ưu hóa
việc sử dụng tài nguyên nước, yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn mới về an toàn thực
phẩm và thông tin sản phẩm.
• Chính sách giảm bao bì nhựa: Phong trào bền vững đặt ra yêu cầu giảm thiểu
việc sử dụng nhựa trong chuỗi cung ứng, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cả nhà
153
bán lẻ và các nhà hoạch định chính sách. Vào năm 2018, EU đã thông qua Chiến lược
Nhựa, cam kết đến năm 2030 sẽ tái chế hoàn toàn bao bì nhựa. Sự ra đời của Hiệp
ước Nhựa Châu Âu vào tháng 3 năm 2020 đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc
thiết lập đối tác công-tư với các mục tiêu cụ thể cho năm 2025, nhằm giám sát và loại
bỏ dần các sản phẩm nhựa dùng một lần. Quá trình giảm thiểu nhựa này sẽ tiếp tục
tác động đến bao bì của các sản phẩm trái cây và rau quả tươi, ví dụ như việc thay
thế vỏ clamshell cho nho và trái cây mềm bằng các thùng chứa kín hoặc các giải pháp
thay thế sáng tạo khác, như bìa cứng. Điều này đồng nghĩa với việc quy trình đóng
gói và ghi nhãn sản phẩm nông sản sẽ cần phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu mới.
Như vậy, những xu hướng trên cho thấy sự tăng cường quan tâm và cam kết
của trong việc đảm bảo thương mại quốc tế đồng hành với bảo vệ môi trường và sức
khỏe con người của EU. Từ đó, có thể thấy, tác động ngắn và dài hạn đến việc ban
hành các BPPTQ gắn liền với nhiều chính sách xanh có ảnh hưởng đến xuất khẩu
nông sản của Việt Nam sang thị trường EU; đặc biệt, các biện pháp SPS và TBT.
Thông qua việc rà soát các văn bản pháp lý, các chính sách và kế hoạch mà
EU đang triển khai thì có thể thấy hệ thống chính sách, kế hoạch mới của EU có thể
ảnh hưởng mạnh mẽ tới XKNS của Việt Nam, thông qua các cách thức chủ yếu:
- Một là, các chính sách, kế hoạch mới này sẽ làm gia tăng các tiêu chuẩn
“xanh, bền vững” đối với nông nhập khẩu vào EU vì EU sẽ EU sẽ ban hành mới, bổ
sung các quy định mới liên quan đến các BPPTQ (SPS, TBT) gắn với mục tiêu xanh
và bền vững như các quy định về thiết kế sinh thái, cách thức ghi/dán nhãn hàng hoá
hữu cơ, hộ chiếu sản phẩm,… Ngoài ra, EU sẽ sửa đổi , điều chỉnh các quy định phi
thuế quan đang có hiệu lực theo hướng tăng cường mức độ, yêu cầu “xanh, bền vững”
như các điều chỉnh liên quan đến tới các định mức tối đa/tối thiểu với một số loại
hoá chất, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hay mở rộng danh mục các loại thuốc bảo
vệ thực vật bị cấm/ hạn chế sử dụng,…
Cụ thể, để triển khai Chiến lược “từ nông trại đến bàn ăn”, EU đã ban hành dự
thảo Quy định về sử dụng bền vững các sản phẩm bảo vệ thực vật. Quy định này bao
gồm các nội dung nhằm hiện thực hoá mục tiêu giảm ít nhất 50% việc sử dụng hoá
chất trừ sâu tại EU vào năm 2030. Mặc dù quy định này chỉ trực tiếp điều chỉnh việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại EU nhưng nó có thể dẫn đến việc EU sẽ ban hành
các quy định để siết chặt mức dư lượng tối đa (MRL) đối với các chất nguy hại trong
nông sản được áp dụng đối với cả nông sản nhập khẩu trong đó có nhiều sản phẩm
154
xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam.
Từ Quy định về sử dụng bền vững các sản phẩm bảo vệ thực vật, trong năm
2023, các nhà làm luật của EU đã tiến hành sửa đổi các Quy định hiện hành để thay
đổi mức dư lượng tối đa (MRL) của các chất có nhiều trong các loại nông sản thực
phẩm thuộc nhóm xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam gồm:
- Quy định EC số 2023/147 (Commission Regulation (EU) 2023/147) ngày
20/01/2023 về việc sửa đổi phụ lục II, III và V của Quy định số 396/2005
về mức MRL đối với Cyromazine, topramezone và triflumizone trong một
số sản phẩm như cà phê, trà, rau quả, các sản phẩm động vật,…
- Quy định EC số 2023/334 ngày 02/02/2023 về việc sửa đổi phụ lục II và
V của Quy định số 396/2005 về mức MRL đối với Cloththianidin và
Thiamethoxam có trong nông sản và các sản phẩm có nguồn gốc từ động
vật. Quy định có hiệu lực từ 07/03/2023;
- Quy định EC số 2023/465 ngày 03/03/2023 về việc sửa đổi Quy định số
1881/2006 về mức MRL của asen trong một số loại thực phẩm như gạo,
nước hoa quả, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em,… . Quy định có hiệu lực
từ 26/03/2023
- Quy định EC số 2023/466 ngày 03/03/2023 về việc sửa đổi phụ lục II, III,
và V của Quy định số 396/2005 về mức MRL đối với các chất isoxaben,
novaluron và tetraconazole có trong một số sản phẩm nông sản, thực phẩm
như cà phê, hạt điều, rau quả, chè, gia vị, ngũ cốc, các sản phẩm từ động
vật , trứng, sữa, mật ong,… Quy định có hiệu lực áp dụng từ 26/09/2023
- Năm 2024, Quy định mới số (EU) 2024/331 sửa đổi Phụ lục II và V Quy
định (EC) số 396/2005 đối với hoạt chất Oxamyl áp dụng đối với một số
nông sản. Theo quy định trước đây EU cho phép ngưỡng MRL Oaxmyl
trên các loại nông sản là 0,01 đến 0,05 mg/kg đối với hầu hết các loại nông
sản có nguồn gốc động và thực vật. Tại quy định mới (EU) 2024/331, EU
sẽ áp dụng mức MRL cho phép mức dư lượng Oxamyl trên các loại nông
sản ở mức rất thấp là 0,001 mg/kg.
Hai là, các chính sách mới sẽ làm gia tăng thủ tục khai báo, thông tin hồ sơ
nhằm chứng minh trách nhiệm xanh, đảm bảo yếu tố “xanh,bền vững” của sản phẩm
nông nghiệp. Cụ thể là yêu cầu cung cấp các giấy tờ, bằng chứng chứng minh các
mặt hàng nông sản không được sản xuất trên đất có được do phá rừng hoặc từ việc
155
làm suy thoái rừng theo quy định về chống phá rừng (EUDR).
5.2. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Liên minh châu Âu
Việt Nam đã đưa ra những chính sách, định hướng cụ thể cho phát triển xuất
nhập khẩu nói chung và XKNS sang các thị trường trong đó có thị trường EU nói
riêng. Các định hướng, chính sách đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp lý của
Nhà nước.
Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/02/2019, Chính phủ đã đặt mục tiêu “nông
nghiệp Việt Nam đứng trong số 15 nước phát triển nhất thế giới, trong đó ngành chế
biến nông sản đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới. Việt Nam trở thành một trung
tâm chế biến sâu của nông nghiệp thế giới, trung tâm logistics nông sản toàn cầu”.
Nghị quyết số 19-NQ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp, nông dân, và nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn
2045 đã nhấn mạnh nhấn mạnh các giải pháp để đẩy mạnh XKNS, đặc biệt sang các
thị trường lớn và tiềm năng như EU, thông qua việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản
bền vững; Khuyến khích sản xuất nông sản sạch, hữu cơ và đáp ứng các yêu cầu phát
triển bền vững của các thị trường nhập khẩu như EU.
Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 Ban hành theo Quyết định
số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022. Chiến lược này là định hướng tổng thể về xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong thập kỷ tới. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam cần
tận dụng các cơ hội từ các FTA trong đó có EVFTA, để đẩy mạnh XKNS; nâng cao
chất lượng và giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản xuất khẩu, nhằm đáp ứng
tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm và môi trường của EU. Đa dạng hóa các
sản phẩm nông sản và phát triển thị trường mới trong nội khối EU.
Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định EVFTA Ban hành theo Quyết định
số 1201/QĐ-TTg ngày 6/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ nhằm cụ thể hóa việc thực
hiện EVFTA với các định hướng tận dụng các ưu đãi thuế quan từ EVFTA để thúc
đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông sản của Việt Nam sang EU; Nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực nông sản, thông
qua việc đầu tư vào công nghệ chế biến và phát triển thương hiệu; Phát triển bền
vững, đảm bảo sản phẩm xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn cao của EU về an toàn
thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững.
Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030,
156
tầm nhìn đến năm 2050 Ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022,
chiến lược này tập trung vào việc phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền
vững, trong đó có các định hướng: Phát triển chuỗi giá trị nông sản bền vững nhằm
đáp ứng nhu cầu và tiêu chuẩn của các thị trường quốc tế khó tính như EU; Tăng
cường giá trị gia tăng thông qua chế biến sâu, cải tiến công nghệ và quản lý chất
lượng để nông sản Việt Nam cạnh tranh tốt hơn trên thị trường EU.
Như vậy, thị trường EU luôn được Việt Nam xác định là thị trường trọng điểm,
đối tác quan trọng của Việt Nam, thị trường tiềm năng với nhiều cơ hội cần được khai
thác để XKNS. Trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đến năm
2030, Nhà nước đã đưa ra nhiều định hướng cụ thể nhằm thúc đẩy XKNS, đặc biệt là
sang các thị trường tiềm năng như EU. EU được coi là một trong những thị trường
quan trọng, đầy tiềm năng cho XKNS của Việt Nam, và chiến lược của chính phủ tập
trung vào việc nâng cao giá trị, chất lượng và tính cạnh tranh của các sản phẩm nông
sản. Các định hướng chính bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường chất lượng và giá trị gia tăng cho nông sản xuất khẩu:
Chính phủ định hướng các doanh nghiệp nông sản tập trung vào việc nâng cao chất
lượng sản phẩm, đặc biệt là đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực
phẩm và tiêu chuẩn môi trường của EU. Việc áp dụng các quy trình sản xuất nông
nghiệp sạch, hữu cơ và bền vững sẽ được đẩy mạnh. Khuyến khích chế biến sâu để
tăng giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản, giảm thiểu xuất khẩu thô. Các mặt
hàng như cà phê, hạt điều, gạo, và các sản phẩm thủy sản cần được đầu tư vào khâu
chế biến để tăng khả năng cạnh tranh và giá trị xuất khẩu.
Thứ hai, phát huy lợi thế từ Hiệp định EVFTA: Chính phủ nhấn mạnh việc tận
dụng tối đa cơ hội từ EVFTA để tăng cường XKNS sang EU. Hiệp định EVFTA đã
giúp giảm đáng kể thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam vào
EU, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hỗ trợ các doanh nghiệp tìm
hiểu về quy định kỹ thuật, quy tắc xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA để đảm bảo rằng
các sản phẩm nông sản xuất khẩu đáp ứng đầy đủ yêu cầu của EU.
