ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI MẠNH NGỌC

CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI MẠNH NGỌC

CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ

Thái Nguyên - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận

văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Bùi Mạnh Ngọc

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm

ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn

học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo

đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên

hướng dẫn TS. Nguyễn Kiến Thọ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong

suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Bùi Mạnh Ngọc

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 4

3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4

4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5

6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6

8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

Chương 1. THƠ TRẦN NHUẬN MINH TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM

HIỆN ĐẠI ......................................................................................................... 7

1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh ......................................................................... 7

1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác.................................................. 7

1.1.2. Quan điểm sáng tác ................................................................................. 9

1.1.3. Các giải thưởng đạt được ...................................................................... 11

1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại ........................ 12

1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại ............................. 12

1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh .......................................... 16

Chương 2. CẢM HỨNG TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH .................. 21

2.1. Vấn đề Cảm hứng trong thơ ..................................................................... 21

2.1.1. Khái niệm Cảm hứng ............................................................................ 21

iii

2.1.2. Cảm hứng trong thơ .............................................................................. 22

2.2. Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh ................................................... 23

2.2.1. Cảm hứng trữ tình ................................................................................. 23

2.2.2. Cảm hứng thế sự ................................................................................... 32

2.2.3. Cảm hứng đối thoại ............................................................................... 52

Chương 3. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN NHUẬN

MINH .............................................................................................................. 65

3.1. Vấn đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ .................................................. 65

3.1.1. Khái niệm Giọng điệu nghệ thuật ......................................................... 65

3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ ........................................................... 66

3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh ................................ 67

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, yêu thương, chia sẻ ............................................... 67

3.2.2. Giọng điệu phản tỉnh thực tại ................................................................ 72

3.2.3. Giọng điệu tự vấn cá nhân .................................................................... 77

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Để tạo nên diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có cả một

quá trình với sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tác giả. Tất nhiên, thực tế

cho thấy không có nhiều tác giả thể hiện được gương mặt riêng, thể hiện được

cá tính và phong cách trong sáng tạo. Trong khi đó, có một số tác giả (có thể

không nhiều) lại ghi dấu ấn đậm nét, có vị trí không thể thiếu, mà nếu không

có họ thì nền thơ ca sẽ có những khoảng trống nhất định. Vì vậy, muốn nhận

diện một nền thơ ca, cần phải đặc biệt quan tâm nhận diện và phân tích một số

tác giả đặc sắc, có tầm vóc và bề dày sáng tác, tạo được dấu ấn và có những

đóng góp quan trọng vào đời sống thơ ca. Đặt trong góc nhìn đó, có thể thấy

thơ ca hiện đại Việt Nam đã ghi nhận những nhà thơ có vị trí và đóng góp

quan trọng, một trong số đó có nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nghiên cứu thơ ca

Trần Nhuận Minh, vì thế, không chỉ là nghiên cứu về một cá nhân, mà còn là

một cách tiếp cận để nhận diện các vấn đề của nền thơ hiện đại Việt Nam nói

chung.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có bề dày sáng tác với hơn hai

mươi tập thơ – một khối lượng đồ sộ đáng nể mà không có nhiều tác giả có

được. Những tác phẩm của Trần Nhuận Minh đã tạo ra một gương mặt tác giả

thực sự đặc sắc, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa thách thức vừa mời gọi. Thơ

ca Trần Nhuận Minh hứa hẹn sẽ đặt ra cho những người nghiên cứu phê bình

nhiều vấn đề ý nghĩa, hữu ích, thậm chí phức tạp, và vì vậy cũng vô cùng hấp

dẫn và đầy gợi mở.

1.3. Hành trình sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh trải dài qua những

giai đoạn lịch sử khác nhau, khởi nguồn từ phong cách thơ truyền thống, ngày

càng hướng đến phong cách thơ hiện đại. Phân tích diễn trình đó, qua sự thay

đổi và vận động mạch thơ Trần Nhuận Minh cũng là một cách để chúng ta có

1

thêm góc nhìn về những thay đổi và vận động của thơ ca Việt Nam hiện đại

nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh là một đề tài mang

tính khoa học và có nhiều ý nghĩa.

2. Lịch sử vấn đề

Với một quá trình bề dạy trong hành trình sáng tác hàng nửa thế kỉ (từ

những năm 1960 cho đến nay), thơ của Trần Nhuận Minh đã thu hút sự quan

tâm nghiên cứu, đánh giá, nhận diện của khá đông đảo bạn đọc cũng như

đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu - phê bình.

Trong cuốn tiểu luận phê bình Trần Nhuận Minh và một hƣớng tìm

diện mạo mới cho thơ (Nxb Hội Nhà văn, 2015), nhà phê bình văn học Đỗ

Ngọc Yên đã có những nhận diện khái quát về vị trí, đóng góp và chỉ ra một

số đặc điểm quan trọng trong thơ Trần Nhuận Minh: “Trần Nhuận Minh là

người mạnh mẽ đến quyết liệt không chỉ trong việc đổi mới thơ, mà quan

trọng hơn là làm lại chính mình với tư cách là một chủ thể thơ, một sự làm

lại nhọc nhằn, quằn quại và đau đớn. Ông không cần quan tâm đến lý

thuyết về các trào lưu, trường phái hay chủ nghĩa nào, mà có lẽ chỉ quan

tâm làm sao đem đến cho thơ Việt một diện mạo mới và một hơi thở, sức

sống mới [14.tr11].

Trong một công trình nghiên cứu rất công phu với nhan đề Trần

Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, GS. Phong Lê đã chỉ ra con đường

thơ Trần Nhuận Minh với ba chặng lớn: Áp tải sự thật; Đi tìm hoa và cỏ, và

hoa cỏ; Hành trình về với bản thân. Nó tương ứng với ba cuộc định vị: từ

Nông dân đến Công nhân, từ Công nhân đến Nhân dân, và từ Nhân dân đến

Con người [30.tr5-31].

Khi giới thiệu cuốn sách Trần Nhuận Minh, thi ca tinh tuyển tập (Nxb

Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc, 2014), dịch giả người Trung

Quốc – GS.TS. văn học Phùng Trọng Bình đã có những đánh giá mang tính

2

khái quát chung về sự nghiệp thơ ca Trần Nhuận Minh: “Từ chỗ là một nhà

thơ viết về đề tài công nhân rồi đến nhân dân, rồi sau đó lại chuyển sang đề tài

về nhân loại, bước ngoặt lớn về cả tư tưởng nghệ thuật đến bút pháp này đã

phần nào thể hiện sự đồng nhất và hài hòa trong cuộc sống và sáng tác của

Trần Nhuận Minh… Thời gian sáng tác của những tác phẩm này cách nhau

rất xa, bao gồm rất nhiều nội dung phong phú về xã hội, cuộc sống, lối thể

hiện văn học vô cùng độc đáo và thú vị, thể hiện được sự trưởng thành về tư

tưởng và nghệ thuật của nhà thơ [14.tr206-207].

Trong luận văn thạc sĩ Ngữ Văn Thơ Trần Nhuận Minh (Nguyễn Văn

Hưng, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2011), tác giả đã đi vào phân tích,

đánh giá một cách khá tổng thể về thơ của Trần Nhuận Minh. Đồng thời, tác

giả cũng đã có những nhận định rất cụ thể về những đặc điểm riêng biệt và

nổi bật nhất trong thế giới thơ ca Trần Nhuận Minh. Tác giả cho rằng: “Đặc

điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư trong việc

xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt và giải

thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và những

dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận thơ

ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,

quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí

riêng trong đời sống thơ ca hiện đại” [19.tr2]. Cùng với luận văn này, có thể

kể đến một số luận văn khác cũng đã góp phần đưa ra những cách tiếp cận và

đánh giá khá phong phú, đa diện về thơ Trần Nhuận Minh, như Cảm hứng thế

sự và đời tƣ trong thơ Trần Nhuận Minh (Chung Thị Thúy, Đại học Vinh,

2009), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh (Lê Thị Hải Hà, Đại học

Sư phạm Hà Nội, 2008).v.v..

Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết nghiên cứu phê bình về cuộc đời

thơ, các tập thơ, các mảng đề tài thơ nổi bật của Trần Nhuận Minh, như: Trần

Nhuận Minh (PGS.TS. Vũ Văn Sỹ); “Nhà thơ và hoa cỏ” – tập thơ thế sự về

3

thân phận con ngƣời (Trọng Khang); Thử bàn về sự hiền minh trong “Nhà

thơ và hoa cỏ” của Trần Nhuận Minh (Triệu Đàm); Nhà thơ Trần Nhuận

Minh - khởi sự từ công cuộc đổi mới (Phạm Khải); Đọc thơ Trần Nhuận Minh

(GS.TS. Mai Quốc Liên); Khát vọng về một tình yêu thần thánh (Đặng Văn

Sinh).v.v..

Như vậy qua các công trình nghiên cứu, các bài viết..., chúng ta nhận

thấy các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định và chỉ ra

một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật cơ bản trong thơ Trần Nhuận Minh.

Nhìn chung các công trình và các bài viết này vừa đi vào hướng nghiên cứu

một cách tổng thể, khái quát, vừa đi sâu khảo sát, nghiên cứu về một trong

những khía cạnh cụ thể có ý nghĩa quan trọng và nổi bật trong thơ Trần

Nhuận Minh. Dù chưa có công trình hay bài viết nào trước đây trùng lặp với

vấn đề cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của luận văn này, nhưng những

nhận định và kết quả nghiên cứu đó sẽ là những tư liệu tiền đề hết sức đáng

quý, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề để triển khai đề tài nghiên cứu này

của mình.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu nét đặc sắc ở

phương diện cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.

Từ đó, luận văn chỉ ra thành công, hạn chế và đóng góp của thơ Trần Nhuận

Minh với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá

chủ yếu trong tập thơ Trần Nhuận Minh – thơ (Nxb Văn học, 2007), vì đây là

tuyển tập khá tiêu biểu và đầy đủ những bài thơ quan trọng của nhà thơ.

Ngoài ra tham khảo thêm một số tập thơ khi cần thiết như: Nhà thơ và hoa cỏ,

4

Bản sonate hoang dã, Gửi lại dọc đƣờng, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,

Miền dân gian mây trắng.v.v..

Đồng thời, sự dụng một số tác phẩm thơ của một số nhà thơ Việt Nam

hiện đại khác nhằm so sánh, đối chiếu làm nổi bật những nét riêng trong thơ

Trần Nhuận Minh.

4. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài “Cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần

Nhuận Minh”, luận văn nhằm chỉ rõ sự phong phú đa dạng và mạch vận động

của tư duy nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh. Đồng thời, qua việc

nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn khẳng định vị trí cũng như những đóng góp

của thơ Trần Nhuận Minh đối với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu hai khía cạnh quan trọng là cảm hứng và

giọng điệu nghệ thuật, qua đó làm rõ những giá trị về nội dung cũng như

những giá trị về nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh, đồng thời chỉ ra được

cá tính sáng tạo, vị trí và những đóng góp, mặt thành công thành công và mặt

hạn chế của thơ Trần Nhuận Minh.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương

pháp sau:

- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp

nghiên cứu nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu xã hội học để tìm hiểu những

“nguồn cội” góp phần làm nên đặc điểm thơ Trần Nhuận Minh như quê hương,

gia đình, tiểu sử của nhà thơ.

- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những

mối quan hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần

5

tiếp cận từ giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi

khai thác những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa dân tộc thể hiện trong thơ

Trần Nhuận Minh.

- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thể loại Từ những đặc

trưng của tác phẩm trữ tình mà “soi chiếu” vào thơ Trần Nhuận Minh, chỉ ra

những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.

- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thi pháp học: Sử dụng

lí thuyết về thi pháp học, đặc biệt là với loại hình thơ trữ tình, để phân tích

những vấn đề chính như cảm hứng nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật.

- Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích

tác phẩm theo loại thể, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng

hợp, thống kê, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống.

7. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, phân tích, đánh giá toàn

bộ sự nghiệp sáng tác, đồng thời cũng đi vào những vấn đề quan trọng và

nổi bật trong thơ của nhà thơ Trần Nhuận Minh (cụ thể: cảm hứng và giọng

điệu nghệ thuật). Từ đó, khẳng định thành tựu, đóng góp cũng như hạn chế

của thơ Trần Nhuận Minh khi đặt trong tương quan với nền thơ Việt Nam

hiện đại nói chung.

8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại

Chƣơng 2: Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh

Chƣơng 3: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh

6

NỘI DUNG

Chƣơng 1

THƠ TRẦN NHUẬN MINH

TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh

1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác

Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh ngày 20/8/1944, dân tộc Kinh, quê

quán tại Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Ông hiện đang sống và

viết tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Ông là Đảng viên Đảng Cộng

Sản Việt Nam từ năm 1984, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982.

Từ 1960 đến 1962, ông học Trung học Sư phạm Hải Dương. Từ 1962

đến 1969, ông dạy học tại Quảng Ninh. Từ năm 1969 đến 2005, ông đi học

khoa Ngữ Văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lần lượt là thành viên

sáng lập, ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Ban thường vụ, Phó Chủ tịch rồi

Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh, Tổng biên tập báo Hạ

Long. Ông cũng là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh;

Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam;

Đại diện Báo Tiền Phong tại Quảng Ninh (1993 – 2008); Ủy viên Ban Công

tác Nhà văn trẻ và Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam một số khóa.

Trần Nhuận Minh cũng là một nhà thơ sống trong một gia đình gia thế

rất đáng chú ý khi có nhiều người theo con đường văn chương nghệ thuật.

Điển hình trong đó có: nhà thơ Trần Đăng Khoa - “thần đồng thơ Việt

Nam”(em trai ruột), nhà thơ Phạm Thị Diễm (vợ).v.v.. Điều đó đã cho thấy

gia đình ông rất có truyền thống về văn chương nghệ thuật, đặc biệt là truyền

thống về thơ ca. Có thể nói đây là một yếu tố tích cực bởi vì nó chính là một

7

môi trường thuận lợi, tốt lành cho tình yêu thơ ca cũng như con đường nghệ

nghiệp trong sáng tác.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh làm thơ từ rất sớm, có thơ được đăng báo từ

năm 1960. Trải qua nhiều công tác khác nhau, với quá trình dài trên những

chặng đường và giai đoạn sáng tác, đến nay ông đã xuất bản 44 tập sách,

trong đó có 22 tập thơ, 3 tập truyện vừa, 2 tập tiểu luận, 9 tập biên khảo.v.v..

Một số tập tác phẩm chính, quan trọng và để lại nhiều dấu ấn trong đời

sống văn chương của ông có thể kể đến như:

- Các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980, in

lần thứ 2, năm 2016), Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989),

Hoa cỏ (1992), Nhà thơ và hoa cỏ (1993, in lần thứ 22, năm 2015), Giọt phù

sa vạn dặm (2000), Bản Sonate hoang dã (2003, in lần thứ 13, năm 2015),

Trần Nhuận Minh - Thơ với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đƣờng (2005, in lần

thứ 6, năm 2011), Trần Nhuận Minh, tuyển tập thơ (2005, in lần thứ 2, năm

2007), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007, in lần thứ 5, năm 2013), Miền

dân gian mây trắng (2008, in lần thứ 5, năm 2014), Bốn mùa - Four seasons

(2008), Bốn mùa (2009, in lần thứ 2, năm 2011), Miền dân gian mây trắng -

The white cloud popular area (2011), Cánh rừng đã bay về trời (2012),

Thành phố Dịu Dàng (2015, in lần thứ 2, năm 2017), Liệu có kiếp sau (2017),

Qua sóng Trƣờng Giang (2017); và Trong hy vọng khôn cùng, Maxcơva

(1992), do Iuri Konhetxki tuyển chọn và giới thiệu, Trần Nhuận Minh - Thi ca

tinh tuyển tập do Phùng Trọng Bình và Dương Hạ Nguyệt giới thiệu, Nhà

xuất bản Phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc, Bắc Kinh

(2014), Liệu có kiếp sau (2017), Qua sóng Trƣờng Giang (2017).

- Các tập truyện vừa: Trƣớc mùa mƣa bão (1980, in lần thứ 7, năm

2016), Hòn đảo ph a chân trời (2000, in lần thứ 6, năm 2015), Truyện chọn

lọc cho thiếu nhi (2002).

8

- Các tập tiểu luận: Đối thoại văn chƣơng (2012 - chung với nhà thơ,

nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng), Thời gian lên tiếng (2013),

Đi tìm Sự Thật (2017).

- Các tập biên khảo: Tuyển tập thơ Hạ Long (1977, in lần thứ 3 năm

2000), Tuyển tập thơ Bạch Đằng Giang (1988), Tuyển tập Nửa thế kỉ thơ

Quân Khu Ba (1995) và Tuyển chọn, giới thiệu thơ của 6 thi hào trong 6 tập

Khuất Nguyên, Xergây Exênhin, Raxun Gamzatốp, Yanit R txốt, Nicôla

Ghiden, Oan Uytman trong bộ sách Thi ca thế giới chọn lọc (2004).

- Hợp tuyển: Đá cháy (2016)

Ngoài ra, nhà thơ Trần Nhuận Minh còn viết và công bố nhiều bài báo

khảo luận, phê bình về các vấn đề văn chương, lịch sử.

1.1.2. Quan điểm sáng tác

Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có ý thức rất sâu sắc về sáng

tạo chuyên nghiệp. Ông đã trải qua hai giai đoạn lớn trong sáng tác: 1960 đến

1986; 1986 đến nay. Mỗi giai đoạn, ông có những quan niệm nhất định về

sáng tạo.

Nói về quan niệm sáng tác trong giai đoạn trước 1986, ông nhận ra

rằng: “Trước đó, tôi viết theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Và viết theo

yêu cầu của chính trị tôi viết cũng tận tâm và chân thành hết lòng mình. Chỉ

có điều, những bài thơ đó, tôi gọi nó đến theo yêu cầu của tôi, có khi nó đến

sớm, có khi nó đến muộn, thường thì nó không tìm tôi mà tôi phải tự đi tìm

nó. Nhưng nó đã đến, đều đến trong một tư thế đã tương đối hoàn chỉnh”

[14.tr285].

Giai đoạn từ 1986 về sau, khởi đầu từ công cuộc đổi mới, Trần Nhuận

Minh cũng thay đổi tư duy nghệ thuật trong thơ. Ông quan niệm: “Tôi viết về

những cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của mình… Tôi chỉ gọi đúng tên

sự vật. Mà sự vật trong bản chất của nó không lạc quan cũng không bi quan,

9

nó chỉ tồn tại” [14.tr293]. Nhà thơ nhấn mạnh về cội nguồn của sáng tạo: “Có

một nỗi niềm nào đó thực sự ám ảnh anh, buộc anh phải viết ra, để giữ thăng

bằng cho chính bản thân mình” [14.tr306]. Ông đúc kết rằng, sau suốt hơn

nửa thế kỉ cầm bút, bài học rút ra là “Hãy bắt đầu đi từ chõ dân tộc mình đi.

Còn chỗ đến, phải đến với toàn nhân loại” [14.313], và điều thấm thía nhất là

“Không dối trá”. Điều cuối cùng để làm nên một tác giả, theo ông là nằm ở

câu hỏi then chốt nhất: “Bạn có dám đánh cược cuộc đời mình vào tác phẩm

mà bạn đang viết hay không?” [14.tr317].

