ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BÙI MẠNH NGỌC
CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BÙI MẠNH NGỌC
CẢM HỨNG VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ
Thái Nguyên - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Bùi Mạnh Ngọc
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn
học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo
đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn TS. Nguyễn Kiến Thọ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Bùi Mạnh Ngọc
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. THƠ TRẦN NHUẬN MINH TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI ......................................................................................................... 7
1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh ......................................................................... 7
1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác.................................................. 7
1.1.2. Quan điểm sáng tác ................................................................................. 9
1.1.3. Các giải thưởng đạt được ...................................................................... 11
1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại ........................ 12
1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại ............................. 12
1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh .......................................... 16
Chương 2. CẢM HỨNG TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH .................. 21
2.1. Vấn đề Cảm hứng trong thơ ..................................................................... 21
2.1.1. Khái niệm Cảm hứng ............................................................................ 21
iii
2.1.2. Cảm hứng trong thơ .............................................................................. 22
2.2. Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh ................................................... 23
2.2.1. Cảm hứng trữ tình ................................................................................. 23
2.2.2. Cảm hứng thế sự ................................................................................... 32
2.2.3. Cảm hứng đối thoại ............................................................................... 52
Chương 3. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN NHUẬN
MINH .............................................................................................................. 65
3.1. Vấn đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ .................................................. 65
3.1.1. Khái niệm Giọng điệu nghệ thuật ......................................................... 65
3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ ........................................................... 66
3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh ................................ 67
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, yêu thương, chia sẻ ............................................... 67
3.2.2. Giọng điệu phản tỉnh thực tại ................................................................ 72
3.2.3. Giọng điệu tự vấn cá nhân .................................................................... 77
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để tạo nên diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có cả một
quá trình với sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tác giả. Tất nhiên, thực tế
cho thấy không có nhiều tác giả thể hiện được gương mặt riêng, thể hiện được
cá tính và phong cách trong sáng tạo. Trong khi đó, có một số tác giả (có thể
không nhiều) lại ghi dấu ấn đậm nét, có vị trí không thể thiếu, mà nếu không
có họ thì nền thơ ca sẽ có những khoảng trống nhất định. Vì vậy, muốn nhận
diện một nền thơ ca, cần phải đặc biệt quan tâm nhận diện và phân tích một số
tác giả đặc sắc, có tầm vóc và bề dày sáng tác, tạo được dấu ấn và có những
đóng góp quan trọng vào đời sống thơ ca. Đặt trong góc nhìn đó, có thể thấy
thơ ca hiện đại Việt Nam đã ghi nhận những nhà thơ có vị trí và đóng góp
quan trọng, một trong số đó có nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nghiên cứu thơ ca
Trần Nhuận Minh, vì thế, không chỉ là nghiên cứu về một cá nhân, mà còn là
một cách tiếp cận để nhận diện các vấn đề của nền thơ hiện đại Việt Nam nói
chung.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có bề dày sáng tác với hơn hai
mươi tập thơ – một khối lượng đồ sộ đáng nể mà không có nhiều tác giả có
được. Những tác phẩm của Trần Nhuận Minh đã tạo ra một gương mặt tác giả
thực sự đặc sắc, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa thách thức vừa mời gọi. Thơ
ca Trần Nhuận Minh hứa hẹn sẽ đặt ra cho những người nghiên cứu phê bình
nhiều vấn đề ý nghĩa, hữu ích, thậm chí phức tạp, và vì vậy cũng vô cùng hấp
dẫn và đầy gợi mở.
1.3. Hành trình sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh trải dài qua những
giai đoạn lịch sử khác nhau, khởi nguồn từ phong cách thơ truyền thống, ngày
càng hướng đến phong cách thơ hiện đại. Phân tích diễn trình đó, qua sự thay
đổi và vận động mạch thơ Trần Nhuận Minh cũng là một cách để chúng ta có
1
thêm góc nhìn về những thay đổi và vận động của thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh là một đề tài mang
tính khoa học và có nhiều ý nghĩa.
2. Lịch sử vấn đề
Với một quá trình bề dạy trong hành trình sáng tác hàng nửa thế kỉ (từ
những năm 1960 cho đến nay), thơ của Trần Nhuận Minh đã thu hút sự quan
tâm nghiên cứu, đánh giá, nhận diện của khá đông đảo bạn đọc cũng như
đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu - phê bình.
Trong cuốn tiểu luận phê bình Trần Nhuận Minh và một hƣớng tìm
diện mạo mới cho thơ (Nxb Hội Nhà văn, 2015), nhà phê bình văn học Đỗ
Ngọc Yên đã có những nhận diện khái quát về vị trí, đóng góp và chỉ ra một
số đặc điểm quan trọng trong thơ Trần Nhuận Minh: “Trần Nhuận Minh là
người mạnh mẽ đến quyết liệt không chỉ trong việc đổi mới thơ, mà quan
trọng hơn là làm lại chính mình với tư cách là một chủ thể thơ, một sự làm
lại nhọc nhằn, quằn quại và đau đớn. Ông không cần quan tâm đến lý
thuyết về các trào lưu, trường phái hay chủ nghĩa nào, mà có lẽ chỉ quan
tâm làm sao đem đến cho thơ Việt một diện mạo mới và một hơi thở, sức
sống mới [14.tr11].
Trong một công trình nghiên cứu rất công phu với nhan đề Trần
Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, GS. Phong Lê đã chỉ ra con đường
thơ Trần Nhuận Minh với ba chặng lớn: Áp tải sự thật; Đi tìm hoa và cỏ, và
hoa cỏ; Hành trình về với bản thân. Nó tương ứng với ba cuộc định vị: từ
Nông dân đến Công nhân, từ Công nhân đến Nhân dân, và từ Nhân dân đến
Con người [30.tr5-31].
Khi giới thiệu cuốn sách Trần Nhuận Minh, thi ca tinh tuyển tập (Nxb
Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc, 2014), dịch giả người Trung
Quốc – GS.TS. văn học Phùng Trọng Bình đã có những đánh giá mang tính
2
khái quát chung về sự nghiệp thơ ca Trần Nhuận Minh: “Từ chỗ là một nhà
thơ viết về đề tài công nhân rồi đến nhân dân, rồi sau đó lại chuyển sang đề tài
về nhân loại, bước ngoặt lớn về cả tư tưởng nghệ thuật đến bút pháp này đã
phần nào thể hiện sự đồng nhất và hài hòa trong cuộc sống và sáng tác của
Trần Nhuận Minh… Thời gian sáng tác của những tác phẩm này cách nhau
rất xa, bao gồm rất nhiều nội dung phong phú về xã hội, cuộc sống, lối thể
hiện văn học vô cùng độc đáo và thú vị, thể hiện được sự trưởng thành về tư
tưởng và nghệ thuật của nhà thơ [14.tr206-207].
Trong luận văn thạc sĩ Ngữ Văn Thơ Trần Nhuận Minh (Nguyễn Văn
Hưng, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2011), tác giả đã đi vào phân tích,
đánh giá một cách khá tổng thể về thơ của Trần Nhuận Minh. Đồng thời, tác
giả cũng đã có những nhận định rất cụ thể về những đặc điểm riêng biệt và
nổi bật nhất trong thế giới thơ ca Trần Nhuận Minh. Tác giả cho rằng: “Đặc
điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư trong việc
xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt và giải
thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và những
dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận thơ
ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,
quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí
riêng trong đời sống thơ ca hiện đại” [19.tr2]. Cùng với luận văn này, có thể
kể đến một số luận văn khác cũng đã góp phần đưa ra những cách tiếp cận và
đánh giá khá phong phú, đa diện về thơ Trần Nhuận Minh, như Cảm hứng thế
sự và đời tƣ trong thơ Trần Nhuận Minh (Chung Thị Thúy, Đại học Vinh,
2009), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh (Lê Thị Hải Hà, Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2008).v.v..
Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết nghiên cứu phê bình về cuộc đời
thơ, các tập thơ, các mảng đề tài thơ nổi bật của Trần Nhuận Minh, như: Trần
Nhuận Minh (PGS.TS. Vũ Văn Sỹ); “Nhà thơ và hoa cỏ” – tập thơ thế sự về
3
thân phận con ngƣời (Trọng Khang); Thử bàn về sự hiền minh trong “Nhà
thơ và hoa cỏ” của Trần Nhuận Minh (Triệu Đàm); Nhà thơ Trần Nhuận
Minh - khởi sự từ công cuộc đổi mới (Phạm Khải); Đọc thơ Trần Nhuận Minh
(GS.TS. Mai Quốc Liên); Khát vọng về một tình yêu thần thánh (Đặng Văn
Sinh).v.v..
Như vậy qua các công trình nghiên cứu, các bài viết..., chúng ta nhận
thấy các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định và chỉ ra
một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật cơ bản trong thơ Trần Nhuận Minh.
Nhìn chung các công trình và các bài viết này vừa đi vào hướng nghiên cứu
một cách tổng thể, khái quát, vừa đi sâu khảo sát, nghiên cứu về một trong
những khía cạnh cụ thể có ý nghĩa quan trọng và nổi bật trong thơ Trần
Nhuận Minh. Dù chưa có công trình hay bài viết nào trước đây trùng lặp với
vấn đề cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của luận văn này, nhưng những
nhận định và kết quả nghiên cứu đó sẽ là những tư liệu tiền đề hết sức đáng
quý, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề để triển khai đề tài nghiên cứu này
của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu nét đặc sắc ở
phương diện cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.
Từ đó, luận văn chỉ ra thành công, hạn chế và đóng góp của thơ Trần Nhuận
Minh với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá
chủ yếu trong tập thơ Trần Nhuận Minh – thơ (Nxb Văn học, 2007), vì đây là
tuyển tập khá tiêu biểu và đầy đủ những bài thơ quan trọng của nhà thơ.
Ngoài ra tham khảo thêm một số tập thơ khi cần thiết như: Nhà thơ và hoa cỏ,
4
Bản sonate hoang dã, Gửi lại dọc đƣờng, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,
Miền dân gian mây trắng.v.v..
Đồng thời, sự dụng một số tác phẩm thơ của một số nhà thơ Việt Nam
hiện đại khác nhằm so sánh, đối chiếu làm nổi bật những nét riêng trong thơ
Trần Nhuận Minh.
4. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần
Nhuận Minh”, luận văn nhằm chỉ rõ sự phong phú đa dạng và mạch vận động
của tư duy nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh. Đồng thời, qua việc
nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn khẳng định vị trí cũng như những đóng góp
của thơ Trần Nhuận Minh đối với thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hai khía cạnh quan trọng là cảm hứng và
giọng điệu nghệ thuật, qua đó làm rõ những giá trị về nội dung cũng như
những giá trị về nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh, đồng thời chỉ ra được
cá tính sáng tạo, vị trí và những đóng góp, mặt thành công thành công và mặt
hạn chế của thơ Trần Nhuận Minh.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương
pháp sau:
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp
nghiên cứu nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu xã hội học để tìm hiểu những
“nguồn cội” góp phần làm nên đặc điểm thơ Trần Nhuận Minh như quê hương,
gia đình, tiểu sử của nhà thơ.
- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những
mối quan hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần
5
tiếp cận từ giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi
khai thác những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa dân tộc thể hiện trong thơ
Trần Nhuận Minh.
- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thể loại Từ những đặc
trưng của tác phẩm trữ tình mà “soi chiếu” vào thơ Trần Nhuận Minh, chỉ ra
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh.
- Phƣơng pháp phân t ch tác ph m văn học theo thi pháp học: Sử dụng
lí thuyết về thi pháp học, đặc biệt là với loại hình thơ trữ tình, để phân tích
những vấn đề chính như cảm hứng nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật.
- Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích
tác phẩm theo loại thể, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng
hợp, thống kê, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống.
7. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, phân tích, đánh giá toàn
bộ sự nghiệp sáng tác, đồng thời cũng đi vào những vấn đề quan trọng và
nổi bật trong thơ của nhà thơ Trần Nhuận Minh (cụ thể: cảm hứng và giọng
điệu nghệ thuật). Từ đó, khẳng định thành tựu, đóng góp cũng như hạn chế
của thơ Trần Nhuận Minh khi đặt trong tương quan với nền thơ Việt Nam
hiện đại nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại
Chƣơng 2: Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh
Chƣơng 3: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ TRẦN NHUẬN MINH
TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Nhà thơ Trần Nhuận Minh
1.1.1. Tiểu sử và quá trình hoạt động sáng tác
Nhà thơ Trần Nhuận Minh sinh ngày 20/8/1944, dân tộc Kinh, quê
quán tại Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Ông hiện đang sống và
viết tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Ông là Đảng viên Đảng Cộng
Sản Việt Nam từ năm 1984, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982.
Từ 1960 đến 1962, ông học Trung học Sư phạm Hải Dương. Từ 1962
đến 1969, ông dạy học tại Quảng Ninh. Từ năm 1969 đến 2005, ông đi học
khoa Ngữ Văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lần lượt là thành viên
sáng lập, ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Ban thường vụ, Phó Chủ tịch rồi
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh, Tổng biên tập báo Hạ
Long. Ông cũng là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh;
Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam;
Đại diện Báo Tiền Phong tại Quảng Ninh (1993 – 2008); Ủy viên Ban Công
tác Nhà văn trẻ và Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam một số khóa.
Trần Nhuận Minh cũng là một nhà thơ sống trong một gia đình gia thế
rất đáng chú ý khi có nhiều người theo con đường văn chương nghệ thuật.
Điển hình trong đó có: nhà thơ Trần Đăng Khoa - “thần đồng thơ Việt
Nam”(em trai ruột), nhà thơ Phạm Thị Diễm (vợ).v.v.. Điều đó đã cho thấy
gia đình ông rất có truyền thống về văn chương nghệ thuật, đặc biệt là truyền
thống về thơ ca. Có thể nói đây là một yếu tố tích cực bởi vì nó chính là một
7
môi trường thuận lợi, tốt lành cho tình yêu thơ ca cũng như con đường nghệ
nghiệp trong sáng tác.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh làm thơ từ rất sớm, có thơ được đăng báo từ
năm 1960. Trải qua nhiều công tác khác nhau, với quá trình dài trên những
chặng đường và giai đoạn sáng tác, đến nay ông đã xuất bản 44 tập sách,
trong đó có 22 tập thơ, 3 tập truyện vừa, 2 tập tiểu luận, 9 tập biên khảo.v.v..
Một số tập tác phẩm chính, quan trọng và để lại nhiều dấu ấn trong đời
sống văn chương của ông có thể kể đến như:
- Các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980, in
lần thứ 2, năm 2016), Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989),
Hoa cỏ (1992), Nhà thơ và hoa cỏ (1993, in lần thứ 22, năm 2015), Giọt phù
sa vạn dặm (2000), Bản Sonate hoang dã (2003, in lần thứ 13, năm 2015),
Trần Nhuận Minh - Thơ với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đƣờng (2005, in lần
thứ 6, năm 2011), Trần Nhuận Minh, tuyển tập thơ (2005, in lần thứ 2, năm
2007), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007, in lần thứ 5, năm 2013), Miền
dân gian mây trắng (2008, in lần thứ 5, năm 2014), Bốn mùa - Four seasons
(2008), Bốn mùa (2009, in lần thứ 2, năm 2011), Miền dân gian mây trắng -
The white cloud popular area (2011), Cánh rừng đã bay về trời (2012),
Thành phố Dịu Dàng (2015, in lần thứ 2, năm 2017), Liệu có kiếp sau (2017),
Qua sóng Trƣờng Giang (2017); và Trong hy vọng khôn cùng, Maxcơva
(1992), do Iuri Konhetxki tuyển chọn và giới thiệu, Trần Nhuận Minh - Thi ca
tinh tuyển tập do Phùng Trọng Bình và Dương Hạ Nguyệt giới thiệu, Nhà
xuất bản Phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc, Bắc Kinh
(2014), Liệu có kiếp sau (2017), Qua sóng Trƣờng Giang (2017).
- Các tập truyện vừa: Trƣớc mùa mƣa bão (1980, in lần thứ 7, năm
2016), Hòn đảo ph a chân trời (2000, in lần thứ 6, năm 2015), Truyện chọn
lọc cho thiếu nhi (2002).
8
- Các tập tiểu luận: Đối thoại văn chƣơng (2012 - chung với nhà thơ,
nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng), Thời gian lên tiếng (2013),
Đi tìm Sự Thật (2017).
- Các tập biên khảo: Tuyển tập thơ Hạ Long (1977, in lần thứ 3 năm
2000), Tuyển tập thơ Bạch Đằng Giang (1988), Tuyển tập Nửa thế kỉ thơ
Quân Khu Ba (1995) và Tuyển chọn, giới thiệu thơ của 6 thi hào trong 6 tập
Khuất Nguyên, Xergây Exênhin, Raxun Gamzatốp, Yanit R txốt, Nicôla
Ghiden, Oan Uytman trong bộ sách Thi ca thế giới chọn lọc (2004).
- Hợp tuyển: Đá cháy (2016)
Ngoài ra, nhà thơ Trần Nhuận Minh còn viết và công bố nhiều bài báo
khảo luận, phê bình về các vấn đề văn chương, lịch sử.
1.1.2. Quan điểm sáng tác
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có ý thức rất sâu sắc về sáng
tạo chuyên nghiệp. Ông đã trải qua hai giai đoạn lớn trong sáng tác: 1960 đến
1986; 1986 đến nay. Mỗi giai đoạn, ông có những quan niệm nhất định về
sáng tạo.
Nói về quan niệm sáng tác trong giai đoạn trước 1986, ông nhận ra
rằng: “Trước đó, tôi viết theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Và viết theo
yêu cầu của chính trị tôi viết cũng tận tâm và chân thành hết lòng mình. Chỉ
có điều, những bài thơ đó, tôi gọi nó đến theo yêu cầu của tôi, có khi nó đến
sớm, có khi nó đến muộn, thường thì nó không tìm tôi mà tôi phải tự đi tìm
nó. Nhưng nó đã đến, đều đến trong một tư thế đã tương đối hoàn chỉnh”
[14.tr285].