Thứ ba, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường trong EU: Chính phủ định hướng
đa dạng hóa các mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU, không chỉ tập trung vào các
sản phẩm truyền thống như cà phê, hạt điều, và gạo, mà còn thúc đẩy xuất khẩu các
sản phẩm trái cây tươi, rau củ quả, các sản phẩm nông sản có giá trị cao và xu hướng
tiêu dùng tăng trưởng tại EU. Bên cạnh đó, việc mở rộng thị trường trong nội khối
157
EU cũng được chú trọng, không chỉ tập trung vào các thị trường lớn như Đức, Pháp,
Ý, Hà Lan,… mà còn phát triển, mở rộng thương mại với các các quốc gia khác trong
khu vực EU.
Thứ tư, xây dựng thương hiệu và quảng bá nông sản Việt Nam: Định hướng
tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia cho các mặt hàng nông sản Việt Nam.
Chính phủ sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thương hiệu, thực hiện
các chiến dịch quảng bá sản phẩm nông sản tại các hội chợ, sự kiện xúc tiến thương
mại tại EU. Trong đó, chỉ dẫn địa lý và chứng nhận chất lượng là yếu tố then chốt
giúp nông sản Việt Nam tạo dựng uy tín tại thị trường EU. Chính phủ sẽ hỗ trợ việc
đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông sản đặc trưng của Việt Nam
như vải thiều Lục Ngạn, cà phê Buôn Ma Thuột.
Thứ năm, định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, áp dụng các quy trình
sản xuất thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị
trường EU về phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội. Khuyến khích chuyển đổi
xanh trong ngành nông nghiệp, từ canh tác, sản xuất đến đóng gói, để các sản phẩm
nông sản xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường và yêu cầu
phát triển bền vững của EU.
Như vậy, chiến lược của Việt Nam hướng tới việc đẩy mạnh XKNS có chất
lượng cao và giá trị gia tăng, đồng thời tận dụng lợi thế từ hiệp định EVFTA để mở
rộng thị phần và tăng tính cạnh tranh trên thị trường EU. Các định hướng được cụ thể
hoá trong các văn bản pháp lý đã thể hiện rõ sự cam kết của Việt Nam trong việc thúc
đẩy XKNS sang EU, thông qua các chiến lược cụ thể như phát triển bền vững, nâng
cao chất lượng sản phẩm, và tận dụng các cơ hội từ EVFTA. Những chính sách này
đặt mục tiêu giúp Việt Nam xây dựng được thương hiệu nông sản uy tín và bền vững
trên thị trường quốc tế.
5.3. Kiến nghị các giải pháp
Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu về tác động tích cực và tiêu cực cũng như
những nguyên nhân dẫn đến các tác động đã phân tích, đánh giá ở các chương 4; đồng
thời, căn cứ vào xu hướng chính sách của EU về các quy định BPPTQ và định hướng
phát triển XKNS của Việt Nam sang EU, nghiên cứu đưa ra các kiến nghị giải pháp
đến Nhà nước, Hiệp hội nông sản Việt Nam và các doanh nghiệp XKNS.
5.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước
Thứ nhất, tại mục 4.5 đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực
158
của các BPPTQ đến XKNS sang EU trong đó là sự đóng góp quan trọng từ phía Nhà
nước trong việc chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật và các hoạt động hỗ trợ chính
sách từ các cơ quan, ban ngành liên quan. Trong thời gian tới, để giúp nông sản đáp
ứng được các quy định BPPTQ và thúc đẩy XKNS sang EU, cần tiếp tục phát huy
các hoạt động động này. Cụ thể:
Trong bối cảnh EU liên tục ban hành các chính sách mới liên quan đến các
BPPTQ áp dụng đối với nông sản, Chính phủ cần tiếp tục thường xuyên theo dõi sát
sao các chính sách phi thuế quan thay đổi, cho ý kiến đối với các dự thảo thay đổi của
EU gửi đến các văn phòng SPS và TBT để đảm bảo các thay đổi chính sách của EU
là đúng quy định, phù hợp, mang tính khoa học,…
Trên cơ sở đó, các cơ quan Nhà nước rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định
về các BPPTQ, đặc biệt là các biện pháp SPS và TBT đối với hàng nông sản xuất
khẩu sao cho phù hợp với các quy định chung của quốc tế, và của EU đã ban hành;
giúp cho hệ thống quy định của Việt Nam ngày càng được hài hòa hoá với các quy
định quốc tế và quy định của các thị trường nhập khẩu.
Thứ hai, Nhà nước cần phải thực hiện việc hài hoá hoá các quy định trong
nước với các quy định quốc tế và EU. Nhà nước ban hành các chính sách triển khai
áp dụng các hệ thống quản lý môi trường của quốc tế như ISO 14.000, HACCP, thực
hiện sản xuất tốt (GMP), thực tiễn nuôi trồng tốt (GAP). Nhà nước nên tập trung hoàn
thiện, đầu tư cho hệ thống phòng thí nghiệm, đánh giá, kiểm định có chất lượng tốt,
đạt được mức tin cậy cao, từ đó tiến hành đàm phán với EU sớm để có các thỏa thuận
về sự công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn và ủy quyền cho nhau trong việc kiểm tra
chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm... giảm thiểu chi phí, thời gian cho
các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu sang EU.
Thứ ba, để giải quyết tác động tiêu cực từ các doanh nghiệp vi phạm các
BPPTQ, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và uy tín của nông sản Việt Nam trên
thị trường quốc tế, cần phải điều chỉnh và bổ sung các văn bản pháp lý liên quan đến
BPPTQ. Nhà nước cần xem xét việc sửa đổi các quy định về trách nhiệm xử phạt đối
với các doanh nghiệp vi phạm, bao gồm trách nhiệm dân sự và hình sự tùy vào mức
độ nghiêm trọng của vi phạm. Các quy định này cần làm rõ và nhấn mạnh trách nhiệm
của các doanh nghiệp trong việc tuân thủ các nguyên tắc về sản xuất, quản lý và xuất
khẩu nông sản, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về BPPTQ. Điều này sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp nâng cao ý thức, tuân thủ các tiêu chuẩn và giảm thiểu vi phạm.
Thứ tư, dựa trên xu hướng biến động chính sách các BPPTQ của EU dẫn đến
159
sự đáp ứng không kịp thời của doanh nghiệp thì Nhà nước cần triển khai tổ chức kênh
thông tin chính xác và kịp thời để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt các
quy định chính sách phi thuế quan của EU đối với nông sản nhập khẩu, nhất là trong
bối cảnh EU đang theo xu hướng thắt chặt các quy định liên quan các BPPTQ.
Từ các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại các nước EU đến các Bộ,
ngành trong nước liên quan trong nước cần thu thập và cung cấp thông tin chính
sách thương mại, tình hình thị trường, hệ thống các BPPTQ và những thay đổi cho
các doanh nghiệp xuất nông sản. Thiết lập kênh và duy trì thông tin giữa doanh
nghiệp, hiệp hội và các cơ quan hữu quan hiệu quả, thông suốt, thường xuyên tổ chức
gặp gỡ để nắm bắt tình hình thị trường EU.
Đặc biệt là các cơ quan như văn phòng SPS và TBT Việt Nam là nơi tiếp
nhận thông tin thay đổi quy định từ các quốc gia thành viên WTO trong đó có EU.
Các văn phòng này cần đầu tư vào nguồn nhân lực, kinh phí để nâng cao năng lực
thu thập, xử lý thông tin, thường xuyên đưa ra những khuyến cáo kịp thời đến với
Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp XKNS.
Ngay khi dự đoán được xu hướng hoặc các dự thảo mới của EU được ban hành
thì Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Phòng Công nghiệp và Thương
mại (VCCI) tổ chức tốt kênh thông tin như thông qua tổ chức các hội nghị, hội thảo,…
để phổ biến, hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của các doanh nghiệp về các quy định mới.
Thứ năm, để giải quyết vấn đề hỗ trợ nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp XKNS của Việt Nam, đáp ứng được các yêu cầu của thị trường EU, Nhà
nước cần triển khai chính sách hỗ trợ đầu tư vào khoa học công nghệ và đổi mới quy
trình sản xuất. Cụ thể, cần thu hút chuyển giao công nghệ nước ngoài, đặc biệt trong
lĩnh vực thiết bị chế biến và bảo quản nông sản xuất khẩu, đồng thời hỗ trợ tài chính
và nhân lực cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương
mại, đăng ký thương hiệu nông sản Việt Nam tại các thị trường quốc tế, tập trung vào
nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ khách
hàng, nhằm giảm thiểu rủi ro do BPPTQ và tăng sức cạnh tranh của nông sản Việt
Nam trên thị trường EU và các thị trường khác trên thế giới.
5.3.2. Giải pháp về phía Hiệp hội nông sản Việt Nam
Thứ nhất, để khắc phục tình trạng kim ngạch hàng nông sản bị sụt giảm do vi
phạm các BPPTQ, các hiệp hội ngành nông sản cần đóng vai trò chủ động trong việc
160
cập nhật và phổ biến kịp thời các quy định mới về SPS và TBT từ EU thông qua việc
tổ chức hội thảo định kỳ, xây dựng cổng thông tin điện tử để cung cấp hướng dẫn chi
tiết về các quy định kiểm dịch, mức dư lượng tối đa (MRL) đối với từng loại sản
phẩm. Ngoài ra, đề xuất Hiệp hội phối hợp cùng các chuyên gia giỏi trong và ngoài
nước của ngành hàng nghiên cứu, biên soạn và phát hành các ấn phẩm, cẩm nang thị
trường chi tiết, cụ thể, dễ hiểu, có tính định hướng cho các doanh nghiệp dựa trên
thực tiễn các chính sách phi thuế quan được EU ban hành.
Bên cạnh đó, việc hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị
trường thay thế là một trong những giải pháp quan trọng. Theo báo cáo của Vinafruit
(2023), sau khi tham gia hội chợ Fruit Logistica tại Đức, kim ngạch xuất khẩu vải
thiều sang châu Âu đã tăng 30% do doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận trực tiếp với đối
tác nhập khẩu. Điều này cho thấy hiệp hội cần tích cực hợp tác với Bộ Công Thương
để mở rộng mạng lưới thị trường, giúp doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu, tránh phụ thuộc vào một khu vực nhất định.
Thứ hai, để giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh trên trên thị trường,
hiệp hội ngành nông sản có thể hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân trong quá trình
chuyển đổi mô hình sản xuất bằng cách tổ chức các khóa tập huấn kỹ thuật, hợp tác
với các tổ chức quốc tế như FAO, GIZ để xây dựng mô hình canh tác bền vững. Ngoài
ra, để nâng cao giá trị thương hiệu, các hiệp hội có thể thúc đẩy việc đăng ký bảo hộ
chỉ dẫn địa lý (GI) cho các mặt hàng nông sản đặc sản.