Tại Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 2, năm 2015,

nhà thơ Trần Nhuận Minh đã có tham luận rất công phu, tâm huyết. Ông nhấn

mạnh: “Tôi chủ trương làm thơ dễ hiểu, nhưng người đọc không hiểu một lúc

hết được điều mình muốn nói. Họ tưởng là đã hiểu, nhưng vẫn hình như

còn có một cái gì đấy, khiến họ phải tìm đọc lần sau, và cứ thế, mỗi lần họ

lại thấy vỡ ra một cái gì đấy, ngộ thêm một điều gì đấy mà tôi có nghĩ đến

khi tạo dựng tác phẩm, nhưng tôi không viết ra. Rồi đọc thêm, họ thấy cái

mà tôi chỉ gợi ý ra cho họ và cuối cùng, họ nghĩ tới cái mà tôi chưa từng

nghĩ tới... Và như thế, nếu thơ tôi chỉ có 300 người đọc với chiều sâu như

thế, tôi đã có 300 tập thơ khác nhau và tập của tôi sẽ là tập 301. Cũng đã có

nhà văn bàn về điều này, vì cho đến bây giờ, vẫn còn có người rất e ngại tính

đa nghĩa của thơ.

Có người băn khoăn về cách giải quyết vấn đề của thơ. Tôi nghĩ đó

không phải là nhiệm vụ của thơ. Trước đây, hiện nay, và cả sau này, thơ chỉ

có một nhiệm vụ thôi là phải hay. Còn nhà thơ, chỉ có một nhiệm vụ thôi là

phải viết hay. Có nhiều kiểu hay khác nhau, càng hay - càng hay khác nhau,

lại càng hay hơn nữa. Chỉ có thơ hay mới cứu được thơ. Chỉ có thơ hay mới

có bạn đọc. Không có bạn đọc thì thơ chết và nhà thơ cũng chết. Nhưng làm

được thơ hay, bao giờ cũng là một việc rất khó.

10

Bất cứ cái gì ra đời, đều có cái lí do chính đáng của nó. Những tìm tòi

không ngừng của các nhà thơ là nhằm khai thác và thăng hoa cái phần còn

tiềm ẩn trong sáng tạo những giá trị tinh thần của con người. Và đi theo cái

này, ủng hộ cái này, không bao giờ nên bài xích hoặc ruồng bỏ cái kia, như

tôn giáo và màu da, chúng cần phải được cùng tồn tại và bình đẳng trong mọi

giá trị. Tôi nghĩ thế và không hề lạnh nhạt hay thành kiến với các sáng tác

theo các khuynh hướng nghệ thuật khác tôi, thậm chí trái ngược với tôi. Bởi

thơ là của muôn nhà, đến từ muôn nẻo đường khác nhau, không chỉ của hiện

thực cuộc sống mà còn của cả cõi tâm linh xa xăm… Nhưng tôi có hai yêu cầu.

Một, anh viết theo kiểu nào cũng phải làm cho con người sống với con người

tốt hơn và như thế, cái thước để đo nó vẫn là giá trị nhân văn. Hai, làm giàu

thêm cho văn hoá, chứ không chống lại văn hoá”.

Như vậy có thể thấy, Trần Nhuận Minh là một nhà thơ vô cùng tâm

huyết, nghiêm khắc với mình, với nghề khi đặt ra những tiêu chí và cách nhìn

nhận rất rõ ràng, quyết liệt. Những quan niệm và cách nhìn nhận có sự khác

biệt qua các giai đoạn cũng cho thấy ông có sự dấn thân, dám tìm tòi, dám

thay đổi, có sự đổi mới và vận động đáng chú ý trong tư duy nghệ thuật. Điều

đó sẽ là một cơ sở để lí giải tại sao hành trình thơ Trần Nhuận Minh lại trải

qua nhiều khúc ngoặt và đột phá đầy bất ngờ thú vị đến như vậy.

1.1.3. Các giải thưởng đạt được

Với những sáng tạo bền bỉ và tâm huyết của mình, Trần Nhuận Minh

đã được ghi nhận và tôn vinh bằng nhiều thành tựu, giải thưởng khác nhau.

Ông đã đạt: Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007;

Hơn hai chục giải thưởng văn học khác nhau, trong đó có giải thưởng của Hội

Nhà văn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban toàn quốc

Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng văn nghệ Hạ

Long của UBND tỉnh Quảng Ninh.v.v..

11

Ông còn được trao một số phần thưởng cao quý khác: Huân chương

Kháng chiến hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì; 8 Huy

chương, 4 Kỉ niệm chương, 3 Bằng Lao động sáng tạo về văn chương.

Những giải thưởng cao quý trên đã góp phần cùng với tác phẩm của

ông để khẳng định vị trí, tên tuổi, tài năng của tác giả, khẳng định giá trị và

đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh cho đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại

nói chung.

1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại

1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại

Nền thơ Việt Nam hiện đại Việt Nam là một chỉnh thể được cấu thành

bởi các bộ phận, các giai đoạn, các tác giả với những tác phẩm cụ thể. Nó

được đặt trong một diễn trình với những bối cảnh và điều kiện về lịch sử - xã

hội cụ thể.

Trong chiều dài lịch sử, ở những thời kỳ có giao lưu với văn hóa thế giới thì

văn hoá bản địa đều có những thay đổi. Sự vận động phát triển của thơ Việt

qua các thời kỳ cũng là một minh chứng cho điều đó. Thời trung đại, do chịu

ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, ta có dòng thơ luật Đường; thời Pháp thuộc,

do ảnh hưởng thơ Pháp, phong trào thơ Mới xuất hiện; thời hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ Việt cách tân nhiều với sự tác động của

thơ Nga và thơ phương Tây; sau ngày thống nhất, điều kiện giao lưu càng

rộng mở, sự tiếp biến với nền thơ thế giới càng mạnh mẽ, các trào lưu thơ Âu

- Mỹ du nhập làm thay đổi nhiều diện mạo nền thơ Việt Nam đương đại.

Trong phạm vi đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng cách gọi thơ Việt

Nam hiện đại để nói về thơ thế kỉ XX và thập niên đầu của thế kỉ XXI, trong đó

chủ yếu nhấn mạnh hai giai đoạn: từ 1945 đến 1975 và từ sau 1975 đến nay.

Giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 1945: Những năm đầu thế kỷ XX là giai

đoạn giao thời, dấu vết thơ ca trung đại vẫn rõ nét, các bài thơ luật gò bó

12

được thay dần bằng những biến thể thơ ca dân tộc. Năm 1932 là mốc bắt đầu

thời kỳ Thơ mới, các nhà thơ đả kích thơ cũ, khẳng định cái tôi cá nhân trong

sáng tạo nghệ thuật. Phong trào Thơ mới là sự bừng nở của nhiều phong cách

nghệ thuật độc đáo, trong đó có những phong cách sẽ sống mãi với thời gian.

Có thể kể đến một loạt các tên tuổi như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,

Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,.. Trong Thơ mới, con

người cá nhân được tự do bộc lộ mình, phơi trải lòng mình, âm điệu buồn là

âm điệu chủ đạo trong các bài Thơ mới. Thơ mới đã có nhiều đóng góp về

mặt cách tân nghệ thuật đối với nền thơ ca dân tộc.

Thơ ca cách mạng thời kỳ này cũng phát triển mạnh và đạt nhiều thành

tựu nhưng chủ yếu đóng góp là về mặt nội dung.

Giai đoạn từ 1945 đến 1975: Hầu hết thể thơ quen thuộc trong thơ ca

truyền thống và hiện đại đều được các nhà thơ ở thời kì này đã sử dụng nhuần

nhuyễn, linh hoạt, thể thơ nào cũng có những thành công rực rỡ. Trong đó,

đặc biệt phải kể đến thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi và thể trường ca. Ngôn

ngữ thơ thời kì 1955 - 1975 xuất phát từ ngôn ngữ đời sống xây dựng chủ

nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Cho nên, trong thơ xuất

hiện một hệ thống từ ngữ không có ở thơ ca trước đó. Sức gợi cảm, gợi liên

tưởng của ngôn ngữ thơ thời kì này ngày càng đậm nét. Về giọng điệu thơ,

xuất hiện nhiều giọng điệu đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của thời đại, đó là giọng

hào sảng, lạc quan, giọng tâm tình, giọng châm biếm, mỉa mai,... Tuy nhiên,

điểm chung mà các nhà thơ đều hướng đến là khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm

hồn, tính cách của con người Việt Nam.

Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ ca tập trung thể hiện niềm vui lớn của

dân tộc, ca ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Thơ

càng ở giai đoạn sau càng đậm đà tính thời sự và tính chiến đấu, phản ánh một

cách kịp thời, chân thật, hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và

13

khí thế sôi nổi hào hùng của đời sống xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Bên cạnh đó, thơ còn giàu chất trữ tình và chất anh hùng ca. Thơ bộc lộ

những cảm nhận chân thành, giản dị mà rất sâu lắng tình yêu, niềm tự hào về

quê hương đất nước, về cuộc sống quá khứ, hiện tại và hướng về tương lai.

Những tên tuổi lớn đóng góp cho thơ ca giai đoạn này phải kể đến

những Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Thu

Bồn, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân

Quỳnh, Lâm Thị Mĩ Dạ, Hoàng Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, .v.v..

Có thể nói rằng, thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ (và cả chặng

nối dài của nó đến khoảng 1980) đã đưa nền thơ cách mạng đến giai đoạn

phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Chặng đường thơ ấy đã

đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại mình, đồng thời cũng là một giai

đoạn không thể bỏ qua trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Từ sau 1980,

cùng với cả nền văn học, thơ cũng phải tự làm mới mình, tìm lại vị trí trong

đời sống hàng ngày của con người, cái hàng ngày không hề giản đơn mà chứa

đựng bao sự phức tạp, những xung đột, những sóng ngầm và những khát vọng

không cùng. Thơ đã đi tìm những hướng mới, tạo nên diện mạo và giọng điệu

mới. Nhưng thơ kháng chiến không hề mất đi những giá trị bền vững của nó.

Không phải nó chỉ sống trong tiềm thức và kỉ niệm của những lớp người đã đi

qua cuộc chiến tranh, mà vẫn nằm sâu ở những lớp đáy của đời sống tinh thần

toàn xã hội, góp phần tạo dựng nền tảng tinh thần cho những thế hệ hiện nay

và sau này. Còn đối với tiến trình vận động của thơ, thì những thành công và

hạn chế của thơ kháng chiến có thể là sự gợi mở, kích thích cho những tìm

tòi, đổi mới thơ về sau.

Giai đoạn từ sau 1975 đến nay: Nét nổi bặt của thơ sau 1975 đến nay là

sự khẳng định con người cá tính, trong đó con người không tự thoả mãn, tự

bằng lòng mà luôn trên hành trình tìm kiếm các giá trị tinh thần.

14

Giai đoạn này có sự xuất hiện của nhiều bài thơ theo xu hướng hiện đại

chủ nghĩa hoà nhập với nền thơ hiện đại của thế giới, đem lại cho thơ nhiều

phẩm chất mới: thơ có thực nhưng cũng có ảo, có ý thức và cả vô thức, tiềm

thức, tâm linh.

Thời kỳ này, xuất hiện nhiều bài thơ rất ngắn, thơ văn xuôi, ngôn ngữ

vừa đi gần hơn với đời sống vừa giàu sức gợi, hàm ngôn.

Sau hai mươi năm, thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên không

ngừng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào của đời sống, các nhà thơ vẫn luôn tìm

tòi, thể nghiệm ở nhiều phương diện, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền

thống và hiện đại, để ngày càng đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần

không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo nên vẻ

đẹp phong phú, đa dạng, nhiều hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại.

Những nhà thơ nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến như: Thi

Hoàng, Trúc Thông, Y Phương, Dư Thị Hoàn, Hoàng Trần Cương, Nguyễn

Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,

Nguyễn Bình Phương, Vũ Quần Phương, Trần Quang Quý, Nguyễn Linh

Khiếu, Trần Hùng, Inra Sara, Dương Thuấn, Trương Đăng Dung, Đỗ Trọng

Khơi, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Chiến, Trần Hòa Bình, Phạm Công Trứ,

Nguyễn Trọng Tạo, Trần Hữu Dũng, Bùi Chí Vinh, Đỗ Minh Tuấn.v.v..

Nhìn một cách khái quát, thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI là

tiếp nối mạch thơ đổi mới cuối thế kỷ XX với cảm hứng thế sự và đời tư giữ

vai trò là cảm hứng chủ đạo. Hai dòng cảm hứng này đã chiếm lĩnh thơ ca

Việt Nam từ sau năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới sau 1986. Nhưng

trong những năm gần đây, với việc toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, với bao

biến cố lớn mà nhân loại nói chung và đất nước nói riêng đang phải đối mặt,

nội dung thế sự, đời tư trong thơ ca cũng có nhiều thay đổi so với giai đoạn

trước.

15

Trong những năm gần đây, thơ đương đại Việt Nam chứng kiến sự vận

động, phát triển hết sức mạnh mẽ, đa dạng, sự mở rộng và đột phá trong tư

duy và hình thức nghệ thuật. Thơ trẻ từ đầu thế kỷ mới ít cất lên tiếng nói đại

diện cho lý tưởng tập thể, mà chủ yếu khẳng định cái tôi cá thể của mình, từ

nhu cầu xác lập căn cước cho mình. Việc ít phải chứng nghiệm các hậu quả

chiến tranh và hòa nhập nhanh chóng vào quá trình toàn cầu hóa khiến cho

những biểu hiện của thơ trẻ Việt Nam ngày càng khác lạ với truyền thống thơ

ca được kiến tạo từ giai đoạn trước. Màu sắc giáo huấn, đạo lí đã nhường chỗ

cho các sắc màu khác, những nhận thức và trải nghiệm mới, khi thơ ca hiện

diện như một sân chơi tinh thần chấp nhận tất cả các ý hướng dấn thân, ngẫu

hứng, phá phách. Thơ trẻ tìm đến những khám phá, thức nhận, giãi bày mang

tính cá nhân về đời sống và tình người, làm nên những đổi thay về quan niệm

nghệ thuật: giải trí và tiền phong xác tín những kinh nghiệm mới. Đã có một

diện mạo khá mới mẻ cho thơ hôm nay với những tác giả trẻ như Nguyễn

Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh, Lê Vĩnh Tài, Văn Cầm Hải, Phan Huyền

Thư, Nguyễn Vĩnh Tiến, Trương Quế Chi, Ly Hoàng Ly, Đỗ Doãn

Phương.v.v..

Đặt trong một diễn trình và bối cảnh chung như thế, để nhìn nhận về

thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có sự phân tích một số trường hợp cụ thể, quan

trọng, đó là những nhà thơ tạo ra phong cách riêng, có những đóng góp riêng,

giữ một vị trí riêng, trong nền thơ đó. Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một

trường hợp tác giả như thế.

1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh

Trong đời sống thơ ca và lịch sử một nền thơ, khi người ta nói đến một

nhà thơ thì thông thường cũng đồng nghĩa với việc nói về vị trí nhất định của

tác giả đó. Tức là, mỗi nhà thơ sẽ như một đại diện của đề tài hay thi pháp mà

mình sở trường nhất, có thành tựu nhất. Khi nói đến Xuân Diệu là nói đến nhà

thơ của tình yêu, tương tự như vậy, Nguyễn Bính là nhà thơ của người quê

16

làng quê, Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn.v.v.. Nó như là một quy

luật của sáng tạo thơ ca.

Riêng vớ nhà thơ Trần Nhuận Minh, dường như đây là một trường hợp

đặc biệt, bởi thơ ông đã vượt qua quy luật ấy. Nói đến Trần Nhuận Minh

không thể định vị ông vào một vấn đề nhất định. Thơ ông không đơn thuần

như là đại diện của một mảng đề tài, một khuynh hướng, một thi pháp, mà nó

mang trong mình sự đa dạng đa chiều đa diện đầy biến ảo và phức tạp.

Trước hết, nói đến thơ Trần Nhuận Minh là nối đến một đại diện xuất

sắc của đề tài về ngành công nghiệp, người công nhân. Ông có những vần thơ

rất tình nghĩa về mảng đề tài này:

Nơi khúc dân ca nuối chúng tôi tuổi thơ

Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất…

Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than

Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than

(Lên tầng)

Những tập thơ vào khoảng thập niên 70 – 80 của thế kỉ XX như Đấy là

tình yêu, Âm điệu một vùng đất, Thành phố bên này sông.v.v.. đã nói lên tất cả

tình yêu, niềm tự hào, sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với vùng đất mỏ và

người thợ nơi đây. Với những tác phẩm trước Đổi mới 1986 này, Trần Nhuận

Minh được xem như nhà thơ của công nghiệp – công nhân.

Công cuộc Đổi mới toàn diện của đất nước từ 1986 đã tác động sâu sắc đến

cách nhìn, quan niệm về cuộc đời và nghệ thuật của Trần Nhuận Minh, khiến ông

có những thay đổi vô cùng quan trọng trong sáng tác. Kể từ đây, ông giã từ hoàn

toàn với cách viết cũ, để bứt phá sang một bút pháp hoàn toàn mới. Đó không phải

là sự rũ bỏ quá khứ, mà là sự vượt thoát khỏi tư duy cũ, thức nhận cũ của chính

bản thân mình. Ông đã viết những câu thơ hết sức mới mẻ:

17

Hãy áp tải sự thật

Đến những bến cuối cùng

Chai rƣợu ngang dốc ngƣợc

Đứng cùng trời uống chung

(Nhà thơ áp tải)

Với những tập thơ Nhà thơ áp tải (1989) và Nhà thơ và hoa cỏ (1993), Trần

Nhuận Minh lại trình làng một quan niệm nghệ thuật mới một cách vô cùng quyết

liệt, khi ông nghiền ngẫm sâu sắc và không né tránh về hiện thực đất nước, hiện

thực thời đại. Đặc biệt, tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ của ông đã được tái bản đến 22

lần – một kỉ lục trong thơ ca Việt Nam. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về

Văn học Nghệ thuật cũng chính là cho tập thơ xuất sắc này. Như vậy, Trần Nhuận

Minh lại được coi như một nhà thơ của hiện thực đất nước, hiện thực thời đại.

Đi đến tận cùng hiện thực, Trần Nhuận Minh bất ngờ đi vào một

chặng khám phá mới, đó là thế giới kì ảo của tâm tưởng, của vô thức, của tạo

hóa. Những vấn đề vô cùng thâm diệu biến ảo của cuộc đời, con người và

nghệ thuật được nhà thơ quan tâm, chiêm nghiệm, lí giải:

Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn

Ngàn năm bay ngƣợc bão

Mang sấm sét của những vùng chƣa qua

Mang ánh trăng của những thời chƣa tới

Cái mong manh thắng đƣợc cả sắt thép

Bền vững đến muôn đời

Cánh chuồn lấy thơ ở đâu ra

Từ hồn nhiên kh trời chăng

(Bản sonate hoang dã)

18

Hoặc như:

Đấng Mê Tơi đang nói

Trong im lặng khôn cùng

Trong sắc chiều bâng khuâng tận đáy

(Bản sonate hoang dã)

Với những tập thơ vô cùng đặc sắc như Bản sonate hoang dã (2003),

45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008),

Trần Nhuận Minh lại hiện ra như một thi sĩ - triết gia, thi sĩ - thiền gia. Ông

được xem như một nhà thơ dũng cảm dấn thân về phía bí ẩn vô tận của tạo

hóa, của con người, của sáng tạo nghệ thuật và thi ca.

