ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

MAI THỊ THANH MAI

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN

CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU

NÔNG SẢN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

HÀ NỘI – NĂM 2025

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

MAI THỊ THANH MAI

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN

CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU

NÔNG SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Quốc tế

Mã số: 9310106.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Anh Thu

HÀ NỘI – NĂM 2025

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về sự cần thiết về tính trung thực, liêm chính trong nghiên

cứu học thuật. Tôi xin cam đoan, nội dung luận án là kết quả nghiên cứu do cá nhân

tôi thực hiện, không vi phạm các nguyên tắc, quy định về sự trung thực và liêm chính

trong nghiên cứu. Nội dung của luận án có tham khảo các nghiên cứu, thông tin được

công bố trên các tạp chí, sách, báo cáo, trang web. Nội dung tham khảo được trích

dẫn nguồn đầy đủ trong luận án; đồng thời, được liệt kê đầy đủ trong danh mục tài

liệu tham khảo của luận án.

Hà Nội, ngày ..... tháng ….. năm 2025

Tác giả luận án

Mai Thị Thanh Mai

LỜI CẢM ƠN

Luận án này được hoàn thành tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia

Hà Nội dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Anh Thu.

Trước hết, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn của tôi

- PGS.TS. Nguyễn Anh Thu - người đã luôn truyền cảm hứng cho tôi trong nghiên

cứu khoa học, người đã đưa ra những định hướng, chỉ dẫn về ý tưởng và phương pháp

nghiên cứu phù hợp với mục đích và yêu cầu của Luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Hội đồng Trường, Ban Giám hiệu, Ban

lãnh đạo, cán bộ và giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Phòng Đào tạo,

Phòng NCKH và HTPT, cùng toàn thể các phòng ban, cán bộ, giảng viên và chuyên

viên tại Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận

lợi, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.

Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn là điểm tựa, là nguồn động viên,

hỗ trợ để tôi có thể vượt qua các thử thách và hoàn thành được luận án.

Tôi sẽ luôn ghi nhớ, trân trọng những sự đồng hành và giúp đỡ để tiếp tục

vững bước hơn trên con đường học tập, nghiên cứu và công tác của mình.

Trân trọng cảm ơn./.

Hà Nội, ngày ..... tháng ….. năm 2025

Nghiên cứu sinh

Mai Thị Thanh Mai

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC ............. 8

BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN ......................... 8

1.1. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến thương mại hàng hoá .................. 9

1.2. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến số lượng hàng nông sản

xuất khẩu ....................................................................................................... 10

1.3. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến giá hàng nông sản xuất khẩu ....... 14

1.4. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội .......................... 15

1.5. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất khẩu nông sản theo nhóm

quốc gia ............................................................................................................................. 17

1.6. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản ... 18

1.7. Đánh giá tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu ................................. 20

1.7.1. Đánh giá tổng quan nghiên cứu ............................................................................. 20

1.7.2. Khoảng trống nghiên cứu ....................................................................................... 21

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................. 23

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIỆN PHÁP PHI THUẾ

QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NỒNG SẢN ............................................................ 24

2.1. Cơ sở lý luận về biện pháp phi thuế quan ................................................................ 24

2.1.1. Khái niệm về biện pháp phi thuế quan .................................................................. 24

2.1.2. Phân loại ................................................................................................................. 27

2.1.3. Quan niệm về các biện pháp SPS và TBT ............................................................ 32

2.2. Các phương pháp đo lường và đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế

quan .................................................................................................................................. 35

2.2.1. Phương pháp đo lường mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan ........ 35

2.2.2. Phương pháp định lượng sử dụng mô hình lực hấp dẫn ....................................... 37

2.2.3. Phương pháp tiếp cận về giá: ước lượng tương tương thuế quan giá trị .............. 39

2.3. Xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản ...................... 42

2.3.1. Quan niệm về hàng nông sản ................................................................................. 42

2.3.2. Quan niệm về xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông

sản ..................................................................................................................... 42

2.4. Lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ........ 50

2.4.1. Minh hoạ về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu ............... 50

2.4.2. Tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ...... 52

2.4.3. Tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản ...... 54

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................. 55

CHƯƠNG 3. KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 56

3.1. Quy trình nghiên cứu và khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế

quan đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU ..................................................... 56

3.1.1. Quy trình nghiên cứu ............................................................................................. 56

3.1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với xuất

khẩu nông sản Việt Nam sang EU ................................................................................... 57

3.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 62

3.2.1. Phương pháp định tính ........................................................................................... 62

3.2.2. Phương pháp kiểm đếm và tính toán các chỉ số đánh giá mức độ phổ biến của các

BPPTQ áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU ........................................... 63

3.2.3. Phương pháp định lượng: Mô hình lực hấp dẫn ................................................... 63

3.3. Dữ liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu ....................................................................... 67

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................. 70

CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI

THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG EU ............. 71

4.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU .......................................... 71

4.1.1. Kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng xuất khẩu .............................................. 71

4.1.2. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo thị trường .......................... 77

4.1.3. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo các mặt hàng ..................... 79

4.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông sản nhập

khẩu ......................................................................................................................... 101

4.2.1. Hệ thống quy định của EU về các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản nhập

khẩu ............................................................................................................. 101

4.2.2. Đánh giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng

nông sản nhập khẩu vào EU ........................................................................................... 111

4.3. Kết quả đánh giá tác động định tính thông qua thực trạng hàng hoá nông sản Việt

Nam bị EU cảnh báo do vi phạm các BPPTQ .............................................................. 123

4.4. Kết quả định lượng tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với xuất

khẩu nông sản Việt Nam ................................................................................................ 128

4.4.1. Kết quả tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với tổng thể xuất

khẩu nông sản Việt Nam ................................................................................................ 128

4.4.2. Kiểm định tác động của các BPPTQ đến các nhóm hàng nông sản .................. 138

4.5. Đánh giá chung về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản

Việt Nam ......................................................................................................................... 143

4.5.1. Tác động tích cực ................................................................................................. 143

4.5.2. Tác động tiêu cực ................................................................................................. 146

Tiểu kết chương 4 ........................................................................................................... 149

CHƯƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP .................................................................. 150

5.1. Xu hướng chính sách điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan của EU đối với hàng

nông sản nhập khẩu vào EU ........................................................................................... 150

5.2. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Liên minh châu Âu ............ 156

5.3. Kiến nghị các giải pháp ........................................................................................... 158

5.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước ................................................................................ 158

5.3.2. Giải pháp về phía Hiệp hội nông sản Việt Nam ................................................. 160

5.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp .......................................................................... 163

Tiểu kết chương 5 ........................................................................................................... 166

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 167

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ... 169

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 170

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa

1 Agreement on Agriculture Hiệp định về Nông nghiệp AoA

2 Ad Valorem Equivalent Thuế giá trị tương đương AVE

3 Coverage ratio Chỉ số bao phủ CR

4 European Community Cộng đồng châu Âu EC

5 European Union Liên minh Châu Âu EU

6 EVFTA European-Vietnam Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu Âu-Việt Nam

7 FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc

8 Fixed Effects Model Mô hình tác động cố định FEM

9 Frequency ratio Chỉ số tần suất xuất hiện FR

10 Gross Domestic Product Tổng sản phẩm trong nước GDP

11 Global Good Agricultural Practice GLOBAL GAP Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu

12 GMP Good Manufacturing Practice Thực hành sản xuất tốt

13 HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn

14 HS Harmonized Commodity Description and Coding System Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa

15 International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF

16 ISO International Organization for Standardization Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế

17 ITC International Trade Center Trung tâm Thương mại Quốc tế

18 Maximum Residue Level MRL Giới hạn tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật

19 Non-Tariff Barriers Rào cản phi thuế quan NTB

20 Non-Tariff Measures Biện pháp phi thuế quan NTM

21 OECD Organization for Economic Cooperation and Development Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

22 Ordinary Least Square OLS Phương Pháp Bình Phương Nhỏ Nhất

i

23 Prevalence ratio Chỉ số phổ biến PR

STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa

24 RASFF Rapid Alert System for Food and Feed Hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn nuôi

25 REACH Đăng ký, Đánh giá, Cấp phép và Hạn chế Hóa chất Registration, Evaluation, Authorisation, Restriction of Chemical substances

26 REM Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên

27 SITC Standard International Trade Classification Phân loại tiêu chuẩn thương mại quốc tế

28 SPS Sanitary and Phytosanitary Biện pháp kiểm dịch vệ sinh động thực vật

29 TBT Technical Barriers to Trade Hàng rào kỹ thuật trong thương mại

30 TRAINS Trade Analysis Information System Hệ thống thông tin và phân tích thương mại UNCTAD

31 UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển

32 VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

33 WB World Bank Ngân hàng Thế giới

34 WITS World Integrated Trade Solution Giải pháp thương mại tích hợp

35 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT

STT Ký hiệu Tiếng Anh Nguyên nghĩa

1 BPPTQ Biện pháp phi thuế quan

2 NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

3 RCPTQ Rào cản phi thuế quan

ii

4 XKNS Xuất khẩu nông sản

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Phân loại các biện pháp phi thuế quan theo UNCTAD ................................. 28

Bảng 2.2. Minh hoạ về cấu trúc cây phân loại các chương của UNCTAD ................... 31

Bảng 3.1. Thống kê các biến, nguồn dữ liệu và kỳ vọng dấu ......................................... 68

Bảng 4.1. Xếp hạng các đối tác thương mại nông sản chính của EU, giai đoạn 2021 -

2023 (%) ........................................................................................................................... 76

Bảng 4.2. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính,

2012 – 2023 (%) ............................................................................................................... 81

Bảng 4.3. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo mã HS 2 chữ số

(nghìn USD) ..................................................................................................................... 83

Bảng 4.4. Số lượng các loại BPPTQ mà EU áp dụng với hàng nông sản của Việt Nam,

phân loại theo mã BPPTQ .............................................................................................. 111

Bảng 4.5. Mức độ phổ biến của BPPTQ đối với hàng nông sản phân theo nhóm hàng tại

thị trường EU năm 2022 ................................................................................................. 117

Bảng 4.6.. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU

đối với nhóm hàng động vật chi tiết theo mã BPPTQ .................................................. 120

Bảng 4.7. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU

đối với nhóm hàng thực vật chi tiết theo mã BPPTQ ................................................... 121

Bảng 4.8. Tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất tác động thương mại của các BPPTQ của EU

đối với nhóm hàng thực phẩm chế biến chi tiết theo mã BPPTQ ................................ 122

Bảng 4.9. Thống kê mô tả các biến ............................................................................... 129

Bảng 4.10. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS và TBT là thông

báo hàng năm .................................................................................................................. 130

Bảng 4.11. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS, TBT là số lượng

thông báo cộng dồn luỹ kế theo năm ............................................................................. 131

Bảng 4.12. Phân tích nhân tử phóng đại phương sai VIF ............................................. 134

Bảng 4.13. Kết quả ước lượng của mô hình đối với tổng giá trị nông sản Việt Nam xuất

khẩu sang EU .................................................................................................................. 135

Bảng 4.14. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất

khẩu Nhóm 1 – Động vật và sản phẩm từ động vật của Việt Nam sang EU ............... 139

Bảng 4.15. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất

khẩu Nhóm 2 – Thực vật và sản phẩm từ thực vật của Việt Nam sang EU ................ 140

Bảng 4.16. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị xuất

iii

khẩu Nhóm 3 – Hàng nông sản, thực phẩm chế biến của Việt Nam sang EU ............ 141

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu ........................................................... 45

Hình 2.2. Cung và cầu thay đổi do thực hiện các BPPTQ (Nội địa hoá chi phi phí

thiệt hại) .................................................................................................................... 52

Hình 2.3. Cung và cầu thay đổi do thực hiện các BPPTQ (Áp dụng tiêu chuẩn chung) . 52

Hình 3.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu ................................................................ 56

Hình 3.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với

hàng nông sản xuất khẩu ........................................................................................... 58

Hình 4.1. Cán cân thương mại nông sản Việt Nam – EU (triệu USD) ..................... 71

Hình 4.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU so với kim ngạch sang

toàn thế giới (triệu USD) .......................................................................................... 73

Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU (%) ....... 74

Hình 4.4. Tỷ trọng thị phần của 6 đối tác lớn nhất nhập khẩu nông sản Việt Nam, giai

đoạn 2012 – 2023 (%) ............................................................................................... 75

Hình 4.5. Diễn tiến xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo quốc gia, 2012

– 2022 (nghìn USD) .................................................................................................. 77

Hình 4.6. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo quốc gia 2012 (%) ...... 78

Hình 4.7. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo quốc gia 2023(%) 78

Hình 4.8. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm ngành

hàng chính, 2012-2023 (triệu USD) ......................................................................... 79

Hình 4.9. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính

năm 2012 (%) ............................................................................................................ 80

Hình 4.10. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính

năm 2023 (%) ............................................................................................................ 80

Hình 4.11. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng chính

năm 2023 (%) ............................................................................................................ 80

Hình 4.12. Diễn tiến xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sang

EU, 2012 – 2023 (nghìn USD) ................................................................................. 82

Hình 4.13. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm

2012 (%) ................................................................................................................... 84

Hình 4.14. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm

iv

2023 (%) ................................................................................................................... 84

Hình 4.15: Tỷ trọng cà phê trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang

EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%) ................................................................................ 85

Hình 4.16: Diễn tiến xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU theo phân loại mã hàng HS

6 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................... 87

Hình 4.17: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu cà phê (HS 090111) Việt Nam sang EU theo

thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ....................................................... 88

Hình 4.18: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hoa quả và các loại hạt của Việt Nam sang

EU theo mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................... 89

Hình 4.19: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt điều của Việt Nam sang EU theo thị

trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................................ 90

Hình 4.20: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu hạt điều (HS 080132) Việt Nam sang EU

theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................... 91

Hình 4.21: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU theo mã HS

4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................... 92

Hình 4.22: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU, giai

đoạn 2012 – 2023 (%) ............................................................................................... 93

Hình 4.23: Cơ cấu các đối tác nhập khẩu rau quả chính của Việt Nam năm ........... 94

2023 (%) ................................................................................................................... 94

Hình 4.24: Cơ cấu các thị trường nhập khẩu rau quả trong EU của Việt Nam năm

2023 (%) ................................................................................................................... 94

Hình 4.25: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam sang EU, giai đoạn

2012 – 2023 (nghìn USD) ......................................................................................... 95

Hình 4.26: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng của Việt Nam sang EU,

giai đoạn 2012 – 2023 (%) ........................................................................................ 96

Hình 4.27: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo thị trường trong EU của Việt

Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ............................................................... 97

Hình 4.28: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU, giai đoạn 2012

– 2023 (nghìn USD) .................................................................................................. 98

Hình 4.29: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU theo các thị

trường chính, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD) ................................................ 100

Hình 2.4. Sơ đồ các quy định liên quan Luật Thực phẩm chung của EU ............... 102

Hình 4.30. Số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và TBT

v

của EU, giai đoạn 2012 - 3/2023 ............................................................................ 114

Hình 4.31. Mức độ phổ biến của các BPPTQ đối với mặt hàng nông sản tại một số

quốc gia/khu vực trên thế giới ................................................................................ 116

Hình 4.32. Điểm chỉ số thịnh hành và số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt các BPPTQ

tại EU đối với các nhóm hàng nông sản ................................................................. 118

Hình 4.33. Số lượng thông báo từ RASFF về hàng nông sản nhập khẩu vào các nước

EU giai đoạn 2012 – 2022 ...................................................................................... 124

Hình 4.34. Thông báo từ hệ thống RASFF giai đoạn 2012 – 2022 phân theo quốc gia

thành viên EU đưa ra thông báo ............................................................................. 125

Hình 4.35. Số lượng lô hàng nông sản của Việt Nam bị cảnh báo từ hệ thống RASFF

giai đoạn 2012 – 2022 ............................................................................................. 127

Hình 5.1. Hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về các chính sách mới của EU

vi

(%) .......................................................................................................................... 163

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Biện pháp phi thuế quan (BPPTQ) là công cụ chính sách chủ chốt (bên cạnh

thuế quan) được các quốc gia sử dụng trong thương mại quốc tế. Kể từ những năm

1960, BPPTQ đã liên tục thay thế thuế quan như một vấn đề cốt lõi trong các chương

trình nghị sự, đặc biệt trên các bàn đàm phán thương mại; cho đến nay BPPTQ đã

được đưa lên vị trí hàng đầu trong các cuộc thảo luận về mô hình thương mại toàn

cầu bền vững trong thế kỷ 21. Sự chuyển dịch giữa các công cụ chính sách thể hiện

khi thuế suất đối với hàng hóa đã liên tục giảm trong bối cảnh tổ chức thương mại

thế giới (WTO) thực hiện quá trình tự do hóa thương mại, cùng với nhiều Hiệp định

thương mại tự do (FTA) được ký kết và thực thi nên việc áp dụng các BPPTQ thay

cho thuế quan đang là xu hướng của các quốc gia. Theo UNCTAD (2022), trên 70%

giá trị hàng hoá tham gia thương mại toàn cầu chịu ảnh hưởng của ít nhất một BPPTQ.

Từ khởi nguyên, việc áp dụng BPPTQ hướng tới các mục tiêu phi thương mại,

vì lợi ích của con người, vì các mục tiêu xã hội như bảo vệ sức khỏe con người, động

thực vật, bảo vệ môi trường, vì an ninh quốc gia,... Tuy nhiên, trước bối cảnh thế giới

với nhiều biến động khó lường và phức tạp như chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí

hậu, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay lại và trỗi dậy mạnh mẽ,… thì các quốc gia đã

và đang có xu hướng áp dụng các BPPTQ ngày càng dày đặc như một công cụ để bảo

hộ hàng hoá nội địa vì việc tuân thủ các BPPTQ làm tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu,

giảm sự cạnh tranh, ngăn chặn hàng hoá thâm nhập vào thị trường nội địa. Theo

UNCTAD (2019), BPPTQ có tác động làm tăng giá hàng hoá gấp 3 lần so với thuế

quan. Tuy nhiên, khi hàng hoá sản xuất tuân thủ tốt các BPPTQ cũng sẽ có thể tăng

nhu cầu nhập khẩu. Nếu như trước đây, thuế quan là công cụ duy nhất được WTO

công nhận, cho phép các quốc gia sử dụng một cách hợp pháp để bảo hộ nền sản xuất

trong nước (Salvatore, 2019) thì hiện nay BPPTQ đang dần thay thế thuế quan. Nếu như

thuế quan rất minh bạch, dễ dự đoán thì BPPTQ đã phát triển, biến tướng rất phức tạp,

khó thu thập, thiếu minh bạch do còn nhiều khó khăn trong quá trình thu thập (UNCTAD,

2022). Do đó, việc xác định BPPTQ có tác động như thế nào, tích cực hay tiêu cực đến

thương mại quốc tế thì vẫn là vấn đề rất cần tiếp tục được nghiên cứu.

Nông sản là mặt hàng chịu tác động lớn từ các BPPTQ. Theo UNCTAD (2021),

1

trong thời kỳ đại dịch Covid-19, hàng hoá nông sản là hàng hoá có số lượng lớn bị

áp đặt các BPPTQ lớn thứ hai (chỉ đứng sau mặt hàng vật tư, bảo hộ y tế), chiếm tới

16% tổng số sản phẩm trên toàn cầu chịu tác động gia tăng từ các BPPTQ. Tại Việt

Nam, nông sản mặc dù là mặt hàng có lợi thế so sánh nhưng luôn gặp phải các thách

thức lớn từ các BPPTQ đặc biệt là các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), và

biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS). Trong giai đoạn 10 năm,

số lượng hàng hoá nông sản của Việt Nam bị cảnh báo, cấm nhập khẩu vào các thị

trường đối tác chính là 5483 trường hợp, trong đó có 793 trường hợp tại EU. Nguyên

nhân chính khiến hàng nông sản Việt Nam bị từ chối là do doanh nghiệp không tuân

thủ các quy định về an toàn thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chất phụ

gia, chất gây ô nhiễm,… vượt mức quy định, hoặc vi phạm trong quá trình đóng gói,

ghi nhãn (Văn phòng SPS Việt Nam, 2022).

Hơn thế nữa, các quốc gia hiện nay thường xuyên thay đổi, ban hành mới hoặc

sửa đổi các quy định liên quan đến BPPTQ với nhiều loại biện pháp đa dạng khác

nhau. Điều đó khiến cho các quốc gia xuất khẩu nông sản (XKNS) như Việt Nam gặp

rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng được ngay lập tức các quy định mới. Theo Văn

phòng SPS Việt Nam, từ năm 2015 đến 2019, đã có hơn 2.200 thông báo thay đổi

quy định SPS từ 18 thị trường đối tác chính. Số lượng thông báo đã tăng dần qua các

năm, từ 219 thông báo vào năm 2015 lên đến 579 thông báo vào năm 2019. Trong giai

đoạn 2020–2023, có 498 thông báo mới được ghi nhận, trong đó EU là thị trường có

số lượng thông báo cao nhất với 84 thông báo, theo sau là Nhật Bản (82), Canada (59),

Mỹ (51), Hàn Quốc (30). Do đó, việc hệ thống hóa và nghiên cứu tác động của các

BPPTQ áp dụng với nông sản xuất khẩu của Việt Nam chưa bao giờ trở nên cấp thiết

như hiện nay.

Liên minh châu Âu (EU) là đối tác nhập khẩu đứng thứ 3 của nông sản Việt

Nam. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8

năm 2020 đã đưa đến hàng loạt các cơ hội cho hàng nông sản Việt Nam, đặc biệt là

từ các cam kết cắt giảm thuế quan về 0% cho 74,6% số dòng thuế trong năm đầu tiên

và 97,3% dòng thuế sau 10 năm. Mặc dù vậy, EU lại luôn là một trong những thị

trường được đánh giá là khó tính nhất với những yêu cầu liên quan các BPPTQ cực

kỳ nghiêm ngặt, chặt chẽ. Hiện nay, EU đang có xu hướng gia tăng việc áp dụng các

biện pháp kỹ thuật khi giảm thuế quan. Trong giai đoạn từ 2012 - 2023, số lượng

thông báo liên quan đến việc thay đổi quy định về các BPPTQ của EU đạt 922 thông

2

báo về SPS và 1067 thông báo về TBT, nghĩa là trung bình mỗi năm EU có thêm

khoảng 90 thông báo mới về SPS và hơn 100 thông báo về TBT (I-TIP - WTO, 2023).

Do đó, XKNS Việt Nam sang EU đã, đang và sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn, đặc

biệt là việc đáp ứng với các quy định liên quan các BPPTQ của EU sẽ gia tăng chi

phí cho doanh nghiệp, dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh. Vì vậy, việc xác định và

phân tích đánh giá tác động của các BPPTQ theo quy định của EU đối với XKNS

Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.

Hơn thế nữa, hiện nay, EU đang đi đầu trong việc triển khai các chính sách mới

nhằm hướng tới phát triển bền vững. EU đã ban hành Thoả thuận xanh châu Âu 2019

với một hệ thống các định hướng chính sách nhắm đến mục tiêu giúp EU trở thành nền

kinh tế trung hoà khí hậu vào năm 2045. EU công bố chính sách thương mại 2021 nhằm

định hướng thương mại đến năm 2030, theo đó, mở rộng cánh cửa hợp tác với các đối

tác ngoài khối nhưng thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh, bền vững. Theo

đó, các BPPTQ của EU sẽ được định hình lại theo hướng xanh hoá, thay đổi, bổ sung

theo hướng siết chặt hơn, đặc biệt là các tiêu chuẩn TBT và SPS để nhằm đạt được các

mục tiêu trong các bộ chính sách triển khai theo Thoả thuận xanh châu Âu.

Từ các lý do về mặt lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, việc nghiên cứu

toàn diện các BPPTQ và tác động của nhóm biện pháp chính sách này đến XKNS

nhằm củng cố các luận cứ khoa học và đánh giá được thực trạng tác động đến XKNS

của Việt Nam; từ đó đưa ra các kiến nghị chính sách giúp thúc đẩy XKNS Việt Nam

sang thị trường EU, là một công việc thực sự cần thiết và cấp thiết. Do đó, nghiên

cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Tác động của các biện pháp phi thuế quan của Liên

minh châu Âu đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam” cho luận án tiến sỹ chuyên

ngành Kinh tế quốc tế của mình.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ, câu hỏi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu hướng tới mục tiêu chủ đạo là đánh giá tác động của các BPPTQ

mà EU áp dụng đối với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU.

Từ đó, có thể đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy XKNS Việt Nam sang EU.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục tiêu chung, nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Hệ thống hoá các cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của các BPPTQ

3

đối với XKNS;

- Phân tích, đánh giá thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn

2012 – 2023;

- Hệ thống hoá và đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ của EU đối với nông

sản nhập khẩu vào EU;

- Đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS Việt Nam;

- Đề xuất các giải pháp để giải quyết các tác động do các BPPTQ mang lại nhằm

thúc đẩy XKNS Việt Nam sang EU.

2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Dựa trên nhiệm vụ nghiên cứu, luận án hướng tới trả lời các câu hỏi nghiên cứu:

Thứ nhất, việc tác động của các BPPTQ đối với XKNS được dựa trên hệ thống

cơ sở lý luận và thực tiễn như thế nào?

Thứ hai, XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023 ra sao?

Thứ ba, các BPPTQ của EU đang áp dụng với hàng nông sản xuất khẩu của Việt

Nam gồm các biện pháp nào với mức độ áp dụng ra sao?

Thứ tư, các BPPTQ của EU có tác động như thế nào đối với XKNS Việt Nam?

Thứ năm, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp gì để giảm thiểu các tác

động tiêu cực hoặc/và phát huy các tác động tích cực đến từ các BPPTQ của EU

nhằm tăng cường XKNS sang EU?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của các BPPTQ của EU đối với

XKNS Việt Nam sang thị trường EU.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung

+ Về phạm vi loại BPPTQ mà nghiên cứu tập trung đánh giá tác động là hai loại

BPPTQ điển hình là SPS và TBT. Đây là hai nhóm các biện pháp được áp dụng rộng rãi

nhất trong tổng các loại BPPTQ được áp dụng. Đặc biệt, thông qua thu thập dữ liệu, tác

giả nhận thấy đối với mặt hàng nông sản nhập khẩu vào EU thì SPS và TBT chiếm trên

90% so với tổng số BPPTQ được áp dụng. Ngoài ra, theo dữ liệu từ I-TIP của WTO, đối

với hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam thì EU chủ yếu áp dụng hai loại biện pháp

này, chưa có ghi nhận các biên pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, tự vệ

4

hay tự vệ đặc biệt,...

+ Phạm vi nội dung về hàng nông sản: Quan niệm hàng nông sản được luận án

sử dụng là theo quan niệm của Hiệp định nông nghiệp của WTO; theo đó, nông sản

là các mặt hàng thuộc HS01 đến HS24 (trừ HS 03 và một phần HS16 gồm HS1603,

HS1604 và HS1605 là mặt hàng thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản) theo Bảng hệ

thống hài hoà mã hoá sản phẩm HS2017 (Harmonized Commodity Description and

Coding System 2017). Bên cạnh việc phân tích, đánh giá tổng quát về tổng các mặt

hàng nông sản nói chung, nghiên cứu còn đi sâu phân tích thực trạng và đánh giá tác

động dựa trên phân loại các mặt hàng nông sản thành 03 nhóm hàng chính gồm:

- Nhóm 1: Nhóm hàng động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ

động vật (HS 01 – 05, trừ HS 03);

- Nhóm 2: Nhóm hàng thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật (HS

06 - 14);

- Nhóm 3: Nhóm hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS

15 – 24, trừ HS1604, HS1605).

Trong đó, thực trạng XKNS được phân tích chi tiết với 05 mặt hàng nông sản

chủ lực xuất khẩu sang EU bao gồm cà phê, hạt điều, hạt tiêu, gạo và rau quả.

Luận án thống nhất theo quan điểm hàng nông sản của WTO chứ không phải

theo quan niệm về hàng nông sản của Việt Nam (gồm cả ngành thuỷ sản và lâm

nghiệp) vì Việt Nam khi thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế thì cần tuân thủ

theo các quy định chung của quốc tế. Đặc biệt, trong trường hợp này, Việt Nam

XKNS sang EU nên việc áp dụng thống nhất theo WTO sẽ thuận lợi trong quá trình

nghiên cứu, tìm kiếm, phân tích dữ liệu, giúp kết quả đánh giá tác động sẽ phù hợp

và chính xác hơn.

- Phạm vi thời gian: Luận án tiến hành phân tích, đánh giá từ năm 2012 đến

2023. Trong đó, đối với các phân tích, đánh giá liên quan đến thực trạng XKNS và

thực trạng các BPPTQ mà EU đang áp dụng thì sẽ được nghiên cứu từ 2012 đến 2023.

Còn đối với phân tích, đánh giá tác động dựa trên mô hình kinh tế lượng, thời gian

nghiên cứu sẽ là 2012 – 2022 do các dữ liệu đưa vào mô hình mới được các nguồn

dữ liệu cập nhật đến 2022. Tác giả lựa chọn phạm vi thời gian từ năm 2012 vì đây là

một năm bước ngoặt trong quan quan hệ giữa Việt Nam và EU khi hai bên đã ký kết

Hiệp định hợp tác và đối tác toàn diện (PCA). Hiệp định này tăng cường các lĩnh vực

hợp tác của hai bên, đặc biệt, tạo tiền đề quan trọng để Việt Nam và EU tiến hành

đàm phán EVFTA. Năm 2022 - 2023 là giai đoạn cập nhật nhất khi mà EVFTA đã

5

có hiệu lực được 02 – 03 năm. Như vậy, phạm vi thời gian nghiên cứu bao gồm cả

giai đoạn trước và sau khi EVFTA có hiệu lực; điều này sẽ giúp cho các phân tích

đánh giá được bao quát và cập nhật.

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tập trung vào thị trường EU gồm 27 quốc

gia thành viên, và Việt Nam.

4. Những đóng góp mới của nghiên cứu

Luận án đã đem đến các đóng góp mới nhất định cả về lý luận và thực tiễn.

Về mặt lý luận, nghiên cứu đã hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận

về tác động của các BPPTQ, đặc biệt đối với XKNS trong bối cảnh thương mại quốc

tế với nhiều biến động do tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới có nhiều

biến động.

Luận án đã tiếp cận và sử dụng kết hợp đa dạng các phương pháp gồm kiểm đếm,

tính toán chỉ số, và mô hình lực hấp dẫn và các phương pháp định tính để đánh giá

tác động của BPPTQ một cách toàn diện và khách quan, giúp làm rõ các khía cạnh

khác nhau của vấn đề nghiên cứu.

Về mặt thực tiễn, luận án đã hệ thống hoá các quy định về các BPPTQ của EU áp

dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU. Trên cơ sở đó đánh giá được mức độ áp

dụng các BPPTQ của EU đối với nông sản nhập khẩu vào EU thông qua các chỉ số về

mức độ bao phủ, tần suất áp dụng các BPPTQ. Đồng thời, luận án đã cập nhật đánh giá

thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023. Thực trạng hàng

hoá nông sản Việt Nam bị cảnh báo do vi phạm các BPPTQ của EU trong giai đoạn

2012 – 2023 cũng đã được đánh giá, từ đó, đưa ra được các hạn chế của doanh nghiệp

Việt Nam trong việc tuân thủ các BPPTQ của EU.

Luận án đã phân tích và đánh giá chi tiết các tác động của các BPPTQ (SPS và

TBT) đối với XKNS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy các BPPTQ của EU

có cả tác động tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực có được là do nhờ tuân thủ các

BPPTQ, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế mà chất lượng sản phẩm nông sản được

nâng cao, tạo được niềm tin cho người tiêu dùng EU giúp cho doanh nghiệp giảm

thiểu được các chi phí thâm nhập thị trường, tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản Việt

Nam, tù đó thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu của EU. Tuy nhiên, các tác động tiêu cực vẫn

còn tồn tại thể hiện qua số lượng các lô hàng vi phạm bị cảnh báo, cấm nhập khẩu.

Luận án đã cập nhật các xu hướng mới trong chính sách thương mại của EU,

6

như Thỏa thuận Xanh Châu Âu gồm một hệ thống các chiến lược và Chiến lược

thương mại, từ đó đưa ra các dự báo và đề xuất phù hợp. Trên cơ sở đó, luận án đã

cung cấp các giải pháp cụ thể để Nhà nước, các Hiệp hội cùng các doanh nghiệp Việt

Nam có thể thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật

và kiểm dịch của EU, các đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực tuân thủ các

BPPTQ của EU cho doanh doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội từ các

chính sách mới của EU và xuất khẩu bền vững nông sản sang EU.

5. Cấu trúc luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 05

chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về tác động của các biện pháp phi thuế quan

đến xuất khẩu nông sản.

Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất

khẩu nông sản.

Chương 3: Khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.

Chương 4: Thực trạng và tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu

nông sản Việt Nam sang EU.

7

Chương 5: Kiến nghị giải pháp.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC

BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN

Chủ đề nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất nhập khẩu hàng hoá

quốc tế nói chung là một chủ đề không mới. Rất nhiều các nhà khoa học đã thực

hiện các nghiên cứu từ giữa thế kỉ XIX. Chủ đề này đặc biệt được quan tâm hơn

từ cuối thập niên 1970 đến nay. Các BPPTQ đã trở thành một vấn đề phức tạp

trong thương mại quốc tế do những tác động của các BPPTQ rất rộng và khó định

lượng. Sự phức tạp của các BPPTQ đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu thực hiện,

đánh giá với nhiều hướng tác động đến thương mại quốc tế nói chung và đến xuất

khẩu nông nghiệp nói riêng.

Với tính chất lịch sử và tính phức tạp của các BPPTQ thì việc tổng quan nghiên

cứu một cách toàn diện và rõ ràng không phải là một công việc dễ dàng. Các nghiên

cứu thực nghiệm về tác động của BPPTQ đến thương mại thường được thực hiện một

cách đa chiều, bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau như tác động của một hoặc các

BPPTQ đến xuất khẩu hay nhập khẩu một sản phẩm của một quốc gia sang một quốc

gia, vùng lãnh thổ trong những thời kỳ nhất định. Nghĩa là các nghiên cứu thường đi

theo cấu trúc nghiên cứu về các BPPTQ/quốc gia/sản phẩm/thời kỳ (Ronen, 2017).

Vì vậy, khi thực hiện phần tổng quan nghiên cứu, việc phân nhóm các nghiên cứu để

trả lời hết các câu hỏi như nghiên cứu về BPPTQ nào? BPPTQT tác động đến hoạt

động nào? đối với sản phẩm hay quốc gia nào?; hay phương pháp nghiên cứu nào

được sử dụng để đánh giá tác động?,… là dễ dẫn đến việc tổng quan chồng chéo ở

một mức độ đáng kể.

Do đó, trong phạm vi luận án, việc phân chia các nhóm chỉ mang tính chất tương

đối, tiêu chí tổng quan dựa trên các đối tượng/kênh chịu tác động của BPPTQ để

nhằm đưa ra một bức tranh tổng thể các khía cạnh nghiên cứu, các nghiên cứu đã

được nhắc trong nhóm trước sẽ không được nhắc đến trong nhóm sau dù có nội dung

thuộc nhóm để tránh sự trùng lặp. Sau cùng, tác giả sẽ tổng hợp các nghiên cứu vào

các bảng phân loại dựa trên hai hướng tác động chính của các BPPTQ nhằm nhấn

mạnh vào việc làm nổi bật các phát hiện chính của nghiên cứu.

Tác giả thực hiện tổng quan các nghiên cứu về tác động của BPPTQ đến XKNS

thông qua việc phân chia tổng quan thành các nhóm gồm các nghiên cứu về tác động

8

của BPPTQ đến: (i) thương mại hàng hoá; (ii) đến số lượng hàng nông sản xuất khẩu;

(iii) đến giá hàng nông sản xuất khẩu; (iv) đến phúc lợi xã hội;v(v) đến XKNS theo

nhóm quốc gia (vi) Tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS.

1.1. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến thương mại hàng hoá

Tác động của các BPPTQ đối với thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu

hàng hoá nói riêng mang tính đa chiều, có ảnh hưởng khác nhau đến các ngành/mặt

hàng và các quốc gia, thường đem lại cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, tùy

thuộc vào bối cảnh và các biện pháp cụ thể liên quan. Các nghiên cứu cho thấy trong

khi một số BPPTQ có thể thúc đẩy thương mại bằng cách đảm bảo chất lượng và an

toàn, thì những biện pháp khác lại áp đặt chi phí tuân thủ đáng kể, gây cản trở hiệu

quả xuất khẩu.

Một số nghiên cứu cho rằng các BPPTQ cản trở thương mại (Peterson và cộng

sự, 2013; Dal Bianco và cộng sự, 2016), trong khi những nghiên cứu khác kết luận

rằng các BPPTQ thúc đẩy thương mại (Cadot và cộng sự (2018), Ronen (2017)), và

nhiều nghiên cứu lại chỉ ra rằng các BPPTQ có tác động hỗn hợp đối với thương mại

(Xiong & Beghin, 2011; Santeramo và cộng sự (2019). Sự đa dạng này có thể được

giải thích bởi các đặc điểm của các nghiên cứu thực nghiệm, vốn khác nhau về thiết

kế và phương pháp.

Chỉ một số ít nghiên cứu cung cấp đánh giá tổng quan về tác động của NTMs

đối với thương mại như nghiên cứu của Hoeckman và Nicita (2011) cho rằng các

BPPTQ là các yếu tố cản trở lớn đối với thương mại các sản phẩm nông sản thực

phẩm. Còn lại, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều mang tính cục bộ và tập trung

vào các trường hợp cụ thể về từng BPPTQ, sản phẩm hoặc quốc gia.

Các loại BPPTQ khác nhau có thể dẫn đến các kết quả thực nghiệm khác nhau.

Các biện pháp can thiệp khác nhau có thể có tác động khác nhau đối với thương mại

(Schlueter và cộng sự, 2009). Hơn nữa, mức độ chi tiết của các BPPTQ được nghiên

cứu càng thấp, các hàm ý chính sách cho các vấn đề cụ thể càng rõ ràng hơn (Li và

Beghin, 2012). Theo đó, các biện pháp TBT có xu hướng trở thành chất xúc tác cho

thương mại (Frahan và Vancauteren, 2006), trong khi các biện pháp SPS lại có tác

động hỗn hợp (Schlueter và cộng sự, 2009; Crivelli và Gröschl, 2016). Trong đó, các

quy định SPS về mức dư lượng tối đa (MRLs) thường có xu hướng như rào cản đối

với thương mại (Otsuki và cộng sự, 2001a, b; Henson và Loader, 2001, Disdier và

9

cộng sự, 2008).

Tác động của các BPPTQ cũng có thể mang tính đặc thù theo ngành và sản

phẩm. các BPPTQ có khả năng cản trở thương mại đối với các mặt hàng thuỷ hải sản

(Anders và Caswell, 2009), các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, trái cây và rau

củ, ngũ cốc và hạt có dầu (Otsuki và cộng sự, 2001a, b; Xiong & Beghin, 2012 ;

Drogué và DeMaria, 2012). Ngược lại, thương mại các loại chất béo và dầu dường

như không bị ảnh hưởng bởi các chính sách của các quốc gia nhập khẩu (Xiong và

Beghin, 2011).

Các BPPTQ cũng có tác động khác nhau đối với dòng thương mại nhập khẩu

hay xuất khẩu. Nguyễn Bích Ngọc (2020), thông qua việc áp dụng mô hình trọng lực,

đã đánh giá tác động của chính sách phi thuế quan của Việt Nam đối với hàng nông

sản nhập khẩu từ 2007 đến 2017. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong khi SPS có ảnh

hưởng tích cực đến khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam thì TBT chưa thể hiện tác

động cụ thể, rõ ràng. Mặc dù các doanh nghiệp phải chi trả chi phí cố định và chi phí

biến đổi cao hơn do đáp ứng các biện pháp nhưng mức độ tác động còn rất nhỏ so

với các yếu tố còn lại.

1.2. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến số lượng hàng nông sản

xuất khẩu

Các BPPTQ có thể gây tác động cản trở, thúc đẩy hoặc có tác động hỗn hợp

thương mại hàng hoá nông sản thông qua số lượng, kim ngạch xuất khẩu tăng lên hay

giảm xuống. Tác động tích cực, tiêu cực hay tác động hỗn hợp còn tuỳ thuộc vào các

trường hợp cụ thể (Grubler & Reiter, 2021).

Về hướng tác động tiêu cực, Henn và McDonald (2011) đã sử dụng phân tích

cấp độ sản phẩm và nhận thấy rằng các biện pháp hậu biên giới, bao gồm cả BPPTQ

được thực hiện trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã kiến cho dòng

chảy thương mại bị giảm 7%. Trong khi đó, Orden (2013) cũng tìm thấy bằng chứng

cho thấy BPPTQ có thể dẫn đến các tác động chuyển hướng thương mại vì BPPTQ

nghiêm ngặt hơn sẽ khiến các nhà xuất khẩu tìm kiếm thị trường mới với BPPTQ ít

nghiêm ngặt hơn. Tương tự, Fontagné và cộng sự (2005) nhận thấy các biện pháp

SPS hay TBT tác động tiêu cực đến xuất khẩu song phương ở các quốc gia, đặc biệt

là đối với các sản phẩm nông nghiệp.

Melo và Solleder (2020) lại nhận thấy việc chi phí để đáp ứng và tuân thủ BPPTQ

10

quá cao trong nhiều trường hợp và mặc dù nhu cầu tiêu dùng gia tăng nhưng cũng

không thể bù đắp những tác động tăng chi phí đó; lúc này BPPTQ lại trở thành các rào

cản phi thuế quan, tác động tiêu cực đến lượng hàng hoá xuất khẩu.

Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng BPPTQ gây tác động cản trở

xuất khẩu của Việt Nam như các nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Hiền và cộng sự

(2014), Nguyễn Anh Thu, Nguyễn Thị Minh Phương (2015), Nguyễn Anh Thu

(2020), Nguyễn Bích Thuỷ (2020),… đã sử dụng các đánh giá, phân tích định tính số

liệu đã kết luận rằng các nước nhập khẩu áp dụng các BPPTQ nhằm mục đích hạn

chế xuất khẩu, từ đó, tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thương (2018), Đoàn Ngọc Thắng

và Lê Thị An (2019), Nguyễn Bích Ngọc (2020), Lê Thị Việt Nga và cộng sự (2023),

Nguyễn Thị Thu Hiền (2022),… bằng việc sử dụng mô hình lực hấp dẫn đã đánh giá

tác động của các BPPTQ đối với XKNS Việt Nam sang các quốc gia đối tác. Nguyễn

Thị Thu Thương (2018) đã đánh giá tác động của các biện pháp SPS đến xuất khẩu

gạo của Việt Nam sang 20 nước đối tác nhập khẩu chính từ 2000 đến 2015 với kết

luận rằng các biện pháp SPS đã tác động lớn tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trong

khi đó, Đoàn Ngọc Thắng và Lê Thị An (2019) đã đánh giá tác động của các BPPTQ

tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối với 28 nước đối tác thương mại lớn trong

giai đoạn 1999-2017. Các BPPTQ được đo lường thông qua ba chỉ số gồm tỷ lệ bao

phủ, mức độ áp dụng thường xuyên và điểm thịnh hành của các BPPTQ. Nghiên cứu

chỉ ra rằng các BPPTQ đã thể hiện tác động tiêu cực tới xuất khẩu của Việt Nam hơn

cả tác động của thuế quan do quá trình cắt giảm thuế quan đã bắt đầu sau khi Việt

Nam gia nhập vào các FTA.

Tương tự, Lê Thị Việt Nga và cộng sự (2023) bằng phương pháp mô hình

trọng lực với ước lượng PPLM, đã thực hiện đánh giá tác động của các BPPTQ đến

xuất khẩu mặt hàng rau quả, gạo, cà phê và thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2016-

2021 sang EU, Mỹ Trung Quốc, Nhật Bản. Kết quả của mô hình cho thấy các BPPTQ

có mức độ tác động khác nhau đối với từng nhóm hàng hóa. Nhưng nhìn chung, các

BPPTQ của các thị trường đều có tác động tiêu cực đến xuất khẩu các mặt hàng nông

sản chủ lực của Việt Nam.

Ngược lại, các BPPTQ có thể tạo thuận lợi cho thương mại nhờ việc đáp ứng

được sự hài hoà trong các quy định, nâng cao chất lượng, giúp người tiêu dùng tin

tưởng hơn từ đó dẫn đến người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nhiều hơn.

11

Trong trường hợp này, các chi phi mà doanh nghiệp phải chi trả để đáp ứng, tuân thủ

các quy định của BPPTQ sẽ có thể được bù đắp bởi nguồn thu tăng nhờ nhu cầu tiêu

dùng tăng lên của sản phẩm đó. Nghiên cứu của Cadot và cộng sự (2018) cho thấy

hiệu quả đáng kể trong việc tăng nhu cầu tiêu thụ của các BPPTQ, điều đó có nghĩa

là BPPTQ có thể được sử dụng để sửa chữa các thất bại thị trường hiện tại.

Tương tự, Ronen (2017) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về mức độ ảnh

hưởng của các BPPTQ đến nhập khẩu dầu ô liu từ năm 2002 đến năm 2014. Kết quả

chỉ ra rằng mặc dù thuế quan vẫn là một rào cản nghiêm ngặt nhưng hầu hết các

BPPTQ đều có tác động tích cực đến nhập khẩu thay vì tăng cường các biện pháp hạn

chế. Nghiên cứu khẳng định rằng phần lớn BPPTQ đáp ứng nhu cầu của người tiêu

dùng về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cao hơn và bảo vệ sức khỏe con người,

đồng thời tăng cường thông tin sẵn có và tính minh bạch. Điều đó dẫn đến việc mở

rộng quy mô nhập khẩu các sản phẩm dầu ô liu (Ronen, 2017).

Đồng thời, tác động hỗn hợp của các BPPTQ đến lượng hàng nông sản xuất

khẩu cũng được chỉ ra trong các nghiên cứu như Disdier và cộng sự (2008) chỉ ra rằng

các BPPTQ gây ra cả tác động tích cực và tiêu cực đối với thương mại khi đánh giá

tác động ở cấp ngành hay Santeramo và cộng sự (2019) đã chỉ ra rằng BPPTQ có thể

là tạo thuận lợi hoặc là rào cản của thương mại hàng hoá nông sản.

Trong khi đó, Dolabella (2018) cho rằng các biện pháp TBT dường như hạn chế

thương mại hơn các biện pháp SPS: biện pháp TBT bổ sung có liên quan đến việc

giảm 1,95% thương mại trong khi SPS mới có thể đẩy nhanh thương mại 1,42%. Bao

& Qiu (2010) đã sử dụng mô hình trọng lực để đánh giá tác động của BPPTQ đối với

việc nhập khẩu nông sản của Trung Quốc tại HS2 từ 43 quốc gia khác, nhận thấy

rằng mức tăng TBT 1 đơn vị sẽ làm giảm nhập khẩu nông nghiệp khoảng 0,8%.

Kareem và Rau (2018) đã áp dụng mô hình của Helpman, Melitz và Rubinstein

để ước tính các yếu tố quyết định thương mại song phương xuất khẩu trái cây và rau

quả của châu Phi sang EU. Nghiên cứu cho thấy cả hai yêu cầu SPS và TBT đều gây

cản trở thương mại, tức là không khuyến khích xuất khẩu rau quả phát hiện ra rằng

việc tăng 1% các quy định an toàn thực phẩm dẫn đến giảm 0,6% xuất khẩu rau (HS2)

và 4,34% xuất khẩu trái cây (HS2). Tuy nhiên, khi sử dụng cùng một mô hình cho

xuất khẩu chuối và cà chua tại HS06, các tác giả nhận thấy rằng việc tăng 1% các

biện pháp kỹ thuật kích thích xuất khẩu chuối 7% nhưng giảm xuất khẩu cà chua

0,4%. Nói cách khác, rõ ràng là tác động của BPPTQ là không đồng nhất, có nhiều

12

khả năng cụ thể theo ngành và cụ thể theo biện pháp.

Các loại BPPTQ khác nhau, đặc biệt là SPS và TBT, có nhiều khả năng có tác

động khác nhau đối với xuất khẩu và nhập khẩu. Hướng của hiệu ứng cũng phụ thuộc

vào tính đặc hiệu của sản phẩm. Đặc biệt, TBT có thể hạn chế thương mại ở cấp độ

HS2 nhưng chia thành cấp độ phụ, các hiệu ứng không đồng nhất: hạn chế thương

mại đối với một số sản phẩm nhưng tăng cường thương mại cho các sản phẩm khác.

Santeramo và cộng sự (2019) đã sử dụng công cụ ước tính PPML để đánh giá

mức độ ảnh hưởng của thương mại rượu vang thế giới cụ thể đến nhập khẩu rượu

vang toàn cầu bằng mô hình trọng lực. Dữ liệu từ 24 nhà nhập khẩu rượu vang trên

thế giới, chủ yếu là các nước phát triển (chiếm hơn 90% tổng xuất khẩu rượu vang

thế giới), cho thấy các BPPTQ cụ thể của quốc gia, bao gồm SPS và các biện pháp

liên quan đến xuất khẩu, có xu hướng tạo thuận lợi cho thương mại trong khi TBT

cản trở thương mại trong một số lĩnh vực rượu vang.

Xiong và Beghin (2011) sử dụng mô hình trọng lực truyền thống ước tính tác

động ròng của các SPS và TBT đối với đối với thương mại nông nghiệp giữa các

nước OECD vào năm 2004. Nghiên cứu cho thấy các biện pháp này thúc đẩy thúc

đẩy nhu cầu nhập khẩu thông qua công bố thông tin và cải thiện chất lượng nhưng lại

gây cản trở nguồn cung xuất khẩu của nước ngoài thông qua việc áp đặt chi phí tuân

thủ lớn, về lâu dài sẽ là động lực thúc đẩy xuất khẩu. Đồng thời, nghiên cứu phân

tách dữ liệu sâu hơn cho thấy sự tác động là không đồng nhất giữa các ngành, mặc

dù có chung các tác động tăng cường nhu cầu và cản trở nguồn cung. Hơn nữa, các

BPPTQ làm giảm khả năng thương mại các sản phẩm sữa nhưng lại giúp tăng khả

năng thương mại các chế phẩm ngũ cốc trong nội bộ OECD (Xiong & Beghin, 2011).

Nguyễn Thị Thu Hiền (2022) cũng sử dụng mô hình trọng lực để phân tích tác

động của các biện pháp SPS và TBT đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Nghiên cứu

đã chỉ ra rằng cho thấy trong khi các biện pháp TBT cản trở thì các biện pháp SPS lại

có tác động tích cực đến xuất khẩu cà phê nhưng mức độ tác động của các biện pháp

này là rất nhỏ; ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra GDP bình quân của nước nhập khẩu,

tỷ giá hối đoái, khoảng cách địa lý và các dạng thức của FTA có tác động đáng kể

đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam.

Như vậy, chiều hướng tác động còn phụ thuộc vào loại BPPTQ được áp dụng,

13

các ngành hàng và loại mặt hàng cụ thể cũng chịu các tác động khác nhau bởi BPPTQ.

1.3. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến giá hàng nông sản xuất khẩu

Bằng việc sử dụng phương pháp ước lượng tương đương thuế quan giá trị

(AVE), tác động của BPPTQ đã được định lượng. AVE là phương pháp đo lường

khác biệt giá giữa có và không có BPPTQ. Nhìn chung, hầu hết các BPPTQ có tác

động dương đến giá cả (nghĩa là làm tăng giá), trong đó các biện pháp SPS có tác

động tăng giá nhiều nhất trong các BPPTQ. Cadot và Gourdon (2014) đã sử dụng hồi

quy bảng điều khiển trên 1.260 cặp sản phẩm quốc gia, nhấn mạnh rằng SPS có AVE

cao nhất là 14%. Điều đó có nghĩa là SPS gây ra sự gia tăng 14% giá thực phẩm châu

Phi, đặc biệt là gạo, ngũ cốc, thịt và dầu ăn. Đối với các nước ASEAN, các biện pháp

SPS có xu hướng có tác dụng tăng giá đáng kể đối với động vật và rau quả (21 – 23%)

và đồ uống (59%) (Cadot và cộng sự, 2013). Cadot và cộng sự (2018) đã tính toán

AVE song phương, nghiên cứu nhận thấy rằng trên cùng một thị trường, tác động

của BPPTQ đối với giá trị thương mại song phương (và dòng chảy thương mại)

có thể khác nhau giữa các nước xuất khẩu do chi phí tuân thủ và các đặc điểm xuất

nhập khẩu, xuất khẩu khác (bao gồm khoảng cách quy định). AVEs của BPPTQ

do các nước OECD áp đặt cao hơn. AVE cao có nghĩa là các nhà sản xuất phải thay

đổi thiết kế sản phẩm hoặc cải thiện chất lượng để đáp ứng các BPPTQ. Điều này rất

đúng đối với các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp, đặc biệt là động vật sống – nguồn

rủi ro lớn đối với người tiêu dùng.

Tác động cản trở thương mại của các BPPTQ và tác động tăng giá của chúng

được xác nhận bởi các nghiên cứu khác nữa như Hoekman và Nicita (2011) cho rằng

việc giảm một nửa AVE của các BPPTQ sẽ làm tăng thương mại từ 2 đến 3%.

Andriamananjara và cộng sự (2004) đã nghiên cứu tác động giá của các BPPTQ theo

lĩnh vực. Theo đó, giá ở Hoa Kỳ, EU và Canada lần lượt cao hơn 15%, 66% và 25%

do chi phí tuân thủ các BPPTQ. Đối với mặt hàng da giày, các BPPTQ làm tăng giá

ở Nhật Bản lên 39% và ở Mexico lên 80% trong khi đó, đối với dầu thực vật và chất

béo, các BPPTQ làm tăng giá ở Mexico lên 30%, ở Đông Nam Á lên 49% và ở Nam

Phi lên 90%.

Gần đây, nghiên cứu của Baldwin và Evenett (2020) đã chỉ ra rằng các BPPTQ là

một trong những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng sự chậm trễ và chi phí thương

mại xuyên biên giới, can thiệp vào các hoạt động giao thương nông sản, thực phẩm

thiết yếu và các vấn đề an ninh lương thực và dinh dưỡng, thay vì hướng tới việc giải

14

quyết các vấn đề này trong bối cảnh Covid-19.

Nghiên cứu của Nguyen, Bouët và Traore (2021) thì chỉ ra rằng có 96% đến

100% hàng hoá từ nông nghiệp tại quốc gia ASEAN chịu tác động của ít nhất một

BPPTQ. Đặc biệt, ở các nước như Campuchia, Indonesia, Malaysia và Việt Nam thì

100% hàng hoá thực phẩm bị áp dụng ít nhất một BPPTQ . Nghiên cứu cũg chỉ ra

rằng các biện pháp SPS áp dụng với thương mại nông sản có giá trị AVE trung bình

tương đương 44,3% đối với các nước trong khối ASEAN, trong khi con số này là

48,3% đối với các quốc gia khác trên thế giới.

Như vậy, hầu hết các nghiên cứu với phương pháp ước lượng tương đương

thuế quan giá trị đã chỉ ra rằng, các BPPTQ làm tăng giá cả hàng hoá xuất khẩu do

các doanh nghiệp phải trả thêm các chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn mà các BPPTQ

của các nước nhập khẩu yêu cầu tuân thủ.

1.4. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội

Các BPPTQ có các tác động phức tạp hơn thuế quan. Ban đầu, BPPTQ được

áp dụng nhằm hỗ trợ các mục đích phi thương mại như bảo vệ sức khỏe con người,

bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc gia. Do đó, ngoài các tác động liên quan

đến số lượng hay giá cả hàng hoá xuất khẩu thì BPPTQ còn có các tác động liên quan

đến phúc lợi, xã hội, môi trường. Các BPPTQ có thể làm tăng phúc lợi quốc gia của

các nước nhập khẩu bằng cách cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm sự khác biệt về

thông tin, giảm tỷ lệ tử vong. Đặc biệt đối với các sản phẩm thực phẩm nông nghiệp

ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng, tác động của BPPTQ đối với

phúc lợi là đáng kể.

Tuy nhiên, phúc lợi là một thuật ngữ trừu tượng khiến cho việc đo lường hoặc

chọn đại diện cho phúc lợi là vô cùng khó khăn. Do đó, số lượng bài nghiên cứu về

các tác động phi thương mại của BPPTQ vẫn còn khiêm tốn. Các nghiên cứu tiêu

biểu đề cập đến tác động của các BPPTQ đến phúc lợi xã hội như Andriamananjara

và cộng sự (2004), Maertens và Swinnen (2009), Beghin và cộng sự (2012), Ronen

(2017), Porto (2018), Yew và cộng sự (2020), Kareem (2020).

Andriamananjara và cộng sự (2004) đã sử dụng một mô hình cân bằng chung

có thể tính toán để mô phỏng tác động đến phúc lợi của việc loại bỏ BPPTQ, chẳng

hạn như hạn ngạch nhập khẩu, lệnh cấm, giấy phép, trong số những người khác.

Nghiên cứu cho thấy lợi ích phúc lợi toàn cầu từ việc loại bỏ các BPPTQ này lên đến

90 – 92 tỷ USD, với tác động lớn nhất từ việc loại bỏ các BPPTQ trong lĩnh vực may

15

mặc (64 tỷ USD).

Beghin và cộng sự (2012) đã đánh giá tác động của BPPTQ, tức là SPS và

TBT, đối với thương mại và phúc lợi trong bối cảnh thị trường không hoàn hảo. Các

tác giả áp dụng khung chi phí-lợi ích để đánh giá tác động của các tiêu chuẩn quy

định tôm, nhận thấy rằng việc thực thi tiêu chuẩn an toàn thực phẩm có thể có lợi cho

xã hội đối với tình hình hiện tại, cả trong nước và quốc tế.

Ronen (2017) đã đánh giá tác động phúc lợi của các biện pháp TBT và SPS

đối với nhập khẩu dầu ô liu nguyên chất. Sử dụng mô hình kinh tế lượng, tác giả nhận

thấy rằng SPS liên quan đến yêu cầu MRL cải thiện phúc lợi, trong đó nó làm giảm

khả năng của các sản phẩm nguy hiểm và cải thiện chất lượng thông tin. Do đó, các

biện pháp liên quan đến MRL cải thiện đáng kể xuất khẩu bằng cách tăng nhu cầu

của người tiêu dùng đối với dầu ô liu nguyên chất.

Một số nghiên cứu đánh giá tác động của BPPTQ đối với việc làm và thu nhập

hộ gia đình. Các bài báo chủ yếu tiến hành trên các nước đang phát triển, nơi ngành

thực phẩm nông nghiệp chiếm một phần đáng kể trong tổng số lao động.

Maertens và Swinnen (2009) đã điều tra một khía cạnh về tác động phúc lợi của

BPPTQ, tức là nghèo đói. Các tác giả đã đánh giá tác động của các biện pháp của EU

(SPS) đối với việc làm rau quả tươi và nghèo đói ở Senegal. XKNS từ Senegal sang EU

đã tăng đáng kể từ năm 1991. Sử dụng các cuộc khảo sát và dữ liệu hộ gia đình của công

ty, kết quả cho thấy tác động tích cực của BPPTQ trong việc thay đổi cơ cấu lao động ở

Sénégal: một sự thay đổi đáng kể từ canh tác hợp đồng với các trang trại nhà nhỏ sang

các trang trại tích hợp quy mô lớn. Các hộ gia đình nghèo hơn không bị loại trừ khi tham

gia vào chuỗi cung ứng xuất khẩu tiêu chuẩn cao, cuối cùng chiếm tỷ lệ lợi nhuận cao

hơn từ thương mại. Thương mại nông nghiệp tiêu chuẩn cao mang lại lợi ích cho thu

nhập nông thôn và giảm nghèo ngay cả khi ngành xuất khẩu hợp nhất và xuất khẩu được

thực hiện trên các trang trại bất động sản công nghiệp.

Porto (2018) đã kiểm tra tác động của thị trường lao động của BPPTQ ở Mỹ

Latinh. Các tác giả mô phỏng hai kịch bản khi các quốc gia nâng BPPTQ của họ lên

các lĩnh vực thực phẩm và đồ uống, và phần còn lại của thế giới nâng BPPTQ lên các

lĩnh vực thực phẩm và đồ uống của đất nước. Nhìn chung, khi phần còn lại của thế

giới hạ thấp BPPTQ, thu nhập thực tế của người lao động trong lĩnh vực thực phẩm

và đồ uống ở các nước Mỹ Latinh tăng lên, nhưng sự gia tăng này không đồng nhất

16

giữa các quốc gia.

Yew và cộng sự (2020) đã sử dụng mô hình CGE để điều tra ảnh hưởng của

BPPTQ đối với việc làm trong lĩnh vực chế biến thực phẩm của Malaysia. Hai kịch

bản được tạo ra để đánh giá tác động của sự thay đổi BPPTQ: kịch bản đầu tiên là

giảm 10% AVE của BPPTQ (MS) và kịch bản thứ hai là giảm 50% AVE của BPPTQ

(AS). Nhìn chung, tác động của việc giảm BPPTQ là thuận lợi cho việc làm trong

ngắn hạn (tăng 1,1% việc làm theo MS và tăng 1,4% theo AS) và dài hạn (tăng 14%

việc làm cho cả hai kịch bản). Tuy nhiên, những thay đổi chính sách có lợi cho lao

động lành nghề và bán lành nghề trong khi làm tổn thương lao động không có tay

nghề. Hơn nữa, hiệu quả của việc giảm BPPTQ tùy thuộc vào việc sản phẩm được

xuất khẩu hay nhập khẩu chuyên sâu. Lợi ích sản xuất sản phẩm thâm dụng xuất khẩu

từ những thay đổi BPPTQ này trong khi sản xuất sản phẩm thâm dụng nhập khẩu bị

ảnh hưởng xấu.