Giai đoạn từ 1986 về sau, khởi đầu từ công cuộc đổi mới, Trần Nhuận
Minh cũng thay đổi tư duy nghệ thuật trong thơ. Ông quan niệm: “Tôi viết về
những cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của mình… Tôi chỉ gọi đúng tên
sự vật. Mà sự vật trong bản chất của nó không lạc quan cũng không bi quan,
9
nó chỉ tồn tại” [14.tr293]. Nhà thơ nhấn mạnh về cội nguồn của sáng tạo: “Có
một nỗi niềm nào đó thực sự ám ảnh anh, buộc anh phải viết ra, để giữ thăng
bằng cho chính bản thân mình” [14.tr306]. Ông đúc kết rằng, sau suốt hơn
nửa thế kỉ cầm bút, bài học rút ra là “Hãy bắt đầu đi từ chõ dân tộc mình đi.
Còn chỗ đến, phải đến với toàn nhân loại” [14.313], và điều thấm thía nhất là
“Không dối trá”. Điều cuối cùng để làm nên một tác giả, theo ông là nằm ở
câu hỏi then chốt nhất: “Bạn có dám đánh cược cuộc đời mình vào tác phẩm
mà bạn đang viết hay không?” [14.tr317].
Tại Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 2, năm 2015,
nhà thơ Trần Nhuận Minh đã có tham luận rất công phu, tâm huyết. Ông nhấn
mạnh: “Tôi chủ trương làm thơ dễ hiểu, nhưng người đọc không hiểu một lúc
hết được điều mình muốn nói. Họ tưởng là đã hiểu, nhưng vẫn hình như
còn có một cái gì đấy, khiến họ phải tìm đọc lần sau, và cứ thế, mỗi lần họ
lại thấy vỡ ra một cái gì đấy, ngộ thêm một điều gì đấy mà tôi có nghĩ đến
khi tạo dựng tác phẩm, nhưng tôi không viết ra. Rồi đọc thêm, họ thấy cái
mà tôi chỉ gợi ý ra cho họ và cuối cùng, họ nghĩ tới cái mà tôi chưa từng
nghĩ tới... Và như thế, nếu thơ tôi chỉ có 300 người đọc với chiều sâu như
thế, tôi đã có 300 tập thơ khác nhau và tập của tôi sẽ là tập 301. Cũng đã có
nhà văn bàn về điều này, vì cho đến bây giờ, vẫn còn có người rất e ngại tính
đa nghĩa của thơ.
Có người băn khoăn về cách giải quyết vấn đề của thơ. Tôi nghĩ đó
không phải là nhiệm vụ của thơ. Trước đây, hiện nay, và cả sau này, thơ chỉ
có một nhiệm vụ thôi là phải hay. Còn nhà thơ, chỉ có một nhiệm vụ thôi là
phải viết hay. Có nhiều kiểu hay khác nhau, càng hay - càng hay khác nhau,
lại càng hay hơn nữa. Chỉ có thơ hay mới cứu được thơ. Chỉ có thơ hay mới
có bạn đọc. Không có bạn đọc thì thơ chết và nhà thơ cũng chết. Nhưng làm
được thơ hay, bao giờ cũng là một việc rất khó.
10
Bất cứ cái gì ra đời, đều có cái lí do chính đáng của nó. Những tìm tòi
không ngừng của các nhà thơ là nhằm khai thác và thăng hoa cái phần còn
tiềm ẩn trong sáng tạo những giá trị tinh thần của con người. Và đi theo cái
này, ủng hộ cái này, không bao giờ nên bài xích hoặc ruồng bỏ cái kia, như
tôn giáo và màu da, chúng cần phải được cùng tồn tại và bình đẳng trong mọi
giá trị. Tôi nghĩ thế và không hề lạnh nhạt hay thành kiến với các sáng tác
theo các khuynh hướng nghệ thuật khác tôi, thậm chí trái ngược với tôi. Bởi
thơ là của muôn nhà, đến từ muôn nẻo đường khác nhau, không chỉ của hiện
thực cuộc sống mà còn của cả cõi tâm linh xa xăm… Nhưng tôi có hai yêu cầu.
Một, anh viết theo kiểu nào cũng phải làm cho con người sống với con người
tốt hơn và như thế, cái thước để đo nó vẫn là giá trị nhân văn. Hai, làm giàu
thêm cho văn hoá, chứ không chống lại văn hoá”.
Như vậy có thể thấy, Trần Nhuận Minh là một nhà thơ vô cùng tâm
huyết, nghiêm khắc với mình, với nghề khi đặt ra những tiêu chí và cách nhìn
nhận rất rõ ràng, quyết liệt. Những quan niệm và cách nhìn nhận có sự khác
biệt qua các giai đoạn cũng cho thấy ông có sự dấn thân, dám tìm tòi, dám
thay đổi, có sự đổi mới và vận động đáng chú ý trong tư duy nghệ thuật. Điều
đó sẽ là một cơ sở để lí giải tại sao hành trình thơ Trần Nhuận Minh lại trải
qua nhiều khúc ngoặt và đột phá đầy bất ngờ thú vị đến như vậy.
1.1.3. Các giải thưởng đạt được
Với những sáng tạo bền bỉ và tâm huyết của mình, Trần Nhuận Minh
đã được ghi nhận và tôn vinh bằng nhiều thành tựu, giải thưởng khác nhau.
Ông đã đạt: Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007;
Hơn hai chục giải thưởng văn học khác nhau, trong đó có giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng văn nghệ Hạ
Long của UBND tỉnh Quảng Ninh.v.v..
11
Ông còn được trao một số phần thưởng cao quý khác: Huân chương
Kháng chiến hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì; 8 Huy
chương, 4 Kỉ niệm chương, 3 Bằng Lao động sáng tạo về văn chương.
Những giải thưởng cao quý trên đã góp phần cùng với tác phẩm của
ông để khẳng định vị trí, tên tuổi, tài năng của tác giả, khẳng định giá trị và
đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh cho đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung.
1.2. Thơ Trần Nhuận Minh trong nền thơ Việt Nam hiện đại
1.2.1. Một số vấn đề chung về nền thơ Việt Nam hiện đại
Nền thơ Việt Nam hiện đại Việt Nam là một chỉnh thể được cấu thành
bởi các bộ phận, các giai đoạn, các tác giả với những tác phẩm cụ thể. Nó
được đặt trong một diễn trình với những bối cảnh và điều kiện về lịch sử - xã
hội cụ thể.
Trong chiều dài lịch sử, ở những thời kỳ có giao lưu với văn hóa thế giới thì
văn hoá bản địa đều có những thay đổi. Sự vận động phát triển của thơ Việt
qua các thời kỳ cũng là một minh chứng cho điều đó. Thời trung đại, do chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, ta có dòng thơ luật Đường; thời Pháp thuộc,
do ảnh hưởng thơ Pháp, phong trào thơ Mới xuất hiện; thời hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ Việt cách tân nhiều với sự tác động của
thơ Nga và thơ phương Tây; sau ngày thống nhất, điều kiện giao lưu càng
rộng mở, sự tiếp biến với nền thơ thế giới càng mạnh mẽ, các trào lưu thơ Âu
- Mỹ du nhập làm thay đổi nhiều diện mạo nền thơ Việt Nam đương đại.
Trong phạm vi đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng cách gọi thơ Việt
Nam hiện đại để nói về thơ thế kỉ XX và thập niên đầu của thế kỉ XXI, trong đó
chủ yếu nhấn mạnh hai giai đoạn: từ 1945 đến 1975 và từ sau 1975 đến nay.
Giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 1945: Những năm đầu thế kỷ XX là giai
đoạn giao thời, dấu vết thơ ca trung đại vẫn rõ nét, các bài thơ luật gò bó
12
được thay dần bằng những biến thể thơ ca dân tộc. Năm 1932 là mốc bắt đầu
thời kỳ Thơ mới, các nhà thơ đả kích thơ cũ, khẳng định cái tôi cá nhân trong
sáng tạo nghệ thuật. Phong trào Thơ mới là sự bừng nở của nhiều phong cách
nghệ thuật độc đáo, trong đó có những phong cách sẽ sống mãi với thời gian.
Có thể kể đến một loạt các tên tuổi như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,.. Trong Thơ mới, con
người cá nhân được tự do bộc lộ mình, phơi trải lòng mình, âm điệu buồn là
âm điệu chủ đạo trong các bài Thơ mới. Thơ mới đã có nhiều đóng góp về
mặt cách tân nghệ thuật đối với nền thơ ca dân tộc.
Thơ ca cách mạng thời kỳ này cũng phát triển mạnh và đạt nhiều thành
tựu nhưng chủ yếu đóng góp là về mặt nội dung.
Giai đoạn từ 1945 đến 1975: Hầu hết thể thơ quen thuộc trong thơ ca
truyền thống và hiện đại đều được các nhà thơ ở thời kì này đã sử dụng nhuần
nhuyễn, linh hoạt, thể thơ nào cũng có những thành công rực rỡ. Trong đó,
đặc biệt phải kể đến thể thơ tự do, thể thơ văn xuôi và thể trường ca. Ngôn
ngữ thơ thời kì 1955 - 1975 xuất phát từ ngôn ngữ đời sống xây dựng chủ
nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Cho nên, trong thơ xuất
hiện một hệ thống từ ngữ không có ở thơ ca trước đó. Sức gợi cảm, gợi liên
tưởng của ngôn ngữ thơ thời kì này ngày càng đậm nét. Về giọng điệu thơ,
xuất hiện nhiều giọng điệu đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của thời đại, đó là giọng
hào sảng, lạc quan, giọng tâm tình, giọng châm biếm, mỉa mai,... Tuy nhiên,
điểm chung mà các nhà thơ đều hướng đến là khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm
hồn, tính cách của con người Việt Nam.
Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ ca tập trung thể hiện niềm vui lớn của
dân tộc, ca ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Thơ
càng ở giai đoạn sau càng đậm đà tính thời sự và tính chiến đấu, phản ánh một
cách kịp thời, chân thật, hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và
13
khí thế sôi nổi hào hùng của đời sống xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Bên cạnh đó, thơ còn giàu chất trữ tình và chất anh hùng ca. Thơ bộc lộ
những cảm nhận chân thành, giản dị mà rất sâu lắng tình yêu, niềm tự hào về
quê hương đất nước, về cuộc sống quá khứ, hiện tại và hướng về tương lai.
Những tên tuổi lớn đóng góp cho thơ ca giai đoạn này phải kể đến
những Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Thu
Bồn, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mĩ Dạ, Hoàng Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, .v.v..
Có thể nói rằng, thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ (và cả chặng
nối dài của nó đến khoảng 1980) đã đưa nền thơ cách mạng đến giai đoạn
phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Chặng đường thơ ấy đã
đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại mình, đồng thời cũng là một giai
đoạn không thể bỏ qua trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Từ sau 1980,
cùng với cả nền văn học, thơ cũng phải tự làm mới mình, tìm lại vị trí trong
đời sống hàng ngày của con người, cái hàng ngày không hề giản đơn mà chứa
đựng bao sự phức tạp, những xung đột, những sóng ngầm và những khát vọng
không cùng. Thơ đã đi tìm những hướng mới, tạo nên diện mạo và giọng điệu
mới. Nhưng thơ kháng chiến không hề mất đi những giá trị bền vững của nó.
Không phải nó chỉ sống trong tiềm thức và kỉ niệm của những lớp người đã đi
qua cuộc chiến tranh, mà vẫn nằm sâu ở những lớp đáy của đời sống tinh thần
toàn xã hội, góp phần tạo dựng nền tảng tinh thần cho những thế hệ hiện nay
và sau này. Còn đối với tiến trình vận động của thơ, thì những thành công và
hạn chế của thơ kháng chiến có thể là sự gợi mở, kích thích cho những tìm
tòi, đổi mới thơ về sau.
Giai đoạn từ sau 1975 đến nay: Nét nổi bặt của thơ sau 1975 đến nay là
sự khẳng định con người cá tính, trong đó con người không tự thoả mãn, tự
bằng lòng mà luôn trên hành trình tìm kiếm các giá trị tinh thần.
14
Giai đoạn này có sự xuất hiện của nhiều bài thơ theo xu hướng hiện đại
chủ nghĩa hoà nhập với nền thơ hiện đại của thế giới, đem lại cho thơ nhiều
phẩm chất mới: thơ có thực nhưng cũng có ảo, có ý thức và cả vô thức, tiềm
thức, tâm linh.
Thời kỳ này, xuất hiện nhiều bài thơ rất ngắn, thơ văn xuôi, ngôn ngữ
vừa đi gần hơn với đời sống vừa giàu sức gợi, hàm ngôn.
Sau hai mươi năm, thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên không
ngừng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào của đời sống, các nhà thơ vẫn luôn tìm
tòi, thể nghiệm ở nhiều phương diện, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền
thống và hiện đại, để ngày càng đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tạo nên vẻ
đẹp phong phú, đa dạng, nhiều hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại.
Những nhà thơ nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến như: Thi
Hoàng, Trúc Thông, Y Phương, Dư Thị Hoàn, Hoàng Trần Cương, Nguyễn
Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,
Nguyễn Bình Phương, Vũ Quần Phương, Trần Quang Quý, Nguyễn Linh
Khiếu, Trần Hùng, Inra Sara, Dương Thuấn, Trương Đăng Dung, Đỗ Trọng
Khơi, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Chiến, Trần Hòa Bình, Phạm Công Trứ,
Nguyễn Trọng Tạo, Trần Hữu Dũng, Bùi Chí Vinh, Đỗ Minh Tuấn.v.v..
Nhìn một cách khái quát, thơ Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI là
tiếp nối mạch thơ đổi mới cuối thế kỷ XX với cảm hứng thế sự và đời tư giữ
vai trò là cảm hứng chủ đạo. Hai dòng cảm hứng này đã chiếm lĩnh thơ ca
Việt Nam từ sau năm 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới sau 1986. Nhưng
trong những năm gần đây, với việc toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, với bao
biến cố lớn mà nhân loại nói chung và đất nước nói riêng đang phải đối mặt,
nội dung thế sự, đời tư trong thơ ca cũng có nhiều thay đổi so với giai đoạn
trước.
15
Trong những năm gần đây, thơ đương đại Việt Nam chứng kiến sự vận
động, phát triển hết sức mạnh mẽ, đa dạng, sự mở rộng và đột phá trong tư
duy và hình thức nghệ thuật. Thơ trẻ từ đầu thế kỷ mới ít cất lên tiếng nói đại
diện cho lý tưởng tập thể, mà chủ yếu khẳng định cái tôi cá thể của mình, từ
nhu cầu xác lập căn cước cho mình. Việc ít phải chứng nghiệm các hậu quả
chiến tranh và hòa nhập nhanh chóng vào quá trình toàn cầu hóa khiến cho
những biểu hiện của thơ trẻ Việt Nam ngày càng khác lạ với truyền thống thơ
ca được kiến tạo từ giai đoạn trước. Màu sắc giáo huấn, đạo lí đã nhường chỗ
cho các sắc màu khác, những nhận thức và trải nghiệm mới, khi thơ ca hiện
diện như một sân chơi tinh thần chấp nhận tất cả các ý hướng dấn thân, ngẫu
hứng, phá phách. Thơ trẻ tìm đến những khám phá, thức nhận, giãi bày mang
tính cá nhân về đời sống và tình người, làm nên những đổi thay về quan niệm
nghệ thuật: giải trí và tiền phong xác tín những kinh nghiệm mới. Đã có một
diện mạo khá mới mẻ cho thơ hôm nay với những tác giả trẻ như Nguyễn
Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh, Lê Vĩnh Tài, Văn Cầm Hải, Phan Huyền
Thư, Nguyễn Vĩnh Tiến, Trương Quế Chi, Ly Hoàng Ly, Đỗ Doãn
Phương.v.v..
Đặt trong một diễn trình và bối cảnh chung như thế, để nhìn nhận về
thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có sự phân tích một số trường hợp cụ thể, quan
trọng, đó là những nhà thơ tạo ra phong cách riêng, có những đóng góp riêng,
giữ một vị trí riêng, trong nền thơ đó. Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một
trường hợp tác giả như thế.
1.2.2. Vị trí, đóng góp của thơ Trần Nhuận Minh
Trong đời sống thơ ca và lịch sử một nền thơ, khi người ta nói đến một
nhà thơ thì thông thường cũng đồng nghĩa với việc nói về vị trí nhất định của
tác giả đó. Tức là, mỗi nhà thơ sẽ như một đại diện của đề tài hay thi pháp mà
mình sở trường nhất, có thành tựu nhất. Khi nói đến Xuân Diệu là nói đến nhà
thơ của tình yêu, tương tự như vậy, Nguyễn Bính là nhà thơ của người quê
16
làng quê, Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn.v.v.. Nó như là một quy
luật của sáng tạo thơ ca.
Riêng vớ nhà thơ Trần Nhuận Minh, dường như đây là một trường hợp
đặc biệt, bởi thơ ông đã vượt qua quy luật ấy. Nói đến Trần Nhuận Minh
không thể định vị ông vào một vấn đề nhất định. Thơ ông không đơn thuần
như là đại diện của một mảng đề tài, một khuynh hướng, một thi pháp, mà nó
mang trong mình sự đa dạng đa chiều đa diện đầy biến ảo và phức tạp.