Chính vì vậy, có thể thấy nhà thơ Trần Nhuận Minh là một trường hợp

độc đáo trong thơ ca Việt Nam hiện đại, không chỉ bởi quãng đường sáng tạo

hơn nửa thế kỉ qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và một sự nghiệp sáng tác

đồ sộ hơn hai chục tập thơ nhiều giá trị, mà còn bởi sự đa dạng và biến ảo

không ngừng trong cùng một bản thể thi sĩ. Nó khẳng định sự đóng góp đặc

sắc, to lớn và quan trọng cùng một vị trí trang trọng của thơ Trần Nhuận Minh

trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

Có thể nói, với những đóng góp ấn tượng và đậm nét của mình cho thơ

ca nước nhà, Trần Nhuận Minh đã trở thành một tên tuổi sáng giá làm nên

diện mạo thơ ca Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ XX, những năm đầu

thế kỉ XXI. Đánh giá về Trần Nhuận Minh - tác giả và tác phẩm, nhà nghiên

cứu văn học người Trung Quốc – GS. Phùng Trọng Bình đã nhận định mang

tính khái quát cao: “Trần nhuận Minh rất tinh tế trong việc học hỏi, kế thừa và

vận dụng ý thơ của văn học truyền thống cổ đại. Tinh hoa của các tác giả nổi

tiếng như nhà thơ Trung Quốc Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, nhà văn vĩ đại nước

Nga Lev Tolstoy, thi hào Sergei Esenin, tiểu thuyết gia – nhà soạn kịch Tây

Ban Nha Miguel de Cervantes, đặc biệt là văn học truyền htống Việt Nam với

19

tác giả tiêu biểu là đại thi hào Nguyễn Du…, đều là nguồn dinh dưỡng phong

phú nuôi dưỡng nhà thơ trưởng thành. Cùng với nỗ lực học tập và đúc rút

kinh nghiệm quý báu của các bậc vĩ nhân, học hỏi những sở trường của nhiều

nhà văn, nhà thơ lớn, từ đó trong ông đã hình thành một phong cách nghệ

thuật độc đáo và đặc sắc khác lạ, trở thành một nhà văn, nhà thơ chủ chốt

trong văn học Việt Nam, và đang từng bước tiến vào văn đàn thế giới”

[14.tr263].

Tiểu kết chương 1:

Nhà thơ Trần Nhuận Minh với bề dày sự nghiệp sáng tác của mình, với

những giải thưởng văn học cao quý được trao tặng, đã khẳng định vị trí và sự

đóng góp to lớn và đặc sắc vào nền thơ Việt Nam hiện đại. Trần Nhuận Minh

xứng đáng được coi như một trong những nhà thơ tiêu biểu xuất sắc của nền

thơ hiện đại Việt Nam. Việc nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh là vô cùng ý

nghĩa, không chỉ với cá nhân tác giả nói riêng, mà còn là với một giai đoạn

của nền thơ Việt Nam nói chung.

Qua hơn nửa thế kỉ cầm bút, Trần Nhuận Minh đã có những thay đổi,

vận động nhất định, thể hiện qua những tác phẩm với đề tài và bút pháp đầy

đa dạng, linh hoạt. Nghiên cứu Trần Nhuận Minh với các giai đoạn khác nhau

cùng quan niệm và tư duy nghệ thuật khác nhau cũng là một cách đối chiếu để

nhận diện các chặng đường thơ ca Việt Nam hiện đại.

20

Chƣơng 2

CẢM HỨNG TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

2.1. Vấn đề Cảm hứng trong thơ

2.1.1. Khái niệm Cảm hứng

Trong sáng tạo nghệ thuật, cảm hứng giữ một vai trò quan trọng. Nó

tuân theo quy luật tình cảm, chi phối nội dung và hình thức của tác phẩm.

Cảm hứng chính là một tình cảm xã hội đã được ý thức, là sự rung động của

tâm hồn nhà văn trước cuộc đời; mặt khác, cảm hứng là điều kiện không thể

thiếu, là linh hồn của tác phẩm, góp phần làm nên sức sống lâu bền cho tác

phẩm.

Thuật ngữ cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa diễn

thuyết, sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lí luận văn học

xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của

thái độ tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa

này, cảm hứng chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm

hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất

định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm. Đây là cái

mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế

giới quan của mình trong tác phẩm.

Trong công trình nghiên cứu Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà lí luận

đã định nghĩa cảm hứng là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt

tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất

định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm”

[12.tr44]. Như vậy, cảm hứng là sự xúc động thăng hoa, bao trùm và tác động

đến toàn bộ quá trình sáng tạo của người viết và cả quá trình đồng sáng tạo

của người đọc. Không có cảm hứng thì tác giả không sáng tạo được tác phẩm,

21

và tác phẩm cũng sẽ không tìm được đến sự đồng điệu của bạn đọc.

Nhà nghiên cứu lí luận phê bình Bêlinxki coi cảm hứng chủ đạo là điều

kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó biến sự

chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng,

một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành.

2.1.2. Cảm hứng trong thơ

Thơ ca là khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc

điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là một bài

thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc

một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần

giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính

trong bài. Thơ thường dùng như hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình

cảm xúc động trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng

trước phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước thảm cảnh. Sự tương tác giữa

tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn

bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức

thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết. Muốn làm được như

vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và

nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn

có trước đây.

Một trong những yếu tố quan trọng tiên quyết để sáng tạo thơ là phải có

nguồn cảm hứng. Không bắt đầu từ cảm hứng thì các yếu tố như kĩ thuật, cấu

tứ, câu chữ.v.v.. cũng không thể chuyển hóa thành một bài thơ thực sự. Cảm

hứng là mạch nguồn khơi gợi nên những sự rung cảm sâu xa trong con người

nhà thơ, từ đó thôi thúc nhà thơ viết ra một cách đắm đuối, hết lòng, chân

thành và sâu sắc. Tìm hiểu về mạch nguồn cảm hứng chính là một yếu tố

quan trọng và căn bản để ta chỉ ra được nhà thơ/nền thơ đó thuộc về cội

22

nguồn lịch sử nào, không gian văn hóa nào, cộng đồng tộc người nào, và nó

đặt trong một tiến trình vận động ra sao.

2.2. Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh

2.2.1. Cảm hứng trữ tình

Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thi ca, có vai trò quan

trọng trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm,

thái độ được thể hiện bằng một giọng điệu riêng. Một cái tôi trữ tình phong

phú tựa như viên nam châm luôn luôn có sức hút về phía mình sự giàu có của

cuộc đời. Đặc điểm của cái tôi trữ tình phụ thuộc vào phong cách của mỗi nhà

thơ, của các trào lưu, khuynh hướng. Chính vì vậy, mỗi thời đại có một kiểu

cái tôi trữ tình đóng vai trò chủ đạo, chi phối cảm hứng trữ tình của các tác

giả. Đi vào tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh, có thể thấy một trong những yếu

tố nổi bật trong tác giả này, đó là cảm hứng trữ tình.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một người được sinh ra và trưởng thành

trong một thời kì lịch sử của dân tộc – thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông

cũng như bao người cùng thời sống trong bầu không khí hào hùng của những

năm tháng mà ai ai cũng hướng đến cái “ta”, cả dân tộc hòa chung một lẽ

sống lớn, lí tưởng lớn, tình cảm lớn. Niềm vui trong thơ Trần Nhuận Minh to

lớn, sôi nổi, hân hoan và tươi sáng như niềm vui của cả đất nước.

Không chỉ thế, ông còn là một người đã gắn bó cả cuộc đời mình với

mảnh đất vùng mỏ Quảng Ninh với những nỗi niềm vui buồn, thăng trầm của

người thợ nơi đây. Những gắn bó sâu nặng đó đã trở thành một phần làm nên

một chất thơ hồn hậu, yêu thương của Trần Nhuận Minh.

Có lẽ vì những lẽ đó, thơ Trần Nhuận Minh luôn tràn đầy nguồn cảm

hứng trữ tình ấm áp, sâu nặng. Khảo sát thơ Trần Nhuận Minh, có thể nhận

thấy chất trữ tình này được khơi nguồn cảm hứng từ ba mạch vấn đề chính, đó

là: hƣớng về quê hƣơng, đất nƣớc; hƣớng về ngƣời thân, gia đình; hƣớng về

23

tình yêu, khát vọng.

2.2.1.1. Hƣớng về quê hƣơng, đất nƣớc

Đã là một người con của dân tộc, ai cũng có tình yêu lớn lao sâu sắc

với đất nước mình. Và khi giải bày tình yêu đó, mỗi người lại có một cách thể

hiện khác nhau.

Đối với nhà thơ Trần Nhuận Minh, trong tâm tưởng của tác giả, đất

nước là những gì vừa lớn lao nhưng cũng vừa bình dị, vừa thiêng liêng cao

vời nhưng cũng vừa gần gũi thân quen:

Đây là nơi đầu tiên ta nhận ra Đất Nƣớc

Ngổn ngang mây hong nắng chân trời xa

Bát ngát câu hò, nẻo đƣờng xòe nan quạt

Gan bàn chân mát lạnh bóng tre ngà

(Cổng làng)

Nói về Tổ Quốc, nhà thơ muốn nói đến trước tiên không phải những vĩ

nhân, những anh hùng, những danh nhân, mà đó là triệu triệu người dân nhỏ

bé vô danh đã ngã xuống, đã làm nên Tổ Quốc bằng máu xương:

Bạn thấy chăng

Hàng triệu triệu Ngƣời

Lần lƣợt lao vào lửa đạn

Cho Tổ Quốc

Sáng bừng tên tuổi

Rồi để lại những nấm mồ vô danh

Trắng đến tận chân trời

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

24

Trở về quê hương như là tìm nơi bình yên cho tâm hồn tránh xa vòng

xoáy của những vụ lợi, toan tính. Chỉ cần đặt chân lên con đường quen thuộc,

con người đã cảm nhận được ngay cảm giác bình yên. Quê hương là nơi nuôi

dưỡng con người lúc nhỏ, từ miền quê đó con người đi tới những chân trời

mới, thế nhưng mỗi khi vấp ngã hoặc mỏi mệt trên đường đời lại quay về tìm

nguồn an ủi ở quê hương. Quê hương nghĩa nặng, tình sâu cho nên dù đi đâu

ai cũng mang trong mình hình bóng quê nhà.

Người viết nào cũng đặc biệt gắn bó máu thịt với một vùng quê, một

không gian của riêng mình. Nó trở thành vùng sáng tạo, không gian sáng tạo

cho nhà thơ. Nó như là một quy luật tinh thần: “Quê hương mỗi người chỉ

một, như là chỉ một mẹ thôi”. Không có mạch nguồn cảm hứng nào mãnh liệt,

bất tận như nguồn mạch quê hương.

Nói về quê hương mình, Trần Nhuận Minh phơi phới tự hào, tha thiết

yêu thương, bừng bừng khí thế. Đó là quê hương anh dũng, quê hương nghĩa

tình, tươi đẹp:

Và cánh diều chao lƣng trời

Tiếng kèn vàng đồi

Bay nhƣ đàn ong đi lấy mật

Náo nức nhƣ tiếng đời sầm uất

Lƣợn lúa chiêm trăng, con chép đớp trăng rơi

Tở mở trong hố bom, bèo dâu xanh nụ cƣời

Lửa ch n hồng trong bếp

Sao nở trắng trên mái nhà nhƣ ngô nếp

Buổi họp giữa sân kho, thêm mới các chỉ tiêu

Chiến trƣờng xa thêm thƣ ngƣời yêu

(Tiếng kẻng vỏ bom của ông tôi)

25

Có thể thấy, nhà thơ Trần Nhuận Minh có một tâm thế sống vô cùng

thiết tha, sâu nặng, hết lòng và trọn mình với quê hương, xứ sở, đất nước. Đó

là một mạch nguồn sâu xa, vững vàng, bền chặt để thơ Trần Nhuận Minh neo

đậu, bám rễ và vươn cao.

2.2.1.2. Hƣớng về ngƣời thân, gia đình

Trong đời sống tình cảm con người, thì gia đình có lẽ là một điều gì đó

thuộc về sâu thẳm nhất, gần gũi nhất, vĩnh cửu nhất. Đó là nơi đầu tiên và còn

lại cuối cùng của tình yêu thương. Tình cảm với những người thân trong gia

đình là tình cảm khởi nguồn mọi tình cảm khác. Đầu tiên con người phải biết

yêu mẹ, yêu cha, yêu anh, yêu em rồi từ đó mở rộng ra yêu làng xóm, yêu quê

hương, yêu Tổ quốc. Bởi vậy,tình cảm gia đình là tình cảm nhân bản nhất

trong con người. Cũng chính vì vậy, người thân, gia đình chính là những

nguồn mạch cảm hứng chân thành, sâu nặng, bất tận của các nhà thơ.

Cũng như biết bao nhiêu nhà thơ đã sống đã viết, nhà thơ Trần Nhuận

đã dành những trang viết sâu đậm, thân thương, xúc động nhất cho người

thân, gia đình của mình.

Hình ảnh người mẹ hiện lên trong thơ Trần Nhuận Minh vừa có sức

khái quát về những người phụ nữ Việt Nam lặng lẽ tảo tần lam lũ ngàn đời

nay, vừa mang những nét riêng ấn tượng và ám ảnh bởi dáng cong đòn gánh

và dáng còng lưng mẹ - người mẹ của tác giả:

Mẹ tôi lại gánh chiếc đòn cong

Lại đi gánh mƣớn, lại long đong

Cuộc đời v t trĩu đôi đầu gánh

Lƣng mẹ già nua còng lại còng

(Chiếc đòn gánh cong)

26

Hình ảnh người mẹ của tác giả còn trở đi trở lại đấy day dứt và nghẹn

ngào trong các trang thơ Trần Nhuận Minh. Đây là những câu thơ thể hiện nỗi

xót xa và thương yêu của người con trước những nỗi niềm đầy vơi cay đắng

khổ đau trong cuộc đời người mẹ - một câu chuyện và những tâm sự vô cùng

xúc động và thấm thía:

Trong ánh mắt mẹ tôi và trong câu dân ca

Thăm thẳm cất lên dù ở nơi nào

Những câu hát làm tôi nhớ quê hƣơng

Sông Kinh Thầy mùa xuân nƣớc xanh

Sông Kinh Thầy mùa thu nƣớc đỏ

Cánh buồm trắng mong manh chiều trở gió

Mẹ tôi đi chuyến đò đầy

(Đá Cháy)

Để đến một ngày, khi bước vào một tầm quãng nhất định của cuộc đời,

người con mới hiểu ra rằng, mẹ nhường nhịn và hi sinh đến thế nào, mẹ mạnh

mẽ và lớn lao đến thế nào:

Mẹ ơi, con đã có nhiều ngày

Đi dọc nỗi buồn đau xƣa của mẹ

Con dần hiểu vì sao mẹ cực khổ thế

Mà chuyện kể, lời ru, chỉ có ngọt ngào

(Mẹ)

Trước hình ảnh người em gái miệt mài say mê trong công việc, nhà thơ

nhận ra vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của cuộc sống thật giản dị gần gũi mà

vô cùng kì diệu:

27

Em đứng trên khung nhà cao tầng

Nhƣ chiếc lá xanh, n y trên cây sắt thép

Từ tay em những tia lửa bay ra

Em thành trung tâm muôn ngàn sao sa

(Cô thợ hàn trên khung nhà cao tầng)

Cứ như vậy, Trần Nhuận Minh đã dành những dòng thơ sâu nặng nhất,

chân thành nhất để viết về người thân, gia đình của mình bằng tất cả yêu

thương. Đúng như tác giả Trần Nhật Thu nhận ra: “Thơ Trần Nhuận Minh lay

động tận cùng chiều sâu của tâm linh, của lòng hướng thiện. Phải có lòng lắm,

phải thương yêu người lắm lắm, mới mong có được những câu thơ rất mực

chân thành” [30.tr304].

2.2.1.3. Hƣớng về tình yêu, khát vọng

Trong rất nhiều nỗi niềm hướng tới, nhà thơ Trần Nhuận Minh luôn

dành những cảm xúc vô cùng mãnh liệt để viết về tình yêu và khát vọng trong

cuộc sống. Có thể nói, đó là những lúc mà hồn thơ Trần Nhuận Minh trở nên

bùng cháy, thăng hoa.

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca bởi lẽ con người thời nào cũng

có nhu cầu yêu và được yêu. Đã có rất nhiều những giọng thơ tình độc đáo,

những bài thơ tình hay, cho nên để tạo được dấu ấn riêng trong mảng đề tài

này là cả một thử thách lớn lao không dễ vượt qua trong sáng tạo. Trần Nhuận

Minh có lẽ ý thức rất rõ điều này, cho nên ông viết về tình yêu không nhiều,

viết một cách kĩ lưỡng và đằm sâu, chân thành. Tình yêu trong thơ Trần

Nhuận Minh thường trầm buồn, man mác dư vị tiếc nuối về cái gì đã qua, ẩn

sau đó là nỗi đau của trái tim. Dù vậy, nó không bi lụy, mà bao giờ cũng đọng

lại những ấm áp rất con người, rất đời:

28

Có một chiều giếng đá lá khô bay

Con đƣờng dốc em đi không trở lại

Mây trinh nữ che nghiêng trời xóm Bãi

Chim le le gọi bạn cuối đầm sâu

Có một chiều yên ấm ở xa nhau

Anh chợt thấy vầng trăng rằm cũng khuyết

Tà áo mỏng bồng bềnh cơn gió rét

Thổi nao lòng từ tuổi chớm hoa bay

(Chiều xanh)

Nhiều khi, những bài thơ tình của Trần Nhuận Minh đủ khiến người

đọc chìm vào trong mạch cảm súc nghiêng say đắm đuối mê mải:

Cây cỏ vô tình nhuốm nỗi dở dang em

Gió thổi suốt đêm trăng mƣời bảy tuổi

Em ở đâu đây? Trời dịu dàng bối rối

Thả vào hồn ta giọt sƣơng cũ đầm đìa

(Thành phố bên này sông)

Hoặc đôi khi cũng đầy tình tứ duyên dáng:

Giao thừa đi nhƣ cô gái chƣa chồng

Đẹp nức nở những muộn mằn đắng chát

Ta ở đâu giữa mùa xƣa xanh ngát

Má trăng mờ run r y dấu môi hôn

(Bài thơ gửi lại)

29

Có khi, nhà thơ viết ra dường như chỉ để tự trải lòng mình, âm thầm

lặng lẽ với tình yêu của mình:

Ngoài làn mây trắng bay ở ngang trời

Và trái tim xanh đập trong lồng ngực

Anh chẳng có gì đâu

Em quay đi là phải quá rồi

Tiếc nuối làm chi thời dang dở

Chỉ mấy bông hoa dại là còn biết thƣơng

nỗi buồn mới của ngày xƣa

Cứ tìm đến góc vƣờn hoang mà hồn nhiên nở

(Bài thơ không gửi cho ai)

Nhà thơ có một cách nhìn, một cách quan niệm rất đặc biệt khi gắn tình

yêu với cái đẹp, như một sự ngưỡng vọng, một niềm tin vĩnh cửu về sự khôi

nguyên bất tử, lí tưởng:

Ta nhận ra em

Run run đứng chờ ta

Tà áo mỏng bay trong sƣơng khuya

Thấp thoáng núi đồi thiêng liêng huyền ảo

Da thịt thơm lừng trái ch n

Em yêu ơi

Cái hiện hữu hãy tin là Cái Đẹp

Chớ bận tâm quá khứ với tƣơng lai

30

Ta sẽ lặn xuống đất sâu

Khi tiếng đàn bầu dứt

Tìm ta ƣ

Hãy hỏi sắc hoa mai

(Hãy hỏi sắc hoa mai)

Cùng với chủ đề tình yêu thì chủ đề khát vọng cũng là điều mà nhà thơ

Trần Nhuận Minh gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm tư sâu nặng trong đó. Có thể

nhận thấy trong con người nhà thơ luôn chất chứa một nỗi khát vọng cao đẹp

về đời sống:

Gió đã xanh thổi lên từ hoa cỏ

Nở bời bời những khát vọng muôn sau

(Lời từ biệt)

Khát vọng ấy có khi được nâng lên thành lẽ sống, thành lí tưởng. Đó là

lẽ sống luôn sẵn sàng hết mình, trọn mình cho những gì mình lựa chọn và

theo đuổi, cống hiến để thỏa lòng và thanh thản:

Tôi đã chọn cho mình một cách sống

Thì tôi cũng chọn cho mình một cách chết

Chọn cách chết nghĩa là chọn cách sống

Và tôi ng ng cao đầu, thanh thản, đi

(Một trăm bước cuối cùng)

Cuộc sống là một hệ lựa chọn, mỗi người đều có lựa chọn của mình và

chịu trách nhiệm về điều đó. Nhà thơ cũng đã dứt khoát lựa chọn lẽ sống của

mình và chỉ còn biết hết mình cho nó. Đó là một xác quyết vô cùng đáng quý,

đáng trân trọng.