Thứ ba, để giảm thiểu rủi ro hàng hóa bị trả về gây thiệt hại kinh tế lớn, các
hiệp hội ngành nông sản cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm về vi phạm SPS,
TBT, theo dõi danh sách các sản phẩm bị cảnh báo trên hệ thống RASFF và thông
báo nhanh cho doanh nghiệp. Việc thiết lập cơ sở dữ liệu về các vi phạm trước đây
cũng giúp doanh nghiệp chủ động phòng tránh sai sót. Ngoài ra, hiệp hội có thể liên
kết với các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế để cung cấp dịch vụ kiểm nghiệm
nhanh với chi phí thấp hơn, giúp doanh nghiệp đảm bảo chất lượng sản phẩm trước
khi xuất khẩu.
Thứ tư, một trong những hậu quả nghiêm trọng của việc hàng hóa bị trả về là
ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường
EU. Theo báo cáo của EuroCham Vietnam (2023), người tiêu dùng châu Âu ngày
càng quan tâm đến tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc của sản phẩm nhập khẩu.
161
Do đó, các hiệp hội cần phối hợp với doanh nghiệp để triển khai hệ thống truy xuất
nguồn gốc, sử dụng mã QR trên bao bì sản phẩm, giúp người tiêu dùng kiểm tra thông
tin về nguồn gốc và quy trình sản xuất.
Thứ năm, một trong những rào cản lớn đối với XKNS sang EU là quy trình
kiểm dịch và chứng nhận an toàn thực phẩm phức tạp. Các hiệp hội ngành nông sản
có thể hỗ trợ doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu bằng cách xây dựng cổng thông tin
điện tử cung cấp hướng dẫn chi tiết, hỗ trợ tư vấn miễn phí hoặc giảm phí đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình xin giấy chứng nhận kiểm dịch. Đồng thời,
hiệp hội cần đề xuất với Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, số hóa
quy trình cấp phép để giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp.
Thứ sáu, để hỗ trợ nông dân, các hiệp hội có thể thúc đẩy liên kết giữa nông
dân và doanh nghiệp xuất khẩu thông qua mô hình hợp tác bền vững. Việc ký kết hợp
đồng bao tiêu sản phẩm với mức giá ổn định sẽ giúp nông dân tránh được rủi ro về
giá cả. Ngoài ra, các hiệp hội có thể tổ chức các chương trình đào tạo kỹ thuật sản
xuất hữu cơ, giúp nông dân giảm chi phí đầu vào và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu
sang EU.
Ngoài ra, Hiệp hội cần tiếp tục nâng cao vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp
và Nhà nước thông qua việc cần thường xuyên trao đổi với các doanh nghiệp để nắm
bắt các thông tin thực tiễn về tình hình XKNS, đồng thời xử lý kịp thời các phức tạp
phát sinh. Hiệp hội cần tạo dựng và duy trì tốt các mối quan hệ với các cơ quan ban
ngành liên quan SPS và TBT để nắm bắt kịp thời các thông tin khuyến cáo, cảnh cáo
từ EU để từ đó kịp thời xây dựng và ban hành các kế hoạch, cách xử lý tới các doanh
nghiệp hội viên.
Hiệp hội XKNS Việt Nam cần chủ động phối hợp tốt hơn với Hiệp hội các
nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp đặt các BPPTQ của các nước nhập
khẩu, tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu các mặt hàng
nông sản. Chỉ có như vậy mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng
nông sản Việt Nam trên thị trường EU và các thị trường khác.
Bên cạnh đó, nhân danh Hiệp hội để bảo vệ các doanh nghiệp thành viên khi
xảy ra kiện tụng, cần nắm bắt nhanh chóng và kịp thời các thông tin về từng thị
trường, dự báo, phản ứng nhanh với những diễn biến, đóng vai trò đại diện cho doanh
162
nghiệp tham gia và theo đuổi vụ kiện cùng với các cơ quan Nhà nước có liên quan.
5.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp
Nhà nước, các bộ ban ngành hay các hiệp hội với vai trò định hướng, ban hành
chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp, còn doanh nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp
thi hành và tham gia vào hoạt động XKNS sang EU, do đó, đề xuất các giải pháp đối
với nhóm chủ thể này là đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, để đáp ứng được các quy định về các BPPTQ, đặc biệt trong bối
cảnh EU liên tục thay đổi các chính sách thì các doanh nghiệp cần chủ động trong
việc tìm hiểu kỹ, cập nhật về các BPPTQ mà EU áp dụng, sửa đổi, bổ sung để thay
80
70,87
70
62,99
57,48
60
50,39
50,39
50
45,67
41,73
38,58
40
31,5
30
20,47
20
8,66
7,87
10
5,51
3,94
3,94
0
Thỏa thuận Xanh EU
Thuế carbon tại biên giới
Quy định về Chống phá rừng
Chiến lược “Từ Nông trại tới Bàn ăn
Chiến lược “Dệt may bền vững và tuần hoàn
Chưa từng nghe
Đã từng nghe, chưa tìm hiểu kĩ
Đã tìm hiểu, biết rõ
đổi, đáp ứng theo các quy định mới.
Hình 5.1. Hiểu biết của doanh nghiệp Việt Nam về chính sách mới của EU (%)
Nguồn: Số liệu khảo sát của VCCI (2023)
Hình 5.1 cho thấy thực trạng hiểu biết về các chính sách mới mà có thể tác
động đến việc thay đổi các quy định liên quan các BPPTQ của doanh nghiệp Việt
Nam do VCCI thực hiện khảo sát. Phần lớn doanh nghiệp chỉ dừng lại ở mức "đã
từng nghe nhưng chưa tìm hiểu kỹ", từ 50% đến trên 70%, trong khi tỷ lệ doanh
nghiệp "đã tìm hiểu, biết rõ" về các chính sách này chiếm tỷ lệ rất thấp, số lượng
doanh nghiệp chưa từng nghe cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, đáng báo động.
Trong khi đó, các chính sách này có thể tác động mạnh đến hoạt động XKNS sang
EU. Điều này phản ánh thực trạng doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đầy
đủ để thích ứng với các yêu cầu mới từ EU, không kịp thời nắm bắt và thích ứng, có
thể đối mặt với rủi ro về chi phí gia tăng, rào cản kỹ thuật, tiềm ẩn nguy cơ bị hạn
163
chế tiếp cận thị trường do thiếu thông tin và chiến lược ứng phó phù hợp.
Do đó, việc chủ động tìm hiểu về các quy định của thị trường EU là một trong
những yếu tố quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp trong việc tiếp cận và
thâm nhập được vào thị trường EU. Việc tìm hiểu có thể thông qua các kênh của các
hiệp hội và cơ quan Nhà nước; bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể thuê các tổ chức
hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực luật chuyên nghiệp để được hướng dẫn về
hoạt động kinh doanh tại EU, hoặc lập một phòng ban riêng về việc tư vấn pháp luật,
hỗ trợ cho những vướng mắc của mình khi XKNS sang EU để đảm bảo không bị bỏ
lỡ các thông tin về thay đổi chính sách của EU.
Thứ hai, để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa
vào quá trình sản xuất, đầu tư, cải tiến công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.
EU là thị trường tiềm năng nhưng cũng rất khó tính, yêu cầu khắt khe về chất
lượng, an toàn vệ sinh, các tiêu chuẩn kỹ thuật nên để đáp ứng các BPPTQ của EU,
đặc biệt là hai biện pháp SPS và TBT, các doanh nghiệp cần chủ động lên kế hoạch
và triển khai các biện pháp nhằm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng nông sản
theo tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP, ISO, GMP, HACCP,... đây là những chứng nhận
như các giấy thông hành cho các doanh nghiệp XKNS vào thị trường EU. Điều này
đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư cả về chiều sâu và chiều rộng, đảm bảo kiểm soát
chặt chẽ chất lượng sản phẩm và toàn bộ quy trình sản xuất, chứ không chỉ ở chặng
cuối mới có thể vượt qua thách thức về các biện pháp SPS, TBT. Do các tiêu chuẩn
này cao hơn Việt Nam và ở các thị trường khác, doanh nghiệp đầu tư từ đầu sẽ gặp khó
khan trong tài chính nhưng về chiến lược dài hạn thì sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu
sang EU bền vững; đồng thời, khi đã tiếp cận được thị trường EU thì việc đa dạng hóa
sang các thị trường khác sẽ thuận lợi hơn.
Thứ ba, vấn đề về dư lượng các chất trong nông sản cũng cần được quan tâm
vì số lô hàng bị cảnh báo và trả về của Việt Nam do EU thông báo và trả về còn cao.
Do đó, các doanh nghiệp cần đặt ra những tiêu chuẩn dư lượng hóa chất tối đa được
phép sử dụng ngày từ khi bắt đầu nuôi trồng. Sau mỗi giai đoạn chế biến cũng cần
xem xét, kiểm tra về chất lượng vệ sinh để có thể khắc phục các sai sót ngay từ đầu.
Đối với hàng nông sản, cần đảm bảo vệ sinh môi trường chế biến, do vậy, doanh
nghiệp cũng nên thiết lập các tổ kiểm tra công tác vệ sinh trong xưởng sản xuất để
đảm bảo an toàn vệ sinh.
Hiện nay, nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật vẫn được sử dụng phổ biến tại Việt
Nam dù chưa được EU phê duyệt hoặc đã bị loại khỏi danh mục cho phép, như
Hexaconazole, Mancozeb, Propineb, Zineb, Chlorfenapyr... Để đáp ứng các tiêu
164
chuẩn của EU, doanh nghiệp cần giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và
đặc biệt tránh các hoạt chất không nằm trong danh mục được EU chấp thuận. Nếu bắt
buộc phải sử dụng, cần lựa chọn các loại thuốc đã được EU cấp phép và tuân thủ đầy
đủ quy định trong nước. Ngoài ra, EU cũng đang thúc đẩy việc sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật sinh học thông qua chính sách miễn yêu cầu về MRL đối với thuốc vi sinh.
Do đó, việc ưu tiên các chế phẩm vi sinh trong quản lý dịch hại sẽ giúp doanh nghiệp
đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm khi xuất khẩu sang thị trường EU.
Thứ tư, để sản phẩm đạt tiêu chuẩn, chất lượng, các doanh ng nghiệp cần chú
trọng tìm kiếm và lựa chọn các nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và đạt tiêu chuẩn.