Kareem (2020) đã đánh giá tác động giới của các quy định an toàn thực phẩm

của EU đối với thị trường lao động nông nghiệp từ năm 1995 đến 2012 ở 90 nước

đang phát triển. Phụ nữ chiếm phần lớn lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp

ở các nước đang phát triển. Phát hiện cho thấy việc làm của phụ nữ và việc áp dụng

các biện pháp SPS và TBT có mối tương quan nghịch: tăng 10% trong các biện pháp

của EU dẫn đến giảm 3,7% việc làm nữ trong các lĩnh vực nông nghiệp. Kết quả này

có thể được giải thích là sự phân biệt giới tính trong đào tạo với sở thích dành cho

nam giới. Ở các nước đang phát triển, nam giới có nhiều khả năng tiếp cận giáo dục

và đào tạo kỹ thuật cao hơn phụ nữ. Tuân thủ các tiêu chuẩn đó phù hợp hơn với nam

giới ở các nước đang phát triển, cuối cùng dẫn đến sự dư thừa của phụ nữ.

1.5. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến xuất khẩu nông sản theo

nhóm quốc gia

Nghiên cứu về tác động của BPPTQ theo nhóm nước có nghiên cứu của

Henson và Loader (2001), UNCTAD (2009), Ferro, Wilson và Otsuki (2013),

những tác động tiêu cực đối với thương mại của các quốc gia đang phát triển, nhưng vẫn có

khả năng tác động tích cực giúp mở rộng thị trường quốc tế nếu đáp ứng được các yêu cầu

về giá cả, chất lượng và tiêu chuẩn liên quan đến BPPTQ. Nghiên cứu của Wilson và Otsuki

(2004) đã phân tích và đưa ra kết quả rằng các nước đang phát triển thường phải dành một

khoản chi phí đáng kể để tuân thủ BPPTQ, trong đó chi phí này có thể chiếm tới 3,85% tổng

chi phí sản xuất, đồng thời chi phí cho thủ tục hải quan trung bình vào khoảng 6,95% tổng

giá trị xuất khẩu.

17

UNCTAD (2013). Henson và Loader (2001) nhận định rằng, dù các BPPTQ có thể gây ra

Theo UNCTAD (2013), một số yếu tố có thể cản trở khả năng thích ứng của

các nước đang phát triển đối với các biện pháp phi thuế quan (BPPTQ), đồng thời

nhấn mạnh vai trò của phản ứng chính sách từ Chính phủ và cộng đồng quốc tế trong

việc giải quyết các thách thức liên quan. Nghiên cứu chỉ ra rằng tính minh bạch là

yếu tố then chốt ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với BPPTQ. Việc thiếu minh bạch

không chỉ làm gia tăng chi phí thương mại mà còn trở thành rào cản đáng kể đối với

các nhà hoạch định chính sách trong quá trình đàm phán thương mại, cũng như gây

khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác trên thị trường quốc tế.

Disdier và cộng sự (2008) cũng tập trung vào đánh giá tác động của các biện

pháp SPS và TBT trong thương mại nông nghiệp với 690 mặt hàng 6 chữ số bị áp

dụng các BPPTQ với bộ số liệu thống kê thương mại song phương giữa OECD là

nước nhập khẩu và 114 quốc gia khác là nước xuất khẩu vào năm 2004. Nghiên cứu

đã chỉ ra rằng trong khi lượng xuất khẩu của nước đang phát triển sang các nước OECD

giảm mạnh khi bị áp dụng các quy định về SPS/TBT thì giữa các nước OECD với nhau

lại không bị ảnh hưởng. Hơn nữa, nhập khẩu của châu Âu có xu hướng bị ảnh hưởng

tiêu cực hơn bởi các biện pháp SPS/TBT so với nhập khẩu của các nước OECD khác.

Ngoài ra, nghiên cứu của Xiong và Beghin (2014) bằng việc sử dụng mô hình

trọng lực tổng thể để đánh giá tác động của MRL đối với nhu cầu nhập khẩu và nguồn

cung của các nhà xuất khẩu nước ngoài đã chỉ ra rằng các quy định về mức dư lượng

tối đa (MRL) trong các sản phẩm thực vật một mặt có thể tạo ra các rào cản thương

mại và mặt khác thúc đẩy nhu cầu thông qua giảm thiểu rủi ro hoặc đảm bảo chất

lượng. Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng với quy định MRL đối với thuốc trừ sâu

do các quốc gia OECD áp đặt, rằng MRL đã nâng cao nhu cầu nhập khẩu nhưng cản

trở nguồn cung của các nhà xuất khẩu nước ngoài. Ngoài ra, các nước kém phát triển

và kém phát triển bị hạn chế bởi MRL nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh từ các

nước phát triển (Xiong & Beghin, 2014).

Melo và Solleder (2020) cho rằng các nước đang phát triển bị cho là dễ bị tổn

thương trước tác động của BPPTQ do lợi thế so sánh của các quốc gia này chủ yếu là

trong các lĩnh vực truyền thống như XKNS thường đóng vai trò là sản phẩm xuất khẩu

chính của quốc gia, và phải chịu tác động lớn từ các biện pháp SPS và TBT.

1.6. Các nghiên cứu về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông sản

EU là đối tác nhập khẩu nông sản của rất nhiều quốc gia trên thế giới với các

18

quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ về các BPPTQ. Do đó, chủ đề tác động của chính

sách phi thuế quan của EU đối với XKNS của các quốc gia cũng là một chủ đề được

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Otsuki và cộng sự (2001a) đã tiến hành nghiên cứu tác động của tiêu chuẩn

aflatoxin do EU thiết lập đối với xuất khẩu thực phẩm từ châu Phi, mô hình lực hấp

dẫn được sử dụng để đánh giá tác động của các mức độ bảo vệ khác nhau theo tiêu

chuẩn EU so với các quy định quốc tế. Nghiên cứu được thực hiện với 15 nước ở

châu Âu và 9 nước ở châu Phi trong giai đoạn 1989–1998. nghiên cứu đã chỉ ra rằng

tiêu chuẩn aflatoxin mới của EU có thể gây tác động tiêu cực đến xuất khẩu ngũ cốc

và trái cây sấy khô từ châu Phi sang châu Âu. Cụ thể, tiêu chuẩn khiến lượng xuất

khẩu từ châu Phi giảm 64%, so với khi áp dụng tiêu chuẩn quốc tế. Tương tự, ở nghiên

cứu tiếp theo, Otsuki và cộng sự (2001b) đã tính toán tác động của các tiêu chuẩn

aflatoxin đối với dòng chảy thương mại của lạc xuất khẩu từ châu Phi sang châu Âu.

Kết quả cho thấy, nếu các nước châu Âu siết chặt tiêu chuẩn aflatoxin thêm 10%,

nhập khẩu lạc sẽ giảm 11%. Quy định mới của EU về aflatoxin có thể khiến khối

lượng thương mại giảm tới 63% so với khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế Codex.

Trong khi đó, Xiong và Beghin (2012) lại không tìm thấy bằng chứng nào cho

thấy sự thay đổi theo hướng thắt chặt hơn về giới hạn dư lượng tối đa trong quy định

của EU có tác động tiêu cực đến thương mại đối với hoạt động xuất khẩu lạc từ Châu

Phi năm 2002 qua các phương pháp ước tính khác nhau. Nhóm tác giả cho rằng nguồn

cung nội địa của Châu Phi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng và

xu hướng thương mại. Điều đó cho thấy tiềm năng thương mại của các nhà xuất khẩu

lạc châu Phi bị hạn chế nhiều hơn bởi các vấn đề nguồn cung trong nước hơn là do

khả năng tiếp cận thị trường hạn chế.

Uprasen (2014) đã nghiên cứu tác động của các RCPTQ đối với xuất khẩu từ

Trung Quốc sang 14 nước thuộc EU từ 1999 đến 2010. Kết quả thực nghiệm cho thấy

các RCPTQ tại thị trường EU có tác động kép đến xuất khẩu của Trung Quốc. RCPTQ

không có tác động đáng kể đến xuất khẩu tổng thể. Tuy nhiên, RCPTQ tạo ra cả tác

động tích cực và tiêu cực, tùy thuộc vào chủng loại sản phẩm xuất khẩu khác nhau.

Ngoài ra, các biện pháp SPS có xu hướng cản trở xuất khẩu tổng thể, trong khi TBT

có xu hướng khuyến khích xuất khẩu tổng thể (Uprasen, 2014).

Kareem và cộng sự (2015) đã xem xét tác động của hai BPPTQ đến quyết định

xuất khẩu cà chua của các công ty của Châu Phi sang EU từ 2008 đến 2013 bằng

19

phương pháp sử dụng mô hình trọng lực. Kết quả nghiên cứu cho thấy tiêu chuẩn về

thuốc trừ sâu nghiêm ngặt của EU đã ngăn cản sự gia nhập mới vào thị trường EU, đẩy

các công ty kém năng suất ra đi và ngăn cản các nhà xuất khẩu mở rộng thị trường.

Kareem và cộng sự (2018) cho rằng các BPPTQ như tiêu chuẩn an toàn thực

phẩm nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng nhưng cũng có thể được sử

dụng làm công cụ bảo hộ để hạn chế nhập khẩu nên đã điều tra mục đích bảo hộ của

các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của EU bằng cách sử dụng mẫu thực phẩm nhập

khẩu của EU từ các nước châu Phi bằng cách so sánh các tiêu chuẩn của EU với các

tiêu chuẩn quốc tế. Kết quả của nghiên cứu đã ủng hộ giả thuyết rằng các ngành phụ

thuộc nhiều vào nhập khẩu ít được bảo hộ hơn, đồng thời, không có sự gia tăng đáng

kể nào trong việc sử dụng các biện pháp này như một công cụ bảo hộ trong thời kỳ

khủng hoảng tài chính.

Guimarães (2012) bất chấp sự hài hòa hóa quy định của EU và nguyên tắc

công nhận lẫn nhau, các BPPTQ trong thương mại nông sản xuyên biên giới thường

vi phạm thỏa thuận của EU về tự do di chuyển hàng hóa. Nghiên cứu đã đánh giá tính

phổ biến và các đặc điểm chính của các BBPTQ trong thương mại nông sản thực

phẩm nội khối EU từ năm 1961 đến năm 2002. Nghiên cứu này dựa trên một tập dữ

liệu lớn duy nhất về việc tuân thủ luật pháp EU và cung cấp đánh giá toàn diện theo

ngành cụ thể về BPPTQ trong thương mại nội khối EU.

1.7. Đánh giá tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu

1.7.1. Đánh giá tổng quan nghiên cứu

Như vậy, thông qua tổng quan nghiên cứu có thể đưa ra các đánh giá như sau:

Về phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng để đánh giá tác

động của các BPPTQ được các nghiên cứu sử dụng gồm cả phương pháp định tính

và định lượng. Phương pháp định lượng được sử dụng phổ biến nhất bao gồm:

phương pháp định lường bằng mô hình trọng lực, phương ước lượng tương đương

thuế quan giá trị, các chỉ số đánh giá mức độ, tần suất áp dụng các BPPTQ để đánh

giá tác động của các BPPTQ đến thương mại nông sản.

Về loại BPPTQ được các nghiên cứu đánh giá nhiều nhất, có tác động lớn đến

XKNS đó là biện pháp SPS và TBT.

Về kết quả tác động: Các nghiên cứu trước đã chỉ ra các tác động đa chiều của

các BPPTQ. Các BPPTQ có thể có tác động tích cực, tiêu cực hoặc có tác động hỗn

20

hợp đối với XKNS. Không có khẳng định chắc chắn nào là BPPTQ chỉ tác động tích

cực hay tiêu cực đến thương mại giữa các quốc gia. Ảnh hưởng của BPPTQ còn phụ

thuộc vào những trường hợp cụ thể, đối với các sản phẩm và quốc gia cụ thể khác

nhau. Ngay cả đối với cùng một BPPTQ áp dụng với nông sản thì tác động của

BPPTQ đối với các sản phẩm ở cấp độ HS6 hoàn toàn khác với tác động của BPPTQ

ở cấp độ HS2. Ngoài ra, ở các quốc gia phát triển, BPPTQ có nhiều khả năng thúc

đẩy thương mại vì nó giúp cải thiện chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, BPPTQ có

xu hướng có những tác động khác nhau ở các nước đang phát triển, tùy thuộc phần

lớn vào mức độ nghiêm ngặt của BPPTQ. Đồng thời, các nước đang phát triển trong

đó có Việt Nam thường chịu tác động lớn hơn bởi các BPPTQ do các quốc gia phát

triển áp đặt.

Các kênh tác động chủ yếu của các BPPTQ gồm các kênh tác động về số lượng

và giá cả hàng hoá nông sản, ngoài ra, các BPPTQ còn tác động đến phúc lợi xã hội.

1.7.2. Khoảng trống nghiên cứu

Thông qua tổng quan các nghiên cứu, có thể thấy chủ đề nghiên cứu đánh giá

tác động của các BPPTQ đến thương mại quốc tế nói chung và XKNS nói riêng đã

được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Tuy nhiên, còn có những khoảng trống cần

được bổ sung nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, cần có thêm các nghiên cứu hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận

về BPPTQ trong thương mại quốc tế nói chung và BPPTQ của EU đối với XKNS

Việt Nam nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh thế giới xảy ra biến động lớn về kinh tế,

chính trị, xã hội khiến các quốc gia lớn như EU đang tiến hành ban hành và áp dụng

một hệ thống những chính sách mới, trong đó các BPPTQ được sửa đổi, bổ sung theo

hướng ngày càng phức tạp và nghiêm ngặt.

Thứ hai, các công trình đề cập sâu sắc, đầy đủ về thực trạng các quy định về

BPPTQ của EU đang áp dụng với nông sản nhập khẩu vào EU và tác động đối với

XKNS Việt Nam từ 2012 đến 2023 còn chưa được đầy đủ; đây là một giai đoạn thế

giới chứng kiến nhiều biến động phức tạp, khó lường; dẫn đến các quốc gia liên tục

đưa ra các thay đổi trong chính sách thương mại. Mặc dù, trong khoảng 05 năm gần

đây, các nhà khoa học trong nước đã quan tâm nhiều đến chủ đề này, cũng có những

nghiên cứu tác động của BPPTQ nhưng lại tập trung ở tác động của BPPTQ của Việt

Nam đến nông sản nhập khẩu hoặc liên quan đến các ngành hàng xuất khẩu khác

21

hoặc XKNS; thậm chí có một số bài báo đã có đề cập đến tác động của BPPTQ đến

XKNS sang thị trường EU. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các công bố chỉ dừng

lại ở phạm vi đánh giá tác động đối với một vài mặt hàng. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu

của luận án có tính mới, tính bổ sung, hệ thống, chuyên sâu và cập nhập được những

diễn biến và xu hướng mới nhất về các BBPQT của EU đối với XKNS của Việt Nam

trong giai đoạn 2012 – 2023.

Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu, trong các nghiên cứu đi trước về tác động

của các BPPTQ đến XKNS thì có các nghiên cứu chỉ sử dụng chuyên về một phương

pháp: hoặc là phương pháp kiểm đếm, hoặc là phương pháp tính toán các chỉ số đánh

giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng; hoặc là mô hình định lượng. Trong nghiên

cứu này, tác giả sử dụng đồng bộ cả 3 phương pháp trên, để đưa ra bức tranh bao quát

nhất của tất cả các khía cạnh của BPPTQ của EU đang áp dụng và các hướng tác

động của các biện pháp này đến XKNS Việt Nam.

Thứ tư, nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các đề xuất giải pháp nhằm

hiểu và đáp ứng các quy định liên quan BPPTQ cho hàng nông sản xuất khẩu Việt

Nam sang EU trong 2012 – 2023 cần được bổ sung thêm, đặc biệt là trong giai đoạn

từ 2019 đến nay – giai đoạn mà EU có nhiều sự thay đổi về chính sách. Như năm

2019, EU ban hành Thoả thuận xanh Châu Âu; năm 2021, EU ban hành Chiến lược

thương mại định hướng tầm nhìn đến 2030. Các bộ chính sách mới này đã, đang và

sẽ định hình lại các quy định BPPTQ của EU, các quy định được thay thế, sửa đổi,

bổ sung liên tục, thường xuyên theo chiều hướng thắt chặt, nghiêm ngặt hơn. Do đó,

các đề xuất giải pháp được đưa ra dựa trên thực tiễn ban hành và thực thi BPPTQ của

EU để định hướng cho XKNS Việt Nam trong tương lai.

Với các khoảng trống nêu trên, nghiên cứu đánh tác động của các BPPTQ đối

với XKNS Việt Nam sang EU thông qua nghiên cứu thực trạng các BPPTQ của EU

đối với XKNS Việt Nam giai đoạn 2012 – 2023, hệ thống hóa, nêu bật được các đặc

trưng của các BPPTQ của EU trong giai đoạn này. Trên cơ sở kết quả tác động được

phân tích, nghiên cứu đánh giá các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực, tiêu

cực, các hạn chế để làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh XKNS của Việt

22

Nam sang EU trong giai đoạn tới.

Tiểu kết chương 1

Thông qua tổng quan các nghiên cứu về tác động của BPPTQ đến XKNS có

thể thấy đây là một chủ đề được rất nhiều các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.

Tác động của BPPTQ đến XKNS bao gồm cả tác động tích cực, tiêu cực và hỗn hợp,

tuỳ vào từng trường hợp cụ thể đối với từng biện pháp, từng quốc gia và từng mặt

hàng khác nhau. Tại Việt Nam, vấn đề này cũng ngày càng được nhà nghiên cứu, các

nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp quan tâm nhằm đánh giá được tác động,

từ đó thấy được các nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đẩy mạnh XKNS

nông sản sang các thị trường quốc tế. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác

động các BPPTQ đến xuất khẩu các ngành hàng nói chung và XKNS sang EU nói

riêng là rất cần thiết và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang hội

nhập, hợp tác ngày càng sâu rộng và khi bối cảnh thế giới có nhiều biến động như

chiến tranh, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,…khiến cho các quốc gia trên thế giới có xu

hướng áp dụng các BPPTQ ngày càng nhiều với những quy định ngày càng nghiêm

23

ngặt và chặt chẽ hơn.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA BIỆN PHÁP PHI

THUẾ QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NỒNG SẢN

2.1. Cơ sở lý luận về biện pháp phi thuế quan

2.1.1. Khái niệm về biện pháp phi thuế quan

BPPTQ là vấn đề hoàn toàn không mới, đã được hình thành, phát triển và

nghiên cứu từ lâu trong lịch sử thương mại quốc tế. Ban đầu, BPPQT thường được

coi là một phần quan trọng trong các chính sách nhằm hạn chế thương mại (Salvatore,

2013). Nguyên nhân của sự hình thành và phát triển BPPTQ là do các rào cản truyền

thống (như thuế quan, hạn ngạch,…) đã dần được cắt giảm và gỡ bỏ thông qua các

cuộc đàm phán thương mại từ sau chiến tranh thế giới thứ II.

Theo Baldwin (1970), BPPTQ là: "bất kỳ biện pháp nào khiến hàng hóa và

dịch vụ thương mại quốc tế, hoặc các nguồn lực dành cho sản xuất các hàng hóa và

dịch vụ đó, được phân bổ theo hướng làm giảm thu nhập thực tế tiềm năng thế giới”.

Theo đó, BPPTQ chính là những biện pháp chính sách của nhà nước nhằm tác động

tới dòng thương mại; bóp méo thị trường, tạo ra những bất lợi cho các nhà xuất khẩu,

hạn chế nhập khẩu, từ việc ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước. Như vậy, BPPTQ

trong giai đoạn này được nhìn dưới góc độ là các biện pháp có tác động tiêu cực vào

thương mại quốc tế do nó mang tính chất bảo hộ sâu sắc.

Trong khi đó, dưới góc độ chi phí, các BPPTQ là các biện pháp làm phát sinh

chi phí trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Những biện pháp này có

thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá thành và số lượng hàng hóa bằng cách

tác động đến thị hiếu và quan điểm của người tiêu dùng về sản phẩm (Beghin và cộng

sự, 2012).

Dưới góc độ của cơ quan ban hành, Movchan & Eremeko (2003) nhấn mạnh

vai trò của chính phủ trong việc thiết lập và triển khai BPPTQ. Các biện pháp này có

sự liên kết mật thiết với các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ đó ảnh hưởng

đến quá trình sản xuất, định hình cơ cấu cũng như quy mô giao dịch hàng hóa. Đồng

thời, chúng góp phần định hướng nguồn lực đầu tư vào sản xuất và điều chỉnh xu thế

thương mại trên thị trường.

Ở một cách tiếp cận rộng hơn, EU, trên cổng thông tin EU Trade Repository

(ATR) đưa ra quan điểm: các BPPTQ được hiểu theo nghĩa rộng hơn là các biện pháp

khác thuế có ảnh hưởng đến thương mại (tức là không phải các khoản thuế hải quan

24

thông thường và các khoản thu khác mà áp dụng cho việc nhập khẩu hàng hoá).

Định nghĩa được đưa ra bởi Nhóm hỗ trợ đa cơ quan (MAST - gồm 8 tổ chức:

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), Quỹ Tiền tệ Quốc

tế (IMF), Tổ chức Quốc tế Trung tâm Thương mại (ITC), Tổ chức Hợp tác và Phát

triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc(UNIDO),

Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và UNCTAD) đã

đưa ra định nghĩa thống nhất rằng BPPTQ là "các biện pháp chính sách, ngoài thuế

quan hải quan thông thường, có khả năng có ảnh hưởng kinh tế đến thương mại hàng

hóa quốc tế, thay đổi số lượng giao dịch, hoặc giá cả hoặc cả hai" (UNCTAD, 2009;

UNCTAD, 2012; UNCTAD, 2019; UNCTAD, 2021).

Định nghĩa trên của UNCTAD được đánh giá là trung lập và không ngụ ý về

một hướng tác động kinh tế (UNESCAP, 2019; UNCTAD, 2021). Định nghĩa này

mang tính toàn diện và đảm bảo tính khách quan cao khi xác định rằng BPPTQ là

một phần trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia, bên cạnh các biện

pháp thuế quan. Đồng thời, định nghĩa này cũng làm rõ các cơ chế tác động của

BPPTQ đối với hoạt động thương mại mà không thiên vị hay mặc định chúng gây ra

ảnh hưởng tiêu cực hoặc làm méo mó thương mại quốc tế.

Ở góc độ pháp lý, dù thuật ngữ "biện pháp phi thuế quan" không được đề cập

trực tiếp trong hệ thống pháp luật Việt Nam, gồm cả trong Luật Quản lý Ngoại thương

năm 2017, nhưng văn bản này cũng liệt kê các quy định liên quan đến các biện pháp

này gồm (1) biện pháp hành chính; (2) biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch (TBT, SPS);

(3) biện pháp phòng vệ thương mại; và (4) biện pháp kiểm soát khẩn cấp trong ngoại

thương (Luật quản lý Ngoại thương Việt Nam, 2017).

Một điểm cần lưu ý liên quan đến khái niệm BPPTQ và khái niệm rào cản phi

thuế quan (RCPTQ) cần phải được phân biệt do trước đây hai khái niệm này vẫn

thường bị nhầm lẫn và dùng thay thế cho nhau.

Thuật ngữ "biện pháp" là một thuật ngữ mang tính chất chung chung. Trong

khi đó, thuật ngữ "rào cản" lại đề cập đến việc một quy định mang tích chất gây khó

khăn cho chủ thể thực hiện (Shi, 2022). Trước đây, các nghiên cứu về các BPPQT

thường với vai trò là các chính sách mang tính chất cản trở thương mại như Deardorff

và Stern (1997) cho rằng RCPTQ là tất cả các hàng rào trong thương mại ngoài thuế

quan. Trong khi đó, ITC (2012) đã đề cập rằng các RCPTQ là một tập hợp con của

25

BPPTQ với mục đích bảo hộ hoặc phân biệt đối xử và chúng có tác động tiêu cực đến

thương mại. Ngoài ra, thông qua việc liệt kê các biện pháp thì RCPTQ được định nghĩa

là tất cả những rào cản thương mại không phải thuế quan như thuế chống bán phá giá,

hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp, hàng rào kĩ thuật hay những cản trở việc thiết lập

hay cung cấp các dịch vụ (OECD, 2014). UNESCAP (2019) thì cho rằng RCPTQ là

những công cụ chính sách được áp dụng nhằm mục đích cản trở thương mại bằng việc

phân biệt đối xử đối với hàng hoá. UNCTAD (2021) khẳng định RCPTQ là một tập hợp

con của các BPPTQ và có tác động tiêu cực đến thương mại.

Với những quan niệm, định nghĩa được nêu trên thì BPPQT và RCPTQ đều là

các biện pháp, công cụ chính sách mà các quốc gia áp dụng trong thương mại quốc

tế và có tác động nhất định tới thương mại quốc tế. Nếu như BPPTQ là các biện pháp

được thiết kế để đáp ứng các mục tiêu chính sách nhất định, có tính chất rộng hơn và

chủ yếu được thể hiện bằng các yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật thì RCPTQ là các biện

pháp được lựa chọn phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nước ngoài và do đó ảnh

hưởng xấu đến hoạt động thương mại và phát triển của các quốc gia khác. Trong

trường hợp này, các biện pháp này trở thành rào cản đối với thương mại và được coi

là RCPTQ (UNCTAD, 2021). BPPTQ có thể trở thành RCPTQ.

Điểm cốt lõi để phân biệt hai khái niệm này đó chính là mục đích sử dụng và

tác động của các biện pháp này tới thương mại quốc tế. Nếu như BPPQT được đề cập

đến nhưng không chỉ rõ mục đích áp dụng là tích cực hay tiêu cực, thì RCPTQ được

áp dụng mang lại những tác động tiêu cực đối với thương mại quốc tế, ngăn chặn sự

tự do lưu thông của hàng hoá.

Như vậy, RCPTQ là một tập con là một bộ phận của BPPQT (UNCTAD,

2021). RCPTQ là BPPTQ nhưng BPPTQ chưa chắc đã là RCPTQ. Định nghĩa về

BPPTQ là trung lập và không nhất thiết đại diện cho một tác động tiêu cực đến thương

mại. Một số BPPTQ có thể có tác động tích cực, đó là lý do tại sao từ "biện pháp"

được sử dụng thay vì "rào cản". BPPTQ không nhất thiết ngụ ý các biện pháp bất hợp

pháp và/hoặc tác động hạn chế đối với thương mại. Trên thực tế, WTO cho phép áp

dụng BPPTQ trong những trường hợp cụ thể. Trong một số trường hợp việc áp dụng

các BPPTQ hợp pháp thậm chí có thể làm tăng thương mại bằng cách cung cấp thêm

thông tin và sự chắc chắn cho người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên, một số

BPPTQ là rào cản vì được thực hiện với mục đích bảo hộ cụ thể ảnh hưởng tiêu cực

26

đến thương mại. Thêm nữa, nhiều BPPTQ không minh bạch do được che giấu trong

các quy định hoặc xuất hiện dưới dạng chính sách ngụy trang (APEC, 2014). Trong

khi đó, RCPTQ không được WTO công nhận vì áp dụng RCPQT là bất hợp pháp và

vi phạm các nguyên tắc và mục tiêu phát triển của WTO.

Tuy nhiên, việc phân biệt một biện pháp có hợp pháp hay không là thách thức

lớn, vì các đối tác thương mại có thể có quan điểm khác nhau. Một bên có thể coi một

biện pháp là rào cản thực sự trong khi bên kia có thể không. Hiện nay có thể thấy tỷ lệ

RCPTQ trong tổng số BPPQT hiện nay là tương đối lớn và đang ngày càng có xu hướng

tăng lên. Do vậy, việc giảm thiểu các BPPTQ có tác động tiêu cực, bóp méo thương mại

là rất cần thiết để tạo điều kiện cho thương mại quốc tế được thuận lợi hơn.

Tựu chung lại, từ các quan điểm và các góc độ tiếp cận khác nhau nêu trên,

BPPTQ cần được hiểu là các biện pháp thuộc chính sách thương mại quốc tế của các

quốc gia mà không phải thuế quan, có thể có tác động hoặc không có tác động đến

thương mại trong các trường hợp áp dụng cụ thể. Nếu có tác động thì tác động theo

nhiều hướng khác nhau, có thể là tích cực hoặc tiêu cực hoặc cả hai.

Việc hiểu và phân định rõ ràng được khái niệm BPPTQ là đặt biệt quan trọng

trong quá trình ban hành và áp dụng BPPTQ khi mà thương mại quốc tế phát triển và

đóng vai trò trung tâm của kinh tế quốc tế hiện nay.

2.1.2. Phân loại

Việc phân loại các BPPTQ đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử, việc phân

loại rất đa dạng và dựa trên các tiêu chí khác nhau. Việc phân loại các BPPTQ đã

được phát triển theo mục đích của chủ thể thu thập dữ liệu.

Dựa vào các đặc điểm chung về việc gây cản trở thương mại, Baldwin (1970)

phân loại BPPTQ thành bốn nhóm chính: (1) hạn chế định lượng như hạn ngạch, lệnh

cấm nhập khẩu; (2) trợ cấp tài chính của chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu;

(3) tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn, bao bì, nhãn mác có thể tạo rào cản cho hàng

nhập khẩu; (4) chính sách mua sắm của chính phủ ưu tiên hàng hóa, dịch vụ trong

nước. Đây là một trong những cách phân loại từ rất sớm. Theo thời gian, các BPPTQ

đã thay đổi và phát triển theo nhiều hướng khác nhau khiến cho cách phân loại trên

không có tính bao quát.

Dựa trên nguồn gốc của các BPPTQ thì các RCPQT trong nghiên cứu của

Deardorff và Stern (1997) thì được phân loại xuất phát từ 3 nguồn gốc gồm (1) các

quy trình hành chính, quy định và chính sách của chính phủ (ví dụ như quy định hải

27

quan về các thủ tục, quy định về cấp phép hạn ngạch,… hay các quy định ưu đãi cho

hàng hoá nội địa gây cản trở cho hàng nhập khẩu,…); (2) BPPTQ bắt nguồn từ cơ

cấu thị trường (từ thị trường cạnh tranh độc quyền đến thị trường cạnh tranh hoàn

hảo). Đối với các dạng thị trường khác nhau thì các chính sách được ban hành và áp

dụng cũng khác nhau. Đặc biệt, đối với các quốc gia khác nhau với các cơ chế thị

trường không giống nhau thì thương mại hàng hoá giữa các quốc gia cũng sẽ gặp

những chính sách gây trở ngại cho thương mại; (3) BPPTQ bắt nguồn từ các yếu tố

thể chế (như các yếu tố về chính trị, xã hội, văn hoá,… định hình quan điểm, thị hiếu

hành vi khác nhau của người tiêu dùng. Khác biệt về thể chế giữa các quốc gia cũng

được coi là các trở ngại cho thương mại.

Nhận thức được sự gia tăng và ngày càng quan trọng của BPPTQ, UNCTAD

đã tích cực làm việc về chủ đề này từ những năm 1994. Theo UNCTAD vì định nghĩa

chính thức về BPPTQ rất rộng nên việc phân loại chi tiết là rất quan trọng để xác định

và phân biệt rõ ràng giữa các dạng BPPTQ khác nhau. Nhóm hỗ trợ đa cơ quan

(MAST) đã thảo luận rộng rãi và xây dựng Bảng phân loại quốc tế về các BPPTQ

trong giai đoạn 2007 – 2017 và đã nhất trí về phiên bản đầu tiên của bảng phân loại

này vào năm 2012. Việc phân loại không ngừng phát triển và thích ứng với thực tế

của nhu cầu thu thập dữ liệu và thương mại quốc tế.

Bảng 2.1. Phân loại các biện pháp phi thuế quan theo UNCTAD

Nhóm Mã/Chương Phân loại BPPTQs

Các biện pháp kỹ thuật

A B C D

E

F

Các biện pháp phi kỹ thuật

G H I J K L M N O SPS - Biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật TBT – Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc Cấp phép, hạn ngạch và các biện pháp kiểm soát số lượng Các biện pháp kiểm soát giá bao gồm thuế, phí bổ sung Các biện pháp tài chính Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Hạn chế phân phối Hạn chế về dịch vụ sau bán hàng Trợ cấp (không bao gồm trợ cấp xuất khẩu) Hạn chế mua sắm của Chính phủ Sở hữu trí tuệ Quy tắc xuất xứ

P Các biện pháp liên quan đến xuất khẩu Các biện pháp xuất khẩu

28

Nguồn: UNCTAD (2022)

Tính đến năm 2018, UNCTAD đã thu thập dữ liệu BPPTQ toàn diện và có thể

so sánh được ở 109 quốc gia, bao gồm hơn 65.000 biện pháp. Phân loại của UNCTAD

được quốc tế công nhận và đã trở thành nền tảng cho việc thu thập dữ liệu, đồng thời,

giúp cho các chính sách liên quan các BPPTQ được rõ ràng và minh bạch hơn. Đây

là cơ sở dữ liệu được đánh giá là toàn diện nhất hiện nay về cả phạm vi quốc gia và

mã sản phẩm.

Theo hệ thống cơ sở dữ liệu này của UNCTAD thì BPPTQ được phân thành

các chương, phụ thuộc vào phạm vi, đặc tính của từng BPPTQ. Bảng 2.1 cho thấy

BPPTQ chia thành 16 chương: từ chương A đến chương O là các BPPTQ liên quan

đến nhập khẩu, trong khi chương P bao gồm các biện pháp mà các quốc gia áp đặt

đối với hàng xuất khẩu. Trong các BPPTQ liên quan đến nhập khẩu lại phân loại

thành các biện pháp kỹ thuật (chương A, B và C) và các biện pháp phi kỹ thuật (từ

chương D đến chương O).

Tất cả các biện pháp này đều là các quy định trong các văn bản pháp lý được

các quốc gia ban hành một cách chính thức (như luật, nghị định, chỉ thị,…). Một quy

định chính thức có thể bao gồm một số BPPTQ theo phân loại của UNCTAD trên.

Cụ thể các chương trong bảng phân loại gồm:

Chương A – SPS là các quy định trong luật, nghị định, quy định, yêu cầu, tiêu

chuẩn và thủ tục để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe con người, động thực vật. Gồm

các biện pháp ảnh hưởng đến các khu vực như hạn chế đối với các chất, yêu cầu vệ

sinh hoặc các biện pháp khác để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh; hay các biện

pháp đánh giá sự phù hợp liên quan đến an toàn thực phẩm, như chứng nhận, thử

nghiệm, kiểm tra, và kiểm dịch.

Chương B - TBT là các quy chuẩn, tiêu chuẩn đề cập đến đặc tính kỹ thuật của

sản phẩm như quy định về dán nhãn hay các biện pháp khác để bảo vệ môi trường.

TBT cũng bao gồm các quy trình, hệ thống đánh giá sự phù hợp liên quan đến các

yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm như chứng nhận, thử nghiệm và kiểm tra.

Chương C - Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác gồm việc kiểm tra

thực tế hàng hóa tại nước xuất khẩu trước khi vận chuyển, nhằm xác định bản chất

hay sự phù hợp của hàng hóa. Các thủ tục phải hoàn thành tại Hải quan, không liên

quan đến việc quản lý các biện pháp SPS/TBT, yêu cầu nhà xuất khẩu xuất trình các

chứng từ cần thiết được sử dụng để khai báo lô hàng với Hải quan tại nước nhập khẩu.

Chương D - Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc là các biện

29

pháp được thực hiện để chống lại các tác động bất lợi cụ thể của hàng nhập khẩu tại thị

trường của nước nhập khẩu, bao gồm các biện pháp nhằm vào các hành vi ngoại thương

không công bằng; gồm các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.

Chương E - Cấp phép, hạn ngạch và các biện pháp kiểm soát số lượng là các

biện pháp nhằm hạn chế số lượng hàng hóa có thể được nhập khẩu. Các biện pháp

này có thể dưới hình thức cấp phép hạn chế, ấn định hạn ngạch định trước hoặc thông

qua các lệnh cấm nhập khẩu không liên quan đến các biện pháp SPS và TBT.

Chương F - Các biện pháp kiểm soát giá bao gồm thuế, phí bổ sung là những

biện pháp được thực hiện để kiểm soát hoặc tác động đến giá hàng hóa nhập khẩu

nhằm hỗ trợ giá trong nước của một số sản phẩm nhất định khi giá nhập khẩu của

những hàng hóa này thấp hơn; thiết lập giá trong nước của một số sản phẩm do biến

động giá ở thị trường trong nước hoặc bất ổn giá ở thị trường nước ngoài; hoặc để

tăng hoặc bảo toàn doanh thu thuế.

Chương G - Các biện pháp tài chính là các biện pháp nhằm điều chỉnh khả năng

tiếp cận và chi phí ngoại hối đối với hàng nhập khẩu và xác định các điều khoản thanh

toán. Các biện pháp này có thể làm tăng chi phí nhập khẩu.

Chương H - Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh: Các biện pháp dành ưu đãi

hoặc đặc quyền độc quyền hoặc đặc biệt cho một hoặc nhiều nhóm hạn chế các nhà điều

hành kinh tế, vì các lý do xã hội, tài chính, kinh tế hoặc chính trị. chủ yếu đề cập đến các

biện pháp độc quyền, chẳng hạn như thương mại Nhà nước, hoặc các cơ quan nhập khẩu

duy nhất, hoặc bắt buộc sử dụng các dịch vụ hoặc vận tải quốc gia.

Chương I - Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: nhóm các biện pháp

hạn chế đầu tư bằng cách yêu cầu hàm lượng địa phương hoặc yêu cầu đầu tư phải

liên quan đến xuất khẩu để cân bằng nhập khẩu.

Chương J - Hạn chế phân phối: đề cập đến các biện pháp hạn chế liên quan đến

phân phối nội bộ các sản phẩm nhập khẩu. Điều này có thể được kiểm soát thông qua

các yêu cầu về giấy phép hoặc chứng nhận bổ sung.

Chương K - Hạn chế về dịch vụ sau bán hàng: Các biện pháp hạn chế nhà sản

xuất hàng hóa xuất khẩu ở nước xuất khẩu cung cấp dịch vụ sau bán hàng ở nước

nhập khẩu. ví dụ: hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ phụ kiện.

Chương L - Trợ cấp: Những trợ cấp này đề cập đến sự đóng góp tài chính của

chính phủ hoặc cơ quan chính phủ cho cơ cấu sản xuất, cho dù là một ngành hoặc

công ty cụ thể, chẳng hạn như chuyển tiền trực tiếp hoặc chuyển tiền tiềm năng, thanh

30

toán cho một cơ chế tài trợ và hỗ trợ thu nhập hoặc giá cả.

Chương M - Hạn chế mua sắm của chính phủ: Đây là những biện pháp kiểm

soát việc mua hàng hóa của các cơ quan chính phủ, thường bằng cách ưu tiên các nhà

cung cấp quốc gia.

Chương N - Sở hữu trí tuệ: các biện pháp này bao gồm bằng sáng chế, nhãn

hiệu, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bản quyền, chỉ dẫn địa lý

và bí mật thương mại.

Chương O - Quy tắc xuất xứ: Bao gồm các luật, quy định và quyết định hành

chính được chính phủ các nước nhập khẩu áp dụng để xác định quốc gia xuất xứ

của hàng hóa. Quy tắc xuất xứ có thể hạn chế thương mại khi khó xác định nguồn

gốc của sản phẩm cuối cùng nếu nguyên liệu thô và các bộ phận đến từ các quốc

gia khác nhau.

Chương P - Biện pháp liên quan đến xuất khẩu: là nhóm các biện pháp mà một

quốc gia áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của chính quốc gia đó. Bao gồm thuế

xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu hoặc cấm xuất khẩu.

Bảng 2.2. Minh hoạ về cấu trúc cây phân loại các chương của UNCTAD

Cấu trúc cây phân loại của chương A A. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS) A1. Cấm/hạn chế nhập khẩu vì lý do SPS A2. Giới hạn cho phép đối với dư lượng và chất hạn chế sử dụng (...) A8. Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các khía cạnh SPS A81. Yêu cầu đăng ký sản phẩm. A82. Yêu cầu kiểm tra A83. Yêu cầu chứng nhận A84. Yêu cầu kiểm tra A85. Yêu cầu truy xuất nguồn gốc A851. Xuất xứ của vật liệu và bộ phận cấu thành A852. Lịch sử xử lý A853. Phân phối và vị trí của sản phẩm sau khi giao hàng A859. Yêu cầu truy xuất nguồn gốc mới A86. yêu cầu kiểm dịch A89. Đánh giá sự phù hợp liên quan đến SPS, mới A9. Các biện pháp SPS mới B. Rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) C. Kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác D. Các biện pháp phòng vệ thương mại có tính bắt buộc (…)

Nguồn: UNCTAD (2022)

Ngoài việc phân thành các chương thì UNCTAD còn phân loại cụ thể hơn ở

31

mỗi chương. Các chương sẽ được chia thành các nhóm khác nhau sử dụng cấu trúc

cây/nhánh với độ chi tiết lên đến ba, bốn chữ số. Cấp độ phân chia càng nhiều chữ số

thì cho thấy sự phân chia chi tiết hơn. Ví dụ: chương A bao gồm chín mã có hai chữ

số, từ A1 đến A9. Sau đó, mỗi mã hai chữ số được phân biệt thêm bằng cách cung

cấp mã ba chữ số. Ví dụ: A8 bao gồm A81 đến A86 và cả A89. A85 được chia nhỏ

hơn nữa thành các mã gồm bốn chữ số: A851, A852, A853 và A859 (Bảng 2.2). Chỉ

có một vài nhóm đạt đến cấp độ phân tách bốn chữ số, hầu hết dừng lại ở ba chữ số

(UNCTAD, 2021). Theo cách phân loại này thì BPPTQ đang được phân chia thành

178 loại biện pháp riêng biệt.

Việc phân loại chi tiết như vậy của UNCTAD nhằm minh bạch hoá hệ thống

các BPPTQ của các quốc gia, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình thu thập dữ liệu

nghiên cứu. Ngoài ra, cũng cho thấy sự phức tạp và khác biệt đáng kết giữa các

BPPTQ, đặc biệt là các biện pháp SPS và TBT.

Như vậy, có thể thấy các BPPTQ được phân loại theo nhiều cách. Tuy nhiên,

hiện nay, cách phân loại của UNCTAD (2019) vẫn là hệ thống phân loại được sử

dụng phổ biến và rộng rãi nhất vì tính minh bạch và bao quát, là cơ sở để xây dựng

hệ thống phân loại và cơ sở dữ liệu về BPPTQ tại các quốc gia trên thế giới.

2.1.3. Quan niệm về các biện pháp SPS và TBT

2.1.3.1. Biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)

Theo Hiệp định an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) của

WTO, SPS được định nghĩa là “tất cả các quy định, điều kiện, yêu cầu bắt buộc có

tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của con người,

vật nuôi, động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm và/hoặc ngăn chặn

sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật”. Hình thức của các

biện pháp SPS có thể rất đa dạng, có thể là yêu cầu về chất lượng, về bao bì, về quy

trình đóng gói, phương tiện và cách thức vận chuyển động thực vật, kiểm dịch,

phương pháp lấy mẫu, thống kê,...

Phụ lục A, Hiệp định SPS của WTO cũng quy định cụ thể mục đích áp dụng

các biện pháp SPS gồm các mục đích nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khỏe động, thực

vật trong lãnh thổ của quốc gia thành viên khỏi: (i) nguy cơ xâm nhập, xuất hiện hay

lan truyền của sâu, bệnh, vật mang bệnh hay vật gây bệnh; (ii) nguy cơ từ các chất

phụ gia thực phẩm, tạp chất, độc chất hoặc vật gây bệnh trong thực phẩm, đồ uống

hoặc thức ăn gia súc; (iii) nguy cơ từ các bệnh do động vật, thực vật hay sản phẩm

32

của chúng đem lại hoặc từ việc xâm nhập, xuất hiện hay lan truyền sâu hại; đồng

thơngf, (iv) ngăn chặn, hạn chế tác hại khác trong lãnh thổ các quốc gia khỏi sự xâm

nhập, xuất hiện hay lan truyền của sâu hại.

Đồng thời, Hiệp định SPS quy định rằng các quốc gia thành viên của WTO phải

tuân thủ một số nguyên tắc nhất định khi xây dựng và thực thi các biện pháp SPS. Cụ

thể, các biện pháp này chỉ được áp dụng trong phạm vi cần thiết nhằm bảo vệ sức

khỏe con người, động vật và thực vật, phải dựa trên cơ sở khoa học, ngoại trừ một số

trường hợp đặc biệt như dịch bệnh khẩn cấp. Bên cạnh đó, các biện pháp SPS không

được tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tùy tiện hoặc thiếu căn cứ, cũng như không

được lợi dụng để dựng lên các rào cản thương mại trá hình. Ngoài ra, các quốc gia

thành viên nên căn cứ vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế (nếu

có) khi áp dụng các biện pháp này. Cuối cùng, Hiệp định SPS cũng khuyến khích

việc hài hòa hóa các biện pháp giữa các quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động thương mại toàn cầu.

Nguyên tắc không phân biệt đối xử (giữa hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác

nhau với nhau, giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa) là một trong những nguyên tắc

trụ cột của WTO. Đối với trường hợp các biện pháp SPS, nguyên tắc này vẫn áp dụng

nhưng có giới hạn. Cụ thể, Hiệp định SPS không cấm các biện pháp SPS phân biệt

đối xử mà chỉ cấm các biện pháp SPS phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không

có căn cứ. Nói cách khác, nếu một nước có lý do để áp dụng các biện pháp SPS khắt

khe hơn đối với hàng hoá nhập khẩu đến từ một khu vực nhất định so với hàng hoá

đến từ các khu vực khác hoặc hàng hóa trong nước (như khu vực đó đang có dịch

bệnh nguy hiểm) thì vẫn được chấp nhận theo Hiệp định SPS.

2.1.3.2. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)

Theo Hiệp định TBT của WTO, TBT bao gồm các quy chuẩn kỹ thuật và quy

trình kiểm định mức độ phù hợp của sản phẩm với các tiêu chuẩn kỹ thuật, ngoại trừ

những biện pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định SPS. Những biện pháp này

có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như tiêu chuẩn sản phẩm,

quy định kỹ thuật, phương pháp thử nghiệm, chứng nhận chất lượng và các thủ tục

liên quan đến việc xác minh sự tuân thủ của sản phẩm đối với các yêu cầu kỹ thuật.

Trên thực tế, các biện pháp TBT có thể tạo ra những rào cản nhất định đối với thương

mại quốc tế, nhưng đồng thời cũng giữ vai trò thiết yếu trong việc định hướng và

33

kiểm soát luồng lưu chuyển hàng hóa trên thị trường toàn cầu.

Theo quy định của WTO, các biện pháp TBT có thể bao gồm những yêu cầu

bắt buộc đối với sản phẩm, các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, cũng như quy trình

đánh giá sự phù hợp của sản phẩm (có thể dựa trên các quy định bắt buộc hoặc tiêu

chuẩn tự nguyện). Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này không được tạo ra

những rào cản không cần thiết hoặc gây cản trở đến hoạt động thương mại.

Bên cạnh đó, Hiệp định TBT cũng phân loại ba nhóm biện pháp kỹ thuật gồm:

(1) Quy định kỹ thuật là các yêu cầu bắt buộc về đặc tính sản phẩm, quy trình và

phương pháp sản xuất, bao gồm cả thuật ngữ chuyên môn, ký hiệu, bao bì, mã hiệu

hoặc nhãn mác; (2) Tiêu chuẩn kỹ thuật do tổ chức có thẩm quyền ban hành để sử

dụng rộng rãi, quy định về sản phẩm và phương pháp sản xuất nhưng mang tính tự

nguyện; (3) Quy trình đánh giá sự phù hợp là các thủ tục nhằm xác định sản phẩm có

đáp ứng các yêu cầu của quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật hay không.

Khi ban hành các biện pháp TBT, các quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc

nhằm đảm bảo tính công bằng và không gây cản trở không cần thiết đến thương mại

quốc tế. Cụ thể, các biện pháp này không được mang tính phân biệt đối xử và cần

tránh tạo ra rào cản thương mại không cần thiết, ưu tiên sử dụng các biện pháp ít hạn

chế hơn nếu có thể. Đồng thời, việc hài hòa hóa với các quy định quốc tế và cân nhắc

các tiêu chuẩn chung được khuyến khích nhằm tạo sự đồng bộ trong thương mại toàn

cầu. Ngoài ra, các quốc gia cũng cần đảm bảo nguyên tắc tương đương và công nhận

lẫn nhau với các nước khác để thúc đẩy hợp tác kinh tế. Cuối cùng, tính minh bạch

phải được duy trì trong toàn bộ quá trình thực thi nhằm đảm bảo sự rõ ràng và công

khai trong áp dụng các biện pháp TBT.

Tóm lại, các biện pháp TBT cần phải được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu

hợp pháp không liên quan đến những mục tiêu đã được quy định trong Hiệp định SPS.

Mục đích của mỗi biện pháp cụ thể là để xác định liệu biện pháp đó có tuân thủ các

nguyên tắc của Hiệp định SPS hay TBT hay không, thay vì chỉ tập trung vào việc xem

xét sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cụ thể. Ví dụ, một quy định liên quan đến việc xử

lý trái cây nhập khẩu nhằm ngăn ngừa sự lây lan của sâu bệnh sẽ được phân loại là biện

pháp SPS, trong khi một biện pháp liên quan đến chất lượng, phân loại và ghi nhãn trái

cây nhập khẩu sẽ được coi là biện pháp TBT. Tương tự, một biện pháp quy định các

vật liệu được phép sử dụng trong sản xuất nước đóng chai để bảo vệ sức khỏe con

34

người, chẳng hạn như việc ngăn ngừa ô nhiễm nước bởi các chất độc hại từ vật liệu, sẽ

thuộc phạm vi Hiệp định SPS. Trong khi đó, một biện pháp quy định kích thước chai

nhằm đảm bảo thể tích tiêu chuẩn lại thuộc phạm vi Hiệp định TBT.

2.2. Các phương pháp đo lường và đánh giá tác động của các biện pháp phi

thuế quan

BPPTQ là một công cụ chính sách ngày càng được sử dụng phổ biến và phức

tạp trong việc điều chỉnh thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sự phổ biến và tác động của

BPPTQ đến thương mại quốc tế rất phức tạp, chưa minh bạch. Do đó, việc xác định

các phương pháp nhằm đo lường, định lượng mức độ phổ biến và đánh giá tác động

của các BPPTQ rất cần thiết. Tác động của các BPPTQ có thể được đánh giá theo

nhiều cách. Có một số phương pháp được sử dụng điển hình như:

- Phương pháp tiếp cận trực tiếp nhằm đo lường mức độ phổ biến của BPPTQ

(thông qua phương pháp kiểm đếm số lượng BPPTQ và phương pháp tính toán

các chỉ số mức độ phổ biến của BPPTQ);

- Phương pháp tiếp cận về số lượng bằng mô hình trọng lực hấp dẫn;

- Phương pháp tiếp cận về giá.

2.2.1. Phương pháp đo lường mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan

2.2.1.1. Phương pháp kiểm đếm

Phương pháp đơn giản nhất để đo lường và định lượng BPPTQ là thông qua

việc kiểm đếm số lượng các BPPTQ được ban hành và áp dụng đối với các mặt hàng

nhập khẩu. Quá trình này bao gồm việc kiểm đếm, thống kê các quy định, tiêu chuẩn

áp dụng cho từng ngành hàng và quốc gia, dựa trên các thông báo mà các quốc gia

nhập khẩu gửi lên WTO. Những thông báo này được phát hành khi có sự thay đổi

trong việc áp dụng các quy định mới, mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế hoặc

phản hồi từ doanh nghiệp. Để đánh giá tác động kinh tế của các BPPTQ, phương

pháp kiểm đếm số lượng thường được kết hợp với các phương pháp định lượng khác

như mô hình trọng lực.

Phương pháp kiểm đếm số lượng các BPPTQ được thực hiện là số lượng

BPPTQ một quốc gia áp dụng đối với mặt hàng nhập khẩu cụ thể vào quốc gia đó

hoặc kiểm đếm số lượng các thông báo thay đổi, sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy

định BPPTQ của các quốc gia.

2.2.1.2. Phương pháp tính toán các chỉ số liên quan đến mức độ áp dụng phổ biến

các biện pháp phi thuế quan

Để đánh giá mức độ phổ biến của BPPTQ, ngoài việc sử dụng phương pháp

35

kiểm đếm thì các chỉ số như tỷ lệ bao phủ (Coverage Ratio – CR), chỉ số tần suất

(Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành (Prevalance Score – PS) được sử dụng.

Việc tính toán các chỉ số về tỷ lệ áp dụng BPPTQ được đánh giá là một trong

những phương pháp tiếp cận đơn giản nhất để đánh giá được mức độ phổ biến của

BPPTQ (Deardorff & Stern, 1997). Các chỉ số này dựa trên cường độ của các công

cụ chính sách và đo lường mức độ điều chỉnh mà không xem xét tác động của nó đối

với thương mại hoặc nền kinh tế (Melo & Nicita, 2018).

Các chỉ số này được tính toán dựa trên số lượng các BPPTQ đã được quan sát,

thu thập và kiểm đếm. Trong đó, hệ số bao phủ (CR) đo lường tỷ lệ giá trị thương mại

bị áp dụng các BPPTQ, chỉ số tần suất (FI) cho biết tỷ lệ phần trăm sản phẩm áp dụng

BPPTQ và chỉ số thịnh hành (PS) là số BPPTQ trung bình áp dụng cho sản phẩm

(UNCTAD, 2022). Các chỉ số này thường được tính toán trên thương mại tổng thể, xem

xét tất cả các loại BPPTQ; đồng thời, các chỉ số này cũng có thể biểu thị mức độ ảnh

hưởng của các BPPTQ cụ thể đối với các nhóm sản phẩm cụ thể như số biện pháp

SPS/TBT trung bình được áp dụng đối với nhóm hàng nông sản (Melo & Nicita, 2018).

• Chỉ số tần suất (FI)

Chỉ số tần suất cho biết tỷ lệ phần trăm hàng hoá nhập khẩu bị áp dụng một

hoặc nhiều BPPTQ (UNCTAD, 2022), giải thích cho việc có hay không có BPPTQ

được áp dụng. Chỉ số tần suất được được tính theo công thức:

𝐹𝐼𝑗 = 𝑥100 ∑𝐷𝑖𝑀𝑖 ∑𝑀𝑖

Trong đó, FIj là chỉ số tần suất của quốc gia j; Mi, Di đều là các biến giả; trong

đó Di phản ánh có hay không có BPPTQ được áp dụng đối với dòng sản phẩm i (Di

sẽ nhận giá trị 1 nếu có ít nhất một BPPTQ được áp dụng, nếu không có BPPTQ nào

được áp dụng thì Di sẽ nhận giá trị 0); Mi phản ánh các dòng sản phẩm i bị ảnh hưởng

bởi các BPPTQ.

Chỉ số tần suất phản ánh mức độ phổ biến của BPPTQ đối với các dòng hàng

hoá. Chỉ số tần suất càng lớn thì cho thấy tỷ lệ mặt hàng/nhóm mặt hàng bị ảnh hưởng

bởi BPPTQ càng lớn. Vì vậy, trường hợp nhập khẩu tất cả các mặt hàng thì tổng giá

trị của Ms khoảng 5200 mã sản phẩm mô tả chi tiết 6 chữ số (tương ứng với 5200

dòng thuế).

• Tỷ lệ bao phủ (CR)

Tỷ lệ bao phủ của BPPTQ được tính bằng cách xác định giá trị nhập khẩu của

từng mặt hàng chịu các BPPTQ, tổng hợp theo nhóm hàng HS áp dụng và thể hiện tỷ

36

lệ phần trăm của tổng giá trị hàng nhập khẩu bị áp dụng BPPTQ (UNCTAD, 2022).

Khác với chỉ số tần suất, CR được tính toán thông qua giá trị hàng nhập khẩu, thay

vì dòng sản phẩm được trao đổi (UNCTAD, 2022).

𝐶𝑅𝑗 = 𝑥100 ∑𝐷𝑖𝑉𝑖 ∑𝑉𝑖

Trong đó, CRj là tỷ lệ bao phủ tại quốc gia j. Vi là giá trị của hàng hoá nhập

khẩu i chịu ảnh hưởng của BPPTQ. CR phản ánh mức độ áp dụng của BPPTQ đối

với giá trị hàng hoá nhập khẩu. CR càng lớn nghĩa là tỷ lệ giá trị hàng hoá bị áp dụng

BPPTQ càng cao.

Cả hai chỉ số FI và CR chỉ phản ánh tỷ lệ số lượng mặt hàng/nhóm mặt hàng,

hoặc tỷ lệ giá trị hàng hóa bị áp dụng BPPTQ nói chung, mà không phản ánh đầy đủ

mức độ tác động khác nhau của BPPTQ đối với các mặt hàng. Cụ thể, chúng không

thể phân biệt được sự ảnh hưởng của BPPTQ khi một mặt hàng/nhóm mặt hàng chỉ

bị áp dụng một biện pháp so với trường hợp một mặt hàng/ nhóm mặt hàng phải chịu

nhiều hơn một biện pháp BPPTQ.

• Điểm số thịnh hành (PS)

Nếu hàng hoá bị áp dụng nhiều hơn một BPPTQ thì chỉ số thịnh hành được sử

dụng. Chỉ số thịnh hành phản ánh số lượng trung bình của các BPPTQ riêng biệt áp

dụng cho các sản phẩm nhập khẩu qua đó đo lường mức độ đa dạng và cường độ của

các BPPTQ (UNCTAD, 2022).

𝑃𝑆 = ∑𝑁𝑖𝑀𝑖 ∑𝑀𝑖

Trong đó, Ni là số lượng trung bình của các BPPTQ áp dụng đối với hàng hoá Mi.

Như vậy, ba chỉ số trên được sử dụng để xác định chỉ số mức độ áp dụng phổ

biến các BPPTQ của các quốc gia, từ đó phản ánh về mặt hình thức mức độ ảnh

hưởng của BPPTQ đối với hàng hóa; gồm tỷ lệ số lượng mặt hàng hoặc nhóm mặt

hàng, tỷ lệ giá trị hàng hóa bị ảnh hưởng bởi BPPTQ, hoặc giá trị trung bình của một

mặt hàng bị ảnh hưởng bởi bao nhiêu loại BPPTQ.

2.2.2. Phương pháp định lượng sử dụng mô hình lực hấp dẫn

Ferrantino (2006) đã trình bày chi tiết về các phương pháp thường được sử

dụng để định lượng tác động của các BPPTQ) lên dòng chảy thương mại và giá cả,

tùy theo từng loại BPPTQ. Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của BPPTQ đến thương

37

mại quốc tế, mô hình lực hấp dẫn là phương pháp được các nhà nghiên cứu áp dụng

phổ biến, như Disdier và Marette (2010), Yousefi và Liu (2013),… Đồng thời, để so

sánh trực tiếp tác động của các BPPTQ đối với thương mại với tác động của thuế

quan đối với thương mại, các nghiên cứu Kee và cộng sự (2009), Beghin và cộng sự

(2014) hay Cadot và cộng sự (2018),… đã sử dụng phương pháp ước lượng tương

đương thuế quan giá trị (AVE) của các BPPTQ.

Từ đầu những năm 1960, Tinbergen (1962) và Pöyhönen (1963) đã cho rằng

dòng chảy thương mại quốc tế có xu hướng lớn hơn giữa các cặp nền kinh tế gần

nhau và và nhỏ hơn giữa các cặp nền kinh tế cách xa nhau hơn. Từ đó, dựa vào thuyết

lực hấp dẫn của Newton, mô hình lực hấp dẫn đã được đưa ra để đánh giá về mức độ

của các dòng thương mại chỉ với ba biến (GDP của nước xuất khẩu, GDP của nước

nhập khẩu và khoảng cách giữa hai quốc gia đó).

Mô hình lực hấp dẫn là một công cụ phổ biến để định lượng tác động của các

yếu tố đến dòng chảy thương mại quốc tế. Mô hình này được xây dựng dựa trên mối

quan hệ giữa quy mô kinh tế và khoảng cách địa lý giữa các quốc gia. Theo mô hình

truyền thống, khoảng cách địa lý đóng vai trò như một rào cản đối với thương mại,

trong khi quy mô kinh tế phản ánh đặc điểm của cả quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu,

ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại giữa hai bên. Cụ thể: thương mại giữa

hai nước i và j là một hàm số phụ thuộc vào quy mô nền kinh tế và khoảng cách địa

lý của hai quốc gia này, theo đó dòng thương mại tỷ lệ thuận với quy mô và tỷ lệ

j

.a=

T ij

YY i D ij

nghịch với khoảng cách (Tinbergen,1962).

Trong đó:

Tij: Kim ngạch thương mại giữa hai nước i và j

α: hằng số

Yi,Yj: Quy mô nền kinh tế của nước i và j

Dij: Khoảng cách giữa hai nước i và j

Mặc dù còn hạn chế do thiếu cơ sở lý thuyết vững chắc, mô hình này vẫn được

đánh giá là một công cụ mạnh mẽ trong nghiên cứu thực nghiệm. Do đó, sau nghiên

cứu của Tinbergen (1962), nhiều nhà nghiên cứu đã tiếp tục ứng dụng và mở rộng

mô hình này nhằm cải thiện độ chính xác và khả năng giải thích trong các phân tích

kinh tế.