31

Cũng có những khi, nhà thơ Trần Nhuận Minh tạo ra một mạch trữ tình

chiêm nghiệm về con người, trong đó có chính bản thân mình, đem lại cho

cảm hứng thơ một gam màu tươi mới và ấn tượng:

Con ngƣời là những giọt nƣớc mắt

Của Đấng Âm U rơi xuống trần gian

Giọt nƣớc mắt bên phải là đàn ông

Giọt nƣớc mắt bên trái là đàn bà

Chúng lẫn trong nhau

Mà hóa ra bát ngát…

(Bản sonate hoang dã)

Và dù thế nào, thì cuối cùng nhà thơ cũng luôn hướng về một niềm tin

yêu hi vọng đầy ấm áp về cuộc sống này:

Cứ thế, bốn mùa mong ƣớc nối theo nhau

Ghét tất cả. Rồi lại yêu tất cả

Cứ thế

Mang lo toan vất vả

Trái đất quay trong Hi Vọng khôn cùng...

(Bốn mùa)

Có thể nói rằng, Trần Nhuận Minh là một nhà thơ của dòng mạch cảm

hứng trữ tình sâu lắng với những nỗi niềm thiết tha với đời sống, với con

người, với tình yêu.v.v..

2.2.2. Cảm hứng thế sự

Từ những năm tháng đất nước còn trong chiến tranh, nhà thơ Trần

Nhuận Minh đã thể hiện cái tôi trữ tình ngợi ca, tự hào về quê hương, đất

32

nước, yêu thương chia sẻ với con người, gia đình và người thân. Khi hòa bình

lặp lại, bước sang giai đoạn Đổi mới, lúc bấy giờ thơ của Trần Nhuận Minh đi

sâu vào đời tư, thế sự, để khám phá những miền sâu xa trong cõi tâm linh, sâu

thẳm của con người. Cái tôi ấy thể hiện nỗi buồn đau nhân thế, chứa đựng giá

trị nhân văn cao cả. Trần Nhuận Minh mong muốn được chia sẻ, cảm thông,

thấu hiểu hơn với tình đời, tình người. Đó cũng là nỗi trăn trở, suy tư của nhà

thơ về tha nhân, từ đó, rút ra những triết lý sâu sắc về cuộc đời. Cái tôi triết lý

đã được đúc kết từ sự trải nhiệm của bản thân, từ những chiêm nghiệm, nghĩ

suy; do đó rất mực chân thành và cảm hóa tâm hồn bao người.

Trần Nhuận Minh không cô độc với hành trang khắc khoải, bởi những

câu thơ sốt ruột của ông đang nâng tầm vóc sứ mệnh và sức mạnh cho thi ca

lên khỏi sự hờ hững của độc giả thời hiện đại:

Nơi này có ngƣời bị đ y lên giàn lửa

Chỗ kia có ngƣời bị xô xuống vực sâu

Ở đâu cũng có ngƣời bị lăng nhục…

Vị anh hùng ơi!

Thế gian chẳng bình yên

Dù mỗi sớm tiếng chim trời vẫn hót...

Sức mạnh của kẻ hèn, ý ch của bóng đêm

Vẫn mai phục dƣới những chùm quả ch n

Kẻ ác đôi khi làm việc thiện

Đánh thuốc độc cả tiếng cƣời

Đóng dấu thật vào những hồ sơ giả

Và bƣớc lên trong ánh hào quang

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

33

Nhà thơ Trần Nhuận Minh dường như bắt đầu thực sự tìm thấy con

đường nghệ thuật đích thực cho chính mình, khi xác định được tư tưởng nghệ

thuật: “Hãy áp tải sự thật – Tới những bến cuối cùng”. Và cũng chính từ quan

niệm và hướng đi đó, trang thơ ông thực sự được nâng tầm. Không quan sát

một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với đời sống hiện thực,

thơ Trần Nhuận Minh thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có thực

của những kiếp người, về những hiện trạng xã hội đầy những khiếm khuyết,

không ít những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung về số phận con người.

Trong Đối thoại văn chƣơng cùng với nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, Trần

Nhuận Minh cũng đã từng thể hiện và bày tỏ quan điểm của mình về thơ thế

sự như sau: “Thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao la, viết về con người, cũng

tức là viết về mình đấy. Và như thế, mình có mặt ở khắp mọi nơi, tự tan ra

trong nỗi vui buồn của rất nhiều người. Vậy thì cái được lại càng nhân lên,

còn gì sung sướng hơn nữa. Viết về người, vẫn cần hoa mĩ, trữ tình, nếu bài

thơ yêu cầu cần phải như thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt cách hay một

nhân cách. Thông thường thơ thế sự cần mộc hơn, nhưng cũng phải tinh hơn,

không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc, dư ba… thơ

sẽ không sống được”.

Có thể thấy, chất thế sự trong thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nằm ở hai

vấn đề chính: hƣớng đến những vấn đề bức thiết của đời sống; hƣớng đến

những thân phận bất hạnh.

2.2.2.1. Hƣớng đến những vấn đề bức thiết của đời sống

Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về cuộc sống đời

thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực tại. Những tác phẩm

mang cảm hứng thế sự chú ý khẳng định giá trị thẩm mĩ của cái đời thường,

khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quí trên hành trình đi tìm sự sống

và hạnh phúc của con người.

34

Thơ hôm nay cũng hướng nhiều đến đời sống tinh thần phong phú,

phức tạp của con người với những ham mê, dục vọng thường tình, những

khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đời thường. Dòng thơ đời tư

hiện nay vẫn tập trung vào những chủ đề mà thơ ca cuối thế kỉ XX rất quan

tâm như sự khẳng định cái tôi cá tính, tình yêu, tình cảm gia đình.

Cuộc sống cá nhân riêng tư của con người không còn bị thu hẹp trước

sự tỏa chiết của tập thể như thời chiến nữa. Đất nước bước ra khỏi chiến tranh

và bắt đầu vào công cuộc xây dựng, tái thiết đất nước. Tuy nhiên, theo quy

luật cạnh tranh, quan hệ giữa người với người cũng có những thay đổi. Bước

ra từ chiến tranh, con người trở về với cái đời thường, hiện sinh, phồn tạp, hối

hả, với nhịp sống tất bật lo toan, những nhu cầu về vật chất và tinh thần…

Một gương mặt xã hội mới “sặc sỡ và ồn ào” với tất cả mặt sáng và mặt tối đã

hình thành. Sự lên ngôi của những giá trị vật chất đã tạo nên chuyển động lớn

trong đời sống tinh thần của con người. Những chuẩn mực cũ dần thay đổi,

đạo đức xuống cấp, đồng tiền lên ngôi, giàu nghèo phân hóa…

Thơ Trần Nhuận Minh mang chứa trong nó đầy những trăn trở âu lo và

dằn vặt không nguôi. Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va

chạm trực tiếp với hiện thực đời sống, thơ Trần Nhuận Minh thể hiện sự cảm

nhận sâu sắc về những nỗi đau có thật trong kiếp người, về những hiện trạng

nhức nhối xót xa trong xã hội hằng ngày.

Trần Nhuận Minh buông sự đời hối hả xuống trang giấy như một minh

chứng thuyết phục nhất cho ý niệm, nhà thơ không có một nhiệm vụ nào khác

là góp phần hóa giải nỗi đau của thời đại mình.

Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi nhận xét: “Thơ nặng việc đời, nặng tình

người, tâm trạng, nỗi trăn trở của tác giả trước những buồn vui của cuộc đời

đã cho anh những câu thơ đích thực. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật, nhận

sứ mệnh áp tải sự thật đến với người đọc. Câu thơ đã vượt qua sự làm duyên,

35

làm xiếc, mà chân thực ào ạt chạm vào trái tim người đọc, lay động tâm hồn

người đọc” [30.tr300].

Với những trăn trở nhức nhối trước đời sống thực tại, nhà thơ Trần

Nhuận Minh đã có những câu thơ có thể coi như là quan niệm nghệ thuật

trong con đường sáng tác của mình:

Câu thơ nhƣ gan ruột

Phơi ra giữa trời mây

Mỗi nguồi một số phận

Ngang qua thế kỉ này

(Nhà thơ và hoa cỏ)

Nỗi niềm ưu tư đó dường như chưa bao giờ, không môt lúc nào tạm

lắng trong tâm hồn nhà thơ – người vốn sống một cách nặng lòng sâu nghĩa

và vô cùng trách nhiệm. Cho nên, ngya cả những lúc tưởng như được thảnh

thơi thư thái, thì nhà thơ vẫn không thôi ngẫm nghĩ về thời cuộc:

Hoa vàng nở hết mình đi

Nghe đâu tuyết trắng bay về rồi đây

Trời ơi! Vàng đến thế này

Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian

(Trong đồng cỏ hoa vàng)

Đứng trước mênh mông bát ngát mây núi, nhà thơ không khỏi nghĩ về

những vui buồn nhân thế muôn đời:

Thiên nhiên múa điệu rắn rồng cuồng dại

Thi với cao xanh, núi vút tầng lên mãi

Cúi mặt mây lƣợn. Ng ng đầu tuyết rơi

36

Thêm một bƣớc chân ta đã ở trời rồi

Trời mà chi! Ô hô! Trời lạnh lắm

Đỉnh nhọn mà chi! Ô hô! Những vây hãm trùng trùng

Thơ vứt ngang trời, sông núi điếc

Ta thả nỗi buồn vào muôn dặm không trung

(Tây Bắc)

Ngồi trò chuyện hàn huyên cùng người bạn, nhà thơ không ngừng thôi

thúc những câu hỏi về đời sống và phận người:

Mùa xuân nhƣ chén rƣợu đầy

Bạn ơi, cạn nỗi riêng này, với ta

Anh em ruột thịt trong nhà

Không chung chén rƣợu cũng là ngƣời dƣng

Lòng vui thì uống rƣợu mừng

Lòng buồn thì uống để cùng thƣơng nhau

Buồn vui trắng nửa mái đầu

Đời ngƣời đắng ngọt, nông sâu đã từng

(Với bạn)

Nhìn những ngang trái éo le oan khuất cực khổ cơ hàn của con người

trên cõi đời, nhà thơ không khỏi ước ao cho con người và cũng là cho chính

bản thân mình sao cho được sống một cách trong trẻo anh lành hồn nhiên và

thành thiện nhất có thể:

Kể gì hơn thiệt, nông sâu

Lòng lành mà chắc sự đâu đã lành…

37

Bâng khuâng nỗi bác, nỗi mình

Ngoài hiên, trăng khuyết nửa vành xa xôi

Ƣớc chi về tuổi ch n mƣời

Vẫy khăn quàng đỏ giữa trời thẳm xanh…

(Bạn chơi từ thuở khăn quàng đỏ)

Cũng theo quan niệm sống và mong ước như thế, cho nên ông dứt

khoát không để chuyện tiền nong vật chất giàu nghèo làm mình bận tâm, lo

lắng, điều mà ông suy nghĩ và chú tâm là sống ra sao để cho ra cuộc sống,

đàng hoàng và ý nghĩa. Ông tâm niệm:

Sống úp mặt xuống đất

Chết ngửa mặt lên trời

Giàu nghèo hay vinh nhục

Cũng trong vòng ấy thôi

(Bản sonate hoang dã)

Nhận thấy sự biến đổi đến chóng mặt với không ít những yếu tố tiêu

cực trong đó, nhà thơ chỉ còn biết thốt lên một cách chua chát trước tình

nghĩa, lối sống, ứng xử của không ít người trong xã hội ngày hôm nay:

Rõ ràng là chẳng giống ngày xƣa

Giống mai chăng, cũng không biết nữa

Đàn bà khoác bị cói, đeo k nh cơn mặc quần soóc ra phố

Uống rƣợu chửi tục nhƣ đàn ông

Khách đến nhà, trẻ toàn nói trống không

Khó lòng sai đun nƣớc hay giữ chó

38

Chúng đến trƣờng, tay dây mực xanh đỏ

Bôi lên lƣng áo các thầy cô

(Thoáng)

Hình ảnh những cô gái thôn quê hiền thục, nết na, dịu dàng, tình cảm,

chất phác đôn hậu ngày nào đã bị thay thế bởi những hình ảnh lòe loẹt diêm

dúa của váy áo xe cộ, của những nét mặt và lời nói sặc mùi tiền bạc:

Em mặc quần bò

Đi xe Pho

Nói tiếng Anh và mi mắt đẫm son Hàn

Tim em đập ở thị trƣờng chứng khoán

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Không chỉ là một số cá nhân hay người trẻ tuổi thay đổi, mà kéo theo

đó là hệ lụy sự thay đổi của cả hệ thống mối quan hệ trước đây. Dẫu biết sự

thay đổi để phát triển là một quy luật tất yếu, nhưng nhiều sự mất mát khiến

chúng ta không khỏi ngậm ngùi tiếc nuối xót xa. Xóm làng giờ đây đã khác xa

những gì nó từng có, không còn những nền nếp lề thói mà thay vào đó là sự

lộn xộn nhốn nháo đếu đáng sợ:

Làng tôi thành quán lâu rồi

Bún gà, lòng lợn cứ xơi suốt ngày

Hàng Tàu cho đến hàng Tây

Hàng nào cũng có… phơi ngay ra đƣờng

(Làng tôi thành quán)

Tính tự sự khái quát, mang tính tổng kết nghiệm sinh và sự suy tư về

cuộc đời, về sự bất biến của tự nhiên và cho đó là cái tài của Trần Nhuận

Minh được bộc lộ trong thơ vừa rõ rệt và vừa huyền ảo, để rồi từ đó, từ việc

39

tạo ý, lập tứ, đến bố cục tác phẩm; từ ngôn ngữ đến hình tượng; từ giọng điệu

đến khúc thức… đều là của riêng Trần Nhuận Minh, để từ đó nhà thơ phát

hiện và đặt ra những vấn đề rất cần quan tâm về con người:

Kẻ khôn ngoan thƣờng giấu điều mình nói

Ý nghĩ ở đàng đông

Miệng nói ở đàng tây

Giấu mƣu toan dƣới những cốc rƣợu đầy…

Ta già rồi

Chẳng biết giấu vào đâu

Nỗi ngu dại

Học từ thời Tốt Đẹp

Nén hƣơng tắt khi mình chƣa trọn kiếp

Cầm chân hƣơng đi đến cuối cuộc đời…

(Bản sonate hoang dã)

Thời đất nước mở cửa bên cạnh những điều mới mẻ, tiến bộ thâm nhập

thì mặt trái của nó cũng khiến cả xã hội thảng thốt. Những chuẩn mực đạo

đức một thời tuột dốc không phanh, trước “Những điều trông thấy mà đau

đớn lòng” nhà thơ đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh mọi người, cần có bản lĩnh

vững vàng, không sa vào những điều lệch lạc chuẩn mực xã hội.

Nhân vật trữ tình đã lấy ngôn từ miêu tả khách quan đè lên tâm tư trĩu

nặng, đè lên nỗi thảng thốt băn khoăn của mình trước hiện thực. Là sự đau

đớn khi chứng khiến bộ mặt làng quê thay đổi nhanh chóng, các giá trị truyền

thống nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế.

Kinh tế phát triển là điều ai cũng mong muốn thế nhưng phát triển như

thế nào lại là bài toán nan giải, nhà thơ đau lòng trước thực tại mồ mả tổ tiên,

40

cha ông - những giá trị tinh thần tâm linh giờ đây bị chà đạp không thương

tiếc để phục vụ những lợi ích kinh tế trước mắt:

Tổ tiên đã chết ở đây

Những gò đống cỏ xanh

Nay đã ủi đi rồi

San sát vũ trƣờng

Sân gôn Quán nhậu

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Hay hình ảnh về sự thay đổi của nông thôn khi những biểu tượng của

làng quê dần bị thay thế bởi những điều vô cùng lạ lẫm:

Làng đã chặt hết tre

Ao hồ san lấp hết

Nhà tầng bên nhau

Dây ăng ten tựa những cánh

Chuồn bay

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Và thật đau xót khi đối diện cảnh tượng:

Còn sót lại một cánh cò trắng mong manh

Thấp thoáng bay

Trong ráng đỏ hoàng hôn

Không tìm ra chỗ đậu

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Tất cả là cảnh hoang vu, cô quạnh đến đau lòng. Cánh cò không tìm ra

chỗ đậu, cánh cò bay mãi, cánh cò biểu trưng cho đồng quê rồi cũng bị hủy diệt.

41

Đất nước có thể giàu lên bao nhiêu không biết nhưng trước những giá

trị truyền thống con người phải đánh đổi để tìm kiếm giàu sang, tiền của thì

nhà thơ thấy quá đau xót. Cái giá ấy không hề rẻ, đó là mất đi những điều tốt

đẹp, dung dị đã nuôi nấng tâm hồn con người mấy ngàn đời qua.

Mỗi đứa trẻ từng lớn lên trong lời ru của bà, của mẹ, trong suối nguồn

tục ngữ ca dao. Đó là những điều thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn, trái tim trẻ

thơ non nớt, trong sáng. Ấy vậy mà giờ đây:

Buổi sáng đi

Xóm cũ vẫn là Làng

Lúc chiều về

Làng đã xoay thành Phố

Nhà đã tắt tiếng ru con muôn thuở

Tục ngữ ca dao

Chết trong sách giáo khoa...

Lũ trẻ ngủ chập chờn

Trong nhạc rock phát ra loa

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Trước cái đáng buồn của hiện thực phũ phàng đó, có những lúc nhà thơ

phải thốt lên một cách ngao ngán, đặt ra câu hỏi đầy trăn trở về đúng - sai,

được - mất, về lòng người, về sách vở đạo lí:

Sự đời bao rắc rối

Phải trái t nh sao đây

Lòng mình thì nhàu nát

Kinh sách thì thơ ngây

(Gửi bác Vương Liêu)

42

Phải nói rằng, tình trạng khủng hoảng niềm tin cũng là điều dễ hiểu khi

các nhà thơ trực tiếp va chạm với một đời sống hiện thực không lí tưởng hóa, lãng

mạn hóa của xã hội sau chiến tranh, sau đó lại chạm mặt với nền kinh tế thị trường

với bao đảo điên, thật giả lẫn lộn. Nhưng sau gần 30 năm, thời gian đã chứng

minh: xã hội dù có nhiều đổi thay nhưng vẫn có những giá trị tinh thần bền vững

không thay đổi đó là lòng nhân ái, hướng thiện và niềm tin yêu vào cuộc đời.