Đây là một trong các giải pháp giải quyết vấn đề ổn định chất lượng dài hạn
nhằm đáp ứng các BPPTQ của EU. Các doanh nghiệp có thể chủ động phát triển vùng
nguyên liệu. Trong đó, vấn đề để xây dựng vùng nguyên liệu sạch, an toàn, doanh
nghiệp cần tích cực phối hợp với người nông dân, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá
hợp lý, yêu cầu người nông dân sản xuất sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường
theo các quy định. Doanh nghiệp nên hỗ trợ người dân về hạt giống và kỹ thuật trồng
trọt, khuyến khích sử dụng các phương pháp mới và công nghệ mới nhất, thường
xuyên theo dõi, hướng dẫn nông dân. Đối với các nhà cung cấp nguyên liệu cần tạo
nguồn nguyên liệu tốt, ổn định, chất lượng cao... bởi thiếu nguyên liệu tốt đồng nghĩa
với thiếu sản phẩm tốt, khiến sản phẩm của doanh nghiệp bị từ chối.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên tìm hiểu các giống mới có năng
suất, hiệu quả cao, đặc biệt là giống kháng bệnh tốt. Duy trì điều kiện nhà xưởng,
trang thiết bị, nhân sự, vật tư, nguyên liệu đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ngăn
ngừa các mối nguy về an toàn vệ sinh trong nhà máy cũng như từ các nhà cung cấp
nguyên liệu.
Thứ năm, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần
đông ở Việt Nam hiện nay cần mở rộng và tăng cường liên kết với các doanh nghiệp
lớn có năng lực, kinh nghiệm xuất khẩu tốt, có khả năng sử dụng, ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ giúp các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sớm thâm nhập được vào thị trường EU. Việc này giúp tăng năng
165
lực cạnh tranh của hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường EU.
Tiểu kết chương 5
Chương 5 của luận án đã đánh giá xu hướng áp dụng BPPTQ của EU trong giai
đoạn tới sẽ là tiếp tục tăng cường ban hành các quy định về các BPPTQ đối với hàng
nông sản nhập khẩu, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, EU đang tích cực triển khai
các hành động nhằm đạt được các mục tiêu trong Thoả thuận xanh châu Âu. Do đó,
các quy định cụ thể hoá các chiến lược như Cơ chế điều chỉnh biên giới
carbon (CBAM); Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn; Kế hoạch Hành động kinh tế
tuần hoàn hay Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030 có tác động mạnh mẽ đến
việc định hình các chính sách phi thuế quan mới của EU. Đồng thời, dựa trên các kết
quả nghiên cứu của chương 4, xu hướng chính sách của EU và định hướng phát triển
XKNS sang EU của Việt Nam, các kiến nghị giải pháp đã được đưa ra nhằm phát
huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của các BPPTQ đối với
XKNS Việt Nam sang EU. Các đề xuất giải pháp được đưa ra với các chủ thể như
166
Nhà nước, các Hiệp hội và doanh nghiệp XKNS sang EU.
KẾT LUẬN
Chính sách phi thuế quan của EU áp dụng đối với nông sản xuất khẩu của Việt
Nam đã và đang có nhiều biến đổi và tạo ra những tác động nhất định đến XKNS
Việt Nam sang thị trường EU. Trong giai đoạn từ 2012 – 2023, với những nỗ lực đáp
ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu, sự hỗ trợ từ Nhà nước và các Hiệp hội, XKNS
Việt Nam sang EU đã đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là sau khi EVFTA
có hiệu lực. Kim ngạch XKNS sang EU đã tăng đến 35%, từ khoảng 1,9 tỷ USD năm
2012 lên hơn 2,6 tỷ USD năm 2023. Nghiên cứu đã cho thấy tác động đảo chiều từ
tiêu cực sang tích cực của các BPPTQ đối với XKNS là có thể xảy ra, mặc dù mức
độ tác động còn chưa đáng kể nhưng điều đó cho thấy rằng trong dài hạn, khi các
doanh nghiệp qua một quá trình dài, triển khai, thích ứng và đáp ứng các BPPTQ
(SPS và TBT) của EU, thì có giúp thúc đẩy XKNS bền vững Việt Nam sang EU. Cơ
chế tác động tích cực sẽ được chứng minh trong dài hạn, nhờ việc nâng cao chất
lượng, đáp ứng tiêu chuẩn, giúp tạo dựng lòng tin cho người tiêu dùng và uy tín của
sản phẩm nông sản Việt Nam trong thị trường EU. Tuy nhiên, cũng không thể phủ
nhận rằng, các BPPTQ vẫn gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp XKNS thông
qua các con số thực tiễn liên quan các lô hàng nông sản Việt Nam bị EU cảnh báo và
trả về, mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nông sản xuất khẩu nhưng đã gây tổn
thất về kinh tế, uy tín thương hiệu, giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt
Nam. Do đó, Nhà nước, Hiệp hội cùng các doanh nghiệp cần tiếp tục triển khai các
biện pháp đồng bộ, để các doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia vào thương mại
nông sản với thị trường EU, đáp ứng được ngày càng tốt các yêu cầu kĩ thuật và chất
lượng của thị trường đối tác; từ đó, tạo đà thúc đẩy xuất khẩu bền vững sang thị
trường EU nói riêng và các thị trường đối tác trên thế giới nói chung.
Trong khuôn khổ giới hạn, bài nghiên cứu đã giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ
chính của luận án đã đề ra. Tuy nhiên, luận án không thể tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Đối với phần đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ của EU mới chỉ tính
toán đánh giá dựa trên số liệu 01 năm, đánh giá tác động thông qua mô hình lực hấp
dẫn với các biến là số đếm; có thể xem xét nghiên cứu, đánh giá thông qua các biến
BPPTQ là các chỉ số áp dụng được tính toán cho từng năm quan sát; ngoài ra, các
nghiên cứu về đánh giá tác động bằng phương áp ước lượng tương đương thuế quan
167
giá trị của các BPPTQ cũng có thể triển khai để đánh giá toàn diện, cụ thể hơn nữa
các tác động của các BPPTQ đến XKNS. Trong phạm vi của luận án này, với những
hạn chế về thời gian và nguồn lực, nghiên cứu sinh chưa thể thực hiện được được hết
các phương pháp; nghiên cứu sinh sẽ cố gắng tiếp tục triển khai ở các nghiên cứu sau.
Hơn nữa, với xu hướng xanh hoá các chính sách phi thuế quan hiện nay của EU, cũng
như những biến động phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới hiện nay sẽ
khiến cho tất cả các quốc gia sẽ định hình lại các quy định và cách thức áp dụng các
BPPTQ đối với các mặt hàng nói chung và nông sản nói riêng trong việc tham gia
thương mại quốc tế. Do đó, các vấn đề liên quan đến nhóm công cụ chính sách thương
mại phi thuế quan như vấn đề các chính sách phi thuế quan được định hình lại theo
hướng xanh và bền vững sẽ tác động như thế nào tới xuất nhập khẩu; các nhóm
BPPTQ nào sẽ được các quốc gia ưu tiên áp dụng,… sẽ cần tiếp tục được theo dõi,
168
nghiên cứu và đánh giá trong thời gian tới./.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Mai Thi Thanh Mai (2024), The Dissemination Of European Union’s Non-Tariff
Measures For Imported Agri - Food Products And Implications For Vietnam, Selected
Papers from The Vietnam-EU Economic and Trade Forum 2023 in "Economic and
Political Aspects of EU - Asian Relations", Springer Nature Singapore, ISBN: 978-
981-99-8944-7, Aug 18, 2024.
2. Mai Thi Thanh Mai (2023), The relationship between non - tariff measures and
sustainable development goals, Proceeding of the 11th International Conference on
International Economic Cooperation and Integration: "Evolving global value chain
participation into digital transformation and sustainable development", Vietnam
National University Press, Hanoi, ISBN: 978-604-369-860-2, p366-385, 11/2023,
Hanoi.
3. Mai Thi Thanh Mai, Nguyen Duc Bao, Nguyen Thi Nguyet Nuong, Trinh Thu
Thao, Truong T. Tu Anh, Nguyen T. Anh, Nguyen T. Dao (2023), Challenges from
European Union’s non-tariff measures on Vietnamese agri-food export, Proceeding of
the 9th International Conference for Young Researchers in Economics and Business
on: "Sustainable Economic Growth - Business Ecosystem Orientation through
Technology and Innovation", Vol.3, ISBN-978-604-346-251-7.
4. Mai, M. T. T. (2023), The Dissemination of Non-Tariff Measures in ASEAN and
Some Implications, VNU Journal of Economics and Business, Vol 3, No 4, p54-64.
https://doi.org/10.57110/vnujeb.v3i4.213.
5. Mai Thi Thanh Mai (2022), Exporting agricultural products to Korea in the
context of implementing the free trade agreements, Proceeding International
Conference on International Economic Cooperation and Integration: "International
Economic Integration: A Journey to the new - generation FTAs", VNU Publishing
House, ISBN: 978-604-9990-64-9, p224-247, 11/2022, Hanoi.
6. Mai Thị Thanh Mai (2022), Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Liên minh châu
Âu: Thực trạng, cơ hội và thách thức, Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số
613, tháng 6/2022, Tr.7-9.
7. Mai Thi Thanh Mai (accepted 2024), Greening non-tariff policies of the
European Union: Case study of Vietnamese coffee exports, Proceeding of the 12th
International Conference on International Economic Cooperation and Integration:
"Green policies and practices: Catalyst or pressure for trade and investment", Vietnam
National University Press, Hanoi, ISBN: 978-604-43-3727-2, Hanoi.
169
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Công Thương (2021), EVFTA với thương mại Việt Nam - ngành: Nông
sản , Quý IV/2021, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.
2. Đoàn Ngọc Thắng, Lê Thị An (2019), Tác động của các biện pháp phi thuế
quan tới xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 269 tháng 11/2019.
3. Hoàng Thị Thu Hiền, Nguyễn Tuấn Sơn, Chu Thị Kim Loan (2014). Rào cản
kỹ thuật của Mỹ đối với tôm và cá da trơn xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Khoa
học và Phát triển 2014, tập 12, số 6: 869-876
4. Lê Thị Việt Nga, Doãn Nguyên Minh, Bùi Thị Thu (2021), Tác động của các
biện pháp kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị
trường EU, Tạp chí khoa học thương mại, số 153, tr. 3-10.
5. Nguyễn Anh Thu (2020). Xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thách thức từ các
biện pháp phi thuế quan, Bản tin SPS Việt Nam, số 1, tháng 9/2020, p24-27
6. Nguyễn Anh Thu, Nguyễn Thị Minh Phương (2015), các quy định về vệ sinh
dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) doanh nghiệp việt nam thường gặp khi xuất
khẩu sang thị trường Nhật Bản, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 75, T9/2015, p34-45.
7. Nguyễn Bích Ngọc (2020). Nghiên cứu tác động biện pháp phi thuế quan của
Việt Nam đối với hàng nông sản nhập khẩu, Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân.
8. Nguyễn Bích Thủy (2020), Rào cản phi thuế quan đối với xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản;
9. Nguyễn Thị Thu Hiền (2022), Tác động của các biện pháp phi thuế quan đến
xuất khẩu cà phê của Việt Nam, Tạp chí Khoa học thương mại, Số 164, tr. 3-14.
10. Thuong, N. T. T. (2018). The effect of Sanitary and Phytosanitary measures
on Vietnam’s rice exports. EconomiA, 19(2), 251-265.