Việc sử dụng nhiều các mô hình lực hấp dẫn, đặc biệt là cho các mục đích

38

chính sách ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn. Các nhà nghiên cứu

đã chỉ ra rằng các trở ngại đối với thương mại có thể được coi là các yếu tố bổ sung

làm tăng khoảng cách kinh tế. Do đó, kết quả của nghiên cứu không chỉ cung cấp một

bức tranh tổng thể về các yếu tố chính quyết định thương mại, mà còn xác định tác

động của các chính sách cụ thể như BPPTQ hay FTA. Do đó, các nghiên cứu sau này

đã đưa vào mô hình cơ sở nhiều biến số hơn. Các biến bổ sung có thể được đưa vào

mô hình hầu như không có giới hạn (Ferrantino, 2006) như biến là thành viên của

Hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) (Aitken, 1973); yếu tố khoảng cách văn hóa về

ngôn ngữ (Boisso và Ferrantino, 1997, Noland, 2005), mạng lưới dân tộc (Rauch và

Trinidade, 2002); biến tỷ giá hối đoái đối với thương mại; Hơn nữa, các nhà nghiên

cứu đã đưa thêm các biến liên quan đến chính sách thương mại như thuế quan,

BPPTQ, sự hiện diện hay vắng mặt của các hiệp định thương mại tự do (FTA), tư

cách thành viên trong các tổ chức quốc tế, hay các thước đo về tự do kinh tế, chất

lượng thể chế, tính minh bạch hay tham nhũng cũng đã được sử dụng trong các mô

hình trọng lực (Ferrantino, 2006).

Anderson và Wincoop (2003) đã có đóng góp quan trọng trong việc củng cố

nền tảng lý thuyết cho mô hình lực hấp dẫn bằng cách phát triển mô hình lực hấp dẫn

cấu trúc. Nghiên cứu này dựa trên lý thuyết về hệ số co giãn thay thế không đổi của

Armington (Armington – CES), với giả định rằng hàng hóa được phân biệt theo

nguồn gốc xuất xứ và chịu tác động của hệ số co giãn thay thế.

Với việc đưa BPPTQ vào hệ thống biến của mô hình, mô hình trọng lực đã

được sử dụng phổ biến trong việc đánh giá tác động của BPPTQ đến thương mại quốc

tế (Bao và Qiu, 2010; Melo và cộng sự, 2014).

2.2.3. Phương pháp tiếp cận về giá: ước lượng tương tương thuế quan giá trị

Trong phương pháp ước lượng tương đương thuế quan giá trị (Ad Valorem

Equivalence – AVE) có hai cách tiếp cận về cách tính AVE tương ứng của các

BPPTQ. Một là, cách tiếp cận trực tiếp sẽ là đánh giá sự khác biệt về giá cả trước và

sau khi BPPTQ được áp dụng (Deardorff và Stern, 1997; Dean và cộng sự, 2009,

Rickard & Lei, 2011; Nimenya và cộng sự, 2012). Hai là phương pháp tính AVE gián

tiếp sử dụng độ co giãn của cầu nhập khẩu được phát triển bởi Kee và cộng sự (2009).

Thứ nhất, theo cách tiếp cận trực tiếp của phương pháp ước lượng AVE của

BPPTQ hay còn gọi là phương pháp nêm giá, dựa trên ước tính chênh lệch giữa giá

nhập khẩu và giá trong nước do BPPTQ gây ra do BBPTQ được cho là làm tăng mức

giá mà người tiêu dùng phải trả cao hơn mức giá mà lẽ ra phải trả (Ferrantino, 2006).

39

Từ sự chênh lệch về giá được tính toán này thì một mức thuế nhập khẩu tương đương

được khấu trừ. Mức chênh lệch giữa giá trong nước và giá nhập khẩu chính là do

BPPTQ tạo ra. Do đó, phương pháp này đánh giá tác động của BPPTQ gây ra tương

tự như tác động do thuế quan nhập khẩu gây ra. Phương pháp được đánh giá là tương

đối dễ thực hiện khi có sẵn giá trong nước và giá nhập khẩu của cùng một mặt hàng.

Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế như (1) bằng phương pháp này, các

nhà nghiên cứu mới chỉ lượng hóa được tác động của một số BPPTQ tác động đến

một sản phẩm cụ thể, nhưng chưa thể nói được tác động của từng BPPTQ hay việc

xác định các BPPTQ tác động lên sản phẩm đó; (2) nhiều mặt hàng nhập khẩu và

hàng sản xuất trong nước không có nhãn mác riêng khiến giá cả trên thị trường ngang

nhau; (3) Một nhược điểm khác của phương pháp này là không thể quan sát được giá

trong nước khi không có BPPTQ. Do đó, giá trong nước bị ảnh hưởng bởi các BPPTQ

thường được so sánh trực tiếp với giá quốc tế, bỏ qua tác động có thể có của sự khác

biệt về chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, các BPPTQ xảy ra ở các giai đoạn khác nhau

trong chuỗi cung ứng, trong đó tạo ra sự so sánh các mức giá khác nhau dọc theo

chuỗi sản xuất và phân phối (ví dụ như chi phí, bảo hiểm và vận chuyển (CIF), giao

hàng đã nộp thuế (DDP)) cho một sản phẩm là cần thiết. Và trong trường hợp các

BPPTQ bị cấm, không có mức giá nào có thể quan sát được (Grübler & Reiter, 2016);

(4) Thêm một hạn chế quan trọng của phương pháp này là khả năng thực hiện đối với

các ngành có quy mô lớn, dữ liệu quá lớn để có thể tổng hợp để xác định những khác

biệt cụ thể (Deardorff & Stern, 1997).

Thứ hai, ở một hướng khác, Kee và cộng sự (2009) đã gián tiếp tính toán AVE

của các BPPTQ theo cách tiếp cận hai bước. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đánh giá

tác động của các BPPTQ đối với giá trị nhập khẩu bằng mô hình trọng lực. Các kết

quả sau đó được chuyển đổi thành AVE sử dụng độ co giãn của cầu nhập khẩu, được

ước tính trước. Các tác giả đã chỉ rằng AVE trung bình của tất cả các sản phẩm bị

ảnh hưởng bởi BPPTQ là 45% và 32% khi tính theo giá trị nhập khẩu. Hơn nữa, kết

quả nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt lớn về AVE giữa các sản phẩm và quốc gia, với

AVE cao nhất được tìm thấy đối với các sản phẩm nông nghiệp và đối với các quốc

gia có thu nhập thấp ở Châu Phi. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu của Kee và cộng

sự (2009) là dựa trên mô hình cạnh tranh hoàn hảo, AVE chỉ nhận giá trị dương, nghĩa

là bằng cách sử dụng các tham số hạn chế, Kee và cộng sự (2009) đã buộc tất cả các

BPPTQ chỉ có tác động hạn chế nhập khẩu tương đương với thuế quan và hạn ngạch.

40

Tuy nhiên, các biện pháp phi thuế quan cũng có thể có tác động tạo thuận lợi cho

thương mại trong thực tế thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Beghin và cộng sự

(2014) đã ước tính lại phương pháp trọng lực được đề xuất bởi Kee và cộng sự (2009)

đối với các BPPTQ trong giai đoạn 2001 - 2003, cho phép các giá trị dương và âm

của AVE của BPPTQs. Kết quả chỉ ra rằng 12% tổng số sản phẩm ở cấp HS 6 chữ số

bị ảnh hưởng bởi các quy chuẩn kỹ thuật. Trong số đó, 39% có AVE âm, tức là

BPPTQ có tác động tạo thuận lợi cho nhập khẩu. Bratt (2014) kết luận rằng về tổng

thể, các biện pháp phi thuế quan có tác động cản trở hơn là tạo thuận lợi cho thương

mại, với AVE trung bình là 15,7%. Tuy nhiên, 46,1% trong tất cả các AVE được tính

toán có tác động tích cực đến thương mại. So sánh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu

và doanh nghiệp nhập khẩu ở các quốc gia có thu nhập khác nhau giữa lĩnh vực thực

phẩm và chế tạo, Bratt (2017) đã chỉ ra rằng AVE của các BPPTQ cao nhất đối với

các quốc gia thu nhập thấp trong cả hai lĩnh vực. Ngoài ra, Bratt (2017) cũng nhấn

mạnh rằng các BPPTQ tác động tới lĩnh vực thực phẩm nhiều hơn so với các BPPTQ

trong lĩnh vực sản xuất chế tạo.

Ưu điểm chính của phương pháp sử dụng mô hình lực hấp dẫn để gián tiếp suy

ra AVE so với phương pháp tiếp cận về giá trực tiếp (nêm giá, chênh lệch giá phía trên)

là mô hình lực hấp dẫn được sử dụng dựa trên dữ liệu thương mại phong phú hơn ở cấp

độ sản phẩm được phân tách rõ ràng so với dữ liệu về giá. Ngoài ra, mô hình lực hấp dẫn

cũng có thể được sử dụng để phân tích bảng số liệu mảng rộng cho một nhóm lớn các

quốc gia và sản phẩm với các BPPTQ khác nhau phát triển theo thời gian. Tuy nhiên,

cách suy ra AVE gián tiếp như Kee và cộng sự (2009) cũng có nhược điểm là không

phân biệt được chất lượng hàng nội với hàng ngoại, ảnh hưởng đến tác động của các

BPPTQ (nhược điểm giống như cách tính chênh lệch giá).

Ngoài ra, để đánh giá tác động của BPPTQ đối với thương mại, các nhà nghiên

cứu còn sử dụng mô hình cân bằng từng phần (PE) như Van Tongeren và cộng sự (2009);

Beghin và cộng sự (2012); mô hình cân bằng tổng thể (CGE) như Ganslandt và

Markkusen (2001), Yew và cộng sự (2020). Các tác giả đã làm rõ cả hai chiều hướng

tác động của các BPPTQ, bao gồm tác động tiêu cực và tác động tích cực. Đồng thời,

nghiên cứu cũng giải thích được cách thức BPPTQ có thể cản trở thương mại hoặc

thúc đẩy cầu của hai BPPTQ SPS và TBT, mặc dù mức độ ảnh hưởng thương mại có

thể khác nhau, trong nông nghiệp và đối với lĩnh vực thực phẩm, các biện pháp này

41

đang hạn chế mạnh mẽ thương mại.

2.3. Xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản

2.3.1. Quan niệm về hàng nông sản

Hiện nay, quan điểm về hàng nông sản trên thế giới vẫn chưa có sự thống nhất.

Theo định nghĩa của Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO), nông sản bao gồm các

sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp, có thể tồn tại dưới dạng thô hoặc đã qua chế

biến (không gồm nước, muối và các chất phụ gia). FAO phân chia nông sản thành

các nhóm sản phẩm cụ thể như nhóm nông sản nhiệt đới; nhóm thịt và các sản phẩm

từ thịt, nhóm dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu; nhóm sữa và các chế phẩm từ sữa,

nhóm nông sản nguyên liệu, nhóm rau quả.

Theo Hiệp định Nông nghiệp (AoA) của WTO, hàng nông sản được định nghĩa

trong mối liên quan đến Hệ thống hài hòa phân loại sản phẩm (HS). Theo đó, hàng

nông sản chính là các hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp, thuộc

Chương I đến Chương XXIV của Hệ thống thuế mã HS, trừ cá (HS03) và các sản

phẩm từ cá (HS16 gồm HS1604, HS1605). Như vậy, hàng hoá nông sản gồm các

mặt hàng hàng là sản phẩm từ nông nghiệp cơ bản và tất cả các mặt hàng có nguồn

gốc và được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp cơ bản.

Khác với quan điểm của WTO, pháp luật Việt Nam quy định “nông sản là sản

phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, diêm nghiệp” (Khoản 7 Điều

3 Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông

nghiệp, nông thôn). Như vậy, nông nghiệp theo quan điểm của Việt Nam được hiểu

theo nghĩa rộng nhưng các mặt hàng do ngành chế biến nông lâm thuỷ sản tạo ra lại

được xếp vào sản phẩm của ngành công nghiệp.

Hiện nay, quan niệm của WTO được các quốc gia áp dụng nhiều nhất. Phân

loại của WTO cũng là căn cứ để thống nhất quản lý hoạt động thương mại hàng nông

sản trên toàn thế giới một cách thống nhất theo hệ thống HS.

Trong các nghiên cứu khoa học, quan niệm về hàng nông sản của WTO cũng

được các nhà nghiên cứu trên thế giới áp dụng vì sự thuận tiện trong thu thập dữ liệu

nghiên cứu đồng bộ giữa các nước, từ đó đưa ra được nhưng đánh giá liên quan đến

thương mại nông sản một cách thống nhất và chính xác.

2.3.2. Quan niệm về xuất khẩu nông sản và các yếu tố tác động đến xuất khẩu

nông sản

2.3.2.1. Xuất khẩu nông sản

Theo các học thuyết về thương mại quốc tế, khi quá trình phân công lao động

42

xã hội đạt đến một mức độ nhất định, chuyên môn hóa sản xuất sẽ diễn ra, góp phần

nâng cao năng suất. Kết quả là lượng hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều, không

chỉ đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tất yếu dẫn đến sự mở rộng

trao đổi hàng hóa ra ngoài phạm vi quốc gia. Theo Salvatore (2019), xuất khẩu là

hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các quốc gia khác trên

thế giới dưới hình thức mua bán thông qua các quan hệ thị trường nhằm mục đích thu

ngoại tệ. Như vậy, hoạt động xuất khẩu chính là hoạt động trao đổi hàng hoá vượt qua

biên giới của một quốc gia. Tương tự, trong pháp luật thương mại Việt Nam, “xuất

khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu

vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy

định của pháp luật” (khoản 1, điều 28, Luật Thương mại 2005).

Nông sản là một loại hàng hoá được mua bán, trao đổi, do đó, XKNS là

việc một quốc gia bán nông sản sang các quốc gia trên thế giới, nhằm mục đích

thu lợi nhuận.

Căn cứ vào các hình thức xuất khẩu nói chung, XKNS được thực hiện qua các

hình thức gồm xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu trung gian, xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập

tái xuất.

- Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức XKNS trong đó người mua và người bán

thiết lập quan hệ trực tiếp mà không qua trung gian. Quá trình này diễn ra thông qua

các phương thức như gặp gỡ trực tiếp, trao đổi thư tín hoặc các kênh liên lạc khác để

đàm phán về giá cả, điều kiện giao dịch và các thỏa thuận thương mại.

- Xuất khẩu trung gian (hình thức XKNS ủy thác): đây là hình thức bán hàng

nông sản thông qua nhân tố trung gian thứ ba, nhân tố trung gian thứ ba thường là

các đại lý, doanh nghiệp xuất nhập khẩu hay các doanh nghiệp vận tải. XKNS ủy thác

thường xảy ra khi người sản xuất nông sản không đủ điều kiện hoặc năng lực để xuất

khẩu nên trực tiếp ủy thác cho bên trung gian để tiến hành xuất khẩu. Phía bên được

ủy thác sẽ thu phí ủy thác từ hoạt động ủy thác này. Hình thức này khá phổ biến tại

các quốc gia đang phát triển.

- Xuất khẩu hàng nông sản tại chỗ: là hình thức mà hàng nông sản được bán cho

người nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia của bên xuất khẩu. Đặc điểm của hình thức

này là bên xuất khẩu không cần phải tìm kiếm bên nhập khẩu mà ngược lại bên nhập

khẩu sẽ đến đàm phán trực tiếp với bên xuất khẩu. Với hình thức này tất cả các hoạt

43

động như hải quan, vận tải,… thường sẽ do bên nhập khẩu thực hiện.

- Tạm nhập tái xuất: Là hình thức xuất khẩu trở lại những hàng nông sản được

nhập từ nước khác chưa qua chế biến ở nước tái xuất.

Thương mại nông sản nói chung và XKNS nói riêng luôn đóng một vai trò quan

trọng đối với an ninh lương thực toàn cầu, bằng cách đảm bảo rằng thâm hụt lương

thực tạm thời hoặc kéo dài do khí hậu bất lợi và các điều kiện khác từ thị trường thế

giới có thể được đáp ứng. Thương mại nông sản ở nhiều nước là một phần quan trọng

của hoạt động kinh tế nói chung và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong sản

xuất nông nghiệp của quốc gia như: (i) Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế; (ii) Mở

rộng thị trường xuất khẩu (iii) Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế (iv) Góp phần giải

quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các tầng lớp dân cư (v)

Góp phần giúp hội nhập sâu rộng vào hoạt động kinh tế quốc tế và tăng cường quan

hệ đối ngoại với các nước.

Hơn nữa, mặt hàng nông sản có những đặc điểm riêng biệt khiến nó khác biệt

so với các loại hàng hóa khác trong hoạt động xuất khẩu. Trước tiên, nông sản thường

là hàng hóa có tính chất thời vụ cao, phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất và điều kiện thời

tiết. Điều này dẫn đến nguồn cung không ổn định và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố

ngoại cảnh như thiên tai hay biến đổi khí hậu. Thứ hai, nông sản là loại hàng hóa có

tính dễ hư hỏng, đòi hỏi phải có các biện pháp bảo quản và vận chuyển đặc biệt như

kho lạnh hay đóng gói phù hợp để duy trì chất lượng. Ngoài ra, nông sản thường

mang tính chất thô sơ, giá trị gia tăng thấp nếu không qua chế biến, điều này khiến

giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng nguyên liệu thô và thị trường tiêu

thụ. Cuối cùng, các quy định về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và

truy xuất nguồn gốc là những rào cản kỹ thuật đặc thù trong XKNS, đòi hỏi nhà xuất

khẩu phải tuân thủ nghiêm ngặt để đáp ứng yêu cầu của các thị trường quốc tế. Những

đặc điểm này tạo nên sự khác biệt lớn của hàng nông sản so với các mặt hàng công

nghiệp hay dịch vụ khác trong thương mại quốc tế, yêu cầu các doanh nghiệp và quốc

gia XKNS phải đầu tư vào công nghệ bảo quản, chế biến và đáp ứng các tiêu chuẩn

quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh.

2.3.2.2. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản

Hoạt động XKNS là hoạt động mua bán nông sản giữa hai quốc gia, trong đó,

bên bán là quốc gia xuất khẩu và bên mua là quốc gia nhập khẩu. Do đó, xác định các

44

yếu tố tác động đến XKNS là xác định tất cả các yếu tố tác động tới xuất khẩu của

quốc gia bán và các yếu tố tác động tới nhập khẩu của quốc gia mua. Các lý thuyết

của Anderson (1979), Eaton và Kortum (2002), và Chaney (2008); Melitz và cộng sự

(2008) đã cho thấy rằng các hoạt động thương mại của hai quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng

của 3 nhóm yếu gồm các yếu tố tác động từ phía cầu nhập khẩu, các yếu tố tác động

từ phía cung xuất khẩu và các yếu tố hấp dẫn hoặc cản trở thương mại. Hoạt động

XKNS cũng là một hoạt động thương mại quốc tế; do đó, về mặt lý thuyết chung,

hoạt động XKNS cũng chịu tác động của 3 nhóm yếu tố này. Hình 2.1 minh hoạ các

nhóm yếu tố tác động đến XKNS.

Hình 2.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu

• Nhóm yếu tố tác động từ phía cung tác động đến XKNS

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Nhóm yếu tố từ phía cung đánh giá năng lực, quy mô sản xuất và XKNS

bao gồm các yếu tố như sự phát triển của nền kinh tế trong nước thể hiện quy mô

và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (đại diện bởi GDP hoặc GDP bình quân đầu

người), quy mô dân số, tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp, diện tích

đất nông nghiệp.

- Quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của nước xuất khẩu

45

Quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế được đại diện bởi GDP hoặc GDP

bình quân đầu người GDP là một chỉ số đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc

gia trong một khoảng thời gian nhất định. Khi GDP tăng cao, có nghĩa là nền kinh tế

đang tăng trưởng, sản lượng và thu nhập của người dân đều tăng lên. Ngược lại, khi

GDP giảm thấp, có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái, sản lượng và thu nhập của

người dân đều giảm đi. Kinh tế tăng trưởng sẽ thúc đẩy sản xuất và sử dụng hiệu quả

các nguồn lực, tăng năng suất lao động và lợi nhuận cho doanh nghiệp, khuyến khích

sự đầu tư vào công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, mở rộng và đa dạng hóa

thị trường, giảm rủi ro và gia tăng cạnh tranh cho các sản phẩm của quốc gia, nâng

cao uy tín và hình ảnh của quốc gia trên thị trường quốc tế, góp phần xây dựng quan

hệ hợp tác và hữu nghị với các nước đối tác, thúc đẩy xuất khẩu.

Như vậy, quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thường có tác động

cùng chiều với xuất khẩu. Tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, góp phần đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Một

quốc gia có quy mô và tốc độ tăng trưởng tốt tạo điều kiện góp phần nâng cao năng

lực sản xuất và phát triển các ngành công nghiệp, trong đó có ngành nông sản. Đây

là yếu tố then chốt để nâng cấp thành phần các sản phẩm xuất khẩu. Thực tiễn đã

chứng minh rằng một quốc gia có nền tảng công nghiệp mạnh mẽ sẽ thúc đẩy sản

xuất và xuất khẩu hàng hóa.

- Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực hay tỷ lệ dân số lao động trong ngành

nông nghiệp

Quy mô dân số tác động đến kim ngạch xuất khẩu, đại diện cho quy mô lao

động và quy mô thị trường thông qua quy mô sản xuất của nước xuất khẩu. Đây là

một yếu tố quan trọng đối với xuất khẩu. Theo lý thuyết Heckscher-Ohlin, nếu một

nền kinh tế có lợi thế tốt về nguồn lực nào thì sẽ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa

chuyên sâu về nguồn lực đó. Ngành nông sản có đặc trưng là sử dụng nhiều lao động;

ngành nông sản thâm dụnng về lao động, do đó, lao động là yếu tố quan trọng trong

ngành. Một quốc gia có quy mô dân số lớn sẽ có khả năng tăng cung ứng nguồn lao

động ra thị trường, từ đó tăng lao động sản xuất và lượng xuất khẩu. Đồng thời, nguồn

nhân lực có kỹ năng và trình độ cao là yếu tố cốt lõi để đạt được chất lượng sản phẩm

mong muốn và giảm giá thành sản xuất. Kỹ năng kỹ thuật cao không chỉ giúp tối ưu

hóa quy trình sản xuất thông qua việc giảm thiểu lỗi và tăng hiệu suất làm việc, mà

còn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng. Điều này đặc biệt

46

quan trọng trong ngành nông sản.

- Diện tích đất nông nghiệp

Lý thuyết Heckscher-Ohlin, một phần của lý thuyết tài nguyên và thương mại

quốc tế, tập trung vào vai trò của tài nguyên và nhân công trong quá trình quyết định

thương mại. Theo Heckscher-Ohlin, quỹ đất nông nghiệp có sẵn trong một quốc gia

sẽ ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của quốc gia đó trong việc sản xuất và XKNS.

Nếu một quốc gia có tỷ lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất cao, điều

này có thể gợi ý rằng quốc gia đó có một lợi thế so sánh trong việc sản xuất nông sản.

Lý do là quỹ đất nông nghiệp đủ lớn có thể hỗ trợ sản xuất nông sản với giá thành

thấp hơn. Khi có lợi thế về giá thành, quốc gia có thể sản xuất nông sản với chi phí

thấp hơn và có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp tỷ

lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất của một quốc gia thấp hơn, điều này có thể

ảnh hưởng đến khả năng XKNS của quốc gia đó. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp

thấp không đồng nghĩa là một trở ngại đối với việc XKNS. Các quốc gia có thể sử

dụng tài nguyên khác như nhân công hoặc vốn đầu tư để nâng cao năng suất và hiệu

• Nhóm yếu tố tác động từ phía cầu tác động đến XKNS

suất trong nông nghiệp.

Nhóm yếu tố từ phía cầu đánh giá năng lực, quy mô nhập khẩu, nhu cầu tiêu

thụ nông sản của nước nhập khẩu bao gồm các yếu tố như sự phát triển của nền kinh

tế trong nước thể hiện quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (đại diện bởi

GDP hoặc GDP bình quân đầu người), quy mô dân số, tỷ lệ dân số lao động trong

ngành nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp, thị hiếu người tiêu dùng (đại diện bởi

yếu tố văn hoá).

- Quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: đây là yếu tố thể hiện khả năng

tiêu thụ của nước nhập khẩu và thu nhập của người dân nước nhập khẩu. Nếu quy mô

nền kinh tế (GDP) càng lớn thì thu nhập bình quân đầu người càng tăng, điều đó cho

thấy người dân có thu nhập tốt thì sẽ gia tăng nhu cầu tiêu dùng, từ đó gia tăng lượng

nhập khẩu. Nên các quốc gia xuất khẩu có thể gia tăng nguồn cung ứng xuất khẩu

của mình vào quốc gia nhập khẩu.

- Quy mô dân số của nước nhập khẩu: Dân số nước nhập khẩu thể hiện quy mô

thị trường nhập khẩu. Theo lý thuyết thì dân số nước nhập khẩu càng nhiều khả năng

nhập khẩu càng nhiều và từ đó sẽ càng làm lượng tăng xuất khẩu của nước xuất khẩu.

Đặc biệt là trong lĩnh vực nông sản là mặt hàng thiết yếu, dân số càng lớn thì nhu cầu

47

về nông sản, thực phẩm càng lớn.

- Tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp: Khi nước nhập khẩu có tỷ lệ dân

số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp nhỏ có thể dẫn đến sản lượng nguồn cung nông

sản trong nước nhỏ, từ đó thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu để đáp ứng đủ lương thực, thực

phẩm và tác động tích cực đến xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào tỷ lệ lao động

trong ngành nhỏ cũng đồng nghĩa với năng suất và sản lượng không cao. Có những quốc

gia với trình độ khoa học kĩ thuật cao, cơ giới hoá trong nông nghiệp tốt thì dẫn đến năng

suất và chất lượng vẫn cao, từ đó sẽ hạn chế lượng nhập khẩu.

- Tỷ lệ đất nông nghiệp: Nước nhập khẩu nông sản mà có diện tích đất nông

nghiệp nhỏ, sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều các mặt hàng nông sản hơn là các quốc

gia có tỷ lệ đất nông nghiệp lớn.

- Thị hiếu người tiêu dùng: Đây cũng là một yếu tố quan trọng. Người tiêu dùng

thường sẽ lựa chọn sản phẩm theo văn hoá, sở thích ẩm thực, ý thức bảo vệ môi

trường,… Vì nông sản là mặt hàng thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con

người nên người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đế chất lượng sản phẩm như thành phần,

nguồn gốc của sản phẩm,… Do đó, chất lượng và thương hiệu nông sản đáp ứng được

các yêu cầu thị hiếu người tiêu dùng thì sẽ tác động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu

và ngược lại. Do đó, trước khi XKNS sang một quốc gia, doanh nghiệp xuất khẩu cần

• Nhóm yếu tố cản trở/hấp dẫn thương mại nông sản

tìm hiểu kĩ thị hiếu người tiêu dùng.

Nhóm yếu tố cản trở/hấp dẫn XKNS bao gồm các yếu tố về tự nhiên (khoảng

cách địa lý giữa hai quốc gia, chung đường biên giới quốc gia), chính sách thương

mại quốc tế của quốc gia như chính sách thuế quan, chính sách phi thuế quan, chính

- Các yếu tố về tự nhiên:

sách tỷ giá hối đoái.

Khoảng cách giữa hai quốc gia là một yếu tố cơ bản trong mô hình trọng lực

hấp dẫn khi nghiên cứu về thương mại hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói

riêng. Khoảng cách chính là đại diện cho chi phí vận chuyển và giao dịch giữa hai

quốc gia; khoảng cách càng xa thì chi phí vận chuyển càng lớn, tác động tiêu cực đến

dòng thương mại khi làm tăng chi phí biến đổi của sản phẩm. Khoảng cách đã được

chứng minh là tỷ lệ nghịch với kim ngạch xuất khẩu. Đây là yếu tố cản trở thương

mại (Tinbergen, 1962; Poyhonen, 1963; Anderson và Wincoop, 2003). Do đó, các

quốc gia thường có xu hướng có quan hệ thương mại với các quốc gia láng giềng, có

48

chung đường biên giới quốc gia hơn với các quốc gia có khoảng cách xa.

- Chính sách thuế quan:

Thuế quan là một trong các công cụ chính sách quan trọng trong thương mại

quốc tế. Các quốc gia thường sử dụng công cụ thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu

nhằm mục bảo hộ doanh nghiệp nội địa, giúp cho hàng hoá nội địa có năng lực cạnh

tranh hơn đối với hàng ngoại nhập vì giá của hàng nhập khẩu khi bị áp thuế quan sẽ

cao hơn so với hàng nội địa. Thuế quan sẽ được các doanh nghiệp tính toán và đưa

vào chi phí biến đổi của doanh nghiệp và tính vào cấu thành giá sản phẩm bán ra. Vì

vậy, thuế quan sẽ có ảnh hưởng lớn đến đến lượng hàng xuất khẩu.

Thông qua các lý thuyết về đánh giá tác động của thuế quan, thuế quan có thể

tác động khác nhau đối với các chủ thể khác nhau trong một quốc gia; tuy nhiên, về

lâu về dài, thuế quan luôn có tác động tiêu cực, gây tổn thất đối với lợi ích của người

tiêu dùng và lợi ích tổng thể của xã hội. Do đó, WTO luôn khuyến nghị với các quốc

gia thực hiện chính sách giảm bớt, hướng tới xoá bỏ thuế quan, giúp cho thương mại

tự do hơn. Thực tiễn thương mại quốc tế đã chứng minh rằng thuế quan trung bình

của thế giới đã giảm rất nhiều trong nhiều thập kỷ trong xu hướng toàn cầu hoá và

khu vực hoá nền kinh tế thế giới khi các quốc gia đã ký kết hàng loạt cácFTA. Thuế

quan theo các cam kết trong các FTA đối với hàng nông sản đang được cắt giảm,

thậm chí về 0%. Do đó, thuế quan giảm sẽ thúc đẩy XKNS.

- Chính sách phi thuế quan:

Trong khi thuế quan có xu hướng giảm nhưng các BPPTQ lại có xu hướng ngày càng

tăng lên. Đặc biệt đối với hàng nông sản là một mặt hàng mà yêu cầu về xuất xứ, các

yêu cầu về kĩ thuật trong thương mại, bảo vệ môi trường, lao động,…hiện nay đang

rất được quan tâm. Các BPPTQ có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực thương mại

nông sản. Nếu các quốc gia xuất khẩu có thể đáp ứng tốt các quy định về các BPPTQ

thì về lâu dài sẽ mang đến các tác động tích cực, thúc đầy xuất khẩu bền vững; ngược

lại, các BPPTQ sẽ là nhân tố kìm hãm XKNS.

- Chính sách về tỷ giá hối đoái:

Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị của hai loại tiền tệ. Mục tiêu thực

hiện các chính sách tỷ giá hối đoái của một quốc gia là kiểm soát lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu,

cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,… Đối với hoạt động xuất khẩu nói chung và XKNS

49

nói riêng, tỷ giá hối đoái có thể mang đến tác động tích cực hoặc tiêu cực. Khi tỷ giá hối

đoái thấp, đồng nghĩa với giá trị đồng nội tệ cao sẽ khiến cho giá cả hàng hóa xuất khẩu

tăng cao hơn so với giá hàng hóa của nước nhập khẩu. Do đó, hàng nông sản xuất khẩu

bị giảm năng lực canh tranh, hạn chế người mua, từ đó dẫn đến XKNS bị giảm sút.

Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái cao, giá trị đồng nội tệ thấp sẽ làm cho giá cả hàng nông

sản xuất khẩu thấp hơn hàng hóa của các quốc gia khác, làm tăng khả năng cạnh tranh;

thúc đẩy sản lượng tiêu thụ của nước nhập khẩu; từ đó thúc đẩy XKNS. Do đó, các quốc

gia cần phải có những chính sách phù hợp trong quá trình điều tiết công cụ tỷ giá hối

đoái trong các giai đoạn lịch sử.

- Các chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế:

Xu hướng của các quốc gia hiện nay là tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế

quốc tế thế giới và khu vực, đặc biệt thông qua việc ký kết các FTA thế hệ mới đã

tạo ra những cơ hội lớn đặc biệt là các ưu đãi về thuế quan đã giúp các doanh nghiệp

mở rộng thị trường, từ đó thúc đẩy phát triển XKNS. Bên cạnh đó, các FTA giúp cải

thiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu từ các nước. Tuy nhiên, các quy định về xuất

xứ, hàng rào kỹ thuật, các điều khoản về lao động, môi trường quy định trong các

FTA cũng có thể tạo ra các thách thức lớn các quốc gia XKNS do chưa đủ điều kiện

đáp ứng được các quy định. Điều này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới XKNS.

- Chính sách về thu hút đầu tư vào ngành nông sản:

Đầu tư nước ngoài là nguồn lực tài chính quan trọng trong phát triển sản xuất,

từ đó có thể tác động làm gia tăng XKNS. Ngoài ra, việc thu hút được nguồn lực này

cũng gián tiếp làm tăng mặt bằng khoa học công nghệ của quốc gia và từ đó có ảnh

hưởng tốt đến việc tăng năng suất và khả năng XKNS.

Như vậy, thông qua phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động XKNS có thể

thấy, cả ba nhóm yếu tố trên đều đóng vai trò rất quan trọng. Các nhân tố trên vừa có

tác động hút (nước nhập khẩu) và cũng có tác động đẩy (nước xuất khẩu) khiến hoạt

động thương mại giữa các quốc gia có thể được thúc đẩy hoặc bị hạn chế. Do đó, để

giúp các hoạt động XKNS được thúc đẩy, các quốc gia xuất khẩu cần nghiên cứu kĩ

lưỡng các nhóm yếu tố này để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy

hoạt động XKNS.

2.4. Lý luận về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản

2.4.1. Minh hoạ về tác động của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu

BPPTQ là những công cụ chính thương mại phức tạp. Các BPPTQ hoạt động

50

thông qua nhiều kênh ảnh hưởng và có nhiều tác động không chỉ đối với thương mại

mà còn đối với phúc lợi và phân phối thu nhập. Tác động của các BPPQT cũng có

thể tương tác với cấu trúc thị trường vì các BPPTQ có thể phân khúc thị trường và

tạo ra sức mạnh thị trường (Fugazza, 2013). Các nhà nghiên cứu thường lựa chọn

cách tiếp cận trực tiếp thông qua việc đo lường những thay đổi về giá cả hay khối

lượng hàng hoá trên thị trường để đánh giá tác động của các BPPTQ.

Tác động thương mại của các BPPTQ có thể nghiên cứu thông qua dịch

chuyển của đường cung và cầu. Fugazza (2013) đã minh hoạ tác động của các BPPTQ

đối với giá cả và số lượng giao dịch. Các BPPTQ ảnh hưởng đến số lượng (q) và giá

cả (p) được giao dịch và thực hiện các BPPTQ dẫn đến sự dịch chuyển nhu cầu cho

những thay đổi trong chi phí và hành vi tiêu dùng.

Đầu tiên, Fugazza (2013) đã xem xét tác động của nội địa hóa đến người tiêu

dùng không phụ thuộc vào việc thực hiện BPPTQ hay không (Hình 2.2). Với giả định

trong một thị trường với một hàng hóa, hàng hóa và thị trường đồng nhất (các loại

hàng hóa có thể thay thế hoàn hảo cho nhau). Cầu bắt đầu có dạng hàm sở thích bậc

hai: hàm này ngụ ý rằng sự hài lòng từ tiêu dùng tăng với tốc độ giảm dần làm phát

sinh mối quan hệ tuyến tính giữa giá và lượng cầu. Cung trong và ngoài nước từ hàm

chi phí sản xuất bậc hai: S là tổng nguồn cung (trong và ngoài nước), SF là nguồn

cung nước ngoài. Đường cầu dịch chuyển sang trái (từ D sang D’) dẫn đến nhu cầu

và giá giảm dịch chuyển từ qA sang qA′ (do nhập khẩu giảm), và pA sang p ′; lúc này

điểm cân bằng mới chuyển từ A ′sang A1.

Trong khi đó, các nhà sản xuất nước ngoài khi muốn thực hiện tuân thủ các

BPPTQ sẽ phải mất các chi phí sản xuất, khiên cho nguồn cung bị giảm (Hình 2.3).

Đường cung lúc này sẽ dịch chuyển từ SF′ sang SF′′. Sau khi thực hiện các BPPTQ,

giá trong nước tăng (từ pA′ lên pA′′), nhập khẩu giảm, do đó tiêu dùng trong nước

cũng giảm (chuyển từ pA′ sang pA′′ ). So với trạng thái cân bằng ban đầu (A1), tác

động tổng thể của việc nội địa hóa tác hại chi phí và thực hiện các BPPTQ là làm

giảm lượng tiêu thụ, dịch chuyển từ qA′′ xuống qA và tác động vô thời hạn đến giá

51

cân bằng (Fugazza, 2013).

Hình 2.2. Cung và cầu thay đổi do thực

Hình 2.3. Cung và cầu thay đổi do thực

hiện các BPPTQ (Nội địa hoá chi phi phí hiện các BPPTQ (Áp dụng tiêu chuẩn

thiệt hại) chung)

Nguồn: Fugazza (2013)

Như vậy, tác động của các BPPTQ đến XKNS mang những đặc điểm chung

của tác động của BPPTQ đối với tất cả các ngành hàng trong thương mại quốc tế, bao

gồm cả tác động tích cực và tác động tiêu cực.

2.4.2. Tác động tiêu cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản

Các nhà nghiên cứu như Salvatore (2019) đã đánh giá các tác động của một số

BPPTQ truyền thống như hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp

xuất khẩu,... tới dòng thương mại. bằng phương pháp phân tích mô hình đường cung

cầu thị trường Salvatore (2019) đã đánh giá tác động của hạn ngạch nhập khẩu và so

sánh biện pháp này với thuế nhập khẩu. Kết quả chỉ ra rằng việc áp dụng hạn ngạch

nhập khẩu đối với một hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có thể làm tăng giá hàng

hóa ở thị trường nội địa, từ đó làm giảm lượng hàng nhập khẩu, giúp sản xuất nội địa

được thúc đẩy. Đồng thời, hạn ngạch nhập khẩu sẽ khiến cho giá cả hàng hóa tăng

nhiều hơn khi so sánh với một mức thuế quan gây ra sự tăng giá tương ứng nếu có sự

thay đổi tăng của cầu trong nước.

Krugman & cộng sự (2012) lại chỉ ra rằng hạn chế xuất khẩu tự nguyện

(voluntary export restraint – VER) cũng có tác động đến giá cả và khối lượng hàng

hóa thương mại quốc tế, tuy nhiên chi phí để thực hiện VER lại cao hơn so với việc

thực hiện một hàng rào thuế quan mang đến tác động tương đương.

52

Như vậy, tác động tiêu cực của các BPPTQ đến xuất khẩu bao gồm:

Thứ nhất, BPPTQ có thể làm cho lượng hàng hoá xuất khẩu bị giảm đi. Tác

động này xuất phát từ mục đích áp dụng BPPTQ ban đầu của các quốc gia nhập khẩu

là muốn bảo hộ sản xuất nội địa, tạo ra các rào cản đối với hàng hoá nước ngoài. Với

những tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh tiên tiến, cùng với các biện pháp hết sức khắt

khe, để vượt qua các rào cản kỹ thuật đối với các nước đang phát triển là một thách

thức lớn, bên cạnh đó những tiêu chuẩn này lại thường xuyên thay đổi và nâng cao.

Chính vì vậy, BPPTQ sẽ có những tác động cản trở đối với nước xuất khẩu, gây khó

khăn đến việc xuất khẩu và làm giảm tổng kim ngạch XKNS.

Thứ hai, BPPTQ làm cho giá cả của hàng hoá xuất khẩu vào thị trường nhập

khẩu cao lên và giảm lợi nhuận của các doanh nghiêp của nước xuất khẩu vì các chi

phí cho việc đáp ứng các BPPTQ tăng lên như chi phí sản xuất, quản lý, chi phí chứng

minh sự phù hợp,... Nếu các doanh nghiệp xuất khẩu muốn đáp ứng được các quy

định liên quan đến các BPPTQ như về chất lượng, đóng gói, ghi nhãn, kiểm định,

chứng nhận… thì cần đầu tư vào máy móc, thiết bị, quy trình quản lý và công nghệ.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể bị kiện do tranh chấp trong thương mại quốc tế

dẫn đến phải chịu thêm các chi phí phán quyết bất lợi, chi phí theo kiện, kháng kiện…

Những chi phí trên tăng lên sẽ làm cho lợi nhuận cũng sẽ bị giảm đi.

Thứ ba, BPPTQ là thay đổi độ co giãn của cầu hàng hoá. Đây là một tác động

rất quan trọng của BPPTQ khi mà giá cả hàng hoá khi xuất khẩu sang thị trường nhập

khẩu thay đổi, dẫn đến hành vi của người tiêu dùng lại thị trường nhập khẩu cũng

thay đổi theo.

Thứ tư, các BPPTQ làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước xuất

khẩu. Lý do bởi chi phí tăng dẫn tới các doanh nghiệp xuất khẩu phải tăng giá bán,

điều này làm giảm năng lực cạnh tranh so với các mặt hàng tương tự ở nước nhập

khẩu. Ngoài ra, khi áp những BPPTQ lên các mặt hàng xuất khẩu sẽ gây ra tâm lý e

ngại cho doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng đó.

Thứ năm, bên cạnh những tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu

đã đề cập trên thì các BPPTQ còn gián tiếp ảnh hưởng tới người lao động trong các

ngành sản xuất xuất khẩu, gây xáo trộn đời sống người sản xuất do doanh nghiệp phải

thường xem xét tới chuyển hướng sang thị trường khác do gặp nhiều khó khăn bởi

các BPPTQ.

Thứ sáu, BPPTQ tác động tới chi phí phúc lợi do sự thay đổi về giá và độ co

giãn đối với cầu nhập khẩu, thặng dư sản xuất và tiêu dùng của quốc gia nhập khẩu

áp dụng các BPPTQ sẽ bị thay đổi và từ đó sẽ khiến phúc lợi trên toàn thị trường thay

53

đổi theo.

Thứ bảy, bên cạnh các chi phí liên quan tới thị trường, BPPTQ còn tác động

đến chi phí cho các nguồn lực như chi phí thực thi, quản lý, giám sát thực hiện các

BPPTQ. Việc đo lường hay ước lượng để đánh giá tác động đến chi phí này được

đánh giá là rất khó khăn.

2.4.3. Tác động tích cực của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu nông sản

Mặc dù nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng BPPTQ đã và đang trở thành rào cản của

thương mại quốc tế, gây ra nhiều tác động tiêu cực tới xuất khẩu hàng hoá của các

quốc gia, tuy nhiên, trên phương diện cơ sở lý luận, cũng có nhiều tác động tích cực

được nhìn thấy khi các BPPTQ được áp dụng.

- Thúc đẩy thương mại: Việc các quốc gia áp dụng nhiều BPPTQ không phải

là các rảo cản, dù có thể mang lại tác động tiêu cực nhưng vẫn mang lại những tác

động tích cực. Ví dụ như khi có sự khác biệt về các quy định về tiêu chuẩn như tiêu

chuẩn chất lượng tối thiểu thì sẽ giúp làm tăng lòng tin của người tiêu dùng, giảm chi

phí giao dịch và thúc đẩy thương mại (Grübler và Reiter, 2016).

- Những khó khăn do các BPPTQ gây ra sẽ tạo động lực cho nước xuất khẩu

nâng cao nhận thức trong thương mại quốc tế, sẵn sàng đáp ứng với các quy định và

tiếp tục xuất khẩu sang thị trường của nước đối tác; thúc đẩy các doanh nghiệp xuất

khẩu chủ động tìm hiểu luật, quy định, quy tắc của nước nhập khẩu.

- Những quy định khắt khe từ nước đối tác sẽ tạo động lực cho các doanh

nghiệp xuất khẩu nâng cao chất lượng, đổi mới kỹ thuật, công nghệ và nâng cao năng

lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhờ đó chất lượng sản phẩm sẽ ngày được tăng lên.

Hơn nữa, các nhà sản xuất và xuất khẩu có năng lực khác nhau để đáp ứng với các

BPPTQ mới, điều đó dẫn đến việc tăng tính cạnh tranh trong nước; do đó, thúc đẩy

doanh nghiệp xuất khẩu tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng hàng hóa vượt qua

các BPPTQ, tăng năng lực cạnh trạnh cho doanh nghiệp trong nước.

- Các BPPTQ có thể ảnh hưởng tích cực đến vấn đề bảo vệ môi trường. Các

BPPTQ đặc biệt là nhóm biện pháp về kỹ thuật đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ

môi trường. Khi áp dụng một biện pháp kỹ thuật về môi trường trong thương mại cần

xem xét các yếu tố: Mục tiêu hướng đến có thực sự nhằm bảo vệ môi trường không;

Có cách thức nào khác để đạt được mục đích đó với hiệu quả tương đương không;

Các bằng chứng hoặc nghiên cứu khoa học đối với yêu cầu về việc áp dụng biện pháp

môi trường đó, ảnh hưởng cụ thể của nhóm sản phẩm bị áp dụng biện pháp môi

54

trường, từ đó có tác động tích cực tới bảo vệ môi trường.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, nghiên cứu hệ thống hoá và củng cố thêm cơ sở lý luận của

BPPTQ nhằm tạo một nền tảng vững chắc để phát triển các nghiên cứu nhằm đánh

giá tác động của BPPTQ đến XKNS. Các cơ sở lý luận được nghiên cứu gồm:

- Cơ sở lý luận về BPPTQ (từ các quan niệm, phân loại đến nhận thức về vai

trò của BPPTQ đối với XKNS đến các phương pháp đo lường mức độ tác động của

các BPPTQ);

- Lý luận về xuất khẩu và các nhân tố tác động đến XKNS;

- Lý luận về tác động của các BPPTQ đến XKNS;

Thông qua việc hệ thống và củng cố cơ sở lý luận và thực tiễn này có thể thấy

BPPTQ là một trong các yêu tố quan trọng nhất đại diện cho chính sách thương mại

của các quốc gia và có tác động trực tiếp đến XNKS của một quốc gia. Đây sẽ là cơ

sở lý luận vững chắc để tác giả thực hiện xây dựng mô hình nghiên cứu và lựa chọn

phương pháp nghiên cứu phù hợp để đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối

55

với XKNS Việt Nam.

CHƯƠNG 3. KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Quy trình nghiên cứu và khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp

phi thuế quan đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU

3.1.1. Quy trình nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện theo quy trình được minh hoạ ở Hình 3.1.

Hình 3.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu

56

Nguồn: Tác giả xây dựng và tổng hợp

3.1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối với

xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU

Nghiên cứu tác động của các BPPTQ đến hoạt động XKNS của Việt Nam sang

EU được đặt trong mối quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Tác giả thực hiện

xây dựng khung nghiên cứu dựa trên các nền tảng lý thuyết thương mại quốc tế mà

các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra. Bắt nguồn từ các học thuyết thương mại cổ

điển và tân cổ điển như học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1895), thuyết

thương mại dựa trên nguồn lực của Heckscher (1919) và Ohlin (1933), hay lý thuyết

thương mại mới của Krugman (1980) đã lý giải cơ sở, nguồn gốc, lợi ích của thương

mại quốc tế và các cách thức tham gia thương mại quốc tế của các quốc gia.

Đối với khung tác động của BPPTQ đến XKNS, nghiên cứu kế thừa cơ sở lý

thuyết trong nghiên cứu của Disdier và Marette (2010) và Fugazza (2013) về tác động

của biện pháp SPS và TBT đến giá cả và lượng hàng hoá thương mại. Theo Fugazza

(2013), các BPPTQ có thể tác tác động đến sự thay đổi của đường cung và đường cầu

trên thị trường do để hàng hoá đáp ứng được các quy định của các BPPTQ của thị

trường nhập khẩu thì cần chi phí để đáp ứng, các chi phí này sẽ được tính vào cả các

chi phí biến đổi và chi phí cố định của doanh nghiệp. Từ đó, gây ảnh hưởng tới giá

cả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dẫn đến sự thay đổi trong lượng hàng hoá

xuất khẩu. Mặt khác, trong trường hợp các BPPTQ có các tác động tích cực đến việc

nâng cao chất lượng sản phẩm, khiến cho sản phẩm chiếm được lòng tin của người

tiêu dùng thì khi đó đường cầu cũng sữ được dịch chuyển và cũng làm biến đổi lượng

nhập khẩu (Disdier và Marette, 2010).

Do đó, dựa trên cơ sở lý luận về các yếu tố tác động đến XKNS đã đề cập ở

Chương 2, nghiên cứu phân tích 02 nhóm các nhân tố tác động đến kim ngạch XKNS

của Việt Nam sang EU gồm: (1) Nhóm nhân tố đại diện cho chính sách thương mại

thúc đẩy/cản trở thương mại; (2) Nhóm nhân tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và

Việt Nam mà có thể tác động đến XKNS của Việt (từ phía cung) và tác động đến

nhập khẩu nông sản của EU (từ phía cầu). Khung nghiên cứu tác động của các BPPTQ

57

đối với XKNS Việt Nam sang EU được mô tả qua Hình 3.2.

Hình 3.2. Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của biện pháp phi thuế quan đối

với hàng nông sản xuất khẩu

*Chú thích: (1): Disdier và Maretter (2010), Nicita và Gourdon (2013), Cadot và cộng sự (2018). (2): Disdier và cộng sự (2008), Cadot và cộng sự (2018). (3): Hiệu ứng Marshall-Lerner, Krugman và Maurice (1994), (4), (5): Tinbergen (1962), Poyhonen (1963), Anderson và Wincoop (2003), Disdier và cộng sự (2008). (6) Lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo (1817). (7) Ricardo (1817). (8) Lý thuyết Heckscher (1919) và Ohlin (1933).

Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên kế thừa các nghiên cứu*

3.1.2.1. Nhóm các nhân tố đại diện chính sách thúc đẩy/cản trở thương mại

58

Thông qua việc tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến XKNS cho

thấy các BPPTQ được cho một trong các nhân tố quan trọng tác động đến XKNS.

Bên cạnh đó, nghiên cứu lựa chọn đưa vào ba chính sách được các quốc gia áp dụng

trong quá trình điều tiết thương mại đó là thuế quan, các BPPTQ và tỷ giá hối đoái.

- Thứ nhất, về các chính sách về thuế quan

Trong thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU, thuế quan cũng là một

trong các yếu tố tác động mạnh đến khả năng XKNS của Việt Nam, đặc biệt là giai

đoạn trước năm 2020 vì thuế quan tác làm tác động tới thu nhập khả dụng của người

tiêu dùng nước ngoài, khiến cho nhu cầu hàng nhập khẩu giảm nên làm giảm xuất

khẩu của Việt Nam. Từ tháng 8 năm 2020, khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, nhiều

nhóm mặt hàng nông sản của Việt Nam đã được cắt giảm hoặc xoá bỏ thuế quan. Tuy

nhiên, thuế quan vẫn có tác động tiêu cực, cản trở đối với xuất khẩu hàng hoá nói

chung và XKNS nói riêng. Nghiên cứu vẫn đưa biến thuế quan vào đánh giá tác động

vì phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là 2012-2023; do đó, trước năm 2020 thì

thuế quan vẫn là một yếu tố tác động mạnh tới XKNS sang EU.

- Thứ hai, về các chính sách về các BPPTQ

Căn cứ vào lý luận các yếu tố tác động đến XKNS ở chương 2, nếu như thuế

quan có xu hướng giảm thì BPPTQ lại có xu hướng được các quốc gia sử dụng ngày

càng phổ biến. đặc biệt là trong tình hình thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa bảo

hộ đã quay lại ngày càng mạnh mẽ. Các BPPTQ với nhiều hình thức áp dụng và tác

động khó dự đoán đến thương mại quốc tế. Theo lý luận ở Chương 2 có thể thấy

BPPTQ có thế có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến thương mại quốc tế.

Trong khung nghiên cứu về tác động của các BPPTQ đến XKNS Việt Nam

sang EU thì hai biện pháp SPS và TBT được lựa chọn để đưa vào đánh giá vì trên

90% các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản là các biện pháp SPS và TBT. Xu

hướng của EU cũng đang ngày càng gia tăng các BPPTQ nói chung và thắt chặt

hơn các điều kiện, tiêu chuẩn SPS và TBT. Các biện pháp này sẽ có tác động đến

cả chi phí cố định và chi phí biến đổi của doanh nghiệp XKNS Việt Nam. Các

doanh nghiệp sẽ phải chịu các chi phí để đáp ứng các BPPTQ trong quá trình thông

quan hàng hoá; hay để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn, các

doanh nghiệp cần phải đầu tư vào máy móc, trang thiết bị, thay đổi quy trình sản

xuất, đóng gói,…nông sản. Từ đó, tạo ra các chi phí cấu thành vào giá của sản

59

phẩm. Và ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, về lâu về dài, nếu nông sản đáp ứng được các yêu cầu của thị trường;

doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu, tạo được niềm tin cho khách hàng để

lựa chọn sản phẩm nông sản Việt Nam thì các biện pháp SPS và TBT sẽ có những

tác động tích cực và thúc đẩy xuất khẩu.

- Thứ ba, về chính sách tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái thực song phương giữa Việt Nam và EU cũng sẽ có tác động trực

tiếp đến XKNS Việt Nam sang EU. Theo lý thuyết đường cong J, tỷ giá tác động tới

thương mại, Krugman và Maurice (1994) giải thích rằng khi đồng nội tệ giảm giá, cán

cân thương mại ban đầu có thể xấu đi do hợp đồng ngắn hạn bị ràng buộc, nhưng sau

một thời gian, xuất khẩu sẽ tăng lên khi giá trị đồng nội tệ thấp thúc đẩy nhu cầu quốc

tế. Trong trường hợp này, khi giá trị đồng Việt Nam đồng cao sẽ khiến cho giá cả hàng

nông sản xuất khẩu tăng cao hơn so với giá hàng nông sản tại EU. Điều đó dẫn đến hàng

nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị giảm năng lực canh tranh, hạn chế người mua

khiến XKNS bị tác động tiêu cực. Ngược lại, khi giá trị đồng Việt Nam giảm, giá cả

hàng nông sản xuất khẩu thấp hơn, làm tăng khả năng cạnh tranh; thúc đẩy sản lượng

tiêu thụ của nước nhập khẩu; từ đó thúc đẩy tích cực XKNS.

3.1.2.2. Nhóm nhân tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam

Nhóm nhân tố thứ hai được đưa vào khung nghiên cứu chính là nhóm nhân tố

đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam mà có thể tác động đến XKNS của

Việt (từ phía cung) và tác động đến nhập khẩu nông sản của EU (từ phía cầu), nghĩa

là các nhân tố có tác động đến sự co giãn cung cầu trên thị trường nông sản, bao gồm

các yếu tố như khoảng cách, quy mô nền kinh tế (có thể là tổng sản phẩm quốc nội

(GPD) hoặc thu nhập bình quân đầu người), dân số, tỷ lệ lao động trong ngành nông

nghiệp, diện tích đất nông nghiệp, giá tương đối của các sản phẩm nông sản, hay sản

phẩm nông sản.

- Thứ nhất, về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và EU

Theo lý luận, khoảng cách đại diện cho chi phí vận chuyển vào giao dịch giữa

hai quốc gia nên trong mối quan hệ thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU thì

khoảng cách cũng là một yếu tố tác động. Hơn nữa, khoảng cách giữa Việt Nam với mỗi

quốc gia thành viên của EU cũng là khác nhau, do đó cũng sẽ có ảnh hưởng khác nhau.

Khoảng cách giữa Việt Nam với các quốc gia thuộc EU, tính từ thủ đô Hà Nội

của Việt Nam đến thủ đô các quốc gia thành viên EU, đại diện cho chi phí vận chuyển

60

hàng nông sản (giả định chi phí vận chuyển không thay đổi theo thời gian), mặc dù

thực tế khoảng cách không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển.

Theo mô hình lực hấp dẫn thì, khối lượng thương mại sẽ có mối tương quan dương với

quy mô kinh tế và tương quan âm với khoảng cách địa lý. Do đó, hoảng cách càng xa thì

chi phí vận chuyển càng cao, làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và giảm lợi nhuận.

- Thứ hai, về quy mô kinh tế

Khung nghiên cứu lựa chọn GDP là nhân tố đại diện cho quy mô kinh tế có

thể tác động đến độ co giãn cung cầu mặt hàng nông sản, nghĩa là tác động đến khả

năng xuất khẩu của Việt Nam và khả năng nhập khẩu của EU.

Các nghiên cứu thường kỳ vọng mối quan hệ thuận chiều giữa GDP với giá trị

xuất khẩu. Các quốc gia có GDP cao có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn các quốc gia

có GDP thấp. GDP cao nghĩa thu nhập bình quân đầu người tăng, kéo theo sự gia

tăng nhu cầu tiêu dùng và khả năng sản xuất của quốc gia. Tuy nhiên, lượng cầu nhập

khẩu của một quốc gia còn phụ thuộc vào mức thiết yếu của mặt hàng nhập khẩu.

Với những mặt hàng thiết yếu như nông sản, cầu thường ít biến đổi theo thu nhập.

Đối với trường hợp nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU thì hàng nông sản là mặt

hàng thiết yếu, EU cần nhập khẩu mô đặc biệt trong bối cảnh hiện nay là nước có lợi

thế so sánh về nông sản, là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng nhất.

- Thứ ba, dân số và tỷ lệ dân số lao động trong ngành nông nghiệp

Theo lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, các quốc gia nên tập trung

sản xuất những mặt hàng mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà

họ không có lợi thế đó. Do đó, một quốc gia có dân số đông có thể tạo ra lợi thế về

quy mô lao động, giúp quốc gia đó sản xuất những mặt hàng với chi phí thấp hơn, từ

đó tạo ra sự cạnh tranh trong xuất khẩu. Quy luật lợi tức giảm dần của Thomas Robert

Malthus nêu ra quy luật lợi tức giảm dần, mà theo đó, tăng trưởng dân số sẽ dẫn đến

sự cạnh tranh gay gắt về tài nguyên và làm tăng giá thành sản xuất. Tuy nhiên, điều

này cũng có thể tạo ra động lực để các quốc gia tìm kiếm thị trường ngoại quốc để

tiêu thụ sản phẩm dư thừa, thúc đẩy xuất khẩu.

Thêm vào đó, dân số còn tác động đến kim ngạch xuất khẩu, đại diện cho quy

mô lao động và quy mô thị trường thông qua quy mô sản xuất (của nước xuất khẩu)

và khả năng tiêu thụ (của đối tác nhập khẩu).

- Thứ tư, diện tích đất nông nghiệp

Lý thuyết Heckscher-Ohlin, một phần của lý thuyết tài nguyên và thương mại

61

quốc tế, tập trung vào vai trò của tài nguyên và nhân công trong quá trình quyết định

thương mại. Theo Heckscher-Ohlin, quỹ đất nông nghiệp có sẵn trong một quốc gia

sẽ ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của quốc gia đó trong việc sản xuất và XKNS.

Nếu một quốc gia có tỷ lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất cao, điều

này có thể gợi ý rằng quốc gia đó có một lợi thế so sánh trong việc sản xuất nông sản.

Lý do là quỹ đất nông nghiệp đủ lớn có thể hỗ trợ sản xuất nông sản với giá thành

thấp hơn. Khi có lợi thế về giá thành, quốc gia có thể sản xuất nông sản với chi phí

thấp hơn và có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp tỷ

lệ đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất của một quốc gia thấp hơn, điều này có thể

ảnh hưởng đến khả năng XKNS của quốc gia đó. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp

thấp không đồng nghĩa là một trở ngại đối với việc XKNS. Các quốc gia có thể sử

dụng tài nguyên khác như nhân công hoặc vốn đầu tư để nâng cao năng suất và hiệu

suất trong nông nghiệp. Ngược lại, đối với các quốc gia có diện tích đất nông nghiệp

nhỏ, sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều các mặt hàng nông sản.

Trong trường hợp của Việt Nam và EU, diện tích đất nông nghiệp là yếu tố có

tác động tăng cung xuất khẩu từ phía Việt Nam và tăng cầu nhập khẩu từ phía EU.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính và phương pháp định lượng để

đánh giá tác động của các BPPTQ đối với hoạt động XKNS của Việt nam sang EU.

3.2.1. Phương pháp định tính

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích và tổng hợp để làm rõ cơ sở

lý luận về các BPPTQ; làm rõ thực trạng BPPTQ của EU đối với hàng nông sản xuất

khẩu của Việt Nam và các ứng phó của Việt Nam. Tổng hợp phân tích và so sánh các

kết quả nghiên cứu để đưa ra đánh giá tổng quan tác động của BPPTQ đối với XKNS.

Từ đó, phân tích nguyên nhân Việt Nam gặp những khó khăn đối với các BPPTQ của

EU? Những thành công cũng như những tồn tại trong đáp ứng các BPPTQ đó.

- Phương pháp so sánh:

+ So sánh hoạt động XKNS của Việt Nam sang thị trường EU qua từng năm,

từng thời kỳ để thấy rõ những tác động của các BPPTQ của EU đến hoạt động XKNS

của Việt Nam;

+ So sánh các quy định về các BPPTQ của EU qua từng thời kỳ để thấy rõ

những thay đổi trong chính sách bảo hộ của EU.

- Phương pháp kế thừa: nghiên cứu sẽ kế thừa những công trình nghiên cứu về

62

các BPPTQ như đã nêu ở phần tổng quan và phụ lục tài liệu tham khảo kèm theo.