Cảm hứng thế sự, đời tư Trần Nhuận Minh thể hiện qua việc miêu tả

những cảnh đời, những tính cách, những tâm trạng điển hình, qua đó, nhằm

thể hiện đúng nhất bản chất hiện thực. Tuy nhiên, là một con người từng trải

và trung hậu, thay vì những phân tích "tách bạch" ráo riết về con người và sự

đời, nhà thơ Trần Nhuận Minh một cái nhìn biện chứng, một cái nhìn bao

dung và độ lượng hơn về cuộc đời, sự đời.

Nghĩ đến những áp lực về mưu sinh trong cuộc sống con người, nhà thơ

Trần Nhuận Minh không quá ngạc nhiên hay thất vọng, mà có cái nhìn rất tự

tại, bởi điều mà ông lấy làm quan thiết nhất là ở chỗ con người sống với nhau

như thế nào, trong gia đình ấm êm vuông tròn ra sao:

Đồng lƣơng vẫn thấp thôi

Giá chợ cao chóng mặt

Vợ mình không cáu gắt

Ấy là điều rất hay

(Thơ xuân viết bên núi Bài Thơ)

Chỉ có điều, nhà thơ không khỏi ưu tư và âu lo khi nghĩ về cái xấu, cái

ác – những điều vẫn tồn tại hằng ngày hằng giờ và đáng ngại hơn nữa là nó lại

vô cùng khó lường:

Luôn lo xa, họa vẫn cứ đến gần

Kẻ hiểm ác thƣờng có khuôn mặt đẹp

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

43

Đến mức nhiều khi cảm thấy bất lực nghẹt thở, cay đắng đến nghiệt

ngã, bởi tác giả nhận ra rằng nhiều khi cái ác cái xấu nó ngang nhiên tồn tại

và kề sát xung quanh chúng ta:

Cả xã hội diệt trừ cái ác

Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời

(Tự thuật)

Có thể thấy, Trần Nhuận Minh đã hướng ngòi bút của mình đến hầu hết

những vấn đề nóng bỏng, những nhức nhối của thực tại đời sống. Nó là tiếng

nói dự báo, cảnh tỉnh đầy lương tâm, trách nhiệm của một con người luôn trĩu

nặng tình đời.

Những vấn đề đáng chú ý là Trần Nhuận Minh tỉnh táo và tin vào mắt

mình, khi nhìn vào thực chất xã hội, khi theo dõi những số phận người.

Không cố tình ca ngợi, cũng không có ý định phê phán, Trần Nhuận Minh chỉ

muốn thể hiện đúng nhất, bản chất nhất, cái cuộc đời vốn có. Bút pháp hiện

thực nghiêm ngặt, sâu sắc và hàm súc, đã giúp ông lưu giữ được cả tâm và sự

của một giai đoạn giao thời khá nhiều nghịch cảnh, nghịch lí.

Trong tham luận đầy công phu và tâm huyết tại Liên hoan Thơ châu Á

– Thái Bình Dương lần thứ 2, năm 2015, tại Hạ Long, nhà thơ Trần Nhuận

Minh đã phần nào bày tỏ cho ta hiểu vì sao thơ của ông lại nhiều ưu tư thế sự

đến như vậy: “Tôi e nhất là thơ không có tư tưởng, chỉ có những “bức xúc”,

mà theo tôi “bức xúc”, chỉ là tác nhân của tư tưởng chứ bản thân nó không

phải là tư tưởng. Tư tưởng bao giờ cũng hiện ra trong thơ, điềm đạm, hồn

nhiên, thậm chí hiền minh mà vẫn rất tinh tế, nhẹ nhàng, thấm thía, qua từng

câu thơ, qua một kiểu kết cấu nào đó của ngôn ngữ hay hình tượng, hoặc qua

toàn bộ tác phẩm nghệ thuật. Nó hiện hữu vừa cụ thể vừa mơ hồ, phảng phất

nhưng đầy ấn tượng, nó cũng có tính cá biệt, như hương thơm của một loài

hoa. Hoa nào cũng có màu sắc, đó là nội dung, còn hương thơm của hoa mới

44

là tư tưởng. Những nhà thơ lớn, trước hết là do thơ họ có tư tưởng, tư tưởng

đó là phần sâu sắc nhất, tự nhiên tạo thành hệ qui chiếu để hội tụ các chủ đề

các nội dung. Và sự bức xúc của tư tưởng, buộc bài thơ phải ra đời, cũng

giống như đứa con buộc phải ra đời từ trong bụng mẹ.

Hiện chúng ta đã sống trong một thế giới phẳng sau chiến tranh lạnh. Đó

là thành công lớn nhất mà nhân loại đã có được. Hòa bình hữu nghị, hợp tác

và phát triển là nguyện vọng chung của các dân tộc và các quốc gia. Đó là

chất lượng sống của con người ngày hôm nay, yêu cầu phải nâng cao, đó cũng

là bội số chung lớn nhất của nhân loại. Thơ hơn lúc nào hết phải cất lên từ đó,

từ nhịp đập của mỗi con tim của mỗi nhà thơ, dù khác nhau về tiếng nói và

màu da, cũng từ yêu cầu và đòi hỏi lớn lao của cả thời đại, với âm hưởng lớn

như nhịp sóng triều cuồn cuộn và muôn đời khôn nguôi của biển cả”.

Qua phân tích và nghiên cứu đã cho thấy: Với cảm hứng chủ đạo là

cảm hứng thế sự, thơ Việt Nam hôm nay đã mở rộng phạm vi phản ánh hiện

thực đời sống, tính dân chủ trong thơ được đề cao, qua đó cũng thể hiện trách

nhiệm công dân của nhà thơ trước những vấn đề có tính thời sự. Dường như

sau một thời gian thiên về hướng nội, tư duy thơ hiện nay đang hướng tới một

sự cân bằng giữa hướng nội và hướng ngoại. Đó là sự thay đổi hợp lý sau một

thời gian thơ nói quá nhiều đến đời sống cá nhân mà ít quan tâm đến những

vấn đề xã hội, những vấn đề của thời đại. Đặt trong bối cảnh và ý nghĩa như

thế, chúng ta lại càng thấy rõ hơn rằng nhà thơ Trần Nhuận Minh đã chọn

được một con đường thơ mang nhiều ý nghĩa.

2.2.2.2. Hƣớng đến những thân phận bất hạnh

Trước tình trạng xã hội có nhiều khiếm khuyết, suy thoái, băng hoại về

môi trường, nhân cách, đòi hỏi phải kiếm tìm những giá trị đạo đức mang tính

nhân văn, thơ hôm nay đặt ra vấn đề ý thức trách nhiệm của mỗi người đối

với cuộc đời, kêu gọi lòng nhân ái của con người. Thơ đồng cảm, xót thương

45

cho những số phận bất hạnh, những em bé sơ sinh bị bỏ rơi, những em bé

đánh giày, những cụ già bơm xe, những cô gái bán mình làm vợ xứ người.

Thơ còn dành sự cảm thông sâu sắc đối với những danh nhân văn hóa, những

tài năng có phận bi kịch qua đó thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân

sinh, nghệ thuật, nói lên sự xót xa với những nỗi đau của con người trong mọi

thời đại.

Nhà nghiên cứu phê bình văn học Mai Quốc Liên cho rằng: “Thơ Trần

Nhuận Minh là thơ về những số phận, những nỗi đau nhân tình, được viết từ

một sự chia sẻ cảm thông sâu sắc như hòa vào nhân vật, nhưng vẫn không mất

đi tầm cao của thơ đã dạn dày trong thử thách khốc liệt của chiến tranh, của

những lý tưởng nhân văn mà chúng ta hằng theo đuổi” [29.tr108].

Ngòi bút Trần Nhuận Minh chỉ ra rất nhiều những mảnh đời bất hạnh,

bé nhỏ với những phát hiện tinh tế và sâu sắc bằng cả trực cảm và trực quan

của một nhà thơ giàu suy tư. Trong thơ Trần Nhuận Minh, rất nhiều những

cảnh đời, phận người được nhà thơ nói đến một cách đầy đau xót. Đó là

những kiếp người lao động, nông dân nghèo khổ, vật lộn bươn trải giữa cuộc

mưu sinh. Dường như ở bất kì đâu, bất kì lúc nào, chúng ta cũng bắt gặp

những số phận như vậy. Nhưng phải đến khi nhà thơ Trần Nhuận Minh quan

sát, suy ngẫm, lựa chọn và xây dựng để đưa vào tác phẩm, thì mọi thứ trở nên

ý nghĩa, sâu sắc, sáng rõ và ám ảnh hơn rất nhiều, với tất cả sự yêu thương

đồng cảm sẻ chia của tấm lòng thi sĩ.

Những bức chân dung về người nông dân lao động được điểm xuyết

tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng đã để lại trong lòng độc giả một nỗi ám ảnh,

đôi khi thật da diết về một kiếp người, một lớp người. Đó là hiện thực xã hội,

hiện thực của lòng người, là bản hợp xướng với cung trầm là chủ đạo về cuộc

đời của những người lao động trong xã hội đương thời.

Nếu thân phận người nông dân còn những nét u trầm, thì đời sống của

46

người công nhân nhiều khi cũng còn bấp bênh, chới với. Đó là cái lam lũ,

nhọc nhằn trong nỗi cơ cực mưu sinh:

Anh thợ lò mang t n phiếu ra chợ

Tôi có ba mƣơi ngàn, ai trả bao nhiêu?

Gạo nhà nƣớc, bốn tháng liền nợ sổ

Lũ trẻ trƣa nay lại phải treo niêu…

(Bên đường)

Hạnh phúc gia đình đâu phải do ngoại cảnh đem tới, mà nó được kết

thành, viên mãn là bởi chính cảm xúc nảy sinh từ lòng người. Với nhân vật dì

Nga, nửa đời an phận trước sự sắp đặt để vừa lòng cha mẹ: “Lấy chồng theo ý

mẹ/ Dạy con vâng lời cha”. Dì có một cuộc sống sung túc: “Chuỗi bạc trong

ngực áo/ Vòng vàng ngoài cổ tay”. Nhưng cuộc sống vật chất chỉ là lớp vỏ

bọc bên ngoài che đậy trái tim băng giá của dì hằng đêm chưa tìm đúng nhịp

đập đồng điệu. Không chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình yêu, dì Nga

rũ bỏ tất cả để đến với chốn neo đậu đích thực cho đời mình:

Dì theo một anh chàng

Chuyên nghề câu cá vƣợc

Bên nhau trong khoang thuyền

Giữa bốn bề mây nƣớc

(Dì Nga)

Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã đặt ra những vấn đề bức thiết trong tình

yêu và hôn nhân trước cuộc sống đầy biến động hôm nay. Đó là vấn đề bạo

hành trong gia đình, là sự đồng cảm trong quan hệ vợ chồng, niềm thiết tha

khát khao tìm được nửa kia của đời mình hay cố gắng để có được tình yêu

đích thực… Dù ở phía nào của vấn đề thì nhân vật chính vẫn là người phụ nữ.

Họ vừa là nạn nhân của người khác, vừa là nạn nhân của chính mình.

47

Hoàn cảnh trường hợp một người bạn có vợ được chọn đi làm ôsin ở

Đài Loan lại thể hiện một thực cảnh se lòng. Họ đang tìm phương kế để vượt

qua cái tao đoạn của cuộc khủng hoảng trong ngành:

Ƣu tiên gia đình liệt sĩ

Mình mới đƣợc làm ôsin

Ngành than hiện đang giãn thợ

Biết đâu có việc mà tìm

(Đến nhà bạn)

Tiềm ẩn bên trong những lời lẽ giãi bày chân thực này là một tâm trạng

thổn thức đến trĩu lòng. Đằng sau nụ cười ngơ ngác là giọt lệ của sự tê tái:

Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác

Bâng khuâng gƣơng mặt hao gầy

Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi

Biết rơi vào cõi nào đây…

(Với bạn)

Trước hoàn cảnh cuộc sống và thân phận của một người ngư dân đánh

cá biển, Trần Nhuận Minh không khỏi xót xa ngậm ngùi về một đời người

lam lũ cực khổ, một số phận thật mong manh giữa cuộc đời:

Không phải sáng nào cũng đứng cân tôm

Chẳng phải chiều nào cũng ngồi vá lƣới

Có điều gì chị còn chƣa kịp nói

Khi anh bồng bềnh đi về ph a bão đã tan

Có vẻ gì phấp phỏng lo toan

Trong vời vợi gian nhà ngƣời đánh cá

(Ở nhà người đánh cá biển)

48

Trần nhuận Minh cũng đặc biệt nhạy cảm trước những số phận trẻ nhỏ

thiệt thòi bất hạnh. Hơn ai hết, trẻ nhỏ là đối tượng cần được chăm chút, bảo

vệ, yêu thương, vậy mà sao còn quá nhiều những em bé tội nghiệp xé lòng:

Những em bé lang thang làm nghề bới rác

Bị xua ra khỏi nơi cƣ trú cuối cùng

(Giao thừa)

Nhà thơ luôn bị dằn vặt bởi hình ảnh những đứa trẻ bất hạnh, không có

cuộc sống đầy đủ bởi ông bất lực. Trong chiến tranh người lính như ông có

thể xả thân hi sinh để mang lại cuộc sống tự do cho dân tộc nhưng hôm nay

nhìn cảnh những đứa trẻ đói khát, ông lại không có cách nào để giúp đỡ tất

cả chúng:

Không ai vô can khi một em bé

Đến ngày nay vẫn còn đói bánh mì

(Bài thơ không định viết)

Bóng dáng dòng văn học hiện thực như đổ mình trên trang giấy. Sự thật

đời đã tạo nên sức mạnh cho câu chữ, tác động đến tâm hồn, tình cảm của

người đọc bằng những dòng thơ réo rắt. Nhà văn đau xót trước những cảnh

mắt thấy tai nghe, những đứa trẻ đáng ra phải được sống trong vòng tay nâng

niu của gia đình, xã hội lại phải lăn lộn vào đời quá sớm. Những nỗi nhọc

nhằn của công cuộc mưu sinh đã lấy đi nét hồn nhiên, trẻ thơ của các em. Và

đâu đó, nhà văn muốn nhắc đến trách nhiệm của người lớn, chúng ta cần phải

làm gì để những mầm non tương lai của đất nước được phát triển đầy đủ nhất.

Không chỉ là các em nhỏ, nhìn rộng ra, đâu đâu cũng vẫn có những con

người gặp những hoàn cảnh khổ đau, khiến cuộc sống này chưa một giây phút

nào được bình yên:

49

Nơi này có ngƣời bị đ y lên giàn lửa

Chỗ kia có ngƣời bị xô xuống vực sâu

Ở đâu cũng có ngƣời bị lăng nhục

Vị anh hùng ơi

Thế gian chẳng bình yên

Dù mỗi sớm tiếng chim trời vẫn hót

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Không thể thay đổi, hay chí ít là chưa thể thay đổi những ngổn ngang trong

đời sống, có lẽ người ta chỉ còn biết cầu nguyện. Trần Nhuận Minh cũng cầu

nguyện, để ước mong sao cho con người vơi bớt những bất hạnh đớn đau:

Ta thắp nén hƣơng đời

Lạy tạ

Xin sông núi sinh thành

Những nhà vua có đức

Để mọi gia đình đời đời sum họp

Và sa trƣờng

Mọc đầy bông lúa vàng

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Nhạy cảm và tinh tế, cái tôi thế sự của Trần Nhuận Minh soi vạn vật ở

nhiều trạng thái: tĩnh và động, hiện tượng và bản chất, ngẫu nhiên và quy luật,

cao thượng lẫn thấp hèn, phi lý và có lý, ý thức và vô thức, đau khổ và sướng

vui, bóng tối và ánh sáng, xấu và tốt…

Đúng như nhà thơ Lê Xuân Sơn đã có những khẳng định rất khái quát

về thơ Trần Nhuận Minh: “Nhà thơ và hoa cỏ đi vào lòng bạn đọc, được bạn

50

đọc chấp nhận, là do cái tình lớn lao thấm đẫm trong mỗi bài thơ, nỗi cảm

thông sâu sắc với mỗi cảnh đời, những gian lao vất vả và những nỗi đau của

quần chúng nhân dân lao động. Tất cả được viết một cách trong sáng giản dị, kết

hợp được yếu tố truyền thống với hiện đại. Thơ Trần Nhuận Minh hay, không

phải do cách tân, mới mẻ về hình thức, mà nhờ chiều sâu của cảm nhận những bi

kịch cuộc sống, được lọc qua lăng kính của nỗ lực hướng thiện” [30.tr314].

Có thể nói, cảm hứng thế sự là một mạch cảm hứng quan trọng, chi phối

đến nhiều phương diện tư tưởng và nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh. Xuyên

suốt trong thơ của Trần Nhuận Minh là một cái nhìn sắc sảo nhưng đôn hậu về đời

sống. Nó bộc lộ niềm trăn trở thường trực của nhà thơ trong việc xác lập những

giá trị tinh thần mới, vừa thiết thực và gần gũi với đời sống hôm nay nhưng vẫn

phải đáp ứng được những chuẩn mực nhân văn muôn thuở. Với điều đó, dường

như tác giả đã lựa chọn một hướng đi để lại ấn tượng sâu và đằm về chân dung

tinh thần của một nhà thơ đầy trách nhiệm với đời sống, nặng lòng với những giá

trị tinh thần cội rễ, dứt khoát, can đảm nhưng chân thành và vô cùng nồng hậu.

Nhạy cảm và tinh tế, cái tôi thế sự của Trần Nhuận Minh soi vạn vật ở

nhiều trạng thái: tĩnh và động, hiện tượng và bản chất, ngẫu nhiên và quy luật,

cao thượng lẫn thấp hèn, phi lý và có lý, ý thức và vô thức, đau khổ và sướng

vui, bóng tối và ánh sáng, xấu và tốt…

Cảm hứng thế sự với những nỗi niềm trong quá trình mưu sinh, trong

mối quan hệ giữa người với người luôn là mối quan tâm thường trực trong thơ

Trần Nhuận Minh, để trên cơ sở đó ông sáng tạo nên nhiều bài thơ có tư

tưởng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn. Khi cuộc sống cũng đã bộc lộ những

mặt phức tạp thì những lời giải thích đơn giản, công thức không còn thuyết

phục nữa. Mỗi người cầm bút cũng nhận ra rằng sức mạnh của tác phẩm thơ

ca không chỉ nằm ở khối lượng hiện thực được ghi chép, phản ánh mà còn

phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà thơ, vào chiều sâu của những tư

tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm trong đó.

51

2.2.3. Cảm hứng đối thoại

Ý thức tinh thần đối thoại trở thành một nhu cầu bức thiết trong đời

sống xã hội, đặc biệt là đời sống văn chương. Người ta có xu hướng muốn

chống lại thứ văn chương độc thoại, văn chương một giọng để đến với hình

thức văn chương đa thanh, chống lại thứ văn học “phải đạo”, “giáo điều” để

đến với thứ văn học đa diện đặc biệt là đa nghĩa, đến gần hơn với hiện thực

đời sống.

Bakhtin đã từng cho rằng: Chân lí không nảy sinh và không nằm trong

đầu một con người riêng lẻ, nó nảy sinh giữa những con người đang cùng

nhau đi tìm chân lý và trong quá trình giao tiếp đối thoại với nhau.