Trước hết, nói đến thơ Trần Nhuận Minh là nối đến một đại diện xuất
sắc của đề tài về ngành công nghiệp, người công nhân. Ông có những vần thơ
rất tình nghĩa về mảng đề tài này:
Nơi khúc dân ca nuối chúng tôi tuổi thơ
Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất…
Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than
Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than
(Lên tầng)
Những tập thơ vào khoảng thập niên 70 – 80 của thế kỉ XX như Đấy là
tình yêu, Âm điệu một vùng đất, Thành phố bên này sông.v.v.. đã nói lên tất cả
tình yêu, niềm tự hào, sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với vùng đất mỏ và
người thợ nơi đây. Với những tác phẩm trước Đổi mới 1986 này, Trần Nhuận
Minh được xem như nhà thơ của công nghiệp – công nhân.
Công cuộc Đổi mới toàn diện của đất nước từ 1986 đã tác động sâu sắc đến
cách nhìn, quan niệm về cuộc đời và nghệ thuật của Trần Nhuận Minh, khiến ông
có những thay đổi vô cùng quan trọng trong sáng tác. Kể từ đây, ông giã từ hoàn
toàn với cách viết cũ, để bứt phá sang một bút pháp hoàn toàn mới. Đó không phải
là sự rũ bỏ quá khứ, mà là sự vượt thoát khỏi tư duy cũ, thức nhận cũ của chính
bản thân mình. Ông đã viết những câu thơ hết sức mới mẻ:
17
Hãy áp tải sự thật
Đến những bến cuối cùng
Chai rƣợu ngang dốc ngƣợc
Đứng cùng trời uống chung
(Nhà thơ áp tải)
Với những tập thơ Nhà thơ áp tải (1989) và Nhà thơ và hoa cỏ (1993), Trần
Nhuận Minh lại trình làng một quan niệm nghệ thuật mới một cách vô cùng quyết
liệt, khi ông nghiền ngẫm sâu sắc và không né tránh về hiện thực đất nước, hiện
thực thời đại. Đặc biệt, tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ của ông đã được tái bản đến 22
lần – một kỉ lục trong thơ ca Việt Nam. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về
Văn học Nghệ thuật cũng chính là cho tập thơ xuất sắc này. Như vậy, Trần Nhuận
Minh lại được coi như một nhà thơ của hiện thực đất nước, hiện thực thời đại.
Đi đến tận cùng hiện thực, Trần Nhuận Minh bất ngờ đi vào một
chặng khám phá mới, đó là thế giới kì ảo của tâm tưởng, của vô thức, của tạo
hóa. Những vấn đề vô cùng thâm diệu biến ảo của cuộc đời, con người và
nghệ thuật được nhà thơ quan tâm, chiêm nghiệm, lí giải:
Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn
Ngàn năm bay ngƣợc bão
Mang sấm sét của những vùng chƣa qua
Mang ánh trăng của những thời chƣa tới
Cái mong manh thắng đƣợc cả sắt thép
Bền vững đến muôn đời
Cánh chuồn lấy thơ ở đâu ra
Từ hồn nhiên kh trời chăng
(Bản sonate hoang dã)
18
Hoặc như:
Đấng Mê Tơi đang nói
Trong im lặng khôn cùng
Trong sắc chiều bâng khuâng tận đáy
(Bản sonate hoang dã)
Với những tập thơ vô cùng đặc sắc như Bản sonate hoang dã (2003),
45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008),
Trần Nhuận Minh lại hiện ra như một thi sĩ - triết gia, thi sĩ - thiền gia. Ông
được xem như một nhà thơ dũng cảm dấn thân về phía bí ẩn vô tận của tạo
hóa, của con người, của sáng tạo nghệ thuật và thi ca.
Chính vì vậy, có thể thấy nhà thơ Trần Nhuận Minh là một trường hợp
độc đáo trong thơ ca Việt Nam hiện đại, không chỉ bởi quãng đường sáng tạo
hơn nửa thế kỉ qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và một sự nghiệp sáng tác
đồ sộ hơn hai chục tập thơ nhiều giá trị, mà còn bởi sự đa dạng và biến ảo
không ngừng trong cùng một bản thể thi sĩ. Nó khẳng định sự đóng góp đặc
sắc, to lớn và quan trọng cùng một vị trí trang trọng của thơ Trần Nhuận Minh
trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
Có thể nói, với những đóng góp ấn tượng và đậm nét của mình cho thơ
ca nước nhà, Trần Nhuận Minh đã trở thành một tên tuổi sáng giá làm nên
diện mạo thơ ca Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ XX, những năm đầu
thế kỉ XXI. Đánh giá về Trần Nhuận Minh - tác giả và tác phẩm, nhà nghiên
cứu văn học người Trung Quốc – GS. Phùng Trọng Bình đã nhận định mang
tính khái quát cao: “Trần nhuận Minh rất tinh tế trong việc học hỏi, kế thừa và
vận dụng ý thơ của văn học truyền thống cổ đại. Tinh hoa của các tác giả nổi
tiếng như nhà thơ Trung Quốc Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, nhà văn vĩ đại nước
Nga Lev Tolstoy, thi hào Sergei Esenin, tiểu thuyết gia – nhà soạn kịch Tây
Ban Nha Miguel de Cervantes, đặc biệt là văn học truyền htống Việt Nam với
19
tác giả tiêu biểu là đại thi hào Nguyễn Du…, đều là nguồn dinh dưỡng phong
phú nuôi dưỡng nhà thơ trưởng thành. Cùng với nỗ lực học tập và đúc rút
kinh nghiệm quý báu của các bậc vĩ nhân, học hỏi những sở trường của nhiều
nhà văn, nhà thơ lớn, từ đó trong ông đã hình thành một phong cách nghệ
thuật độc đáo và đặc sắc khác lạ, trở thành một nhà văn, nhà thơ chủ chốt
trong văn học Việt Nam, và đang từng bước tiến vào văn đàn thế giới”
[14.tr263].
Tiểu kết chương 1:
Nhà thơ Trần Nhuận Minh với bề dày sự nghiệp sáng tác của mình, với
những giải thưởng văn học cao quý được trao tặng, đã khẳng định vị trí và sự
đóng góp to lớn và đặc sắc vào nền thơ Việt Nam hiện đại. Trần Nhuận Minh
xứng đáng được coi như một trong những nhà thơ tiêu biểu xuất sắc của nền
thơ hiện đại Việt Nam. Việc nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh là vô cùng ý
nghĩa, không chỉ với cá nhân tác giả nói riêng, mà còn là với một giai đoạn
của nền thơ Việt Nam nói chung.
Qua hơn nửa thế kỉ cầm bút, Trần Nhuận Minh đã có những thay đổi,
vận động nhất định, thể hiện qua những tác phẩm với đề tài và bút pháp đầy
đa dạng, linh hoạt. Nghiên cứu Trần Nhuận Minh với các giai đoạn khác nhau
cùng quan niệm và tư duy nghệ thuật khác nhau cũng là một cách đối chiếu để
nhận diện các chặng đường thơ ca Việt Nam hiện đại.
20
Chƣơng 2
CẢM HỨNG TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
2.1. Vấn đề Cảm hứng trong thơ
2.1.1. Khái niệm Cảm hứng
Trong sáng tạo nghệ thuật, cảm hứng giữ một vai trò quan trọng. Nó
tuân theo quy luật tình cảm, chi phối nội dung và hình thức của tác phẩm.
Cảm hứng chính là một tình cảm xã hội đã được ý thức, là sự rung động của
tâm hồn nhà văn trước cuộc đời; mặt khác, cảm hứng là điều kiện không thể
thiếu, là linh hồn của tác phẩm, góp phần làm nên sức sống lâu bền cho tác
phẩm.
Thuật ngữ cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa diễn
thuyết, sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lí luận văn học
xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của
thái độ tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa
này, cảm hứng chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm
hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất
định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm. Đây là cái
mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế
giới quan của mình trong tác phẩm.
Trong công trình nghiên cứu Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà lí luận
đã định nghĩa cảm hứng là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt
tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất
định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm”
[12.tr44]. Như vậy, cảm hứng là sự xúc động thăng hoa, bao trùm và tác động
đến toàn bộ quá trình sáng tạo của người viết và cả quá trình đồng sáng tạo
của người đọc. Không có cảm hứng thì tác giả không sáng tạo được tác phẩm,
21
và tác phẩm cũng sẽ không tìm được đến sự đồng điệu của bạn đọc.
Nhà nghiên cứu lí luận phê bình Bêlinxki coi cảm hứng chủ đạo là điều
kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó biến sự
chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng,
một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành.
2.1.2. Cảm hứng trong thơ
Thơ ca là khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc
điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là một bài
thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc
một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần
giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính
trong bài. Thơ thường dùng như hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình
cảm xúc động trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng
trước phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước thảm cảnh. Sự tương tác giữa
tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn
bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức
thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết. Muốn làm được như
vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và
nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn
có trước đây.
Một trong những yếu tố quan trọng tiên quyết để sáng tạo thơ là phải có
nguồn cảm hứng. Không bắt đầu từ cảm hứng thì các yếu tố như kĩ thuật, cấu
tứ, câu chữ.v.v.. cũng không thể chuyển hóa thành một bài thơ thực sự. Cảm
hứng là mạch nguồn khơi gợi nên những sự rung cảm sâu xa trong con người
nhà thơ, từ đó thôi thúc nhà thơ viết ra một cách đắm đuối, hết lòng, chân
thành và sâu sắc. Tìm hiểu về mạch nguồn cảm hứng chính là một yếu tố
quan trọng và căn bản để ta chỉ ra được nhà thơ/nền thơ đó thuộc về cội
22
nguồn lịch sử nào, không gian văn hóa nào, cộng đồng tộc người nào, và nó
đặt trong một tiến trình vận động ra sao.
2.2. Cảm hứng trong thơ Trần Nhuận Minh
2.2.1. Cảm hứng trữ tình
Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thi ca, có vai trò quan
trọng trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm,
thái độ được thể hiện bằng một giọng điệu riêng. Một cái tôi trữ tình phong
phú tựa như viên nam châm luôn luôn có sức hút về phía mình sự giàu có của
cuộc đời. Đặc điểm của cái tôi trữ tình phụ thuộc vào phong cách của mỗi nhà
thơ, của các trào lưu, khuynh hướng. Chính vì vậy, mỗi thời đại có một kiểu
cái tôi trữ tình đóng vai trò chủ đạo, chi phối cảm hứng trữ tình của các tác
giả. Đi vào tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh, có thể thấy một trong những yếu
tố nổi bật trong tác giả này, đó là cảm hứng trữ tình.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một người được sinh ra và trưởng thành
trong một thời kì lịch sử của dân tộc – thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông
cũng như bao người cùng thời sống trong bầu không khí hào hùng của những
năm tháng mà ai ai cũng hướng đến cái “ta”, cả dân tộc hòa chung một lẽ
sống lớn, lí tưởng lớn, tình cảm lớn. Niềm vui trong thơ Trần Nhuận Minh to
lớn, sôi nổi, hân hoan và tươi sáng như niềm vui của cả đất nước.
Không chỉ thế, ông còn là một người đã gắn bó cả cuộc đời mình với
mảnh đất vùng mỏ Quảng Ninh với những nỗi niềm vui buồn, thăng trầm của
người thợ nơi đây. Những gắn bó sâu nặng đó đã trở thành một phần làm nên
một chất thơ hồn hậu, yêu thương của Trần Nhuận Minh.
Có lẽ vì những lẽ đó, thơ Trần Nhuận Minh luôn tràn đầy nguồn cảm
hứng trữ tình ấm áp, sâu nặng. Khảo sát thơ Trần Nhuận Minh, có thể nhận
thấy chất trữ tình này được khơi nguồn cảm hứng từ ba mạch vấn đề chính, đó
là: hƣớng về quê hƣơng, đất nƣớc; hƣớng về ngƣời thân, gia đình; hƣớng về
23
tình yêu, khát vọng.
2.2.1.1. Hƣớng về quê hƣơng, đất nƣớc
Đã là một người con của dân tộc, ai cũng có tình yêu lớn lao sâu sắc
với đất nước mình. Và khi giải bày tình yêu đó, mỗi người lại có một cách thể
hiện khác nhau.
Đối với nhà thơ Trần Nhuận Minh, trong tâm tưởng của tác giả, đất
nước là những gì vừa lớn lao nhưng cũng vừa bình dị, vừa thiêng liêng cao
vời nhưng cũng vừa gần gũi thân quen:
Đây là nơi đầu tiên ta nhận ra Đất Nƣớc
Ngổn ngang mây hong nắng chân trời xa
Bát ngát câu hò, nẻo đƣờng xòe nan quạt
Gan bàn chân mát lạnh bóng tre ngà
(Cổng làng)
Nói về Tổ Quốc, nhà thơ muốn nói đến trước tiên không phải những vĩ
nhân, những anh hùng, những danh nhân, mà đó là triệu triệu người dân nhỏ
bé vô danh đã ngã xuống, đã làm nên Tổ Quốc bằng máu xương:
Bạn thấy chăng
Hàng triệu triệu Ngƣời
Lần lƣợt lao vào lửa đạn
Cho Tổ Quốc
Sáng bừng tên tuổi
Rồi để lại những nấm mồ vô danh
Trắng đến tận chân trời
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
24
Trở về quê hương như là tìm nơi bình yên cho tâm hồn tránh xa vòng
xoáy của những vụ lợi, toan tính. Chỉ cần đặt chân lên con đường quen thuộc,
con người đã cảm nhận được ngay cảm giác bình yên. Quê hương là nơi nuôi
dưỡng con người lúc nhỏ, từ miền quê đó con người đi tới những chân trời
mới, thế nhưng mỗi khi vấp ngã hoặc mỏi mệt trên đường đời lại quay về tìm
nguồn an ủi ở quê hương. Quê hương nghĩa nặng, tình sâu cho nên dù đi đâu
ai cũng mang trong mình hình bóng quê nhà.
Người viết nào cũng đặc biệt gắn bó máu thịt với một vùng quê, một
không gian của riêng mình. Nó trở thành vùng sáng tạo, không gian sáng tạo
cho nhà thơ. Nó như là một quy luật tinh thần: “Quê hương mỗi người chỉ
một, như là chỉ một mẹ thôi”. Không có mạch nguồn cảm hứng nào mãnh liệt,
bất tận như nguồn mạch quê hương.
Nói về quê hương mình, Trần Nhuận Minh phơi phới tự hào, tha thiết
yêu thương, bừng bừng khí thế. Đó là quê hương anh dũng, quê hương nghĩa
tình, tươi đẹp:
Và cánh diều chao lƣng trời
Tiếng kèn vàng đồi
Bay nhƣ đàn ong đi lấy mật
Náo nức nhƣ tiếng đời sầm uất
Lƣợn lúa chiêm trăng, con chép đớp trăng rơi
Tở mở trong hố bom, bèo dâu xanh nụ cƣời
Lửa ch n hồng trong bếp
Sao nở trắng trên mái nhà nhƣ ngô nếp
Buổi họp giữa sân kho, thêm mới các chỉ tiêu
Chiến trƣờng xa thêm thƣ ngƣời yêu
(Tiếng kẻng vỏ bom của ông tôi)
25
Có thể thấy, nhà thơ Trần Nhuận Minh có một tâm thế sống vô cùng
thiết tha, sâu nặng, hết lòng và trọn mình với quê hương, xứ sở, đất nước. Đó
là một mạch nguồn sâu xa, vững vàng, bền chặt để thơ Trần Nhuận Minh neo
đậu, bám rễ và vươn cao.
2.2.1.2. Hƣớng về ngƣời thân, gia đình
Trong đời sống tình cảm con người, thì gia đình có lẽ là một điều gì đó
thuộc về sâu thẳm nhất, gần gũi nhất, vĩnh cửu nhất. Đó là nơi đầu tiên và còn
lại cuối cùng của tình yêu thương. Tình cảm với những người thân trong gia
đình là tình cảm khởi nguồn mọi tình cảm khác. Đầu tiên con người phải biết
yêu mẹ, yêu cha, yêu anh, yêu em rồi từ đó mở rộng ra yêu làng xóm, yêu quê
hương, yêu Tổ quốc. Bởi vậy,tình cảm gia đình là tình cảm nhân bản nhất
trong con người. Cũng chính vì vậy, người thân, gia đình chính là những
nguồn mạch cảm hứng chân thành, sâu nặng, bất tận của các nhà thơ.
Cũng như biết bao nhiêu nhà thơ đã sống đã viết, nhà thơ Trần Nhuận
đã dành những trang viết sâu đậm, thân thương, xúc động nhất cho người
thân, gia đình của mình.