3.2.2. Phương pháp kiểm đếm và tính toán các chỉ số đánh giá mức độ phổ biến

của các BPPTQ áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào EU

Căn cứ vào cơ sở lý luận về phương pháp tính toán các chỉ số liên quan đến

mức độ áp dụng phổ biến các BPPTQ ở chương 2, nghiên cứu tiến hành thực hiện

kiểm đếm và tính toán, phân tích ba chỉ số để đánh giá mức độ áp dụng phổ biến các

BPPTQ của EU đối với hàng nông sản nhập vào EU dựa trên các công thức đã được

nêu tại tiểu mục 2.2.1.2 trong Chương 2, bao gồm tỷ lệ bao phủ (Coverage Ratio –

CR), chỉ số tần suất (Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành (Prevalance Score –

PS).

3.2.3. Phương pháp định lượng: Mô hình lực hấp dẫn

Dựa trên khung lý thuyết nghiên cứu như trên và lý luận về các phương pháp

đánh giá tác động của các BPPTQ đến thương mại đã nêu ở chương 2, nghiên cứu

lựa chọn sử dụng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc để đánh giá tác động của các BPPTQ

đến XKNS Việt Nam sang EU.

Dựa trên lý thuyế mô hình lực hấp dẫn truyền thống của Tinbergen (1962), các

nghiên cứu sau này đã đưa vào mô hình cơ sở nhiều biến số. Đặc biệt, Anderson và

Wincoop (2003) đã đề xuất một trong những phương trình trọng lực thành công nhất

và được sử dụng rộng rãi nhất. Trong đó, các yếu tố rào cản đa phương được bổ sung

vào biến của mô hình. Anderson và Wincoop (2003) cho rằng chi phí thương mại

giữa hai quốc gia không chỉ bao gồm các chi phí trực tiếp mà còn được tính trong bộ

tổng thể chi phí thương mại mà hai quốc gia này phải chi trả khi tham gia thương mại

quốc tế. Mô hình do Anderson và Wincoop (2003) đề xuất và phát triển được gọi là

mô hình trọng lực hấp dẫn cấu trúc với phương trình như sau:

Trong đó:

• Phương trình thực nghiệm tổng quát như sau:

α0 là hằng số R là rào cản đa phương, π là các biến giả và ε là các sai số ngẫu nhiên

LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +

β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +

β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA

63

+ β15COVID + ε (1)

Trong đó:

Ln: Logarit tự nhiên

EXkit : Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng k của Việt Nam sang nước i thuộc EU vào năm t

GDPEUit : Tổng sản phẩm quốc nội của nước i thuộc EU nhập khẩu hàng hóa của

Việt Nam năm t

GDPVNt : Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam năm t.

TARIFFki(t-1) : Biện pháp thuế quan nước i thuộc EU áp dụng đối với nhóm hàng xuất

khẩu của Việt Nam năm t - 1 đối với mặt hàng k.

SPSki(t-1): Số lượng biện pháp SPS mà nước i thuộc EU áp dụng với mặt hàng k của

Việt Nam năm t -1.

TBTki(t-1): Số lượng biện pháp TBT nước i áp dụng với mặt hàng k năm t-1

DISTi: Khoảng cách giữa Việt Nam và nước i.

POPEUit : Dân số nước i thuộc EU nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm t.

POPVNt : Dân số Việt Nam năm t.

AGRLDEUit: Tỷ lệ đất nông nghiệp của nước i thuộc EU vào năm t.

AGRLDVNt: Tỷ lệ đất nông nghiệp của Việt Nam vào năm t.

AGREMEUit: Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp so với tổng lực lượng lao

động của nước i thuộc EU vào năm t.

AGREMVNt: Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp so với tổng lực lượng lao

động của Việt Nam vào năm t.

NEERt: Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Euro và VND.

EVFTA: là biến giả thể hiện hiệu lực thi hành của EVFTA (nhận giá trị 0 đối với các

năm từ 2011 – 2019 và nhận giá trị 1 từ năm 2020 – 2022).

COVID: là biến giả thể hiện sự xuất hiện của đại dịch Covid - 19 (nhận giá trị 0 đối

với các năm từ 2011-2018 và nhận giá trị 1 với các năm 2019 – 2022)

ε: Sai số của mô hình

Trong phương trình trọng lực này, thương mại xuất khẩu như một biến phụ

thuộc được giải thích bằng các biến xác định điều kiện cung của nước xuất khẩu, các

biến mô tả gồm các yếu tố đại diện cho sự khác biệt giữa EU và Việt Nam mà có thể

tác động đến XKNS của Việt Nam (từ phía cung) và đến nhu cầu nhập khẩu nông sản

của EU (từ phía cầu), nghĩa là các nhân tố có tác động đến sự co giãn cung cầu trên

thị trường nông sản, bao gồm các yếu tố như khoảng cách, tổng sản phẩm quốc nội

64

(GPD), dân số, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp và

các yếu tố khác như các chính sách, công cụ thương mại (thuế quan, BPPTQ, tỷ giá)

thúc đẩy hoặc kìm hãm thương mại song phương. Như vậy, trong phương trình trọng

lực mở rộng này các BPPTQ (SPS và TBT) có vai trò là các biến giải thích.

Trong mô hình này, nghiên cứu chọn sử dụng độ trễ cho các biến giải thích thuế

quan và các BPPTQ (TBT và SPS). Lý giải cho việc lựa chọn như vậy vì đối với các

biến liên quan đến chính sách thì cần phải có thời gian để phản ứng, đáp ứng được

với những thay đổi chính sách nên xem xét độ trễ ở các biến này sẽ giúp giảm được

vấn đề nội sinh (Goshi và cộng sự, 2016).

Phương trình thực nghiệm (1) nhằm ước lượng và kiểm định các giả thuyết về

tác động của hai BPPTQ chính (SPS và TBT) cũng với các yếu tố khác tác động đến

XKNS Việt Nam sang EU. Dựa trên cơ sở lý luận và khung nghiên cứu các nhân tố

đã phân tích ở trên, các giả thuyết được đưa ra gồm:

(1) Các biện pháp SPS và TBT có thể có tác động thuận chiều hoặc ngược chiều

với kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU;

(2) Các biện pháp SPS có thể có tác động mạnh hơn các biện pháp TBT đến giá

trị XKNS Việt Nam sang EU;

(3) Các biện pháp SPS và TBT có thể có tác động tiêu cực mạnh hơn thuế quan

đến giá trị XKNS Việt Nam sang EU;

(4) Các biện pháp SPS và TBT sẽ có tác động khác nhau tới các nhóm hàng

nông sản khác nhau;

Để đánh giá thực nghiệm tác động của các BPPTQ đối với XKNS của Việt

Nam sang thị trường 27 quốc gia thành viên thuộc EU, đồng thời, dựa vào các số liệu

liệu thu thập được từ các cơ sở dữ liệu về các BPPTQ, nghiên cứu thực hiện hai mô

hình riêng biệt với các loại biến khác nhau cho các BPPTQ để đánh giá tác động của

• Mô hình (1): Biến đếm số lượng BPPTQ hàng năm

các BPPTQ một cách toàn diện nhất có thể.

Ở mô hình 1, nghiên cứu sử dụng dạng là số lượng thông báo về các BPPTQ

mà EU ban hành, sửa đổi hàng năm trong giai đoạn 2011- 2022. Dạng dữ liệu này sẽ

phản ánh được mức độ tác động đối với số lượng sửa đổi nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn,

có tác động đến XKNS Việt Nam sang EU hay không.

Phương trình thực nghiệm:

LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +

65

β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +

β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA

• Mô hình (2): Biến đếm BPPTQ cộng dồn, luỹ kế theo năm

+ β15COVID + ε (2)

Mô hình 2 sử dụng dạng dữ liệu đối với các biện pháp SPS và TBT là số lượng

các biện pháp được cộng dồn, luỹ kế theo năm. Dữ liệu này sẽ phản ánh được tổng

số BPPTQ mà EU đang áp dụng đối hàng nông sản nhập khẩu vào EU.

Phương trình thực nghiệm:

LnEXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPS’ik(t-1) +

β5TBT’ik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +

β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA

+ β15COVID + ε (3)

Ý nghĩa của thực hiện hai mô hình riêng biệt: Ở mô hình (2), số liệu đưa vào

chạy mô hình là dữ liệu cộng dồn của các năm, trừ đi các quy định hết hiệu lực. Vì

có những quy định có hiệu lực 2012 và đến 2022 vẫn có hiệu lực; là số liệu của năm

trước cộng với số quy định mới ban hành. Dữ liệu này sẽ phản ánh được tổng số

BPPTQ mà EU đang áp dụng đối hàng nông sản nhập khẩu vào EU. Tuy nhiên, như

vậy thì chưa đánh giá được các quy định sửa đổi, bổ sung hàng năm vì thường các

quy định bị sửa đổi theo hướng thắt chặt hơn, nghiêm ngặt hơn, bổ sung thêm biến

về số lượng quy định sửa đổi hàng năm có gây tác động tới XKNS theo năm theo mô

• Về phạm vi đánh giá tác động:

hình (1).

Nghiên cứu triển khai đánh giá tác động của các BPPTQ (SPS và TBT) trên hai

phạm vi.

- Thứ nhất, đánh giá tác động của các BPPTQ đối với tổng thể hàng nông

sản xuất khẩu sang EU.

- Thứ hai đánh giá tác động của các BPPTQ đối với các nhóm hàng nông

sản Việt Nam xuất khẩu sang EU.

Đối với mỗi nhóm hàng nông sản khác nhau sẽ chịu tác động khác nhau bởi

các BPPTQ. Do đó, nghiên cứu tách dữ liệu tổng hợp, đồng thời thu thập dữ liệu đối với

từng nhóm ngành hàng để đánh giá tác động đối với 3 nhóm hàng nông sản chính gồm:

- Nhóm 1: Động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ động vật (HS

01 – 05, trừ HS 03);

66

- Nhóm 2: Thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật (HS 06 - 14);

- Nhóm 3: Hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS 15 –

24, trừ HS16 - HS1604, HS1605).

3.3. Dữ liệu và nguồn dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp, thiết kế dữ liệu theo dữ liệu bảng về dòng

XKNS giữa Việt Nam và 27 nước thuộc EU đối với hàng hóa phân loại theo Hệ thống

hài hòa mô tả hàng hóa 02 chữ số trong 11 năm từ 2011 – 2022 với 6831 quan sát (23

mã HS 2 chữ số x 11 năm x 27 quốc gia thuộc EU).

Hai dạng dữ liệu về biện pháp SPS và TBT để đưa vào mô hình định lượng đều

được thu thập từ hệ thống cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO. Cơ sở dữ liệu TRAINS cũng

là cơ sở mạnh, tuy nhiên qua quá trình tìm kiếm, lọc và phân tích dữ liệu thì TRAINS

không phân tách số lượng theo năm, trường dữ liệu về năm của EU không được đầy

đủ, dẫn đến việc khó xác định trong các năm có bao nhiêu BPPTQ được sửa đổi, ban

hành mới. Trong khi đó, I-TIP có trường dữ liệu có thể biết đâu là văn bản có hiệu

lực hiện hành, sửa đổi, ban hành mới.... Đồng thời cũng có thể lọc được các BPPTQ

theo mã sản phẩm bị áp đặt.

Ngoài ra, dữ liệu về các BPPTQ (SPS và TBT) của EU áp dụng đối với hàng

nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn được thu thập từ:

+ Cơ sở dữ liệu thống kê BPPTQ của Hệ thống thông tin phân tích thương mại

UNCTAD – TRAINS (hệ thống này cung cấp dữ liệu về các BPPTQ đối với các loại

sản phẩm mô tả chỉ tiết đến 6 chữ số (HS06);

+ Cổng thông tin SPS&TBT Platform của WTO với số lượng các thông báo

hàng năm liên quan đến việc thay đổi, áp dụng các BPPTQ của các quốc gia thành

viên WTO.

+ Dữ liệu về các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ được thu thập từ

WITS (World Intergrated Trade Solution).

- Giá trị xuất nhập khẩu được cập nhật từ cơ sở dữ liệu Trademap thuộc Trung

tâm thương mại quốc tế (ITC – International Trade Center) cụ thể theo từng cặp nước

và từng dòng sản phẩm mô tả chi tiết 02 chữ số, 04 chữ số và 06 chữ số.

- Dữ liệu thuế quan: được trích xuất từ cơ sở dữ liệu Macmap thuộc ITC.

- Các số liệu về GDP, dân số, tỷ lệ dân số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp,

diện tích đất nông nghiệp được thu thập từ dữ liệu thống kê của ngân hàng thế giới

(World Bank); số liệu về tỷ giá hối đoái của Việt Nam và EU được thu thập và tính

67

toán từ nguồn dữ liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).

- Dữ liệu về khoảng cách giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên EU từ hệ

thống cơ sở dữ liệu CEPII. CEPII đã tính toán khoảng cách bằng hai cách thức khác

nhau. Một là, tính dựa trên khoảng cách địa lý giữa các thủ đô của các quốc gia; hai

là, tính dữ liệu khoảng cách có trọng số do Head và Mayer (2002) phát triển, tính toán

khoảng cách giữa hai quốc gia dựa trên khoảng cách song phương giữa các thành phố

lớn nhất của hai quốc gia đó, sử dụng dữ liệu cấp thành phố để đánh giá sự phân bố

địa lý của dân số bên trong mỗi quốc gia.Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn dữ

liệu khoảng cách có trọng số để thấy được mức độ cản trở thương mại.

Bảng 3.1. Thống kê các biến, nguồn dữ liệu và kỳ vọng dấu

Tên biến Nội dung Nguồn dữ liệu Đơn vị/ Dạng biến Kỳ vọng dấu

USD EX

Cơ sở dữ liệu Trademap, ITC https://trademap.org ngạch Kim XKNS của Việt Nam EU

+ USD GDPEU World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/

Tổng sản phẩm quốc nội của các quốc gia thành viên EU

+ USD GDPVN World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/ Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam

- % TARIFF

Trung tâm thương mại quốc tế ITC/Market Access Map https://www.macmap.org/

Tỷ lệ giá trị thuế quan quy đổi tương đương (Total ad Valorem Equivalent tariff)

+/- SPS Dạng số đếm

Cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO http://i-tip.wto.org/goods Cơ sở dữ liệu TRAINS của UNCTAD: https://trainsonline.unctad.o rg/home xCơ sở dữ liệu WITS của WB: https://wits.worldbank.org/ - Số lượng thông báo về SPS mà EU áp dụng đối với nông sản Việt Nam; - Số lượng thông báo SPS cộng dồn theo năm của EU áp dụng với nông sản Việt Nam vào EU

TBT +/- Dạng số đếm

68

lượng - Số thông báo hàng năm biện pháp TBT mà Cơ sở dữ liệu I-TIP của WTO http://i-tip.wto.org/goods

Tên biến Nội dung Nguồn dữ liệu Đơn vị/ Dạng biến Kỳ vọng dấu

Cơ sở dữ liệu TRAINS của UNCTAD: https://trainsonline.unctad.o rg/home Cơ sở dữ liệu WITS của WB: https://wits.worldbank.org/

EU áp dụng đối với nông sản Việt Nam; - Số lượng thông báo SPS cộng dồn theo năm của EU áp dụng với nông sản Việt Nam vào EU

DIST km - CEPII www.cepii.fr

Khoảng cách giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên thuộc EU

POPEU Người World Bank Open Data: + https://data.worldbank.org/ Dân số của quốc gia thành viên thuộc EU

POPVN Người World Bank Open Data: + https://data.worldbank.org/ Dân số Việt Nam

AGRLDEU % - World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/

Tỷ lệ đất nông nghiệp của các quốc gia thành viên thuộc EU

AGRLDVN % + World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/ Tỷ lệ đất nông nghiệp của Việt Nam

% - World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/

AGREMEU Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của các quốc gia thành viên thuộc EU

% + World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/

AGREMVN Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam

NEER VND Monetary +

International Fund Data: https://data.imf.org

Tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Euro và VND.

69

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Tiểu kết chương 3

Dựa trên các cơ sở lý luận về các nhân tố tác động đến xuất khẩu đã phân

tích ở chương 2 và kế thừa khung lý thuyết của Disdier và Marette (2010) và

Fugazza (2013), tác giả đã xây dựng khung đánh giá tác động của các BPPTQ

của EU đối với XKNS Việt Nam với các nhân tố được phân tích cụ thể trong

trường hợp XKNS từ Việt Nam sang EU tại chương 3. Chương này đã mô tả các

phương pháp định tính, phương pháp các chỉ số và phương pháp định lượng bằng

mô hình trọng lực để đánh giá tác động của các BPPTQ của EU đối với XKNS

Việt Nam. Đồng thời, các nguồn dữ liệu, cách thức thu thập dữ liệu cũng được

mô tả chi tiết để từ đó tác giả thu thập được các dữ liệu, tiến hành nghiên cứu

bằng các phương pháp để đưa ra được các kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày

70

tại các chương 4, chương 5 dưới đây.

CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI

THUẾ QUAN ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG EU

4.1. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU

4.1.1. Kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, tỷ trọng xuất khẩu

4.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2012 - 2023 có

xu hướng tăng giảm không ổn định liên tục qua các năm. Nếu như năm 2013, giá trị

XKNS sang EU chứng kiến một sự sụt giảm nhẹ so với 2012 thì trong năm 2014 lại

chứng kiến một sự tăng mạnh từ 1,78 tỷ USD (năm 2013) lên 2,35 tỷ USD (năm

2014) trước khi lại có sự giảm xuống còn 2,15 tỷ USD vào năm 2015. Từ 2015 đến

2017, kim ngạch XKNS tăng đều qua các năm, đạt đỉnh kỷ lục năm 2017 với 2,68 tỷ

4000

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Cán cân thương mại

Xuất khẩu

Nhập khẩu

USD.

Hình 4.1. Cán cân thương mại nông sản Việt Nam – EU (triệu USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Tuy nhiên, sang 2018 đến 2020, một xu hướng giảm đều được nhìn thấy trong

bức tranh XKNS của Việt Nam sang EU. Trong năm 2018 và 2019, kim ngạch xuất

khẩu đã giảm từ 2,68 tỷ USD năm 2017 xuống còn 2,57 tỷ USD năm 2018 và 2,46 tỷ

USD năm 2019 một số nguyên nhân khiến cho kim ngạch sụt giảm được đưa ra như

do xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã qua giai đoạn phát triển nóng. Các mặt hàng

nông sản như cà phê, hạt tiêu, hạt điều chủ yếu là xuất khẩu thô bị tác động mạnh từ

71

giá cả thế giới giảm mạnh do nguồn cung tăng cao (VCCI, 2019). Bên cạnh đó, hàng

rào kỹ thuật với các quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm và dư lượng

thuốc bảo vệ thực vật của EU cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm này. Một

nguyên nhân khác nữa được đưa ra là xuất hiện hiện tượng trước khi EVFTA có hiệu

lực là các doanh nghiệp có thể muốn giữ hàng để hưởng lợi từ các cam kết trong

EVFTA.

Đặc biệt, trong năm 2020, mặc dù EVFTA có hiệu lực đã mang lại những cơ hội

lớn cho nông sản Việt Nam vào thị trường EU, nhưng đại dịch Covid – 19 đã xuất hiện

và tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Do đó, việc kim ngạch XKNS Việt

Nam sang EU năm 2020 vẫn đạt 2,37 tỷ USD, chỉ giảm 4% so với 2019 thì vẫn là một

tín hiệu đáng mừng và là một điểm sáng trong giai đoạn thế giới phải oằn mình chống

chịu với đại dịch Covid -19 khiến hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh.

Sang năm 2021 khi đại dịch Covid – 19 được khống chế, khi các biện pháp giãn

cách được tháo gỡ, kim ngạch XKNS sang EU đã có những khởi sắc khi đạt 2,6 tỷ

USD, tăng hơn 10% so với 2020. Kết quả này được đánh giá là rất tốt trong tình hình

vừa phải ứng phó với dịch bệnh Covid-19, vừa phải ứng phó với tình trạng thiếu

container, chi phí logistics tăng cao. Từ 2021 đến 2023, xu hướng XKNS sang EU

ngày càng tăng lên với năm 2022 cán mốc trên 3,26 tỷ USD và 2023 đạt 3,68 tỷ USD

theo số liệu nhập khẩu nông sản của EU từ Việt Nam. Điều đó là một tín hiệu cho

thấy doanh nghiệp XKNS Việt Nam đã tận dụng rất tốt cơ hội từ EVFTA, đồng thời

đã từng bước đáp ứng với các quy định của EU.

Tựu chung lại, mặc dù trải qua nhiều biến động trong giai đoạn 2012 thì đến

năm 2023, kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU đã tăng 35%, từ khoảng 1,9 tỷ USD

lên hơn 2,6 tỷ USD.

Xét kim ngạch xuất khẩu trong cán cân thương mại nông sản giữa Việt Nam và

EU có thể thấy trong khi EU nhập khẩu các mặt hàng cà phê, hạt điều chè, rau quả,

gạo,… của Việt Nam; thì Việt Nam nhập khẩu các mặt hàng như sữa, thịt động vật,

đồ uống, chế phẩm nông sản từ EU (Europa, 2022). Có thể thấy từ 2012 - 2019, cán

cân thương mại hàng nông sản sang EU luôn duy trì ở mức thặng dư, trung bình

khoảng 1.25 tỷ USD, đặc biệt đột phá lên mức 1,55 tỷ USD vào năm 2017. Từ năm

2020 - 2023, EVFTA có hiệu lực trong bối cảnh thương mại bị ảnh hưởng tiêu cực

bởi đại dịch nhưng vẫn đã tạo cơ hội cho thương mại nông sản giữa Việt Nam và EU

72

gia tăng cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tính riêng năm 2021, Việt Nam xuất siêu 1.07

tỷ USD sang thị trường EU, tăng 10.45% so với năm 2020, tăng 6.22% so với 2019;

năm 2022 thặng dư 1,98 tỷ USD và đạt kỷ lục thặng dư lớn nhất trong giai đoạn này

25000

20000

15000

10000

5000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Xuất khẩu sang EU

Xuất khẩu sang toàn thế giới

là năm 2023 với 2,33 tỷ USD.

Hình 4.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU so với kim ngạch

sang toàn thế giới (triệu USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu Trademap, ITC (2024)

Xét trong mối tương quan với kim ngạch XKNS của Việt Nam sang toàn thế

giới: Giá trị XKNS Việt Nam luôn ở mức cao vì nông sản là một trong những mặt

hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam qua các thời kỳ. Giai đoạn 2012 – 2021, kim

ngạch XKNS ra thế giới đã tăng từ 14,4 tỷ USD năm 2012 lên 21 tỷ USD năm 2022

và khoảng 23 tỷ USD vào năm 2023. Như vậy, kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU

chiếm khoảng 1/7 so với tổng kim ngạch xuất khẩu ra thế giới.

4.1.1.2. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU

Tốc độ tăng trưởng XKNS của Việt Nam sang EU trong giai đoạn 2012 - 2021

biến động không ngừng theo các năm. Đặc biệt, từ 2012 - 2017, tốc độ tăng trưởng

xuất khẩu không ổn định, trong đó, tăng mạnh vào năm 2014 và 2016 (tương ứng ở

mức 31% và trên 16%). Năm 2015 chứng kiến một sự giảm mạnh mẽ xuống - 8%.

Trong giai đoạn từ 2018 - 2020, tốc độ tăng trưởng XKNS sang EU giảm liên tục -

73

4%/năm trước khi phục hồi tăng trưởng lên 10% vào năm 2021.

35%

31%

30%

25%

25%

20%

16%

16%

15%

13%

13%

13%

10%

10%

10%

7%

7%

6%

5%

-2%

-4%

1%

0%

0%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

-4%

-5%

-3%

-8%

-8%

-4%

-8%

-10%

-15%

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thế giới

Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

XKNS sang EU dao động mạnh và kém ổn định hơn so với XKNS của Việt Nam

sang toàn thế giới. Trong hai năm 2014 và 2016, khi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của

Việt Nam sang EU đạt đỉnh trên lần lượt là 31% và trên 16% thì XKNS sang toàn thế

giới chỉ đạt 16% và 13% theo thứ tự trong hai năm trên. Khi XKNS của Việt Nam sang

toàn thế giới chỉ giảm xuống còn 1% năm 2015 hay 0% năm 2020 thì xuất khẩu sang

EU giảm mạnh tương ứng theo năm còn - 8% và - 4%. Sang năm 2021, tốc độ tăng

trưởng XKNS sang toàn thế giới đạt 13%, cao hơn 3% so với xuất khẩu sang EU. Tuy

nhiên, sang năm 2022 và 2023, trong khi tốc độ tăng trưởng của XKNS sang thế giới có

sự hồi phục thì con số này ở XKNS sang EU lại có sự giảm mạnh.

4.1.1.3. Tỷ trọng thương mại

Thị phần của EU trong kim ngạch XKNS của Việt Nam ra thế giới từ năm 2012

đến 2023 là tương đối ổn định, trung bình là khoảng 14%. Năm 2023, EU đang là thị

trường lớn thứ ba của XKNS Việt Nam với gần 16%, đứng sau Trung Quốc (20,68%)

và ASEAN (gần 20%). Theo sau EU, Mỹ chiếm 11.85%, Nhật Bản và Hàn Quốc

chiếm khoảng 4%. Trong giai đoạn từ 2012 đến 2023, thị phần của các đối tác chính

trong XKNS của Việt Nam khá ổn định. Tuy rằng có sự biến động giữa các năm

nhưng không có sự thay đổi lớn, dẫn đến không có sự thay đổi về thứ tự các thị trường

74

xuất khẩu. Chỉ có giai đoạn từ giữa 2015 đến giữa 2017 khi mà EU có sự sụt giảm

mạnh trong nhập khẩu nông sản từ Việt Nam thì EU đã vượt EU, đưa EU vươn lên

trở thành thị trường XKNS lớn thứ 2 của Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối 2017 đến

2023, EU đã lấy lại vị trí số hai với kim ngạch xuất khẩu tăng vọt và đẩy EU trở lại

vị trí số 3. Bên cạnh đó, có thể thấy sự cách biệt giữa tỷ trọng XKNS sang EU và các

35,00%

30,00%

25,00%

20,00%

15,00%

10,00%

5,00%

0,00%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

TRUNG QUỐC

ASEAN

EU

MỸ

NHẬT BẢN

HÀN QUỐC

nước còn lại trong top 6 thị trường XKNS của Việt Nam là tương đối lớn.

Hình 4.4. Tỷ trọng thị phần của 6 đối tác lớn nhất nhập khẩu nông sản Việt

Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Thị phần của Việt Nam trong kim ngạch nhập khẩu nông sản của EU: Kim

ngạch XKNS Việt Nam sang EU đã tăng trưởng vượt bậc trong giai đoạn 2021 -

2023, tuy nhiên, tỷ trọng nông sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU trong tổng thương

mại nông sản của EU vẫn rất hạn chế. Trong bảng xếp hạng các đối tác thương mại

nông sản chính của EU giai đoạn 2021 - 2023 (Bảng 4.1), nếu Việt Nam là đối tác

XKNS sang EU đứng thứ 17 với tỷ trọng còn rất khiêm tốn chỉ 1,7% vào năm 2021

thì sau một năm, thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng các đối tác XKNS sang

EU đã được cải thiện hơn vào 2022 với vị trí thứ 13 với tỷ trọng trong tổng nông sản

75

nhập khẩu của EU đạt 2%.

Bảng 4.1. Xếp hạng các đối tác thương mại nông sản chính của EU,

giai đoạn 2021 - 2023 (%)

STT Năm 2021 Năm 2022 Năm 2023

Quốc gia xuất khẩu sang EU Quốc gia xuất khẩu sang EU Quốc gia xuất khẩu sang EU

Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27

1 2 3 4 5 Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27 10.5 9.2 7.2 5.3 4.7 Tỷ trọng trong tổng thương mại nông sản của EU27 11.8 8.9 7.7 7.2 5.7 10.9 9.8 7.5 7.4 5.3

Brazil Anh Mỹ Ukraine Trung Quốc Indonesia 6 4.3 Brazil Anh Ukraine Mỹ Trung Quốc Argentina 4.1 4.2

7 8 4.0 3.9 3.9 3.3 3.5 3.1 Brazil Anh Ukraine Mỹ Trung Quốc Thổ Nhĩ Kỳ Indonesia Thuỵ Sĩ

9 10 3.5 2.6 Indonesia Thổ Nhĩ Kỳ Thuỵ Sĩ Australia 2.8 2.2 2.9 2.5

Argentina Thổ Nhĩ Kỳ Thuỵ Sĩ Bờ Biển Ngà Ấn Độ Canada 11 12 2.3 2.2 Argentina Bờ Biển Ngà Ấn Độ Việt Nam 2.1 2.0 2.1 2.0

Peru

Nga

13 14 Malaysia 15 Morocco Nam Phi 16 17 Việt Nam 18 19 Colombia 20 2.1 2.1 2.0 1.8 1.7 1.7 1.7 1.5 25.0 2.0 2.0 2.0 1.9 1.7 1.5 1.5 1.4 23.4 2.0 2.0 1.9 1.8 1.8 1.6 1.4 1.3 24.6

Serbia Các nước còn lại Morocco Peru Malaysia Nam Phi Canada Úc Colombia Ecuador Các nước còn lại

Ấn Độ Bờ Biển Ngà Việt Nam Malaysia Peru Morocco Canada Colombia Nam Phi Thailand Các nước còn lại Nguồn: Uỷ ban Châu Âu – EC (2022, 2023,2024)

Như vậy, chỉ sau một năm, nông sản Việt Nam đã chiếm được thêm 0,3% thị

phần nông sản nhập khẩu của EU. Đây không phải là mức độ tăng quá lớn, tỷ trọng

76

nông sản Việt Nam nhập khẩu vào EU vẫn còn rất khiêm tốn; tuy nhiên, điều này cho

thấy một tín hiệu tích cực rằng XKNS Việt Nam vào EU đang tăng trưởng qua các

năm; Việt Nam đang dần đáp ứng được các yêu cầu của EU và tận dụng được các lợi

thế mà EVFTA mang lại để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu sang EU. Sang năm 2023,

tỷ trọng này vẫn duy trì ở mức 2% trong tổng thị phần nông sản nhập khẩu vào EU

với xếp hạng thứ 12 theo bảng xếp hạng đối tác mà EU công bố. Điều này cho thấy

dủ năm 2023, kim ngạch nông sản Việt Nam sang EU đã tăng so với 2022, tuy nhiên,

tỷ trọng thị phần vẫn duy trì ở mức 2%, không tăng so với 2022, nghĩa là EU cũng đã

tăng cường nhập khẩu nông sản từ các đối tác.

Việc chiếm một thị phần nhỏ trong tổng thương mại nông sản của EU cũng cho

thấy rằng, dung lượng thị trường EU vẫn còn rất lớn và EU là một thị trường rất tiềm

năng đối với nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần xem xét, đánh giá

lại nguyên nhân vì sao nông sản Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ tại EU.

Các yếu tố nào tác động hạn chế XKNS của Việt Nam vào thị trường EU trong giai

đoạn hiện nay.

900000

800000

Đức

700000

Hà Lan

600000

Tây Ban Nha

500000

Ý

Bỉ

400000

Pháp

300000

Ba Lan

200000

Bồ Đào Nha

19 nước EU còn lại

100000

0

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

4.1.2. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo thị trường

Hình 4.5. Diễn tiến xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo quốc gia,

2012 – 2022 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Các thị trường đối tác nhập khẩu nông sản Việt Nam trong EU gồm tám quốc

gia: Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Pháp, Ba Lan và Bồ Đào Nha. Trong giai

đoạn từ 2012 – 2023, Đức vẫn duy trì là đối tác nhập khẩu nông sản hàng đầu của

77

Việt Nam, và theo sau là Hà Lan. Kim ngạch XKNS Việt Nam sang các thị trường

này đều tương ổn định và có có sự gia tăng mạnh mẽ. Đáng chú ý là ở thị trường Hà

Lan và Đức. XKNS sang Hà Lan đã tăng từ trên 300 triệu USD năm 2012 lên đỉnh

điểm 700 triệu USD vào năm 2017, trước khi giảm còn khoảng 650 triệu USD vào

2023 do tác động của đại dịch Covid – 19 (Hình 4.5).

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, hoạt động XKNS sang EU có sự chênh lệch rất

lớn giữa các nước thành viên. Tám đối tác chủ chốt chiếm trung bình 92% kim ngạch

nhập khẩu nông sản của toàn EU từ Việt Nam trong giai đoạn 2012 - 2023. Các quốc

gia còn lại có tỷ lệ nhập khẩu khá thấp, 19 nước còn lại ở mức dưới 1% và thậm chí

0%, không có quan hệ XKNS với Việt Nam như Luxembourg từ 2012 đến 2019. Năm

2020 - 2023, hai nước đã bắt đầu có quan hệ thương mại, nhưng không đáng kể.

19 nước EU …

19 nước EU còn lại: 9%

Ba Lan 3%

Bồ Đào Nha 2%

Bồ Đào Nha 1%

Ba Lan 4%

Đức 29%

Đức 27%

Pháp 6%

Pháp 8%

Bỉ 8%

Bỉ 7%

Ý 13%

Hà Lan 17%

Hà Lan 24%

Tây Ban Nha 14%

Ý 12% Tây Ban Nha 8%

Hình 4.6. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Hình 4.7. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam

Việt Nam sang EU theo quốc gia 2012 (%) sang EU theo quốc gia 2023(%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Trong giai đoạn này, Đức là thị trường đối tác lớn nhất trong EU của Việt Nam,

cụ thể trong 2023, Đức chiếm 27% tổng kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU, đạt

hơn 718 triệu USD. Hà Lan đứng thứ hai với 24% thị phần. Tiếp theo là Italy với

12%, đạt gần 326 triệu USD. Tây Ban Nha và Pháp lần lượt chiếm 8,37% và 7,94%,

với kim ngạch xuất khẩu tương ứng là 219 triệu USD và 208 triệu USD. Bên cạnh

đó, một số thị trường mặc dù kim ngạch nhập khẩu nông sản từ Việt Nam còm rất

nhỏ nhưng đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ như Phần Lan với kim ngạch nhập khẩu

tăng 198%, Hungary tăng 86,9% và Cộng hòa Séc tăng 49,2%.

Như vậy, xét về cơ cấu thị trường trong EU, Đức, Hà Lan vẫn là hai đối tác

78

nhập khẩu nông sản quan trọng nhất. Tuy nhiên, nông sản Việt Nam sẽ còn rất nhiều

tiềm năng mở rộng xuất khẩu sang các quốc gia khác trong EU nếu tận dụng được cơ

hội từ EVFTA và đáp ứng được tốt các quy định của EU.

4.1.3. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo các mặt hàng

4.1.3.1. Cơ cấu theo nhóm ngành hàng

Giai đoạn 2012 – 2023, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuộc 3 nhóm hàng

nông sản đều có sự gia tăng theo thời gian. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn trong giá

trị xuất khẩu giữa các nhóm ngành hàng. Chiếm tỷ trọng chủ yếu với giá trị xuất khẩu

cao vượt bậc là các mặt hàng thuộc Nhóm 2– nhóm hàng thực vật; theo sau là Nhóm 3

– nhóm hàng nông sản, thực phẩm chế biến và cuối cùng Nhóm 1 - nhóm hàng động vật

3500,0

3000,0

2985,43

2564,122

2500,0

2410,5

2292,9

2266,6

2223,3

2168,0

2101,1 2026,4

2000,0

1965,1

1838,7

1634,9

1500,0

1000,0

628,443 593,436

500,0

97,816 144,394 170,035 174,514 195,416 254,833 278,071 310,337 323,32 368,821

102,481

58,3

30,7

25,5

15,2

0,0

11,3

11,6

8,9

10,1

5,2

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2022

2023

31,1 73,725 2021

Nhóm 2 (HS06-14): Thực vật và sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật

Nhóm 3 (HS15-24) : Hàng nông sản, thực phẩm chế biến

Nhóm 1 (HS01-05): Động vật tươi sống và sản phẩm có nguồn gốc từ động vật

có giá trị xuất khẩu sang EU là không đáng kể so với hai nhóm hàng còn lại.

Hình 4.8. Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm

ngành hàng chính, 2012-2023 (triệu USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Các nhóm hàng đều chứng kiến sự tăng trưởng nhưng mức độ tăng là khác

nhau. Mặc dù là nhóm chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất nhưng nhóm 2 chỉ chứng

kiến sự tang gấp khoảng hơn 1,6 lần, từ 1,8 tỷ USD năm 2012 lên 2,98 tỷ USD năm

2023; trong khi đó, nhóm 3 và nhóm 1 mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng giá trị xuất

khẩu đã tăng mạnh. Cụ thể kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của nhóm 3 đã gấp hơn 6

lần so với năm 2012 (từ gần 98 triệu USD lên 593,4 triệu USD); và của nhóm 1 là

79

gấp hơn 19 lần từ 5,2 triệu USD năm 2012 lên 102,4 triệu USD năm 2023.

Nhóm 3 14,06%

Nhóm 1 1,19%

Nhóm 2 84,75%

Hình 4.9. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Hình 4.10. Tỷ trọng xuất khẩu nông

Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm

chính năm 2012 (%) hàng chính năm 2023 (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Theo cơ cấu xuất khẩu: Nhóm 2 chiếm tỷ trọng chủ yếu lên đến 94,7% năm

2012, tuy nhiên, tỷ trọng này đã giảm liên tục theo thời gian xuống còn 91,7% năm

2016 và đến 2023 chỉ chiếm 84,7% và 2023 với 81,1%. Ngược lại thì, cơ cấu nhóm

3 và nhóm 1 ngày được cải thiện theo thời gian (Hình 4.9, Hình 4.10, Hình 4.11 và

Bảng 4.2). Điều này chứng tỏ thời gian qua Việt Nam đã tích cực chuyển đổi từ hàng

Nhóm 1 2,78%

Nhóm 3 16,12%

Nhóm 2 81,10%

nông sản tươi sống sang hàng nông sản chế biến giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

Hình 4.11. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng

chính năm 2023 (%)

80

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Bảng 4.2. Tỷ trọng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU theo ba nhóm hàng

chính, 2012 – 2023 (%)

Năm/nhóm Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 1

2012 94,70% 5,04% 0,27%

2013 91,43% 8,08% 0,50%

2014 92,33% 7,24% 0,43%

2015 91,36% 8,11% 0,52%

2016 91,72% 7,82% 0,47%

2017 89,93% 9,51% 0,57%

2018 88,01% 10,80% 1,19%

2019 85,08% 12,57% 2,36%

2020 85,31% 13,61% 1,07%

2021 84,75% 14,06% 1,19%

2022 78,50% 19,24% 2,26%

2023 81,10% 16,12% 2,78%

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

4.1.3.2. Cơ cấu theo nhóm mặt hàng - HS 2 chữ số

Hoạt động XKNS của Việt Nam sang EU có mức độ tập trung lớn về chủng loại

sản phẩm. Bảng 4.3 cho thấy những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt

Nam theo. Mã HS sang EU trong giai đoạn 2012 – 2023.

Có thể thấy sự tăng trưởng trong xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông sản

Việt Nam sang EU trong giai đoạn từ 2012 – 2023. Tuy nhiên, chỉ 06 nhóm mặt hàng

chính có giá trị xuất khẩu cao vượt bậc so với các nhóm hàng còn lại gồm HS 09 (cà

phê, chè, chè Paragoay và các loại gia vị), HS 08 (quả và quả hạch ăn được; vỏ quả

thuộc họ cam quýt hoặc các loại dưa), HS 19 (Chế phẩm từ ngũ cốc, bột, tinh bột

hoặc sữa; các loại bánh); HS 10 (ngũ cốc), HS 20 (các chế phẩm từ rau, quả, quả hạch

hoặc các sản phẩm khác của cây), HS21 (các chế phẩm khác). Các mặt hàng còn lại

đều cho thấy giá trị xuất khẩu không cao (dưới 20 triệu USD). Cụ thể:

Kim ngạch xuất khẩu cao nhất thuộc về nhóm HS 09 với giá trị xuất khẩu gần 1,5

tỷ USD năm 2012. Đây là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu XKNS của

Việt Nam sang EU, chiếm tới 76,38% trong tổng kim ngạch XKNS sang EU năm 2012.

Từ 2012 – 2015, giá trị xuất khẩu của mặt hàng này lên xuống liên tục: có những năm,

81

đạt giá trị xuất khẩu gần 1,7 tỷ USD (2014), cũng có những năm giá trị xuất khẩu giảm

chỉ còn gần 1,3 tỷ USD (2013). Từ 2015 – 2021, HS 09 chứng kiến một sự giảm liên tục

trong kim ngạch xuất khẩu; từ 1,56 tỷ USD năm 2015 xuống mức thấp kỉ lục vào năm

2019và 2020 chỉ còn gần 1,1 tỷ USD, tuy nhiên từ 2021 – 2023, kim ngạch xuất khẩu

HS 09 đã lấy lại đà tăng trưởng đạt 1,2 tỷ USD năm 2021; 1,6 tỷ USD năm 2022 và đạt

đỉnh vào năm 2023 với 1,87 tỷ USD.

Nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai thuộc về nhóm HS 08. Kim

ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này tăng liên tục từ năm 2012 với khoảng 300 triệu

USD đạt đỉnh kim ngạch xuất khẩu hơn 900 triệu USD vào năm 2017. Từ 2018 –

2020, kim ngạch xuất khẩu giảm nhẹ liên tục dao động trong khoảng 800 - 850 triệu

USD trước khi phục hồi đạt trên 897 triệu USD năm 2021 và 909 triệu USD năm

2000000

1800000

1600000

1400000

1200000

1000000

800000

600000

400000

200000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

HS 09

HS 08

HS 19

HS 10

HS 20

HS 21

2023. Trong giai đoạn 12 năm, kim ngạch xuất khẩu HS 08 đã tăng gấp khoảng 3 lần.

Hình 4.12. Diễn tiến xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam

sang EU, 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Tiếp theo là nhóm HS 19 và HS 21 với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 100 triệu

USD vào năm 2021; trong khi, HS 19 đạt được giá trị xuất khẩu gấp hơn 2 lần so với

năm 2012 thì HS 21 chứng kiến một tốc độ tăng trưởng ấn tượng, giá trị xuất khẩu

82

đạt gần 114 triệu USD, tăng gấp hơn 7,6 lần so với năm 2012.

Bảng 4.3. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU theo mã HS 2 chữ số (nghìn USD)

2013 614 4220 1320 2709 4486 14325 281949

2019 2270 11825 4189 39972 7149 16561 828136

2018 2483 5817 5192 17194 5852 12640 842561

2017 1805 5047 3855 4469 4599 12927 908438

2015 1177 5341 704 4062 3880 11319 540760

2016 1447 4756 1383 4052 4035 13829 681049

2014 1100 4289 1774 2937 4655 13798 436730

2020 2538 5932 3429 13581 7798 17188 853545

2021 2890 5245 3192 19803 10599 18030 897601

2022 3813 13936 15921 40055 10213 16156 765015

Mã HS/ Năm 01 02 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 17

2023 2012 51327 565 18126 2737 16406 11 16622 1854 10018 4701 14184 13535 302785 909078 1482981 1294726 1685975 1373358 1563143 1457480 1369941 1195245 1089484 1218483 1679700 1877435 80807 29091 13948 1305 19073 2998 59860 915 1027 387 36114 2092 22894 2909

65147 12848 8359 4747 1937 145823 6403

18789 4079 5473 835 1710 1999 4963

33336 2181 3400 193 273 3996 4291

44952 10669 8628 12527 1840 33179 4260

13201 2653 6446 3164 1637 7974 4992

20684 974 4518 25 599 3054 5105

28446 2011 4109 14 1197 943 2627

14842 5796 8952 4759 1293 9445 5474

30148 8039 8138 6580 1153 16306 6208

33827 10938 8337 3901 1356 11518 4143

18

3135

3909

4566

5426

4866

5260

6232

7201

6694

9513

11404

9628

19

51837

57531

62278

61378

69862

83308

99551

111459

112792

118382

181134

146909

20

17575

33697

35125

37613

51269

54304

43407

64500

68081

68692

125914

201466

21

13191

29197

45084

52949

52508

81315

87131

76402

100602

113945

131357

137482

22

1321

1484

3430

3854

6311

9973

13408

14444

10041

10036

12026

18894

23

2160

4134

4579

3933

1752

4461

7021

7504

8483

10140

12080

16255

24

3596

6155

6814

5791

1886

3246

6402

6313

966

674

2302

3794

83

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Nhóm HS 10 và HS 20 là hai nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng trên

50 triệu USD năm 2021. Mặc dù giá trị xuất khẩu chưa lớn, tuy nhiên, đây là hai nhóm

mặt hàng chủ lực, có lợi thế của Việt Nam; trong giai đoạn 2012 – 2021 cũng đã có

những sự tăng trưởng liên tục trong xuất khẩu sang EU, dù chưa được như kì vọng.

Như vậy, ngoại trừ HS 09, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm trong giai

đoạn 2012 – 2020, nhưng giai đoạn 2021 – 2023 đã đảo chiều với xu hướng tăng lên.

Các mã hàng còn lại đều có xu hướng tăng theo từng năm. Điều đó cho thấy, nông

sản Việt Nam đang từng bước tiếp cận và chiếm được thị phần nhiều hơn ở thị trường

EU.

Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng: chiếm tỷ trọng lớn nhất thuộc về HS 09

với 76,38% năm 2012; tuy nhiên, tỷ trọng này đã giảm xuống một cách đáng kể, chỉ

còn 51 % năm 2023. HS 08 chiếm tỷ trong đứng thứ 2; sau 10 năm đã tăng hơn gấp

2 lần trong tỷ trọng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu từ 15,59% (2012) lên 34,22% (2021),

tuy nhiên, đến 2023, tỷ trọng của mặt hàng này giảm xuống còn 24,69%. Trong khi

HS khác; 8,91%

đó, HS 19 và HS 21 đều chiếm khoảng gần 4% năm 2023.

HS 10; 1,50%

HS khác; 3,86%

HS 21; 3,73%

HS 19; 2,67%

HS 20; 5,47%

HS 10; 2,20%

HS 09; 51,00%

HS 19; 3,99%

HS 08; …

HS 08; 24,69%

HS 09; 76,38%

HS 09

HS 08

HS 19

HS 10

HS 09

HS 08

HS 19

HS 10

HS khác

HS 20

HS 21

HS khác

Hình 4.13. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Hình 4.14. Cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt

Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm Nam sang EU theo nhóm mặt hàng năm 2023

2012 (%) (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Từ phân tích số liệu trên, có thể thấy nguyên nhân gây ra sự chênh lệch rõ rệt

giữa các nhóm ngành hàng là do hầu hết các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của

Việt Nam sang thị trường EU đều thuộc nhóm 2 (HS 06 -14); trong đó chủ yếu là HS

84

09, HS 08 và HS 10; theo sau là Nhóm 3 với HS 19, HS 20, HS 21.

4.1.3.3. Thực trạng xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU

Như vậy, 06 nhóm mặt hàng nông sản chính xuất khẩu sang EU gồm nhóm

HS 09, HS 08, HS 19; HS 10, HS 20 và HS21. Trong mục này, nghiên cứu phân tích

cụ thể hơn các mặt hàng chủ lực trong các nhóm mặt hàng trên gồm: mặt hàng cà phê

(HS 0901) và các chế phẩm từ cà phê (HS 2101 gồm HS 210111 và HS 210112), hạt

điều (HS 080132), rau quả (HS 07, HS 08 trừ HS 0801 và HS 20), hạt tiêu (HS 0904

gồm HS 090411 và HS 090412), gạo (HS1006). Đây là các mặt hàng tiêu biểu, có

kim ngạch xuất khẩu lớn sang EU.

4.1.3.3.1. Mặt hàng cà phê

Theo cơ sở dữ liệu thương mại Trademap, hàng năm EU nhập khẩu mặt hàng

cà phê đạt khoảng 10 tỷ USD từ các quốc gia đối tác, đặc biệt đạt đỉnh trong năm

2022 với 13,6 tỷ USD; thị trường EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất toàn cầu

(chiếm khoảng trên 30% lượng tiêu thụ trên thế giới). Vì vậy, EU là thị trường đối

tác quan trọng của Việt Nam trong ngành hàng này.

Cà phê và các chế phẩm từ cà phê là mặt hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tổng kim ngạch nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU. Tỷ trọng

này có xu hướng thay đổi trong giai đoạn 2012 – 2023 nhưng vẫn đạt trong khoảng

120%

100%

80%

60%

40%

20%

0%

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023

Cà phê

Tổng nông sản xuất khẩu

từ 40% - 63% của tổng kim ngạch nông sản xuất khẩu sang EU (Hình 4.15).

Hình 4.15: Tỷ trọng cà phê trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam

sang EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

85

Về kim ngạch xuất khẩu: Trong thời kỳ 2012–2023, giá trị xuất khẩu trung bình

của toàn bộ các sản phẩm cà phê Việt Nam sang EU đạt khoảng 1,2 tỷ USD mỗi năm.

Riêng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU đạt 1,7 tỷ USD, khẳng định

EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 35% tổng giá trị xuất

khẩu cà phê.

Xu hướng xuất khẩu mặt hàng cà phê dao động tăng giảm không ổn định qua

các năm. Từ năm 2016 - 2020, giá trị xuất khẩu có xu hướng giảm liên tục từ 1,27 tỷ

USD năm 2016 xuống còn 914 triệu USD năm 2020 (Hình 4.16). Nguyên nhân của

sự sụt giảm này có thể vì hai lý do chính: thứ nhất là do sự cạnh tranh gay gắt của các

quốc gia khác cũng xuất khẩu cà phê sang EU như Brazil. Brazil cũng đã đã kí kết

FTA với EU, do đó, cũng được nhận những ưu đãi về thuế quan như Việt Nam. Hơn

nữa, Brazil xuất khẩu cả hai loại cà phê là Arabica và Robusta trong khi Việt Nam lại

chủ yếu sản xuất và xuất khẩu Robussta mà người tiêu dùng EU đang có xu hướng

yêu thích Arabica hơn. Thứ hai, xuất khẩu cà phê cũng chịu tác động nhất định từ đại

dịch Covid -19.

Việc thực thi Hiệp định EVFTA đã giúp 93% dòng thuế đối với cà phê xuất

khẩu sang EU được xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đây là cơ hội quan

trọng cho ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt khi EU là thị trường tiêu thụ cà phê lớn

nhất thế giới. Tuy nhiên, những thách thức từ đại dịch Covid-19 cùng với tình trạng

gián đoạn trong chuỗi logistics đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu cà phê

của Việt Nam sang khu vực này.

Giai đoạn từ 2021 – 2023, xuất khẩu cà phê chứng kiến xu hướng tăng trở lại

và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2022 và 2023 với kim ngạch đạt khoảng 1,7 tỷ

USD/năm (Hình 4.16). Điều này cho thấy ngành cà phê Việt Nam đang khai thác

hiệu quả các ưu đãi thuế quan từ EVFTA. Đồng thời, cà phê Việt Nam ngày càng đáp

ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường EU, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh và

khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng: Mã hàng cà phê xuất khẩu sang EU

chiếm tỷ trọng chủ yếu là mã HS 090111 (cà phê chưa rang hoặc chưa khử caffein),

chiếm trên 90% trong tổng giá trị xuất khẩu cà phê sang EU trong giai đoạn 2012-

2023. Theo sau đó là mã hàng HS 210111 (cà phê hoà tan) với giá trị xuất khẩu

đạt 88 triệu USD. Đứng thứ ba là mã HS 090112 (cà phê đã khử caffein). Cà phê

đã khử caffein có xu hướng tăng lên nhanh chóng theo các năm trong giai đoạn

2012 – 2023 từ chỉ hơn 6 triệu USD năm 2012 tăng đạt trên 75 triệu USD năm

86

2023. Các mã hàng khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Như vậy có thể thấy, giá

trị xuất khẩu mặt hàng cà phê còn chưa cao khi tỷ trọng chủ yếu thuộc về cà phê

2000000

1800000

1600000

1400000

1200000

1000000

800000

600000

400000

200000

0

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023

HS 090111

HS 090112

HS 090121

HS 090122

HS 210111

HS 210112

chưa rang hoặc chưa khử caffein.

Hình 4.16: Diễn tiến xuất khẩu cà phê Việt Nam sang EU theo phân loại mã

hàng HS 6 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Về cơ cấu xuất khẩu cà phê theo thị trường: Các thị trường chính trong EU của

cà phê xuất khẩu Việt Nam bao gồm 5 quốc gia: Đức, Italy, Tây Ban Nha, Bỉ và Pháp,

chiếm khoảng trên 80% cà phê nhập khẩu từ Việt Nam trong toàn khối. Trong đó,

Đức luôn duy trì là thị trường đối tác lớn nhất với kim ngạch trung bình trong giai

đoạn 2012 – 2023 đạt trên 400 triệu USD/năm; theo sau là Italy với trên 220 triệu

USD, Tây Ban Nha với khoảng 200 triệu USD, Bỉ với khoảng 120 triệu USD và cuối

cùng là Pháp với khoảng 60 triệu USD (Hình 4.17).

Xu hướng xuất khẩu cà phê tại các thị trường chủ yếu này trong giai đoạn 2012

– 2023 dao động không ngừng theo các năm. Tuy nhiên sau đại dịch Covid – 19 với

nhiều khó liên quan đến tình hình vận chuyển, logisstics, đứt gãy chuỗi cung ứng,…

thì kim ngạch xuất khẩu cà phê đã phục hồi và có chiều hướng tăng lên từ 2021 -

2023. Đức được đánh giá là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất EU, hơn nữa đây còn

là cửa ngõ trung chuyển trong thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và EU. trong năm

2021, tỷ trong giá trị cà phê sang Đức chiếm đến 41.95%, năm 2023 chiếm khoảng

32,38% . Tronh khi Ý duy trì chiếm khoảng 23% trong tổng giá trị cà phê xuất khẩu

87

sang EU (Hình 4.17).

1800000

1600000

1400000

1200000

1000000

800000

600000

400000

200000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Đức

Ý

Tây Ban Nha

Bỉ

Pháp

EU27

Hình 4.17: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu cà phê (HS 090111) Việt Nam sang EU

theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Ngoài các thị trường chủ yếu nêu trên, trong giai đoạn từ 2020 – 2023, cà phê

Việt Nam còn ghi nhận các giá trị xuất khẩu sang các quốc gia khác trong EU như

Hungary, Estonia. Dù kim ngạch xuất khẩu còn thấp (Hungary với khoảng trên 7 triệu

USD và Estonia với khoảng gần 600 nghìn USD) nhưng tốc độ tăng trưởng đạt lần

lượt trên 500% và 380% thì đây là hai thị trường được đánh giá là tiềm năng đối với

cà phê Việt Nam mà các doanh nghiệp cần khai thác.

Hiện nay EVFTA đã bước sang năm thứ tư có hiệu lực. Các cam kết cắt giảm

thuế quan sâu rộng sẽ là một cơ hội lớn cho mặt hàng nông sản chủ lực này của Việt

Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê cần tiếp tục nâng

cao chất lượng cà phê để có chỗ đứng với thị phần lớn trong thị trường EU, cạnh

tranh được với các quốc gia khác cũng có thế mạnh xuất khẩu cà phê trên thế giới

như Brazil, Colombia, Peru,…

4.1.3.3.2. Mặt hàng hạt điều

Mã hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai sang EU là mặt hàng

hoa quả và các loại hạt thuộc HS 08. Trong đó, phân nhóm HS0801 (Dừa, hạt Brazil

và hạt điều, tươi hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc bóc vỏ) chiếm tỷ trọng chủ yếu,

88

trên 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Ngoài ra, các mặt hàng các loại

hạt khác (HS 0802), Chuối (HS 0803), cam quýt (HS 0805), các loại quả họ dâu tây,

mâm xôi (HS 0810) và các loại trái cây và hạt chưa hoặc đã qua chế biến (HS 0811)

cũng đã có những sự tăng trưởng trong giá trị xuất khẩu sang EU giai đoạn 2012 – 2023

1000000

900000

800000

700000

600000

500000

400000

300000

200000

100000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

HS 0801

HS 0802

HS 0804

HS 0805

HS 0810

HS 0811

Các mặt hàng khác

với kim ngạch trung bình khoảng từ 6 - 20 triệu USD tuỳ mã hàng (Hình 4.18).

Hình 4.18: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hoa quả và các loại hạt của Việt Nam

sang EU theo mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Trong HS 0801 thì mặt hàng hạt điều (HS 080132) là mặt hàng chiếm tỷ trọng

xuất khẩu chủ yếu (95% trong tổng kim ngạch mã HS 0801) với giá trị trung bình

khoảng trên 600 triệu USD/năm trong giai đoạn 2012 – 2023. EU là đối tác đứng thứ

2 (sau Hoa Kỳ) trong các đối tác nhập khẩu hạt điều của Việt Nam với tỷ trọng trên

20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều.

Kim ngạch xuất khẩu hạt điều sang EU giai đoạn 2013- 2017 chứng kiến một

xu hướng tăng nhanh từ 272,6 triệu USD (2013), đạt đỉnh năm 2017 với 851,4 triệu

USD. Năm 2017, giá trị xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang EU tăng đột biến vì

trong giai đoạn này nhu cầu của thế giới nói chung và EU nói riêng tăng cao trong

khi nguồn cung tại quốc gia sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này trên thế giới lại giảm

trầm trọng khiến cho giá hạt điều tăng mạnh trên trên thế giới; điều đó đã giúp giá trị

xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đạt mức kỷ lục. Trong năm này, giá nhân điều của

Việt Nam trung bình đạt 10 nghìn USD/tấn, cao hơn năm trước 22,3 % (Bộ Công

thương, 2022), do đó, đã giúp hạt điều của Việt Nam khẳng định được vị trí số 1

89

trên thị trường xuất khẩu toàn cầu.

900000

800000

700000

600000

500000

400000

300000

200000

100000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Hà Lan

Đức

Pháp

Tây Ban Nha

Ý

EU

Hình 4.19: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt điều của Việt Nam sang EU theo

thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Năm 2018 – 2019, kim ngạch xuất khẩu hạt điều giảm còn khoảng 740 triệu

USD/năm. Nguyên nhân của sự sụt giảm này được cho là do sự thiếu hụt nguồn cung

hạt điều thô, cùng với đó là ảnh hưởng nặng nề vì nạn mọt cứng (Bộ Nông nghiệp và

phát triển nông thôn, 2018).

Giai đoạn từ 2020 – 2023 giá trị xuất khẩu tăng nhẹ và ổn định với kim ngạch

trung bình khoảng 780 triệu USD/năm. Mặc dù trong giai đoạn này, xuất khẩu hạt

điều chiụ tác động tiêu cực từ nhiều yếu tố như đại dịch Covid-19, chi phí cước vận

tải biển tăng cao và tình trạng tắc nghẽn tại các cảng biển hay tình trạng thiếu nhân

công,… nhưng xuất khẩu hạt điều sang EU vẫn ghi nhận mức tăng trưởng dương là

nhờ nhu cầu tiêu dùng của EU tăng (Europa, 2022); đồng thời, hạt điều chế biến của

Việt Nam đã được hưởng các ưu đãi thuế quan 0% khi EVFTA có hiệu lực (trước đó

mức thuế cho điều chế biến là 7 – 12% , nhân điều là 0%).

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: Hà Lan là thị trường xuất khẩu chủ đạo. Trước

2020, giá trị nhập khẩu hạt điều Việt Nam của Hà Lan luôn đạt từ 50% - 65% tổng

giá trị nhập khẩu của toàn EU. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trọng từ 10 – 16%; theo

sau là Ý, Pháp, Tây Ba Nha. Từ 2021 – 2023, trong khi tỷ trọng này tại Hà Lan giảm

thì ở Đức lại tăng lên (Hình 4.20). Điều này cho thấy, nhu cầu hạt điều tại hai nước

90

cao để phục vụ cho ngành chế biến thực phẩm và tiêu thụ của người dân. Hơn nữa,

Hà Lan và Đức cũng là đầu mối thương mại quan trọng của mặt hàng này phục vụ

70,00%

60,00%

50,00%

40,00%

30,00%

20,00%

10,00%

0,00%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Các nước còn lại

Hà Lan

Đức

Pháp

Tây Ban Nha

Ý

hoạt động tái xuất (Bộ Công thương, 2022).

Hình 4.20: Diễn tiến tỷ trọng xuất khẩu hạt điều (HS 080132) Việt Nam sang EU

theo thị trường, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xuất khẩu hạt điều sang các quốc gia khác như

Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan, Phần Lan, Bồ Đào Nha,… Trong đó 5 đối tác

chính gồm Hà Lan, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha chiếm tỷ trọng trên 85% tổng giá trị

hạt điều xuất khẩu sang toàn EU. Như vậy, hạt điều Việt Nam có nhiều tiềm năng

phát triển xuất khẩu sang thị trường EU.

4.1.3.3.3. Rau quả

Rau quả cũng là một trong các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU. Các

mặt hàng rau củ nằm trong các mã HS 07 (Rau tươi và sơ chế) , HS 08 (quả tươi và

sơ chế, trừ HS 080132) và HS 20 (Rau quả đã qua chế biến). Đây được đánh giá là

mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh nhờ vào điều kiện tự nhiên và khí hậu phù hợp

• Về kim ngạch xuất khẩu:

cho việc sản xuất và xuất khẩu.

Tổng giá trị xuất khẩu các mặt rau quả Việt nam sang EU giai đoạn 2012 –

2023 chứng kiến xu hướng tăng liên tục và mạnh mẽ qua các năm. Nếu như năm

2012, kim ngạch chỉ đạt trên 50 triệu USD thì năm 2023 đã đạt 326,79 triệu USD.