Nếu trước đây, nhà văn vẫn thường đóng vai một “tiểu thượng đế” giữ

tư cách phán truyền và rất thường khi độc quyền chân lý, ban phát lẽ phải, vì

lẽ phải mà nhà văn đề xuất cũng chính là những giá trị tư tưởng cao đẹp của

cộng đồng, của thời đại thì giờ đây nhà văn chỉ là người đề xuất một cái nhìn

riêng, bộc lộ một tư tưởng của riêng mình bình đẳng với nhiều cái nhìn và tín

niệm của bao người khác. Điều này khiến cho các sáng tác trước thì thiên về

giọng quyền uy, khẳng định mà giờ đây giọng điệu của người viết trở nên

khiêm nhường, nhỏ nhẹ, thiên về tâm sự, chia sẻ, giãi bầy.

Dường như, Trần Nhuận Minh đã sớm thức nhận và vô cùng thấm

nhuần tinh thần này. Có thể nói, ông là một trong những nhà thơ tiên phong,

đưa vào thơ mình những đối thoại đầy gợi mở và đặt ra những vấn đề rất đáng

suy ngẫm. Trong thơ Trần Nhuận Minh, tác giả thể hiện tinh thần đối thoại ở

hai hướng chủ yếu: đối thoại với lịch sử; đối thoại với những vấn đề thực tại.

2.2.3.1. Đối thoại với lịch sử

Lịch sử là những vấn đề, những sự kiện và nhân vật đã thuộc về quá

khứ. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc nó những điều nằm ở thì

quá khứ hoàn thành. Bởi quá khứ ấy với độ lùi thời gian sẽ luôn đòi hỏi được

52

tiếp tục nhìn nhận, lí giải của hiện tại, thậm chí là của tương lai. Lịch sử thì

chỉ có một, nhưng diễn giải về lịch sử thì có nhiều. Chính vì vậy, có những

câu chuyện, có những vấn đề mà ngày hôm qua ta đã nhìn nó bằng một cái

nhìn khác, hôm nay cần tiếp tục cái nhìn khác. Những sự khác biệt đó không

phải lúc nào cũng mang nghĩa phủ định lẫn nhau, mà có thể nó bổ sung cho

nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Đó chính là tinh thần đối thoại.

Trần Nhuận Minh là người luôn rất chú tâm suy xét các vấn đề lịch sử.

Nhiều câu chuyện tưởng như đã mãi mãi lùi vào quên lãng, nhưng ông không

ngừng ngẫm nghĩ về nó, để tiếp tục tìm ra những câu hỏi, những câu trả lời,

những bài học cho hôm nay.

Từ cái nhìn chất phác, đơn giản lúc mới viết, anh ngày càng tìm cách

nhận thức lịch sử. Nhưng lịch sử chính là thời gian và phương cách đo lường

thời gian ấy, là những hành động nhân nghĩa và tội ác được sắp xếp sao cho

nguyên lý nhân quả có thể được giải thích, không thể bị nghi ngờ. Và như thế,

lịch sử liên quan trực tiếp tới các số phận.

Cảm thức lịch sử gắn liền với cảm thức về thời gian. Đó không phải là

việc đi tìm thời gian đã mất, hoài niệm, đó là sự tìm kiếm dấu ấn của quá khứ

lên đời sống hiện tại, ghi lại tác động làm thay đổi. Đối với Trần Nhuận Minh,

có lẽ không có gì quý giá và cần thiết hơn việc nhìn ra cho được sự thật ấy, sự

mất mát ấy.

Không thấy tiếng ếch nhái quen thuộc uôm oam

vọng lên râm ran từ các ao hồ ngòi rãnh

Cánh đồng nƣớc trải mênh mông cũng yên ắng lạ lùng

Sấm ngạc nhiên tự hỏi

Vô t ch sự vậy sao?

(Nhà thơ và hoa cỏ)

53

Giữa trùng trùng núi cao và giăng giăng sương phủ, nhà thơ nhìn những

dấu tích thành nhà Mạc mà nghĩ về thăng trầm hưng thịnh, hữu hạn và vô

cùng, tiêu vong và tồn tại trong cuộc đời này. Ông như muốn trò chuyện với

cổ nhân để nói về cái nhỏ bé mà lớn lao của kiếp người, của thời đại:

Đƣa gƣơng soi chẳng nhìn thấy mặt mình

Thành nhà Mạc đâu đây, bồng bềnh thời binh lửa

Lau bạc đèo Giàng khét mùi mồ hôi ngựa

Sƣơng khói hỡi! Những linh hồn đau khổ

Khát khao chi, bay đến rát ruột ngƣời

Tự do ƣ? Thì cứ lên trời

Ơ hơ

Một biển mây mờ màu hữu hạn

Bỗng lấp đầy không trung

Trong khoảng khắc

Ta lặng im đối thoại với Vô Cùng

(Trong sương mù Cao Bằng)

Bên nấm mộ người lính trẻ, nhà thơ lại vang vọng lên biết bao câu hỏi

về lịch sử, dân tộc và con người:

Cái tới còn chƣa tới

Nỗi quên đã quên đâu

Tủi mừng cùng chén rƣợu

Bẽ bàng ôm hôn nhau

54

Khi tàng tàng chạm chén

Rừng lau gió ào ào

Nấm mồ ngƣời l nh trẻ

Hiện ra bên chiến bào

Biết nói gì với anh

Ngửa mặt đầy mây trắng

Mật đắng thì cứ đắng

Quế thơm thì cứ thơm

(Hoành Mô mây trắng)

Đứng trên lầu Hoàng Hạc, ngắm nhìn mênh mông mịt mùng sóng nước

Trường Giang, nhà thơ bỗng cảm hoài xót thương cho cố nhân xưa – thi hào

Thôi Hiệu. Tác giả không bày tỏ nỗi ngưỡng vọng kính cẩn như nhiều người

thường viết, mà cất lên những lời từ trong tâm can để trò chuyện với người

xưa, thẳng thắn đặt ra vấn đề về sự thơ ơ của thời nay, khiến cho những gì là

giá trị có thể trở thành vô nghĩa lí:

Hạc vàng có bay về cũng chả còn chỗ đậu

Nhà nhọn mọc nhƣ măng, trên bãi cỏ non xƣa

Nơi Thôi Hiệu đề thơ chỉ còn là chỗ thu tiền khách du lịch

Mây trắng có hết mình thì ngƣời đời cũng vẫn thờ ơ

Sau một ngàn hai trăm năm, Thôi Hiệu làm sao hình dung đƣợc

Có một nhà thơ từ tận cùng phƣơng Nam

đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông

mà thƣơng cảm bàng hoàng

Và thức suốt đêm trong thu lạnh

Nghe tiếng tàu ầm ầm lao qua sóng Trƣờng Giang

(Mây trắng)

55

Trước thành nhà Hồ, Trần Nhuận Minh không khỏi suy ngẫm về những

biến cố của lịch sử, mà ở đó là rất nhiều những khúc rẽ, những góc khuất với

biết bao điều cần nói về đúng – sai, được – mất có thể khiến bất kí ai cũng

phải rùng mình:

Dân là ai? Tôi bỗng rùng mình

Nền cung điện, phân bò rơi rải rác

Núi Cầm Hồ cỏ may bay xao xác

Mệnh trời ƣ? Nào biết có hay không

Từng thúng ngón tay đổ ào ào xuống sông

Nhà Hồ mất, làm sao mà cƣỡng đƣợc

Lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc

Bóng Ức Trai đi, động gió bốn phƣơng trời

(Đứng trên thành nhà Hồ…)

Đã có biết bao những cách nhìn, những nhận định, thậm chí là tranh luận về

cái đúng – sai, hay – dở, khôn – dại của nhân vật kinh điển Đông Kisốt – kẻ anh

hùng đánh nhau với cối xay gió. Trần Nhuận Minh tiếp tục góp một tiếng nói, một

cách nghĩ về vấn đề này một cách đầy khẳng khái và trân trọng:

Đất đã tự quên dấu t ch oai hùng

để tiếng chim nhƣ chuỗi bạc long lanh

bay rập rờn sông núi

Nhƣng nàng Đunxinê của anh ơi

nếu còn một ai bị đói khổ và đọa đày

ở bất cứ nơi nào lên tiếng gọi

56

Anh sẽ lại trở về trên lƣng ngựa Rôtxinăng

Giƣơng thẳng ngọn giáo dài,

lừng lững đi trong tái nhợt những đêm trăng

(Đông Kisốt)

Trước quảng trường Thiên An Môn, nhà thơ chia sẻ tâm tình với nhà

văn lớn của Trung Quốc là Lão Xá, để tiếp tục nhắc rằng, lịch sử với tất cả

những gì diễn ra thì đã qua đi, những không phải cái gì nó cũng đã được làm

rõ, được nhìn nhận đầy đủ:

Ngoài kia, quảng trƣờng Thiên An Môn, đèn màu chiếu lên lƣng trời

Dƣới Cống Long Tu, bao nhiêu nƣớc trôi

Đƣờng tàu điện ngầm, ngƣời đi chen nhau, một thời qua mau

Trên gƣơng mặt ai dần phai nỗi đau

Nghĩ gì hôm nay, nói gì mai sau

(Lão Xá)

Bên dòng sông Hoàng Hà, nghĩ về đại thi hào Nguyễn Du và những

tháng ngày đi sứ của tiền nhân, nhà thơ gửi gắm những nỗi niềm day dứt chưa

bao giờ nguôi, dù cho thời gian đã trôi và thời đại đã khác:

Ngƣời xƣa đi sứ qua đây

Bùn lƣng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi

Cỏ cây, thành lũy khác rồi

Hoàng Hà đã cạn, thơ Ngƣời vẫn sâu

Thời nào thì cũng nhƣ nhau

Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa

(Nguyễn Du)

57

Đến Vạn Lí Trường Thành, ông thẳng thắn cất lên tiếng nói chính trực

về sai lầm của lịch sử, về công – tội, thành – bại, đúng – sai của vương triều

xưa kia, mà nỗi đau còn đến mãi bây giờ:

Ta là công dân nƣớc Việt Nam đến đây

Không biết sau những ai, không biết trƣớc những ai

Ngửa mặt lên trời mà than rằng

Bức tƣờng thành bền vững nhất của mọi quốc gia ch nh là Lòng Dân

Nếu Tần Thủy Hoàng nghe trƣớc đƣợc lời của ta

Thì triều đại ông, không đến nỗi hơn một đời đã mất

(Vạn Lí Trường Thành ca)

Có thể thấy, việc đặt ra các vấn đề lịch sử để tiếp tục nhìn nhận và lí

giải của nhà thơ Trần Nhuận Minh đã đem đến những gợi mở rất đáng suy

ngẫm, để người hôm nay có thể tiếp tục diễn giải những gì đã qua, tiếp tục đối

thoại với lịch sử.

2.2.3.2. Đối thoại với những vấn đề thực tại

Thông thường, các vấn đề của hiện thực cuộc sống, của thời đại và con

người dễ bị đặt vào một hướng nhìn nhận chung, xuôi chiều. Trần Nhuận

Minh thì lại khác, ông thường có những cách tư duy, nhìn nhận vấn đề độc

đáo, sắc sảo, có khi là ngược dòng. Chính nhờ vậy, thơ ông thường góp thêm

những góc nhìn rất mới mẻ, đáng suy ngẫm.

Nghĩ về những vật vô tri vô giác, nhỏ bé, chúng ta thường mặc định

gắn nó với sự vô nghĩa, lãng quên. Thế nhưng, Trần Nhuận Minh lại nhận ra,

đôi khi những điều nhỏ bé lại làm nên những giá trị vô cùng lớn lao, những gì

tưởng ngắn ngủi nhất thời thì có khi lại dài lâu bền vững:

58

Ngọn cỏ bị lãng quên, bơ vơ cuối chân trời

Bền bỉ sống để mở ra sự sống

Đất đang sinh, lấn từng vòng biển rộng

Cũng bắt đầu từ ngọn cỏ này thôi

(Cảm ơn cỏ)

Với cái nhìn đá chiều đa diện, nhà thơ nhận ra một điều đáng ngạc

nhiên, khi mà hầu như mọi thứ đều bị thay đổi theo dòng thời gian, nhưng đời

người lại thật đặc biệt bởi có khi về già thì người ta lại như quay trở về tuổi

nhỏ, qua bao nếm trải và thăng trầm của đời sống thì người ta lại quay về cái

bản thể trong trẻo thiện lành ban đầu:

Non sông dù đã thay

Mặt ngƣời thì đã cũ

Đi hết một vòng đời

Lại gặp mình thuở nhỏ

(Trong nhà)

Có những khi, ngồi một mình với chén rượu và bài thơ, đối diện với

chính mình và suy ngẫm về cuộc đời, nhà thơ như muốn cất lên bao nhiêu tâm

tư nỗi niềm, đặt ra bao nhiêu câu hỏi trước thế nhân:

Đọc câu thơ thật say

Nghe hồn mình thật tỉnh

Biết bao là ấm lạnh

Trong một chén rƣợu vơi

(Thơ xuân viết bên núi Bài Thơ)

59

Suy ngẫm về con người và sự lựa chọn lối sống, cách đối diện và ứng

xử trước hoàn cảnh và cuộc đời, Trần Nhuận Minh muốn đặt ra câu hỏi về sự

đúng sai, bình thường và bất thường, có lí và vô lí, ý nghĩa và vô nghĩa:

Đập lồng chim thả chim ra

Chim bay quanh qu n hiên nhà chim quen

Nhẹ nhàng chim khẽ đậu lên

Nhành cây trong chậu, ngỡ miền rừng xa

Rồi chim tìm lại góc nhà

Chui vào lồng bẹp để mà hót chơi

Con chim quên cả bầu trời

Chỉ còn tiếng hót tặng ngƣời nuôi chim

(Con chim)

Cũng trong mạch tư duy ấy, nhà thơ đặt ra những câu chuyện, những

vấn đề rất đáng suy ngẫm:

Kiễng chân chẳng với tới trời

Vật nhau với thú thì Ngƣời sẽ thua

Nửa đời tìm nắng trong mƣa

Nửa đƣời đi tới cái chƣa có gì

Mỗi ngày một cuộc chia ly

Yêu em lúc trẻ, gặp khi đã già

Nghìn xƣa hoa vẫn là hoa

Chớ mong trời sập để mà bắt chim

(Nghìn xưa)

60

Một khía cạnh rất đáng chú ý nữa ở nhà thơ Trần Nhuận Minh, đó là

trong ông có một điều gì thẳm sâu, nửa như nguyên mẫu văn hóa, lề thói dân

gian, nửa như không khí phóng khoáng bạo liệt của cuộc đời hôm nay; chúng

cùng chọn ký gởi ở anh những ý nghĩa bí mật. Ít có nhà thơ nào mà tính

đương đại và tính dân gian giao hòa thích hợp và cất tiếng đối thoại như vậy.

Đứa thì đêm lạy van ngƣời

Ngày ngày vênh váo coi trời bằng vung

Đứa làm đạo diễn văn công

Nỗi đau đời giấu vào trong tiếng cƣời

Đứa đi buôn ngƣợc, bán xuôi

Vào Nam ra Bắc ăn chơi một mình

Đứa thì làm giám đốc ngành

Đi đâu cũng có nhân tình đi theo

Đứa thì áo túm, quần đeo

Tinh mơ vác gạo, xế chiều bơm xe

Đứa liều vƣợt biển trốn đi

Nổi chìm nào biết tin gì thực hƣ

Đứa thì làm trƣởng trại tù

Gặp nhau, tay bắt lạnh nhƣ đồng tiền

(Bạn chơ từ thời khăn quàng đỏ)

Một hồ sơ xã hội, mô tả những gương mặt, tố cáo những vấn nạn,

không phải chỉ những nhân vật mà còn là, và chính yếu là, những thông

điệp. Nó đặt ra vấn đề và cật vấn, thôi thúc chúng ta phải can dự, lên tiếng.

Đấy cũng là một cách đối thoại.

61

Bắt nguồn từ thế giới quan Phật giáo, cái tôi thế sự, đời tư của Trần Nhuận

Minh tìm cách "Trút bỏ tư duy nhuốm bụi trần gian", tự thanh lọc tâm hồn, để đạt

tới sự tĩnh tâm, thanh tịnh, tự đoạn tuyệt những ham muốn tầm thường, để mong

thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế tục một cách tự nguyện. Đấy cũng chính là một

cách để nhà thơ đối diện và tự đối thoại với chính bản thể trong mình:

Tôi cũng tự xoá đi

Bao khát vọng từng giày vò tôi

Những đêm mất ngủ

Nay chẳng còn có ý nghĩa…

(Bản sonate hoang dã)

Phân tích và khảo sát thơ Trần Nhuận Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn

Văn Sơn đã chỉ ra một khía cạnh rất đáng chú ý: “Nhà thơ Trần Nhuận Minh

đã tỏ rõ bản lĩnh học thuật, kết hợp với bản lĩnh thi ca, hoàn toàn quán thông

kiếp sống nhân sinh và đứng trên tầm cao đó, tác giả đã viết thành công

những tác phẩm nghệ thuật với tri thức uyên thâm và tinh thần nhân văn sâu

sắc… Biểu tượng của cái đẹp – sự thuần khiết luôn trân trọng, song hành cùng

tác giả với một tư tưởng hướng về thiền học trong suốt hành trình kiếp sống

nhân sinh, thể hiện một tâm hồn cao thượng, siêu thoát ra ngoài thế tục, càng

làm sâu sắc thêm ý nghĩa chân thật cuộc sống và chân lý lịch sử” [30.tr460].

Điều này được thể hiện đặc biệt tập trung và rõ nét trong tác phẩm

Bản sonate hoang dã, bởi trong đó là rất rất nhiều những gợi mở, những câu

hỏi, những đối thoại về đời sống, nhân sinh. Đoạn thơ sau có thể coi là một

điển hình cho vấn đề:

Tiếng chó sủa ngoài ngàn dặm

Đám mây bay qu n trong nhà

Tôi hỏi Đấng Mê Tơi nhƣ thế là thế nào?

Ngƣời đáp nhƣ thế là nhƣ thế

62

Mùa thu đi qua ngọn cây

Để lại lƣng trời những mảnh vàng xao động đến nao lòng

Mùa hạ đi qua đời ngƣời

Để lại vầng hào quang trên tóc

Tôi hỏi Đấng Mê Tơi nhƣ thế là thế nào?

Ngƣời đáp nhƣ thế là nhƣ thế

Từng đàn chim lũ lƣợt bay về phƣơng Nam

Chúng bội bạc với quê hƣơng phƣơng Bắc chăng

Con cá kình biển Đông tun ghoành trong sóng dữ

Bụng chạm cát là chết

Chúng yếu hèn chăng

Đấng Mê Tơi hỏi ta nhƣ thế là thế nào?

Ta đáp nhƣ thế không phải là nhƣ thế

(Bản sonate hoang dã)

Tóm lại, có thể thấy, thơ Trần Nhuận Minh luôn mở ra các hướng các

ngả để tỏa ra và hòa vào đời sống, kiếp người, qua đó không ngừng cất lên

những tiếng nói đối thoại về các vấn đề của thực tại, đặt ra những vấn đề cần

tiếp tục nhìn nhận, suy ngẫm.

Lắng sâu, chiêm nghiệm cuộc sống và con người trong những chiều

kích khác nhau là một nét nổi bật trong cảm hứng đối thoại, nhất là khi văn

học bước sang thời đổi mới. Đó là cảm hứng vi mô với những câu chuyện

diễn ra trong cuộc sống đời thường ở nhiều ngóc ngách sâu kín của tâm hồn

và số phận con người. Từ đó nhà thơ tìm ra được các khía cạnh khác nhau của

thế thái nhân tình và bày tỏ triết lí nhân sinh.