Hình ảnh người mẹ hiện lên trong thơ Trần Nhuận Minh vừa có sức
khái quát về những người phụ nữ Việt Nam lặng lẽ tảo tần lam lũ ngàn đời
nay, vừa mang những nét riêng ấn tượng và ám ảnh bởi dáng cong đòn gánh
và dáng còng lưng mẹ - người mẹ của tác giả:
Mẹ tôi lại gánh chiếc đòn cong
Lại đi gánh mƣớn, lại long đong
Cuộc đời v t trĩu đôi đầu gánh
Lƣng mẹ già nua còng lại còng
(Chiếc đòn gánh cong)
26
Hình ảnh người mẹ của tác giả còn trở đi trở lại đấy day dứt và nghẹn
ngào trong các trang thơ Trần Nhuận Minh. Đây là những câu thơ thể hiện nỗi
xót xa và thương yêu của người con trước những nỗi niềm đầy vơi cay đắng
khổ đau trong cuộc đời người mẹ - một câu chuyện và những tâm sự vô cùng
xúc động và thấm thía:
Trong ánh mắt mẹ tôi và trong câu dân ca
Thăm thẳm cất lên dù ở nơi nào
Những câu hát làm tôi nhớ quê hƣơng
Sông Kinh Thầy mùa xuân nƣớc xanh
Sông Kinh Thầy mùa thu nƣớc đỏ
Cánh buồm trắng mong manh chiều trở gió
Mẹ tôi đi chuyến đò đầy
(Đá Cháy)
Để đến một ngày, khi bước vào một tầm quãng nhất định của cuộc đời,
người con mới hiểu ra rằng, mẹ nhường nhịn và hi sinh đến thế nào, mẹ mạnh
mẽ và lớn lao đến thế nào:
Mẹ ơi, con đã có nhiều ngày
Đi dọc nỗi buồn đau xƣa của mẹ
Con dần hiểu vì sao mẹ cực khổ thế
Mà chuyện kể, lời ru, chỉ có ngọt ngào
(Mẹ)
Trước hình ảnh người em gái miệt mài say mê trong công việc, nhà thơ
nhận ra vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của cuộc sống thật giản dị gần gũi mà
vô cùng kì diệu:
27
Em đứng trên khung nhà cao tầng
Nhƣ chiếc lá xanh, n y trên cây sắt thép
Từ tay em những tia lửa bay ra
Em thành trung tâm muôn ngàn sao sa
(Cô thợ hàn trên khung nhà cao tầng)
Cứ như vậy, Trần Nhuận Minh đã dành những dòng thơ sâu nặng nhất,
chân thành nhất để viết về người thân, gia đình của mình bằng tất cả yêu
thương. Đúng như tác giả Trần Nhật Thu nhận ra: “Thơ Trần Nhuận Minh lay
động tận cùng chiều sâu của tâm linh, của lòng hướng thiện. Phải có lòng lắm,
phải thương yêu người lắm lắm, mới mong có được những câu thơ rất mực
chân thành” [30.tr304].
2.2.1.3. Hƣớng về tình yêu, khát vọng
Trong rất nhiều nỗi niềm hướng tới, nhà thơ Trần Nhuận Minh luôn
dành những cảm xúc vô cùng mãnh liệt để viết về tình yêu và khát vọng trong
cuộc sống. Có thể nói, đó là những lúc mà hồn thơ Trần Nhuận Minh trở nên
bùng cháy, thăng hoa.
Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca bởi lẽ con người thời nào cũng
có nhu cầu yêu và được yêu. Đã có rất nhiều những giọng thơ tình độc đáo,
những bài thơ tình hay, cho nên để tạo được dấu ấn riêng trong mảng đề tài
này là cả một thử thách lớn lao không dễ vượt qua trong sáng tạo. Trần Nhuận
Minh có lẽ ý thức rất rõ điều này, cho nên ông viết về tình yêu không nhiều,
viết một cách kĩ lưỡng và đằm sâu, chân thành. Tình yêu trong thơ Trần
Nhuận Minh thường trầm buồn, man mác dư vị tiếc nuối về cái gì đã qua, ẩn
sau đó là nỗi đau của trái tim. Dù vậy, nó không bi lụy, mà bao giờ cũng đọng
lại những ấm áp rất con người, rất đời:
28
Có một chiều giếng đá lá khô bay
Con đƣờng dốc em đi không trở lại
Mây trinh nữ che nghiêng trời xóm Bãi
Chim le le gọi bạn cuối đầm sâu
Có một chiều yên ấm ở xa nhau
Anh chợt thấy vầng trăng rằm cũng khuyết
Tà áo mỏng bồng bềnh cơn gió rét
Thổi nao lòng từ tuổi chớm hoa bay
(Chiều xanh)
Nhiều khi, những bài thơ tình của Trần Nhuận Minh đủ khiến người
đọc chìm vào trong mạch cảm súc nghiêng say đắm đuối mê mải:
Cây cỏ vô tình nhuốm nỗi dở dang em
Gió thổi suốt đêm trăng mƣời bảy tuổi
Em ở đâu đây? Trời dịu dàng bối rối
Thả vào hồn ta giọt sƣơng cũ đầm đìa
(Thành phố bên này sông)
Hoặc đôi khi cũng đầy tình tứ duyên dáng:
Giao thừa đi nhƣ cô gái chƣa chồng
Đẹp nức nở những muộn mằn đắng chát
Ta ở đâu giữa mùa xƣa xanh ngát
Má trăng mờ run r y dấu môi hôn
(Bài thơ gửi lại)
29
Có khi, nhà thơ viết ra dường như chỉ để tự trải lòng mình, âm thầm
lặng lẽ với tình yêu của mình:
Ngoài làn mây trắng bay ở ngang trời
Và trái tim xanh đập trong lồng ngực
Anh chẳng có gì đâu
Em quay đi là phải quá rồi
Tiếc nuối làm chi thời dang dở
Chỉ mấy bông hoa dại là còn biết thƣơng
nỗi buồn mới của ngày xƣa
Cứ tìm đến góc vƣờn hoang mà hồn nhiên nở
(Bài thơ không gửi cho ai)
Nhà thơ có một cách nhìn, một cách quan niệm rất đặc biệt khi gắn tình
yêu với cái đẹp, như một sự ngưỡng vọng, một niềm tin vĩnh cửu về sự khôi
nguyên bất tử, lí tưởng:
Ta nhận ra em
Run run đứng chờ ta
Tà áo mỏng bay trong sƣơng khuya
Thấp thoáng núi đồi thiêng liêng huyền ảo
Da thịt thơm lừng trái ch n
Em yêu ơi
Cái hiện hữu hãy tin là Cái Đẹp
Chớ bận tâm quá khứ với tƣơng lai
30
Ta sẽ lặn xuống đất sâu
Khi tiếng đàn bầu dứt
Tìm ta ƣ
Hãy hỏi sắc hoa mai
(Hãy hỏi sắc hoa mai)
Cùng với chủ đề tình yêu thì chủ đề khát vọng cũng là điều mà nhà thơ
Trần Nhuận Minh gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm tư sâu nặng trong đó. Có thể
nhận thấy trong con người nhà thơ luôn chất chứa một nỗi khát vọng cao đẹp
về đời sống:
Gió đã xanh thổi lên từ hoa cỏ
Nở bời bời những khát vọng muôn sau
(Lời từ biệt)
Khát vọng ấy có khi được nâng lên thành lẽ sống, thành lí tưởng. Đó là
lẽ sống luôn sẵn sàng hết mình, trọn mình cho những gì mình lựa chọn và
theo đuổi, cống hiến để thỏa lòng và thanh thản:
Tôi đã chọn cho mình một cách sống
Thì tôi cũng chọn cho mình một cách chết
Chọn cách chết nghĩa là chọn cách sống
Và tôi ng ng cao đầu, thanh thản, đi
(Một trăm bước cuối cùng)
Cuộc sống là một hệ lựa chọn, mỗi người đều có lựa chọn của mình và
chịu trách nhiệm về điều đó. Nhà thơ cũng đã dứt khoát lựa chọn lẽ sống của
mình và chỉ còn biết hết mình cho nó. Đó là một xác quyết vô cùng đáng quý,
đáng trân trọng.
31
Cũng có những khi, nhà thơ Trần Nhuận Minh tạo ra một mạch trữ tình
chiêm nghiệm về con người, trong đó có chính bản thân mình, đem lại cho
cảm hứng thơ một gam màu tươi mới và ấn tượng:
Con ngƣời là những giọt nƣớc mắt
Của Đấng Âm U rơi xuống trần gian
Giọt nƣớc mắt bên phải là đàn ông
Giọt nƣớc mắt bên trái là đàn bà
Chúng lẫn trong nhau
Mà hóa ra bát ngát…
(Bản sonate hoang dã)
Và dù thế nào, thì cuối cùng nhà thơ cũng luôn hướng về một niềm tin
yêu hi vọng đầy ấm áp về cuộc sống này:
Cứ thế, bốn mùa mong ƣớc nối theo nhau
Ghét tất cả. Rồi lại yêu tất cả
Cứ thế
Mang lo toan vất vả
Trái đất quay trong Hi Vọng khôn cùng...
(Bốn mùa)
Có thể nói rằng, Trần Nhuận Minh là một nhà thơ của dòng mạch cảm
hứng trữ tình sâu lắng với những nỗi niềm thiết tha với đời sống, với con
người, với tình yêu.v.v..
2.2.2. Cảm hứng thế sự
Từ những năm tháng đất nước còn trong chiến tranh, nhà thơ Trần
Nhuận Minh đã thể hiện cái tôi trữ tình ngợi ca, tự hào về quê hương, đất
32
nước, yêu thương chia sẻ với con người, gia đình và người thân. Khi hòa bình
lặp lại, bước sang giai đoạn Đổi mới, lúc bấy giờ thơ của Trần Nhuận Minh đi
sâu vào đời tư, thế sự, để khám phá những miền sâu xa trong cõi tâm linh, sâu
thẳm của con người. Cái tôi ấy thể hiện nỗi buồn đau nhân thế, chứa đựng giá
trị nhân văn cao cả. Trần Nhuận Minh mong muốn được chia sẻ, cảm thông,
thấu hiểu hơn với tình đời, tình người. Đó cũng là nỗi trăn trở, suy tư của nhà
thơ về tha nhân, từ đó, rút ra những triết lý sâu sắc về cuộc đời. Cái tôi triết lý
đã được đúc kết từ sự trải nhiệm của bản thân, từ những chiêm nghiệm, nghĩ
suy; do đó rất mực chân thành và cảm hóa tâm hồn bao người.
Trần Nhuận Minh không cô độc với hành trang khắc khoải, bởi những
câu thơ sốt ruột của ông đang nâng tầm vóc sứ mệnh và sức mạnh cho thi ca
lên khỏi sự hờ hững của độc giả thời hiện đại:
Nơi này có ngƣời bị đ y lên giàn lửa
Chỗ kia có ngƣời bị xô xuống vực sâu
Ở đâu cũng có ngƣời bị lăng nhục…
Vị anh hùng ơi!
Thế gian chẳng bình yên
Dù mỗi sớm tiếng chim trời vẫn hót...
Sức mạnh của kẻ hèn, ý ch của bóng đêm
Vẫn mai phục dƣới những chùm quả ch n
Kẻ ác đôi khi làm việc thiện
Đánh thuốc độc cả tiếng cƣời
Đóng dấu thật vào những hồ sơ giả
Và bƣớc lên trong ánh hào quang
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
33
Nhà thơ Trần Nhuận Minh dường như bắt đầu thực sự tìm thấy con
đường nghệ thuật đích thực cho chính mình, khi xác định được tư tưởng nghệ
thuật: “Hãy áp tải sự thật – Tới những bến cuối cùng”. Và cũng chính từ quan
niệm và hướng đi đó, trang thơ ông thực sự được nâng tầm. Không quan sát
một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với đời sống hiện thực,
thơ Trần Nhuận Minh thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có thực
của những kiếp người, về những hiện trạng xã hội đầy những khiếm khuyết,
không ít những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung về số phận con người.
Trong Đối thoại văn chƣơng cùng với nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, Trần
Nhuận Minh cũng đã từng thể hiện và bày tỏ quan điểm của mình về thơ thế
sự như sau: “Thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao la, viết về con người, cũng
tức là viết về mình đấy. Và như thế, mình có mặt ở khắp mọi nơi, tự tan ra
trong nỗi vui buồn của rất nhiều người. Vậy thì cái được lại càng nhân lên,
còn gì sung sướng hơn nữa. Viết về người, vẫn cần hoa mĩ, trữ tình, nếu bài
thơ yêu cầu cần phải như thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt cách hay một
nhân cách. Thông thường thơ thế sự cần mộc hơn, nhưng cũng phải tinh hơn,
không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc, dư ba… thơ
sẽ không sống được”.
Có thể thấy, chất thế sự trong thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nằm ở hai
vấn đề chính: hƣớng đến những vấn đề bức thiết của đời sống; hƣớng đến
những thân phận bất hạnh.
2.2.2.1. Hƣớng đến những vấn đề bức thiết của đời sống
Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về cuộc sống đời
thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực tại. Những tác phẩm
mang cảm hứng thế sự chú ý khẳng định giá trị thẩm mĩ của cái đời thường,
khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quí trên hành trình đi tìm sự sống
và hạnh phúc của con người.
34
Thơ hôm nay cũng hướng nhiều đến đời sống tinh thần phong phú,
phức tạp của con người với những ham mê, dục vọng thường tình, những
khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đời thường. Dòng thơ đời tư
hiện nay vẫn tập trung vào những chủ đề mà thơ ca cuối thế kỉ XX rất quan
tâm như sự khẳng định cái tôi cá tính, tình yêu, tình cảm gia đình.
Cuộc sống cá nhân riêng tư của con người không còn bị thu hẹp trước
sự tỏa chiết của tập thể như thời chiến nữa. Đất nước bước ra khỏi chiến tranh
và bắt đầu vào công cuộc xây dựng, tái thiết đất nước. Tuy nhiên, theo quy
luật cạnh tranh, quan hệ giữa người với người cũng có những thay đổi. Bước
ra từ chiến tranh, con người trở về với cái đời thường, hiện sinh, phồn tạp, hối
hả, với nhịp sống tất bật lo toan, những nhu cầu về vật chất và tinh thần…
Một gương mặt xã hội mới “sặc sỡ và ồn ào” với tất cả mặt sáng và mặt tối đã
hình thành. Sự lên ngôi của những giá trị vật chất đã tạo nên chuyển động lớn
trong đời sống tinh thần của con người. Những chuẩn mực cũ dần thay đổi,
đạo đức xuống cấp, đồng tiền lên ngôi, giàu nghèo phân hóa…
Thơ Trần Nhuận Minh mang chứa trong nó đầy những trăn trở âu lo và
dằn vặt không nguôi. Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va
chạm trực tiếp với hiện thực đời sống, thơ Trần Nhuận Minh thể hiện sự cảm
nhận sâu sắc về những nỗi đau có thật trong kiếp người, về những hiện trạng
nhức nhối xót xa trong xã hội hằng ngày.
Trần Nhuận Minh buông sự đời hối hả xuống trang giấy như một minh
chứng thuyết phục nhất cho ý niệm, nhà thơ không có một nhiệm vụ nào khác
là góp phần hóa giải nỗi đau của thời đại mình.
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi nhận xét: “Thơ nặng việc đời, nặng tình
người, tâm trạng, nỗi trăn trở của tác giả trước những buồn vui của cuộc đời
đã cho anh những câu thơ đích thực. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật, nhận
sứ mệnh áp tải sự thật đến với người đọc. Câu thơ đã vượt qua sự làm duyên,
35
làm xiếc, mà chân thực ào ạt chạm vào trái tim người đọc, lay động tâm hồn
người đọc” [30.tr300].