91

Như vậy, trong 11 năm, xuất khẩu rau quả sang EU đã tăng gấp hơn 6 lần. Mặc dù

tốc độ tăng trưởng không ổn định do các quy định nghiêm ngặt liên quan đến quy

trình bảo quản rau quả và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Năm 2020, EVFTA có

hiệu lực đã tiếp tục giúp cho kim ngạch xuất khẩu rau quả tiếp tục tăng trưởng nhờ

những cam kết cắt giảm thuế quan về 0 cho 94% trong tổng số 547 dòng thuế đối với

rau quả và các chế phẩm từ rau quả. Trong đó, các mặt hàng như vải, nhãn, thanh

long, chôm chôm, dứa,… là thế mạnh của Việt Nam sẽ được hưởng lợi ngay lập tức

trong khi trước đây mức thuế MFN trung bình áp với các mặt hàng. Này là từ 10%, -

trên 20%. Như vậy, cam kết mở cửa sâu rộng như vậy của EU đối với Việt Nam sẽ

giúp ngành rau quả của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh với các quốc gia là đối thủ

cạnh tranh của Việt Nam nhưng chưa ký kết FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc,

350000

300000

250000

200000

150000

100000

50000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

HS 07(Rau tươi và sơ chế)

HS 08 (Quả tươi và sơ chế, trừ HS 0801)

HS 20 (Eau quả đã qua chế biến)

Tổng

Malaysia hay Indonesia (Bộ Công thương, 2022).

Hình 4.21: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU theo

mã HS 4 chữ số, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

• Về cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng:

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Trong giai đoạn từ 2012 - 2023, nhóm rau quả chế biến (HS20) chiếm tỷ trọng

cao nhất trong ba nhóm rau quả. Kim ngạch HS 20 đã có xu hướng tăng mạnh trong

giai đoạn này từ 17,57 triệu USD năm 2012 lên 125,9 triệu USD năm 2022 và đạt

đỉnh với 201,46 triệu USD. Như vậy trong 12 năm, kim ngạch đã tăng gấp hơn 10

lần. Đồng thời với đó, tỷ trọng nhóm rau quả chế biến đã tăng từ 34,9% năm 2012

92

lên 65% năm 2022 (Hình 4.22). Sự tăng trưởng này cho thấy rằng các sản phẩm rau

quả chế biến đang dần phát triển và có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường EU.

Đặc biệt, nhóm hàng này đã tăng trưởng mạnh mẽ nhờ sự đầu tư lớn của tập đoàn

như VinGroup, T&T, LaviFoods,...

Đứng thứ hai là nhóm quả tươi và sơ chế (HS 08 trừ HS 0801). Giai đoạn từ 2012

– 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm này tăng mạnh qua các năm từ 19 triệu

USD (2012) lên gần 101 triệu USD (2021). Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu đã giảm mạnh

trong năm 2022 xuống chỉ còn 51 triệu USD trước khi tăng trưởng trở lại vào 2023

với 111 triệu USD. Trong cơ cấu xuất khẩu ngành rau quả, năm 2022, tỷ trọng HS

08 trong tổng xuất khẩu ngành rau quả giảm từ 53,8% xuống còn 26,4% (giảm hơn

27%) (Hình 4.22).

Cuối cùng, giá trị xuất khẩu của nhóm rau tươi và sơ chế (HS 07) đạt trung bình

quả 12 triệu USD/ năm trong giai đoạn 2012 – 2018 và trung bình khoảng 16 triệu

USD/ năm giai đoạn 2019 – 2023. Nhóm HS 07 chiếm tỷ trọng thấp nhất và có xu

120,0%

100,0%

34,9%

80,0%

32,9% 38,6% 38,8% 36,6%

48,6% 45,3% 46,2% 48,5% 45,9%

65,2% 61,6%

60,0%

38,1%

40,0%

57,5% 51,4% 51,4% 53,8%

30,7% 36,9% 39,8% 38,5% 43,2%

26,4% 34,0%

20,0%

26,9% 20,7% 17,8% 13,9% 13,1% 10,9% 9,6% 9,9% 9,8% 9,6% 8,4% 4,3%

0,0%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

HS 20 (Eau quả đã qua chế biến)

HS 08 (Quả tươi và sơ chế, trừ HS 0801)

HS 07(Rau tươi và sơ chế)

hướng giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2012 – 2023 (Hình 4.22).

Hình 4.22: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang EU,

giai đoạn 2012 – 2023 (%)

• Về cơ cấu thị trường xuất khẩu:

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

EU hiện là đối tác nhập khẩu rau quả lớn thứ tư (sau Trung Quốc, Mỹ,

ASEAN) của Việt Nam chiếm 6,1% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong

93

năm 2023.

Trung Quốc

7,14%

2,27% 1,77% 2,35%

Hoa Kỳ

3,99%

ASEAN

EU

4,53%

Hàn Quốc

46,43%

Nhật Bản

5,98%

Đài Loan

6,11%

Úc

Hồng Kong (Trung Quốc)

8,99%

Canada

10,42%

Các nước khác

Hình 4.23: Cơ cấu các đối tác nhập khẩu rau quả chính của Việt Nam, 2023 (%)

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

Xét về cơ cấu thị trường các quốc gia thuộc EU: Hà Lan là quốc gia nhập khẩu

rau quả từ Việt Nam nhiều nhất trong khối EU chiếm hơn 48% (115 triệu USD) trong

tổng kim ngạch rau quả Việt Nam xuất sang EU năm 2023. Hơn nữa, Hà Lan cũng

được coi là “cửa ngõ” để hàng hoá Việt Nam xuất sang EU. Theo sau là Pháp với 38

triệu USD chiếm 15,9% trong tổng cơ cấu và và Đức với 27 triệu USD chiếm 11,42%.

Theo sau là quốc gia như Bỉ, Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha với tỷ trọng khoảng trên

3%/nước. Ngoài ra, các quốc gia khác, mặc dù giá trị xuất khẩu còn khiêm tốn nhưng

9,21

3,04

3,33

3,39

5,4

48,3

11,42

chứng tỏ thị trường EU còn rất nhiều tiềm năng cho rau quả của Việt Nam.

15,91

Hà Lan Pháp Đức Bỉ Ba Lan Italy Tây Ban Nha 20 nước còn lại

Hình 4.24: Cơ cấu thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam, 2023 (%)

94

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2023)

Như vậy, có thể nhận định rằng Việt Nam còn rất nhiều cơ hội trong việc xuất

khẩu rau quả sang EU. Tuy nhiên, đây là mặt hàng mà EU có những yêu cầu nghiêm

ngặt; vì vậy, ngành rau quả cần phải đáp ứng được đầu đủ các quy định về truy xuất

nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm

thì mới có thể chiếm lĩnh được thị trường này.

4.1.3.3.4. Mặt hàng hạt tiêu

Hạt tiêu (HS 0904 gồm HS 090411 và HS 090412) cũng là một trong các mặt

• Về kim ngạch xuất khẩu:

hàng nông sản chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang EU.

Giai đoạn 2012 – 2023 chứng kiến một xu hướng không ổn định trong tổng

giá trị xuất khẩu hạt tiêu sang EU. Giá trị xuất khẩu lớn nhất được ghi nhận trong giai

đoạn 2012 – 2015 với giá trị bình quân đạt 246 triệu USD/năm. Tuy nhiên, từ năm

2016, giá trị xuất khẩu bắt đầu sụt giảm mạnh, từ đỉnh với 261,8 triệu năm 2015 đã

giảm xuống còn 238 triệu USD năm 2016 và xu hướng giảm tiếp tục tiếp diễn đến

2020 còn 108 triệu USD, giảm khoảng 55% so với 2015. Nguyên nhân sụt giảm được

cho là trong bốn năm từ 2017 – 2020, nguồn cung hạt tiêu dư thừa do được mùa, diện

tích trồng và sản lượng của các quốc gia đều gia tăng, dẫn tới giá và lượng xuất khẩu

đều giảm; đồng thời, đại dịch Covid -19, giá logistics tăng cao cũng tác động mạnh

mẽ đến mặt hàng hạt tiêu trong giai đoạn này. Tuy nhiên, năm 2021 đã đánh dấu sự

tăng trưởng trở lại trong giá trị xuất khẩu hạt tiêu với 181,9 triệu USD, tăng 70.2%

so với năm 2020. Năm 2022 tiếp tục tăng đạt 203,2 triệu USD trước khi lại bị sụt

300000

250000

200000

150000

100000

50000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

090411 (Hạt tiêu chưa xay, nghiền)

090412 (Hạt xêu đã xay, nghiền)

Tổng

giảm trong 2023 còn 145,7 triệu USD (Hình 4.24).

Hình 4.25: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng hạt tiêu của Việt Nam sang EU, giai

đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

95

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Có sự tăng trưởng trở lại từ 2021 là nhờ ưu đãi thuế quan từ EVFTA đã xóa

bỏ 100% thuế quan đối với hạt điều ngay khi có hiệu lực. Sự tăng trưởng trở lại cho

• Về cơ cấu xuất khẩu theo chủng loại mặt hàng

thấy Việt Nam đã tận dụng tốt ưu đãi này.

Hạt tiêu xuất khẩu sang EU bao gồm hạt tiêu chưa xay/nghiền (HS 090411) và hạt

tiêu đã xay/nghiền (HS 090412); trong đó hạt tiêu chưa xay/nghiền chiếm tỷ trọng chủ

yếu với giá trị bình quân chiếm 80% trong tổng giá trị xuất khẩu tại giai đoạn 2012 –

2023. Hình 4.25 minh hoạ chi tiết diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng

100,0%

90,0%

80,0%

70,0%

60,0%

50,0%

40,0%

30,0%

20,0%

10,0%

0,0%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

090411 (Hạt tiêu chưa xay, nghiền)

090412 (Hạt xêu đã xay, nghiền)

của Việt Nam sang EU, giai đoạn 2012 – 2023.

Hình 4.26: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo mặt hàng của Việt Nam sang

EU, giai đoạn 2012 – 2023 (%)

• Về cơ cấu xuất khẩu theo thị trường

Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu thu thập từ Trademap, ITC (2024)

So với các thị trường đối tác trên thế giới thì EU chiếm 19.9% tổng giá trị hạt

tiêu xuất khẩu của Việt Nam. Đối với thị trường trong nội khối thì Đức và Hà Lan

hai quốc gia nhập khẩu hạt tiêu nhiều nhất, theo sau là Tây Ban Nha, Pháp, Ba Lan.

Đức là thị trường trong EU nhập khẩu hạt tiêu lớn nhất từ Việt Nam, chiếm

trung bình khoảng 30% thị phần/năm trong giai đoạn 2012-2023. Giá trị xuất khẩu

trong giai đoạn này có xu hướng giảm từ 79,2 triệu USD năm 2012 còn 32,6 triệu

USD năm 2020 (giảm gần 60%). Năm 2021 phục hồi và đạt được 61,4 triệu USD

96

năm 2022, sau đó lại chứng kiến một sự sụt giảm mạnh còn 44,8 triệu USD năm 2023.

300000

250000

200000

150000

100000

50000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Đức

Pháp

Hà Lan

Tây Ban Nha

Ba Lan

EU 27

Hình 4.27: Diễn tiến cơ cấu xuất khẩu hạt tiêu theo thị trường trong EU của Việt

Nam, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Nhìn chung, hạt tiêu Việt Nam đã khẳng định được chất lượng, đáp ứng được các

quy định nghiêm ngặt của EU, đồng thời tận dụng được các ưu đãi mà EVFTA mang

lại. Tuy nhiên, để phát triển xuất khẩu hạt tiêu sang EU, doanh nghiệp cần tiếp tục thu

hút đầu tư, phát triển nhà máy sản xuất, tận dụng nguồn nguyên liệu và nhân lực.

4.1.3.3.5. Mặt hàng gạo

Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo. Từ đó cho đến nay, Việt Nam

luôn giữ vị trí trong top 3 các nước xuất khẩu gạo nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên,

phần gạo xuất khẩu sang EU chiếm tỷ trọng rất nhỏ khoảng 1,3% trong tổng kim ngạch

xuất khẩu; ở chiều ngược lại, thị phần gạo của Việt Nam tại EU cũng rất khiêm tốn, chỉ

• Về kim ngạch xuất khẩu:

chiếm 3,1% tổng lượng gạo ngoại khối nhập khẩu vào EU (Bộ Công thương, 2022).

Giai đoạn 2012 – 2023 đã chứng kiến một xu hướng tăng trong giá trị xuất khẩu

các mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU từ 29 triệu USD (năm 2012) lên 91,5 triệu USD

năm 2022 trước khi bị sụt giảm còn 80,49 triệu USD năm 2023 (Hình 4.28). Tuy nhiên,

trong giai đoạn này, thời kỳ 2016 – 2018, xuất khẩu các mặt hàng gaọ bị sụt giảm tương

đối mạnh vì những lý do như gạo Việt Nam chưa đáp ứng được những quy định liên

quan đến rào cản kỹ thuật, phải cạnh tranh với các quốc gia khác, trong khi điều kiện

97

trong nước gặp nhiều khó khăn do điều kiện thời tiết, thiên tai tác động.

Thời kỳ từ 2019 - 2022 đánh dấu một sự tăng trưởng vượt bậc của kim ngạch

xuất khẩu gạo Việt Nam sang EU với giá trị xuất khẩu đạt 29,33 triệu USD, tăng gấp

2,25 lần so với năm 2018. Đến năm 2022, giá trị xuất khẩu đã đạt 91,5 triệu USD.

Như vậy chỉ trong 4 năm, kim ngạch xuất khẩu gạo đã tăng gấp 3,12 lần. Mặc dù đây

là giai đoạn khó khăn vì đại dịch Covid – 19 và tình hình thời tiết bất lợi nhưng xuất

khẩu gạo Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Nguyên nhân cho sự tăng trưởng này đến

từ mộ số lý do là Việt Nam đã chú trọng tăng xuất khẩu gạo có chất lượng tốt như

ST24, ST25, với giá cao, giảm xuất khẩu các loại gạo chất lượng trung bình và thấp;

ngoài ra, nhu cầu về đảm bảo an ninh lương thực trong giai đoạn Covid – 19 tăng

cao. Hơn nữa, EVFTA có hiệu lực đã giúp gạo Việt Nam được hưởng thuế suất 0%

với hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm trong khi trước đây thuế suất của thể là 45%

(VCCI, 2023). Tuy nhiên, sang 2023, kim ngạch xuất khẩu gạp đã có sự sụt giảm do

100000

90000

80000

70000

60000

50000

40000

30000

20000

10000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Tổng

HS 100610 (Thóc)

HS 100640 (Gạo tấm)

HS 100620 (Trấu hoặc gạo lứt) HS 100630 (Gạo đã xay xát)

chịu tác động của sức ép cạnh tranh từ các thị trường khác.

Hình 4.28: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU, giai đoạn

2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Tuy nhiên, tựu chung lại, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU

98

giai đoạn 2012 – 2023 đã tăng trưởng vượt bậc nhưng thị phần mới chiếm khoảng

trên 3,1% trong tổng kim ngạch gạo mà EU nhập khẩu từ các nước đối tác trên thế

giới. Do đó, EU vẫn là một thị trường nhiều tiềm năng đối với mặt hàng này. Tuy

nhiên, muốn tận dụng được các cơ hội, thâm nhập được vào EU thì gạo Việt Nam

cần phải giải quyết được những thách thức liên quan đến các quy định về các BPPTQ

như nguồn gốc xuất xứ, các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn

• Về cơ cấu xuất khẩu theo chủng loại gạo:

phát triển bền vững về lao động, môi trường.

Hiện nay, gạo đã xay xát (HS 100630) là mã hàng có kim ngạch xuất khẩu

sang EU lớn nhất. chiếm trung bình trên 80% trong tổng giá trị xuất khẩu sang EU.

Theo sau là mã gạo lứt và gạo tấm với hai xu hướng trái ngược nhau trong giai đoạn

2012 – 2023; trong khi gạo lứt có xu hướng tăng lên thì gạo tấm đang chứng kiến một

• Về thị trường xuất khẩu:

xu hướng giảm theo các năm (Hình 4.27).

Giai đoạn từ 2012 – 2018, gạo Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các thị

trường chính như Bỉ, Hà Lan, Đức. Từ 2018 – 2023, Ý, Pháp, Đức, Hà Lan, Ba Lan

là các quốc gia nhập khẩu chủ yếu (Hình 4.29).

Tại thị trường Bỉ, nếu như năm 2012 – 2013, tỷ trọng nhập khẩu gạo Việt Ma

của Bỉ đạt 12,5 triệu USD, chiếm đến trên 43,1 % trong tổng giá trị nhập khẩu của

toàn EU thì từ 2014, tỷ trọng này đã giảm dần, đến 2023, giá trị nhập khẩu gạo Việt

Nam của Bỉ chỉ còn chiếm 3,67%.

Ngược lại với Bỉ thì Italia lại có xu hướng nhập khẩu gạo từ Việt Nam ngày

càng nhiều. Năm 2012, Ý chỉ chiếm 1,14% trong tổng lượng gạo nhập khẩu của EU

từ Việt Nam. Thì năm 2019, tỷ trọng này đã đạt 17,51% và đạt đỉnh trong năm 2022

với 31,13%.

Còn các thị trường như Đức, Ba Lan, Hà Lan, Pháp thì chứng kiến một xu

hướng tăng dần đều về giá trị nhập khẩu gạo từ Việt Nam qua các năm trong giai

đoạn 2012 – 2023. Tại Đức, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp hơn 6,5

lần từ hơn 2 triệu USD năm 2012 lên 13,98 triệu USD năm 2023. Hà Lan tăng từ 2,2

triệu USD lên 6,69 triệu USD, Pháp từ 789 nghìn USD lên 15,29 triệu USD (gấp hơn

15 lần trong vòng 12 năm). Ba Lan cũng tăng gấp gần 9 lần từ 792 nghìn USD lên

99

6,86 triệu USD.

80000

70000

60000

50000

40000

30000

20000

10000

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

Đức

Ba lan

Hà Lan

Italy

Pháp

Bỉ

Lithuania

Hình 4.29: Diễn tiến xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang EU theo các thị

trường chính, giai đoạn 2012 – 2023 (nghìn USD)

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu từ Trademap, ITC (2024)

Như vậy, một bức tranh đầy đủ về thực trạng XKNS Việt Nam sang EU trong giai

đoạn từ 2012 đến 2023 với đầy đủ các phân tích về kim ngạch, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu

xuất khẩu theo thị trường, theo mặt hàng đã được phân tích đánh giá. Qua đó, có thể nhận

định rằng:

- Kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU có sự tăng giảm không ổn định qua

các năm. Tuy nhiên từ năm 2021 – 2023 trở đi kim ngạch đã tăng trưởng

ổn định.

- Về thị trường, EU hiện là đối tác lớn thứ ba nhập khẩu nông sản của Việt

Nam, tuy nhiên, nông sản xuất khẩu Việt Nam mới chiếm tỷ trọng khoảng

2% thị phần hàng nông sản của EU.

- Về cơ cấu thị trường, nông sản Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang 8 nước

thành viên của EU gồm Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Pháp, Ba Lan

và Bồ Đào Nha chiếm trung bình 92% tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản

của toàn EU từ Việt Nam.

- Nhóm hàng nông sản chiếm tỷ trọng chủ yếu là nhóm 2 - Nhóm thực vật,

100

chiếm trên 80% tổng hàng nông sản với các mặt hàng chủ lực gồm HS 09,

HS 08, HS 19; HS 10, HS 20, HS21; theo sau là Nhóm 3 – nhóm chế biến

và cuối cùng Nhóm 1 – nhóm hàng động vật có giá trị xuất khẩu sang EU là

không đáng kể.

- Các mặt hàng chủ lực, chiếm trên 95% tổng giá trị XKNS sang EU bao gồm

cà phê (HS 0901) và các chế phẩm từ cà phê (HS 2101 gồm HS 210111 và

HS 210112), hạt điều (HS 080132), rau quả, hạt tiêu, gạo.

4.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông sản

nhập khẩu

4.2.1. Hệ thống quy định của EU về các BPPTQ áp dụng với hàng nông sản nhập

khẩu

Liên minh châu Âu (EU) là khối liên kết khu vực với hệ thống chính sách thống

nhất của 27 quốc gia thành viên. Trong EU, có một hệ thống cơ quan quyền lực siêu

quốc gia gồm các cơ quan chủ chốt như Uỷ ban châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Nghị

viện châu Âu. Việc ban hành các quy định pháp lý của EU sẽ được Ủy ban châu Âu

đệ trình và phải được Hội đồng Châu Âu và Nghị viện châu Âu thông qua. Hai văn

bản pháp lý mà EU ban hành bao gồm Quy định và chỉ thị. Các văn bản này sau khi

được thông qua sẽ có hiệu lực pháp lý đối với tất cả các quốc gia thành viên. Đối với

các văn bản là Quy định, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ tuyệt đối tất

cả các yêu cầu trong Quy định. Còn đối với văn bản là Chỉ thị thì sẽ nêu các chính

sách, định hướng chung; các quốc gia thành viên có quyền tự do lựa chọn cách thức

triển khai chính sách tuỳ thuộc vào điều kiện và ý chí của quốc gia thành viên.

Trong lĩnh vực liên quan đến các BPPTQ áp dụng đối với các mặt hàng nông

sản (gồm các nhóm hàng liên quan động vật, thực vật và thực phẩm chế biến) có các

Quy định cần lưu ý gồm:

4.2.1.1. Luật thực phẩm chung và các Quy định về nguyên tắc chung

Quy định số 178/2002/EU, còn được gọi là Luật Thực phẩm Chung của EU,

đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người tiêu

dùng thông qua việc thiết lập các nguyên tắc chung về an toàn thực phẩm và thức

ăn chăn nuôi. Luật này đặt nền tảng cho hệ thống quản lý thực phẩm nghiêm ngặt

của EU, đảm bảo rằng mọi sản phẩm thực phẩm được kiểm soát chặt chẽ từ khâu

sản xuất, chế biến đến phân phối. Các quy định trong luật áp dụng cho toàn bộ

chuỗi cung ứng thực phẩm, từ giai đoạn nuôi trồng ban đầu tại trang trại đến khi

sản phẩm đến tay người tiêu dùng, nhằm đảm bảo chất lượng, an toàn và minh

101

bạch trong ngành thực phẩm.

Các quốc gia ngoài EU muốn xuất khẩu thực phẩm vào thị trường này phải tuân

thủ các quy định của Luật Thực phẩm Chung EU. Các nhà nhập khẩu EU có trách

nhiệm đảm bảo rằng thực phẩm nhập khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn và chất

lượng, đồng thời cung cấp bằng chứng tuân thủ khi cần. Vì vậy, các nhà nhập khẩu

EU có nghĩa vụ yêu cầu các nhà cung cấp ở nước xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu

chuẩn do Luật Thực phẩm EU đặt ra.

Sau khi Luật được thông qua bởi Nghị viện và Hội đồng châu Âu theo quy trình

lập pháp thì các Quy định này sẽ được áp dụng đồng bộ tại tất cả các nước thành viên.

Ngoài Luật Thực phẩm chung, EU còn ban hành bốn Quy định chi tiết để triển

khai Luật như Hình 2.4.

Các yêu cầu cốt lõi của Luật Thực phẩm Chung của EU nhằm đảm bảo an toàn

Quy định số 178/2002/EC: Luật Thực phẩm Chung EU

Quy định EC 852/2004: Các nguyên tắc vệ sinh thực phẩm.

Quy định EC 882/2004: Các nguyên tắc thanh tra kiểm tra.

Quy định EC 853/2004: Các nguyên tắc vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật.

Quy định CE 854/2004: Các nguyên tắc thanh tra kiểm tra thực phẩm có nguồn gốc động vật.

thực phẩm và bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng trong EU gồm:

Hình 2.4. Sơ đồ các quy định liên quan Luật Thực phẩm chung của EU

Nguồn: Tác giả tổng hợp

- An toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi: Thực phẩm và thức ăn chăn nuôi

phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng và vật nuôi. Chúng không được gây

ảnh hưởng xấu đến sức khỏe hoặc không đáp ứng điều kiện tiêu thụ của con

người.

- Ghi nhãn, quảng cáo và trình bày thực phẩm phải trung thực và không được

gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng.

- Truy xuất nguồn gốc: Các doanh nghiệp thực phẩm phải xác định rõ nguồn

gốc của thực phẩm, nguyên liệu hoặc động vật dùng trong sản xuất mà họ

102

nhập từ nhà cung cấp, cũng như các đối tác nhận sản phẩm từ họ. Khi được

yêu cầu, họ phải cung cấp thông tin truy xuất đầy đủ. Quy định này được

xem là cốt lõi trong chính sách an toàn thực phẩm của EU.

được phép lưu hành trên thị trường. Trường hợp đã phân phối đến người tiêu

dùng, sản phẩm phải được thu hồi kịp thời.

- Thu hồi thực phẩm không an toàn: Thực phẩm không đảm bảo an toàn không

Các quy định này nhằm đảm bảo rằng thực phẩm trên thị trường EU không

chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn mà còn đảm bảo quyền lợi và sức khỏe của

người tiêu dùng, đồng thời duy trì tính minh bạch và trách nhiệm trong chuỗi cung

ứng thực phẩm.

4.2.1.2. Quy định về thuốc bảo vệ thực vật và dư lượng tối đa cho phép (MRL) trên

thực phẩm

Quy định về thuốc bảo vệ thực vật: •

Quy định (EC) 1107/2009 về lưu thông thuốc bảo vệ thực vật trên thị trường,

được EU ban hành vào năm 2011, thiết lập các tiêu chuẩn và quy định chi tiết về việc

phê duyệt và cấp phép các hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật tại EU. Việc phê duyệt chỉ

được thực hiện nếu các hoạt chất này đáp ứng các điều kiện sau:

Thứ nhất, các hoạt chất phải đảm bảo an toàn cho sức khỏe con người và động

vật, tức là không gây hại tức thời hoặc lâu dài, bao gồm cả tác động trực tiếp hoặc

gián tiếp thông qua nước uống, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, không khí hoặc tiếp

xúc tại nơi làm việc. Ngoài ra, chúng không được gây ảnh hưởng tiêu cực do tác động

tích lũy hoặc kết hợp, nếu có phương pháp khoa học để đánh giá những tác động này.

Thứ hai, các hoạt chất không được gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi

trường, đặc biệt là đối với các loài sinh vật không thuộc đối tượng phòng trừ và hệ

sinh thái đa dạng sinh học.

Hiện nay, danh sách các hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật được EU phê duyệt

được liệt kê trong Quy định thực hiện (EC) 540/2011 cùng các bản sửa đổi. Danh

mục này có thể được tra cứu trên cơ sở dữ liệu thuốc bảo vệ thực vật của EU, cung

cấp thông tin chi tiết giúp doanh nghiệp và người tiêu dùng xác định các loại thuốc

bảo vệ thực vật được phép sử dụng trong thị trường EU.

• Về dư lượng tối đa cho phép (MRL) trên thực phẩm

Các cơ quan chức năng và người tiêu dùng tại EU đặc biệt lo ngại về dư lượng

thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm. Từ năm 2005, mức dư lượng tối đa (MRL)

103

đã được thiết lập theo một cách tiếp cận đồng bộ trên toàn EU, dựa trên Quy định

(EC) 396/2005 của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng về MRL trong hoặc trên thực

phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ động thực vật. Quy định này nhằm đảm

bảo mức độ bảo vệ người tiêu dùng cao nhất, ngăn chặn các rủi ro không thể chấp

nhận đối với sức khỏe con người, đồng thời thiết lập mức dư lượng tối thiểu phù hợp

với Thực hành nông nghiệp tốt (GAP). Ngoài ra, quy định cũng chú trọng đến việc

bảo vệ các nhóm dễ bị ảnh hưởng như trẻ em và thai nhi, đồng thời tạo điều kiện

thuận lợi cho thương mại, đảm bảo sự lưu thông tự do của thực phẩm và thức ăn chăn

nuôi trong EU, cũng như đề ra các quy định đối với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc

gia ngoài khối.

• Đảm bảo minh bạch và khả năng dự đoán.

Quy định này áp dụng cho các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật và thực vật,

bao gồm cả các bộ phận của chúng, được sử dụng làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn

nuôi, dù ở trạng thái tươi sống, đã qua chế biến hoặc hỗn hợp. Đồng thời, những sản

phẩm này có thể chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.

Theo Quy định (EC) 396/2005, các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật và

động vật khi đưa ra thị trường để sử dụng làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn nuôi phải

tuân thủ giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Cụ thể, mức dư lượng tối đa (MRL)

không được vượt quá các giá trị quy định trong Phụ lục II và III của Quy định này.

Đối với các sản phẩm chưa có MRL trong hai phụ lục trên hoặc chứa hoạt chất chưa

được liệt kê trong Phụ lục IV, mức dư lượng tối đa mặc định là 0,01 mg/kg, trừ khi

có một giá trị khác được xác định dựa trên các phương pháp phân tích tiêu chuẩn hiện

Hiện nay, có khoảng 70% MRL do EU ban hành và áp dụng tương đương hoặc cao

hơn tiêu chuẩn do CODEX đặt ra, chỉ có 30% có quy định thấp hơn. Danh mục MRL đối

với thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của EU được cập nhật thường xuyên, với xu hướng

chung là giảm giới hạn MRL nhằm tăng cường an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe người

tiêu dùng. Chẳng hạn, trong năm 2020, có tới 60 điều chỉnh trong danh mục thuốc

có. Những giá trị này sẽ được công bố trong Phụ lục V.

được EU phê duyệt. Phiên bản mới nhất được ban hành vào ngày 14/02/2022, với lần

cập nhật gần nhất vào ngày 16/05/2022.

Việc EU áp dụng tiêu chuẩn MRL nghiêm ngặt với phạm vi điều chỉnh rộng,

tạo rào cản kỹ thuật cho nông sản từ các nước đang phát triển, nơi vẫn phụ thuộc vào

104

phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Từ năm 2017, Ủy ban Châu Âu đã chuyển từ đánh

giá nguy cơ sang phòng ngừa rủi ro, mở rộng phạm vi MRL, hạ thấp giới hạn dư

lượng và siết chặt quy định về thuốc trừ sâu. Hiện EU đang xem xét bổ sung các hoạt

chất bị cấm dù ngành nông nghiệp chưa có giải pháp thay thế phù hợp.

4.2.1.3. Quy định về chất gây ô nhiễm thực phẩm (không phải thuốc bảo vệ thực vật)

EU đã ban hành Quy định Ủy ban (EC) 1881/2006 nhằm quy định giới hạn tối

đa cho một số chất gây ô nhiễm có trong thực phẩm. Những mức giới hạn này được

thiết lập để kiểm soát các chất có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng

EU, do độc tính cao hoặc mức độ phổ biến trong chuỗi cung ứng thực phẩm.

Những chất gây ô nhiễm chính trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật được

giám sát nghiêm ngặt tại EU bao gồm mycotoxin, kim loại nặng (như chì, cadmium),

dioxin và nitrate. Đặc biệt, các nhà sản xuất và xuất khẩu rau quả cần quan tâm đến

giới hạn cho phép đối với chì và cadmium. Các sản phẩm rau quả chế biến như trái

cây sấy khô hoặc nước ép trái cây có thể có quy định riêng, vì các yếu tố như độ pha

loãng hoặc đậm đặc cũng được xem xét.

Do các tiêu chuẩn về mức ô nhiễm tối đa thường xuyên được cập nhật và điều

chỉnh, các quốc gia xuất khẩu thực phẩm vào EU cần theo dõi thông tin mới nhất để

đảm bảo tuân thủ. Duy trì liên hệ chặt chẽ với đối tác nhập khẩu sẽ giúp doanh nghiệp

nắm bắt kịp thời những thay đổi trong quy định, hạn chế rủi ro ảnh hưởng đến hoạt

động kinh doanh.

4.2.1.4. Các quy định về các thủ tục quản lý an toàn thực phẩm dựa trên nguyên tắc

phân tích các mối nguy và điểm kiểm soát quan trọng

Các doanh nghiệp cần xây dựng và duy trì một hoặc nhiều quy trình kiểm soát

dài hạn dựa trên các nguyên tắc của hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm

• Nhận diện các mối nguy tiềm ẩn cần được ngăn chặn, loại bỏ hoặc giảm thiểu

tới hạn (HACCP). Những quy trình này bao gồm:

• Xác định các điểm kiểm soát quan trọng trong quy trình sản xuất, nơi cần theo

đến mức an toàn.

• Đặt ra giới hạn cụ thể cho từng điểm kiểm soát nhằm phân biệt rõ ràng giữa

dõi nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn.

• Triển khai hệ thống giám sát liên tục tại các điểm kiểm soát để kịp thời phát

mức độ an toàn và không an toàn.

105

hiện sai lệch.

• Thiết lập phương án xử lý khi có dấu hiệu mất kiểm soát tại điểm kiểm soát

• Định kỳ kiểm tra và đánh giá lại hiệu quả của các biện pháp kiểm soát để đảm

quan trọng.

• Lưu trữ tài liệu và hồ sơ phù hợp với quy mô doanh nghiệp nhằm chứng minh

bảo tuân thủ quy định.

sự tuân thủ quy trình an toàn thực phẩm.

Bên cạnh đó, khi có bất kỳ sự thay đổi nào liên quan đến sản phẩm, quy trình sản

xuất hoặc các công đoạn liên quan, doanh nghiệp cần rà soát và điều chỉnh hệ thống

kiểm soát để đảm bảo hiệu quả và phù hợp với yêu cầu hiện hành.

4.2.1.5. Yêu cầu về chiếu xạ thực phẩm

Việc xử lý thực phẩm bằng phương pháp chiếu xạ phải tuân thủ theo Chỉ thị

1999/2/EC của EU, trong đó quy định danh mục thực phẩm được phép áp dụng, bao

gồm rau quả, cùng với mức liều tối đa có thể sử dụng. Phương pháp này chỉ được

thực hiện khi có lý do công nghệ hợp lý, chẳng hạn như loại bỏ vi sinh vật, virus, vi

khuẩn hoặc côn trùng gây hại; ngăn chặn sự nảy mầm của khoai tây, hành, tỏi; làm

chậm quá trình chín của rau quả, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản và giảm nguy

cơ gây bệnh từ thực phẩm như thịt, gia cầm và hải sản.

Theo Quyết định 2002/840/EC, thực phẩm đã qua chiếu xạ từ các nước ngoài

EU chỉ được phép nhập khẩu nếu đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn EU và được xử lý tại cơ

sở chiếu xạ đã được EU cấp phép. Bên cạnh đó, sản phẩm phải có giấy tờ chứng minh

nguồn gốc, thông tin cơ sở chiếu xạ và các tài liệu theo yêu cầu của EU. Ngoài ra,

bao bì và nhãn mác phải ghi rõ thực phẩm đã được chiếu xạ. Mỗi lô hàng khi xuất

khẩu sang EU cần cung cấp thông tin chi tiết bao gồm số lô, đơn vị yêu cầu xử lý,

ngày chiếu xạ, loại vật liệu đóng gói sử dụng, dữ liệu giám sát quá trình xử lý và tài

liệu xác nhận liều lượng chiếu xạ đã được thẩm định.

4.2.1.6. Yêu cầu về tiêu chuẩn marketing

Luật pháp EU quy định các tiêu chuẩn marketing chung và cụ thể nhằm đảm

bảo chất lượng và độ chín tối thiểu cho rau quả tươi. Những tiêu chuẩn này không

chỉ áp dụng cho chất lượng sản phẩm mà còn quy định về cách trình bày, phân loại

và bán hàng đến tay người tiêu dùng. Theo Quy định (EU) 543/2011, phần lớn rau

quả phải tuân thủ Tiêu chuẩn marketing chung, trong đó yêu cầu sản phẩm phải

106

nguyên vẹn, sạch sẽ, không nhiễm dịch hại, không có độ ẩm bất thường hay mùi, vị

lạ. Ngoài ra, trái cây cần đạt độ chín phù hợp, không quá chín, đảm bảo có thể tiếp

tục chín trong quá trình lưu thông. Đặc biệt, khi nhập khẩu vào EU, mỗi lô hàng chỉ

được phép có tối đa 10% sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, trong

đó không quá 2% bị thối hỏng. Các nước thành viên EU sẽ tiến hành kiểm tra hồ sơ

hoặc trực tiếp sản phẩm để đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn này, và tất cả các lô rau

quả tươi nhập khẩu đều phải có chứng nhận phù hợp. Gần đây, EU đã ban hành Quy

định số 2021/1890, đặt ra tiêu chuẩn marketing cụ thể cho 10 loại sản phẩm tươi gồm

táo, cam quýt, kiwi, rau diếp (lá xoăn và lá rộng), đào, xuân đào, lê, dâu tây, ớt ngọt,

nho và cà chua. Các sản phẩm này được chia thành ba nhóm (loại thượng hạng, loại

I và loại II) với các yêu cầu cụ thể về chất lượng, kích thước, cách trình bày, độ chín

và nhãn mác, đảm bảo đáp ứng các tiêu chí khắt khe trước khi được lưu thông trên

thị trường EU.

4.2.1.7. Yêu cầu của EU về ghi nhãn và đóng gói

Quy định về ghi nhãn thực phẩm và thông tin tối thiểu cần in trên bao bì được

thống nhất trên toàn EU theo Quy định (EU) 1169/2011. Bên cạnh đó, Chỉ thị (EU)

2019/904 về giảm tác hại của sản phẩm nhựa đối với môi trường yêu cầu hạn chế sử

dụng đồ nhựa dùng một lần, thúc đẩy xu hướng sử dụng bao bì thay thế thân thiện

với môi trường. Ngày càng nhiều khách hàng EU đặt ra yêu cầu cao hơn đối với bao

bì bền vững. Do quy định của EU liên tục được điều chỉnh và cập nhật, các nhà sản

xuất và doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này cần thường xuyên theo dõi, kiểm

tra các văn bản pháp luật mới cũng như thông tin do Ủy ban châu Âu (EC) cung cấp

để đảm bảo tuân thủ đầy đủ.

4.2.1.8. Quy định đối với sản phẩm hữu cơ nhập khẩu

EU áp dụng hệ thống kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tuân thủ quy tắc sản xuất

hữu cơ, duy trì niềm tin của người tiêu dùng và giám sát toàn bộ chuỗi cung ứng.

Theo Quy định (EU) 2018/848, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, chỉ các sản phẩm

nhập khẩu đáp ứng tiêu chuẩn tương đương với hàng hóa nội địa EU mới được công

nhận là hữu cơ, đánh dấu sự chuyển đổi từ nguyên tắc tương đương sang nguyên tắc

phù hợp. Các nhà sản xuất và xuất khẩu ngoài EU, bao gồm Việt Nam, có thời gian

chuyển tiếp đến 31/12/2024 để thích ứng. Mỗi quốc gia thành viên EU chỉ định cơ

quan kiểm tra giám sát chuỗi thực phẩm hữu cơ, yêu cầu nhà sản xuất, phân phối và

tiếp thị phải đăng ký trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Chứng nhận hữu cơ chỉ

107

được cấp sau khi sản phẩm đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn.

Việc nhập khẩu và bán sản phẩm hữu cơ tại EU đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu

chuẩn nghiêm ngặt như hàng hóa sản xuất trong EU. Nhà nhập khẩu phải tuân theo

các quy trình kiểm soát tùy theo nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm để đảm bảo tính

hợp lệ.

Logo hữu cơ của EU là dấu hiệu nhận diện chính thức giúp người tiêu dùng

dễ dàng nhận biết sản phẩm đạt chuẩn và hỗ trợ nông dân trong việc tiếp thị trên toàn

bộ thị trường EU. Logo này chỉ được sử dụng cho các sản phẩm đã được chứng nhận

bởi cơ quan kiểm soát có thẩm quyền, đảm bảo đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt về

sản xuất, vận chuyển và bảo quản.

4.2.1.9. Kiểm soát chính thức an toàn thực phẩm của EU với sản phẩm nhập khẩu

Quy định EC 2017/625 cùng với các quy định phân cấp và quy định thực hiện

thiết lập một hệ thống kiểm soát tổng hợp đối với thực phẩm nhập khẩu vào EU. Tất

cả thực phẩm và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu đều phải tuân theo các quy tắc chung,

trong khi các sản phẩm có nguồn gốc động vật và các sản phẩm có nguy cơ cao khác

chịu thêm các yêu cầu cụ thể.

Những sản phẩm có nguy cơ cao sẽ phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ theo quy

định của luật pháp. Mỗi quốc gia thành viên EU có trách nhiệm thực hiện các biện

pháp kiểm soát để đảm bảo sản phẩm nhập khẩu tuân thủ quy định. Việc kiểm tra

không chỉ diễn ra tại biên giới EU mà còn trên thị trường nội địa. Các nước thành

viên tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên, lấy mẫu sản phẩm để phân tích, đồng thời thực

hiện các biện pháp phù hợp nếu phát hiện rủi ro.

Hệ thống RASFF (Cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn nuôi) là

công cụ quan trọng trong việc trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên và EU.

Nếu phát hiện nguy cơ trong quá trình kiểm tra, quốc gia thành viên có thể tạm dừng

hoặc hạn chế việc nhập khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, quyết định này phải được thông

báo ngay lập tức đến Ủy ban châu Âu và các quốc gia thành viên khác, kèm theo lý

do giải thích rõ ràng.

Kiểm soát thực phẩm nhập khẩu và danh sách sản phẩm có nguy cơ cao: Tất

cả thực phẩm nhập khẩu vào EU, bao gồm nguyên liệu thực phẩm, thực vật, rau quả,

vật liệu tiếp xúc với thực phẩm, phụ gia và chất bổ sung dinh dưỡng, đều phải trải

qua kiểm soát chính thức về an toàn thực phẩm. Các biện pháp này nhằm ngăn ngừa

108

hoặc giảm thiểu nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, động vật và thực vật.

Một số thực phẩm và thức ăn chăn nuôi bị tăng cường kiểm soát khi nhập khẩu, danh

sách này được nêu trong Phụ lục I của Quy định (EU) 2021/608. Danh sách được cập

nhật thường xuyên dựa trên thông tin từ RASFF, báo cáo thanh tra, kết quả phân tích

thực phẩm, cũng như dữ liệu từ các quốc gia trong và ngoài EU. Nếu phát hiện nguy

cơ mới hoặc gia tăng rủi ro, EU sẽ bổ sung sản phẩm vào danh sách kiểm soát. Ví dụ,

một số sản phẩm từ Việt Nam như rau mùi, húng quế, bạc hà, ngò tây, đậu bắp và ớt

(không phải ớt ngọt) nằm trong danh sách kiểm soát với tần suất kiểm tra thực tế

50%. Thanh long Việt Nam cũng thuộc danh sách áp dụng điều kiện nhập khẩu đặc

biệt với tần suất kiểm tra là 10%. Tất cả lô hàng thanh long xuất khẩu sang EU đều

phải có chứng nhận chính thức, kèm theo kết quả phân tích dư lượng thuốc bảo vệ

thực vật theo Quy định (EC) 396/2005.

Ủy ban châu Âu có thể yêu cầu chứng nhận kiểm soát từ cơ quan có thẩm

quyền của nước xuất khẩu trước khi nhập khẩu vào EU. Nếu được chứng nhận, tần

suất kiểm tra tại EU sẽ giảm. Quy trình này nhằm đảm bảo hàng hóa nhập khẩu đáp

ứng đầy đủ các quy định của EU trước khi được lưu hành trên thị trường.

4.2.1.10. Yêu cầu bổ sung của khách hàng EU về an toàn thực phẩm

An toàn thực phẩm là một trong những tiêu chí quan trọng quyết định khả

năng tiếp cận thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Dù không phải là

yêu cầu pháp lý bắt buộc trong quy định của EU, nhưng trên thực tế, các nhà nhập

khẩu thực phẩm tại khu vực này gần như luôn yêu cầu nhà cung cấp phải có chứng

nhận an toàn thực phẩm. Điều này giúp đảm bảo sản phẩm đáp ứng được các tiêu

chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng, vệ sinh và an toàn tiêu dùng.

Đối với các sản phẩm thực vật, đặc biệt là rau củ và trái cây tươi (FFV), khách

hàng Châu Âu thường yêu cầu chứng nhận GLOBALG.A.P. hoặc các chứng nhận có

giá trị tương đương. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần đáp ứng các tiêu chí

về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, nhằm phù hợp với xu hướng tiêu dùng

bền vững tại khu vực này. Vì vậy, bên cạnh việc tuân thủ các quy định pháp luật của

EU, doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng để đáp ứng những tiêu chuẩn bổ sung mà

khách hàng đặt ra.

Bên cạnh GLOBALG.A.P., tùy theo từng thị trường và lĩnh vực cụ thể, các hệ

thống quản lý an toàn thực phẩm khác cũng có thể được yêu cầu. Ví dụ, đối với hoạt

109

động chế biến và cung ứng rau quả tươi, khách hàng tại Tây Bắc Âu thường đề cao

tiêu chuẩn BRC Global – một hệ thống được thiết lập nhằm đảm bảo vệ sinh và an

toàn thực phẩm. Trong khi đó, tại Đức, tiêu chuẩn thực phẩm IFS lại được áp dụng

rộng rãi. Những hệ thống này giúp nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ kiểm soát rủi ro về

an toàn thực phẩm, đảm bảo tính minh bạch trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Không chỉ dừng lại ở các chứng nhận chuyên biệt, nhiều doanh nghiệp Châu

Âu còn yêu cầu nhà cung cấp áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm dựa trên

nguyên tắc HACCP. Hệ thống này được xem là bằng chứng quan trọng để khẳng định

cam kết của doanh nghiệp trong việc duy trì chất lượng và an toàn thực phẩm trong

suốt quá trình sản xuất, bảo quản và vận chuyển. Ngoài ra, một số chương trình chứng

nhận như SQF hoặc FSSC 22000 – tiêu chuẩn quản lý an toàn thực phẩm được ISO

phát triển – cũng có thể được lựa chọn tùy theo nhu cầu của từng thị trường.

Ngoài yếu tố an toàn thực phẩm, nhiều khách hàng EU cũng quan tâm đến

trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Họ có thể yêu cầu các

chứng nhận như ISO 26000 về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) hoặc ISO

14001 về quản lý môi trường. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này không chỉ giúp doanh

nghiệp nâng cao uy tín mà còn đáp ứng được xu hướng tiêu dùng bền vững ngày càng

phổ biến tại Châu Âu.

Hiện nay, các hệ thống chứng nhận trên đều được công nhận bởi Sáng kiến

An toàn Thực phẩm Toàn cầu (GFSI) và được nhiều nhà bán lẻ lớn tại EU chấp nhận.

Mặc dù mang tính chất tự nguyện, nhưng trên thực tế, những tiêu chuẩn này gần như

trở thành điều kiện bắt buộc nếu doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường thực

phẩm Châu Âu. Trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chất lượng

và nguồn gốc sản phẩm, yêu cầu về các chứng nhận này chắc chắn sẽ ngày càng khắt

khe hơn trong tương lai.

Như vậy, có thể thấy EU có một hệ thống cơ sở pháp lý liên quan đến các

BPPTQ áp dụng đối với hàng hoá nông sản. EU áp dụng rất đa dạng các loại biện

pháp để kiểm soát luồng hàng hoá nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng nội địa cũng

như bảo vệ môi trường. EU có một cách tiếp cận kép trong việc hài hòa luật thực

phẩm: hệ thống luật theo "chiều ngang" bao gồm các khía cạnh phổ biến cho tất cả

các loại thực phẩm (chẳng hạn như phụ gia, dán nhãn, vệ sinh...) và hệ thống luật

110

theo "chiều dọc" về các sản phẩm cụ thể.

4.2.2. Đánh giá mức độ phổ biến trong việc áp dụng các BPPTQ của EU đối với

hàng nông sản nhập khẩu vào EU

Để đánh giá thực trạng áp dụng các BPPTQ của EU với hàng nông sản nhập

khẩu, tác giả sử dụng phương pháp kiểm đếm và phương pháp sử dụng các chỉ số đo

lường mức độ phổ biến của BPPTQ.

4.2.2.1. Kiểm đếm các BPPTQ mà EU áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu

Phương pháp đơn giản nhất để định lượng BPPTQ, đo lường mức độ phổ biến

của BPPTQ là kiểm đếm số lượng BPPTQ được ban hành và áp dụng với các mặt

hàng nhập khẩu. Bằng việc kiểm đếm, thống kê các quy định, tiêu chuẩn với từng

mặt hàng và từng quốc gia dựa trên thông báo của các nước nhập khẩu lên WTO.

Bằng phương pháp kiểm đếm số lượng BPPTQ mà EU đang áp dụng trên hệ

thống cơ sở dữ liệu TRAINS - UNCTAD và kiểm đếm số lượng các thông báo mới

hàng năm về các quy định của EU liên quan SPS và TBT đối với hàng nông sản trên

hệ thống ITIP – WTO và E-PING có thể thấy EU ngày càng tăng cường sử dụng

BPPTQ như một công cụ chính trong việc triển khai chính sách thương mại.

Bảng 4.4. Số lượng các loại BPPTQ mà EU áp dụng với hàng nông sản của Việt

Nam, phân loại theo mã BPPTQ

BPPTQ Mô tả Số lượng

108

SPS - Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật A12 A13 Các hạn chế về địa lý do không đáp ứng được đủ điều kiện Phương pháp tiếp cận hệ thống 8 2

A14 3

A15 4

A19 3

A21 12

A22 3

A31 A32 A33 14 1 7

111

A4 3 Yêu cầu ủy quyền vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật để nhập khẩu các sản phẩm nhất định Các yêu cầu đăng kí dành cho các nhà nhập khẩu Cấm hoặc hạn chế nhập khẩu vì các lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật chưa được quy định ở nơi khác Định mức dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định Hạn chế sử dụng một số chất trong thực phẩm và thức ăn và vật liệu tiếp xúc của chúng Yêu cầu về ghi nhãn Yêu cầu về đánh dấu Yêu cầu về đóng gói Yêu cầu vệ sinh liên quan đến điều kiện vệ sinh và kiểm dịch động thực vật

BPPTQ Mô tả

A41 A42 Số lượng 3 2

A59 1

A6 1

Tiêu chuẩn vi sinh của sản phẩm cuối cùng Thực hành vệ sinh trong quá trình sản xuất Biện pháp xử lý để loại bỏ thực vật và động vật gây hại hoặc sinh vật gây bệnh trong sản phẩm cuối cùng chưa được quy định/cấm xử lý ở nơi khác Các yêu cầu khác liên quan đến quy trình sản xuất hoặc hậu kỳ Quy trình chăn nuôi hoặc đánh bắt động vật Quy trình xử lý thức ăn và chế biến thức ăn Điều kiện bảo quản và vận chuyển Yêu cầu kiểm tra Yêu cầu cấp giấy chứng nhận Yêu cầu giám định Yêu cầu truy xuất

A62 A63 A64 A82 A83 A84 A85 A851 Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần A852 A853 1 4 2 2 13 9 4 2 2 1

A89 1

Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các điều kiện SPS chưa được quy định ở nơi khác TBT - Các hàng rào kĩ thuật trong thương mại

B14 52 1

B21 1

B22 1

B31 B32 B33 B6 20 2 9 2

B7 6

B81 B82 B83 B84 B85 Yêu cầu uỷ quyền vì lý do TBT Giới hạn cho phép đối với dư lượng hoặc ô nhiễm bởi một số chất Hạn chế sử dụng một số chất làm thành phần hoặc vật liệu để ngăn ngừa mọi rủi ro phát sinh từ việc sử dụng chúng Yêu cầu về ghi nhãn Yêu cầu về đánh dấu Yêu cầu về đóng gói Yêu cầu về nhận diện sản phẩm Yêu cầu về chất lượng sản phẩm, độ an toàn hoặc hiệu suất sử dụng Yêu cầu đăng ký/phê chuẩn sản phẩm Yêu cầu thử nghiệm Yêu cầu chứng nhận Yêu cầu kiểm tra Yêu cầu truy xuất

Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt

D321 Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên khối lượng D322 Các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên giá

112

1 3 4 1 1 64 24 40

BPPTQ Mô tả

Các biện pháp khác

C1 Số lượng 18 1

C4 1

E1 6

Giám định trước khi giao hàng Các biện pháp giám sát, giám sát và cấp phép tự động nhập khẩu Các thủ tục cấp phép nhập khẩu không tự động ngoài các giấy phép được đề cập trong các chương về các biện pháp SPS và TBT

E123 Giấy phép bảo vệ môi trường E125 E32 G11 P31 Cấp phép hoạt động bảo vệ sức khỏe cộng đồng Cấm vì lý do phi kinh tế Đặt cọc nhập khẩu ứng trước Cấm xuất khẩu 2 1 5 1 1

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu TRAINS – UNCTAD

Theo cơ sở dữ liệu TRAINS – UNCTAD, EU hiện đang áp dụng tổng 242

BPPTQ đối với hàng nông sản. Trong đó, SPS, TBT và các biện pháp ở nhóm D đang

là các biện pháp mà được EU áp dụng nhiều nhất cho các mặt hàng nông sản. Trong

đó, biện pháp liên quan đến đang chiếm số lượng được áp dụng nhiều nhất là SPS

(108 biện pháp); TBT với 52 biện pháp , các biện pháp tự vệ đặc biệt trong nông

nghiệp (D321 và D322) theo cơ sở dữ liệu TRAINS ghi nhận 64 biện pháp (Hai biện

pháp D321 và D322 là các biện pháp tự vệ nông nghiệp đặc biệt dựa trên số lượng và

dựa trên giá với số lượng áp dụng tương đối lớn đối với nhiều mặt hàng nông sản, lần

lượt là 24 và 40 biện pháp (Bảng 4.4). Hai biện pháp này được EU đưa vào áp dụng

từ những năm 1995 và tiếp tục ban hành thêm các quy định áp dụng với nhiều sản

phẩm nông nghiệp khác nhau cho đến nay. Hai biện pháp này EU không chỉ áp dụng

với Việt Nam mà áp dụng với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, các biện

pháp nhóm D này cũng có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định.

Cụ thể hơn, có 37 mã biện pháp có số lượng được EU áp dụng khoảng từ 1-5

biện pháp, chiếm 74 biện pháp. 6 mã biện pháp (A12, A33, A84, B33, B7, E1) chiếm

số lượng biện pháp áp dụng từ 6 - 9 biện pháp. Đặc biệt, mã A21 liên quan định mức

dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định và B31 liên quan

đến yêu cầu về ghi nhãn là hai mã biện pháp được ghi nhận là EU áp dụng nhiều đối

với nông sản Việt Nam với A21 có 12 biện pháp và B31 có 20 biện pháp (Bảng 4.4).

Ngoài việc kiểm đếm số lượng các BPPTQ mà EU đang áp dụng, việc tổng hợp,

kiểm đếm số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và TBT

113

của EU tới WTO cũng thấy được xu hướng thường xuyên sử dụng các BPPTQ thông

qua việc ban hành mới, sửa đổi các quy định liên quan đến BPPTQ. Theo quy định

của WTO, các quốc gia thành viên khi ban hành hoặc sửa đổi các quy định liên quan

SPS và TBT thì quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải thông báo lên WTO và thông

1200

1067

1000

922

800

600

400

108

88

200

124

120

115

109

106

101

99

100

96

101

88

86

83

76

73

65

61

56

48

45

28

13

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Tổng

8/3/2023

SPS

TBT

báo tới các quốc gia thành viên khác.

Hình 4.30. Số lượng thông báo mới hàng năm về các quy định liên quan SPS và

TBT của EU, giai đoạn 2012 - 3/2023

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu I-TIP, WTO

Từ Hình 4.30 có thể thấy, trong giai đoạn 2012 - đầu năm 2023, số lượng thông

báo mới của EU lên WTO rất thường xuyên và đều đặn trong từng năm. Trong hơn

10 năm, tổng số lượng thông báo mới của EU đạt 922 thông báo liên quan quy định

về SPS và 1067 thông báo liên quan TBT. Như vậy, trung bình mỗi năm EU có thêm

khoảng 90 thông báo mới về SPS và hơn 100 thông báo về TBT.

Nội dung các thông báo có thể là ban hành các quy định mới hoặc là sửa đổi các

quy định đã ban hành. Cụ thể như năm 2022, EU đã gửi thông báo cho các quốc gia

thành viên về việc điều chỉnh quy định về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa

trên các sản phẩm thực vật là 0,01mg/kg,… Điều đó cho thấy, EU không chỉ sử dụng

phổ biến các BPPTQ mà các quy định liên quan BPPTQ cũng khắt khe và nghiêm

ngặt hơn. Một trong những lý do có thể thể đưa ra là EU đã và đang thực hiện chính

sách Thỏa thuận Xanh Châu Âu đặt mục tiêu xây dựng một nền kinh tế bền vững và

114

trung hòa carbon vào năm 2050. Trong khuôn khổ kế hoạch hành động, EU hướng

tới cắt giảm 50% lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng và mở rộng diện tích canh tác

hữu cơ lên 25% tổng đất nông nghiệp vào năm 2030 (EC, 2019). Điều này đồng nghĩa

với việc nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật sẽ bị cấm tại EU, đồng thời mức dư lượng

tối đa cho phép trên các sản phẩm nông sản sẽ ngày càng được siết chặt và điều chỉnh

theo hướng nghiêm ngặt hơn.

4.2.2.2. Mức độ bao phủ, tần suất áp dụng các BPPTQ của EU đối với hàng nông

sản nhập khẩu

Ngoài việc sử dụng phương pháp kiểm đếm thì các chỉ số như tỷ lệ bao phủ

(Coverage Ratio – CR), chỉ số tần suất (Frequency Index – FI) và chỉ số thịnh hành

(Prevalance Score – PS) được sử dụng để đánh giá được thực trạng mức độ phổ biến

của các BPPTQ của một quốc gia đối với các loại hàng hoá. Việc tính toán các chỉ số

về tỷ lệ áp dụng BPPTQ được đánh giá là một trong những phương pháp tiếp cận đơn

giản nhất để đánh giá được mức độ phổ biến của BPPTQ (Deardorff & Stern, 1997).

Các chỉ số này dựa trên cường độ của các công cụ chính sách và đo lường mức độ

điều chỉnh mà không xem xét tác động của nó đối với thương mại hoặc nền kinh tế

(Melo & Nicita, 2018).

Các chỉ số này được tính toán dựa trên số lượng các BPPTQ đã được quan sát,

thu thập và kiểm đếm. Trong đó, chỉ số tần suất (FI) cho biết tỷ lệ phần trăm hàng

hoá nhập khẩu bị áp dụng một hoặc nhiều BPPTQ (UNCTAD, 2022), giải thích cho

việc có hay không có BPPTQ được áp dụng. Tỷ lệ bao phủ (CR) của BPPTQ được

tính bằng cách xác định giá trị nhập khẩu của từng mặt hàng chịu các BPPTQ, tổng

hợp theo nhóm hàng HS áp dụng và thể hiện tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị hàng

nhập khẩu bị áp dụng BPPTQ (UNCTAD, 2022). Khác với chỉ số tần suất, CR được

tính toán thông qua giá trị hàng nhập khẩu, thay vì dòng sản phẩm được trao đổi

(UNCTAD, 2022). Chỉ số thịnh hành (PS) phản ánh số lượng trung bình của các

BPPTQ riêng biệt áp dụng cho các sản phẩm nhập khẩu qua đó đo lường mức độ đa

dạng và cường độ của các BPPTQ (UNCTAD, 2022). Các chỉ số này thường được

tính toán trên thương mại tổng thể, xem xét tất cả các loại BPPTQ (Melo & Nicita,

2018); đồng thời, các chỉ số này cũng có thể biểu thị mức độ ảnh hưởng của các

BPPTQ cụ thể đối với các nhóm sản phẩm cụ thể như số biện pháp SPS/TBT trung

bình được áp dụng đối với nhóm hàng nông sản.

Các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ đối với tất cả các mặt hàng

115

nói chung và với hàng nông sản nói riêng được UNCTAD xác định, tính toán và cập

nhật cụ thể trên hệ thống cơ sở dữ liệu của UNCTAD và WITS - WB. Hình 4.31 cho

thấy các chỉ số đánh giá mức độ áp dụng phổ biến các BPPTQ đối với hàng nông sản

25

100,5

100

100

100

100

100

100

22,8

100

20

99,5

99

99

99

99

17,1

16,1

15,5

15

98,5

14,9

98

98

98

97

10

97,5

97

7,4

5

96,5

96

0

95,5

EU

Mỹ

Nhật Bản

Trung Quốc

Thái Lan

Philippines

FI

CR

PS

của một số quốc gia đối với nông sản nhập khẩu vào các quốc gia này.

Hình 4.31. Mức độ phổ biến của các BPPTQ đối với mặt hàng nông sản tại một

số quốc gia/khu vực trên thế giới

Nguồn: Tác giả tổng hợp dữ liệu tại UNCTAD.org, truy cập ngày 15/3/2023

Có thể thấy BPPTQ có ảnh hưởng lớn đến thương mại nông sản trên thế giới.

Chỉ số bao phủ và tần suất thường xuyên của các BPPTQ đều đạt từ 97% trở lên. Đặc

biệt, ở một số thị trường như Mỹ, Trung Quốc, Phillipines, EU, Thái Lan các chỉ số

này đều đạt 99 - 100%. Điều này cho thấy trên 99% dòng hàng hoá và trên 99% giá

trị hàng hoá nông sản nhập khẩu vào các thị trường này bị áp dụng BPPTQ. Dựa trên

chỉ số điểm thịnh hành thì tính bình quân, mỗi mặt hàng nông sản đang chịu ảnh

hưởng bởi 15 BPPTQ ở EU, 16 BPPTQ ở Mỹ, 14 ở Thái Lan, 7 BPPTQ ở Nhật Bản,...

thậm chí ở Trung Quốc con số này là 22 biện pháp.