63

Tiểu kết chương 2:

Mỗi nhà thơ đều bắt rễ vào một cội nguồn cảm hứng. Với Trần Nhuận

Minh, mạch nguồn cảm hứng lớn trong thơ ông là trữ tình, thế sự và đối thoại.

Nó làm nên một cái tôi bản thể thi sĩ vừa phong phú, da dạng mà vừa thống

nhất, vẫn sống động những cũng đầy lắng sâu.

Việc nghiên cứu những mạch nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Trần

Nhuận Minh giúp ta nhận ra thế giới nội tâm nhà thơ, đồng thời gián tiếp

phản ánh những vấn đề hiện thực khách quan xã hội tỏng thời đại mà nhà thơ

sống, trải nghiệm, chứng kiến trong suốt cả chiều dài nửa cuối thế kỉ XX, thập

niên đầu thế kỉ XXI.

64

Chƣơng 3

GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

3.1. Vấn đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ

3.1.1. Khái niệm Giọng điệu nghệ thuật

Trong nghệ thuật, người ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giọng điệu.

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu lí luận đã định nghĩa

giọng điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn

đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô,

gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay

suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [15.tr134].

Đồng thời, “giọng điệu còn phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình

cảm và thị hiếu th m mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên

phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho ngƣời đọc. Thiếu một giọng

điệu nhất định, nhà văn chƣa thể viết ra đƣợc tác ph m, mặc dù đã có đủ tài

liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [15.tr135].

Theo tinh thần định nghĩa này, giọng điệu thuộc về chủ thể sáng tạo

thẩm mỹ. Với loại hình trữ tình (tập trung vào thơ) thì đó là giọng của nhà

thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ trong thế giới nghệ thuật.

Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà đã có sự cắt nghĩa rất rõ ràng và thuyết

phục về vai trò của giọng trong sáng tạo văn chương khi chỉ ra rằng: “Giọng

vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một

âm hưởng nào đó, cùng có chung một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ

dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với

nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ

hơn, đầy chất thơ hơn, thậm chí có khi mới mẻ hơn” [47.tr152].

65

3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ

Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để làm nên phong cách

nghệ thuật của một nhà thơ, để thơ của tác giả này khu biệt với tác giả khác,

đó là ở vấn đề giọng điệu của thơ.

Nhà nghiên cứu Khrapchencô đã cho rằng, đề tài, tư tưởng, hình tượng

chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi

của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt

khác nhau của nó.

Giọng điệu trong thơ có thể coi như là sự tương hợp nội tại, giữa ý thức

có tính độc lập và sự lựa chọn thể loại phù hợp. Vì vậy, cũng như sự phát

triển của thơ, giọng điệu trong thơ là tự thân và tự nhiên.

Nhận định về thơ ca đương đại, PGS.TS. Lê Lưu Oanh cho rằng: “Hiện

tượng nổi bật nhất trong thơ hôm nay là hiện tượng giọng điệu. Giọng điệu

vốn là một trong những hình thức bộc lộ chủ quan rõ rệt. Giọng điệu là âm

hưởng chung trong cách cảm, cách nhìn, màu sắc cảm xúc. Kiểu tiếp xúc thế

giới là thái độ, tình cảm, lập trường, đạo đức của tác giả thể hiện trong lời văn

tạo nên một giọng nói mang tính phong cách” [30.tr340].

Giọng điệu là yếu tố quan trọng đem lại cung bậc riêng, cá tính riêng,

phong cách riêng, màu sắc riêng cho thơ. Một tác giả tạo được ấn tượng hay

không, được nhớ đến hay không, một phần quan trọng chính là thơ có giọng

điệu hay không.

Thơ hiện nay ngày càng đa dạng, phong phú về giọng điệu bởi các nhà

thơ đương đại có ý thức mạnh mẽ về bản sắc cá nhân và cá tính sáng tạo nên

luôn cố gắng tạo ra giọng điệu riêng. Mặt khác, cuộc sống được cảm nhận

nhiều chiều với những quan niệm thẩm mỹ khác nhau cũng quy định những

giọng điệu khác nhau.

66

3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, yêu thương, chia sẻ

Khi thơ nghiêng về cảm hứng trữ tình thì giọng điệu ngợi ca, yêu

thương, chia sẻ để nhằm giãi bày, tâm sự sẽ trở nên nổi trội. Giọng điệu này

xuất phát từ nhu cầu muốn được bày tỏ, muốn được khẳng định cái tôi cá

nhân của con người thời nay. Làm thơ là cách nhà thơ trải nỗi lòng trên trang

giấy, để mong tìm ở người đọc mối dây đồng cảm, sẻ chia.

Trần Nhuận Minh là nhà thơ nặng lòng yêu thương với quê hương, đất

nước, đồng bào và nhân dân. Ông đã bằng tất cả nỗi lòng của mình viết lên

những câu chuyện về cuộc sống của những người nông dân, công nhân, thay

họ bày tỏ những tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng. Sau Đổi mới 1986, ông

chuyển sang tìm tòi phương thức sáng tác mới, hướng ngòi bút của mình đến

những phận người bé nhỏ bất hạnh bất kì trong đời sống thường ngày. Tất cả

những điều đó đã giúp cho thơ Trần Nhuận Minh tìm được tiếng nói chung,

đến được với nhiều người. Nó là một tiếng nói vừa đầy tự hào ngợi ca, vừa

hết mực yêu thương chia sẻ.

Nhà thơ sử dụng một nhịp thơ chậm rãi, khoan thai và nhẹ nhàng, với

những hình ảnh gần gũi quen thuộc đến bình dị, đem đến những vần thơ vô

cùng thấm thía, ngọt ngào và đầy ấm áp tình cảm:

Bạn ơi tôi có hai lá phổi

Một là làng Điền Trì, mùa thu nƣớc nổi

Một nửa là phố mỏ Hồng Gai, quanh năm rừng rực nắng trời

Giữa hai lá phổi lành, đây trái tim tôi

Tim tôi đập theo từng nhịp thở

(Trình bày)

67

Trần Nhuận Minh có một mói gắn bó vô cùng sâu nặng với tình đất tình

người vùng đất mỏ thân yêu, cho nên thơ ông cũng da diết nỗi lòng của người

con đối với miền quê mình sinh sống, như còn tàu không rời xa sóng nước,

như cánh chim không thể xa mây trời:

Đã bảo đất này sẽ chẳng dễ mà yêu

Và không dễ mà thƣơng không dễ mà mê

Vậy mà anh chẳng hiểu vì sao

Chẳng thể xa đất này cho đƣợc

Nhƣ con tàu chẳng thể xa sóng nƣớc

Nhƣ cánh chim chẳng thể thiếu mây trời

(Âm điệu một vùng đất)

Đến cả những âm thanh nhỏ bé đời thường nhất cũng được nhà thơ lắng

nghe và chắt lọc vào thơ với tất cả sự thương quý, đến những hạt bụi vương

chân người cũng trở nên mến yêu:

Trong veo trong không gian

Tiếng cƣời em lƣu luyến

Tiếng than trôi ra bến

Náo động cả làng khuya

Đƣờng đến lớp em đi

Gót chân vƣơng than bụi

(Làng ven mỏ)

Có những lúc, giọng thơ Trần Nhuận Minh trở nên nhỏ nhẹ đến thủ thỉ,

tình cảm đến dịu dàng trìu mến, rất tự nhiên mà cũng rất đằm thắm duyên

dáng tình tứ. Bài thơ về câu chuyện đưa bạn gái về xin phép ra mắt mẹ là một

giọng thơ như thế:

68

Chúng con yêu nhau, mẹ có ƣng không

Bạn con đấy, rất là hiền, mẹ ạ

Biết têm trầu và biết khâu vá

Biết nấu canh cua đồng với rau mồng tơi

(Thưa mẹ)

Cũng nhiều khi thơ Trần Nhuận Minh lại hào hoa phóng túng và tràn

đầy hứng khởi. Ẩn sâu trong đó, cuối cùng bao giờ cũng là một trái tim nóng

bỏng tình yêu thương:

Biết trà ngon khi hƣơng bay ngang mặt

Biết em xinh khi em ngân giọng hát

Ai bày cho em cái áo trắng cổ sen

Để em xinh rồi, em lại cứ xinh thêm

Từ ngày xƣa, ai đã yêu ai thế

Trong câu hát, nhớ nhƣ giằng nhƣ xé

Ai chèo thuyền tìm ai uống nƣớc mặn cầm hơi

Anh ngồi nghe, thƣơng không thể nào nguôi

(Nghe hát dân chài trên biển Quan Lạn)

Khi yêu thì hào hoa đến vậy, khi trở về với những câu chuyện đời

thường thì thơ Trần Nhuận Minh rất đằm sâu, với giọng thơ đầy chia sẻ, an ủi,

bùi ngùi thương cảm. Bài thơ về cuộc rượu với bạn là một trường hợp điển

hình mang giọng điệu như thế:

Mùa xuân nhƣ chén rƣợu đầy

Bạn ơi, cạn nỗi riêng này, với ta

69

Anh em ruột thịt trong nhà

Không chung chén rƣợu cũng là ngƣời dƣng

Lòng vui thì uống rƣợu mừng

Lòng buồn thì uống để cùng thƣơng nhau

Buồn vui trắng nửa mái đầu

Đời ngƣời đắng ngọt, nông sâu đã từng

(Với bạn)

Có khi, Trần Nhuận Minh lại tạo ra trong thơ mình một âm hưởng,

giọng điệu lắng trầm đầy cảm xúc. Nó chất chứa cái da diết sâu thẳm của tình

cảm, nửa thực nửa ảo, xa xôi huyền bí và đầy vẫy gọi:

Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời

Em nhƣ vầng trăng sang bên kia trời

Mắt môi nào xƣa thôi buồn mà chi

Gió đã lay rừng muôn chim bay đi

Long lanh tìm ai cho gai lòng nhau

Đã qua sƣơng thu rơi vàng hoa cau

Đã qua nồng hè mƣa lan tan mau

Đã qua hanh đông lá đầy vƣờn sau

(Màu xưa)

Nhiều trường hợp, Trần Nhuận Minh đạt đến tầm cao bút pháp nghệ

thuật khi tạo ra một giọng điệu thơ nghe vô cùng nhẹ nhàng, bình dị, như chia

sẻ tâm sự, mà chứa đựng bao nghĩa lí sâu xa cao đẹp:

70

Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này

(Dặn con)

Nhưng cho dù có là những tâm sự nỗi niềm gì đi chăng nữa, cái cuối

cùng đọng lại trong thơ Trần Nhuận Minh vẫn là một niềm yêu thương sâu

đậm thiết tha với con người và cuộc đời. Điều đó đem lại cho thơ Trần Nhuận

Minh một giọng điệu lắng sâu và đầy trữ tình:

Còn bao nhiêu thời gian cho thức mây kia bay

về đến tận cuối trời

Cho dòng sông này tìm thấy bạn bè, lƣu lạc ngàn năm,

giữa các tầng nƣớc cồn cào biển sóng

Còn bao nhiêu thời gian cho câu thơ tôi nhảy múa và hát vang

Trong giọt mồ hôi thiêng liêng, tụng ca ngƣời lao động

Còn bao nhiêu thời gian để tôi yêu đất nƣớc

đã nuôi dạy tôi trong đói rét, đạn bom

Và tôi nhận ra, trên cõi đời này, chẳng có gì cao hơn Sự Thật

Còn bao nhiêu thời gian để tảng đá triệu năm lầm lì tăm tối

Bỗng bật nảy thành cây xanh, khi nghe vang một giọt mƣa xuân

(Còn bao nhiêu thời gian)

Đúng như người ta đã nói, cái gì đi từ trái tim thì sẽ đến với trái tim.

Thơ Trần Nhuận Minh luôn tràn đầy tình yêu, niềm thương cảm, sự hi vọng,

với một giọng thơ cũng vô cùng ấm áp ngọt ngào trữ tình. Đó cũng là một

trong những lí do để thơ ông đến với nhiều trái tim bạn đọc.

71

3.2.2. Giọng điệu phản tỉnh thực tại

René Descartes đã nói: "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại"; Blaise Pascal thì

cho rằng: "Con người là cây sậy biết tư duy". Có thể thấy rằng, nhận thức và

tự nhận thức là đặc biệt quan trọng đối với con người. Và để tự nhận thức,

Phản tỉnh là tự kiểm tra tư tưởng, hành động trong quá khứ để nhận ra

một trong những tư duy rất cần thiết, đó là tinh thần phản tỉnh.

sai lầm, tìm cách phòng tránh. Vì vậy, phản tỉnh thường mang tính tự giác và tự

thân, tìm ra các hạn chế, nhược điểm, từ đó khắc phục, sửa đổi, tự hoàn thiện;

và đòi hỏi phải được thực hiện một cách sáng suốt, có bản lĩnh để có khả năng

nhìn thẳng vào sự thật.

Phản tỉnh giúp con người có thể vượt thoát ra khỏi những "lối mòn", cả

trên đường đời lẫn trong vỏ não, mà người khác hay chính mình đã "ấn định",

"mặc định" cho mình theo những quy phạm khuôn vàng thước ngọc, chân

lý.v.v.., từ đó có khả năng tự chủ, độc lập, và sáng tạo.

Trong thơ ca, những nhà thơ có tầm tư tưởng nghệ thuật cao thường có

ý thức về phản tỉnh rất sâu sắc. Nó đem đến cho thơ ca những giá trị nhận

thức vô cùng ý nghĩa. Trần Nhuận Minh là một nhà thơ mang tinh thần như

thế.

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta có thể nhận thấy trong đó trách

nhiệm sống mà nhà thơ đã nghiêm khắc đặt ra cho mình, cho người. Đó là

những tiếng nói dự cảm, dự báo, phản tỉnh về hiện tình xã hội, với những éo

le ngang trái ngổn ngang trong các số phận con người, trong các vấn đề đời

sống. Nó làm nên một giọng điệu phản tỉnh thực tại đầy sắc sảo và ấn tượng

cho thơ Trần Nhuận Minh.

Khi nói về câu chuyện người vợ lính, Trần Nhuận Minh đưa ra cái nhìn

có phần khác biệt với số đông, truyền thống về đúng sai, về đạo lí, về nhân

văn và hạnh phúc:

72

Lừa dối chị mà đi, anh ấy đâu có lỗi

Cỏ hết mình xanh không che hết nỗi đau ngƣời

Chinh phụ nàng ơi, cành dƣơng úa đƣờng quay trở lại

Thì đi đi, đừng để anh mong

Hỡi quỷ thần! Trong cõi đen nhƣ đêm

Đừng để nàng một lần nữa mất chồng

(Tiễn một người vợ lính)

Khi nhìn nhận và bàn về vấn đề giáo dục, dạy dỗ, cách ứng xử với trẻ

em, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã mượn chuyện người xưa mà nói chuyện

nay, đưa ra những cảnh tỉnh rất xác đáng:

Nhờ ông viết giùm bài báo

Xin lỗi hàng ngàn trẻ con

Một đời tôi chuyên đánh chúng

Có đứa đến hộc máu mồm

Không tiền mà muốn xem phim

Chúng có trăm mƣu ngàn kế

Vẫn không che nổi mắt tôi

Chiến sĩ thi đua là thế

Trèo tƣờng chui qua cửa sổ

Quấn mình trong tấm màn nhung

Nằm bẹp dƣới gầm ghế lớn

Tôi cũng moi ra tận cùng

73

Đất nƣớc chẳng giàu lên đƣợc

Dù tôi chắt bóp từng đồng

Muốn thiện lại thành ra ác

Có ai giống với tôi không

(Phút lâm chung của cụ Hãn)

Chỉ bắt đầu bằng câu chuyện rất đời thường, nhỏ bé về than, nhà thơ đã

có những cách suy ngẫm đầy tính phát hiện và rất có tầm tư tưởng:

Bây giờ tôi đứng trƣớc Than

Đứng trƣớc ch nh mình

Bài học của than Tỏa sáng

Không Tỏa sáng thì không Tồn tại

Tôi cho rằng trời cũng chẳng thể nào thành trời đƣợc

Nếu đêm đêm không tự đốt cháy mình bằng những ngôi sao

(Đá Cháy)

Hệ tư tưởng giáo điều xưa cũ ràng buộc con người, nhất là ràng buộc

phụ nữ, một cách vô cùng nặng nề. Đi ngược lại cách nhìn xuôi chiều đơn

thuần đó, Trần Nhuận Minh cất lên tiếng nói phản tỉnh đầy nhân văn, khiến

cho bất kì ai cũng phải tự xem lại và suy ngẫm lại:

Mợ đáng thƣơng hay đáng trách

Trời ơi! Tách bạch mà chi

Dòng sông muôn đời vẫn thế

Đục trong thì cũng trôi đi

(Mợ Hữu)

74

Nếu như đã từ lâu, nhiều người có một cách nghĩ quen thuộc và một

chiều về các bậc anh hùng nhiều công trạng, thì nay Trần Nhuận Minh thêm

vào một góc nhìn rất mới mẻ, và rất có sức thuyết phục:

Có lắm anh hùng, đất nƣớc bình yên, là một điều vĩ đại

Không cần lắm anh hùng, đất nƣớc vẫn bình yên, còn vĩ đại hơn nhiều

(Năm khúc hát bên bờ Trường Giang)

Mặc dù là một thi sĩ dành hết tâm sức, đắm đuối với thi ca, trọn mình

cho nghệ thuật, nhưng Trần Nhuận Minh không quên tự phản tỉnh với

chính mình về con đường và ý nghĩa của thơ ca, về sứ mệnh và giá trị đóng

góp của nó:

Chợt nhớ bao ngƣời cấy hái

Quanh năm lƣng bán cho trời

Vậy mà đói ăn thiếu mặc

Chợt thấy thơ mình có lỗi

Lạc loài trăng gió chi chi

(Nghe trộm hai bà trò chuyện)

Cái mà nhà thơ nhận thấy quan thiết hơn cả không phải những uy

quyền, những vương triều, mà chính là ở vấn đề đời sống của mỗi con người

trong thế gian này ra sao mà thôi:

Thế gian vẫn ngổn ngang

Nhƣ khi trời đất mới tạo thành

Núi nghĩ mà xanh cây

Sông buồn mà bạc sóng

Và ngƣời cày ruộng

75

Vẫn chẳng cần

Những Vạc Đỉnh uy phong

Của các triều Vua

(Con người)

Những quyền lực, danh vọng sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nếu như nơi nơi

vẫn còn những thân phận nhỏ bé thiệt thòi bất hạnh:

Cùng họp một xóm phố

Cách ngồi đã hai bề

Bên là các Ông chủ

Bên những Ngƣời làm thuê

Dù cùng quên sự thật

Đuổi việc và cúp lƣơng

Càng cố hòa làm một

Càng tăng thêm dối lƣờng

(Họp phố)

Trần Nhuận Minh quan tâm đến các vấn đề nhức nhối trong hiện thực

xã hội, đặc biệt là những câu chuyện về số phận con người, với những góc

nhìn đầy chiêm nghiệm, đúc kết, giàu tính nhân văn. Nó cho thấy nhà thơ

luôn vô cùng trách nhiệm với ngòi bút, sống và viết hết mình, trăn trở và suy

tư đề hướng đến những thân phận đau khổ, thiệt thòi. Đối diện và lên tiếng

phơi bày những mảng tối, những khuất lấp trong hiện thực nhức nhối của thế

sự, Trần Nhuận Minh không nhằm lên án hay oán trách, mà để bày tỏ sự yêu

thương, chia sẻ, cảm thông. Đây cũng là điều đáng quý, đáng trân trọng trong

thơ ông.