Với những trăn trở nhức nhối trước đời sống thực tại, nhà thơ Trần
Nhuận Minh đã có những câu thơ có thể coi như là quan niệm nghệ thuật
trong con đường sáng tác của mình:
Câu thơ nhƣ gan ruột
Phơi ra giữa trời mây
Mỗi nguồi một số phận
Ngang qua thế kỉ này
(Nhà thơ và hoa cỏ)
Nỗi niềm ưu tư đó dường như chưa bao giờ, không môt lúc nào tạm
lắng trong tâm hồn nhà thơ – người vốn sống một cách nặng lòng sâu nghĩa
và vô cùng trách nhiệm. Cho nên, ngya cả những lúc tưởng như được thảnh
thơi thư thái, thì nhà thơ vẫn không thôi ngẫm nghĩ về thời cuộc:
Hoa vàng nở hết mình đi
Nghe đâu tuyết trắng bay về rồi đây
Trời ơi! Vàng đến thế này
Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian
(Trong đồng cỏ hoa vàng)
Đứng trước mênh mông bát ngát mây núi, nhà thơ không khỏi nghĩ về
những vui buồn nhân thế muôn đời:
Thiên nhiên múa điệu rắn rồng cuồng dại
Thi với cao xanh, núi vút tầng lên mãi
Cúi mặt mây lƣợn. Ng ng đầu tuyết rơi
36
Thêm một bƣớc chân ta đã ở trời rồi
Trời mà chi! Ô hô! Trời lạnh lắm
Đỉnh nhọn mà chi! Ô hô! Những vây hãm trùng trùng
Thơ vứt ngang trời, sông núi điếc
Ta thả nỗi buồn vào muôn dặm không trung
(Tây Bắc)
Ngồi trò chuyện hàn huyên cùng người bạn, nhà thơ không ngừng thôi
thúc những câu hỏi về đời sống và phận người:
Mùa xuân nhƣ chén rƣợu đầy
Bạn ơi, cạn nỗi riêng này, với ta
Anh em ruột thịt trong nhà
Không chung chén rƣợu cũng là ngƣời dƣng
Lòng vui thì uống rƣợu mừng
Lòng buồn thì uống để cùng thƣơng nhau
Buồn vui trắng nửa mái đầu
Đời ngƣời đắng ngọt, nông sâu đã từng
(Với bạn)
Nhìn những ngang trái éo le oan khuất cực khổ cơ hàn của con người
trên cõi đời, nhà thơ không khỏi ước ao cho con người và cũng là cho chính
bản thân mình sao cho được sống một cách trong trẻo anh lành hồn nhiên và
thành thiện nhất có thể:
Kể gì hơn thiệt, nông sâu
Lòng lành mà chắc sự đâu đã lành…
37
Bâng khuâng nỗi bác, nỗi mình
Ngoài hiên, trăng khuyết nửa vành xa xôi
Ƣớc chi về tuổi ch n mƣời
Vẫy khăn quàng đỏ giữa trời thẳm xanh…
(Bạn chơi từ thuở khăn quàng đỏ)
Cũng theo quan niệm sống và mong ước như thế, cho nên ông dứt
khoát không để chuyện tiền nong vật chất giàu nghèo làm mình bận tâm, lo
lắng, điều mà ông suy nghĩ và chú tâm là sống ra sao để cho ra cuộc sống,
đàng hoàng và ý nghĩa. Ông tâm niệm:
Sống úp mặt xuống đất
Chết ngửa mặt lên trời
Giàu nghèo hay vinh nhục
Cũng trong vòng ấy thôi
(Bản sonate hoang dã)
Nhận thấy sự biến đổi đến chóng mặt với không ít những yếu tố tiêu
cực trong đó, nhà thơ chỉ còn biết thốt lên một cách chua chát trước tình
nghĩa, lối sống, ứng xử của không ít người trong xã hội ngày hôm nay:
Rõ ràng là chẳng giống ngày xƣa
Giống mai chăng, cũng không biết nữa
Đàn bà khoác bị cói, đeo k nh cơn mặc quần soóc ra phố
Uống rƣợu chửi tục nhƣ đàn ông
Khách đến nhà, trẻ toàn nói trống không
Khó lòng sai đun nƣớc hay giữ chó
38
Chúng đến trƣờng, tay dây mực xanh đỏ
Bôi lên lƣng áo các thầy cô
(Thoáng)
Hình ảnh những cô gái thôn quê hiền thục, nết na, dịu dàng, tình cảm,
chất phác đôn hậu ngày nào đã bị thay thế bởi những hình ảnh lòe loẹt diêm
dúa của váy áo xe cộ, của những nét mặt và lời nói sặc mùi tiền bạc:
Em mặc quần bò
Đi xe Pho
Nói tiếng Anh và mi mắt đẫm son Hàn
Tim em đập ở thị trƣờng chứng khoán
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Không chỉ là một số cá nhân hay người trẻ tuổi thay đổi, mà kéo theo
đó là hệ lụy sự thay đổi của cả hệ thống mối quan hệ trước đây. Dẫu biết sự
thay đổi để phát triển là một quy luật tất yếu, nhưng nhiều sự mất mát khiến
chúng ta không khỏi ngậm ngùi tiếc nuối xót xa. Xóm làng giờ đây đã khác xa
những gì nó từng có, không còn những nền nếp lề thói mà thay vào đó là sự
lộn xộn nhốn nháo đếu đáng sợ:
Làng tôi thành quán lâu rồi
Bún gà, lòng lợn cứ xơi suốt ngày
Hàng Tàu cho đến hàng Tây
Hàng nào cũng có… phơi ngay ra đƣờng
(Làng tôi thành quán)
Tính tự sự khái quát, mang tính tổng kết nghiệm sinh và sự suy tư về
cuộc đời, về sự bất biến của tự nhiên và cho đó là cái tài của Trần Nhuận
Minh được bộc lộ trong thơ vừa rõ rệt và vừa huyền ảo, để rồi từ đó, từ việc
39
tạo ý, lập tứ, đến bố cục tác phẩm; từ ngôn ngữ đến hình tượng; từ giọng điệu
đến khúc thức… đều là của riêng Trần Nhuận Minh, để từ đó nhà thơ phát
hiện và đặt ra những vấn đề rất cần quan tâm về con người:
Kẻ khôn ngoan thƣờng giấu điều mình nói
Ý nghĩ ở đàng đông
Miệng nói ở đàng tây
Giấu mƣu toan dƣới những cốc rƣợu đầy…
Ta già rồi
Chẳng biết giấu vào đâu
Nỗi ngu dại
Học từ thời Tốt Đẹp
Nén hƣơng tắt khi mình chƣa trọn kiếp
Cầm chân hƣơng đi đến cuối cuộc đời…
(Bản sonate hoang dã)
Thời đất nước mở cửa bên cạnh những điều mới mẻ, tiến bộ thâm nhập
thì mặt trái của nó cũng khiến cả xã hội thảng thốt. Những chuẩn mực đạo
đức một thời tuột dốc không phanh, trước “Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng” nhà thơ đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh mọi người, cần có bản lĩnh
vững vàng, không sa vào những điều lệch lạc chuẩn mực xã hội.
Nhân vật trữ tình đã lấy ngôn từ miêu tả khách quan đè lên tâm tư trĩu
nặng, đè lên nỗi thảng thốt băn khoăn của mình trước hiện thực. Là sự đau
đớn khi chứng khiến bộ mặt làng quê thay đổi nhanh chóng, các giá trị truyền
thống nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế.
Kinh tế phát triển là điều ai cũng mong muốn thế nhưng phát triển như
thế nào lại là bài toán nan giải, nhà thơ đau lòng trước thực tại mồ mả tổ tiên,
40
cha ông - những giá trị tinh thần tâm linh giờ đây bị chà đạp không thương
tiếc để phục vụ những lợi ích kinh tế trước mắt:
Tổ tiên đã chết ở đây
Những gò đống cỏ xanh
Nay đã ủi đi rồi
San sát vũ trƣờng
Sân gôn Quán nhậu
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Hay hình ảnh về sự thay đổi của nông thôn khi những biểu tượng của
làng quê dần bị thay thế bởi những điều vô cùng lạ lẫm:
Làng đã chặt hết tre
Ao hồ san lấp hết
Nhà tầng bên nhau
Dây ăng ten tựa những cánh
Chuồn bay
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Và thật đau xót khi đối diện cảnh tượng:
Còn sót lại một cánh cò trắng mong manh
Thấp thoáng bay
Trong ráng đỏ hoàng hôn
Không tìm ra chỗ đậu
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Tất cả là cảnh hoang vu, cô quạnh đến đau lòng. Cánh cò không tìm ra
chỗ đậu, cánh cò bay mãi, cánh cò biểu trưng cho đồng quê rồi cũng bị hủy diệt.
41
Đất nước có thể giàu lên bao nhiêu không biết nhưng trước những giá
trị truyền thống con người phải đánh đổi để tìm kiếm giàu sang, tiền của thì
nhà thơ thấy quá đau xót. Cái giá ấy không hề rẻ, đó là mất đi những điều tốt
đẹp, dung dị đã nuôi nấng tâm hồn con người mấy ngàn đời qua.
Mỗi đứa trẻ từng lớn lên trong lời ru của bà, của mẹ, trong suối nguồn
tục ngữ ca dao. Đó là những điều thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn, trái tim trẻ
thơ non nớt, trong sáng. Ấy vậy mà giờ đây:
Buổi sáng đi
Xóm cũ vẫn là Làng
Lúc chiều về
Làng đã xoay thành Phố
Nhà đã tắt tiếng ru con muôn thuở
Tục ngữ ca dao
Chết trong sách giáo khoa...
Lũ trẻ ngủ chập chờn
Trong nhạc rock phát ra loa
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Trước cái đáng buồn của hiện thực phũ phàng đó, có những lúc nhà thơ
phải thốt lên một cách ngao ngán, đặt ra câu hỏi đầy trăn trở về đúng - sai,
được - mất, về lòng người, về sách vở đạo lí:
Sự đời bao rắc rối
Phải trái t nh sao đây
Lòng mình thì nhàu nát
Kinh sách thì thơ ngây
(Gửi bác Vương Liêu)
42
Phải nói rằng, tình trạng khủng hoảng niềm tin cũng là điều dễ hiểu khi
các nhà thơ trực tiếp va chạm với một đời sống hiện thực không lí tưởng hóa, lãng
mạn hóa của xã hội sau chiến tranh, sau đó lại chạm mặt với nền kinh tế thị trường
với bao đảo điên, thật giả lẫn lộn. Nhưng sau gần 30 năm, thời gian đã chứng
minh: xã hội dù có nhiều đổi thay nhưng vẫn có những giá trị tinh thần bền vững
không thay đổi đó là lòng nhân ái, hướng thiện và niềm tin yêu vào cuộc đời.
Cảm hứng thế sự, đời tư Trần Nhuận Minh thể hiện qua việc miêu tả
những cảnh đời, những tính cách, những tâm trạng điển hình, qua đó, nhằm
thể hiện đúng nhất bản chất hiện thực. Tuy nhiên, là một con người từng trải
và trung hậu, thay vì những phân tích "tách bạch" ráo riết về con người và sự
đời, nhà thơ Trần Nhuận Minh một cái nhìn biện chứng, một cái nhìn bao
dung và độ lượng hơn về cuộc đời, sự đời.
Nghĩ đến những áp lực về mưu sinh trong cuộc sống con người, nhà thơ
Trần Nhuận Minh không quá ngạc nhiên hay thất vọng, mà có cái nhìn rất tự
tại, bởi điều mà ông lấy làm quan thiết nhất là ở chỗ con người sống với nhau
như thế nào, trong gia đình ấm êm vuông tròn ra sao:
Đồng lƣơng vẫn thấp thôi
Giá chợ cao chóng mặt
Vợ mình không cáu gắt
Ấy là điều rất hay
(Thơ xuân viết bên núi Bài Thơ)
Chỉ có điều, nhà thơ không khỏi ưu tư và âu lo khi nghĩ về cái xấu, cái
ác – những điều vẫn tồn tại hằng ngày hằng giờ và đáng ngại hơn nữa là nó lại
vô cùng khó lường:
Luôn lo xa, họa vẫn cứ đến gần
Kẻ hiểm ác thƣờng có khuôn mặt đẹp
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
43
Đến mức nhiều khi cảm thấy bất lực nghẹt thở, cay đắng đến nghiệt
ngã, bởi tác giả nhận ra rằng nhiều khi cái ác cái xấu nó ngang nhiên tồn tại
và kề sát xung quanh chúng ta:
Cả xã hội diệt trừ cái ác
Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời
(Tự thuật)
Có thể thấy, Trần Nhuận Minh đã hướng ngòi bút của mình đến hầu hết
những vấn đề nóng bỏng, những nhức nhối của thực tại đời sống. Nó là tiếng
nói dự báo, cảnh tỉnh đầy lương tâm, trách nhiệm của một con người luôn trĩu
nặng tình đời.
Những vấn đề đáng chú ý là Trần Nhuận Minh tỉnh táo và tin vào mắt
mình, khi nhìn vào thực chất xã hội, khi theo dõi những số phận người.
Không cố tình ca ngợi, cũng không có ý định phê phán, Trần Nhuận Minh chỉ
muốn thể hiện đúng nhất, bản chất nhất, cái cuộc đời vốn có. Bút pháp hiện
thực nghiêm ngặt, sâu sắc và hàm súc, đã giúp ông lưu giữ được cả tâm và sự
của một giai đoạn giao thời khá nhiều nghịch cảnh, nghịch lí.
Trong tham luận đầy công phu và tâm huyết tại Liên hoan Thơ châu Á
– Thái Bình Dương lần thứ 2, năm 2015, tại Hạ Long, nhà thơ Trần Nhuận
Minh đã phần nào bày tỏ cho ta hiểu vì sao thơ của ông lại nhiều ưu tư thế sự
đến như vậy: “Tôi e nhất là thơ không có tư tưởng, chỉ có những “bức xúc”,
mà theo tôi “bức xúc”, chỉ là tác nhân của tư tưởng chứ bản thân nó không
phải là tư tưởng. Tư tưởng bao giờ cũng hiện ra trong thơ, điềm đạm, hồn
nhiên, thậm chí hiền minh mà vẫn rất tinh tế, nhẹ nhàng, thấm thía, qua từng
câu thơ, qua một kiểu kết cấu nào đó của ngôn ngữ hay hình tượng, hoặc qua
toàn bộ tác phẩm nghệ thuật. Nó hiện hữu vừa cụ thể vừa mơ hồ, phảng phất
nhưng đầy ấn tượng, nó cũng có tính cá biệt, như hương thơm của một loài
hoa. Hoa nào cũng có màu sắc, đó là nội dung, còn hương thơm của hoa mới
44
là tư tưởng. Những nhà thơ lớn, trước hết là do thơ họ có tư tưởng, tư tưởng
đó là phần sâu sắc nhất, tự nhiên tạo thành hệ qui chiếu để hội tụ các chủ đề
các nội dung. Và sự bức xúc của tư tưởng, buộc bài thơ phải ra đời, cũng
giống như đứa con buộc phải ra đời từ trong bụng mẹ.
Hiện chúng ta đã sống trong một thế giới phẳng sau chiến tranh lạnh. Đó
là thành công lớn nhất mà nhân loại đã có được. Hòa bình hữu nghị, hợp tác
và phát triển là nguyện vọng chung của các dân tộc và các quốc gia. Đó là
chất lượng sống của con người ngày hôm nay, yêu cầu phải nâng cao, đó cũng
là bội số chung lớn nhất của nhân loại. Thơ hơn lúc nào hết phải cất lên từ đó,
từ nhịp đập của mỗi con tim của mỗi nhà thơ, dù khác nhau về tiếng nói và
màu da, cũng từ yêu cầu và đòi hỏi lớn lao của cả thời đại, với âm hưởng lớn
như nhịp sóng triều cuồn cuộn và muôn đời khôn nguôi của biển cả”.
Qua phân tích và nghiên cứu đã cho thấy: Với cảm hứng chủ đạo là
cảm hứng thế sự, thơ Việt Nam hôm nay đã mở rộng phạm vi phản ánh hiện
thực đời sống, tính dân chủ trong thơ được đề cao, qua đó cũng thể hiện trách
nhiệm công dân của nhà thơ trước những vấn đề có tính thời sự. Dường như
sau một thời gian thiên về hướng nội, tư duy thơ hiện nay đang hướng tới một
sự cân bằng giữa hướng nội và hướng ngoại. Đó là sự thay đổi hợp lý sau một
thời gian thơ nói quá nhiều đến đời sống cá nhân mà ít quan tâm đến những
vấn đề xã hội, những vấn đề của thời đại. Đặt trong bối cảnh và ý nghĩa như
thế, chúng ta lại càng thấy rõ hơn rằng nhà thơ Trần Nhuận Minh đã chọn
được một con đường thơ mang nhiều ý nghĩa.
2.2.2.2. Hƣớng đến những thân phận bất hạnh
Trước tình trạng xã hội có nhiều khiếm khuyết, suy thoái, băng hoại về
môi trường, nhân cách, đòi hỏi phải kiếm tìm những giá trị đạo đức mang tính
nhân văn, thơ hôm nay đặt ra vấn đề ý thức trách nhiệm của mỗi người đối
với cuộc đời, kêu gọi lòng nhân ái của con người. Thơ đồng cảm, xót thương
45
cho những số phận bất hạnh, những em bé sơ sinh bị bỏ rơi, những em bé
đánh giày, những cụ già bơm xe, những cô gái bán mình làm vợ xứ người.
Thơ còn dành sự cảm thông sâu sắc đối với những danh nhân văn hóa, những
tài năng có phận bi kịch qua đó thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân
sinh, nghệ thuật, nói lên sự xót xa với những nỗi đau của con người trong mọi
thời đại.
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Mai Quốc Liên cho rằng: “Thơ Trần
Nhuận Minh là thơ về những số phận, những nỗi đau nhân tình, được viết từ
một sự chia sẻ cảm thông sâu sắc như hòa vào nhân vật, nhưng vẫn không mất
đi tầm cao của thơ đã dạn dày trong thử thách khốc liệt của chiến tranh, của
những lý tưởng nhân văn mà chúng ta hằng theo đuổi” [29.tr108].
Ngòi bút Trần Nhuận Minh chỉ ra rất nhiều những mảnh đời bất hạnh,
bé nhỏ với những phát hiện tinh tế và sâu sắc bằng cả trực cảm và trực quan
của một nhà thơ giàu suy tư. Trong thơ Trần Nhuận Minh, rất nhiều những
cảnh đời, phận người được nhà thơ nói đến một cách đầy đau xót. Đó là
những kiếp người lao động, nông dân nghèo khổ, vật lộn bươn trải giữa cuộc
mưu sinh. Dường như ở bất kì đâu, bất kì lúc nào, chúng ta cũng bắt gặp
những số phận như vậy. Nhưng phải đến khi nhà thơ Trần Nhuận Minh quan
sát, suy ngẫm, lựa chọn và xây dựng để đưa vào tác phẩm, thì mọi thứ trở nên
ý nghĩa, sâu sắc, sáng rõ và ám ảnh hơn rất nhiều, với tất cả sự yêu thương
đồng cảm sẻ chia của tấm lòng thi sĩ.
Những bức chân dung về người nông dân lao động được điểm xuyết
tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng đã để lại trong lòng độc giả một nỗi ám ảnh,
đôi khi thật da diết về một kiếp người, một lớp người. Đó là hiện thực xã hội,
hiện thực của lòng người, là bản hợp xướng với cung trầm là chủ đạo về cuộc
đời của những người lao động trong xã hội đương thời.
Nếu thân phận người nông dân còn những nét u trầm, thì đời sống của
46
người công nhân nhiều khi cũng còn bấp bênh, chới với. Đó là cái lam lũ,
nhọc nhằn trong nỗi cơ cực mưu sinh:
Anh thợ lò mang t n phiếu ra chợ
Tôi có ba mƣơi ngàn, ai trả bao nhiêu?
Gạo nhà nƣớc, bốn tháng liền nợ sổ
Lũ trẻ trƣa nay lại phải treo niêu…
(Bên đường)
Hạnh phúc gia đình đâu phải do ngoại cảnh đem tới, mà nó được kết
thành, viên mãn là bởi chính cảm xúc nảy sinh từ lòng người. Với nhân vật dì
Nga, nửa đời an phận trước sự sắp đặt để vừa lòng cha mẹ: “Lấy chồng theo ý
mẹ/ Dạy con vâng lời cha”. Dì có một cuộc sống sung túc: “Chuỗi bạc trong
ngực áo/ Vòng vàng ngoài cổ tay”. Nhưng cuộc sống vật chất chỉ là lớp vỏ
bọc bên ngoài che đậy trái tim băng giá của dì hằng đêm chưa tìm đúng nhịp
đập đồng điệu. Không chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình yêu, dì Nga
rũ bỏ tất cả để đến với chốn neo đậu đích thực cho đời mình:
Dì theo một anh chàng
Chuyên nghề câu cá vƣợc
Bên nhau trong khoang thuyền
Giữa bốn bề mây nƣớc
(Dì Nga)
Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã đặt ra những vấn đề bức thiết trong tình
yêu và hôn nhân trước cuộc sống đầy biến động hôm nay. Đó là vấn đề bạo
hành trong gia đình, là sự đồng cảm trong quan hệ vợ chồng, niềm thiết tha
khát khao tìm được nửa kia của đời mình hay cố gắng để có được tình yêu
đích thực… Dù ở phía nào của vấn đề thì nhân vật chính vẫn là người phụ nữ.