Như vậy, đối với mặt hàng nông sản nhập khẩu vào EU, 98% loại mặt hàng

nông sản và 98% giá trị hàng nông sản nhập khẩu vào EU bị áp dụng BPPTQ.

Bảng 4.5 chỉ ra rằng gần như toàn bộ 100% các mặt hàng nông sản nhập khẩu

vào EU đều bị tác động bởi các biện pháp SPS và TBT. Do đó, nông sản Việt Nam

116

khi xuất khẩu sang EU sẽ phải chịu ảnh hưởng lớn từ các biện pháp này.

Bảng 4.5. Mức độ phổ biến của BPPTQ đối với hàng nông sản phân theo nhóm

hàng tại thị trường EU năm 2022

Mặt hàng Loại biện pháp

Động vật

Thực vật

Thực phẩm

CR (%) 99,91 99,29 6,35 9,81 9,81 99,13 99,68 0 10,65 10,16 91,77 99,77 4,87 12,22 12,22 FI (%) 99,69 97,52 9,63 9,94 9,94 94,89 98,58 0 7,39 5,97 91,47 99,05 4,87 10,9 10,9 PS 15,5

SPS TBT C E G SPS TBT C E G SPS TBT C E G Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS – UNCTAD

Cụ thể, đối với nhóm hàng động vật, trên 99% giá trị hàng hoá và 99% dòng sản

phẩm động vật chịu ảnh hưởng của các biện pháp SPS và TBT. Đối với nhóm hàng thực

vật và thực phẩm thì cho thấy các biện pháp TBT được áp dụng nhiều hơn SPS với tỷ lệ

nhiều hơn 10% (gần 100% giá trị hàng hoá thuộc nhóm thực vật và thực phẩm chịu tác

động của các biện pháp TBT; đối với biện pháp SPS, con số là trên 90%).

Ngoài ra, hàng nông sản còn phải đối mặt với một số loại hình BPPTQ khác

như kiểm tra trước khi giao hàng và các thủ tục khác; các biện pháp liên quan hạn

chế định lượng, hay các biện pháp tài chính khác; tuy nhiên, mức độ bao phủ và tỉ lệ

tần suất thấp dưới 12%.

Tựu chung lại thì các chỉ số tần suất và bao phủ với tỉ lệ từ trên 90% đến 100%

cho thấy một thực trạng rằng hàng nông sản đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các

BPPTQ, đặc biệt là hai loại hình biện pháp SPS và TBT.

Phân tích điểm chỉ số thịnh hành của BPPTQ và số lượng dòng sản phẩm bị áp

đặt các BPPTQ tại EU đối với các nhóm hàng nông sản (Hình 4.32) có thể thấy số

lượng dòng sản phẩm chịu tác động của 2 BPPTQ là nhiều nhất ở cả ba nhóm hàng

nông sản với 251 dòng sản phẩm chiếm 74,7% so với tổng dòng hàng trong nhóm động

vật, 309 dòng sản phẩm chiếm 87,78% tổng hàng hoá thuộc nhóm thực vật và 169 dòng

sản phẩm chiếm 80,09% tổng hàng hoá thuộc nhóm thực phẩm chế biến. Số lượng

dòng hàng chịu ảnh hưởng bởi 3 BPPTQ trở lên ở nhóm động vật là 18,75%; ở nhóm

117

thực vật là 7,39% và ở nhóm thực phẩm chế biến là 12,32%. Tính trong tổng tất cả

dòng hàng nông sản thì hơn 81% dòng hàng hoá nông sản chịu tác động của 2 BPPTQ

và 13% dòng hàng bị áp dụng 3 BPPTQ trở lên. Trong khi đó, số lượng dòng hàng hoá

chịu tác động của một BPPTQ hay không chịu tác động của bất kì BPPTQ là rất thấp

ở cả ba nhóm hàng; và trong tổng 899 dòng hàng hoá nông sản, chỉ có 20 loại hàng hoá

là không bị áp dụng BPPTQ nào (chiếm 2% trong tổng dòng hàng nông sản) và 35 loại

350

309

300

250

251

200

169

150

100

63

50

26

26

15

15

13

7

4

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

1 0

n ê l ở r t

n ê l ở r t

n ê l ở r t

Q T P P B 1

Q T P P B 2

Q T P P B 1

Q T P P B 2

Q T P P B 1

Q T P P B 2

Q T P P B g n ô h K

Q T P P B g n ô h K

Q T P P B g n ô h K

Q T P P B 3

Q T P P B 3

Q T P P B 3

Động vật

Thực vật

Thực phẩm chế biến

Tỷ trọng trong nhóm hàng(%)

Số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt

hàng hoá chịu tác động bởi một BPPTQ chiếm 3,8% tổng dòng hàng nông sản.

Hình 4.32. Điểm chỉ số thịnh hành và số lượng dòng sản phẩm bị áp đặt các

BPPTQ tại EU đối với các nhóm hàng nông sản

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS – UNCTAD

Phân tích về tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất áp dụng đối với nhóm hàng động

vật cho thấy, EU thực hiện các quy định về kiểm dịch vệ sinh động thực vật một cách

đồng bộ và nghiêm ngặt. Hầu hết các sản phẩm thuộc nhóm này đều phải tuân thủ

các yêu cầu về kiểm tra mức dư lượng tối đa của các chất tồn dư, tiêu chuẩn vi sinh

đối với sản phẩm cuối cùng, đảm bảo vệ sinh trong sản xuất và quy trình xử lý thức

ăn chăn nuôi. Ngoài ra, EU cũng áp dụng đồng bộ các biện pháp kiểm soát này đối

với phần lớn các sản phẩm từ động vật, đồng thời yêu cầu kiểm tra thủ tục giấy tờ tại

các nước thành viên (A820, A830, A840, A850). Trong số các loại biện pháp SPS,

có 8 trên tổng số 17 loại biện pháp được EU áp dụng với CR và FR ở mức cao, đó là

A120, A210, A310, A400, A820, A830, A840, A850, hầu hết chiếm tỷ lệ trên 95%

với chỉ số bao phủ và trên 80% với chỉ số tần suất xuất hiện, áp đặt trung bình 300

118

sản phẩm. Xét về biện pháp TBT, có 2 trên tổng số 5 loại biện pháp EU áp dụng với

mặt hàng này, đó là B140 và B310, chiếm tỷ lệ trên 98% với chỉ số bao phủ và trên

90% với chỉ số tần suất, hơn 300 sản phẩm bị áp đặt. Thị trường EU ưa chuộng các

sản phẩm có chất lượng tốt, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mức độ an toàn cao, đặc biệt

là phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Xu hướng tiêu dùng của thị trường EU

cũng chuộng các sản phẩm có thương hiệu, các dòng sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc

tự nhiên, thân thiện với môi trường. Đặc biệt, người tiêu dùng EU rất coi trọng yếu

tố trách nhiệm xã hội của các sản phẩm hàng hóa. Như vậy có thể thấy có nhiều biện

pháp SPS và TBT đã được EU áp dụng với tỷ lệ khá cao lên nhóm hàng động vật và

có nguồn gốc từ động vật của Việt Nam (Bảng 4.6 – 4.8).

Đối với nhóm 2 - hàng thực vật, EU áp dụng nhiều loại biện pháp SPS và TBT

hơn so với nhóm 1 - hàng động vật. Cụ thể, nhóm 1 bị áp 17 biện pháp SPS và 5 TBT,

trong khi có 22 biện pháp SPS và 11 biện pháp TBT mà EU đã áp lên nhóm hàng 2.

Có tới 9 loại biện pháp SPS chiếm tỷ lệ tần suất xuất hiện, tỷ lệ bao phủ cũng như số

sản phẩm bị áp đặt cao hơn đáng kể; hầu hết chiếm tỷ lệ trên 90% với chỉ số bao phủ

và trên 80% với chỉ số tần suất xuất hiện, áp đặt trung bình gần 300 sản phẩm (A130,

A150, A220, A310, A330, A410, A420, A630, A852). Xét về biện pháp TBT, có 2

trên tổng số 11 loại biện pháp EU áp dụng với mặt hàng này, đó là B140 và B310,

chiếm tỷ lệ trên 99% với chỉ số bao phủ và trên 98% với chỉ số tần suất xuất hiện,

hơn 300 sản phẩm bị áp đặt (Bảng 4.7). EU áp dụng các quy định nghiêm ngặt về

kiểm dịch động thực vật cũng như các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật nhằm bảo

vệ hệ sinh thái nông nghiệp khỏi sự xâm nhập của các sinh vật gây hại như sâu bệnh.

Theo chỉ thị 2000/29/EC, hàng hoá thực vật nhập khẩu vào EU không được chứa các

sinh vật gây hại nguy hiểm được liệt kê trong Chỉ thị. Các biện pháp kiểm dịch này

cũng được áp dụng tương tự đối với động vật và sản phẩm có nguồn gốc động vật khi

xuất khẩu vào EU.

Đối với nhóm 3 - hàng nông sản chế biến, quy định đánh giá sự phù hợp liên

quan đến vệ sinh và điều kiện kiểm dịch thực vật (A8) được áp dụng chủ yếu; đồng

thời, EU cũng có quy định rất khắt khe về ghi nhãn hàng hóa (A310) với hơn 90%

tổng số mặt hàng bị áp dụng. Với các quy định liên quan đến yêu cầu về đóng gói

(A330) và chỉ tiêu vi sinh của sản phẩm cuối cùng (A410) là các yêu cầu quan trọng

của EU cũng có kết quả tương tự. Xét về biện pháp TBT, EU chú trọng vào các yêu

cầu ủy quyền đối với các doanh nghiệp nhập khẩu (B140) và các yêu cầu liên quan

119

đến ghi nhãn (B310) (Bảng 4.8).

Bảng 4.6.. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 1 - Hàng động vật chi

tiết theo mã BPPTQ

Mã BPPTQ B B110 B140 B310 B320 B330 B830

FR CR (%) (%) 99,29 97,52 71,85 50,62 98,55 93,79 99,29 97,52 15,09 8,7 71,65 57,76 68,25 47,52

Giá trị thương mại bị tác động 27517902 19914269 27313048 27517902 4183209 19858602 18915748

Dòng sản phẩm bị áp đặt 314 163 302 314 28 186 153

C C400 E E100 G G110

9,63 9,63 9,94 9,94 9,94 9,94

6,35 6,35 9,81 9,81 9,81 9,81

31 31 32 32 32 32

1760567 1760567 2719087 2719087 2719087 2719087

Mã BPPTQ A A120 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A630 A640 A820 A830 A840 A850

FR CR (%) (%) 99,91 99,69 99,91 99,69 21,87 28,88 0,93 0,15 0,15 0,93 99,66 99,38 1,55 13,35 96,57 84,47 8,7 15,09 71,54 55,9 97,67 87,89 71,54 55,9 26,21 32,3 2,9 18,01 97,73 90,99 99,91 99,69 99,91 99,69 97,67 87,89

Dòng sản phẩm bị áp đặt 321 321 93 3 3 320 43 272 28 180 283 180 104 58 293 321 321 283

Giá trị thương mại bị tác động 27689659 27689659 6060278 41593 41593 27621042 430713 26764679 4183209 19827801 27068200 19827801 7263737 805044 27085777 27689659 27689659 27068200

120

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB

Bảng 4.7. Tỷ lệ bao phủ, chỉ số tần suất và tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 2 - Hàng thực vật

chi tiết theo mã BPPTQ

Mã BPPTQ

Giá trị thương mại bị tác động

Mã BPPTQ

CR (%)

FR (%)

CR (%)

FR (%)

B B110 B140 B150 B210 B310 B320 B330 B700 B810 B820 B830 B840

Dòng sản phẩm bị áp đặt 347 60 346 59 5 347 64 59 159 13 16 2 120

Giá trị thương mại bị tác động 69097186 11850568 68927968 11845054 340519 69097186 11653662 11845054 25228393 1402378 2207164 38984 23018687

99,86 17,13 99,62 17,12 0,49 99,86 16,84 17,12 36,46 2,03 3,19 0,06 33,27

E E100 G G110

26 26 21 21

7370315 7370315 7029796 7029796

7,39 7,39 5,97 5,97

98,58 17,05 98,3 16,76 1,42 98,58 18,18 16,76 45,17 3,69 4,55 0,57 34,09 10,65 10,65 10,16 10,16

A A120 A130 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A420 A600 A630 A820 A830 A840 A850 A851 A852 A853

99,13 72,09 94,47 70,55 98,4 56,53 86,54 94,47 95,05 35,74 94,96 1,54 95,01 94,47 1,16 94,72 1,99 44,53 35,14 86,22 85,73 94,47 85,73

94,89 68,18 82,95 63,64 90,91 58,24 78,69 82,95 86,08 32,95 83,52 4,55 83,81 82,95 0,85 86,08 4,55 59,66 51,7 78,13 74,72 82,95 74,72

Dòng sản phẩm bị áp đặt 334 240 292 224 320 205 277 292 303 116 294 16 295 292 3 303 16 210 182 275 263 292 263

68592063 49881506 65364986 48816860 68080909 39114361 59878011 65364986 65767345 24727861 65700801 1064645 65737408 65364986 804787 65538531 1376163 30807690 24314494 59654629 59314487 65364986 59314487

121

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB

Bảng 4.8. Tỷ lệ bao phủ và chỉ số tần suất tác động thương mại của các BPPTQ của EU đối với Nhóm 3 - Hàng thực phẩm chế

biến chi tiết theo mã BPPTQ

Mã BPPTQ

Giá trị thương mại bị tác động

Mã BPPTQ

CR (%)

FR (%)

CR (%)

FR (%)

B B110 B140 B150 B220 B310 B330 B600 B700 B810 B820 B830 B840 B850

99,77 19,86 97,16 9,15 0,57 99,77 25,14 5,16 1,32 4,18 4,75 8,48 8,46 0,57

Dòng sản phẩm bị áp đặt 209 47 198 21 7 209 63 4 4 2 9 14 20 7

Giá trị thương mại bị tác động 50449156 10040924 49131752 4629048 286098 50449156 12714811 2607544 666937 2115688 2401786 4288379 4276980 286098

C C400 E E100 G G110

1,9 1,9 10,9 10,9 10,9 10,9

4 4 23 23 23 23

99,05 22,27 93,84 9,95 3,32 99,05 29,86 1,9 1,9 0,95 4,27 6,64 9,48 3,32 4,87 4,87 12,22 12,22 12,22 12,22

2462638 2462638 6180006 6180006 6180006 6180006

A A120 A130 A140 A150 A190 A210 A220 A310 A320 A330 A400 A410 A420 A590 A630 A820 A830 A840 A850 A851 A852 A853

91,77 33,68 68,92 9,2 68,92 22,91 61,27 68,92 90,81 22,91 78,09 20,73 78,09 68,92 0,79 73,45 21,26 28,08 21,97 62,97 47,06 68,92 47,06

91,47 34,12 70,14 0,47 70,14 11,85 73,46 70,14 90,52 11,85 84,36 26,54 84,36 70,14 0,95 77,25 31,75 30,33 27,49 84,36 62,56 70,14 62,56

Dòng sản phẩm bị áp đặt 193 72 148 1 148 25 155 148 191 25 178 56 178 148 2 163 67 64 58 178 132 148 132

46403634 17030390 34850605 4651500 34850605 11585165 30981098 34850605 45919802 11585165 39489311 10483055 39489311 34850605 401560 37143539 10751384 14199305 11110640 31843812 23798610 34850605 23798610

122

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ cơ sở dữ liệu WITS - WB

4.3. Kết quả đánh giá tác động định tính thông qua thực trạng hàng hoá nông

sản Việt Nam bị EU cảnh báo do vi phạm các BPPTQ

Liên minh châu Âu có những tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm ngặt nhất

trên thế giới - phần lớn nhờ vào bộ luật pháp vững chắc của EU, để giữ an toàn cho

thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Là một phần của các công cụ kiểm soát và cảnh báo

an toàn thực phẩm, hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn

nuôi (RASFF) theo Luật thực phẩm chung của EU được thành lập để đảm bảo truyền

tải thông tin giữa các quốc gia thành viên nhằm hỗ trợ phản ứng nhanh chóng của các

cơ quan an toàn thực phẩm trong trường hợp có rủi ro đối với sức khỏe cộng đồng do

chuỗi thực phẩm để có hành động ngay lập tức nhằm ngăn chặn rủi ro có thể dẫn đến

việc các sản phẩm bị thu hồi khỏi thị trường.

Hệ thống RASFF của EU đã hoạt động cực kỳ hiệu quả từ khi được thành lập.

Trong giai đoạn 10 năm từ 2012 đến 2022, RASFF đã truyền đi 35602 thông báo liên

quan đến các lô hàng nông sản nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới vào EU. Từ

2012 – 2016, trung bình mỗi năm RASFF phát đi trên dưới 3000 thông báo và trung

bình trên 4000 thông báo mỗi năm cho giai đoạn 2017 – 2021. Đặc biệt, trong năm

2021 và 2022, con số thông báo các lô hàng vi phạm lên đến lần lượt là 4607 và 4361

thông báo. Trong đó, số lượng thông báo liên quan đến việc từ chối nhập khẩu lô

hàng hoặc cảnh báo lô hàng do vi phạm các quy định liên quan BPPTQ là chiếm tỷ

trọng lớn nhất. Giai đoạn 2012 – 2017, số lượng lô hàng hoá nông sản bị từ chối nhập

khẩu chiếm đến khoảng trên 50% tổng thông báo trên RASFF, trong khi con số là

30% là các cảnh báo vi phạm. 20% còn lại là các thông báo liên quan các thông tin

cần lưu ý, cần theo dõi hoặc tin tức chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Từ 2018 – 2022, số thông

báo từ chối nhập khẩu vẫn giữ ở mức cao nhưng chỉ chiếm khoảng trên 30% tổng

thông báo, số lượng thông báo cảnh báo và thông tin cần lưu ý tăng lên so với giai

123

đoạn trước.

5000

4500

4000

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Thông tin cần lưu ý

Từ chối nhập khẩu

Cảnh báo

Thông xn cần theo dõi

Tin tức

Tổng

Hình 4.33. Số lượng thông báo từ RASFF về hàng nông sản nhập khẩu vào các

nước EU giai đoạn 2012 – 2022

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF

Phân tích cụ thể đối với những năm gần đây, có thể thấy vào năm 2020, tổng

cộng 3862 thông báo ban đầu đã được truyền qua RASFF, trong đó 1430 thông báo

được phân loại là cảnh báo, 572 thông tin để theo dõi, 791 thông tin cần chú ý, 1056

thông báo từ chối biên giới và 13 thông báo tin tức. So với năm 2019, số lượng

thông báo cảnh báo hàm ý nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng của một sản phẩm lưu

thông trên thị trường đã tăng 22%. Sự gia tăng cảnh báo là đáng kể trong năm thứ

sáu liên tiếp. Sự sụt giảm mạnh về thông báo từ chối biên giới (30%) có lẽ phần lớn

phản ánh tác động của đại dịch COVID-19 đối với thương mại toàn cầu nhiều hơn

là do chính các biện pháp kiểm soát được thực hiện. Loại thông báo lớn nhất liên

quan đến các biện pháp kiểm soát chính thức đối với thị trường. Các cuộc kiểm soát

chính thức thường được thực hiện tại một nhà điều hành kinh doanh (nhà sản xuất,

nhà bán buôn, nhà kho, nhà bán lẻ,…) và bao gồm việc kiểm tra và có thể là lấy

124

mẫu cho mục đích phân tích.

600

500

400

300

200

100

0

l

i

i

i

i

i

c i l

i

y l a t I

l

l

l

n a p S

l

l

a t l a M

a i v t a L

i

e c n a r F

s u r p y C

d n a o P

e c e e r G

l

d n a e r I

a i r t s u A

l

a i t a o r C

a n o t s E

d n a n F

n e d e w S

m u g e B

y a w r o N

a i r a g u B

a i k a v o S

d n a l r e z t i

a n a m o R

a n e v o S

y r a g n u H

a g u t r o P

k r a m n e D

y n a m r e G

a n a u h t i L

w S

s d n a l r e h t e N

g r u o b m e x u L

b u p e R h c e z C

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Hình 4.34. Thông báo từ hệ thống RASFF giai đoạn 2012 – 2022 phân theo quốc

gia thành viên EU đưa ra thông báo

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF

Năm 2021 cho thấy số lượng của từng loại thông báo đã tăng lên so với các

năm trước. Điều này thể hiện cam kết của các quốc gia thành viên EU trong việc phát

hiện và báo cáo các trường hợp không tuân thủ, dù có hoặc không có rủi ro về sức

khỏe hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận bất chấp bối cảnh đầy thách thức của đại dịch

Covid-19. Trong số 4607 thông báo RASFF được gửi vào năm 2021, 4102 thông báo

liên quan đến thực phẩm, 236 thức ăn chăn nuôi và 269 vật liệu tiếp xúc với thực

phẩm. So với năm 2020, số lượng thông báo ban đầu được đăng ký cho thực phẩm

và thức ăn chăn nuôi lần lượt tăng 19,6% và 3,5% (EC, 2022). Cũng như năm 2020,

một số lượng lớn các thông báo đó liên quan đến một sự cố lớn về thuốc trừ sâu là

mối nguy hiểm quan trọng nhất được thông báo, chiếm 27% các thông báo liên quan

đến sức khỏe. Trong số các loại thuốc trừ sâu, chất ethylene oxide trái phép được

cảnh báo nhiều nhất với 468 thông báo RASFF được truyền đi. Nhiều phát hiện liên

quan đến thuốc trừ sâu khiến EU phải bãi bỏ giấy phép của các nhà nhập khẩu (EC,

2022). Trong năm 2021, 30% tổng thông báo (1455), tăng 4% so với năm 2020.

Thông báo cảnh báo được truyền đi khi thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc nguyên

liệu tiếp xúc với thực phẩm có nguy cơ nghiêm trọng xuất hiện trên thị trường và khi

cần có hành động nhanh chóng ở một quốc gia thành viên khác ngoài quốc gia thông

125

báo. Điều này có nghĩa là trong 1455 trường hợp, các sản phẩm có nguy cơ nghiêm

trọng đối với sức khỏe, theo thông báo của RASFF, đã bị loại bỏ khỏi thị trường Châu

Âu. Tuy nhiên, số thông báo từ chối biên giới là 1457 trường hợp, nghĩa là các sản

phẩm đã bị chặn tại biên giới châu Âu tại các chốt kiểm soát biên giới và không bao

giờ được nhập khầu thị trường EU. Con số này đã trở lại mức của năm 2019, sau khi

mức giảm được ghi nhận vào năm 2020 (EC, 2022).

Xem xét các quốc gia không phải là thành viên, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia được

thông báo nhiều nhất với 613 thông báo, chủ yếu liên quan đến phát hiện thuốc trừ

sâu (405), tiếp theo là Ấn Độ (383), với 272 thông báo về thuốc trừ sâu và Trung

Quốc (331) với gần một nửa số thông báo (160) liên quan đến vật liệu tiếp xúc với

thực phẩm (EC, 2022).

• Đối với hàng nông sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU

Theo thống kê từ hệ thống RASFF, trong giai đoạn 10 năm từ 2012 đến 2022,

tổng số thông báo cảnh báo nhập khẩu của Việt Nam nhận được từ EU là 815 thông

báo do các sản phẩm nông sản xuất khẩu sang EU do vi phạm các quy định SPS và

TBT. Như vậy, trung bình mỗi năm có hơn 80 lô hàng nông sản của Việt Nam vi

phạm các quy định SPS và TBT. Lý do EU đưa ra cảnh báo đối với các mặt hàng này

chủ yếu là do các lô hàng nông sản của Việt Nam đều vi phạm quy định về dư lượng

thuốc bảo vệ thực vật hoặc chứa một số chất cấm, mất an toàn thực phẩm trong quá

trình sơ chế, đóng gói (RASFF, 2022).

Các sản phẩm thuộc mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã nhận được

55 thông báo từ thị trường EU trong năm 2020. Trong đó có 6 lô hàng bị từ chối nhập

khẩu, 13 lô hàng còn lại nhận được các thông báo cảnh báo. Lý do EU đưa ra cảnh

báo đối với các mặt hàng này chủ yếu là do xuất hiện các chất hóa học trái phép và

dư lượng các chất vượt quá so với quy định mà EU đã đề ra; 7 cảnh báo đối với mặt

hàng rau quả bao gồm các sản phẩm như ớt, nấm khô, thanh long,… Ngoài mặt hàng

rau quả thì các mặt hàng như ngũ cốc, đồ uống không cồn, quả hạch và các sản phẩm

từ quả hạch, bánh kẹo, gia vị và sản phẩm thực phẩm khác cùng nằm trong danh mục

hàng hóa EU đưa ra cảnh báo (Phụ lục 3).

Năm 2021, EU đã đưa ra 44 thông báo với cảnh báo đối với hàng nông sản của

Việt Nam. Trong đó, mặt hàng hoa quả và rau chiếm số lượng nhiều nhất, các sản phẩm

bị cảnh báo như ổi, bưởi, chôm chôm, mướp đắng, nấm,... tiếp đó là các mặt hàng thực

phẩm khác/hỗn hợp như mì ăn liền, mì khô, thuốc,các loại thảo mộc và gia vị với 5

cảnh báo, các sản phẩm bị cảnh báo như ớt, hạt tiêu, quế,... Còn lại là các thông báo

126

của các sản phẩm như thực phẩm bổ sung; món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ; thịt, các

sản phẩm từ thịt và đồ uống không cồn. Các lô hàng này đều vi phạm vượt mức các

chất cho phép hoặc có một số chất cấm, vi phạm quy định về hóa chất bảo vệ thực vật,

mất an toàn thực phẩm trong quá trình sơ chế, đóng gói. Trong 44 lô hàng này, có 5 lô

hàng bị từ chối nhập khẩu và còn lại là các cảnh báo. Những lô hàng bị trả về xuất hiện

140

120

100

80

60

40

20

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

ở hầu hết các mặt hàng mà không tập trung vào một mặt hàng riêng biệt.

Hình 4.35. Số lượng lô hàng nông sản của Việt Nam bị cảnh báo từ hệ thống

RASFF giai đoạn 2012 – 2022

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ hệ thống báo cáo của RASFF

Các loại nông sản Việt xuất khẩu sang thị trường EU liên tục bị cảnh báo về

chất lượng an toàn thực phẩm, thậm chí còn bị thu hồi. Theo RASFF, trong năm 2022

EU đã có 4361 cảnh báo đối với hàng nông sản thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trên

toàn thế giới, trong đó có 72 cảnh báo đối với hàng nông sản thực phẩm của Việt

Nam (chiếm 1,4%). Năm 2022 đã chứng kiến số lô hàng nông sản của Việt Nam bị

EU cảnh báo với số lượng cao nhất trong 3 năm gần nhất. Trong số đó, 5 mặt hàng bị

EU cảnh báo nhiều nhất lần lượt là món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ (14 cảnh báo),

các loại thảo mộc và gia vị (13 cảnh báo), hoa quả và rau (9 cảnh báo), ngũ cốc và

các sản phẩm bánh (6 cảnh báo) và sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp (5 cảnh báo).

Kết quả tổng hợp cho thấy các cảnh báo tập trung vào vi phạm dư lượng thuốc trừ

sâu vượt quá quy định của EU. Cũng trong năm 2022, một số nông sản như: Chôm

chôm, mộc nhĩ khô, hạt tiêu đen, bột quế,... của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường

127

EU cũng bị cảnh báo dư lượng các chất có hại, thậm chí sản phẩm chôm chôm còn

phát hiện có chất cấm. Những lô hàng của Việt Nam bị EU từ chối nhập khẩu nhiều

nhất là sản phẩm mì ăn liền/phở ăn liền. Các sản phẩm mì ăn liền hương vị gà, mì ăn

liền hương vị cà ri, bánh phở nhập khẩu từ Việt Nam bị EU phát hiện dư lượng

ethylene oxide vượt ngưỡng quy định của EU. Đối với chỉ tiêu ethylene oxide trong

các sản phẩm thảo mộc, rau củ khô, hạt vừng (có trong gói gia vị của mì ăn liền), hiện

EU quy định ngưỡng cho phép rất thấp, từ 0,01 mg/kg – 0,02mg/kg. Do đó, các doanh

nghiệp xuất khẩu sang EU cần phải điều chỉnh công nghệ, kiểm soát nguyên liệu để

phù hợp với yêu cầu thị trường.

Hoạt động chặt chẽ của mạng lưới cảnh báo của EU đối với hàng hoá nông sản

nhập khẩu vào thị trường EU cho thấy EU không chỉ có xu hướng ban hành, áp dụng

ngày càng nhiều BPPTQ với các quy định ngày càng chặt chẽ mà EU còn thực hiện

việc kiểm soát thi hành, tuân thủ các BPPTQ đối với các quốc giá XKNS vào EU rất

chặt chẽ thông qua hệ thống mạng lưới cảnh báo, đặc biệt là hệ thống RASFF.

4.4. Kết quả định lượng tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối

với xuất khẩu nông sản Việt Nam

4.4.1. Kết quả tác động của các biện pháp phi thuế quan của EU đối với tổng thể

4.4.1.1. Kiểm định, đánh giá sự phù hợp của mô hình ước lượng

xuất khẩu nông sản Việt Nam

Trước hết, nghiên cứu kiểm tra độ cân bằng của dữ liệu bảng thì dữ liệu bảng cân

đối tuyệt đối về không gian và thời gian và hoàn toàn phù hợp để được ước lượng trên

phần mềm STATA. Số liệu thống kê mô tả các biến được thể hiện chi tiết tại Bảng 4.9.

Để kiểm định, đánh giá sự phù hợp của mô hình ước lượng, trước hết, tác giả

thực hiện phân tích tương quan Pearson. Đây được xem là một phân tích tiền mô hình

cần thiết cho tất cả các mô hình ước lượng, nếu không thực hiện phân tích tương quan

trước khi thực hiện các mô hình sẽ là một thiếu sót lớn. Phân tích tương quan nhằm

xác định mối quan hệ giữa các biến trong mô hình, đặc biệt là giữa biến độc lập và

biến phụ thuộc. Mục tiêu chính là kiểm tra xem liệu có mối tương quan có ý nghĩa

thống kê giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc hay không. Đồng thời, phân tích

này cũng giúp phát hiện khả năng đa cộng tuyến nếu các biến độc lập có hệ số tương

128

quan cao.

Bảng 4.9. Thống kê mô tả các biến

Số quan sát 6831 6831 6831 6831 6831 6831 6831 Giá trị trung bình 68173.29 289.6782 567.896 8400.116 9.39e+07 1.65e+07 0.0990633 Giá trị lớn nhất 30129203 408.8 4259.93 10549 98186856 84079811 0.4796518 Giá trị nhỏ nhất 0 195.59 9.46 7141.527 89301326 420028 0 Độ lệch chuẩn 905504 65.47351 892.9864 796.4086 2831597 2.17e+07 0.1082499

6831 2.671937 27 0 4.383982

6831 3.059289 25 0 5.814444

6831 16.45762 143 0 26.12896

56 0 6831 10.37154 14.67636

Tên biến (đơn vị) EX (nghìn USD) GDPVN (tỷ USD) GDPEU (tỷ USD) DIST (km) POPVN (người) POPEU (người) TARIFF (%) SPS1 (Số lượng thông báo hàng năm) TBT1 (Số lượng thông báo hàng năm) SPS2 (Số lượng luỹ kế theo năm) TBT2 (Số lượng luỹ kế theo năm) AGREMVN (%) 6831 39.08725 47.36676 6.58097

AGREMEU (%) 6831 5.224134 29.71217 4.707146

AGRLDVN (%) AGRLDEU (%) 6831 6831 37.8909 41.09666 39.5241 66.31578 2.038847 15.58109

NEER 6831 26107.62 24073.73 0.4453944

EVFTA Covid 6831 6831 0.1818182 0.2727273 1 1 29.04434 0.681636 8 34.43311 7.366343 0.792743 8 0 0 0.4453944 0.3857228

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata 17

Căn cứ vào kết quả ma trận tương quan (Bảng 4.10, Bảng 4.11) cho thấy, biến

GDPVN có khả có khả năng có tương quan cao với các biến POPVN, TBT,

AGREMVN, AGRLDVN. Biến GDPEU có tương quan cao với biến POPEU, DIST.

Biến POPVN, TBT có tương quan cao với AGREMVN, AGRLDVN, EVFTA,

Covid. Biến AGRLDVN có tương quan cao với hầu hết các biến, chỉ trừ GDPEU,

POPEU và DIST. Còn lại hệ số tương quan so sánh giữa các biến độc lập với nhau

có kết quả nhỏ hơn 0.8. Từ đó, nghi ngờ giữa các biến nêu trên có thể xảy ra đa cộng

tuyến với nhau. Tuy nhiên, theo lý thuyết thì kết quả phân tích tương quan sẽ giúp

tham khảo, nhận diện trước được chiều hướng và nhìn nhận kĩ hơn trong kết quả mô

hình, chứ không nhằm xem xét đưa đến quyết định loại bỏ hay không loại bỏ các biến

trong mô hình. Việc loại bỏ biến hay không sẽ được xem xét khi khi thực hiện kiểm

129

định đa cộng tuyến.

EX GDPVN GDPEU DIST POPVN POPEU TARIFF SPS

TBT NEER ARGEMVN ARGEMEU AGRLDVN AGRLDEU EVFTA COVID

EX

1.0000

GDPVN

0.0896 1.0000

GDPEU

-0.0043 0.0589 1.0000

DIST

-0.0124 0.0000 0.4582 1.0000

POPVN

0.0811 0.9953 0.0563 -0.0000 1.0000

POPEU

0.0165 0.0042 0.9065 0.3168 0.0056 1.0000

0.1439

TARIFF

-0.2645 -0.0170

-0.2667 -0.0015 1.0000

- 0.0000

SPS

0.1245 0.0847 0.0021 0.0000 0.0880 0.0005 0.0539 1.0000

TBT

0.1425 0.6137 0.0443 -0.0000 0.5776 0.0030 -0.1444 0.1036 1.0000

NEER

-0.0557 -0.2216 0.0166 0.0000 -0.2603 -0.0013 0.0443 -0.0736 -0.2242 1.0000

AGREMVN

-0.0854 -0.9705 -0.0610 -0.0000 -0.9704 -0.0055 0.2918 -0.0671 -0.6259 0.1582

1.0000

AGREMEU

0.0186 -0.1245 -0.1312 -0.2817 -0.1251 0.1666 0.0314 -0.0118 -0.0604 0.0288 0.1196

1.0000

AGRLDVN

0.0499 0.8180 0.0292 -0.0000 0.8582 0.0049 -0.1949 0.1188 0.3499 -0.6025 -0.7602

-0.1127

1.0000

AGRLDEU

0.0538 -0.0069 0.2555 0.4498 0.0071 0.3093 0.0025 0.0000 -0.0049 0.0007 0.0074

0.1349

-0.0044

1.0000

EVFTA

0.0634 0.7498 0.0523 0.0000 0.7530 0.0042 -0.3022 0.0175 0.5295 0.0125

-0.8500

-0.0817

0.4595

-0.0085 1.0000

Covid

-0.0294 0.4821 0.0337 -0.0000 0.5195 0.0031 -0.2204 0.0096 0.0481 0.2929

-0.6024

-0.0644

0.3538

-0.0058 0.7698 1.0000

Bảng 4.10. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS và TBT là thông báo hàng năm

130

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata

EX GDPVN GDPEU DIST POPVN POPEU TARIFF SPS TBT NEER ARGEMVN ARGEMEU AGRLDVN AGRLDEU EVFTA COVID

EX

1.0000

GDPVN

0.0896 1.0000

GDPEU

-0.0043 0.0589 1.0000

DIST

-0.0124 0.0000 0.4582 1.0000

POPVN

0.0811 0.9953 0.0563 -0.0000 1.0000

POPEU

0.0165 0.0042 0.9065 0.3168 0.0056 1.0000

0.1439

TARIFF

-0.2645 -0.0170

-0.2667 -0.0015 1.0000

- 0.0000

sps

0.1772 0.3149 0.0170 0.0001 0.3161 0.0003 -0.0214 1.0000

tbt

0.0863 0.6137 0.0519 -0.0000 0.7047 0.0038 -0.1843 0.3227 1.0000

NEER

-0.0557 -0.2216 0.0166 0.0000 -0.2603 -0.0013 0.0443 -0.0708 -0.0302 1.0000

-0.0854

-0.9705 -0.0610 -0.0000 -0.9704 -0.0055 0.2918 -0.3095 -0.7734 0.1582

1.0000

AGREMV N

0.0186

-0.1245 -0.1312 -0.2817 -0.1251 0.1666 0.0314 -0.0368 -0.0790 0.0288 0.1196

1.0000

AGREME U

0.0499

0.8180 0.0292 -0.0000 0.8582 0.0049 -0.1949 0.2679 0.4594 -0.6025 -0.7602

-0.1127

1.0000

AGRLDV N

0.0538

-0.0069 0.2555 0.4498 0.0071 0.3093 0.0025 -0.0043 -0.0067 0.0007 0.0074

0.1349

-0.0044

1.0000

AGRLDE U

EVFTA

0.0634 0.7498 0.0523 0.0000 0.7530 0.0042 -0.3022 0.2408 0.7374 0.0125

-0.8500

-0.0817

0.4595

-0.0085 1.0000

Covid

-0.0294 0.4821 0.0337 -0.0000 0.5195 0.0031 -0.2204 0.1730 0.4755 0.2929

-0.6024

-0.0644

0.3538

-0.0058 0.7698 1.0000

Bảng 4.11. Ma trận tương quan các biến trong mô hình với dữ liệu SPS, TBT là số lượng thông báo cộng dồn luỹ kế theo năm

131

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả tính toán trên phần mềm Stata

Tiếp theo, tác giả thực hiện một trong những bước đầu tiên quan trọng nhất

trong quy trình ước lượng và kiểm định dữ liệu bảng đó là kiểm định tính dừng của

chuỗi thời gian. Việc kiểm định tính dừng này là cần thiết đối với một bộ dữ liệu

chuỗi thời gian vì các biến phải dừng thì mới có thể phát hiện được thuộc tính của dữ

liệu là tăng hay giảm, có sự gia tăng đồng thời hay không, đồng thời để giúp các

phép kiểm định giả thuyết thông thường t, F, Chi bình phương và một số kiểm định

khác đáng tin cậy hơn.

Để kiểm định tính dừng cần căn cứ xem dữ liệu có sự phụ thuộc chéo hay

không. Nếu dữ liệu không có sự phụ thuộc chéo thì kiểm định tính dừng thế hệ thứ

nhất (xtuniroot) sẽ được thực hiện, còn nếu dữ liệu có sự phụ thuộc chéo thì kiểm

định tính dừng ở thế hệ thứ hai sẽ được triển khai (xtcips). Dựa vào kết quả kiểm định,

dữ liệu có sự phụ thuộc chéo, do đó tác giả tiến hành kiểm định tính dừng ở thế hệ thứ

nhất. Kết quả sau khi thực hiện là tất cả các biến đều có tính dừng vì hệ số CIPS lớn

hơn cả 3 giá trị critical value ở các lệnh kiểm định.

Cuối cùng, để xác định được dạng mô hình ước lượng để thực hiện cho nghiên

cứu, đồng thời nhận diện mối quan hệ dài hạn giữa các biến, nghiên cứu tiến hành

thực hiện kiểm định tính đồng liên kết. Do giữa các biến có sự phụ thuộc chéo như

đã kiểm định ở trên, nên nghiên cứu sử dụng kiểm định Westerlund để kiểm định tính

đồng liên kết. Kết quả kiểm định cho thấy tất cả hệ số sig của các biến đều lớn hơn

5%, do đó, kết luận không có đồng liên kết. Đối với dữ liệu bảng không có đồng liên

kết thì các dạng mô hình để ước lượng được đề xuất có thể là mô hình ước lượng bình

phương nhỏ nhất - Pooled OLS (Pooled Ordinary Least Square), mô hình hiệu ứng

cố định - FEM (Fixed Effects Model) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên - REM

(Random Effects Model), ước lượng bình phương nhỏ nhất tổng quát - GLS

(Generalized Least Squares) hoặc phương pháp ước lượng hợp lý cực đại theo phân

phối Poision (PPML - Poision Pseudo Maximum Likelihood). Đây là phương pháp

ước lượng giả (Pseudo) theo phương pháp khả năng lớn nhất (Maximum Likelihood)

theo phân phối (Poision) do Santos và Tenreyro (2006).

Vì dữ liệu bảng đưa vào nghiên cứu là dữ liệu theo quốc gia – ngành – năm

(country-sector-year). Nghiên cứu lựa chọn phương pháp ước lượng PPML với các

hiệu ứng cố định (FE) đa chiều cặp quốc gia – ngành - năm (country-sector-year-FE).

Đồng thời, khi triển khai thu thập và xây dựng bảng dữ liệu với mã sản phẩm HS 2

132

chữ số của ba nhóm hàng thì xuất hiện nhiều quan sát có giá trị xuất khẩu bằng 0 bởi

có những mã sản phẩm mà Việt Nam và các quốc gia thành viên của EU không có

thương mại; do đó để tránh việc các quan sát bằng 0 sẽ bị loại bỏ khỏi mẫu. Bên

cạnh đó, vấn đề hiện tượng phương sai sai số thay đổi thường xuất hiện trong số

liệu thương mại. Do đó, phương pháp PPML được đề xuất để giải quyết được các

(2019) để tiến hành ước lượng.

vấn đề này. Nghiên cứu sử dụng lệnh PPMLHDFE được đề xuất bởi Correia và cộng sự

Khi thực hiện ước lượng PPML, biến phụ thuộc của mô hình trọng lực sẽ được

biến đổi thành hàm phi lograrit. Do đó, phương trình kiểm định tác động của các

BPPTQ đối với hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU sẽ có dạng sau:

EXkit = β0 + β1LnGDPEUit + β2LnGDPVNt + β3LnTARIFFki(t-1) + β4SPSik(t-1) +

β5TBTik(t-1) + β6LnDISTi + β7LnPOPEUit + β8LnPOPVNt + β9LnAGRLDEUit +

β10LnAGRLDVNt + β11LnAGREPEUit + β12LnAGREMVNt + β13NEERt + β14EVFTA

+ β15COVID + ist_FE + jst_FE + ijh_FE + ε (4)

Trong đó, ngoài các biến đã được chú thích ở chương 3 thì một số hiệu ứng cố định

được đưa vào mô hình hồi quy gồm:

- ist_FE: Hiệu ứng cố định (FE) theo nước nhập khẩu – ngành - thời gian;

- jst_FE: Hiệu ứng cố định (FE) theo nước xuất khẩu – ngành - thời gian;

- ijh_FE: Hiệu ứng cố định (FE) nước nhập khẩu-nước xuất khẩu-sản phẩm

Bên cạnh đó, để kiểm tra độ mạnh và tính tin cậy của mô hình, nghiên cứu đã

sử dụng thêm phương pháp hồi quy tuyến tính OLS với các hiệu ứng cố định, tương

tự như trong phương trình ước lượng PPML.

4.4.1.2. Kết quả ước lượng, các kiểm định sau mô hình và thảo luận

Để kiểm tra mối quan hệ phụ thuộc tuyến tính giữa các biến độc lập, tác giả

đưa tất cả các biến vào để tiến hành thực hiện ước lượng thông qua hồi quy OLS và

sử dụng nhân tử phóng đại phương sai VIF để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến giữa

các biến độc lập. Kết quả kiểm tra cho thấy, hệ số VIF của các biến LnPOPVN,

LnGDPVN, LnGDPEU, LnPOPEU, EVFTA, Covid, LnAGRLDVN,

LnAGREMVN, LnAGRELDEU lớn hơn 10; còn các biến đều nhỏ hơn 10. Chứng tỏ

có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Đúng như dự đoán trong kết quả kiểm định tương

quan đã đưa ra. Tiến hành lựa chọn và loại bỏ lần lượt các biến có thể gây ra hiện

tượng đa cộng tuyến ra khỏi mô hình, chạy lại mô hình với phương trình ước lượng

133

áp dụng cho cả hai dạng biến SPS và TBT như sau:

LnEXkit = β0 + β1LnGDPVNt + β2 LnPOPEUit + β3LnDISTi + β4 LnTARIFFki(t-1) +

β5TBTik(t-1) + β6 SPSik(t-1) + β7 LnAGREMDEUit + β8 LnNEERt + β9 EVFTA +

β10COVID + ε (5)

Sau khi loại bỏ các biến có hiện tượng đa cộng tuyến, thực hiện lại mô hình

và kiểm tra lại thì các biến đã không còn hiện tượng đa cộng tuyến (xem Bảng 4.12).

Khuyết tật được loại bỏ, các biến có thể đưa vào thực hiện các ước lượng.

Bảng 4.12. Phân tích nhân tử phóng đại phương sai VIF

STT

Biến

Mô hình (1) Mô hình (2)

VIF

1/VIF

VIF

1/VIF

LnGDPVN

3.01

0.332091

3.07

0.325475

1

LnPOPEU

1.11

0.826772

1.21

0.826766

2

LnDIST

1.28

0.782372

1.28

0.782369

3

LnTARIFF

1.12

0.897362

1.12

0.894985

4

TBT

2.88

0.346631

2.72

0.367440

5

SPS

1.15

0.966198

1.15

0.870832

6

LnAGREMEU

1.20

0.830998

1.20

0.830986

7

LnNEER

1.39

0.720799

1.39

0.721210

8

EVFTA

7.24

0.138046

5.74

0.174283

9

COVID

5.29

0.189021

3.23

0.309685

10

Mean VIF

2.18

2.21

Sau khi mô hình đã khắc phục được hiện tượng đa cộng tuyến, các biến được

đưa vào các ước lượng OLS và PPML với các hiệu ứng cố định FE. Kết quả ước

lượng được thể hiện trong Bảng 4.13.

Kết quả ước lượng PPML với hiệu ứng cố định (FE) cho thấy các giá trị R

bình phương (Pseudo R-squared) ở Bảng 4.13 chỉ ra rằng các mô hình ước lượng đều

phù hợp, với R bình phương là 0.8261 (ở mô hình 1) và 0.8374 (ở mô hình 2) , điều này

có nghĩa sự thay đổi của các biến độc lập giải thích được lần lượt ở hai mô hình là

134

82.61% và 83.74% sự thay đổi của kim ngạch XKNS Việt Nam sang thị trường EU.

Bảng 4.13. Kết quả ước lượng của mô hình đối với tổng giá trị nông sản Việt

Nam xuất khẩu sang EU

Biến phụ thuộc

Giá trị xuất khẩu

Mô hình (1)

Mô hình (2)

LnGDPVN

LnPOPEU

PPML (EX) - 0.4132 (-0.73) 0.1248*** (6.70)

PPML (EX) - 0.7422 (-0.79) 0.1523*** (7.21)

-

-

LnDIST

lnTARIFF

SPS

TBT

LnAGREMEU

3.0474 (1.57) 0.0063*** (7.97) - 0.0251*** (-11.21) - 0.0638* (-1.57)

3.4715 (1.32) 0.0085*** (11.90) 0.0042* (1.85) - 0.0573* (-1.55)

LnNEER

-

-

EVFTA

COVID

OLS (LnEX) - 0.524 (-0.83) 0.1719* (1.88) 0.0009 (0.00) 1.0818 (1.08) 0.0194** (2.18) 0.0065* (1.26) 0.0902 (0.83) - 0.1615* (-1.29) 1.3379 (0.46) - 1.1251* (-1.86)

0.6132*** (12.88) - 0.6435*** (-5.47)

OLS (LnEX) - 0.9723 (-0.68) 0.1678** (2.21) 0.2020 (0.38) 0.2191 (1.74) 0.0112** (2.20) - 0.0072 (-0.65) - 0.0392 (-0.96) - 0.1527* (-2.06) 1.7756 (0.76) - 1.2902** (-2.25)

0.7363*** (6.76) - 0.5730*** (-7.32)

Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu- sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2

6831 0.6532 0.0000

6831 0.8261 0.0000

6831 0.6253 0.0000

6831 0.8374 0.0000

Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%

Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;

Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được ước lượng từ STATA 17

Xét tác động của các biện pháp SPS: Ở cả mô hình (1) và mô hình (2), biến

SPS đều có mối tương quan dương với mức ý nghĩa thống kê cao (p-value = 0.000).

Nghĩa là các biện pháp SPS có tác động tích cực tới giá trị xuất khẩu nông sản, mặc

135

dù mức tác động còn rất nhỏ. Cụ thể, nếu hàng năm, EU có một thông báo mới liên

quan biện pháp SPS thì sẽ khiến giá trị XKNS Việt Nam sang thị trường này tăng

0,6%; còn trong trường hợp các quy định SPS được cộng dồn, luỹ kế theo năm thì

mức độ tăng là trên 0,8%. Lý do của kết quả tăng khác nhau giữa hai mô hình có thể

bắt nguồn từ việc với dữ liệu cộng dồn theo năm thể hiện tổng số SPS mà EU áp dụng

với nông sản, Việt Nam đã có thời gian dài để đáp ứng được các BPPTQ nên mức độ

đáp ứng với tiêu chuẩn của thị trường cao hơn. Kết quả này phù hợp với kết quả của

các nghiên cứu của Xiong và Beghin (2012), Ronen (2017), Cadot và cộng sự (2018),

Dolabella (2018), Santeramo và cộng sự (2019), Nguyễn Thị Thu Hiền (2022). Điều

này có thể giải thích rằng các doanh nghiệp xuất khẩu đang dần thích nghi, đáp ứng

được các tiêu chuẩn chất lượng mà thị trường EU đưa ra, từ đó, tạo được lòng tin của

người tiêu dùng, từ đó, thúc đẩy cầu nhập khẩu nông sản từ EU, mặc dù, gia tăng các

biện pháp SPS có thể ban đầu về lâu dài sẽ là động lực thúc đẩy xuất khẩu.

Xét tác động của các biện pháp TBT: Ở mô hình (1), TBT có tác động ngược

chiều với mức ý nghĩa thống kê cao 1%., trong khi tại mô hình (2) có tác động thuận

chiều với ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Trong mô hình (1), biến TBT tác động tiêu cực

đến kim ngạch xuất khẩu, nếu hàng năm cứ có thêm một biện pháp TBT mới thì sẽ làm

giảm 2% kim ngạch xuất khẩu sang EU. Kết quả này tương đồng với kết quả của nghiên

cứu Disdier và cộng sự (2008), Ferro, Otsuki & Wilson (2015), phù hợp với tác động

của TBT đến các nước xuất khẩu là nước đang phát triển như Việt Nam vì khi có thêm

một thông báo quy định mới được ban hành nghĩa là các doanh nghiệp XKNS sẽ phải

gia tăng các chi phí cố định tăng để đáp ứng với quy định mới, từ đó, sức cạnh tranh về

giá trên thị trường giảm, dẫn đến tác động tiêu cực đến lượng xuất khẩu.

Tuy nhiên, tại mô hình (2) với số lượng biện pháp TBT cộng dồn, luỹ kế theo

năm, hướng tác động của của biến TBT đã đảo chiều tại mô hình (2), TBT có tác

động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên mức tác động hết sức khiêm tốn và

mức ý nghĩa thống kê không cao. Việc gia tăng 1 biện pháp TBT, có thể gia tăng

0,6% giá trị xuất khẩu. Điều này có thể đến từ việc các doanh nghiệp qua một quá

trình thích ứng các quy định TBT, sản phẩm đã thâm nhập được vào thị trường thì

doanh nghiệp có thể giảm chi phí nghiên cứu thị trường thúc đẩy xuất khẩu .

Xét tác động của các biến độc lập khác:

Đối với biến thuế quan (LnTariff): có tác động thuận chiều nhưng không có ý

nghĩa thống kê. Do đó, chưa đủ cơ sở để kết luận tác động của biến thuế quan đối với

136

XKNS Việt Nam sang EU trong giai đoạn nghiên cứu.

Biến tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam (LnGDPVN): Cả mô hình (1) và (2)

đều cho ra kết quả với hệ số âm biểu thị một mối quan hệ nghịch giữa GDP của Việt

Nam và giá trị xuất khẩu; tuy nhiên, kết quả này không có ý nghĩa thống kê. Do đó,

không có cơ sở để kết luận tác động của biến này đối với giá trị XKNS.

Biến dân số EU (LnPOPEU): Kết quả cho thấy dân số EU có tác động cùng

chiều với giá trị XKNS, có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%. nếu dân số EU tăng 1%

thì giá trị nông sản xuất sang EU tăng 12 – 15%. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng

dấu và các nghiên cứu đi trước vì dân số EU càng lớn đồng nghĩa với một thị trường

tiêu thụ tiềm năng lớn. Khi dân số EU tăng, nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu từ Việt

Nam cũng tăng theo, dẫn đến giá trị xuất khẩu cao hơn.

Ngược lại, với biến tỷ lệ người dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp của

EU (LnAGREMEU) thì kết quả ở cả hai mô hình đều có tác động ngược chiều với

mức ý nghĩa thống kê 1%. Điều này là phù hợp vì việc gia tăng tỷ lệ người dân làm

việc trong lĩnh vực nông nghiệp tại các quốc gia này có thể làm tăng nguồn cung nội

địa, giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam, do đó gây ra tác động

tiêu cực với giá trị nông sản xuất khẩu sang EU.

Biến EVFTA có tác động dương rất mạnh và ý nghĩa thống kê cao đặc biệt

trong cả hai mô hình, cho thấy EVFTA đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vì giảm

hoặc loại bỏ thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị

trường EU, từ đó làm gia tăng giá trị xuất khẩu. EVFTA đã mang lại nhiều cơ hội cho

xuất khẩu nông sản Việt Nam khi tiến trình cắt giảm thuế được tiếp tục.

Biến COVID-19: Đại dịch COVID – 19 mang hệ số âm và có ý nghĩa thống

kê cao trong tất cả các mô hình, cho thấy tác động tiêu cực của đại dịch lên xuất khẩu

do đại dịch Covid - 19 đã gây ra các gián đoạn trong chuỗi cung ứng, giảm nhu cầu

tiêu dùng, thời gian thông quan hàng hóa cũng lâu hơn, tốn kém hơn khiến các doanh

nghiệp e dè trong quyết định xuất khẩu.

Biến khoảng cách và biến tỷ giá bị loại bỏ do cộng tuyến với các hiệu ứng cố

định.

Đối với kết quả từ ước lượng OLS cũng sử dụng các mức hiệu ứng cố định

tương đương như PPML nhằm củng cố mức độ chuẩn mạnh của ước lượng PPML.

Có thể thấy các biến SPS và TBT có ý nghĩa thống kê thấp hơn hoặc không có ý nghĩa

thống kê. So sánh các giá trị R bình phương của ước lượng OLS đều thấp hơn so với

137

kết quả của PPML.

Tóm lại, qua ước lượng kết quả tác động của SPS và TBT đối với tổng thể

nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU như sau:

Thứ nhất, SPS có tác động thúc đẩy XKNS của Việt Nam sang thị trường EU,

tuy nhiên, mức độ thúc đẩy còn rất khiêm tốn. TBT lại có thể có tác động hỗn hợp

đến giá trị xuất khẩu.

Thứ hai, tác động của biện pháp SPS và TBT tương đối nhỏ so với các yếu tố

độc lập khác. Lý do cho điều này là vì các yếu tố truyền thống như quy mô nền kinh

tế và tỷ lệ dân số làm trong nông nghiệp, EVFTA, hay đại dịch Covid - 19,… thường

nằm ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp xuất khẩu. Những yếu tố này thường

bị quyết định bởi các vấn đề chính trị và kinh tế của quốc gia và không thay đổi một

cách nhanh chóng. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thường không có khả năng

can thiệp trực tiếp vào những yếu tố này; trong khi đó, đối với biện pháp SPS và TBT,

các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể dần thích nghi, tích lũy kinh nghiệm và

học hỏi cách đáp ứng chúng trong quá trình xuất khẩu hàng hóa.

4.4.2. Kiểm định tác động của các BPPTQ đến các nhóm hàng nông sản

Nhằm phân tích kỹ hơn tác động của SPS và TBT tới khả năng XKNS của

Việt Nam đối với từng nhóm hàng nông sản với những đặc tính khác biệt, tác giả tiến

hành đánh giá tác động của các biện pháp này đối với 3 nhóm mặt hàng gồm:

- Nhóm 1: Hàng nông sản liên quan đến động vật (HS 01 – 05, trừ HS 03);

- Nhóm 2: Hàng nông sản liên quan đến thực vật (HS 06 - 14);

- Nhóm 3: Hàng nông sản, thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá (HS 15 –

24, trừ HS16 - HS1604, HS1605).

Bảng 4.14 trình bày kết quả ước lượng tác động của các biến độc lập đối với

giá trị xuất khẩu nhóm 1 . Ở cả hai mô hình, biến SPS đều có hệ số mang giá trị dương

với ý nghĩa thống kê cao đạt mức 1%. Điều đó cho thấy dù EU tăng cường các biện

pháp SPS nhưng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản từ động vật tăng lên,

nhưng mức độ gia tăng là không đáng kể, khoảng 0,1- 0,2%. Dù ban đầu có thể SPS có

thể gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng, tốn các chi phí nhưng

về dài hạn, nhờ có việc tuân thủ, đảm bảo chất lượng đã nâng cao uy tín, tạo được sự tin

tưởng của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy xuất khẩu. Trong khi đó, biến TBT lại mang

dấu âm ở cả hai mô hình, cho thấy TBT có thể gây tác động tiêu cực tới xuất khẩu các

sản phẩm liên quan đến động vật sống; tuy nhiên, mức ý nghĩa thống kê thấp. Ngoài ra,

các biến truyền thống khác như GDP, EVFTA, COVID trong mô hình này đều mang

138

dấu đúng với kỳ vọng chỉ ngoại trừ biến thuế quan và tỷ lệ lao động trong nông nghiệp

của EU mang dấu dương, nhưng đều không có ý nghĩa thống kê. Biến khoảng cách và

tỷ giá bị loại bỏ do đa cộng tuyến với các hiệu ứng cố định.

Bảng 4.14. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị

xuất khẩu Nhóm 1 – Động vật và sản phẩm từ động vật của Việt Nam sang EU

Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)

LnGDPVN

LnPOPEU

LnDIST

lnTARIFF

SPS

TBT

LnAGREMEU

LnNEER

EVFTA

COVID Mô hình (2 1.2461** (2.57) 0.5623*** (3.67) - 5.4363 (1.01) 0.0022*** (5.13) - 0.0356* (- 1.71) 1.2428 (0.17) - 1.3603*** (3.64) - 1.7931*** (-4.81) Mô hình (1) 1.0264*** (3.29) 0.5552*** (3.63) - 6.2431 (0.89) 0.0013*** (4.74) -0.0473* (-1.57) 1.157 (0.02) - 1.2647*** (3.78) - 1.3324*** (-4.27)

Có Có

Có Có

Có Có

1188 0.7829 0.0000 Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 1188 0.7956 0.0000

Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%

Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;

Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được ước lượng từ STATA 17

Xét kết quả tác động của các biện pháp SPS và TBT đến xuất khẩu Nhóm 2

tại Bảng 4.15. Đây là nhóm nông sản xuất khẩu chủ lực, chiếm đến từ 80% đến 95%

139

trong tổng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU tuỳ thuộc vào từng giai đoạn.

Bảng 4.15. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị

xuất khẩu Nhóm 2 – Thực vật và sản phẩm từ thực vật của Việt Nam sang EU

Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)

LnGDPVN

LnPOPEU

LnDIST

lnTARIFF

SPS

TBT

LnAGREMEU

LnNEER

EVFTA

COVID Mô hình (1) 0.4596*** (3.51) 0.3219*** (5.43) - 0.3279* (-1.97) 0.0039*** (3.16) 0.0011*** (13.29) - 0.0363 (-0.14) - 1.0133*** (9.04) - 1.8221*** (-19.42) Mô hình (2) 0.4623*** (4.01) 0.2903*** (5.90) - 0.3467* (-1.89) 0.0047*** (3.93) 0.0020*** (10.17) -0.0486 (- 0.57) - 1.3725*** (8.525) - 2.8736*** (- 29.43)

Có Có

Có Có

Có Có

Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 2673 0.7432 0.0000 2673 0.7251 0.0000

Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%

Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;

Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được tính toán, ước lượng từ STATA17

Biến SPS mang hệ số dương mang ý nghĩa các biện pháp SPS có tác động tích

cực tới XKNS của Việt Nam, hệ số có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%. Tuy nhiên,

mức độ tác động tích cực còn khá khiêm tốn khi cứ tăng một quy định liên quan SPS

hàng năm thì giá trị xuất khẩu tăng 0.3%; còn trong trường hợp biến số là tổng các

SPS mà các mặt hàng nông sản từ thực vật phải đáp ứng thì cứ tăng một biện pháp

140

thì chỉ giúp gia tăng 0,4% giá trị xuất khẩu. Tương tự đối với biến TBT, TBT cũng

có tác động cùng chiều với giá trị xuất khẩu nhóm hàng nông sản này, với mức ý

nghĩa thống kê cao. Mức độ tác động cũng không đáng kể. Các biến truyền thống

khác trong mô hình ước lượng với dữ liệu của nhóm nông sản này cũng mang dấu

đúng như kỳ vọng với ý nghĩa thống kê ở mức cao, ngoại trừ thuế quan, mức thống

kê chỉ ở 10%.