76

3.2.3. Giọng điệu tự vấn cá nhân

Khi con người đi đến một mức độ nhất định của nhận thức, người ta

nảy sinh nhu cầu và khả năng tự ý thức. Khi đó, con người sẽ không ngừng tự

vấn chính bản thân mình để nhìn nhận, lí giải, giải quyết các vấn đề.

Các nhà thơ khi đạt đến tầm nhất định trong tư tưởng nghệ thuật cũng

sẽ luôn đặt ra những vấn đề, những câu hỏi cho chính mình. Những cuộc tự

vấn của thi sĩ thường đem lại những góc nhìn riêng, độc đáo và sâu sắc. Nhà

thơ Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều những tác giả mang đặc trưng

này khi sáng tạo. Cũng chính vì đặc trưng này, thơ Trần Nhuận Minh có một

sắc thái giọng điệu rất đáng chú ý, đó là giọng điệu tự vấn cá nhân.

Thơ là sự biểu hiện chắt lọc sâu lắng nhất bản thể con người nhà thơ.

Trần Nhuận Minh luôn mang những suy tư truy vấn, và cũng thế, theo ông là

một câu hỏi lớn thường trực:

Mỗi ngƣời một câu hỏi

Đi mang mang trong đời

Nổi chìm bao ghềnh thác

Tôi chƣa tìm thấy tôi

(Chiều Yên Tử)

Câu hỏi về mình, về bản ngã, về cái tôi luôn là một băn khoăn mang

tính ý thức của con người, khi mà đặt trong tổng thể của tạo hóa thì con người

nằm trong mối quan hệ tổng hòa với thời gian, không gian, vạn vật, vô hình

và hữu hình.v.v.. Thế giới vốn đa dạng, phức tạp và thậm chí huyền bí như

vậy. Nhà thơ luôn muốn thâm nhập, khám phá cái thế giới vô tận ấy.

Tìm kiếm bản ngã ở chiều sâu, cái tôi trữ tình không tránh khỏi những

nỗi buồn. Đối diện với chính mình, với cõi đời bao la rộng lớn, cái tôi ý thức

được sự hữu hạn của kiếp người và những biến đổi thăng trầm của cuộc sống,

77

ý thức về sự trôi chảy của thời gian, sự bất lực của tuổi già... nên buồn và cô

đơn. Hay nói một cách khác, buồn và cô đơn là nỗi ám ảnh thân phận của chủ

thể trữ tình, nó gắn với sự tan vỡ của giấc mơ, sự bất lực trước những đòi hỏi

tất yếu, trước sự tha hóa của những giá trị đời sống không gì ngăn cản nổi; nó

cũng gắn với sự tự ý thức về cái khó chia sẻ khi một mình đối diện với nỗi

đau, đặc biệt là nỗi đau tinh thần.

Có những câu hỏi tưởng như vu vơ, nhưng thực ra nó là cả một khối

trăn trở băn khoăn không cùng. Ví như, câu hỏi mình là ai, tưởng như không

có gì mới nhưng thật ra chưa bao giờ cũ:

V n vơ ra đứng trƣớc nhà

Ngƣời qua mà chẳng thấy qua một ngƣời

Buồn xƣa – vàng vạt nắng rơi

Nhớ xƣa – gió biếc chân trời mong manh

Chiều nghiêng một sắc vô tình

Tự nhiên, mình chẳng biết mình là ai

(Vẩn vơ ra đứng)

Thậm chí, nhà thơ còn tiến đến những câu hỏi xa hơn, về sự tồn tại hay

không tồn tại của mỗi bản thể:

Hạt mƣa mơ hồ nhuốm làn mây mong manh

Làm ngào ngạt bao nỗi niềm dƣới đất

Hƣ ảo hỡi! Giữa vô cùng Còn Mất

Ta là ai? Thăm thẳm có Ta không?

(Bừng thức)

78

Hoặc như:

Soi mặt xuống Vịnh Hạ Long, ta nhìn thấy ta mà ta không tự biết

Ta có hay không trên cõi đời này

(Soi gương)

Không chỉ là những câu hỏi về bản thể, nhà thơ còn trăn trở suy tư

trước câu hỏi về khả năng tri nhận và giới hạn của con người:

Ta bàng hoàng trƣớc cái Không thể biết

Đang nhào nặn ta trong cõi Vô cùng

Chả lẽ mỗi chấm ngƣời mong manh trên trái đất

Lại là biểu hiện mơ hồ huyền b của không trung

Thuở bé ta nằm dƣới rừng sao dát bạc

Mơ con thuyền trăng vắt vẻo chở ta đi

Vƣợt hiểm nguy có khi nhờ Mộng ảo

Cái Biết nhất đời ta là ta chả biết gì

(Vô thức)

Khi đối diện với những câu hỏi lớn và vô cùng ấy, nhà thơ mới cảm

nhận được rõ hơn sự nhỏ bé cô đơn đến tột cùng của kiếp người trên cõi đời

vô cùng vô tận này:

Ta tự tạo ra Trời và Đạo Trời, để giữ gìn ta giữa đời thƣờng cám dỗ

Rồi lại tự lừa đảo ta, trong cả cõi linh hồn

Xòe hết ngàn cánh tay, chẳng chạm vào bát ngát

Ta rùng mình rơi trong muôn thẳm Cô đơn

(Vô thức)

79

Cảm nhận được cái bé nhỏ cô đơn nên nhà thơ không khỏi ưu tư và trở

về để trân trọng nâng niu lấy cái tôi của mình, dù vẫn rất bâng khuâng chìm

trong nỗi niềm tự vấn:

Tôi bâng khuâng trƣớc cánh chim lặng lẽ

Cô đơn bay không biết tới phƣơng nào

Tôi đã khóc dƣới vầng trăng sáng

Đến bây giờ vẫn không hiểu vì sao

(Tự thuật)

Đến mức, ngay cả khi đối diện với tình yêu, bước vào thế giới của cảm

xúc và sự lãng mạn đắm say nhất, con người nhiều băn khoăn ấy cũng không

thoát ra khỏi nỗi hoài nghi mơ hồ xa xăm vẫn đang ngự trị trong tâm trí:

Em mờ tối nhƣ màu thu muộn

Và dịu buồn nhƣ chiếc lá rơi

Cứ mỗi chiều, lòng lại ngơ ngác hỏi

Ta là ta hay ta đã ai rồi?

(Thị trường)

Cảm nhận rõ sự cô đơn trong sâu thẳm cái tôi bản thể, nhưng nhà thơ

không khép kín lòng mình, mà ngược lại, mở lòng chia sẻ nỗi niềm ấy với thế

nhân, như là một sự tìm kiếm tri âm tri kỉ:

Ngọn gió không biết mình ở thời nào

Giọt mƣa không biết mình ở đâu

Bản thân tôi không biết mình là ai

Khi tôi đứng một mình

80

Ai xui tôi gặp em

Trƣớc đó một hơi thở

Em cũng không biết mình là ai

Và cuộc đời tôi là nhƣ thế nào

(Bản sonate hoang dã)

Thậm chí, nhà thơ không chỉ mong muốn chia sẻ với thế nhân mà còn

tham vọng chia sẻ với đất trời, thiên nhiên, tạo hóa. Ông có những câu thơ

đầy trăn trở thẳm sâu:

Này này

Đám mây bay bên trời kia

là mây mùa xuân hay mây mùa thu

Bông hoa nở cuối vƣờn kia

là hoa của niềm vui hay của nỗi buồn

Buồn và vui làm sao phân biệt đƣợc

Vây và cánh làm sao phân biệt đƣợc

Có và không làm sao phân biệt đƣợc

(Bản sonate hoang dã)

Những rồi, hành trình đi tìm kiếm câu trả lời đó cũng vẫn quay trở về cõi

riêng của nó. Cuối cùng, nhà thơ vẫn phải quay trở lại với chính cõi lòng mình:

Tôi nghe âm âm trong tôi

Tiếng những bƣớc chân lạ lùng

Của ch nh tôi đi về ph a không tôi

Miền dân gian mây trắng bay

(Bản sonate hoang dã)

81

Và ở cõi sâu thẳm nhất của lòng mình, đối diện với câu hỏi về cái tôi

bản thể, nhà thơ nhận ra cách giải đáp những trăn trở tự vấn khôn nguôi ấy:

Rất có thể, tôi là vang vọng mơ hồ của những k thác xa xăm

Mà cha ông xƣa thƣờng bỏ lửng giữa những trang sách

(Vô thức)

Đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, tất yếu đến một lúc nào đó

thơ sẽ chạm đến thế giới tâm linh. Khái niệm tâm linh thường được hiểu như

cuộc sống tinh thần đầy bí ẩn đối lập với ý thức kiểu lý tính thuần túy. Những

chuyến đi kỳ vĩ hướng về miền tâm linh đã mở ra trong thơ Trần Nhuận Minh

một không gian nghệ thuật đầy hư ảo và vẻ đẹp của cuộc sống được ánh lên

màu sắc huyền thoại. Khi mở rộng đến thế giới tâm linh của con người, thơ

đạt đến chiều sâu nhân bản mới.

Đó cũng chính là những giá trị sâu sắc và cao đẹp mà thơ Trần Nhuận

Minh đem đến qua sắc thái giọng điệu độc đáo và ấn tượng – giọng điệu tự

vấn bản thân.

Tiểu kết chương 3:

Có thể thấy, như một quy luật tinh thần trong sáng tạo nghệ thuật, cảm

hứng đã chi phối và quy định giọng điệu tương ứng. Với những mạch nguồn

cảm hứng trữ tình, thế sự và đối thoại, thơ Trần Nhuận Minh cũng nổi bật các

giọng điệu ngợi ca yêu thương chia sẻ, phản tỉnh thực tại, tự vấn cá nhân. Tất

cả đã tạo nên một phong cách thơ vừa sâu lắng vừa sắc sảo, ấn tượng.

Những giọng điệu nghệ thuật nổi bật này là một phương diện quan

trọng thể hiện bút pháp và cá tính sáng tạo của tác giả, từ đó cho ta thấy đặc

điểm lớn tạo nên phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh.

82

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Để tạo nên diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có cả

một quá trình với sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tác giả. Vì vậy, muốn

nhận diện một nền thơ ca, cần phải đặc biệt quan tâm nhận diện và phân tích

một số tác giả đặc sắc, có tầm vóc và bề dày sáng tác, tạo được dấu ấn và có

những đóng góp quan trọng vào đời sống thơ ca. Đặt trong góc nhìn đó, có thể

thấy thơ ca hiện đại Việt Nam đã ghi nhận những nhà thơ có vị trí và đóng

góp quan trọng, một trong số đó có nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nghiên cứu

thơ ca Trần Nhuận Minh, vì thế, không chỉ là nghiên cứu về một cá nhân, mà

còn là một cách tiếp cận để nhận diện các vấn đề của nền thơ hiện đại Việt

Nam nói chung.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có bề dày sáng tác với hơn hai

mươi tập thơ – một khối lượng đồ sộ đáng nể mà không có nhiều tác giả có

được. Những tác phẩm của Trần Nhuận Minh đã tạo ra một gương mặt tác giả

thực sự đặc sắc, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa thách thức vừa mời gọi.

Hành trình sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh trải dài qua những giai đoạn

lịch sử khác nhau, khởi nguồn từ phong cách thơ truyền thống, ngày càng

hướng đến phong cách thơ hiện đại. Phân tích diễn trình đó, qua sự thay đổi

và vận động mạch thơ Trần Nhuận Minh cũng là một cách để chúng ta có

thêm góc nhìn về những thay đổi và vận động của thơ ca Việt Nam hiện đại

nói chung.

2. Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một người được sinh ra và trưởng

thành trong một thời kì lịch sử của dân tộc – thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Ông cũng như bao người cùng thời sống trong bầu không khí hào hùng của

những năm tháng mà ai ai cũng hướng đến cái “ta”, cả dân tộc hòa chung một

lẽ sống lớn, lí tưởng lớn, tình cảm lớn. Niềm vui trong thơ Trần Nhuận Minh

83

to lớn, sôi nổi, hân hoan và tươi sáng như niềm vui của cả đất nước. Không

chỉ thế, ông còn là một người đã gắn bó cả cuộc đời mình với mảnh đất vùng

mỏ Quảng Ninh với những nỗi niềm vui buồn, thăng trầm của người thợ nơi

đây. Những gắn bó sâu nặng đó đã trở thành một phần làm nên một chất thơ

hồn hậu, yêu thương của Trần Nhuận Minh. Có lẽ vì những lẽ đó, thơ Trần

Nhuận Minh luôn tràn đầy nguồn cảm hứng trữ tình ấm áp, sâu nặng.

Thơ của Trần Nhuận Minh đi sâu vào đời tư, thế sự, để khám phá những

miền sâu xa trong cõi tâm linh, sâu thẳm của con người. Cái tôi ấy thể hiện nỗi

buồn đau nhân thế, chứa đựng giá trị nhân văn cao cả. Trần Nhuận Minh mong

muốn được chia sẻ, cảm thông, thấu hiểu hơn với tình đời, tình người.

Nếu trước đây, nhà văn vẫn thường đóng vai một “tiểu thượng đế” giữ

tư cách phán truyền và rất thường khi độc quyền chân lý, ban phát lẽ phải, vì

lẽ phải mà nhà văn đề xuất cũng chính là những giá trị tư tưởng cao đẹp của

cộng đồng, của thời đại thì giờ đây nhà văn chỉ là người đề xuất một cái nhìn

riêng, bộc lộ một tư tưởng của riêng mình bình đẳng với nhiều cái nhìn và tín

niệm của bao người khác. Dường như, Trần Nhuận Minh đã sớm thức nhận

và vô cùng thấm nhuần tinh thần này. Có thể nói, ông là một trong những nhà

thơ tiên phong, đưa vào thơ mình những đối thoại đầy gợi mở và đặt ra những

vấn đề rất đáng suy ngẫm.

3. Trần Nhuận Minh là nhà thơ nặng lòng yêu thương với quê hương,

đất nước, đồng bào và nhân dân. Ông đã bằng tất cả nỗi lòng của mình viết

lên những câu chuyện về cuộc sống của những người nông dân, công nhân,

thay họ bày tỏ những tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng; hướng ngòi bút

của mình đến những phận người bé nhỏ bất hạnh bất kì trong đời sống thường

ngày. Tất cả những điều đó đã giúp cho thơ Trần Nhuận Minh tìm được tiếng

nói chung, đến được với nhiều người. Nó là một giọng điệu thơ vừa đầy tự

hào ngợi ca, vừa hết mực yêu thương chia sẻ.

84

Trong thơ ca, những nhà thơ có tầm tư tưởng nghệ thuật cao thường có

ý thức về phản tỉnh rất sâu sắc. Nó đem đến cho thơ ca những giá trị nhận

thức vô cùng ý nghĩa. Trần Nhuận Minh là một nhà thơ mang tinh thần như

thế. Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta có thể nhận thấy trong đó trách

nhiệm sống mà nhà thơ đã nghiêm khắc đặt ra cho mình, cho người. Đó là

những tiếng nói dự cảm, dự báo, phản tỉnh về hiện tình xã hội, với những éo

le ngang trái ngổn ngang trong các số phận con người, trong các vấn đề đời

sống. Nó làm nên một giọng điệu phản tỉnh thực tại đầy sắc sảo và ấn tượng

cho thơ Trần Nhuận Minh.

Các nhà thơ khi đạt đến tầm nhất định trong tư tưởng nghệ thuật cũng

sẽ luôn đặt ra những vấn đề, những câu hỏi cho chính mình. Những cuộc tự

vấn của thi sĩ thường đem lại những góc nhìn riêng, độc đáo và sâu sắc. Nhà

thơ Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều những tác giả mang đặc trưng

này khi sáng tạo. Cũng chính vì đặc trưng này, thơ Trần Nhuận Minh có một

sắc thái giọng điệu rất đáng chú ý, đó là giọng điệu tự vấn cá nhân.

4. Nghiên cứu về cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần

Nhuận Minh trước hết là cách nhận diện và đi sâu vào những đặc trưng nghệ

thuật nổi bật của một tác giả giàu thành tựu của thơ Việt Nam hiện đại, đồng

thời, qua đây, chúng ta cũng có thêm một đối chiếu quan trọng để góp phần

nhận diện đặc điểm, quá trình vận động phát triển cũng như những động

hướng của thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Văn An (2007), Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc, NXB

Hội nhà văn.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia, Hà

Nội.

3. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH&THCN, Hà Nội.

4. Nguyễn Việt Chiến (2017), Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975 -

2000), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

5. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa học Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin.

6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội.

8. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học,

Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (1987), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB

Giáo dục.

10. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội.

11. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của Văn học Việt Nam trong thời

kì Đổi mới, Tạp chí Văn học, (7).

12. Hà Minh Đức (chủ biên), (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

13. Lê Thị Hải Hà (2008), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

14. Trần Minh Hà, Trần Nhuận Vinh (2015), Trần Nhuận Minh và một

hƣớng tìm diện mạo mới cho thơ, NXB Hội Nhà văn.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (1999), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

86

16. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

17. Nguyễn Thái Hòa (2006), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học,

NXB Giáo dục.

18. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003), Phân t ch phong cách

ngôn ngữ trong tác ph m văn học, NXB Đại học Sư phạm.

19. Nguyễn Văn Hưng (2011), Thơ Trần Nhuận Minh, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Sư phạm Thái Nguyên.

20. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

21. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

22. Phong Lê (2008), Hiện đại hóa Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

23. Phong Lê (2009), Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, NXB Văn

học.

24. Thanh Lê (2005), Hành trang văn hóa, NXB Khoa học xã hội.

25. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975

những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB

giáo dục, Hà Nội.

27. Phương Lựu (chủ biên), (2006), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

28. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của

các nhà văn, NXB Giáo dục.

29. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn - tƣ tƣởng và phong cách, NXB

Tác phẩm mới, Hà Nội.

30. Trần Nhuận Minh (2007), Trần Nhuận Minh – Thơ, NXB Văn học.

31. Trần Nhuận Minh (2011, in lần thứ 2), Bốn mùa, NXB Hội Nhà văn.

87

32. Trần Nhuận Minh (2011, in lần thứ 6), Gửi lại dọc đƣờng, NXB Hội Nhà

văn.

33. Trần Nhuận Minh, Nguyễn Đức Tùng (2012), Đối thoại văn chƣơng,

NXB Tri thức.

34. Trần Nhuận Minh (2013, in lần thứ 5), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,

NXB Hội Nhà văn.

35. Trần Nhuận Minh (2014, in lần thứ 5), Miền dân gian mây trắng, NXB

Hội Nhà văn.

36. Trần Nhuận Minh (2015, in lần thứ 22), Nhà thơ và hoa cỏ, NXB Hội

Nhà văn.

37. Trần Nhuận Minh (2015, in lần thứ 13), Bản sonate hoang dã, NXB Hội

Nhà văn.

38. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học.

39. Trần Thị Phượng, Phan Thu Hương (2011) Chân dung và bút t ch các

nhà văn Việt Nam, NXB Giáo dục.

40. Đào Xuân Quý (2003), Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân.

41. Trần Đình Sử (1994), Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con đƣờng của

thơ, Tạp chí Văn học, số 1.

42. Trần Đình Sử (1995), Những nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục.

43. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, NXB Văn học.

44. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.

45. Bích Thu (2013), Văn học Việt Nam trong quá trình hội nhập,

http://vienvanhoc.org.vn.

46. Chu Quang Tiềm (2005), Tâm lý văn nghệ, NXB Thanh niên.

47. Lê Ngọc Trà (1990), L luận văn học, NXB Trẻ.

48. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

49. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá t nh sáng

tạo, NXB Văn học.

88

PHỤ LỤC

89