Họ vừa là nạn nhân của người khác, vừa là nạn nhân của chính mình.
47
Hoàn cảnh trường hợp một người bạn có vợ được chọn đi làm ôsin ở
Đài Loan lại thể hiện một thực cảnh se lòng. Họ đang tìm phương kế để vượt
qua cái tao đoạn của cuộc khủng hoảng trong ngành:
Ƣu tiên gia đình liệt sĩ
Mình mới đƣợc làm ôsin
Ngành than hiện đang giãn thợ
Biết đâu có việc mà tìm
(Đến nhà bạn)
Tiềm ẩn bên trong những lời lẽ giãi bày chân thực này là một tâm trạng
thổn thức đến trĩu lòng. Đằng sau nụ cười ngơ ngác là giọt lệ của sự tê tái:
Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác
Bâng khuâng gƣơng mặt hao gầy
Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi
Biết rơi vào cõi nào đây…
(Với bạn)
Trước hoàn cảnh cuộc sống và thân phận của một người ngư dân đánh
cá biển, Trần Nhuận Minh không khỏi xót xa ngậm ngùi về một đời người
lam lũ cực khổ, một số phận thật mong manh giữa cuộc đời:
Không phải sáng nào cũng đứng cân tôm
Chẳng phải chiều nào cũng ngồi vá lƣới
Có điều gì chị còn chƣa kịp nói
Khi anh bồng bềnh đi về ph a bão đã tan
Có vẻ gì phấp phỏng lo toan
Trong vời vợi gian nhà ngƣời đánh cá
(Ở nhà người đánh cá biển)
48
Trần nhuận Minh cũng đặc biệt nhạy cảm trước những số phận trẻ nhỏ
thiệt thòi bất hạnh. Hơn ai hết, trẻ nhỏ là đối tượng cần được chăm chút, bảo
vệ, yêu thương, vậy mà sao còn quá nhiều những em bé tội nghiệp xé lòng:
Những em bé lang thang làm nghề bới rác
Bị xua ra khỏi nơi cƣ trú cuối cùng
(Giao thừa)
Nhà thơ luôn bị dằn vặt bởi hình ảnh những đứa trẻ bất hạnh, không có
cuộc sống đầy đủ bởi ông bất lực. Trong chiến tranh người lính như ông có
thể xả thân hi sinh để mang lại cuộc sống tự do cho dân tộc nhưng hôm nay
nhìn cảnh những đứa trẻ đói khát, ông lại không có cách nào để giúp đỡ tất
cả chúng:
Không ai vô can khi một em bé
Đến ngày nay vẫn còn đói bánh mì
(Bài thơ không định viết)
Bóng dáng dòng văn học hiện thực như đổ mình trên trang giấy. Sự thật
đời đã tạo nên sức mạnh cho câu chữ, tác động đến tâm hồn, tình cảm của
người đọc bằng những dòng thơ réo rắt. Nhà văn đau xót trước những cảnh
mắt thấy tai nghe, những đứa trẻ đáng ra phải được sống trong vòng tay nâng
niu của gia đình, xã hội lại phải lăn lộn vào đời quá sớm. Những nỗi nhọc
nhằn của công cuộc mưu sinh đã lấy đi nét hồn nhiên, trẻ thơ của các em. Và
đâu đó, nhà văn muốn nhắc đến trách nhiệm của người lớn, chúng ta cần phải
làm gì để những mầm non tương lai của đất nước được phát triển đầy đủ nhất.
Không chỉ là các em nhỏ, nhìn rộng ra, đâu đâu cũng vẫn có những con
người gặp những hoàn cảnh khổ đau, khiến cuộc sống này chưa một giây phút
nào được bình yên:
49
Nơi này có ngƣời bị đ y lên giàn lửa
Chỗ kia có ngƣời bị xô xuống vực sâu
Ở đâu cũng có ngƣời bị lăng nhục
Vị anh hùng ơi
Thế gian chẳng bình yên
Dù mỗi sớm tiếng chim trời vẫn hót
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Không thể thay đổi, hay chí ít là chưa thể thay đổi những ngổn ngang trong
đời sống, có lẽ người ta chỉ còn biết cầu nguyện. Trần Nhuận Minh cũng cầu
nguyện, để ước mong sao cho con người vơi bớt những bất hạnh đớn đau:
Ta thắp nén hƣơng đời
Lạy tạ
Xin sông núi sinh thành
Những nhà vua có đức
Để mọi gia đình đời đời sum họp
Và sa trƣờng
Mọc đầy bông lúa vàng
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Nhạy cảm và tinh tế, cái tôi thế sự của Trần Nhuận Minh soi vạn vật ở
nhiều trạng thái: tĩnh và động, hiện tượng và bản chất, ngẫu nhiên và quy luật,
cao thượng lẫn thấp hèn, phi lý và có lý, ý thức và vô thức, đau khổ và sướng
vui, bóng tối và ánh sáng, xấu và tốt…
Đúng như nhà thơ Lê Xuân Sơn đã có những khẳng định rất khái quát
về thơ Trần Nhuận Minh: “Nhà thơ và hoa cỏ đi vào lòng bạn đọc, được bạn
50
đọc chấp nhận, là do cái tình lớn lao thấm đẫm trong mỗi bài thơ, nỗi cảm
thông sâu sắc với mỗi cảnh đời, những gian lao vất vả và những nỗi đau của
quần chúng nhân dân lao động. Tất cả được viết một cách trong sáng giản dị, kết
hợp được yếu tố truyền thống với hiện đại. Thơ Trần Nhuận Minh hay, không
phải do cách tân, mới mẻ về hình thức, mà nhờ chiều sâu của cảm nhận những bi
kịch cuộc sống, được lọc qua lăng kính của nỗ lực hướng thiện” [30.tr314].
Có thể nói, cảm hứng thế sự là một mạch cảm hứng quan trọng, chi phối
đến nhiều phương diện tư tưởng và nghệ thuật của thơ Trần Nhuận Minh. Xuyên
suốt trong thơ của Trần Nhuận Minh là một cái nhìn sắc sảo nhưng đôn hậu về đời
sống. Nó bộc lộ niềm trăn trở thường trực của nhà thơ trong việc xác lập những
giá trị tinh thần mới, vừa thiết thực và gần gũi với đời sống hôm nay nhưng vẫn
phải đáp ứng được những chuẩn mực nhân văn muôn thuở. Với điều đó, dường
như tác giả đã lựa chọn một hướng đi để lại ấn tượng sâu và đằm về chân dung
tinh thần của một nhà thơ đầy trách nhiệm với đời sống, nặng lòng với những giá
trị tinh thần cội rễ, dứt khoát, can đảm nhưng chân thành và vô cùng nồng hậu.
Nhạy cảm và tinh tế, cái tôi thế sự của Trần Nhuận Minh soi vạn vật ở
nhiều trạng thái: tĩnh và động, hiện tượng và bản chất, ngẫu nhiên và quy luật,
cao thượng lẫn thấp hèn, phi lý và có lý, ý thức và vô thức, đau khổ và sướng
vui, bóng tối và ánh sáng, xấu và tốt…
Cảm hứng thế sự với những nỗi niềm trong quá trình mưu sinh, trong
mối quan hệ giữa người với người luôn là mối quan tâm thường trực trong thơ
Trần Nhuận Minh, để trên cơ sở đó ông sáng tạo nên nhiều bài thơ có tư
tưởng nghệ thuật, giàu giá trị nhân văn. Khi cuộc sống cũng đã bộc lộ những
mặt phức tạp thì những lời giải thích đơn giản, công thức không còn thuyết
phục nữa. Mỗi người cầm bút cũng nhận ra rằng sức mạnh của tác phẩm thơ
ca không chỉ nằm ở khối lượng hiện thực được ghi chép, phản ánh mà còn
phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà thơ, vào chiều sâu của những tư
tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm trong đó.
51
2.2.3. Cảm hứng đối thoại
Ý thức tinh thần đối thoại trở thành một nhu cầu bức thiết trong đời
sống xã hội, đặc biệt là đời sống văn chương. Người ta có xu hướng muốn
chống lại thứ văn chương độc thoại, văn chương một giọng để đến với hình
thức văn chương đa thanh, chống lại thứ văn học “phải đạo”, “giáo điều” để
đến với thứ văn học đa diện đặc biệt là đa nghĩa, đến gần hơn với hiện thực
đời sống.
Bakhtin đã từng cho rằng: Chân lí không nảy sinh và không nằm trong
đầu một con người riêng lẻ, nó nảy sinh giữa những con người đang cùng
nhau đi tìm chân lý và trong quá trình giao tiếp đối thoại với nhau.
Nếu trước đây, nhà văn vẫn thường đóng vai một “tiểu thượng đế” giữ
tư cách phán truyền và rất thường khi độc quyền chân lý, ban phát lẽ phải, vì
lẽ phải mà nhà văn đề xuất cũng chính là những giá trị tư tưởng cao đẹp của
cộng đồng, của thời đại thì giờ đây nhà văn chỉ là người đề xuất một cái nhìn
riêng, bộc lộ một tư tưởng của riêng mình bình đẳng với nhiều cái nhìn và tín
niệm của bao người khác. Điều này khiến cho các sáng tác trước thì thiên về
giọng quyền uy, khẳng định mà giờ đây giọng điệu của người viết trở nên
khiêm nhường, nhỏ nhẹ, thiên về tâm sự, chia sẻ, giãi bầy.
Dường như, Trần Nhuận Minh đã sớm thức nhận và vô cùng thấm
nhuần tinh thần này. Có thể nói, ông là một trong những nhà thơ tiên phong,
đưa vào thơ mình những đối thoại đầy gợi mở và đặt ra những vấn đề rất đáng
suy ngẫm. Trong thơ Trần Nhuận Minh, tác giả thể hiện tinh thần đối thoại ở
hai hướng chủ yếu: đối thoại với lịch sử; đối thoại với những vấn đề thực tại.
2.2.3.1. Đối thoại với lịch sử
Lịch sử là những vấn đề, những sự kiện và nhân vật đã thuộc về quá
khứ. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc nó những điều nằm ở thì
quá khứ hoàn thành. Bởi quá khứ ấy với độ lùi thời gian sẽ luôn đòi hỏi được
52
tiếp tục nhìn nhận, lí giải của hiện tại, thậm chí là của tương lai. Lịch sử thì
chỉ có một, nhưng diễn giải về lịch sử thì có nhiều. Chính vì vậy, có những
câu chuyện, có những vấn đề mà ngày hôm qua ta đã nhìn nó bằng một cái
nhìn khác, hôm nay cần tiếp tục cái nhìn khác. Những sự khác biệt đó không
phải lúc nào cũng mang nghĩa phủ định lẫn nhau, mà có thể nó bổ sung cho
nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Đó chính là tinh thần đối thoại.
Trần Nhuận Minh là người luôn rất chú tâm suy xét các vấn đề lịch sử.
Nhiều câu chuyện tưởng như đã mãi mãi lùi vào quên lãng, nhưng ông không
ngừng ngẫm nghĩ về nó, để tiếp tục tìm ra những câu hỏi, những câu trả lời,
những bài học cho hôm nay.
Từ cái nhìn chất phác, đơn giản lúc mới viết, anh ngày càng tìm cách
nhận thức lịch sử. Nhưng lịch sử chính là thời gian và phương cách đo lường
thời gian ấy, là những hành động nhân nghĩa và tội ác được sắp xếp sao cho
nguyên lý nhân quả có thể được giải thích, không thể bị nghi ngờ. Và như thế,
lịch sử liên quan trực tiếp tới các số phận.
Cảm thức lịch sử gắn liền với cảm thức về thời gian. Đó không phải là
việc đi tìm thời gian đã mất, hoài niệm, đó là sự tìm kiếm dấu ấn của quá khứ
lên đời sống hiện tại, ghi lại tác động làm thay đổi. Đối với Trần Nhuận Minh,
có lẽ không có gì quý giá và cần thiết hơn việc nhìn ra cho được sự thật ấy, sự
mất mát ấy.
Không thấy tiếng ếch nhái quen thuộc uôm oam
vọng lên râm ran từ các ao hồ ngòi rãnh
Cánh đồng nƣớc trải mênh mông cũng yên ắng lạ lùng
Sấm ngạc nhiên tự hỏi
Vô t ch sự vậy sao?
(Nhà thơ và hoa cỏ)
53
Giữa trùng trùng núi cao và giăng giăng sương phủ, nhà thơ nhìn những
dấu tích thành nhà Mạc mà nghĩ về thăng trầm hưng thịnh, hữu hạn và vô
cùng, tiêu vong và tồn tại trong cuộc đời này. Ông như muốn trò chuyện với
cổ nhân để nói về cái nhỏ bé mà lớn lao của kiếp người, của thời đại:
Đƣa gƣơng soi chẳng nhìn thấy mặt mình
Thành nhà Mạc đâu đây, bồng bềnh thời binh lửa
Lau bạc đèo Giàng khét mùi mồ hôi ngựa
Sƣơng khói hỡi! Những linh hồn đau khổ
Khát khao chi, bay đến rát ruột ngƣời
Tự do ƣ? Thì cứ lên trời
Ơ hơ
Một biển mây mờ màu hữu hạn
Bỗng lấp đầy không trung
Trong khoảng khắc
Ta lặng im đối thoại với Vô Cùng
(Trong sương mù Cao Bằng)
Bên nấm mộ người lính trẻ, nhà thơ lại vang vọng lên biết bao câu hỏi
về lịch sử, dân tộc và con người:
Cái tới còn chƣa tới
Nỗi quên đã quên đâu
Tủi mừng cùng chén rƣợu
Bẽ bàng ôm hôn nhau
54
Khi tàng tàng chạm chén
Rừng lau gió ào ào
Nấm mồ ngƣời l nh trẻ
Hiện ra bên chiến bào
Biết nói gì với anh
Ngửa mặt đầy mây trắng
Mật đắng thì cứ đắng
Quế thơm thì cứ thơm
(Hoành Mô mây trắng)
Đứng trên lầu Hoàng Hạc, ngắm nhìn mênh mông mịt mùng sóng nước
Trường Giang, nhà thơ bỗng cảm hoài xót thương cho cố nhân xưa – thi hào
Thôi Hiệu. Tác giả không bày tỏ nỗi ngưỡng vọng kính cẩn như nhiều người
thường viết, mà cất lên những lời từ trong tâm can để trò chuyện với người
xưa, thẳng thắn đặt ra vấn đề về sự thơ ơ của thời nay, khiến cho những gì là
giá trị có thể trở thành vô nghĩa lí:
Hạc vàng có bay về cũng chả còn chỗ đậu
Nhà nhọn mọc nhƣ măng, trên bãi cỏ non xƣa
Nơi Thôi Hiệu đề thơ chỉ còn là chỗ thu tiền khách du lịch
Mây trắng có hết mình thì ngƣời đời cũng vẫn thờ ơ
Sau một ngàn hai trăm năm, Thôi Hiệu làm sao hình dung đƣợc
Có một nhà thơ từ tận cùng phƣơng Nam
đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông
mà thƣơng cảm bàng hoàng
Và thức suốt đêm trong thu lạnh
Nghe tiếng tàu ầm ầm lao qua sóng Trƣờng Giang
(Mây trắng)
55
Trước thành nhà Hồ, Trần Nhuận Minh không khỏi suy ngẫm về những
biến cố của lịch sử, mà ở đó là rất nhiều những khúc rẽ, những góc khuất với
biết bao điều cần nói về đúng – sai, được – mất có thể khiến bất kí ai cũng
phải rùng mình:
Dân là ai? Tôi bỗng rùng mình
Nền cung điện, phân bò rơi rải rác
Núi Cầm Hồ cỏ may bay xao xác
Mệnh trời ƣ? Nào biết có hay không
Từng thúng ngón tay đổ ào ào xuống sông
Nhà Hồ mất, làm sao mà cƣỡng đƣợc
Lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc
Bóng Ức Trai đi, động gió bốn phƣơng trời
(Đứng trên thành nhà Hồ…)
Đã có biết bao những cách nhìn, những nhận định, thậm chí là tranh luận về
cái đúng – sai, hay – dở, khôn – dại của nhân vật kinh điển Đông Kisốt – kẻ anh
hùng đánh nhau với cối xay gió. Trần Nhuận Minh tiếp tục góp một tiếng nói, một
cách nghĩ về vấn đề này một cách đầy khẳng khái và trân trọng:
Đất đã tự quên dấu t ch oai hùng
để tiếng chim nhƣ chuỗi bạc long lanh
bay rập rờn sông núi
Nhƣng nàng Đunxinê của anh ơi
nếu còn một ai bị đói khổ và đọa đày
ở bất cứ nơi nào lên tiếng gọi
56
Anh sẽ lại trở về trên lƣng ngựa Rôtxinăng
Giƣơng thẳng ngọn giáo dài,
lừng lững đi trong tái nhợt những đêm trăng
(Đông Kisốt)
Trước quảng trường Thiên An Môn, nhà thơ chia sẻ tâm tình với nhà
văn lớn của Trung Quốc là Lão Xá, để tiếp tục nhắc rằng, lịch sử với tất cả
những gì diễn ra thì đã qua đi, những không phải cái gì nó cũng đã được làm
rõ, được nhìn nhận đầy đủ:
Ngoài kia, quảng trƣờng Thiên An Môn, đèn màu chiếu lên lƣng trời
Dƣới Cống Long Tu, bao nhiêu nƣớc trôi
Đƣờng tàu điện ngầm, ngƣời đi chen nhau, một thời qua mau
Trên gƣơng mặt ai dần phai nỗi đau
Nghĩ gì hôm nay, nói gì mai sau
(Lão Xá)
Bên dòng sông Hoàng Hà, nghĩ về đại thi hào Nguyễn Du và những
tháng ngày đi sứ của tiền nhân, nhà thơ gửi gắm những nỗi niềm day dứt chưa
bao giờ nguôi, dù cho thời gian đã trôi và thời đại đã khác:
Ngƣời xƣa đi sứ qua đây
Bùn lƣng bụng ngựa, sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây, thành lũy khác rồi
Hoàng Hà đã cạn, thơ Ngƣời vẫn sâu
Thời nào thì cũng nhƣ nhau
Nỗi buồn li biệt, nỗi đau dối lừa
(Nguyễn Du)
57
Đến Vạn Lí Trường Thành, ông thẳng thắn cất lên tiếng nói chính trực
về sai lầm của lịch sử, về công – tội, thành – bại, đúng – sai của vương triều
xưa kia, mà nỗi đau còn đến mãi bây giờ:
Ta là công dân nƣớc Việt Nam đến đây
Không biết sau những ai, không biết trƣớc những ai
Ngửa mặt lên trời mà than rằng
Bức tƣờng thành bền vững nhất của mọi quốc gia ch nh là Lòng Dân
Nếu Tần Thủy Hoàng nghe trƣớc đƣợc lời của ta
Thì triều đại ông, không đến nỗi hơn một đời đã mất
(Vạn Lí Trường Thành ca)
Có thể thấy, việc đặt ra các vấn đề lịch sử để tiếp tục nhìn nhận và lí
giải của nhà thơ Trần Nhuận Minh đã đem đến những gợi mở rất đáng suy
ngẫm, để người hôm nay có thể tiếp tục diễn giải những gì đã qua, tiếp tục đối
thoại với lịch sử.