Bảng 4.16. Kết quả ước lượng PPML đối với tác động của các BPPTQ đến giá trị

xuất khẩu Nhóm 3 – Hàng nông sản, thực phẩm chế biến của Việt Nam sang EU

Biến phụ thuộc Giá trị xuất khẩu (EX)

LnGDPVN

LnPOPEU

LnDIST

lnTARIFF

SPS

TBT

LnAGREMEU

LnNEER

EVFTA

COVID Mô hình (2) - 0.4180 (-1.24) 0.1824*** (6.48) - - 0.1648*** (-4.23) 0.0078*** (4.02) -0.0181*** (- 4.30) -0.3963 (-1.06) - 0.5972*** (9.23) - 1.12448*** (- 7.72) Mô hình (1) 0.3129*** (3.16) 0.1561*** (6.17) - - 0.1920*** (-3.89) 0.0043*** (4.81) - 0.0172*** (-4.12) - 0.4026 (-0.65) - 0.4175** (1.85) - 0.8925*** (-3.69)

Có Có

Có Có

Có Có

2970 0.6690 0.0000 Nước nhập khẩu – ngành - thời gian FE Nước xuất khẩu – ngành - thời gian FE Nước nhập khẩu- nước xuất khẩu-sản phẩm FE Số quan sát R bình phương Prob > chi2 2970 0.6573 0.0000

Ghi chú: ***, **, *: có ý nghĩa thống kê tương ứng lần lượt là p <1%, 5% và 10%

Mô hình (1) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng hàng năm;

Mô hình (2) với biến SPS, TBT là biến đếm số lượng cộng dồn, luỹ kế theo năm

Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả được tính toán, ước lượng từ STATA17

141

Đối với nhóm 3, biến SPS ở mô hình (1) và (2) đều mang giá trị dương và có

ý nghĩa thống kê cao 1%. Mức độ tác động tích cực cũng giống như các nhóm khác

cũng tương đối nhỏ. Đây là nhóm hàng có sự thay đổi về tỷ trọng xuất khẩu lớn trong

giai đoạn 10 năm. Nếu năm 2012, nhóm hàng này chỉ chiếm 5% trong tổng tỷ trọng

xuất khẩu thì năm 2023 đã nâng lên 16,12%. Điều này cho thấy, việc các doanh

nghiệp đáp ứng được tốt các quy định liên quan SPS và TBT mà EU đưa ra, cùng với

các tác động tích cực của EVFTA mang lại, sự phát triển của kinh tế, khuyến khích

chế biến trong nước,… đã giúp kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang EU ngày

càng nhiều. Ngược lại, TBT lại có tác động tiêu cực và có ý nghĩa thống kê cao.

Nguyên nhân có thể xuất phát từ đặc tính yêu cầu kĩ thuật đối với nhóm hàng chế

biến này liên quan đến các quy định về ghi nhãn sản phẩm. Các biến truyền thống

khác trong mô hình hầu như đều mang dấu như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê cao,

ngoại trừ biến LnAGREMEU không có ý nghĩa thống k, biến tỷ giá hối đoái (LnNeer)

và khoảng cách bị loại bỏ do đa cộng tuyến với hiệu ứng cố định.

Xem xét giá trị R bình phương trong Bảng 4.14, Bảng 4.15 và Bảng 4.16 cho

thấy tất cả phương trình được chọn đều giải thích được trên 60% đến trên 70% sự

thay đổi của kim ngạch xuất khẩu từng nhóm hàng nông sản của Việt Nam sang thị

trường EU.

So sánh tác động của biện pháp SPS và TBT cũng như các biến khác trong các

mô hình thì đối với từng nhóm mặt hàng khác nhau, các biến có những tác động khác

nhau đối với giá trị xuất khẩu, tuy nhiên, tựu chung lại thì:

Về tác động của biện pháp SPS: Ở cả 3 nhóm hàng, biện pháp SPS đều có tác

động dương, có ý nghĩa thống kê cao nhưng mức tác động còn rất khiêm tốn. Kết quả

này đi ngược với kết quả của nhiều nghiên cứu đi trước như Disdier và cộng sự

(2008),Wilson & Otsuki (2003) vì theo các nghiên cứu này thì nông sản là hàng hoá

chịu sự kiểm dịch chặt chẽ, đặc biệt là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, quá trình kiểm

dịch thường mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá. Nhưng kết quả SPS

tác động tích cực lại phù hợp với kết quả của các nghiên cứu của Xiong và Beghin

(2011), Ronen (2017), Dolabella (2018), Santeramo và cộng sự (2019), Nguyễn Thị

Thu Hiền (2022). Có thể giải thích theo cơ chế tác động về dài hạn, các doanh nghiệp

Việt Nam đã và đang dần thích nghi, đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng mà thị

trường EU đưa ra, tạo được uy tín đối với người tiêu dùng EU, từ đó, nhu cầu tiêu

142

thụ tăng lên, tăng nhu cầu nhập khẩu của EU.

Về tác động của biện pháp TBT: TBT có tác động tích cực đến xuất khẩu ở

cả nhóm 2 nhưng lại có tác động tiêu cực đối với nhóm 1 và nhóm 3. Như vậy, TBT

có tác động hỗn hợp, với các nhóm mặt hàng khác nhau, sẽ có những chiều hướng

tác động khác nhau. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước về tác động hai

mặt của TBT đối với sản xuất và chi phí thương mại. Một mặt, việc đáp ứng các quy

định TBT của từng thị trường nhập khẩu thường làm tăng chi phí cố định do doanh

nghiệp phải điều chỉnh quy trình và năng lực sản xuất (Ganslandt & Markusen, 2001;

Chen và cộng sự, 2008). Mặt khác, TBT có thể giúp giảm bớt chi phí tìm hiểu thị

trường đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, từ đó mở ra cơ hội thâm nhập thị trường

mới (Portugal-Perez và cộng sự, 2010). Khi chi phí tuân thủ các tiêu chuẩn thị trường

thấp hơn chi phí tự tìm kiếm thông tin, TBT có thể tạo ra hiệu ứng tích cực, thúc đẩy

hoạt động thương mại.

Hơn nữa, kết quả tác động tích cực của TBT có thể đến từ việc các quy định

TBT mới của EU đưa ra chưa đủ mạnh và khác biệt để tạo ra sự gia tăng lớn về chi

phí trong việc thay đổi công nghệ, máy móc đối với doanh nghiệp xuất khẩu; do đó,

doanh nghiệp vẫn ra quyết định có thể tăng cường xuất khẩu.

Xét về tác động của các biến độc lập khác, các biến khác trong mô hình có

tác động lớn hơn 2 biến TBT và SPS và đều có ý nghĩa thống kê, đặc biệt các biến có

tác động lớn nhất bao gồm LnGDPVN, LnPOPEU, cho thấy các yếu tố ảnh hưởng từ

phía cung và cầu vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất trong thúc đẩy giá trị XKNS sang

EU. Đối với biện pháp thuế quan, có tác động âm, có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên,

sự cắt giảm và xóa bỏ đáng của EU trong khuôn khổ Hiệp định EVFTA trên thực tế

đã mang lại nhiều cơ hội cho hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU.

4.5. Đánh giá chung về tác động của các BPPTQ của EU đối với xuất khẩu nông

sản Việt Nam

4.5.1. Tác động tích cực

Theo kết quả mô hình định lượng đã chỉ ra rằng các biện pháp SPS có tác động

tích cực ở cả mô hình tổng nông sản và ở cả ba nhóm hàng nông sản; trong khi đó,

biện pháp TBT cũng có tác động tích cực đối với nhóm 2, mặc dù mức độ tác động

còn rất khiêm tốn và không đáng kể và với mỗi loại mặt hàng cụ thể khác nhau, mức

độ thúc đẩy có thể là khác nhau.

Cơ chế tác động tích cực của các biện pháp SPS và TBT được xem xét trong

143

dài hạn. Nghĩa là các tác động tích cực không thể thấy được trong một thời gian ngắn

mà phải là một quá trình lâu dài. Khi các biện pháp SPS, TBT được thiết kế tốt, các

doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt, tuân thủ tốt các quy định, nâng cao được khả năng

cạnh trạnh, định vị được thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường thì sẽ tạo ra

một hiệu ứng tích cực, khi được người tiêu dùng tin tưởng, khiến nhu cầu tăng lên,

từ đó sẽ thúc đẩy cầu nhập khẩu của EU, và tạo ra hiệu ứng tích cực giúp hoạt động

xuất khẩu bền vững nông sản sang EU. Đồng thời, khi chi phí tuân thủ nhỏ hơn chi

phí tiếp cận thị trường, cũng sẽ tạo ra tác động tích cực đối với xuất khẩu.

Ngoài ra, các BPPTQ tập trung vào tính bền vững, chẳng hạn như các quy

định về phát thải carbon, có thể tạo ra động lực cho các phương pháp sản xuất xanh

hơn, phù hợp với các mục tiêu khí hậu quốc tế và sở thích của người tiêu dùng đối

với các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khi được thực hiện đúng cách, các

BPPTQ sẽ góp phần vào sự ổn định kinh tế lâu dài bằng cách giảm thiểu các thất bại

của thị trường và thúc đẩy lòng tin giữa các đối tác thương mạị, từ đó có thể đảo chiều

tác động từ tiêu cực sang tích cực tới kim ngạch XKNS Việt Nam.

Kết hợp phân tích đánh giá kết quả định lượng và phân tích thực tiễn, có thể

đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực của các BPPTQ đối với

XKNS.

Thứ nhất, các BPPTQ đã thúc đẩy thương mại, với mỗi loại mặt hàng cụ thể

khác nhau, mức độ thúc đẩy có thể là khác nhau.

Lý do giải thích cho tác động thúc đẩy thương mại này được đưa ra là tuy

rằng việc các doanh nghiệp xuất khẩu tuân thủ các quy định SPS, TBT của thị trường

EU dẫn đến sự gia tăng các chi phí cố định trong việc điều chỉnh khả năng sản xuất

và các quy trình sản xuất, nhưng cũng giảm bớt các chi phí liên quan đến nghiên

cứu thị trường và đồng thời tiết kiệm chi phí thu thập thông tin, tạo ra một môi

trường thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Khi mà chi phí tuân thủ tiêu

chuẩn thị trường nhỏ hơn nhờ sự giảm bớt của chi phí thu thập thông tin cho doanh

nghiệp, giúp tiết kiệm chi phí và thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu; từ đây, tác động

của SPS và TBT đã được đổi chiều. Như vậy, tác động của biện pháp SPS, TBT

không chỉ xuất phát từ sự thúc đẩy tuân thủ quy chuẩn mà còn liên quan đến cơ hội

cải thiện quy trình sản xuất.

Thứ hai, để đáp ứng một cách chủ động các tiêu chuẩn về các BPPTQ của thị

144

trường EU, Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến tiêu chuẩn và

quy định đối với hàng nông sản xuất khẩu. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã xây dựng

các quy định pháp lý như Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013, các Thông tư

về quy định kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật trên cạn năm 2016 (được sửa

đổi mới nhất vào năm 2022), và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón

ban hành năm 2019,... Các quy định này đã được Việt Nam ban hành nhằm nâng cao

khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn liên quan đến SPS và TBT của thị trường EU cũng

như các quốc gia khác trên thế giới. Điều này cho thấy Việt Nam đang nỗ lực để tạo

ra một môi trường sản xuất an toàn và đáng tin cậy cho nông sản xuất khẩu, đồng thời

thể hiện cam kết đối với việc tham gia vào thương mại quốc tế và tuân thủ các tiêu

chuẩn quốc tế. Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp này cũng giúp đảm bảo sự bảo vệ

sức khỏe của người tiêu dùng và tăng cường uy tín của nông sản Việt Nam trên thị

trường quốc tế.

Thứ ba, các tác động tích cực này có thể đến từ sự quan tâm, các hoạt động

hỗ trợ chính sách của các cơ quan, bộ, ban ngành nhà nước. Từ khi Việt Nam trở

thành thành viên của WTO, các văn phòng SPS, TBT phối hợp với các cơ quan liên

quan đã triển khai, thực hiện rất hiệu quả việc đưa thông tin đến cho các doanh nghiệp

nông sản, giúp các doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin cập nhật về các

thay đổi, bổ sung trong các quy định liên quan đến các biện pháp SPS và TBT. Các

bộ ngành như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thường

xuyên tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, toạ đàm, tập huấn để phổ biến các quy định

của EVFTA, các quy định, chính sách mới của EU áp dụng với nông sản đến các hiệp

hội, doanh nghiệp, người nông dân.

Thứ tư, một bộ phận các doanh nghiệp đã ý thức được hơn trong việc tuân thủ

các quy định của thị trường nhập khẩu. Từ đó giúp hàng hoá đáp ứng và thâm nhập

được vào thị trường EU. Việc chủ động tìm hiểu và tuân thủ các quy định của EU là

yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập bền vững vào thị trường

EU. Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp đã có sự cải thiện đáng kể trong

việc cập nhật và đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, và

tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, mức độ chủ động vẫn chưa đồng đều giữa các

doanh nghiệp, đặc biệt là giữa doanh nghiệp lớn và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ. Những

doanh nghiệp lớn, có khả năng tiếp cận thông tin và nguồn lực tài chính tốt hơn, đã

tích cực áp dụng các tiêu chuẩn như GlobalG.A.P., HACCP, hay EU Organic để đảm

145

bảo chất lượng hàng hóa. Chẳng hạn, nhiều công ty xuất khẩu gạo đã đầu tư vào quy

trình sản xuất hữu cơ nhằm đáp ứng Quy định (EU) 2018/848 về nông sản hữu cơ,

giúp gia tăng giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường châu Âu.

4.5.2. Tác động tiêu cực

Mặc dù các biện pháp SPS trong mô hình định lượng có tác động thuận chiều

với kim ngạch XKNS Việt Nam sang EU nhưng biện pháp TBT tác động đến nhóm

hàng nông sản liên quan đến động vật và thực phẩm chế biến vẫn mang dấu âm; đồng

thời, thông qua nghiên cứu, phân tích định tính tình hình thực tiễn thì các biện pháp

này vẫn có những tác động tiêu cực đến XKNS sang thị trường EU. Tác động tiêu

cực này được thể hiện thông qua số liệu các lô hàng nông sản, thực phẩm của Việt

Nam bị hệ thống RASFF cảnh báo, trả về, số liệu về việc áp dụng kiểm tra tần suất

đối với một số mặt hàng nông sản Việt Nam theo Quy định (EC) 2019/1973. Nghĩa

là các BPPTQ vẫn mang đến những tác động tiêu cực nhất định cho XKNS Việt Nam

sang EU.

Tuy nhiên, có thể nhận định rằng, số lượng các lô hàng vi phạm đang ngày

càng giảm, điều đó cho thấy, doanh nghiệp xuất khẩu đã ngày càng quan tâm đến vấn

đề kĩ thuật và chất lượng hàng nông sản sang EU. Đồng thời, số lượng lô hàng bị

cảnh báo, trả về chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với tổng giá trị hàng nông sản xuất

sang EU. Mặc dù vậy, những tác động tiêu cực vẫn còn tồn tại và cần được đánh giá

để khắc phục. Các tác động tiêu cực có thể kể đến gồm:

Một là, các BPPTQ có thể làm giảm kim ngạch xuất khẩu nông sản

Về số lượng các BPPTQ (SPS và TBT) mà EU đối với nông sản không nhiều

như một số quốc gia và khu vực khác trên thế giới; tuy nhiên, các quy định của EU

lại là các quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Số lượng biện pháp SPS

mà EU áp dụng cho mặt hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lượng biện

pháp SPS áp dụng cho tất cả các ngành hàng (chiếm 86,137%), tỷ trọng TBT áp dụng

với nông sản lên tới 29,543%. Khi EU thực hiện rộng rãi và nghiêm ngặt các quy

định về SPS và TBT, hoặc có xu hướng tăng cường các quy định liên quan đến hai

biện pháp này, có thể dẫn đến giảm giá trị XKNS do hàng loạt lô hàng không đáp

ứng yêu cầu bị trả về Việt Nam. Thông tin từ Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT),

các vi phạm về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm đang có chiều hướng gia tăng.

Tính từ năm 2021 đến 2023, đã có nhiều thông báo không tuân thủ về kiểm dịch thực

vật từ các nước nhập khẩu. Riêng trong 7 tháng năm 2023, 370 lô hàng chuối, thanh

146

long, xoài, sầu riêng và mít đã biệt liệt kê vào đối tượng kiểm dịch. Ngoài ra, còn có 107

cảnh báo về các lô hàng xuất khẩu không đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm

như chứa nấm mốc, vi khuẩn, kim loại nặng, chất gây dị ứng,... Từ đó, làm giảm kim

ngạch xuất khẩu.

Đồng thời điều này có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà nhập khẩu

khi hàng hóa bị trả về gây thất vọng và lo ngại khi nhập khẩu nông sản từ Việt Nam

trong tương lai và tìm kiếm các nguồn cung thay thế. Những tác động này có thể làm

giảm giá trị XKNS của Việt Nam sang thị trường EU. Điều này nhấn mạnh sự quan

trọng của việc tuân thủ và đáp ứng SPS và TBT của EU để duy trì lợi thế xuất khẩu

và đảm bảo tăng trưởng bền vững cho ngành nông nghiệp Việt Nam.

Hai là, giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam

Các biện pháp SPS làm tăng chi phí biến đổi liên quan đến việc đánh giá sự

phù hợp, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp phải tuân thủ các mức giới hạn đối với

thuốc bảo vệ thực vật, cũng như các yêu cầu về kiểm dịch, dán nhãn và đóng gói.

Trong khi đó, các biện pháp TBT đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng chi phí cố định để

đáp ứng các tiêu chuẩn riêng của từng thị trường nhập khẩu. Bên cạnh đó, doanh

nghiệp còn phải chịu thêm các chi phí phát sinh như thử nghiệm, kiểm định, giám

định, công nhận và chứng nhận, vốn là yếu tố thiết yếu nhằm đảm bảo sản phẩm đạt

được các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn. Đối với các doanh nghiệp XKNS của Việt

Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự gia tăng chi phí cố định này gây

tác động nghiêm trọng, buộc doanh nghiệp phải điều chỉnh tăng giá xuất khẩu. Hậu

quả là, các đối tác tại thị trường EU có thể lo ngại trong việc hợp tác và tìm kiếm

nguồn cung thay thế, từ đó làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của nông sản Việt Nam so

với các sản phẩm nội địa và hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác.

Ba là, hàng hóa bị trả về gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Theo kết quả phân tích về số lượng lô hàng nông sản Việt Nam bị trả về phần

trên có thể thấy tỷ lệ hàng bị trả lại hoặc phải xử lý lại ở mức độ khá cao. Doanh nghiệp

khía cạnh. Trước tiên, chi phí vận chuyển tăng cao do doanh nghiệp phải chịu chi phí hai

chiều khi hàng hóa bị trả về, kèm theo các chi phí xử lý như tiêu hủy hoặc tái chế sản phẩm

không đạt tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp mất đi nguồn doanh thu dự kiến, ảnh hưởng

trực tiếp đến lợi nhuận và khả năng tái đầu tư. Ngoài ra, việc bị trả hàng liên tục có thể làm

giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, khiến đối tác mất niềm tin, dẫn đến

việc hủy hợp đồng hoặc giảm sản lượng đặt hàng trong tương lai. Các doanh nghiệp cũng có

thể phải đối mặt với các chi phí pháp lý và hành chính liên quan đến tranh chấp hợp đồng hoặc vi phạm quy định nhập khẩu.

147

sẽ phải chịu toàn bộ các tổn thất về kinh tế, thiệt hại cho doanh nghiệp bao gồm nhiều

Bốn là, hàng hoá trả về gây ảnh hưởng tới uy tín của thương hiệu nông sản

Việt Nam. Việc các sản phẩm nông sản xuất khẩu Việt Nam không đáp ứng được các

biện pháp SPS và TBT của các nước thành viên EU sẽ ảnh hưởng đến uy tín và thương

hiệu của nông sản Việt, khiến người tiêu dùng trong khối EU không tin tưởng vào

sản phẩm Việt Nam, làm giảm tính cạnh tranh. Hơn nữa, khi nông sản Việt Nam gặp

khó khăn tại thị trường EU, các quốc gia khác cũng có thể áp dụng các biện pháp

tương tự để giảm tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Các quy trình hải quan và

hành chính phức tạp và tốn thời gian cũng là một trở ngại làm mất ưu thế của nông

sản xuất khẩu Việt Nam so với các đối thủ khác trên thị trường.

Năm là, các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, tốn kém về mặt thời gian,

gây rủi ro lớn với hàng hóa, đặc biệt khi các lô hàng bị cảnh báo trả về do vi phạm

các BPPTQ thì gây ảnh hưởng đến các lô hàng sau sẽ phải chịu các sự kiểm soát

chặt chẽ hơn của EU.

Các biện pháp SPS và TBT làm phức tạp thêm thủ tục nhập khẩu nông sản vào

thị trường EU. Các sản phẩm nhập khẩu vào EU, tùy vào từng mặt hàng cụ thể, phải

có chứng nhận từ một cơ quan hoặc tổ chức cụ thể để xác nhận rằng chúng tuân theo

các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc an toàn cụ thể. Việc làm này đòi hỏi thêm thời gian để

làm các thủ tục chứng nhận và kiểm tra.

Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy các quy định thương mại lỗi thời kết

hợp với các thủ tục hành chính rườm rà, không minh bạch đã tạo ra một gánh nặng

cho tăng trưởng kinh tế tương đương với "mức thuế quan vô hình” lên tới 164,25%.

Giảm một ngày trong thời gian xử lý thương mại và thông quan xuất khẩu sẽ dẫn đến

mức tăng tối thiểu 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tương đương 2,13

tỷ USD. Đối với một số mặt hàng quan trọng trong nông nghiệp và các hàng hoá nhạy

cảm với thời gian, mức tăng có thể lên đến 6%. Giảm 5 ngày sẽ mang lại kim ngạch

xuất khẩu khoảng 10,65 tỷ USD.

Sáu là, có thể ảnh hưởng tới đời sống người sản xuất

Ngoài những tác động tiêu cực đến doanh nghiệp và ngành xuất khẩu, các

BPPTQ đã tác động gián tiếp đến đời sống của người lao động trong lĩnh vực sản

xuất nông sản xuất khẩu. Khi XKNS Việt Nam gặp khó khăn sang thị trường EU, các

doanh nghiệp buộc phải điều chỉnh hướng xuất khẩu sang các thị trường khác dễ tiếp

cận hơn. Tuy nhiên, việc chuyển hướng này mang theo rủi ro và phát sinh thêm chi

phí, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất trong nước và gây ra sự biến động

148

đáng kể trong hoạt động sản xuất nông sản và cuộc sống của người lao động.

Tiểu kết chương 4

Chương 4 đã tiến hành đánh giá thực trạng XKNS của Việt Nam sang EU;

thực trạng mức độ áp dụng các BPPTQ của EU.Theo đó, về mức độ bao phủ và tần

suất áp dụng của EU thì có đến 98% loại mặt hàng và 98% giá trị hàng nông sản nhập

khẩu vào EU bị áp dụng BPPTQ; trong đó, gần 100% mặt hàng nông sản Việt Nam

xuất khẩu sang EU, bị áp đặt bởi các biện pháp SPS và TBT.

Chương 4 cũng đã đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của các BPPTQ

của EU đối với XKNS Việt Nam sang EU trong thời kỳ này với kết quả định lượng

cho thấy ở hầu hết các mô hình, đặc biệt là đối với ba nhóm hàng nông sản, các biện

pháp SPS có tác động tích cực nhưng mức tác động là không đáng kể đến XKNS

Việt Nam; trong khi đó, TBT mang đến những tác động hỗn hợp với XKNS, thể hiện

ở việc TBT có tác động tích cực đến XKNS nhóm 2 nhưng lại có tác động tiêu cực

đến XKNS nhóm 1 và nhóm 3. Đồng thời, với những kết quả thu được từ việc tổng

hợp, phân tích, đánh giá với hiện trạng số lượng lô hàng nông sản Việt Nam bị cảnh

báo vi phạm, trả về, các mặt tiêu cực do BPPTQ mang đến cho XKNS Việt Nam cũng

đã được làm sáng rõ. Từ đó, các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực và tiêu

cực của các BPPTQ đối với XKNS sang thị trường EU đã được đánh giá để làm căn

149

cứ để kiến nghị các giải pháp ở Chương 5.

CHƯƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Nền kinh tế thế giới đang chứng kiến rất nhiều biến động phức tạp và khó đoán

định. Những biến động kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu khiến cho các chính sách

phi thuế quan tại tất cả các quốc gia trên thế giới đang được điều chỉnh theo hướng

siết chặt và ngày các tăng cường các biện pháp bảo hộ nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia

và định hình lại trật tự thương mại quốc tế. Các sự kiện như căng thẳng địa chính trị,

đặc biệt là xung đột Nga – Ukraine, cạnh tranh giữa các nước lớn như Mỹ - Trung

Quốc, hay sự trỗi dậy của nhóm BRICS với nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào hệ thống

tài chính phương Tây,… đã thúc đẩy việc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế,

kiểm soát xuất nhập khẩu và tái cấu trúc chuỗi cung ứng nhằm giảm phụ thuộc vào

các đối thủ chiến lược. Bên cạnh chính sách thuế quan đang được các quốc gia sử

dụng như một công cụ trả đũa thương mại, đặc biệt, khi cựu tổng thống Donald Trump

tái đắc cử tổng thống Mỹ với mục tiêu đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại và nước Mỹ là trên

hết sẽ khiến Mỹ đã tăng cường chính sách bảo hộ thông qua việc áp thuế cao hơn đối

với hàng nhập khẩu, siết chặt kiểm soát đầu tư, đồng thời, các chính sách phi thuế

quan, yêu cầu về các tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại,…

nhằm bảo vệ ngành công nghiệp nội địa cũng được sử dụng một cách triệt để.

Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, chiến lược thương mại của EU với mục tiêu

“tự chủ chiến lược mở” hướng tới phát triển bền vững thông qua Thoả thuận xanh

châu Âu tiếp tục được triển khai, qua đó áp đặt các tiêu chuẩn nghiêm ngặt đối với

hàng hóa nhập khẩu, đồng thời đối phó với các chính sách bất định của các quốc gia

khác. Trong khi đó, tình hình Việt Nam vẫn triển khai mục tiêu tăng cường xuất khẩu

để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Việt Nam cần có chiến lược thích ứng linh hoạt để

đối phó với những rào cản thương mại ngày càng gia tăng từ các nền kinh tế lớn.

5.1. Xu hướng chính sách điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan của EU đối

với hàng nông sản nhập khẩu vào EU

Xu hướng của EU trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai sẽ tiếp tục duy

trì việc sử dụng các BPPTQ như một rào cản bảo hộ thương mại cũng như một công

cụ bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng nội địa. Với nhu cầu nội địa tăng cao về an

toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như giải quyết các vấn đề về bảo vệ môi trường, EU

150

trong những năm gần đây đang sử dụng gia tăng các BPPTQ, đặc biệt là các biện

pháp SPS và TBT. Ngoài mục tiêu phi thương mại như bảo vệ người tiêu dùng, bảo

vệ sức khoẻ, tránh những rủi ro liên quan động thực vật, … BPPTQ còn được sử dụng

với mục đích bảo hộ thương mại, đặc biệt là trong nông nghiệp là ngành luôn có

truyền thống được bảo hộ đặc biệt ở tất cả các quốc gia. Xu hướng gia tăng BPPTQ

này sẽ càng được sử dụng triệt để khi mà EU đã và đang triển khai, ký kết nhiều hiệp

định thương mại tự do với nhiều đối tác trên thế giới, trong đó có Việt Nam; hàng rào

thuế quan được EU cắt giảm xuống mức rất thấp, thậm chí là xoá bỏ thì các BPPTQ

sẽ trở thành công cụ quan trọng trong bối cảnh hiện tại và tương lai.

Đối với mặt hàng nông sản, loại hình BPPTQ được dự đoán mà EU sẽ tập

trung sử dụng đó là các biện pháp SPS và TBT; và EU sẽ tập trung vào một vài các

mặt hàng cần kiểm soát về mặt chất lượng hoặc cần bảo hộ thương mại. Trong đó,

nhóm các mặt hàng nông sản sẽ được áp dụng triệt để gồm nhóm 1: các mặt hàng liên

quan động vật (với 321 dòng hàng chịu tác động bởi SPS; 314 dòng hàng chịu tác động

bới TBT); nhóm 2: các mặt hàng liên quan thực vật (334 dòng hàng chịu tác động bởi

SPS; 347 dòng hàng chịu tác động bới TBT) và nhóm 2 các sản phẩm nông sản chế

biến với 193 dòng hàng chịu tác động bởi SPS; 209 dòng hàng chịu tác động bới TBT.

Hiện nay, có một số xu hướng phát triển trong việc điều chỉnh pháp lý của EU

có tác động đến việc sử dụng BPPTQ liên quan đến bảo vệ môi trường và sức khỏe

con người trong thương mại quốc tế, đặc biệt là các chính sách xanh gắn liền nông

sản bền vững. Các thay đổi này có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất, xuất khẩu

nông sản của Việt Nam sang EU.

Thỏa thuận Xanh châu Âu •

Thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal - EGD) là một bộ chính

sách và hành động của EU nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa

carbon vào năm 2050. EGD được thông qua tháng 01/2020 đã đặt ra chiến lược để

EU đạt mức phát thải khí nhà kính bằng không và trở thành một khu vực kinh tế tiết

kiệm tài nguyên vào năm 2050 (VCCI, 2023). Đây là một bộ chính sách tổng thể gồm

nhiều chiến lược cụ thể như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Chiến lược

từ trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork), chiến lược kinh tế tuần hoàn (Circular

Economy Action Plan), và chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030. Mục tiêu của

EGD là giảm 50% việc sử dụng thuốc trừ sâu và tăng diện tích đất nông nghiệp hữu

151

cơ lên 25% vào năm 2030. Điều này sẽ dẫn đến việc cấm một số loại thuốc bảo vệ

thực vật tại EU và giảm dần mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật theo thời gian. Thỏa

thuận này chắc chắn sẽ tác động đến XKNS của Việt Nam, nhất là khi đây là nhóm

sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn vào thị trường EU, nơi có các chính sách xanh

được áp dụng mạnh mẽ.

Hiện tại, EU liên tiếp đưa ra động thái thực thi EDG. Điển hình là quy định

mới về việc thay đổi mức dư lượng tối đa (MRL) đối với một số chất có trong các

sản phẩm nông sản, thực phẩm (trong đó có nhiều sản phẩm xuất khẩu thế mạnh của

Việt Nam); Quy định về các sản phẩm không phá rừng (EUDR) yêu cầu truy xuất

nguồn gốc hàng hóa nhập khẩu vào EU không được nuôi, trồng trên đất phá rừng

hoặc làm suy thoái rừng; Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon quy định về việc trả

phí phát thải căn cứ vào mức độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại

nước xuất khẩu. Danh sách các chính sách xanh liên quan tới hàng nhập khẩu từ bên

ngoài vào EU sẽ còn tiếp tục được bổ sung cùng với tiến trình triển khai các mục tiêu

trong EGD đến năm 2050, đặc biệt là trong giai đoạn từ nay tới 2030. Cụ thể:

Thứ nhất, nổi bật trong số đó là Chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn” (Farm

to Fork - F2F) với các quy định quan trọng về (i) Quy định về sử dụng bền vững các

sản phẩm bảo vệ thực vật (giảm thiểu việc sử dụng thuốc trừ sâu và hạn chế mức dư

lượng trong các sản phẩm rau quả); (ii) Sửa đổi quy định EU về vật liệu tiếp xúc với

thực phẩm (tăng cường tiêu chuẩn môi trường cho thiết kế và vật liệu bao bì rau quả);

(iii) Quy định về sản xuất hữu cơ và ghi nhãn sản phẩm hữu cơ; (iv) Sửa đổi quy định

về thông tin thực phẩm cho người tiêu dùng (sửa đổi phương pháp ghi nhãn, vị trí và

nâng cao thông tin về các thuộc tính sản phẩm xanh để nâng cao nhận thức của người

tiêu dùng); (v) Bộ quy tắc ứng xử của EU về thực hành tiếp thị và kinh doanh thực

phẩm có trách nhiệm. Các quy định mới này trong F2F ảnh hưởng đến việc tăng

cường các quy định về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và yêu cầu kiểm soát chặt chẽ

hơn về an toàn thực phẩm trong các biện pháp SPS; ảnh hưởng đến việc tăng cường

các quy định về bao bì và tiếp thị sản phẩm trong các biện pháp TBT.

Thứ hai, Kế hoạch hành động về kinh tế tuần hoàn (CEAP) với các quy định

quan trọng về i) Quy định về trao quyền cho người tiêu dùng trong thực hiện chuyển

đổi xanh, ii) Chiến lược hóa chất về sự bền vững sẽ yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn

mới về an toàn thực phẩm và môi trường hơn trong các biện pháp SPS; iii) Chỉ thị về

152

tuyên bố xanh; iv) Sửa đổi chỉ thị khung của EU về rác thải cũng sẽ đề xuất các yêu

cầu mới về tiêu chuẩn và ghi nhãn sản phẩm trong các biện pháp TBT.

Thứ ba, chiến lược đa dạng sinh học của EU liên quan đến việc thực hiện các

quy định nhằm chống phá rừng - EU Deforestation regulation (EUDR), cũng là một

phần quan trọng của Thỏa thuận Xanh của EU. Nghị viện châu Âu đã thông qua luật

cấm nhập khẩu hàng nông nghiệp liên quan đến quá trình suy thoái rừng, phác thảo

phạm vi của luật mới, bao gồm các sản phẩm như thịt bò, ca cao, cà phê, lọ dầu, đậu

nành, gỗ (bao gồm các dẫn xuất như da, sô cô la, đồ nội thất), giấy in, cao su và than

có nguồn gốc từ nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Các sản phẩm có nguồn gốc từ các

khu vực có rừng cạn kiệt sau ngày 31 tháng 12 năm 2020, sẽ bị cấm xuất khẩu sang

EU theo các quy định cập nhật. Mục tiêu chính của luật này là hạn chế dòng sản phẩm

liên quan đến phá rừng vào thị trường EU, đồng thời thúc đẩy thương mại các mặt

hàng bền vững và có nguồn gốc hợp pháp. Quy định về chống phá rừng này sẽ yêu

cầu sản phẩm nông sản nhập khẩu phải đảm bảo không liên quan đến phá hoại rừng,

tạo áp lực để cải thiện quy trình sản xuất. Bên cạnh đó, điều này có thể tạo ra các yêu

cầu mới về thông tin sản phẩm và quy tắc kinh doanh nông sản có trách nhiệm.

• Sáng kiến rau quả bền vững (SIFAV): Đây là một sáng kiến quan trọng ở

Châu Âu, với sự tham gia của các nhà bán lẻ, thương hiệu, và thương nhân nổi tiếng,

được giám sát bởi Sáng kiến thương mại bền vững (IDH). Mục tiêu chủ yếu của

SIFAV là đảm bảo tất cả trái cây và rau quả nhập khẩu đều đáp ứng các tiêu chuẩn

bền vững. Chương trình này đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng cho giai đoạn 2020-

2025, bao gồm giảm tác động môi trường, cải thiện thu nhập cho người lao động,

giảm lãng phí thực phẩm và thúc đẩy việc quản lý nguồn nước một cách bền vững.

Đến năm 2020, SIFAV đã hoàn thành mục tiêu đạt được sự bền vững đối với toàn bộ

trái cây và rau quả nhập khẩu từ Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. SIFAV giải quyết

các vấn đề trong chuỗi cung ứng, như thu hút nông dân quy mô nhỏ, đảm bảo các tiêu

chuẩn về an toàn và sức khỏe, đồng thời khuyến khích việc sử dụng nước một cách

hợp lý. Các mục tiêu bền vững của SIFAV, như giảm khí thải carbon và tối ưu hóa

việc sử dụng tài nguyên nước, yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn mới về an toàn thực

phẩm và thông tin sản phẩm.

• Chính sách giảm bao bì nhựa: Phong trào bền vững đặt ra yêu cầu giảm thiểu

việc sử dụng nhựa trong chuỗi cung ứng, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cả nhà

153

bán lẻ và các nhà hoạch định chính sách. Vào năm 2018, EU đã thông qua Chiến lược

Nhựa, cam kết đến năm 2030 sẽ tái chế hoàn toàn bao bì nhựa. Sự ra đời của Hiệp

ước Nhựa Châu Âu vào tháng 3 năm 2020 đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc

thiết lập đối tác công-tư với các mục tiêu cụ thể cho năm 2025, nhằm giám sát và loại

bỏ dần các sản phẩm nhựa dùng một lần. Quá trình giảm thiểu nhựa này sẽ tiếp tục

tác động đến bao bì của các sản phẩm trái cây và rau quả tươi, ví dụ như việc thay

thế vỏ clamshell cho nho và trái cây mềm bằng các thùng chứa kín hoặc các giải pháp

thay thế sáng tạo khác, như bìa cứng. Điều này đồng nghĩa với việc quy trình đóng

gói và ghi nhãn sản phẩm nông sản sẽ cần phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu mới.

Như vậy, những xu hướng trên cho thấy sự tăng cường quan tâm và cam kết

của trong việc đảm bảo thương mại quốc tế đồng hành với bảo vệ môi trường và sức

khỏe con người của EU. Từ đó, có thể thấy, tác động ngắn và dài hạn đến việc ban

hành các BPPTQ gắn liền với nhiều chính sách xanh có ảnh hưởng đến xuất khẩu

nông sản của Việt Nam sang thị trường EU; đặc biệt, các biện pháp SPS và TBT.

Thông qua việc rà soát các văn bản pháp lý, các chính sách và kế hoạch mà

EU đang triển khai thì có thể thấy hệ thống chính sách, kế hoạch mới của EU có thể

ảnh hưởng mạnh mẽ tới XKNS của Việt Nam, thông qua các cách thức chủ yếu:

- Một là, các chính sách, kế hoạch mới này sẽ làm gia tăng các tiêu chuẩn

“xanh, bền vững” đối với nông nhập khẩu vào EU vì EU sẽ EU sẽ ban hành mới, bổ

sung các quy định mới liên quan đến các BPPTQ (SPS, TBT) gắn với mục tiêu xanh

và bền vững như các quy định về thiết kế sinh thái, cách thức ghi/dán nhãn hàng hoá

hữu cơ, hộ chiếu sản phẩm,… Ngoài ra, EU sẽ sửa đổi , điều chỉnh các quy định phi

thuế quan đang có hiệu lực theo hướng tăng cường mức độ, yêu cầu “xanh, bền vững”

như các điều chỉnh liên quan đến tới các định mức tối đa/tối thiểu với một số loại

hoá chất, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hay mở rộng danh mục các loại thuốc bảo

vệ thực vật bị cấm/ hạn chế sử dụng,…

Cụ thể, để triển khai Chiến lược “từ nông trại đến bàn ăn”, EU đã ban hành dự

thảo Quy định về sử dụng bền vững các sản phẩm bảo vệ thực vật. Quy định này bao

gồm các nội dung nhằm hiện thực hoá mục tiêu giảm ít nhất 50% việc sử dụng hoá

chất trừ sâu tại EU vào năm 2030. Mặc dù quy định này chỉ trực tiếp điều chỉnh việc

sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại EU nhưng nó có thể dẫn đến việc EU sẽ ban hành

các quy định để siết chặt mức dư lượng tối đa (MRL) đối với các chất nguy hại trong

nông sản được áp dụng đối với cả nông sản nhập khẩu trong đó có nhiều sản phẩm

154

xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam.

Từ Quy định về sử dụng bền vững các sản phẩm bảo vệ thực vật, trong năm

2023, các nhà làm luật của EU đã tiến hành sửa đổi các Quy định hiện hành để thay

đổi mức dư lượng tối đa (MRL) của các chất có nhiều trong các loại nông sản thực

phẩm thuộc nhóm xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam gồm:

- Quy định EC số 2023/147 (Commission Regulation (EU) 2023/147) ngày

20/01/2023 về việc sửa đổi phụ lục II, III và V của Quy định số 396/2005

về mức MRL đối với Cyromazine, topramezone và triflumizone trong một

số sản phẩm như cà phê, trà, rau quả, các sản phẩm động vật,…

- Quy định EC số 2023/334 ngày 02/02/2023 về việc sửa đổi phụ lục II và

V của Quy định số 396/2005 về mức MRL đối với Cloththianidin và

Thiamethoxam có trong nông sản và các sản phẩm có nguồn gốc từ động

vật. Quy định có hiệu lực từ 07/03/2023;

- Quy định EC số 2023/465 ngày 03/03/2023 về việc sửa đổi Quy định số

1881/2006 về mức MRL của asen trong một số loại thực phẩm như gạo,

nước hoa quả, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em,… . Quy định có hiệu lực

từ 26/03/2023

- Quy định EC số 2023/466 ngày 03/03/2023 về việc sửa đổi phụ lục II, III,

và V của Quy định số 396/2005 về mức MRL đối với các chất isoxaben,

novaluron và tetraconazole có trong một số sản phẩm nông sản, thực phẩm

như cà phê, hạt điều, rau quả, chè, gia vị, ngũ cốc, các sản phẩm từ động

vật , trứng, sữa, mật ong,… Quy định có hiệu lực áp dụng từ 26/09/2023

- Năm 2024, Quy định mới số (EU) 2024/331 sửa đổi Phụ lục II và V Quy

định (EC) số 396/2005 đối với hoạt chất Oxamyl áp dụng đối với một số

nông sản. Theo quy định trước đây EU cho phép ngưỡng MRL Oaxmyl

trên các loại nông sản là 0,01 đến 0,05 mg/kg đối với hầu hết các loại nông

sản có nguồn gốc động và thực vật. Tại quy định mới (EU) 2024/331, EU

sẽ áp dụng mức MRL cho phép mức dư lượng Oxamyl trên các loại nông

sản ở mức rất thấp là 0,001 mg/kg.

Hai là, các chính sách mới sẽ làm gia tăng thủ tục khai báo, thông tin hồ sơ

nhằm chứng minh trách nhiệm xanh, đảm bảo yếu tố “xanh,bền vững” của sản phẩm

nông nghiệp. Cụ thể là yêu cầu cung cấp các giấy tờ, bằng chứng chứng minh các

mặt hàng nông sản không được sản xuất trên đất có được do phá rừng hoặc từ việc

155

làm suy thoái rừng theo quy định về chống phá rừng (EUDR).

5.2. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Liên minh châu Âu

Việt Nam đã đưa ra những chính sách, định hướng cụ thể cho phát triển xuất

nhập khẩu nói chung và XKNS sang các thị trường trong đó có thị trường EU nói

riêng. Các định hướng, chính sách đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp lý của

Nhà nước.

Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/02/2019, Chính phủ đã đặt mục tiêu “nông

nghiệp Việt Nam đứng trong số 15 nước phát triển nhất thế giới, trong đó ngành chế

biến nông sản đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới. Việt Nam trở thành một trung

tâm chế biến sâu của nông nghiệp thế giới, trung tâm logistics nông sản toàn cầu”.

Nghị quyết số 19-NQ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp, nông dân, và nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn

2045 đã nhấn mạnh nhấn mạnh các giải pháp để đẩy mạnh XKNS, đặc biệt sang các

thị trường lớn và tiềm năng như EU, thông qua việc xây dựng chuỗi giá trị nông sản

bền vững; Khuyến khích sản xuất nông sản sạch, hữu cơ và đáp ứng các yêu cầu phát

triển bền vững của các thị trường nhập khẩu như EU.

Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 Ban hành theo Quyết định

số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022. Chiến lược này là định hướng tổng thể về xuất nhập

khẩu của Việt Nam trong thập kỷ tới. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam cần

tận dụng các cơ hội từ các FTA trong đó có EVFTA, để đẩy mạnh XKNS; nâng cao

chất lượng và giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản xuất khẩu, nhằm đáp ứng

tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm và môi trường của EU. Đa dạng hóa các

sản phẩm nông sản và phát triển thị trường mới trong nội khối EU.

Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định EVFTA Ban hành theo Quyết định

số 1201/QĐ-TTg ngày 6/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ nhằm cụ thể hóa việc thực

hiện EVFTA với các định hướng tận dụng các ưu đãi thuế quan từ EVFTA để thúc

đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông sản của Việt Nam sang EU; Nâng cao năng lực

cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực nông sản, thông

qua việc đầu tư vào công nghệ chế biến và phát triển thương hiệu; Phát triển bền

vững, đảm bảo sản phẩm xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn cao của EU về an toàn

thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững.

Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030,

156

tầm nhìn đến năm 2050 Ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022,

chiến lược này tập trung vào việc phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền

vững, trong đó có các định hướng: Phát triển chuỗi giá trị nông sản bền vững nhằm

đáp ứng nhu cầu và tiêu chuẩn của các thị trường quốc tế khó tính như EU; Tăng

cường giá trị gia tăng thông qua chế biến sâu, cải tiến công nghệ và quản lý chất

lượng để nông sản Việt Nam cạnh tranh tốt hơn trên thị trường EU.

Như vậy, thị trường EU luôn được Việt Nam xác định là thị trường trọng điểm,

đối tác quan trọng của Việt Nam, thị trường tiềm năng với nhiều cơ hội cần được khai

thác để XKNS. Trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đến năm

2030, Nhà nước đã đưa ra nhiều định hướng cụ thể nhằm thúc đẩy XKNS, đặc biệt là

sang các thị trường tiềm năng như EU. EU được coi là một trong những thị trường

quan trọng, đầy tiềm năng cho XKNS của Việt Nam, và chiến lược của chính phủ tập

trung vào việc nâng cao giá trị, chất lượng và tính cạnh tranh của các sản phẩm nông

sản. Các định hướng chính bao gồm:

Thứ nhất, tăng cường chất lượng và giá trị gia tăng cho nông sản xuất khẩu:

Chính phủ định hướng các doanh nghiệp nông sản tập trung vào việc nâng cao chất

lượng sản phẩm, đặc biệt là đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực

phẩm và tiêu chuẩn môi trường của EU. Việc áp dụng các quy trình sản xuất nông

nghiệp sạch, hữu cơ và bền vững sẽ được đẩy mạnh. Khuyến khích chế biến sâu để

tăng giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông sản, giảm thiểu xuất khẩu thô. Các mặt

hàng như cà phê, hạt điều, gạo, và các sản phẩm thủy sản cần được đầu tư vào khâu

chế biến để tăng khả năng cạnh tranh và giá trị xuất khẩu.

Thứ hai, phát huy lợi thế từ Hiệp định EVFTA: Chính phủ nhấn mạnh việc tận

dụng tối đa cơ hội từ EVFTA để tăng cường XKNS sang EU. Hiệp định EVFTA đã

giúp giảm đáng kể thuế nhập khẩu cho nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam vào

EU, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hỗ trợ các doanh nghiệp tìm

hiểu về quy định kỹ thuật, quy tắc xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA để đảm bảo rằng

các sản phẩm nông sản xuất khẩu đáp ứng đầy đủ yêu cầu của EU.

Thứ ba, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường trong EU: Chính phủ định hướng

đa dạng hóa các mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU, không chỉ tập trung vào các

sản phẩm truyền thống như cà phê, hạt điều, và gạo, mà còn thúc đẩy xuất khẩu các

sản phẩm trái cây tươi, rau củ quả, các sản phẩm nông sản có giá trị cao và xu hướng

tiêu dùng tăng trưởng tại EU. Bên cạnh đó, việc mở rộng thị trường trong nội khối

157

EU cũng được chú trọng, không chỉ tập trung vào các thị trường lớn như Đức, Pháp,

Ý, Hà Lan,… mà còn phát triển, mở rộng thương mại với các các quốc gia khác trong

khu vực EU.

Thứ tư, xây dựng thương hiệu và quảng bá nông sản Việt Nam: Định hướng

tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia cho các mặt hàng nông sản Việt Nam.

Chính phủ sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thương hiệu, thực hiện

các chiến dịch quảng bá sản phẩm nông sản tại các hội chợ, sự kiện xúc tiến thương

mại tại EU. Trong đó, chỉ dẫn địa lý và chứng nhận chất lượng là yếu tố then chốt

giúp nông sản Việt Nam tạo dựng uy tín tại thị trường EU. Chính phủ sẽ hỗ trợ việc

đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông sản đặc trưng của Việt Nam

như vải thiều Lục Ngạn, cà phê Buôn Ma Thuột.

Thứ năm, định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, áp dụng các quy trình

sản xuất thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị

trường EU về phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội. Khuyến khích chuyển đổi

xanh trong ngành nông nghiệp, từ canh tác, sản xuất đến đóng gói, để các sản phẩm

nông sản xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường và yêu cầu

phát triển bền vững của EU.

Như vậy, chiến lược của Việt Nam hướng tới việc đẩy mạnh XKNS có chất

lượng cao và giá trị gia tăng, đồng thời tận dụng lợi thế từ hiệp định EVFTA để mở

rộng thị phần và tăng tính cạnh tranh trên thị trường EU. Các định hướng được cụ thể

hoá trong các văn bản pháp lý đã thể hiện rõ sự cam kết của Việt Nam trong việc thúc

đẩy XKNS sang EU, thông qua các chiến lược cụ thể như phát triển bền vững, nâng

cao chất lượng sản phẩm, và tận dụng các cơ hội từ EVFTA. Những chính sách này

đặt mục tiêu giúp Việt Nam xây dựng được thương hiệu nông sản uy tín và bền vững

trên thị trường quốc tế.

5.3. Kiến nghị các giải pháp

Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu về tác động tích cực và tiêu cực cũng như

những nguyên nhân dẫn đến các tác động đã phân tích, đánh giá ở các chương 4; đồng

thời, căn cứ vào xu hướng chính sách của EU về các quy định BPPTQ và định hướng

phát triển XKNS của Việt Nam sang EU, nghiên cứu đưa ra các kiến nghị giải pháp

đến Nhà nước, Hiệp hội nông sản Việt Nam và các doanh nghiệp XKNS.

5.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước

Thứ nhất, tại mục 4.5 đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến các tác động tích cực

158

của các BPPTQ đến XKNS sang EU trong đó là sự đóng góp quan trọng từ phía Nhà

nước trong việc chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật và các hoạt động hỗ trợ chính

sách từ các cơ quan, ban ngành liên quan. Trong thời gian tới, để giúp nông sản đáp

ứng được các quy định BPPTQ và thúc đẩy XKNS sang EU, cần tiếp tục phát huy

các hoạt động động này. Cụ thể:

Trong bối cảnh EU liên tục ban hành các chính sách mới liên quan đến các

BPPTQ áp dụng đối với nông sản, Chính phủ cần tiếp tục thường xuyên theo dõi sát

sao các chính sách phi thuế quan thay đổi, cho ý kiến đối với các dự thảo thay đổi của

EU gửi đến các văn phòng SPS và TBT để đảm bảo các thay đổi chính sách của EU

là đúng quy định, phù hợp, mang tính khoa học,…

Trên cơ sở đó, các cơ quan Nhà nước rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định

về các BPPTQ, đặc biệt là các biện pháp SPS và TBT đối với hàng nông sản xuất

khẩu sao cho phù hợp với các quy định chung của quốc tế, và của EU đã ban hành;

giúp cho hệ thống quy định của Việt Nam ngày càng được hài hòa hoá với các quy

định quốc tế và quy định của các thị trường nhập khẩu.

Thứ hai, Nhà nước cần phải thực hiện việc hài hoá hoá các quy định trong

nước với các quy định quốc tế và EU. Nhà nước ban hành các chính sách triển khai

áp dụng các hệ thống quản lý môi trường của quốc tế như ISO 14.000, HACCP, thực

hiện sản xuất tốt (GMP), thực tiễn nuôi trồng tốt (GAP). Nhà nước nên tập trung hoàn

thiện, đầu tư cho hệ thống phòng thí nghiệm, đánh giá, kiểm định có chất lượng tốt,

đạt được mức tin cậy cao, từ đó tiến hành đàm phán với EU sớm để có các thỏa thuận

về sự công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn và ủy quyền cho nhau trong việc kiểm tra

chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm... giảm thiểu chi phí, thời gian cho

các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu sang EU.

Thứ ba, để giải quyết tác động tiêu cực từ các doanh nghiệp vi phạm các

BPPTQ, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và uy tín của nông sản Việt Nam trên

thị trường quốc tế, cần phải điều chỉnh và bổ sung các văn bản pháp lý liên quan đến

BPPTQ. Nhà nước cần xem xét việc sửa đổi các quy định về trách nhiệm xử phạt đối

với các doanh nghiệp vi phạm, bao gồm trách nhiệm dân sự và hình sự tùy vào mức

độ nghiêm trọng của vi phạm. Các quy định này cần làm rõ và nhấn mạnh trách nhiệm

của các doanh nghiệp trong việc tuân thủ các nguyên tắc về sản xuất, quản lý và xuất

khẩu nông sản, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về BPPTQ. Điều này sẽ thúc

đẩy các doanh nghiệp nâng cao ý thức, tuân thủ các tiêu chuẩn và giảm thiểu vi phạm.

Thứ tư, dựa trên xu hướng biến động chính sách các BPPTQ của EU dẫn đến

159

sự đáp ứng không kịp thời của doanh nghiệp thì Nhà nước cần triển khai tổ chức kênh

thông tin chính xác và kịp thời để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt các

quy định chính sách phi thuế quan của EU đối với nông sản nhập khẩu, nhất là trong

bối cảnh EU đang theo xu hướng thắt chặt các quy định liên quan các BPPTQ.

Từ các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại các nước EU đến các Bộ,

ngành trong nước liên quan trong nước cần thu thập và cung cấp thông tin chính

sách thương mại, tình hình thị trường, hệ thống các BPPTQ và những thay đổi cho

các doanh nghiệp xuất nông sản. Thiết lập kênh và duy trì thông tin giữa doanh

nghiệp, hiệp hội và các cơ quan hữu quan hiệu quả, thông suốt, thường xuyên tổ chức

gặp gỡ để nắm bắt tình hình thị trường EU.

Đặc biệt là các cơ quan như văn phòng SPS và TBT Việt Nam là nơi tiếp

nhận thông tin thay đổi quy định từ các quốc gia thành viên WTO trong đó có EU.

Các văn phòng này cần đầu tư vào nguồn nhân lực, kinh phí để nâng cao năng lực

thu thập, xử lý thông tin, thường xuyên đưa ra những khuyến cáo kịp thời đến với

Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp XKNS.

Ngay khi dự đoán được xu hướng hoặc các dự thảo mới của EU được ban hành

thì Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Phòng Công nghiệp và Thương

mại (VCCI) tổ chức tốt kênh thông tin như thông qua tổ chức các hội nghị, hội thảo,…

để phổ biến, hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của các doanh nghiệp về các quy định mới.

Thứ năm, để giải quyết vấn đề hỗ trợ nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp XKNS của Việt Nam, đáp ứng được các yêu cầu của thị trường EU, Nhà

nước cần triển khai chính sách hỗ trợ đầu tư vào khoa học công nghệ và đổi mới quy

trình sản xuất. Cụ thể, cần thu hút chuyển giao công nghệ nước ngoài, đặc biệt trong

lĩnh vực thiết bị chế biến và bảo quản nông sản xuất khẩu, đồng thời hỗ trợ tài chính

và nhân lực cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương

mại, đăng ký thương hiệu nông sản Việt Nam tại các thị trường quốc tế, tập trung vào

nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ khách

hàng, nhằm giảm thiểu rủi ro do BPPTQ và tăng sức cạnh tranh của nông sản Việt

Nam trên thị trường EU và các thị trường khác trên thế giới.

5.3.2. Giải pháp về phía Hiệp hội nông sản Việt Nam

Thứ nhất, để khắc phục tình trạng kim ngạch hàng nông sản bị sụt giảm do vi

phạm các BPPTQ, các hiệp hội ngành nông sản cần đóng vai trò chủ động trong việc

160

cập nhật và phổ biến kịp thời các quy định mới về SPS và TBT từ EU thông qua việc

tổ chức hội thảo định kỳ, xây dựng cổng thông tin điện tử để cung cấp hướng dẫn chi

tiết về các quy định kiểm dịch, mức dư lượng tối đa (MRL) đối với từng loại sản

phẩm. Ngoài ra, đề xuất Hiệp hội phối hợp cùng các chuyên gia giỏi trong và ngoài

nước của ngành hàng nghiên cứu, biên soạn và phát hành các ấn phẩm, cẩm nang thị

trường chi tiết, cụ thể, dễ hiểu, có tính định hướng cho các doanh nghiệp dựa trên

thực tiễn các chính sách phi thuế quan được EU ban hành.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị

trường thay thế là một trong những giải pháp quan trọng. Theo báo cáo của Vinafruit

(2023), sau khi tham gia hội chợ Fruit Logistica tại Đức, kim ngạch xuất khẩu vải

thiều sang châu Âu đã tăng 30% do doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận trực tiếp với đối

tác nhập khẩu. Điều này cho thấy hiệp hội cần tích cực hợp tác với Bộ Công Thương

để mở rộng mạng lưới thị trường, giúp doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất

khẩu, tránh phụ thuộc vào một khu vực nhất định.

Thứ hai, để giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh trên trên thị trường,

hiệp hội ngành nông sản có thể hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân trong quá trình

chuyển đổi mô hình sản xuất bằng cách tổ chức các khóa tập huấn kỹ thuật, hợp tác

với các tổ chức quốc tế như FAO, GIZ để xây dựng mô hình canh tác bền vững. Ngoài

ra, để nâng cao giá trị thương hiệu, các hiệp hội có thể thúc đẩy việc đăng ký bảo hộ

chỉ dẫn địa lý (GI) cho các mặt hàng nông sản đặc sản.

Thứ ba, để giảm thiểu rủi ro hàng hóa bị trả về gây thiệt hại kinh tế lớn, các

hiệp hội ngành nông sản cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm về vi phạm SPS,

TBT, theo dõi danh sách các sản phẩm bị cảnh báo trên hệ thống RASFF và thông

báo nhanh cho doanh nghiệp. Việc thiết lập cơ sở dữ liệu về các vi phạm trước đây

cũng giúp doanh nghiệp chủ động phòng tránh sai sót. Ngoài ra, hiệp hội có thể liên

kết với các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế để cung cấp dịch vụ kiểm nghiệm

nhanh với chi phí thấp hơn, giúp doanh nghiệp đảm bảo chất lượng sản phẩm trước

khi xuất khẩu.

Thứ tư, một trong những hậu quả nghiêm trọng của việc hàng hóa bị trả về là

ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường

EU. Theo báo cáo của EuroCham Vietnam (2023), người tiêu dùng châu Âu ngày

càng quan tâm đến tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc của sản phẩm nhập khẩu.

161

Do đó, các hiệp hội cần phối hợp với doanh nghiệp để triển khai hệ thống truy xuất

nguồn gốc, sử dụng mã QR trên bao bì sản phẩm, giúp người tiêu dùng kiểm tra thông

tin về nguồn gốc và quy trình sản xuất.

Thứ năm, một trong những rào cản lớn đối với XKNS sang EU là quy trình

kiểm dịch và chứng nhận an toàn thực phẩm phức tạp. Các hiệp hội ngành nông sản

có thể hỗ trợ doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu bằng cách xây dựng cổng thông tin

điện tử cung cấp hướng dẫn chi tiết, hỗ trợ tư vấn miễn phí hoặc giảm phí đối với

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình xin giấy chứng nhận kiểm dịch. Đồng thời,

hiệp hội cần đề xuất với Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, số hóa

quy trình cấp phép để giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp.

Thứ sáu, để hỗ trợ nông dân, các hiệp hội có thể thúc đẩy liên kết giữa nông

dân và doanh nghiệp xuất khẩu thông qua mô hình hợp tác bền vững. Việc ký kết hợp

đồng bao tiêu sản phẩm với mức giá ổn định sẽ giúp nông dân tránh được rủi ro về

giá cả. Ngoài ra, các hiệp hội có thể tổ chức các chương trình đào tạo kỹ thuật sản

xuất hữu cơ, giúp nông dân giảm chi phí đầu vào và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu

sang EU.

Ngoài ra, Hiệp hội cần tiếp tục nâng cao vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp

và Nhà nước thông qua việc cần thường xuyên trao đổi với các doanh nghiệp để nắm

bắt các thông tin thực tiễn về tình hình XKNS, đồng thời xử lý kịp thời các phức tạp

phát sinh. Hiệp hội cần tạo dựng và duy trì tốt các mối quan hệ với các cơ quan ban

ngành liên quan SPS và TBT để nắm bắt kịp thời các thông tin khuyến cáo, cảnh cáo

từ EU để từ đó kịp thời xây dựng và ban hành các kế hoạch, cách xử lý tới các doanh

nghiệp hội viên.

Hiệp hội XKNS Việt Nam cần chủ động phối hợp tốt hơn với Hiệp hội các

nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp đặt các BPPTQ của các nước nhập

khẩu, tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu các mặt hàng

nông sản. Chỉ có như vậy mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng

nông sản Việt Nam trên thị trường EU và các thị trường khác.

Bên cạnh đó, nhân danh Hiệp hội để bảo vệ các doanh nghiệp thành viên khi

xảy ra kiện tụng, cần nắm bắt nhanh chóng và kịp thời các thông tin về từng thị

trường, dự báo, phản ứng nhanh với những diễn biến, đóng vai trò đại diện cho doanh

162

nghiệp tham gia và theo đuổi vụ kiện cùng với các cơ quan Nhà nước có liên quan.

5.3.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp

Nhà nước, các bộ ban ngành hay các hiệp hội với vai trò định hướng, ban hành

chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp, còn doanh nghiệp xuất khẩu là chủ thể trực tiếp

thi hành và tham gia vào hoạt động XKNS sang EU, do đó, đề xuất các giải pháp đối

với nhóm chủ thể này là đặc biệt quan trọng.