11. Văn phòng SPS Việt Nam (2022), EU sửa đổi Quy định về các biện pháp kiểm
soát thực phẩm nhập khẩu, truy cập ngày 25/3/2023 từ
http://www.spsvietnam.gov.vn/eu-sua-doi-quy-dinh-eu-20191793-ve-viec-tang-
tam-thoi-cac-bien-phap-kiem-soat-chinh-thuc-va-khan-cap-quan-ly-viec-dua-mot-
so-hang-hoa-nhat-dinh-tu-mot-so-nuoc-thu-ba-vao-eu
170
12. VCCI (2019), Hoa quả Việt Nam vượt qua các rào cản của thị trường EU để
tận dụng cơ hội từ EVFTA, truy cập từ https://trungtamwto.vn/chuyen-de/17729-
evfta-va-nganh-rau-qua-viet-nam-cac-bien-phap-sps-chinh-ma-eu-ap-dung-doi-voi-
mat-hang-trai-cay-tiem-nang-cua-viet-nam
13. VCCI (2023), Thoả thuận xanh châu Âu và xuất khẩu của Việt Nam: Trường
hợp của ngành Nông sản, Thực phẩm và Dệt may, Nhà xuất bản Công thương, Hà
Nội.
14. Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Bộ Công Thương và Trung tâm Thông tin
Thương mại và Công nghiệp (2020), Chuyên san Thương mại Việt Nam – EU Quý
IV năm 2020.
Tiếng Anh
15. Aitken, N. D. (1973). The effect of the EEC and EFTA on European trade: A
temporal cross-section analysis. The American Economic Review, 63(5), 881-892.
16. Alan V. Deardorff, Robert M. Stern. (1997). Measurement of Non-Tariff
Barriers (OECD Economics Department Working Papers No. 179; OECD Economics
Department Working Papers.
17. Anders, S. M., & Caswell, J. A. (2009). Standards as barriers versus standards
as catalysts: Assessing the impact of HACCP implementation on US seafood
imports. American Journal of Agricultural Economics, 91(2), 310-321.
18. Anderson J., Wincoop E.V., (2003). “Gravity with Gravitas: A Solution to the
Border Puzzle" American Economic Review, 93 (1): 170-192.
19. Anderson, J. E. (1979). A theoretical foundation for the gravity equation. The
American economic review, 69(1), 106-116.
20. Andriamananjara (2004), The Effects of Non-Tariff Measures on Prices,
Trade, and Welfare: CGE Implementation of Policy-Based Price Comparisons , U.S.
International Trade Commission Washington, DC 20436 USA.
21. APEC. (2014). Perceptions on the Use of Non-Tariff Measures Within the
APEC Region.
22. Baldwin R, (1970). Non-tariff Distortion in International Trade, Brookings
Institution, Washington D.C.
23. Baldwin, R. & Evenett, J., (2020). COVID-19 and Trade Policy, Why Turning
Inward Won’t Work.
171
24. Bao, X., & Qiu, L. D. (2010). Do Technical Barriers to Trade Promote or
Restrict Trade? Evidence from China. Asia-Pacific Journal of Accounting &
Economics, 17(3), 253–278. https://doi.org/10.1080/16081625.2010.9720865
25. Beghin, J., Disdier A.C, Marette s., Van Tongeren F., (2012). “Welfare costs
and benefits of NTMs in Trade: a conceptual framework and application, World
Trade Review, Volume 11 , Issue 3: Symposium Issue: Standards and Non-Tariff
Barriers in Trade , July 2012 , pp. 356 – 375
26. Beghin, J., Disdier, A. C., Marette, S., & Van Tongeren, F. (2012). Welfare
costs and benefits of non-tariff measures in trade: a conceptual framework and
application. World Trade Review, 11(3), 356-375.
27. Boisso, D., & Ferrantino, M. (1997). Economic distance, cultural distance, and
openness in international trade: Empirical puzzles. Journal of Economic integration,
456-484.
28. Bratt, M. (2017). Estimating the bilateral impact of nontariff measures on
trade. Review of International Economics, 25(5), 1105-1129.
29. Cadot, O., Gourdon, J., & Van Tongeren, F. (2018). Estimating Ad Valorem
Equivalents of Non-Tariff Measures: Combining Price-Based and Quantity-Based
Approaches (OECD Trade Policy Papers No. 215; OECD Trade Policy Papers, Vol.
215). https://doi.org/10.1787/f3cd5bdc-en
30. Cadot, O., J. Gourdon and F. van Tongeren. (2018), Estimating Ad Valorem
Equivalents of Non-Tariff Measures: Combining Price-Based and Quantity-Based
Approaches, OECD Trade Policy Papers, No. 215, OECD Publishing, Paris.
http://dx.doi.org/10.1787/f3cd5bdc-en
31. Cadot, O., Munadi, E., & Ing, L. Y. (2013). Streamlining Các NTM in
ASEAN: The Way Forward. ERIA Discussion Paper Series, 24, 49.
32. Chaney, T. (2008). Distorted gravity: the intensive and extensive margins of
international trade. American economic review, 98(4), 1707-1721
33. Chen, M. X., & Mattoo, A. (2008). Regionalism in Standards: Good or Bad for Trade? 37. 34. Correia, S., Guimaraes, P., & Zylkin, T. (2019). Ppmlhdfe: Fast Poisson
Estimation with High-Dimensional Fixed Effects, Cornel University,
https://doi.org/10.48550/arXiv.1903.01690
35. Crivelli, P., & Gröschl, J. (2016). The impact of sanitary and phytosanitary
172
measures on market entry and trade flows. The World Economy, 39(3), 444-473.
36. Dal Bianco, A., Boatto, V. L., Caracciolo, F., & Santeramo, F. G. (2016).
Tariffs and non-tariff frictions in the world wine trade. European Review of
Agricultural Economics, 43(1), 31-57.
37. Dean, J. M., Signoret, J. E., Feinberg, R. M., Ludema, R. D., & Ferrantino, M.
J. (2009). Estimating the price effects of non-tariff barriers. The BE Journal of
Economic Analysis & Policy, 9(1).
38. Disdier A. and Marette S., (2010). The Combination of Gravity and Welfare
Approaches for Evaluating Non-Tariff Measures, American Journal of Agricultural
Economics, 92(3): 713–26.
39. Disdier, A. E., Fontagn ́e, L., & Mimouni, M., (2008). The impact of
regulations on agricultural trade: Evidence from the SPS and TBT agreements,
American Agricultural Economics Association, 90(2), 336–350.Available at:
10.1111/j.1467-8276.2007.01127.x.
40. Disdier, A.-C., Fontagné, L., & Mimouni, M. (2008). The Impact of
Regulations on Agricultural Trade: Evidence from the SPS and TBT Agreements.
American Journal of Agricultural Economics, 90(2), 336–350.
https://doi.org/10.1111/j.1467-8276.2007.01127.x
41. Dolabella, M. (2018). Bilateral effects of non-tariff measures on international trade: Volume-based panel estimates. United Nation ECLAC, 69. 42. Drogué, S., & DeMaria, F. (2012). Pesticide residues and trade, the apple of
discord?. Food Policy, 37(6), 641-649.
43. Eaton, J., & Kortum, S. (2002). Technology, geography, and
trade. Econometrica, 70(5), 1741-1779.
44. European Commission (2020), Sanitary and phytosanitary requirements:
Regulation on official controls,
https://ec.europa.eu/taxation_customs/business/customs-controls/safety-health-
environment-customs-controls/sanitary-phytosanitary-requirements_en
45. European Commission (2021), Trade Policy Review - An Open, Sustainable
and Assertive Trade Policy, https://odi.org/en/insights/the-eus-trade-policy-review-
and-the-five-debates-it-triggers/
46. European Commission (2022), Agri-food trade statistical factsheet: European
Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-
173
analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en
47. European Commission (2022), RASFF annual report 2021, Directorate-
General for Health and Food Safety, Publications
Office. https://data.europa.eu/doi/10.2875/914558
48. European Commission (2023), Agri-food trade statistical factsheet: European
Union – Vietnam, truy cập ngày 29/01/2024 từ
https://agriculture.ec.europa.eu/system/files/2023-05/agrifood-vietnam_en.pdf
49. European Commission (2023), Agri-food trade statistical factsheet: European
Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-
analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en
50. European Commission (2024), Agri-food trade statistical factsheet: European
Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-
analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en
51. Ferrantino, M. J., (2006). Quantifying the trade and economic effects of non-
tariff measures, OECD Trade Policy Working Papers, 28. Paris: OECD.
http://dx.doi.org/10.1787/837654407568
52. Ferro E, Wilson J and Otsuki T (2013). The Effect of Product Standards on
Agricultural Exports from Developing Countries. Policy Research Working Paper
6518. World Bank
53. Fontagné, L. G., Mimouni, M., & Pasteels, J. M. (2005). Estimating the impact
of environmental SPS and TBT on international trade. Integration and Trade
Journal, 22(3).
54. Frahan, B. H., & Vancauteren, M. (2006). Harmonisation of food regulations
and trade in the Single Market: evidence from disaggregated data. European review
of agricultural economics, 33(3), 337-360.
55. Fugazza M. (2013). the economics behind non-tariff measures: theoretical
insights and empirical evidence by Marco Fugazza.
56. Ganslandt Mattias and Markusen James R., (2001). “Standards and Related
Regulations in International Trade: A Modeling Approach”, NBER Working Paper,
No. w8346, Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=274556
57. Ghodsi, M., Gruebler, J., & Stehrer, R. (2016). Estimating importer-specific
ad valorem equivalents of non-tariff measures (No. 129). wiiw Working Paper.
58. Guimarães, M. H. (2012). Non-Tariff Measures in The European Union:
174
Evidence from the Agri-Food Sector. Agricultural Economics Review, 13(2), 21–34.
59. Head, K., & Mayer, T. (2002). Illusory border effects: Distance
mismeasurement inflates estimates of home bias in trade (Vol. 1). Paris: CEPII.
60. Heckscher, E. F. (1919). Utrikeshandelns verkan på inkomstfördelningen.
Några teoretiska grundlinjer. Ekonomisk tidskrift, 1-32.
61. Henson S and Loader R (2001). Barriers to Agricultural Exports from
Developing Countries: The Role of Sanitary and Phytosanitary Requirements. World
Development Vol. 29, No. 1, pp. 85±102, 2001
62. Hoekman, B., & Nicita, A. (2011). Trade Policy, Trade Costs, and Developing
Country Trade. World Development, 39(12), 2069–2079.
https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2011.05.013
63. Hoekman, B., & Nicita, A. (2011). Trade policy, trade costs, and developing
country trade. World development, 39(12), 2069-2079.