2.2.3.2. Đối thoại với những vấn đề thực tại
Thông thường, các vấn đề của hiện thực cuộc sống, của thời đại và con
người dễ bị đặt vào một hướng nhìn nhận chung, xuôi chiều. Trần Nhuận
Minh thì lại khác, ông thường có những cách tư duy, nhìn nhận vấn đề độc
đáo, sắc sảo, có khi là ngược dòng. Chính nhờ vậy, thơ ông thường góp thêm
những góc nhìn rất mới mẻ, đáng suy ngẫm.
Nghĩ về những vật vô tri vô giác, nhỏ bé, chúng ta thường mặc định
gắn nó với sự vô nghĩa, lãng quên. Thế nhưng, Trần Nhuận Minh lại nhận ra,
đôi khi những điều nhỏ bé lại làm nên những giá trị vô cùng lớn lao, những gì
tưởng ngắn ngủi nhất thời thì có khi lại dài lâu bền vững:
58
Ngọn cỏ bị lãng quên, bơ vơ cuối chân trời
Bền bỉ sống để mở ra sự sống
Đất đang sinh, lấn từng vòng biển rộng
Cũng bắt đầu từ ngọn cỏ này thôi
(Cảm ơn cỏ)
Với cái nhìn đá chiều đa diện, nhà thơ nhận ra một điều đáng ngạc
nhiên, khi mà hầu như mọi thứ đều bị thay đổi theo dòng thời gian, nhưng đời
người lại thật đặc biệt bởi có khi về già thì người ta lại như quay trở về tuổi
nhỏ, qua bao nếm trải và thăng trầm của đời sống thì người ta lại quay về cái
bản thể trong trẻo thiện lành ban đầu:
Non sông dù đã thay
Mặt ngƣời thì đã cũ
Đi hết một vòng đời
Lại gặp mình thuở nhỏ
(Trong nhà)
Có những khi, ngồi một mình với chén rượu và bài thơ, đối diện với
chính mình và suy ngẫm về cuộc đời, nhà thơ như muốn cất lên bao nhiêu tâm
tư nỗi niềm, đặt ra bao nhiêu câu hỏi trước thế nhân:
Đọc câu thơ thật say
Nghe hồn mình thật tỉnh
Biết bao là ấm lạnh
Trong một chén rƣợu vơi
(Thơ xuân viết bên núi Bài Thơ)
59
Suy ngẫm về con người và sự lựa chọn lối sống, cách đối diện và ứng
xử trước hoàn cảnh và cuộc đời, Trần Nhuận Minh muốn đặt ra câu hỏi về sự
đúng sai, bình thường và bất thường, có lí và vô lí, ý nghĩa và vô nghĩa:
Đập lồng chim thả chim ra
Chim bay quanh qu n hiên nhà chim quen
Nhẹ nhàng chim khẽ đậu lên
Nhành cây trong chậu, ngỡ miền rừng xa
Rồi chim tìm lại góc nhà
Chui vào lồng bẹp để mà hót chơi
Con chim quên cả bầu trời
Chỉ còn tiếng hót tặng ngƣời nuôi chim
(Con chim)
Cũng trong mạch tư duy ấy, nhà thơ đặt ra những câu chuyện, những
vấn đề rất đáng suy ngẫm:
Kiễng chân chẳng với tới trời
Vật nhau với thú thì Ngƣời sẽ thua
Nửa đời tìm nắng trong mƣa
Nửa đƣời đi tới cái chƣa có gì
Mỗi ngày một cuộc chia ly
Yêu em lúc trẻ, gặp khi đã già
Nghìn xƣa hoa vẫn là hoa
Chớ mong trời sập để mà bắt chim
(Nghìn xưa)
60
Một khía cạnh rất đáng chú ý nữa ở nhà thơ Trần Nhuận Minh, đó là
trong ông có một điều gì thẳm sâu, nửa như nguyên mẫu văn hóa, lề thói dân
gian, nửa như không khí phóng khoáng bạo liệt của cuộc đời hôm nay; chúng
cùng chọn ký gởi ở anh những ý nghĩa bí mật. Ít có nhà thơ nào mà tính
đương đại và tính dân gian giao hòa thích hợp và cất tiếng đối thoại như vậy.
Đứa thì đêm lạy van ngƣời
Ngày ngày vênh váo coi trời bằng vung
Đứa làm đạo diễn văn công
Nỗi đau đời giấu vào trong tiếng cƣời
Đứa đi buôn ngƣợc, bán xuôi
Vào Nam ra Bắc ăn chơi một mình
Đứa thì làm giám đốc ngành
Đi đâu cũng có nhân tình đi theo
Đứa thì áo túm, quần đeo
Tinh mơ vác gạo, xế chiều bơm xe
Đứa liều vƣợt biển trốn đi
Nổi chìm nào biết tin gì thực hƣ
Đứa thì làm trƣởng trại tù
Gặp nhau, tay bắt lạnh nhƣ đồng tiền
(Bạn chơ từ thời khăn quàng đỏ)
Một hồ sơ xã hội, mô tả những gương mặt, tố cáo những vấn nạn,
không phải chỉ những nhân vật mà còn là, và chính yếu là, những thông
điệp. Nó đặt ra vấn đề và cật vấn, thôi thúc chúng ta phải can dự, lên tiếng.
Đấy cũng là một cách đối thoại.
61
Bắt nguồn từ thế giới quan Phật giáo, cái tôi thế sự, đời tư của Trần Nhuận
Minh tìm cách "Trút bỏ tư duy nhuốm bụi trần gian", tự thanh lọc tâm hồn, để đạt
tới sự tĩnh tâm, thanh tịnh, tự đoạn tuyệt những ham muốn tầm thường, để mong
thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế tục một cách tự nguyện. Đấy cũng chính là một
cách để nhà thơ đối diện và tự đối thoại với chính bản thể trong mình:
Tôi cũng tự xoá đi
Bao khát vọng từng giày vò tôi
Những đêm mất ngủ
Nay chẳng còn có ý nghĩa…
(Bản sonate hoang dã)
Phân tích và khảo sát thơ Trần Nhuận Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Sơn đã chỉ ra một khía cạnh rất đáng chú ý: “Nhà thơ Trần Nhuận Minh
đã tỏ rõ bản lĩnh học thuật, kết hợp với bản lĩnh thi ca, hoàn toàn quán thông
kiếp sống nhân sinh và đứng trên tầm cao đó, tác giả đã viết thành công
những tác phẩm nghệ thuật với tri thức uyên thâm và tinh thần nhân văn sâu
sắc… Biểu tượng của cái đẹp – sự thuần khiết luôn trân trọng, song hành cùng
tác giả với một tư tưởng hướng về thiền học trong suốt hành trình kiếp sống
nhân sinh, thể hiện một tâm hồn cao thượng, siêu thoát ra ngoài thế tục, càng
làm sâu sắc thêm ý nghĩa chân thật cuộc sống và chân lý lịch sử” [30.tr460].
Điều này được thể hiện đặc biệt tập trung và rõ nét trong tác phẩm
Bản sonate hoang dã, bởi trong đó là rất rất nhiều những gợi mở, những câu
hỏi, những đối thoại về đời sống, nhân sinh. Đoạn thơ sau có thể coi là một
điển hình cho vấn đề:
Tiếng chó sủa ngoài ngàn dặm
Đám mây bay qu n trong nhà
Tôi hỏi Đấng Mê Tơi nhƣ thế là thế nào?
Ngƣời đáp nhƣ thế là nhƣ thế
62
Mùa thu đi qua ngọn cây
Để lại lƣng trời những mảnh vàng xao động đến nao lòng
Mùa hạ đi qua đời ngƣời
Để lại vầng hào quang trên tóc
Tôi hỏi Đấng Mê Tơi nhƣ thế là thế nào?
Ngƣời đáp nhƣ thế là nhƣ thế
Từng đàn chim lũ lƣợt bay về phƣơng Nam
Chúng bội bạc với quê hƣơng phƣơng Bắc chăng
Con cá kình biển Đông tun ghoành trong sóng dữ
Bụng chạm cát là chết
Chúng yếu hèn chăng
Đấng Mê Tơi hỏi ta nhƣ thế là thế nào?
Ta đáp nhƣ thế không phải là nhƣ thế
(Bản sonate hoang dã)
Tóm lại, có thể thấy, thơ Trần Nhuận Minh luôn mở ra các hướng các
ngả để tỏa ra và hòa vào đời sống, kiếp người, qua đó không ngừng cất lên
những tiếng nói đối thoại về các vấn đề của thực tại, đặt ra những vấn đề cần
tiếp tục nhìn nhận, suy ngẫm.
Lắng sâu, chiêm nghiệm cuộc sống và con người trong những chiều
kích khác nhau là một nét nổi bật trong cảm hứng đối thoại, nhất là khi văn
học bước sang thời đổi mới. Đó là cảm hứng vi mô với những câu chuyện
diễn ra trong cuộc sống đời thường ở nhiều ngóc ngách sâu kín của tâm hồn
và số phận con người. Từ đó nhà thơ tìm ra được các khía cạnh khác nhau của
thế thái nhân tình và bày tỏ triết lí nhân sinh.
63
Tiểu kết chương 2:
Mỗi nhà thơ đều bắt rễ vào một cội nguồn cảm hứng. Với Trần Nhuận
Minh, mạch nguồn cảm hứng lớn trong thơ ông là trữ tình, thế sự và đối thoại.
Nó làm nên một cái tôi bản thể thi sĩ vừa phong phú, da dạng mà vừa thống
nhất, vẫn sống động những cũng đầy lắng sâu.
Việc nghiên cứu những mạch nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Trần
Nhuận Minh giúp ta nhận ra thế giới nội tâm nhà thơ, đồng thời gián tiếp
phản ánh những vấn đề hiện thực khách quan xã hội tỏng thời đại mà nhà thơ
sống, trải nghiệm, chứng kiến trong suốt cả chiều dài nửa cuối thế kỉ XX, thập
niên đầu thế kỉ XXI.
64
Chƣơng 3
GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
3.1. Vấn đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ
3.1.1. Khái niệm Giọng điệu nghệ thuật
Trong nghệ thuật, người ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giọng điệu.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu lí luận đã định nghĩa
giọng điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô,
gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [15.tr134].
Đồng thời, “giọng điệu còn phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình
cảm và thị hiếu th m mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho ngƣời đọc. Thiếu một giọng
điệu nhất định, nhà văn chƣa thể viết ra đƣợc tác ph m, mặc dù đã có đủ tài
liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [15.tr135].
Theo tinh thần định nghĩa này, giọng điệu thuộc về chủ thể sáng tạo
thẩm mỹ. Với loại hình trữ tình (tập trung vào thơ) thì đó là giọng của nhà
thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ trong thế giới nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà đã có sự cắt nghĩa rất rõ ràng và thuyết
phục về vai trò của giọng trong sáng tạo văn chương khi chỉ ra rằng: “Giọng
vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một
âm hưởng nào đó, cùng có chung một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ
dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với
nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ
hơn, đầy chất thơ hơn, thậm chí có khi mới mẻ hơn” [47.tr152].
65
3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ
Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để làm nên phong cách
nghệ thuật của một nhà thơ, để thơ của tác giả này khu biệt với tác giả khác,
đó là ở vấn đề giọng điệu của thơ.
Nhà nghiên cứu Khrapchencô đã cho rằng, đề tài, tư tưởng, hình tượng
chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi
của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt
khác nhau của nó.
Giọng điệu trong thơ có thể coi như là sự tương hợp nội tại, giữa ý thức
có tính độc lập và sự lựa chọn thể loại phù hợp. Vì vậy, cũng như sự phát
triển của thơ, giọng điệu trong thơ là tự thân và tự nhiên.
Nhận định về thơ ca đương đại, PGS.TS. Lê Lưu Oanh cho rằng: “Hiện
tượng nổi bật nhất trong thơ hôm nay là hiện tượng giọng điệu. Giọng điệu
vốn là một trong những hình thức bộc lộ chủ quan rõ rệt. Giọng điệu là âm
hưởng chung trong cách cảm, cách nhìn, màu sắc cảm xúc. Kiểu tiếp xúc thế
giới là thái độ, tình cảm, lập trường, đạo đức của tác giả thể hiện trong lời văn
tạo nên một giọng nói mang tính phong cách” [30.tr340].
Giọng điệu là yếu tố quan trọng đem lại cung bậc riêng, cá tính riêng,
phong cách riêng, màu sắc riêng cho thơ. Một tác giả tạo được ấn tượng hay
không, được nhớ đến hay không, một phần quan trọng chính là thơ có giọng
điệu hay không.
Thơ hiện nay ngày càng đa dạng, phong phú về giọng điệu bởi các nhà
thơ đương đại có ý thức mạnh mẽ về bản sắc cá nhân và cá tính sáng tạo nên
luôn cố gắng tạo ra giọng điệu riêng. Mặt khác, cuộc sống được cảm nhận
nhiều chiều với những quan niệm thẩm mỹ khác nhau cũng quy định những
giọng điệu khác nhau.
66
3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca, yêu thương, chia sẻ
Khi thơ nghiêng về cảm hứng trữ tình thì giọng điệu ngợi ca, yêu
thương, chia sẻ để nhằm giãi bày, tâm sự sẽ trở nên nổi trội. Giọng điệu này
xuất phát từ nhu cầu muốn được bày tỏ, muốn được khẳng định cái tôi cá
nhân của con người thời nay. Làm thơ là cách nhà thơ trải nỗi lòng trên trang
giấy, để mong tìm ở người đọc mối dây đồng cảm, sẻ chia.
Trần Nhuận Minh là nhà thơ nặng lòng yêu thương với quê hương, đất
nước, đồng bào và nhân dân. Ông đã bằng tất cả nỗi lòng của mình viết lên
những câu chuyện về cuộc sống của những người nông dân, công nhân, thay
họ bày tỏ những tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng. Sau Đổi mới 1986, ông
chuyển sang tìm tòi phương thức sáng tác mới, hướng ngòi bút của mình đến
những phận người bé nhỏ bất hạnh bất kì trong đời sống thường ngày. Tất cả
những điều đó đã giúp cho thơ Trần Nhuận Minh tìm được tiếng nói chung,
đến được với nhiều người. Nó là một tiếng nói vừa đầy tự hào ngợi ca, vừa
hết mực yêu thương chia sẻ.