Thứ nhất, để đáp ứng được các quy định về các BPPTQ, đặc biệt trong bối

cảnh EU liên tục thay đổi các chính sách thì các doanh nghiệp cần chủ động trong

việc tìm hiểu kỹ, cập nhật về các BPPTQ mà EU áp dụng, sửa đổi, bổ sung để thay

80

70,87

70

62,99

57,48

60

50,39

50,39

50

45,67

41,73

38,58

40

31,5

30

20,47

20

8,66

7,87

10

5,51

3,94

3,94

0

Thỏa thuận Xanh EU

Thuế carbon tại biên giới

Quy định về Chống phá rừng

Chiến lược “Từ Nông trại tới Bàn ăn

Chiến lược “Dệt may bền vững và tuần hoàn

Chưa từng nghe

Đã từng nghe, chưa tìm hiểu kĩ

Đã tìm hiểu, biết rõ

đổi, đáp ứng theo các quy định mới.

Hình 5.1. Hiểu biết của doanh nghiệp Việt Nam về chính sách mới của EU (%)

Nguồn: Số liệu khảo sát của VCCI (2023)

Hình 5.1 cho thấy thực trạng hiểu biết về các chính sách mới mà có thể tác

động đến việc thay đổi các quy định liên quan các BPPTQ của doanh nghiệp Việt

Nam do VCCI thực hiện khảo sát. Phần lớn doanh nghiệp chỉ dừng lại ở mức "đã

từng nghe nhưng chưa tìm hiểu kỹ", từ 50% đến trên 70%, trong khi tỷ lệ doanh

nghiệp "đã tìm hiểu, biết rõ" về các chính sách này chiếm tỷ lệ rất thấp, số lượng

doanh nghiệp chưa từng nghe cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, đáng báo động.

Trong khi đó, các chính sách này có thể tác động mạnh đến hoạt động XKNS sang

EU. Điều này phản ánh thực trạng doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đầy

đủ để thích ứng với các yêu cầu mới từ EU, không kịp thời nắm bắt và thích ứng, có

thể đối mặt với rủi ro về chi phí gia tăng, rào cản kỹ thuật, tiềm ẩn nguy cơ bị hạn

163

chế tiếp cận thị trường do thiếu thông tin và chiến lược ứng phó phù hợp.

Do đó, việc chủ động tìm hiểu về các quy định của thị trường EU là một trong

những yếu tố quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp trong việc tiếp cận và

thâm nhập được vào thị trường EU. Việc tìm hiểu có thể thông qua các kênh của các

hiệp hội và cơ quan Nhà nước; bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể thuê các tổ chức

hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực luật chuyên nghiệp để được hướng dẫn về

hoạt động kinh doanh tại EU, hoặc lập một phòng ban riêng về việc tư vấn pháp luật,

hỗ trợ cho những vướng mắc của mình khi XKNS sang EU để đảm bảo không bị bỏ

lỡ các thông tin về thay đổi chính sách của EU.

Thứ hai, để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa

vào quá trình sản xuất, đầu tư, cải tiến công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.

EU là thị trường tiềm năng nhưng cũng rất khó tính, yêu cầu khắt khe về chất

lượng, an toàn vệ sinh, các tiêu chuẩn kỹ thuật nên để đáp ứng các BPPTQ của EU,

đặc biệt là hai biện pháp SPS và TBT, các doanh nghiệp cần chủ động lên kế hoạch

và triển khai các biện pháp nhằm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng nông sản

theo tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP, ISO, GMP, HACCP,... đây là những chứng nhận

như các giấy thông hành cho các doanh nghiệp XKNS vào thị trường EU. Điều này

đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư cả về chiều sâu và chiều rộng, đảm bảo kiểm soát

chặt chẽ chất lượng sản phẩm và toàn bộ quy trình sản xuất, chứ không chỉ ở chặng

cuối mới có thể vượt qua thách thức về các biện pháp SPS, TBT. Do các tiêu chuẩn

này cao hơn Việt Nam và ở các thị trường khác, doanh nghiệp đầu tư từ đầu sẽ gặp khó

khan trong tài chính nhưng về chiến lược dài hạn thì sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu

sang EU bền vững; đồng thời, khi đã tiếp cận được thị trường EU thì việc đa dạng hóa

sang các thị trường khác sẽ thuận lợi hơn.

Thứ ba, vấn đề về dư lượng các chất trong nông sản cũng cần được quan tâm

vì số lô hàng bị cảnh báo và trả về của Việt Nam do EU thông báo và trả về còn cao.

Do đó, các doanh nghiệp cần đặt ra những tiêu chuẩn dư lượng hóa chất tối đa được

phép sử dụng ngày từ khi bắt đầu nuôi trồng. Sau mỗi giai đoạn chế biến cũng cần

xem xét, kiểm tra về chất lượng vệ sinh để có thể khắc phục các sai sót ngay từ đầu.

Đối với hàng nông sản, cần đảm bảo vệ sinh môi trường chế biến, do vậy, doanh

nghiệp cũng nên thiết lập các tổ kiểm tra công tác vệ sinh trong xưởng sản xuất để

đảm bảo an toàn vệ sinh.

Hiện nay, nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật vẫn được sử dụng phổ biến tại Việt

Nam dù chưa được EU phê duyệt hoặc đã bị loại khỏi danh mục cho phép, như

Hexaconazole, Mancozeb, Propineb, Zineb, Chlorfenapyr... Để đáp ứng các tiêu

164

chuẩn của EU, doanh nghiệp cần giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và

đặc biệt tránh các hoạt chất không nằm trong danh mục được EU chấp thuận. Nếu bắt

buộc phải sử dụng, cần lựa chọn các loại thuốc đã được EU cấp phép và tuân thủ đầy

đủ quy định trong nước. Ngoài ra, EU cũng đang thúc đẩy việc sử dụng thuốc bảo vệ

thực vật sinh học thông qua chính sách miễn yêu cầu về MRL đối với thuốc vi sinh.

Do đó, việc ưu tiên các chế phẩm vi sinh trong quản lý dịch hại sẽ giúp doanh nghiệp

đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm khi xuất khẩu sang thị trường EU.

Thứ tư, để sản phẩm đạt tiêu chuẩn, chất lượng, các doanh ng nghiệp cần chú

trọng tìm kiếm và lựa chọn các nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và đạt tiêu chuẩn.

Đây là một trong các giải pháp giải quyết vấn đề ổn định chất lượng dài hạn

nhằm đáp ứng các BPPTQ của EU. Các doanh nghiệp có thể chủ động phát triển vùng

nguyên liệu. Trong đó, vấn đề để xây dựng vùng nguyên liệu sạch, an toàn, doanh

nghiệp cần tích cực phối hợp với người nông dân, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá

hợp lý, yêu cầu người nông dân sản xuất sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường

theo các quy định. Doanh nghiệp nên hỗ trợ người dân về hạt giống và kỹ thuật trồng

trọt, khuyến khích sử dụng các phương pháp mới và công nghệ mới nhất, thường

xuyên theo dõi, hướng dẫn nông dân. Đối với các nhà cung cấp nguyên liệu cần tạo

nguồn nguyên liệu tốt, ổn định, chất lượng cao... bởi thiếu nguyên liệu tốt đồng nghĩa

với thiếu sản phẩm tốt, khiến sản phẩm của doanh nghiệp bị từ chối.

Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên tìm hiểu các giống mới có năng

suất, hiệu quả cao, đặc biệt là giống kháng bệnh tốt. Duy trì điều kiện nhà xưởng,

trang thiết bị, nhân sự, vật tư, nguyên liệu đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ngăn

ngừa các mối nguy về an toàn vệ sinh trong nhà máy cũng như từ các nhà cung cấp

nguyên liệu.

Thứ năm, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần

đông ở Việt Nam hiện nay cần mở rộng và tăng cường liên kết với các doanh nghiệp

lớn có năng lực, kinh nghiệm xuất khẩu tốt, có khả năng sử dụng, ứng dụng khoa học

kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ giúp các doanh

nghiệp vừa và nhỏ sớm thâm nhập được vào thị trường EU. Việc này giúp tăng năng

165

lực cạnh tranh của hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường EU.

Tiểu kết chương 5

Chương 5 của luận án đã đánh giá xu hướng áp dụng BPPTQ của EU trong giai

đoạn tới sẽ là tiếp tục tăng cường ban hành các quy định về các BPPTQ đối với hàng

nông sản nhập khẩu, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, EU đang tích cực triển khai

các hành động nhằm đạt được các mục tiêu trong Thoả thuận xanh châu Âu. Do đó,

các quy định cụ thể hoá các chiến lược như Cơ chế điều chỉnh biên giới

carbon (CBAM); Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn; Kế hoạch Hành động kinh tế

tuần hoàn hay Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030 có tác động mạnh mẽ đến

việc định hình các chính sách phi thuế quan mới của EU. Đồng thời, dựa trên các kết

quả nghiên cứu của chương 4, xu hướng chính sách của EU và định hướng phát triển

XKNS sang EU của Việt Nam, các kiến nghị giải pháp đã được đưa ra nhằm phát

huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của các BPPTQ đối với

XKNS Việt Nam sang EU. Các đề xuất giải pháp được đưa ra với các chủ thể như

166

Nhà nước, các Hiệp hội và doanh nghiệp XKNS sang EU.

KẾT LUẬN

Chính sách phi thuế quan của EU áp dụng đối với nông sản xuất khẩu của Việt

Nam đã và đang có nhiều biến đổi và tạo ra những tác động nhất định đến XKNS

Việt Nam sang thị trường EU. Trong giai đoạn từ 2012 – 2023, với những nỗ lực đáp

ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu, sự hỗ trợ từ Nhà nước và các Hiệp hội, XKNS

Việt Nam sang EU đã đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là sau khi EVFTA

có hiệu lực. Kim ngạch XKNS sang EU đã tăng đến 35%, từ khoảng 1,9 tỷ USD năm

2012 lên hơn 2,6 tỷ USD năm 2023. Nghiên cứu đã cho thấy tác động đảo chiều từ

tiêu cực sang tích cực của các BPPTQ đối với XKNS là có thể xảy ra, mặc dù mức

độ tác động còn chưa đáng kể nhưng điều đó cho thấy rằng trong dài hạn, khi các

doanh nghiệp qua một quá trình dài, triển khai, thích ứng và đáp ứng các BPPTQ

(SPS và TBT) của EU, thì có giúp thúc đẩy XKNS bền vững Việt Nam sang EU. Cơ

chế tác động tích cực sẽ được chứng minh trong dài hạn, nhờ việc nâng cao chất

lượng, đáp ứng tiêu chuẩn, giúp tạo dựng lòng tin cho người tiêu dùng và uy tín của

sản phẩm nông sản Việt Nam trong thị trường EU. Tuy nhiên, cũng không thể phủ

nhận rằng, các BPPTQ vẫn gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp XKNS thông

qua các con số thực tiễn liên quan các lô hàng nông sản Việt Nam bị EU cảnh báo và

trả về, mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nông sản xuất khẩu nhưng đã gây tổn

thất về kinh tế, uy tín thương hiệu, giảm năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt

Nam. Do đó, Nhà nước, Hiệp hội cùng các doanh nghiệp cần tiếp tục triển khai các

biện pháp đồng bộ, để các doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia vào thương mại

nông sản với thị trường EU, đáp ứng được ngày càng tốt các yêu cầu kĩ thuật và chất

lượng của thị trường đối tác; từ đó, tạo đà thúc đẩy xuất khẩu bền vững sang thị

trường EU nói riêng và các thị trường đối tác trên thế giới nói chung.

Trong khuôn khổ giới hạn, bài nghiên cứu đã giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ

chính của luận án đã đề ra. Tuy nhiên, luận án không thể tránh khỏi những hạn chế

nhất định. Đối với phần đánh giá mức độ áp dụng các BPPTQ của EU mới chỉ tính

toán đánh giá dựa trên số liệu 01 năm, đánh giá tác động thông qua mô hình lực hấp

dẫn với các biến là số đếm; có thể xem xét nghiên cứu, đánh giá thông qua các biến

BPPTQ là các chỉ số áp dụng được tính toán cho từng năm quan sát; ngoài ra, các

nghiên cứu về đánh giá tác động bằng phương áp ước lượng tương đương thuế quan

167

giá trị của các BPPTQ cũng có thể triển khai để đánh giá toàn diện, cụ thể hơn nữa

các tác động của các BPPTQ đến XKNS. Trong phạm vi của luận án này, với những

hạn chế về thời gian và nguồn lực, nghiên cứu sinh chưa thể thực hiện được được hết

các phương pháp; nghiên cứu sinh sẽ cố gắng tiếp tục triển khai ở các nghiên cứu sau.

Hơn nữa, với xu hướng xanh hoá các chính sách phi thuế quan hiện nay của EU, cũng

như những biến động phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới hiện nay sẽ

khiến cho tất cả các quốc gia sẽ định hình lại các quy định và cách thức áp dụng các

BPPTQ đối với các mặt hàng nói chung và nông sản nói riêng trong việc tham gia

thương mại quốc tế. Do đó, các vấn đề liên quan đến nhóm công cụ chính sách thương

mại phi thuế quan như vấn đề các chính sách phi thuế quan được định hình lại theo

hướng xanh và bền vững sẽ tác động như thế nào tới xuất nhập khẩu; các nhóm

BPPTQ nào sẽ được các quốc gia ưu tiên áp dụng,… sẽ cần tiếp tục được theo dõi,

168

nghiên cứu và đánh giá trong thời gian tới./.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Mai Thi Thanh Mai (2024), The Dissemination Of European Union’s Non-Tariff

Measures For Imported Agri - Food Products And Implications For Vietnam, Selected

Papers from The Vietnam-EU Economic and Trade Forum 2023 in "Economic and

Political Aspects of EU - Asian Relations", Springer Nature Singapore, ISBN: 978-

981-99-8944-7, Aug 18, 2024.

2. Mai Thi Thanh Mai (2023), The relationship between non - tariff measures and

sustainable development goals, Proceeding of the 11th International Conference on

International Economic Cooperation and Integration: "Evolving global value chain

participation into digital transformation and sustainable development", Vietnam

National University Press, Hanoi, ISBN: 978-604-369-860-2, p366-385, 11/2023,

Hanoi.

3. Mai Thi Thanh Mai, Nguyen Duc Bao, Nguyen Thi Nguyet Nuong, Trinh Thu

Thao, Truong T. Tu Anh, Nguyen T. Anh, Nguyen T. Dao (2023), Challenges from

European Union’s non-tariff measures on Vietnamese agri-food export, Proceeding of

the 9th International Conference for Young Researchers in Economics and Business

on: "Sustainable Economic Growth - Business Ecosystem Orientation through

Technology and Innovation", Vol.3, ISBN-978-604-346-251-7.

4. Mai, M. T. T. (2023), The Dissemination of Non-Tariff Measures in ASEAN and

Some Implications, VNU Journal of Economics and Business, Vol 3, No 4, p54-64.

https://doi.org/10.57110/vnujeb.v3i4.213.

5. Mai Thi Thanh Mai (2022), Exporting agricultural products to Korea in the

context of implementing the free trade agreements, Proceeding International

Conference on International Economic Cooperation and Integration: "International

Economic Integration: A Journey to the new - generation FTAs", VNU Publishing

House, ISBN: 978-604-9990-64-9, p224-247, 11/2022, Hanoi.

6. Mai Thị Thanh Mai (2022), Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Liên minh châu

Âu: Thực trạng, cơ hội và thách thức, Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số

613, tháng 6/2022, Tr.7-9.

7. Mai Thi Thanh Mai (accepted 2024), Greening non-tariff policies of the

European Union: Case study of Vietnamese coffee exports, Proceeding of the 12th

International Conference on International Economic Cooperation and Integration:

"Green policies and practices: Catalyst or pressure for trade and investment", Vietnam

National University Press, Hanoi, ISBN: 978-604-43-3727-2, Hanoi.

169

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Công Thương (2021), EVFTA với thương mại Việt Nam - ngành: Nông

sản , Quý IV/2021, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.

2. Đoàn Ngọc Thắng, Lê Thị An (2019), Tác động của các biện pháp phi thuế

quan tới xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 269 tháng 11/2019.

3. Hoàng Thị Thu Hiền, Nguyễn Tuấn Sơn, Chu Thị Kim Loan (2014). Rào cản

kỹ thuật của Mỹ đối với tôm và cá da trơn xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí Khoa

học và Phát triển 2014, tập 12, số 6: 869-876

4. Lê Thị Việt Nga, Doãn Nguyên Minh, Bùi Thị Thu (2021), Tác động của các

biện pháp kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị

trường EU, Tạp chí khoa học thương mại, số 153, tr. 3-10.

5. Nguyễn Anh Thu (2020). Xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thách thức từ các

biện pháp phi thuế quan, Bản tin SPS Việt Nam, số 1, tháng 9/2020, p24-27

6. Nguyễn Anh Thu, Nguyễn Thị Minh Phương (2015), các quy định về vệ sinh

dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) doanh nghiệp việt nam thường gặp khi xuất

khẩu sang thị trường Nhật Bản, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 75, T9/2015, p34-45.

7. Nguyễn Bích Ngọc (2020). Nghiên cứu tác động biện pháp phi thuế quan của

Việt Nam đối với hàng nông sản nhập khẩu, Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế, Trường

Đại học Kinh tế Quốc dân.

8. Nguyễn Bích Thủy (2020), Rào cản phi thuế quan đối với xuất khẩu hàng hóa

của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản;

9. Nguyễn Thị Thu Hiền (2022), Tác động của các biện pháp phi thuế quan đến

xuất khẩu cà phê của Việt Nam, Tạp chí Khoa học thương mại, Số 164, tr. 3-14.

10. Thuong, N. T. T. (2018). The effect of Sanitary and Phytosanitary measures

on Vietnam’s rice exports. EconomiA, 19(2), 251-265.

11. Văn phòng SPS Việt Nam (2022), EU sửa đổi Quy định về các biện pháp kiểm

soát thực phẩm nhập khẩu, truy cập ngày 25/3/2023 từ

http://www.spsvietnam.gov.vn/eu-sua-doi-quy-dinh-eu-20191793-ve-viec-tang-

tam-thoi-cac-bien-phap-kiem-soat-chinh-thuc-va-khan-cap-quan-ly-viec-dua-mot-

so-hang-hoa-nhat-dinh-tu-mot-so-nuoc-thu-ba-vao-eu

170

12. VCCI (2019), Hoa quả Việt Nam vượt qua các rào cản của thị trường EU để

tận dụng cơ hội từ EVFTA, truy cập từ https://trungtamwto.vn/chuyen-de/17729-

evfta-va-nganh-rau-qua-viet-nam-cac-bien-phap-sps-chinh-ma-eu-ap-dung-doi-voi-

mat-hang-trai-cay-tiem-nang-cua-viet-nam

13. VCCI (2023), Thoả thuận xanh châu Âu và xuất khẩu của Việt Nam: Trường

hợp của ngành Nông sản, Thực phẩm và Dệt may, Nhà xuất bản Công thương, Hà

Nội.

14. Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Bộ Công Thương và Trung tâm Thông tin

Thương mại và Công nghiệp (2020), Chuyên san Thương mại Việt Nam – EU Quý

IV năm 2020.

Tiếng Anh

15. Aitken, N. D. (1973). The effect of the EEC and EFTA on European trade: A

temporal cross-section analysis. The American Economic Review, 63(5), 881-892.

16. Alan V. Deardorff, Robert M. Stern. (1997). Measurement of Non-Tariff

Barriers (OECD Economics Department Working Papers No. 179; OECD Economics

Department Working Papers.

17. Anders, S. M., & Caswell, J. A. (2009). Standards as barriers versus standards

as catalysts: Assessing the impact of HACCP implementation on US seafood

imports. American Journal of Agricultural Economics, 91(2), 310-321.

18. Anderson J., Wincoop E.V., (2003). “Gravity with Gravitas: A Solution to the

Border Puzzle" American Economic Review, 93 (1): 170-192.

19. Anderson, J. E. (1979). A theoretical foundation for the gravity equation. The

American economic review, 69(1), 106-116.

20. Andriamananjara (2004), The Effects of Non-Tariff Measures on Prices,

Trade, and Welfare: CGE Implementation of Policy-Based Price Comparisons , U.S.

International Trade Commission Washington, DC 20436 USA.

21. APEC. (2014). Perceptions on the Use of Non-Tariff Measures Within the

APEC Region.

22. Baldwin R, (1970). Non-tariff Distortion in International Trade, Brookings

Institution, Washington D.C.

23. Baldwin, R. & Evenett, J., (2020). COVID-19 and Trade Policy, Why Turning

Inward Won’t Work.

171

24. Bao, X., & Qiu, L. D. (2010). Do Technical Barriers to Trade Promote or

Restrict Trade? Evidence from China. Asia-Pacific Journal of Accounting &

Economics, 17(3), 253–278. https://doi.org/10.1080/16081625.2010.9720865

25. Beghin, J., Disdier A.C, Marette s., Van Tongeren F., (2012). “Welfare costs

and benefits of NTMs in Trade: a conceptual framework and application, World

Trade Review, Volume 11 , Issue 3: Symposium Issue: Standards and Non-Tariff

Barriers in Trade , July 2012 , pp. 356 – 375

26. Beghin, J., Disdier, A. C., Marette, S., & Van Tongeren, F. (2012). Welfare

costs and benefits of non-tariff measures in trade: a conceptual framework and

application. World Trade Review, 11(3), 356-375.

27. Boisso, D., & Ferrantino, M. (1997). Economic distance, cultural distance, and

openness in international trade: Empirical puzzles. Journal of Economic integration,

456-484.

28. Bratt, M. (2017). Estimating the bilateral impact of nontariff measures on

trade. Review of International Economics, 25(5), 1105-1129.

29. Cadot, O., Gourdon, J., & Van Tongeren, F. (2018). Estimating Ad Valorem

Equivalents of Non-Tariff Measures: Combining Price-Based and Quantity-Based

Approaches (OECD Trade Policy Papers No. 215; OECD Trade Policy Papers, Vol.

215). https://doi.org/10.1787/f3cd5bdc-en

30. Cadot, O., J. Gourdon and F. van Tongeren. (2018), Estimating Ad Valorem

Equivalents of Non-Tariff Measures: Combining Price-Based and Quantity-Based

Approaches, OECD Trade Policy Papers, No. 215, OECD Publishing, Paris.

http://dx.doi.org/10.1787/f3cd5bdc-en

31. Cadot, O., Munadi, E., & Ing, L. Y. (2013). Streamlining Các NTM in

ASEAN: The Way Forward. ERIA Discussion Paper Series, 24, 49.

32. Chaney, T. (2008). Distorted gravity: the intensive and extensive margins of

international trade. American economic review, 98(4), 1707-1721

33. Chen, M. X., & Mattoo, A. (2008). Regionalism in Standards: Good or Bad for Trade? 37. 34. Correia, S., Guimaraes, P., & Zylkin, T. (2019). Ppmlhdfe: Fast Poisson

Estimation with High-Dimensional Fixed Effects, Cornel University,

https://doi.org/10.48550/arXiv.1903.01690

35. Crivelli, P., & Gröschl, J. (2016). The impact of sanitary and phytosanitary

172

measures on market entry and trade flows. The World Economy, 39(3), 444-473.

36. Dal Bianco, A., Boatto, V. L., Caracciolo, F., & Santeramo, F. G. (2016).

Tariffs and non-tariff frictions in the world wine trade. European Review of

Agricultural Economics, 43(1), 31-57.

37. Dean, J. M., Signoret, J. E., Feinberg, R. M., Ludema, R. D., & Ferrantino, M.

J. (2009). Estimating the price effects of non-tariff barriers. The BE Journal of

Economic Analysis & Policy, 9(1).

38. Disdier A. and Marette S., (2010). The Combination of Gravity and Welfare

Approaches for Evaluating Non-Tariff Measures, American Journal of Agricultural

Economics, 92(3): 713–26.

39. Disdier, A. E., Fontagn ́e, L., & Mimouni, M., (2008). The impact of

regulations on agricultural trade: Evidence from the SPS and TBT agreements,

American Agricultural Economics Association, 90(2), 336–350.Available at:

10.1111/j.1467-8276.2007.01127.x.

40. Disdier, A.-C., Fontagné, L., & Mimouni, M. (2008). The Impact of

Regulations on Agricultural Trade: Evidence from the SPS and TBT Agreements.

American Journal of Agricultural Economics, 90(2), 336–350.

https://doi.org/10.1111/j.1467-8276.2007.01127.x

41. Dolabella, M. (2018). Bilateral effects of non-tariff measures on international trade: Volume-based panel estimates. United Nation ECLAC, 69. 42. Drogué, S., & DeMaria, F. (2012). Pesticide residues and trade, the apple of

discord?. Food Policy, 37(6), 641-649.

43. Eaton, J., & Kortum, S. (2002). Technology, geography, and

trade. Econometrica, 70(5), 1741-1779.

44. European Commission (2020), Sanitary and phytosanitary requirements:

Regulation on official controls,

https://ec.europa.eu/taxation_customs/business/customs-controls/safety-health-

environment-customs-controls/sanitary-phytosanitary-requirements_en

45. European Commission (2021), Trade Policy Review - An Open, Sustainable

and Assertive Trade Policy, https://odi.org/en/insights/the-eus-trade-policy-review-

and-the-five-debates-it-triggers/

46. European Commission (2022), Agri-food trade statistical factsheet: European

Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-

173

analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en

47. European Commission (2022), RASFF annual report 2021, Directorate-

General for Health and Food Safety, Publications

Office. https://data.europa.eu/doi/10.2875/914558

48. European Commission (2023), Agri-food trade statistical factsheet: European

Union – Vietnam, truy cập ngày 29/01/2024 từ

https://agriculture.ec.europa.eu/system/files/2023-05/agrifood-vietnam_en.pdf

49. European Commission (2023), Agri-food trade statistical factsheet: European

Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-

analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en

50. European Commission (2024), Agri-food trade statistical factsheet: European

Union – Vietnam, truy cập từ https://agriculture.ec.europa.eu/data-and-

analysis/markets/trade-data/trade-countryregion/trade-value_en

51. Ferrantino, M. J., (2006). Quantifying the trade and economic effects of non-

tariff measures, OECD Trade Policy Working Papers, 28. Paris: OECD.

http://dx.doi.org/10.1787/837654407568

52. Ferro E, Wilson J and Otsuki T (2013). The Effect of Product Standards on

Agricultural Exports from Developing Countries. Policy Research Working Paper

6518. World Bank

53. Fontagné, L. G., Mimouni, M., & Pasteels, J. M. (2005). Estimating the impact

of environmental SPS and TBT on international trade. Integration and Trade

Journal, 22(3).

54. Frahan, B. H., & Vancauteren, M. (2006). Harmonisation of food regulations

and trade in the Single Market: evidence from disaggregated data. European review

of agricultural economics, 33(3), 337-360.

55. Fugazza M. (2013). the economics behind non-tariff measures: theoretical

insights and empirical evidence by Marco Fugazza.

56. Ganslandt Mattias and Markusen James R., (2001). “Standards and Related

Regulations in International Trade: A Modeling Approach”, NBER Working Paper,

No. w8346, Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=274556

57. Ghodsi, M., Gruebler, J., & Stehrer, R. (2016). Estimating importer-specific

ad valorem equivalents of non-tariff measures (No. 129). wiiw Working Paper.

58. Guimarães, M. H. (2012). Non-Tariff Measures in The European Union:

174

Evidence from the Agri-Food Sector. Agricultural Economics Review, 13(2), 21–34.

59. Head, K., & Mayer, T. (2002). Illusory border effects: Distance

mismeasurement inflates estimates of home bias in trade (Vol. 1). Paris: CEPII.

60. Heckscher, E. F. (1919). Utrikeshandelns verkan på inkomstfördelningen.

Några teoretiska grundlinjer. Ekonomisk tidskrift, 1-32.

61. Henson S and Loader R (2001). Barriers to Agricultural Exports from

Developing Countries: The Role of Sanitary and Phytosanitary Requirements. World

Development Vol. 29, No. 1, pp. 85±102, 2001

62. Hoekman, B., & Nicita, A. (2011). Trade Policy, Trade Costs, and Developing

Country Trade. World Development, 39(12), 2069–2079.

https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2011.05.013

63. Hoekman, B., & Nicita, A. (2011). Trade policy, trade costs, and developing

country trade. World development, 39(12), 2069-2079.

64. Julia Grubler , Oliver Reiter (2021), Characterising non-tariff trade policy,

Economic Analysis and Policy 71 (2021) 138–163 ,

https://doi.org/10.1016/j.eap.2021.04.007

65. Kareem, F. O. (2020). Employment Responses to EU Food Safety

Regulations: A Gendered Perspective. The European Journal of Development

Research. https://doi.org/10.1057/s41287-020-00330-8

66. Kareem, F. O., Brümmer, B., & Martinez-Zarzoso, I. (2015). The Implication

of European Union’s Food Regulations on Developing Countries: Food Safety

Standards, Entry Price System and Africa’s Export.

https://doi.org/10.22004/ag.econ.198719

67. Kareem, F. O., Martínez-Zarzoso, I., & Brümmer, B. (2018). Protecting health

or protecting imports? Evidence from EU non-tariff measures. International Review

of Economics & Finance, 53, 185–202. https://doi.org/10.1016/j.iref.2017.08.012

68. Kareem, O. I., & Rau, M.-L. (2018). Market Access for Africa’s Fruits and Vegetables Exports in the European Union: Evidence from Sanitary and Phytosanitary Measures. In Non-Tariff Measures: Economic Assessment and Policy Options for Development (Vol. 10, p. 435). UNCTAD. 69. Kee, H.L., A. Nicita, and M. Olarreaga. (2009). Estimating Trade

Restrictiveness Indices. Pol cy Research Working paper No. 3840, World Bank,

Washington, DC.

175

70. Krugman, P. (1980). Scale economies, product differentiation, and the pattern

of trade. American economic review, 70(5), 950-959.

71. Le Thi Viet Nga, Doan Nguyen Minh, Phan The Cong (2023), Assessing the

impacts of non-tariff measures on the export of Vietnam’s main agricultural and

seafood products, International Journal of Innovative Research and Scientific

Studies, 6(1) 2023, pages: 72-79.

72. Li, Y., & Beghin, J. C. (2012). A meta-analysis of estimates of the impact of

technical barriers to trade. Journal of policy modeling, 34(3), 497-511.

73. Maertens, M., & Swinnen, J. F. (2009). Trade, standards, and poverty:

Evidence from Senegal. World development, 37(1), 161-178.

74. McDonald, M. B. J., & Henn, C. (2011). Protectionist responses to the crisis:

Damage observed in product-level trade. International Monetary Fund.

The Review Studies, 75(1),

75. Melitz, M. J., & Ottaviano, G. I. P. (2008). Market Size, Trade, and 295–316. of Economic Productivity. https://doi.org/10.1111/j.1467-937X.2007.00463.x 76. Melo, J. de, & Nicita, A. (2018). Non-Tariff Measures: Data and Quantitative

Tools of Analysis. https://hal.science/hal-01731305

Development, World 130,

77. Melo, J., & Solleder, J.-M. (2020). Barriers to trade in environmental goods: How important they are and what should developing countries expect from their removal. 104910. https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2020.104910 78. Nguyen D.B., Bouët, A. & Traoré, F., 2021. “On the proper computation of

Ad Valorem equivalent of non-tariff measures”, Applied Economics Letters.

79. Nicita, A., & Gourdon, J. (2013). A preliminary analysis on newly collected

data on non-tariff measures. UN.

80. Nimenya, N., Ndimira, P. F., & de Frahan, B. H. (2012). Tariff equivalents of

nontariff measures: the case of European horticultural and fish imports from African

countries. Agricultural Economics, 43(6), 635-653.

81. Niranjan, M. B., Shivakumar, K. M., Prahadeeswaran, M., & Rohini, A.

(2021). Non-Tariff Measures (BPPTQ) and Their Significance in Agricultural Trade

of India and European Union. Asian Journal of Agricultural Extension, Economics &

Sociology, 79–87. https://doi.org/10.9734/ajaees/2021/v39i1130728

82. Noland, M. (2005). Religion and economic performance. World

development, 33(8), 1215-1232.

176

83. Ohlin, B. (1933). Till frågan om penningteoriens uppläggning. Ekonomisk

Tidskrift, 45-81.

84. Orden, D. (2013). The Changing Structure of Domestic Support and Its

Implications for Trade.

85. Otsuki, T., Wilson, J. S., & Sewadeh, M. (2001a). Saving two in a billion:

Quantifying the trade effect of European food safety standards on African exports.

Food Policy, 26(5), 495–514. https://doi.org/10.1016/S0306-9192(01)00018-5

86. Otsuki, T., Wilson, J. S., & Sewadeh, M. (2001b). What price precaution?

European harmonisation of aflatoxin regulations and African groundnut exports.

European Review of Agricultural Economics, 28(3), 263–284.

https://doi.org/10.1093/erae/28.3.263

87. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld (2012), International Economics: Theory

and Policy, Addison-Wesley, Boston

88. Peterson, E., Grant, J., Roberts, D., & Karov, V. (2013). Evaluating the trade

restrictiveness of phytosanitary measures on US fresh fruit and vegetable

imports. American Journal of Agricultural Economics, 95(4), 842-858.

89. Poyhonen, P. (1963) A Tentative Model for the Volume of Trade between

Countries. Weltwirtschaftliches Archiv, 90, 93-100.

http://www.jstor.org/stable/40436776

90. Rauch, J., Trindade, V., 2002. Ethnic Chinese networks in international trade.

Review of Economics and Statistics 84, 116--130.

91. Ricardo, D. (1895). The first six chapters of the principles of political economy

and taxation of David Ricardo, 1817. Macmillan and Company.

92. Rickard, B. J., & Lei, L. (2011). How important are tariffs and nontariff

barriers in international markets for fresh fruit?. Agricultural Economics, 42, 19-32.

93. Ronen, E (2017). Quantifying the trade effects of NTMs: A review of the

empirical literature, MPRA Paper No. 83730, https://mpra.ub.uni-

muenchen.de/83730/

94. Ronen, E. (2017). The trade-enhancing effect of non-tariff measures on virgin

olive oil. International Journal of Food and Agricultural Economics (IJFAEC).

https://doi.org/10.22004/ag.econ.266428

95. Salvatore, D. (2019). International economics. John Wiley & Sons.

177

96. Santeramo, F. G., & Lamonaca, E. (2019). The effects of non‐tariff measures

on agri‐food trade: A review and meta‐analysis of empirical evidence. Journal of

Agricultural Economics, 70(3), 595-617.

97. Santeramo, F. G., Lamonaca, E., Nardone, G., & Seccia, A. (2019). The

benefits of country-specific non-tariff measures in world wine trade. Wine Economics

and Policy, 8(1), 28-37.

98. Schlueter, S. W., Wieck, C., & Heckelei, T. (2009). Regulatory policies in

meat trade: is there evidence for least trade-distorting sanitary regulations?. American

Journal of Agricultural Economics, 91(5), 1484-1490.

99. Shi, Y. J. (2022). A Review of Non-Tariff Measures with Par- ticular Focus

on the US and China Practices. Theoretical Economics Letters, 12, 601-628.

https://doi.org/10.4236/tel.2022.123034

100. Tinbergen, J., (1962). Shaping the World Economy, New York, NY: The

Twentieth Century Fund.

101. UNCTAD (2019). International Classification of Non-Tariff Measures 2019.

UN. https://doi.org/10.18356/33bf0bc6-en

102. UNCTAD (2009), Non-Tariff Measures: Envidence from Selected

Developing Countries and Future Research Agenda, United Nations publication.

103. UNCTAD (2013). Non - Tariff Measures to Trade: Economic and Policy

Issues for Developing Countries, Developing Countries in International Trade

Studies, New York and Geneva.

104. UNCTAD (2021), COVID-19 Non-Tariff Measures: The Good and the Bad,

through a Sustainable Development Lens, UNCTAD Research Paper No. 60

UNCTAD/SER.RP/2021/3

105. UNCTAD (2022). Non-tariff measures from A to Z. retrived from

https://unctad.org/system/files/official-document/ditctab2021d3_en.pdf

106. UNCTAD. (2012). International Classification of Non-Tariff Measures 2012.

UN. Retrieved from https://doi.org/10.18356/33bf0bc6-en

107. UNESCAP (2019), Asia-Pacific Trade and Investment Report 2019,

Navigating Non-tariff Measures towards Sustainable Development, United Nations

publication.

108. Uprasen, U. (2014). The Impact of Non-Tariff Barriers in the European Union

on China’s Exports. In B. Andreosso-O’Callaghan, J. Jaussaud, & M. B. Zolin (Eds.),

178

Economic Integration in Asia: Towards the Delineation of a Sustainable Path (pp.

141–164). Palgrave Macmillan UK. https://doi.org/10.1057/9781137432933_8

109. Van Tongeren, F., Beghin, J., & Marette, S. (2009). A cost-benefit framework

for the assessment of non-tariff measures in agro-food trade.

110. Xiong & Beghin. (2014). Disentangling demand‐enhancing and trade‐cost

effects of maximum residue regulations. Economic Inquiry.

https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/ecin.12082

111. Xiong, B., & Beghin, J. (2011). Disentangling the Demand-Enhancing Effect

and Trade-Cost Effect of Technical Measures in Agricultural Trade Among OECD

Countries (SSRN Scholarly Paper 1945235). https://doi.org/10.2139/ssrn.1945235

112. Xiong, B., & Beghin, J. (2012). Does European aflatoxin regulation hurt

groundnut exporters from Africa? European Review of Agricultural Economics,

39(4), 589–609. https://doi.org/10.1093/erae/jbr062

113. Yew, V. S. H., Al-Amin, A. Q., & Devadason, E. S. (2020). Labour Market

Effects of Non-tariff Measures: A Computable General Equilibrium for the Food

Processing Sector in Malaysia. The Indian Journal of Labour Economics, 63(3), 629–

656. https://doi.org/10.1007/s41027-020-00239-0

Các Website

114. CEPII: www.cepii.fr

115. EUROPA: https://european-union.europa.eu/index_en

116. Eurostat: https://ec.europa.eu/eurostat

117. International Monetary Fund Data: https://data.imf.org

118. ITC/Market Access Map: https://www.macmap.org/

120.

RASFF: https://food.ec.europa.eu/index_en

119. I-TIP, WTO: http://i-tip.wto.org/goods

121. TradeMap: https://www.trademap.org/Index.aspx

122. TRAINS: https://trainsonline.unctad.org/home

123. UN Comtrade: https://comtradeplus.un.org/

124. UCNTAD: https://unctad.org/

125. WITS: https://wits.worldbank.org/Default.aspx?lang=en

126. World Bank: https://www.worldbank.org/en/home

179

127. World Bank Open Data: https://data.worldbank.org/

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phân loại các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật

A Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)

A11

A12

A13

A14

A1

Các lệnh cấm/hạn chế nhập khẩu vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật

A15

A19

A21

A2

Giới hạn dung sai đối với dư lượng và hạn chế sử dụng các chất

A22

A3

Yêu cầu ghi nhãn, đánh dấu và đóng gói

Các lệnh cấm vì lý do vệ sinh và kiểm dịch thực vật Các hạn chế về địa lý đối với tính hợp lệ Phương pháp tiếp cận hệ thống Yêu cầu ủy quyền vì lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật để nhập khẩu các sản phẩm nhất định Các yêu cầu đăng ký dành cho các nhà nhập khẩu Cấm hoặc hạn chế nhập khẩu vì các lý do vệ sinh và kiểm dịch động thực vật chưa được quy định ở nơi khác Định mức dư hoặc mức nhiễm độc từ các loại chất (không vi sinh) nhất định Hạn chế sử dụng một số chất trong thực phẩm và thức ăn và vật liệu tiếp xúc của chúng A31 Yêu cầu về ghi nhãn A32 Yêu cầu về đánh dấu A33 Yêu cầu về đóng gói

A41

A42

A4

A49

Yêu cầu vệ sinh liên quan đến điều kiện vệ sinh và kiểm dịch động thực vật

Tiêu chuẩn vi sinh của sản phẩm cuối cùng Thực hành vệ sinh trong quá trình sản xuất Yêu cầu vệ sinh chưa được quy định ở nơi khác

A51 Xử lý lạnh hoặc nhiệt A52 Chiếu xạ A53 Khử trùng

A5

A59

Xử lý để loại trừ sinh vật gây hại thực vật, động vật gây bệnh trong sản phẩm cuối cùng hoặc cấm xử lý

Biện pháp xử lý để loại bỏ thực vật và động vật gây hại hoặc sinh vật gây bệnh trong sản phẩm

A Các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS)

A61

trình chăn nuôi

A62

A63

A6

A64

Các yêu cầu khác liên quan đến quy trình sản xuất hoặc hậu kỳ

A69

A81

cuối cùng chưa được quy định hoặc cấm xử lý ở nơi khác Quá trình tăng trưởng thực vật Quy hoặc đánh bắt động vật Quy trình xử lý thức ăn và chế biến thức ăn Điều kiện bảo quản và vận chuyển Các yêu cầu khác về quy trình sản xuất hoặc hậu sản xuất chưa được quy định ở nơi khác Yêu cầu đăng ký và phê chuẩn sản phẩm

A82 Yêu cầu kiểm tra

A83

Yêu cầu cấp giấy chứng nhận

A84 Yêu cầu giám định

A851

A8

A85 Yêu cầu truy xuất

A853

Đánh giá sự phù hợp liên quan đến vệ sinh và điều kiện kiểm dịch thực vật

A859

Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần A852 Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng Các yêu cầu truy xuất chưa được quy định ở nơi khác

A86 Yêu cầu kiểm dịch

A89

Đánh giá sự phù hợp liên quan đến các điều kiện SPS chưa được quy định ở nơi khác

A9

Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật không được quy định ở nơi khác

Nguồn: UNCTAD (2022)

Phụ lục 2.: Phân loại các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)

B Các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)

B14

B15

B1

Uỷ quyền/cấp phép nhập khẩu liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại

B19

B21

B2

B22

Yêu cầu uỷ quyền vì lý do TBT Yêu cầu ủy quyền đối với các doanh nghiệp nhập khẩu Ủy quyền/cấp phép nhập khẩu liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại chưa được quy định ở nơi khác Giới hạn cho phép đối với dư lượng hoặc ô nhiễm bởi một số chất Hạn chế sử dụng một số chất

B3

Giới hạn dung sai đối với dư lượng và hạn chế sử dụng các chất Yêu cầu ghi nhãn, đánh dấu và đóng gói

B31 Yêu cầu về ghi nhãn B32 Yêu cầu về đánh dấu B33 Yêu cầu về đóng gói

B41

B42

B4

Yêu cầu sản xuất hoặc sau sản xuất

B49

Các quy định TBT về quy trình sản xuất Các quy định TBT về vận chuyển và bảo quản Các yêu cầu về sản xuất hoặc hậu sản xuất chưa được quy định ở nơi khác

B6

B7

Yêu cầu về nhận diện sản phẩm Yêu cầu về chất lượng sản phẩm, độ an toàn hoặc hiệu suất sử dụng

B81

Yêu cầu đăng ký/phê chuẩn sản phẩm B82 Yêu cầu thử nghiệm B83 Yêu cầu chứng nhận B84 Yêu cầu kiểm tra

B8

B851

Đánh giá sự phù hợp liên quan đến rào cản kỹ thuật trong thương mại

B85 Yêu cầu truy xuất

B853

Nguồn gốc của nguyên liệu và thành phần B852 Lịch sử chế biến Phân phối và xác định vị trí sản phẩm sau khi giao hàng

B Các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)

B859

Các yêu cầu truy xuất chưa được quy định ở nơi khác

B89

Đánh giá sự phù hợp liên quan đến TBT chưa được quy định ở nơi khác

B9

Các biện pháp TBT chưa được quy định ở nơi khác

Nguồn: UNCTAD (2022)

Phụ lục 3:

Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam năm 2020

Mã số

Nội dung

Ngày

Phân loại

Quốc gia

2020.0625

07-02-2020

Pháp

Thông báo từ chối nhập cảnh

Chlorfluazuron trong ớt

2020.0660

10-02-2020

Lít-va

tricyclazole trong gạo

Thông báo thông tin cần chú ý

Danh mục hàng hóa Hoa quả và rau Ngũ cốc và các sản phẩm bánh

2020.1311

23-03-2020

Pháp

Hoa quả và rau

Thông báo từ chối nhập cảnh

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong ớt

2020.1739

23-04-2020 Ba Lan

Thông báo từ chối nhập cảnh

Màu trái phép Gardenia Vàng trong ống hút

2020.2203

27-05-2020

Thụy Điển

Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Đồ uống không cồn

2020.2390

10-06-2020

Hoa quả và rau

Cộng hòa Séc

2020.2411

11-06-2020

Hoa quả và rau

Cộng hòa Séc

Thông báo thông tin để theo dõi Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo thông tin cần chú ý

2020.2450 Bánh kẹo

15-06-2020

Thụy Điển

Thông báo thông tin cần chú ý

2020.2485 Bánh kẹo

17-06-2020

Thụy Điển

Thông báo thông tin cần chú ý

2020.2646

30-06-2020 Hà Lan

Hoa quả và rau

Thông báo thông tin cần chú ý

2020.2892

15-07-2020

Pháp

Hoa quả và rau

Thông báo từ chối nhập cảnh

2020.3166

05-08-2020

Đức

Quả hạch, các sản phẩm từ

Thông báo thông tin cần chú ý

Màu trái phép (E143) trong nước giải khát Sulphite không được khai báo trong nấm khô Sulphite không được khai báo trong nấm khô Cốc thạch mini có chất phụ gia tạo gel, do đó có nguy cơ gây ngạt thở Cốc thạch mini có chất phụ gia tạo gel, do đó có nguy cơ gây ngạt thở Cadmium quá cao (0,062 mg/kg - ppm) trong mít sấy khô Mức độ cypermethrin vượt quá giá trị độc tính trong quả thanh long Túi giấy chứa mỡ thực vật và phosphide vô cơ

Mã số

Nội dung

Ngày

Phân loại

Quốc gia

Danh mục hàng hóa quả hạch và hạt

10-09-2020

2020.3695

Tây Ban Nha

Thông báo từ chối nhập cảnh

Đồ uống không cồn

17-09-2020

2020.381 Bánh kẹo

Cộng hòa Séc

Thông báo thông tin cần chú ý

09-10-2020

2020.4200

Đan Mạch

Hoa quả và rau

Thông báo thông tin để theo dõi

(thuốc trừ sâu) trong hạt điều/// Túi giấy chứa mỡ thực vật và phosphide vô cơ (thuốc trừ sâu) trong hạt điều Vượt quá giới hạn Acid Benzoic trong nước giải khát Phụ gia thực phẩm E407 carrageenan và E425 konjac dùng trong ly thạch mini Dimethoate trên MRL trong nấm rơm đông lạnh

10-12-2020

2020.5664

Phần Lan

Thông báo từ chối nhập cảnh

Aflatoxin (B1 = 38,1 µg/kg - ppb; Tot. = 44,9 µg/kg - ppb) trong lạc

2020.5726

14-12-2020 Na Uy

Chất cấm tricyclazole trong gạo thơm

Thông báo thông tin để theo dõi

2020.5829

17-12-2020

Đức

Chlorpyrifos trong nấm mèo đen khô

Thông báo thông tin cần chú ý

2020.5858

18-12-2020 Ba Lan

Thông báo cảnh báo

Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Các loại thảo mộc và gia vị

PAHs và Benzo (a) pyrene trong bột quế

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2022)

Phụ lục 3: Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam

năm 2021

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

Danh mục hàng hóa

2021.0158

Hoa quả và rau

12-01- 2021

Bồ Đào Nha

Thông báo từ chối nhập cảnh

2021.0165

Đồ uống không cồn

13-01- 2021

Tây Ban Nha

Thông báo từ chối nhập cảnh

2021.0872

Đức

19-02- 2021

Các loại thảo mộc và gia vị

Thông báo từ chối nhập cảnh

Thực phẩm mới trái phép nho biển muối (Caulerpa lentillifera) Hàm lượng E 210 và E 211 trong mật hoa quá cao Vượt mức tối đa cho phép đối với propiconazole trong ớt đỏ đông lạnh

2021.1451

Na Uy

Tricyclazole trong mì khô vị gà

22-03- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

2021.2136

28-04- 2021

Tây Ban Nha

Thông báo từ chối nhập cảnh

2021.2295

Pháp

07-05- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

Thực phẩm mới trái phép, nho biển khử nước và rêu Ailen khô Nitrofurans (furazolidone) trong chân ếch đông lạnh

2021.2803

Đức

Chlorpyrifos trong nấm mu-err khô

01-06- 2021

Thông báo cảnh báo

Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Thịt và các sản phẩm từ thịt (trừ gia cầm) Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp

2021.3043

Thụy Sĩ

Hoa quả và rau

11-06- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

2021.4083

Đức

02-08- 2021

Thông báo cảnh báo

Hàm lượng carbofuran quá cao trong Ổi (psidium guajava) 2-Chloroethanol trong viên nang cho thuốc và thực phẩm bổ sung

2021.4177

Na uy

Ethylene Oxide trong mì khô

05-08- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

2021.4233

Đức

09-08- 2021

Thông báo cảnh báo

Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ 2021.4573 Hoa quả và

2-Chloroethanol trong món mì ăn liền Sự hiện diện

26-08-202 Hà Lan

Thông báo

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

Danh mục hàng hóa rau

thông tin cần chú ý

Na Uy

2021.4761

07-09- 2021

Hoa quả và rau

Thông báo thông tin cần chú ý

Ý

2021.5398

07-10- 2021

Hoa quả và rau

Hà Lan

2021.5769

25-10- 2021

Hoa quả và rau

Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo thông tin cần chú ý

chlorpyrifos-ethyl 0,09 ppm và profenofos 0,12 ppm trong mướp đắng cắt đôi Chất cấm propargite và fenobucarb trong bưởi Sự hiện diện của thuốc trừ sâu trong chôm chôm Carbendazim trong lá đắng đông lạnh

Đức

2021.5783

26-10- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

Chất cấm chlorpyrifos trong nấm mu-err khô

Ý

2021.5839

Bacillus cereus trong bột quế

28-10- 2021

Thông báo thông tin cần chú ý

Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp Các loại thảo mộc và gia vị

2021.5861

29-10- 2021

Tây Ban Nha

Các loại thảo mộc và gia vị

Thông báo từ chối nhập cảnh

2021.6761

09-12-202

Đức

Thông báo thông tin cần chú ý

Sự hiện diện của chlorpyrifos với nồng độ cao hơn MRL trong hạt tiêu đen // Sự hiện diện của chlorpyrifos với nồng độ cao hơn MRL trong hạt tiêu đen Anthraquinone trong bạch đậu khấu khô

2021.6766

Đức

09-12- 2021

Thông báo cảnh báo

2-Chloroethanol trong thực phẩm bổ sung

Các loại thảo mộc và gia vị Thực phẩm ăn kiêng, thực phẩm bổ sung và thực phẩm tăng cường

2021.6796

Đức

10-12- 2021

Thông báo cảnh báo

Các loại thảo mộc và gia vị

Chất trái phép ethylene oxide (tổng EO và 2-CE được biểu thị bằng EO: 14 mg/kg - ppm) trong quế

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

Danh mục hàng hóa

2021.7011

Đan Mạch

Hoa quả và rau

20-12- 2021

Thông báo cảnh báo

2021.7252

Ba Lan

30-12- 2021

Thông báo cảnh báo

Sản phẩm thực phẩm khác / hỗn hợp

xay Chlorpyrifos và fipronil trong Nấm Rơm Ngọc 2-chloroethanol (281 mg/kg - ppm) và chất không được phép ethylene oxide (0,14 mg/kg - ppm) trong bột sữa dừa

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2022)

Phụ lục 4: Các cảnh báo của EU về nông sản, thực phẩm có xuất xứ từ Việt Nam

năm 2022

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

2022.0244

13-01-2022 Rumani

Ochratoxin A trong cà phê hòa tan sấy phun

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.0402

21-01-2022 Phần Lan

Chất cấm tricyclazole (0.013 mg/kg - ppm) trong gạo

Thông báo từ chối nhập cảnh

21-01-2022

2022.0413

Đan Mạch

Thông báo cảnh báo

3-Amino-2- oxazolidinone (AOZ) trong đùi ếch

24-01-2022

Đức

2022.0428

2-Chloroethanol trong mì ăn liền

Thông báo cảnh báo

Danh mục hàng hóa Ca cao và các chế phẩm từ ca cao, cà phê và chè Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Thịt và sản phẩm thịt (trừ gia cầm) Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

2022.0823

Clorat trong quế xay

10-02-2022

Đức

Các loại thảo mộc và gia vị

Thông báo thông tin để theo dõi

2022.0849

14-02-2022

Bỉ

Thông báo cảnh báo

Ethylene oxide trong thực phẩm bổ sung

2022.0912

17-02-2022

Đức

Thông báo cảnh báo

2-Chloroethanol trong mì ăn liền chay

2022.1276

03-03-2022

Đức

Propiconazole và tricyclazole trong gạo nếp rang

Các loại thảo mộc và gia vị Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Ngũ cốc và các sản phẩm bánh

2022.1349

07-03-2022 Hà Lan

Hoa quả và rau

Chlorpyrifos trong chôm chôm

Thông báo thông tin để theo dõi Thông báo thông tin cần chú ý

2022.1369

08-03-2022

Cộng hòa Síp

Thông báo từ chối nhập cảnh

Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị

sử dụng trái phép phẩm màu E110 - Sunset Yellow FCF và phẩm màu E124 - Ponceau 4R/đỏ cochineal A trong tương ớt

2022.1452

11-03-2022

Đức

Salmonella spp. trong cùi dừa

Thông báo cảnh báo

Quả hạch, các sản phẩm từ

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

28-03-2022 Hà Lan

2022.182

chì trong khoai tây chiên hữu cơ sấy khô

Thông báo cảnh báo

28-03-2022

2022.1821

Đan Mạch

Thông báo cảnh báo

Danh mục hàng hóa quả hạch và hạt Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Hoa quả và rau

01-04-2022

Đức

2022.1936

Thông báo từ chối nhập cảnh

Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

01-04-2022

2022.1937

Tây Ban Nha

Hoa quả và rau

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.1938

01-04-2022

Đức

Thông báo từ chối nhập cảnh

Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

2022.1940

01-04-2022

Đức

Thông báo từ chối nhập cảnh

Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

2022.1948

01-04-2022

Đức

Thông báo cảnh báo

Sulphite không khai báo trong xoài sấy khô Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Suy giảm các đặc tính cảm quan trong thanh long Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Hàm lượng ethylene oxide trong hỗn hợp rau củ trong mì ăn liền vượt quá giới hạn cho phép Chất 2-chloroethanol trong bột canh trong mì ăn liền vượt mức cho phép

2022.2178

12-04-2022

Đức

2-Chloroethanol trong bột súp trong mì

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.2253

15-04-2022

Ý

Aflatoxin vượt giới hạn trong hạt điều

Thông báo thông tin cần chú ý

Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt

2022.2420

26-04-2022

Pháp

Hoa quả và rau

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.2497

29-04-2022 Hà Lan

Các loại thảo mộc và gia vị

Thông báo thông tin cần chú ý

dư lượng thuốc trừ sâu trong thanh long vượt quá MRL Permethrin, Chlorfenapyr, Chlorpyrifos-ethyl và Cadmium trong ớt đỏ đông lạnh Tăng hàm lượng

2022.2694 Quả hạch,

06-05-2022

Đức

Thông báo

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

cảnh báo

aflatoxin trong đậu phộng rang

2022.2768

11-05-2022 Ba Lan

Phụ gia trái phép E 554 trong súp ăn liền

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.2772

11-05-2022 Ba Lan

E554 trái phép trong hỗn hợp gia vị

Danh mục hàng hóa các sản phẩm từ quả hạch và hạt Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Các loại thảo mộc và gia vị

2022.2868

16-05-2022

Ý

Hoa quả và rau

permethrin trong vải thiều

Thông báo từ chối nhập cảnh Thông báo thông tin cần chú ý

2022.2944

19-05-2022

Đức

Aflatoxin trong lạc khô còn vỏ

Thông báo cảnh báo

2022.302

23-05-2022 Na Uy

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong gạo

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.3043

24-05-2022

2-chloroethanol trong mì ăn liền

Thụy Điển

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.3081

25-05-2022 Ba Lan

Thông báo từ chối nhập cảnh

phụ gia không được phép E 554 trong phở ăn liền

Quả hạch, các sản phẩm từ quả hạch và hạt Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

2022.3225

01-06-2022 Hà Lan

Hoa quả và rau

Thông báo cảnh báo

cypermethrin, acetamiprid, tebuconazole, deltamethrin, lambda- cyhalothrin, thiamethoxam, clothianidin, kresoxim- methyl, abamectin, cyazofamid và pyriproxyfen và các chất không được phép carbendazim, permethrin, bifenthrin, propiconazole, diniconazole, hexaconazole, imidacloprid và

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

Danh mục hàng hóa

chlorfenapyr trong lá đắng đông lạnh

2022.3394

09-06-2022 Hà Lan

Chlorpyrifos-ethyl trong ớt đỏ

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.3545

16-06-2022 Hà Lan

Thông báo cảnh báo

Tổng Hydrocacbon thơm đa vòng 78,8 ppb trong Tiêu trắng

2022.358

17-06-2022 Malta

Bún gạo biến đổi gen trái phép

Thông báo thông tin để theo dõi

Các loại thảo mộc và gia vị Các loại thảo mộc và gia vị Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp

2022.3615

20-06-2022 Hà Lan

Thông báo cảnh báo

Các loại thảo mộc và gia vị

chất trái phép chlorpyrifos (0,043 mg/kg - ppm), imidacloprid (0,15 mg/kg - ppm) và chlorfluazuron (0,11 mg/kg - ppm) trong trà khổ qua

2022.3951

07-07-2022 Ba Lan

Phở ăn liền của Việt Nam - sự không tương thích trong tài liệu

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.3954

07-07-2022 Ba Lan

Phở ăn liền của Việt Nam - sự không tương thích trong tài liệu

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.3956

07-07-2022 Ba Lan

Mì ăn liền vị gà - sự không tương thích trong tài liệu

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.4011

08-07-2022 Na Uy

Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong gạo

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.4045

11-07-2022

Đức

Anthraquinone trong bạch đậu khấu khô

Thông báo cảnh báo

2022.4146

15-07-2022

Đức

Ethylene oxide trong mì ăn liền

Thông báo từ chối nhập cảnh

2022.4149

15-07-2022

Đức

Ethylene oxide trong mì ăn liền

Thông báo từ chối nhập cảnh

Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Súp, nước dùng, nước sốt và gia vị Ngũ cốc và các sản phẩm bánh Các loại thảo mộc và gia vị Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

2022.4155

15-07-2022

Đức

Ethylene oxide trong mì ăn liền

Thông báo từ chối nhập cảnh

Danh mục hàng hóa Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ

2022.4475

01-08-2022 Phần Lan

Các loại thảo mộc và gia vị

Thông báo từ chối nhập cảnh

Dư lượng thuốc trừ sâu trái phép (Tricyclazole, Chlorpyrifos) trong bột cà ri.

2022.514

05-09-2022

Đức

Thông báo cảnh báo

Chất trái phép ofloxacin trong đùi ếch sống

2022.5245

09-09-2022

Cộng hòa Séc

Cần tây không khai báo trong mì ăn liền có hương liệu

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.5311

12-09-2022

Đức

Sinh vật biến đổi gen trong bún gạo

Thịt và sản phẩm thịt (trừ gia cầm) Món ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhẹ Ngũ cốc và các sản phẩm bánh

Thông báo thông tin để theo dõi

2022.5319

13-09-2022

Ý

Thông báo thông tin cần chú ý

Vật liệu tiếp xúc với thực phẩm

Di chuyển các thành phần hữu cơ dễ bay hơi từ các tấm khối polyetylen mật độ cao xé nhỏ

2022.5721

03-10-2022

Đan Mạch

Các loại thảo mộc và gia vị

Dư lượng thuốc trừ sâu (chlorpyrifos) trong ớt đông lạnh

Thông báo thông tin để theo dõi

2022.5943

12-10-2022 Hà Lan

Anthraquinone trong hoa hồi

Thông báo cảnh báo

2022.6216

25-10-2022

Đức

2-Chloroethanol trong bún gạo

Thông báo từ chối nhập cảnh

Các loại thảo mộc và gia vị Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp

2022.6227

2510/2022 Phần Lan

Hoa quả và rau

Thông báo cảnh báo

Salmonella enterica ser. Stanley (trong 1 trên 5 mẫu /25g) trong nấm khô

2022.6267

26-10-2022

Ý

Chiếu xạ trái phép vào chân ếch

Thông báo thông tin cần chú ý

2022.6459

04-11-2022

Ý

Sản phẩm thực phẩm khác/hỗn hợp Sản phẩm thực

Sulphite (25 mg/kg - ppm) không khai báo

Thông báo cảnh báo

Mã số

Nội dung

Ngày

Quốc gia Phân loại

Danh mục hàng hóa phẩm khác/hỗn hợp

2022.6552

09-11-2022

Đan Mạch

Thông báo cảnh báo

Các loại thảo mộc và gia vị

trên bột quế hữu cơ dùng để sản xuất thanh hữu cơ Sự vượt quá pyrrolizidinalkaloider (PA) trong trà oregano, thì là và hoa cúc

2022.6905

25-11-2022 Na Uy

Hoa quả và rau

Etylen oxit trong tiêu đen xay

2022.7257

13-12-2022 Phần Lan

Hoa quả và rau

Sử dụng trái phép Tartrazine trong trái cây sấy khô

2022.7274

14-12-2022

Đan Mạch

Chất cấm tricyclazole trong gạo Jasmine trắng

Ngũ cốc và các sản phẩm bánh

Thông báo thông tin cần chú ý Thông báo từ chối nhập cảnh Thông báo thông tin để theo dõi

2022.7513

22-12-2022

Đức

Thông báo cảnh báo

Các loại thảo mộc và gia vị

Chất trái phép anthraquinone và hydrocarbon thơm đa vòng (PAHs) trong hoa hồi khô

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ RASFF (2023)