64. Julia Grubler , Oliver Reiter (2021), Characterising non-tariff trade policy,
Economic Analysis and Policy 71 (2021) 138–163 ,
https://doi.org/10.1016/j.eap.2021.04.007
65. Kareem, F. O. (2020). Employment Responses to EU Food Safety
Regulations: A Gendered Perspective. The European Journal of Development
Research. https://doi.org/10.1057/s41287-020-00330-8
66. Kareem, F. O., Brümmer, B., & Martinez-Zarzoso, I. (2015). The Implication
of European Union’s Food Regulations on Developing Countries: Food Safety
Standards, Entry Price System and Africa’s Export.
https://doi.org/10.22004/ag.econ.198719
67. Kareem, F. O., Martínez-Zarzoso, I., & Brümmer, B. (2018). Protecting health
or protecting imports? Evidence from EU non-tariff measures. International Review
of Economics & Finance, 53, 185–202. https://doi.org/10.1016/j.iref.2017.08.012
68. Kareem, O. I., & Rau, M.-L. (2018). Market Access for Africa’s Fruits and Vegetables Exports in the European Union: Evidence from Sanitary and Phytosanitary Measures. In Non-Tariff Measures: Economic Assessment and Policy Options for Development (Vol. 10, p. 435). UNCTAD. 69. Kee, H.L., A. Nicita, and M. Olarreaga. (2009). Estimating Trade
Restrictiveness Indices. Pol cy Research Working paper No. 3840, World Bank,
Washington, DC.
175
70. Krugman, P. (1980). Scale economies, product differentiation, and the pattern
of trade. American economic review, 70(5), 950-959.
71. Le Thi Viet Nga, Doan Nguyen Minh, Phan The Cong (2023), Assessing the
impacts of non-tariff measures on the export of Vietnam’s main agricultural and
seafood products, International Journal of Innovative Research and Scientific
Studies, 6(1) 2023, pages: 72-79.
72. Li, Y., & Beghin, J. C. (2012). A meta-analysis of estimates of the impact of
technical barriers to trade. Journal of policy modeling, 34(3), 497-511.
73. Maertens, M., & Swinnen, J. F. (2009). Trade, standards, and poverty:
Evidence from Senegal. World development, 37(1), 161-178.
74. McDonald, M. B. J., & Henn, C. (2011). Protectionist responses to the crisis:
Damage observed in product-level trade. International Monetary Fund.
The Review Studies, 75(1),
75. Melitz, M. J., & Ottaviano, G. I. P. (2008). Market Size, Trade, and 295–316. of Economic Productivity. https://doi.org/10.1111/j.1467-937X.2007.00463.x 76. Melo, J. de, & Nicita, A. (2018). Non-Tariff Measures: Data and Quantitative
Tools of Analysis. https://hal.science/hal-01731305
Development, World 130,
77. Melo, J., & Solleder, J.-M. (2020). Barriers to trade in environmental goods: How important they are and what should developing countries expect from their removal. 104910. https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2020.104910 78. Nguyen D.B., Bouët, A. & Traoré, F., 2021. “On the proper computation of
Ad Valorem equivalent of non-tariff measures”, Applied Economics Letters.
79. Nicita, A., & Gourdon, J. (2013). A preliminary analysis on newly collected
data on non-tariff measures. UN.
80. Nimenya, N., Ndimira, P. F., & de Frahan, B. H. (2012). Tariff equivalents of
nontariff measures: the case of European horticultural and fish imports from African
countries. Agricultural Economics, 43(6), 635-653.
81. Niranjan, M. B., Shivakumar, K. M., Prahadeeswaran, M., & Rohini, A.
(2021). Non-Tariff Measures (BPPTQ) and Their Significance in Agricultural Trade
of India and European Union. Asian Journal of Agricultural Extension, Economics &
Sociology, 79–87. https://doi.org/10.9734/ajaees/2021/v39i1130728
82. Noland, M. (2005). Religion and economic performance. World
development, 33(8), 1215-1232.
176
83. Ohlin, B. (1933). Till frågan om penningteoriens uppläggning. Ekonomisk
Tidskrift, 45-81.
84. Orden, D. (2013). The Changing Structure of Domestic Support and Its
Implications for Trade.
85. Otsuki, T., Wilson, J. S., & Sewadeh, M. (2001a). Saving two in a billion:
Quantifying the trade effect of European food safety standards on African exports.
Food Policy, 26(5), 495–514. https://doi.org/10.1016/S0306-9192(01)00018-5
86. Otsuki, T., Wilson, J. S., & Sewadeh, M. (2001b). What price precaution?
European harmonisation of aflatoxin regulations and African groundnut exports.
European Review of Agricultural Economics, 28(3), 263–284.
https://doi.org/10.1093/erae/28.3.263
87. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld (2012), International Economics: Theory
and Policy, Addison-Wesley, Boston
88. Peterson, E., Grant, J., Roberts, D., & Karov, V. (2013). Evaluating the trade
restrictiveness of phytosanitary measures on US fresh fruit and vegetable
imports. American Journal of Agricultural Economics, 95(4), 842-858.
89. Poyhonen, P. (1963) A Tentative Model for the Volume of Trade between
Countries. Weltwirtschaftliches Archiv, 90, 93-100.
http://www.jstor.org/stable/40436776
90. Rauch, J., Trindade, V., 2002. Ethnic Chinese networks in international trade.
Review of Economics and Statistics 84, 116--130.
91. Ricardo, D. (1895). The first six chapters of the principles of political economy
and taxation of David Ricardo, 1817. Macmillan and Company.
92. Rickard, B. J., & Lei, L. (2011). How important are tariffs and nontariff
barriers in international markets for fresh fruit?. Agricultural Economics, 42, 19-32.
93. Ronen, E (2017). Quantifying the trade effects of NTMs: A review of the
empirical literature, MPRA Paper No. 83730, https://mpra.ub.uni-
muenchen.de/83730/
94. Ronen, E. (2017). The trade-enhancing effect of non-tariff measures on virgin
olive oil. International Journal of Food and Agricultural Economics (IJFAEC).
https://doi.org/10.22004/ag.econ.266428
95. Salvatore, D. (2019). International economics. John Wiley & Sons.
177
96. Santeramo, F. G., & Lamonaca, E. (2019). The effects of non‐tariff measures
on agri‐food trade: A review and meta‐analysis of empirical evidence. Journal of
Agricultural Economics, 70(3), 595-617.
97. Santeramo, F. G., Lamonaca, E., Nardone, G., & Seccia, A. (2019). The
benefits of country-specific non-tariff measures in world wine trade. Wine Economics
and Policy, 8(1), 28-37.
98. Schlueter, S. W., Wieck, C., & Heckelei, T. (2009). Regulatory policies in
meat trade: is there evidence for least trade-distorting sanitary regulations?. American
Journal of Agricultural Economics, 91(5), 1484-1490.
99. Shi, Y. J. (2022). A Review of Non-Tariff Measures with Par- ticular Focus
on the US and China Practices. Theoretical Economics Letters, 12, 601-628.
https://doi.org/10.4236/tel.2022.123034
100. Tinbergen, J., (1962). Shaping the World Economy, New York, NY: The
Twentieth Century Fund.
101. UNCTAD (2019). International Classification of Non-Tariff Measures 2019.
UN. https://doi.org/10.18356/33bf0bc6-en
102. UNCTAD (2009), Non-Tariff Measures: Envidence from Selected
Developing Countries and Future Research Agenda, United Nations publication.
103. UNCTAD (2013). Non - Tariff Measures to Trade: Economic and Policy
Issues for Developing Countries, Developing Countries in International Trade
Studies, New York and Geneva.
104. UNCTAD (2021), COVID-19 Non-Tariff Measures: The Good and the Bad,
through a Sustainable Development Lens, UNCTAD Research Paper No. 60
UNCTAD/SER.RP/2021/3
105. UNCTAD (2022). Non-tariff measures from A to Z. retrived from
https://unctad.org/system/files/official-document/ditctab2021d3_en.pdf
106. UNCTAD. (2012). International Classification of Non-Tariff Measures 2012.
UN. Retrieved from https://doi.org/10.18356/33bf0bc6-en
107. UNESCAP (2019), Asia-Pacific Trade and Investment Report 2019,
Navigating Non-tariff Measures towards Sustainable Development, United Nations
publication.
108. Uprasen, U. (2014). The Impact of Non-Tariff Barriers in the European Union
on China’s Exports. In B. Andreosso-O’Callaghan, J. Jaussaud, & M. B. Zolin (Eds.),
178
Economic Integration in Asia: Towards the Delineation of a Sustainable Path (pp.
141–164). Palgrave Macmillan UK. https://doi.org/10.1057/9781137432933_8
109. Van Tongeren, F., Beghin, J., & Marette, S. (2009). A cost-benefit framework
for the assessment of non-tariff measures in agro-food trade.
110. Xiong & Beghin. (2014). Disentangling demand‐enhancing and trade‐cost
effects of maximum residue regulations. Economic Inquiry.
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/ecin.12082
111. Xiong, B., & Beghin, J. (2011). Disentangling the Demand-Enhancing Effect
and Trade-Cost Effect of Technical Measures in Agricultural Trade Among OECD
Countries (SSRN Scholarly Paper 1945235). https://doi.org/10.2139/ssrn.1945235
112. Xiong, B., & Beghin, J. (2012). Does European aflatoxin regulation hurt
groundnut exporters from Africa? European Review of Agricultural Economics,
39(4), 589–609. https://doi.org/10.1093/erae/jbr062
113. Yew, V. S. H., Al-Amin, A. Q., & Devadason, E. S. (2020). Labour Market
Effects of Non-tariff Measures: A Computable General Equilibrium for the Food
Processing Sector in Malaysia. The Indian Journal of Labour Economics, 63(3), 629–
656. https://doi.org/10.1007/s41027-020-00239-0
Các Website
114. CEPII: www.cepii.fr
115. EUROPA: https://european-union.europa.eu/index_en
116. Eurostat: https://ec.europa.eu/eurostat
117. International Monetary Fund Data: https://data.imf.org
118. ITC/Market Access Map: https://www.macmap.org/
120.
RASFF: https://food.ec.europa.eu/index_en
119. I-TIP, WTO: http://i-tip.wto.org/goods
121. TradeMap: https://www.trademap.org/Index.aspx
122. TRAINS: https://trainsonline.unctad.org/home
123. UN Comtrade: https://comtradeplus.un.org/
124. UCNTAD: https://unctad.org/
125. WITS: https://wits.worldbank.org/Default.aspx?lang=en
126. World Bank: https://www.worldbank.org/en/home
179
127. World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phân loại các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật
A Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)
A11
A12
A13
A14
A1
Các lệnh cấm/hạn chế nhập khẩu vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
A15
A19
A21
A2
Giới hạn dung sai đối với dư lượng và hạn chế sử dụng các chất
A22
A3
Yêu cầu ghi nhãn, đánh dấu và đóng gói
Các lệnh cấm vì lý do vệ sinh và kiểm dịch thực vật Các hạn chế về địa lý đối với tính hợp lệ Phương pháp tiếp cận hệ thống Yêu cầu ủy quyền vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật để nhập khẩu các sản phẩm nhất định Các yêu cầu đăng ký dành cho các nhà nhập khẩu Cấm hoặc hạn chế nhập khẩu vì các lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật chưa được quy định ở nơi khác Định mức dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định Hạn chế sử dụng một số chất trong thực phẩm và thức ăn và vật liệu tiếp xúc của chúng A31 Yêu cầu về ghi nhãn A32 Yêu cầu về đánh dấu A33 Yêu cầu về đóng gói
A41
A42
A4
A49
Yêu cầu vệ sinh liên quan đến điều kiện vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
Tiêu chuẩn vi sinh của sản phẩm cuối cùng Thực hành vệ sinh trong quá trình sản xuất Yêu cầu vệ sinh chưa được quy định ở nơi khác
A51 Xử lý lạnh hoặc nhiệt A52 Chiếu xạ A53 Khử trùng
A5
A59
Xử lý để loại trừ sinh vật gây hại thực vật, động vật gây bệnh trong sản phẩm cuối cùng hoặc cấm xử lý
Biện pháp xử lý để loại bỏ thực vật và động vật gây hại hoặc sinh vật gây bệnh trong sản phẩm
A Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)
A61
trình chăn nuôi
A62
A63
A6
A64
Các yêu cầu khác liên quan đến quy trình sản xuất hoặc hậu kỳ
A69
A81
cuối cùng chưa được quy định hoặc cấm xử lý ở nơi khác Quá trình tăng trưởng thực vật Quy hoặc đánh bắt động vật Quy trình xử lý thức ăn và chế biến thức ăn Điều kiện bảo quản và vận chuyển Các yêu cầu khác về quy trình sản xuất hoặc hậu sản xuất chưa được quy định ở nơi khác Yêu cầu đăng ký và phê chuẩn sản phẩm
A82 Yêu cầu kiểm tra
A83
Yêu cầu cấp giấy chứng nhận
A84 Yêu cầu giám định
A851
A8
A85 Yêu cầu truy xuất
A853
Đánh giá sự phù hợp liên quan đến vệ sinh và điều kiện kiểm dịch thực vật
A859
Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần A852 Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng Các yêu cầu truy xuất chưa được quy định ở nơi khác
A86 Yêu cầu kiểm dịch
A89
Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các điều kiện SPS chưa được quy định ở nơi khác
A9
Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật không được quy định ở nơi khác
Nguồn: UNCTAD (2022)
Phụ lục 2.: Phân loại các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)
B Các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)
B14
B15
B1
Uỷ quyền/cấp phép nhập khẩu liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại
B19
B21
B2
B22
Yêu cầu uỷ quyền vì lý do TBT Yêu cầu ủy quyền đối với các doanh nghiệp nhập khẩu Ủy quyền/cấp phép nhập khẩu liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại chưa được quy định ở nơi khác Giới hạn cho phép đối với dư lượng hoặc ô nhiễm bởi một số chất Hạn chế sử dụng một số chất
B3
Giới hạn dung sai đối với dư lượng và hạn chế sử dụng các chất Yêu cầu ghi nhãn, đánh dấu và đóng gói
B31 Yêu cầu về ghi nhãn B32 Yêu cầu về đánh dấu B33 Yêu cầu về đóng gói
B41
B42
B4
Yêu cầu sản xuất hoặc sau sản xuất
B49
Các quy định TBT về quy trình sản xuất Các quy định TBT về vận chuyển và bảo quản Các yêu cầu về sản xuất hoặc hậu sản xuất chưa được quy định ở nơi khác
B6
B7
Yêu cầu về nhận diện sản phẩm Yêu cầu về chất lượng sản phẩm, độ an toàn hoặc hiệu suất sử dụng
B81
Yêu cầu đăng ký/phê chuẩn sản phẩm B82 Yêu cầu thử nghiệm B83 Yêu cầu chứng nhận B84 Yêu cầu kiểm tra
B8
B851
Đánh giá sự phù hợp liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại
B85 Yêu cầu truy xuất
B853
Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần B852 Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng
B Các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)
B859
Các yêu cầu truy xuất chưa được quy định ở nơi khác
B89
Đánh giá sự phù hợp liên quan đến TBT chưa được quy định ở nơi khác
B9
Các biện pháp TBT chưa được quy định ở nơi khác
Nguồn: UNCTAD (2022)
Phụ lục 3:
Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam năm 2020
Mã số
Nội dung
Ngày
Phân loại
Quốc gia
2020.0625
07-02-2020
Pháp
Thông báo từ chối nhập cảnh
Chlorfluazuron trong ớt
2020.0660
10-02-2020
Lít-va
tricyclazole trong gạo
Thông báo thông tin cần chú ý
Danh mục hàng hóa Hoa quả và rau Ngũ cốc và các sản phẩm bánh
2020.1311
23-03-2020
Pháp
Hoa quả và rau
Thông báo từ chối nhập cảnh
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong ớt
2020.1739
23-04-2020 Ba Lan
Thông báo từ chối nhập cảnh
Màu trái phép Gardenia Vàng trong ống hút
2020.2203
27-05-2020
Thụy Điển
Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Đồ uống không cồn
2020.2390
10-06-2020
Hoa quả và rau
Cộng hòa Séc
2020.2411
11-06-2020
Hoa quả và rau
Cộng hòa Séc
Thông báo thông tin để theo dõi Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo thông tin cần chú ý
2020.2450 Bánh kẹo
15-06-2020
Thụy Điển
Thông báo thông tin cần chú ý
2020.2485 Bánh kẹo
17-06-2020
Thụy Điển
Thông báo thông tin cần chú ý
2020.2646
30-06-2020 Hà Lan
Hoa quả và rau
Thông báo thông tin cần chú ý
2020.2892
15-07-2020
Pháp
Hoa quả và rau
Thông báo từ chối nhập cảnh
2020.3166
05-08-2020
Đức
Quả hạch, các sản phẩm từ
Thông báo thông tin cần chú ý
Màu trái phép (E143) trong nước giải khát Sulphite không được khai báo trong nấm khô Sulphite không được khai báo trong nấm khô Cốc thạch mini có chất phụ gia tạo gel, do đó có nguy cơ gây ngạt thở Cốc thạch mini có chất phụ gia tạo gel, do đó có nguy cơ gây ngạt thở Cadmium quá cao (0,062 mg/kg - ppm) trong mít sấy khô Mức độ cypermethrin vượt quá giá trị độc tính trong quả thanh long Túi giấy chứa mỡ thực vật và phosphide vô cơ
Mã số
Nội dung
Ngày
Phân loại
Quốc gia
Danh mục hàng hóa quả hạch và hạt
10-09-2020
2020.3695
Tây Ban Nha
Thông báo từ chối nhập cảnh
Đồ uống không cồn
17-09-2020
2020.381 Bánh kẹo
Cộng hòa Séc
Thông báo thông tin cần chú ý
09-10-2020
2020.4200
Đan Mạch
Hoa quả và rau
Thông báo thông tin để theo dõi
(thuốc trừ sâu) trong hạt điều/// Túi giấy chứa mỡ thực vật và phosphide vô cơ (thuốc trừ sâu) trong hạt điều Vượt quá giới hạn Acid Benzoic trong nước giải khát Phụ gia thực phẩm E407 carrageenan và E425 konjac dùng trong ly thạch mini Dimethoate trên MRL trong nấm rơm đông lạnh
10-12-2020
2020.5664
Phần Lan
Thông báo từ chối nhập cảnh
Aflatoxin (B1 = 38,1 µg/kg - ppb; Tot. = 44,9 µg/kg - ppb) trong lạc
2020.5726
14-12-2020 Na Uy
Chất cấm tricyclazole trong gạo thơm
Thông báo thông tin để theo dõi
2020.5829
17-12-2020
Đức
Chlorpyrifos trong nấm mèo đen khô
Thông báo thông tin cần chú ý
2020.5858
18-12-2020 Ba Lan
Thông báo cảnh báo
Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Các loại thảo mộc và gia vị
PAHs và Benzo (a) pyrene trong bột quế
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2022)
Phụ lục 3: Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam
năm 2021
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
Danh mục hàng hóa
2021.0158
Hoa quả và rau
12-01- 2021
Bồ Đào Nha
Thông báo từ chối nhập cảnh
2021.0165
Đồ uống không cồn
13-01- 2021
Tây Ban Nha
Thông báo từ chối nhập cảnh
2021.0872
Đức
19-02- 2021
Các loại thảo mộc và gia vị
Thông báo từ chối nhập cảnh
Thực phẩm mới trái phép nho biển muối (Caulerpa lentillifera) Hàm lượng E 210 và E 211 trong mật hoa quá cao Vượt mức tối đa cho phép đối với propiconazole trong ớt đỏ đông lạnh
2021.1451
Na Uy
Tricyclazole trong mì khô vị gà
22-03- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
2021.2136
28-04- 2021
Tây Ban Nha
Thông báo từ chối nhập cảnh
2021.2295
Pháp
07-05- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
Thực phẩm mới trái phép, nho biển khử nước và rêu Ailen khô Nitrofurans (furazolidone) trong chân ếch đông lạnh
2021.2803
Đức
Chlorpyrifos trong nấm mu-err khô
01-06- 2021
Thông báo cảnh báo
Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Thịt và các sản phẩm từ thịt (trừ gia cầm) Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp
2021.3043
Thụy Sĩ
Hoa quả và rau
11-06- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
2021.4083
Đức
02-08- 2021
Thông báo cảnh báo
Hàm lượng carbofuran quá cao trong Ổi (psidium guajava) 2-Chloroethanol trong viên nang cho thuốc và thực phẩm bổ sung
2021.4177
Na uy
Ethylene Oxide trong mì khô
05-08- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
2021.4233
Đức
09-08- 2021
Thông báo cảnh báo
Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ 2021.4573 Hoa quả và
2-Chloroethanol trong món mì ăn liền Sự hiện diện
26-08-202 Hà Lan
Thông báo
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
Danh mục hàng hóa rau
thông tin cần chú ý
Na Uy
2021.4761
07-09- 2021
Hoa quả và rau
Thông báo thông tin cần chú ý
Ý
2021.5398
07-10- 2021
Hoa quả và rau
Hà Lan
2021.5769
25-10- 2021
Hoa quả và rau
Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo thông tin cần chú ý
chlorpyrifos-ethyl 0,09 ppm và profenofos 0,12 ppm trong mướp đắng cắt đôi Chất cấm propargite và fenobucarb trong bưởi Sự hiện diện của thuốc trừ sâu trong chôm chôm Carbendazim trong lá đắng đông lạnh
Đức
2021.5783
26-10- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
Chất cấm chlorpyrifos trong nấm mu-err khô
Ý
2021.5839
Bacillus cereus trong bột quế
28-10- 2021
Thông báo thông tin cần chú ý
Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Các loại thảo mộc và gia vị
2021.5861
29-10- 2021
Tây Ban Nha
Các loại thảo mộc và gia vị
Thông báo từ chối nhập cảnh
2021.6761
09-12-202
Đức
Thông báo thông tin cần chú ý
Sự hiện diện của chlorpyrifos với nồng độ cao hơn MRL trong hạt tiêu đen // Sự hiện diện của chlorpyrifos với nồng độ cao hơn MRL trong hạt tiêu đen Anthraquinone trong bạch đậu khấu khô
2021.6766
Đức
09-12- 2021
Thông báo cảnh báo
2-Chloroethanol trong thực phẩm bổ sung
Các loại thảo mộc và gia vị Thực phẩm ăn kiêng, thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường
2021.6796
Đức
10-12- 2021
Thông báo cảnh báo
Các loại thảo mộc và gia vị
Chất trái phép ethylene oxide (tổng EO và 2-CE được biểu thị bằng EO: 14 mg/kg - ppm) trong quế
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
Danh mục hàng hóa
2021.7011
Đan Mạch
Hoa quả và rau
20-12- 2021
Thông báo cảnh báo
2021.7252
Ba Lan
30-12- 2021
Thông báo cảnh báo
Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp
xay Chlorpyrifos và fipronil trong Nấm Rơm Ngọc 2-chloroethanol (281 mg/kg - ppm) và chất không được phép ethylene oxide (0,14 mg/kg - ppm) trong bột sữa dừa
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2022)
Phụ lục 4: Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam
năm 2022
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
2022.0244
13-01-2022 Rumani
Ochratoxin A trong cà phê hòa tan sấy phun
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.0402
21-01-2022 Phần Lan
Chất cấm tricyclazole (0.013 mg/kg - ppm) trong gạo
Thông báo từ chối nhập cảnh
21-01-2022
2022.0413
Đan Mạch
Thông báo cảnh báo
3-Amino-2- oxazolidinone (AOZ) trong đùi ếch
24-01-2022
Đức
2022.0428
2-Chloroethanol trong mì ăn liền
Thông báo cảnh báo
Danh mục hàng hóa Ca cao và các chế phẩm từ ca cao, cà phê và chè Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Thịt và sản phẩm thịt (trừ gia cầm) Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
2022.0823
Clorat trong quế xay
10-02-2022
Đức
Các loại thảo mộc và gia vị
Thông báo thông tin để theo dõi
2022.0849
14-02-2022
Bỉ
Thông báo cảnh báo
Ethylene oxide trong thực phẩm bổ sung
2022.0912
17-02-2022
Đức
Thông báo cảnh báo
2-Chloroethanol trong mì ăn liền chay
2022.1276
03-03-2022
Đức
Propiconazole và tricyclazole trong gạo nếp rang
Các loại thảo mộc và gia vị Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Ngũ cốc và các sản phẩm bánh
2022.1349
07-03-2022 Hà Lan
Hoa quả và rau
Chlorpyrifos trong chôm chôm
Thông báo thông tin để theo dõi Thông báo thông tin cần chú ý
2022.1369
08-03-2022
Cộng hòa Síp
Thông báo từ chối nhập cảnh
Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị
sử dụng trái phép phẩm màu E110 - Sunset Yellow FCF và phẩm màu E124 - Ponceau 4R/đỏ cochineal A trong tương ớt
2022.1452
11-03-2022
Đức
Salmonella spp. trong cùi dừa
Thông báo cảnh báo
Quả hạch, các sản phẩm từ
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
28-03-2022 Hà Lan
2022.182
chì trong khoai tây chiên hữu cơ sấy khô
Thông báo cảnh báo
28-03-2022
2022.1821
Đan Mạch
Thông báo cảnh báo
Danh mục hàng hóa quả hạch và hạt Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Hoa quả và rau
01-04-2022
Đức
2022.1936
Thông báo từ chối nhập cảnh
Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
01-04-2022
2022.1937
Tây Ban Nha
Hoa quả và rau
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.1938
01-04-2022
Đức
Thông báo từ chối nhập cảnh
Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
2022.1940
01-04-2022
Đức
Thông báo từ chối nhập cảnh
Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
2022.1948
01-04-2022
Đức
Thông báo cảnh báo
Sulphite không khai báo trong xoài sấy khô Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Suy giảm các đặc tính cảm quan trong thanh long Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Chất 2-chloroethanol trong bột canh trong mì ăn liền vượt mức cho phép
2022.2178
12-04-2022
Đức
2-Chloroethanol trong bột súp trong mì
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.2253
15-04-2022
Ý
Aflatoxin vượt giới hạn trong hạt điều
Thông báo thông tin cần chú ý
Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt
2022.2420
26-04-2022
Pháp
Hoa quả và rau
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.2497
29-04-2022 Hà Lan
Các loại thảo mộc và gia vị
Thông báo thông tin cần chú ý
dư lượng thuốc trừ sâu trong thanh long vượt quá MRL Permethrin, Chlorfenapyr, Chlorpyrifos-ethyl và Cadmium trong ớt đỏ đông lạnh Tăng hàm lượng
2022.2694 Quả hạch,
06-05-2022
Đức
Thông báo
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
cảnh báo
aflatoxin trong đậu phộng rang
2022.2768
11-05-2022 Ba Lan
Phụ gia trái phép E 554 trong súp ăn liền
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.2772
11-05-2022 Ba Lan
E554 trái phép trong hỗn hợp gia vị
Danh mục hàng hóa các sản phẩm từ quả hạch và hạt Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Các loại thảo mộc và gia vị
2022.2868
16-05-2022
Ý
Hoa quả và rau
permethrin trong vải thiều
Thông báo từ chối nhập cảnh Thông báo thông tin cần chú ý
2022.2944
19-05-2022
Đức
Aflatoxin trong lạc khô còn vỏ
Thông báo cảnh báo
2022.302
23-05-2022 Na Uy
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong gạo
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.3043
24-05-2022
2-chloroethanol trong mì ăn liền
Thụy Điển
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.3081
25-05-2022 Ba Lan
Thông báo từ chối nhập cảnh
phụ gia không được phép E 554 trong phở ăn liền
Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
2022.3225
01-06-2022 Hà Lan
Hoa quả và rau
Thông báo cảnh báo
cypermethrin, acetamiprid, tebuconazole, deltamethrin, lambda- cyhalothrin, thiamethoxam, clothianidin, kresoxim- methyl, abamectin, cyazofamid và pyriproxyfen và các chất không được phép carbendazim, permethrin, bifenthrin, propiconazole, diniconazole, hexaconazole, imidacloprid và
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
Danh mục hàng hóa
chlorfenapyr trong lá đắng đông lạnh
2022.3394
09-06-2022 Hà Lan
Chlorpyrifos-ethyl trong ớt đỏ
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.3545
16-06-2022 Hà Lan
Thông báo cảnh báo
Tổng Hydrocacbon thơm đa vòng 78,8 ppb trong Tiêu trắng
2022.358
17-06-2022 Malta
Bún gạo biến đổi gen trái phép
Thông báo thông tin để theo dõi
Các loại thảo mộc và gia vị Các loại thảo mộc và gia vị Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp
2022.3615
20-06-2022 Hà Lan
Thông báo cảnh báo
Các loại thảo mộc và gia vị
chất trái phép chlorpyrifos (0,043 mg/kg - ppm), imidacloprid (0,15 mg/kg - ppm) và chlorfluazuron (0,11 mg/kg - ppm) trong trà khổ qua
2022.3951
07-07-2022 Ba Lan
Phở ăn liền của Việt Nam - sự không tương thích trong tài liệu
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.3954
07-07-2022 Ba Lan
Phở ăn liền của Việt Nam - sự không tương thích trong tài liệu
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.3956
07-07-2022 Ba Lan
Mì ăn liền vị gà - sự không tương thích trong tài liệu
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.4011
08-07-2022 Na Uy
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong gạo
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.4045
11-07-2022
Đức
Anthraquinone trong bạch đậu khấu khô
Thông báo cảnh báo
2022.4146
15-07-2022
Đức
Ethylene oxide trong mì ăn liền
Thông báo từ chối nhập cảnh
2022.4149
15-07-2022
Đức
Ethylene oxide trong mì ăn liền
Thông báo từ chối nhập cảnh
Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Các loại thảo mộc và gia vị Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
2022.4155
15-07-2022
Đức
Ethylene oxide trong mì ăn liền
Thông báo từ chối nhập cảnh
Danh mục hàng hóa Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ
2022.4475
01-08-2022 Phần Lan
Các loại thảo mộc và gia vị
Thông báo từ chối nhập cảnh
Dư lượng thuốc trừ sâu trái phép (Tricyclazole, Chlorpyrifos) trong bột cà ri.
2022.514
05-09-2022
Đức
Thông báo cảnh báo
Chất trái phép ofloxacin trong đùi ếch sống
2022.5245
09-09-2022
Cộng hòa Séc
Cần tây không khai báo trong mì ăn liền có hương liệu
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.5311
12-09-2022
Đức
Sinh vật biến đổi gen trong bún gạo
Thịt và sản phẩm thịt (trừ gia cầm) Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Ngũ cốc và các sản phẩm bánh
Thông báo thông tin để theo dõi
2022.5319
13-09-2022
Ý
Thông báo thông tin cần chú ý
Vật liệu tiếp xúc với thực phẩm
Di chuyển các thành phần hữu cơ dễ bay hơi từ các tấm khối polyetylen mật độ cao xé nhỏ
2022.5721
03-10-2022
Đan Mạch
Các loại thảo mộc và gia vị
Dư lượng thuốc trừ sâu (chlorpyrifos) trong ớt đông lạnh
Thông báo thông tin để theo dõi
2022.5943
12-10-2022 Hà Lan
Anthraquinone trong hoa hồi
Thông báo cảnh báo
2022.6216
25-10-2022
Đức
2-Chloroethanol trong bún gạo
Thông báo từ chối nhập cảnh
Các loại thảo mộc và gia vị Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp
2022.6227
2510/2022 Phần Lan
Hoa quả và rau
Thông báo cảnh báo
Salmonella enterica ser. Stanley (trong 1 trên 5 mẫu /25g) trong nấm khô
2022.6267
26-10-2022
Ý
Chiếu xạ trái phép vào chân ếch
Thông báo thông tin cần chú ý
2022.6459
04-11-2022
Ý
Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp Sản phẩm thực
Sulphite (25 mg/kg - ppm) không khai báo
Thông báo cảnh báo
Mã số
Nội dung
Ngày
Quốc gia Phân loại
Danh mục hàng hóa phẩm khác/hỗn hợp
2022.6552
09-11-2022
Đan Mạch
Thông báo cảnh báo
Các loại thảo mộc và gia vị
trên bột quế hữu cơ dùng để sản xuất thanh hữu cơ Sự vượt quá pyrrolizidinalkaloider (PA) trong trà oregano, thì là và hoa cúc
2022.6905
25-11-2022 Na Uy
Hoa quả và rau
Etylen oxit trong tiêu đen xay
2022.7257
13-12-2022 Phần Lan
Hoa quả và rau
Sử dụng trái phép Tartrazine trong trái cây sấy khô
2022.7274
14-12-2022
Đan Mạch
Chất cấm tricyclazole trong gạo Jasmine trắng
Ngũ cốc và các sản phẩm bánh
Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo từ chối nhập cảnh Thông báo thông tin để theo dõi
2022.7513
22-12-2022
Đức
Thông báo cảnh báo
Các loại thảo mộc và gia vị
Chất trái phép anthraquinone và hydrocarbon thơm đa vòng (PAHs) trong hoa hồi khô
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2023)