Nhà thơ sử dụng một nhịp thơ chậm rãi, khoan thai và nhẹ nhàng, với
những hình ảnh gần gũi quen thuộc đến bình dị, đem đến những vần thơ vô
cùng thấm thía, ngọt ngào và đầy ấm áp tình cảm:
Bạn ơi tôi có hai lá phổi
Một là làng Điền Trì, mùa thu nƣớc nổi
Một nửa là phố mỏ Hồng Gai, quanh năm rừng rực nắng trời
Giữa hai lá phổi lành, đây trái tim tôi
Tim tôi đập theo từng nhịp thở
(Trình bày)
67
Trần Nhuận Minh có một mói gắn bó vô cùng sâu nặng với tình đất tình
người vùng đất mỏ thân yêu, cho nên thơ ông cũng da diết nỗi lòng của người
con đối với miền quê mình sinh sống, như còn tàu không rời xa sóng nước,
như cánh chim không thể xa mây trời:
Đã bảo đất này sẽ chẳng dễ mà yêu
Và không dễ mà thƣơng không dễ mà mê
Vậy mà anh chẳng hiểu vì sao
Chẳng thể xa đất này cho đƣợc
Nhƣ con tàu chẳng thể xa sóng nƣớc
Nhƣ cánh chim chẳng thể thiếu mây trời
(Âm điệu một vùng đất)
Đến cả những âm thanh nhỏ bé đời thường nhất cũng được nhà thơ lắng
nghe và chắt lọc vào thơ với tất cả sự thương quý, đến những hạt bụi vương
chân người cũng trở nên mến yêu:
Trong veo trong không gian
Tiếng cƣời em lƣu luyến
Tiếng than trôi ra bến
Náo động cả làng khuya
Đƣờng đến lớp em đi
Gót chân vƣơng than bụi
(Làng ven mỏ)
Có những lúc, giọng thơ Trần Nhuận Minh trở nên nhỏ nhẹ đến thủ thỉ,
tình cảm đến dịu dàng trìu mến, rất tự nhiên mà cũng rất đằm thắm duyên
dáng tình tứ. Bài thơ về câu chuyện đưa bạn gái về xin phép ra mắt mẹ là một
giọng thơ như thế:
68
Chúng con yêu nhau, mẹ có ƣng không
Bạn con đấy, rất là hiền, mẹ ạ
Biết têm trầu và biết khâu vá
Biết nấu canh cua đồng với rau mồng tơi
(Thưa mẹ)
Cũng nhiều khi thơ Trần Nhuận Minh lại hào hoa phóng túng và tràn
đầy hứng khởi. Ẩn sâu trong đó, cuối cùng bao giờ cũng là một trái tim nóng
bỏng tình yêu thương:
Biết trà ngon khi hƣơng bay ngang mặt
Biết em xinh khi em ngân giọng hát
Ai bày cho em cái áo trắng cổ sen
Để em xinh rồi, em lại cứ xinh thêm
Từ ngày xƣa, ai đã yêu ai thế
Trong câu hát, nhớ nhƣ giằng nhƣ xé
Ai chèo thuyền tìm ai uống nƣớc mặn cầm hơi
Anh ngồi nghe, thƣơng không thể nào nguôi
(Nghe hát dân chài trên biển Quan Lạn)
Khi yêu thì hào hoa đến vậy, khi trở về với những câu chuyện đời
thường thì thơ Trần Nhuận Minh rất đằm sâu, với giọng thơ đầy chia sẻ, an ủi,
bùi ngùi thương cảm. Bài thơ về cuộc rượu với bạn là một trường hợp điển
hình mang giọng điệu như thế:
Mùa xuân nhƣ chén rƣợu đầy
Bạn ơi, cạn nỗi riêng này, với ta
69
Anh em ruột thịt trong nhà
Không chung chén rƣợu cũng là ngƣời dƣng
Lòng vui thì uống rƣợu mừng
Lòng buồn thì uống để cùng thƣơng nhau
Buồn vui trắng nửa mái đầu
Đời ngƣời đắng ngọt, nông sâu đã từng
(Với bạn)
Có khi, Trần Nhuận Minh lại tạo ra trong thơ mình một âm hưởng,
giọng điệu lắng trầm đầy cảm xúc. Nó chất chứa cái da diết sâu thẳm của tình
cảm, nửa thực nửa ảo, xa xôi huyền bí và đầy vẫy gọi:
Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời
Em nhƣ vầng trăng sang bên kia trời
Mắt môi nào xƣa thôi buồn mà chi
Gió đã lay rừng muôn chim bay đi
Long lanh tìm ai cho gai lòng nhau
Đã qua sƣơng thu rơi vàng hoa cau
Đã qua nồng hè mƣa lan tan mau
Đã qua hanh đông lá đầy vƣờn sau
(Màu xưa)
Nhiều trường hợp, Trần Nhuận Minh đạt đến tầm cao bút pháp nghệ
thuật khi tạo ra một giọng điệu thơ nghe vô cùng nhẹ nhàng, bình dị, như chia
sẻ tâm sự, mà chứa đựng bao nghĩa lí sâu xa cao đẹp:
70
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này
(Dặn con)
Nhưng cho dù có là những tâm sự nỗi niềm gì đi chăng nữa, cái cuối
cùng đọng lại trong thơ Trần Nhuận Minh vẫn là một niềm yêu thương sâu
đậm thiết tha với con người và cuộc đời. Điều đó đem lại cho thơ Trần Nhuận
Minh một giọng điệu lắng sâu và đầy trữ tình:
Còn bao nhiêu thời gian cho thức mây kia bay
về đến tận cuối trời
Cho dòng sông này tìm thấy bạn bè, lƣu lạc ngàn năm,
giữa các tầng nƣớc cồn cào biển sóng
Còn bao nhiêu thời gian cho câu thơ tôi nhảy múa và hát vang
Trong giọt mồ hôi thiêng liêng, tụng ca ngƣời lao động
Còn bao nhiêu thời gian để tôi yêu đất nƣớc
đã nuôi dạy tôi trong đói rét, đạn bom
Và tôi nhận ra, trên cõi đời này, chẳng có gì cao hơn Sự Thật
Còn bao nhiêu thời gian để tảng đá triệu năm lầm lì tăm tối
Bỗng bật nảy thành cây xanh, khi nghe vang một giọt mƣa xuân
(Còn bao nhiêu thời gian)
Đúng như người ta đã nói, cái gì đi từ trái tim thì sẽ đến với trái tim.
Thơ Trần Nhuận Minh luôn tràn đầy tình yêu, niềm thương cảm, sự hi vọng,
với một giọng thơ cũng vô cùng ấm áp ngọt ngào trữ tình. Đó cũng là một
trong những lí do để thơ ông đến với nhiều trái tim bạn đọc.
71
3.2.2. Giọng điệu phản tỉnh thực tại
René Descartes đã nói: "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại"; Blaise Pascal thì
cho rằng: "Con người là cây sậy biết tư duy". Có thể thấy rằng, nhận thức và
tự nhận thức là đặc biệt quan trọng đối với con người. Và để tự nhận thức,
Phản tỉnh là tự kiểm tra tư tưởng, hành động trong quá khứ để nhận ra
một trong những tư duy rất cần thiết, đó là tinh thần phản tỉnh.
sai lầm, tìm cách phòng tránh. Vì vậy, phản tỉnh thường mang tính tự giác và tự
thân, tìm ra các hạn chế, nhược điểm, từ đó khắc phục, sửa đổi, tự hoàn thiện;
và đòi hỏi phải được thực hiện một cách sáng suốt, có bản lĩnh để có khả năng
nhìn thẳng vào sự thật.
Phản tỉnh giúp con người có thể vượt thoát ra khỏi những "lối mòn", cả
trên đường đời lẫn trong vỏ não, mà người khác hay chính mình đã "ấn định",
"mặc định" cho mình theo những quy phạm khuôn vàng thước ngọc, chân
lý.v.v.., từ đó có khả năng tự chủ, độc lập, và sáng tạo.
Trong thơ ca, những nhà thơ có tầm tư tưởng nghệ thuật cao thường có
ý thức về phản tỉnh rất sâu sắc. Nó đem đến cho thơ ca những giá trị nhận
thức vô cùng ý nghĩa. Trần Nhuận Minh là một nhà thơ mang tinh thần như
thế.
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta có thể nhận thấy trong đó trách
nhiệm sống mà nhà thơ đã nghiêm khắc đặt ra cho mình, cho người. Đó là
những tiếng nói dự cảm, dự báo, phản tỉnh về hiện tình xã hội, với những éo
le ngang trái ngổn ngang trong các số phận con người, trong các vấn đề đời
sống. Nó làm nên một giọng điệu phản tỉnh thực tại đầy sắc sảo và ấn tượng
cho thơ Trần Nhuận Minh.
Khi nói về câu chuyện người vợ lính, Trần Nhuận Minh đưa ra cái nhìn
có phần khác biệt với số đông, truyền thống về đúng sai, về đạo lí, về nhân
văn và hạnh phúc:
72
Lừa dối chị mà đi, anh ấy đâu có lỗi
Cỏ hết mình xanh không che hết nỗi đau ngƣời
Chinh phụ nàng ơi, cành dƣơng úa đƣờng quay trở lại
Thì đi đi, đừng để anh mong
Hỡi quỷ thần! Trong cõi đen nhƣ đêm
Đừng để nàng một lần nữa mất chồng
(Tiễn một người vợ lính)
Khi nhìn nhận và bàn về vấn đề giáo dục, dạy dỗ, cách ứng xử với trẻ
em, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã mượn chuyện người xưa mà nói chuyện
nay, đưa ra những cảnh tỉnh rất xác đáng:
Nhờ ông viết giùm bài báo
Xin lỗi hàng ngàn trẻ con
Một đời tôi chuyên đánh chúng
Có đứa đến hộc máu mồm
Không tiền mà muốn xem phim
Chúng có trăm mƣu ngàn kế
Vẫn không che nổi mắt tôi
Chiến sĩ thi đua là thế
Trèo tƣờng chui qua cửa sổ
Quấn mình trong tấm màn nhung
Nằm bẹp dƣới gầm ghế lớn
Tôi cũng moi ra tận cùng
73
Đất nƣớc chẳng giàu lên đƣợc
Dù tôi chắt bóp từng đồng
Muốn thiện lại thành ra ác
Có ai giống với tôi không
(Phút lâm chung của cụ Hãn)
Chỉ bắt đầu bằng câu chuyện rất đời thường, nhỏ bé về than, nhà thơ đã
có những cách suy ngẫm đầy tính phát hiện và rất có tầm tư tưởng:
Bây giờ tôi đứng trƣớc Than
Đứng trƣớc ch nh mình
Bài học của than Tỏa sáng
Không Tỏa sáng thì không Tồn tại
Tôi cho rằng trời cũng chẳng thể nào thành trời đƣợc
Nếu đêm đêm không tự đốt cháy mình bằng những ngôi sao
(Đá Cháy)
Hệ tư tưởng giáo điều xưa cũ ràng buộc con người, nhất là ràng buộc
phụ nữ, một cách vô cùng nặng nề. Đi ngược lại cách nhìn xuôi chiều đơn
thuần đó, Trần Nhuận Minh cất lên tiếng nói phản tỉnh đầy nhân văn, khiến
cho bất kì ai cũng phải tự xem lại và suy ngẫm lại:
Mợ đáng thƣơng hay đáng trách
Trời ơi! Tách bạch mà chi
Dòng sông muôn đời vẫn thế
Đục trong thì cũng trôi đi
(Mợ Hữu)
74
Nếu như đã từ lâu, nhiều người có một cách nghĩ quen thuộc và một
chiều về các bậc anh hùng nhiều công trạng, thì nay Trần Nhuận Minh thêm
vào một góc nhìn rất mới mẻ, và rất có sức thuyết phục:
Có lắm anh hùng, đất nƣớc bình yên, là một điều vĩ đại
Không cần lắm anh hùng, đất nƣớc vẫn bình yên, còn vĩ đại hơn nhiều
(Năm khúc hát bên bờ Trường Giang)
Mặc dù là một thi sĩ dành hết tâm sức, đắm đuối với thi ca, trọn mình
cho nghệ thuật, nhưng Trần Nhuận Minh không quên tự phản tỉnh với
chính mình về con đường và ý nghĩa của thơ ca, về sứ mệnh và giá trị đóng
góp của nó:
Chợt nhớ bao ngƣời cấy hái
Quanh năm lƣng bán cho trời
Vậy mà đói ăn thiếu mặc
Chợt thấy thơ mình có lỗi
Lạc loài trăng gió chi chi
(Nghe trộm hai bà trò chuyện)
Cái mà nhà thơ nhận thấy quan thiết hơn cả không phải những uy
quyền, những vương triều, mà chính là ở vấn đề đời sống của mỗi con người
trong thế gian này ra sao mà thôi:
Thế gian vẫn ngổn ngang
Nhƣ khi trời đất mới tạo thành
Núi nghĩ mà xanh cây
Sông buồn mà bạc sóng
Và ngƣời cày ruộng
75
Vẫn chẳng cần
Những Vạc Đỉnh uy phong
Của các triều Vua
(Con người)
Những quyền lực, danh vọng sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nếu như nơi nơi
vẫn còn những thân phận nhỏ bé thiệt thòi bất hạnh:
Cùng họp một xóm phố
Cách ngồi đã hai bề
Bên là các Ông chủ
Bên những Ngƣời làm thuê
Dù cùng quên sự thật
Đuổi việc và cúp lƣơng
Càng cố hòa làm một
Càng tăng thêm dối lƣờng
(Họp phố)
Trần Nhuận Minh quan tâm đến các vấn đề nhức nhối trong hiện thực
xã hội, đặc biệt là những câu chuyện về số phận con người, với những góc
nhìn đầy chiêm nghiệm, đúc kết, giàu tính nhân văn. Nó cho thấy nhà thơ
luôn vô cùng trách nhiệm với ngòi bút, sống và viết hết mình, trăn trở và suy
tư đề hướng đến những thân phận đau khổ, thiệt thòi. Đối diện và lên tiếng
phơi bày những mảng tối, những khuất lấp trong hiện thực nhức nhối của thế
sự, Trần Nhuận Minh không nhằm lên án hay oán trách, mà để bày tỏ sự yêu
thương, chia sẻ, cảm thông. Đây cũng là điều đáng quý, đáng trân trọng trong
thơ ông.
76
3.2.3. Giọng điệu tự vấn cá nhân
Khi con người đi đến một mức độ nhất định của nhận thức, người ta
nảy sinh nhu cầu và khả năng tự ý thức. Khi đó, con người sẽ không ngừng tự
vấn chính bản thân mình để nhìn nhận, lí giải, giải quyết các vấn đề.
Các nhà thơ khi đạt đến tầm nhất định trong tư tưởng nghệ thuật cũng
sẽ luôn đặt ra những vấn đề, những câu hỏi cho chính mình. Những cuộc tự
vấn của thi sĩ thường đem lại những góc nhìn riêng, độc đáo và sâu sắc. Nhà
thơ Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều những tác giả mang đặc trưng
này khi sáng tạo. Cũng chính vì đặc trưng này, thơ Trần Nhuận Minh có một
sắc thái giọng điệu rất đáng chú ý, đó là giọng điệu tự vấn cá nhân.
Thơ là sự biểu hiện chắt lọc sâu lắng nhất bản thể con người nhà thơ.
Trần Nhuận Minh luôn mang những suy tư truy vấn, và cũng thế, theo ông là
một câu hỏi lớn thường trực:
Mỗi ngƣời một câu hỏi
Đi mang mang trong đời
Nổi chìm bao ghềnh thác
Tôi chƣa tìm thấy tôi
(Chiều Yên Tử)
Câu hỏi về mình, về bản ngã, về cái tôi luôn là một băn khoăn mang
tính ý thức của con người, khi mà đặt trong tổng thể của tạo hóa thì con người
nằm trong mối quan hệ tổng hòa với thời gian, không gian, vạn vật, vô hình
và hữu hình.v.v.. Thế giới vốn đa dạng, phức tạp và thậm chí huyền bí như
vậy. Nhà thơ luôn muốn thâm nhập, khám phá cái thế giới vô tận ấy.
Tìm kiếm bản ngã ở chiều sâu, cái tôi trữ tình không tránh khỏi những
nỗi buồn. Đối diện với chính mình, với cõi đời bao la rộng lớn, cái tôi ý thức
được sự hữu hạn của kiếp người và những biến đổi thăng trầm của cuộc sống,
77
ý thức về sự trôi chảy của thời gian, sự bất lực của tuổi già... nên buồn và cô
đơn. Hay nói một cách khác, buồn và cô đơn là nỗi ám ảnh thân phận của chủ
thể trữ tình, nó gắn với sự tan vỡ của giấc mơ, sự bất lực trước những đòi hỏi
tất yếu, trước sự tha hóa của những giá trị đời sống không gì ngăn cản nổi; nó
cũng gắn với sự tự ý thức về cái khó chia sẻ khi một mình đối diện với nỗi
đau, đặc biệt là nỗi đau tinh thần.
Có những câu hỏi tưởng như vu vơ, nhưng thực ra nó là cả một khối
trăn trở băn khoăn không cùng. Ví như, câu hỏi mình là ai, tưởng như không
có gì mới nhưng thật ra chưa bao giờ cũ:
V n vơ ra đứng trƣớc nhà
Ngƣời qua mà chẳng thấy qua một ngƣời
Buồn xƣa – vàng vạt nắng rơi
Nhớ xƣa – gió biếc chân trời mong manh
Chiều nghiêng một sắc vô tình
Tự nhiên, mình chẳng biết mình là ai
(Vẩn vơ ra đứng)
Thậm chí, nhà thơ còn tiến đến những câu hỏi xa hơn, về sự tồn tại hay
không tồn tại của mỗi bản thể:
Hạt mƣa mơ hồ nhuốm làn mây mong manh
Làm ngào ngạt bao nỗi niềm dƣới đất
Hƣ ảo hỡi! Giữa vô cùng Còn Mất
Ta là ai? Thăm thẳm có Ta không?
(Bừng thức)
78
Hoặc như:
Soi mặt xuống Vịnh Hạ Long, ta nhìn thấy ta mà ta không tự biết
Ta có hay không trên cõi đời này
(Soi gương)
Không chỉ là những câu hỏi về bản thể, nhà thơ còn trăn trở suy tư
trước câu hỏi về khả năng tri nhận và giới hạn của con người:
Ta bàng hoàng trƣớc cái Không thể biết
Đang nhào nặn ta trong cõi Vô cùng
Chả lẽ mỗi chấm ngƣời mong manh trên trái đất
Lại là biểu hiện mơ hồ huyền b của không trung
Thuở bé ta nằm dƣới rừng sao dát bạc
Mơ con thuyền trăng vắt vẻo chở ta đi
Vƣợt hiểm nguy có khi nhờ Mộng ảo
Cái Biết nhất đời ta là ta chả biết gì
(Vô thức)
Khi đối diện với những câu hỏi lớn và vô cùng ấy, nhà thơ mới cảm
nhận được rõ hơn sự nhỏ bé cô đơn đến tột cùng của kiếp người trên cõi đời
vô cùng vô tận này:
Ta tự tạo ra Trời và Đạo Trời, để giữ gìn ta giữa đời thƣờng cám dỗ
Rồi lại tự lừa đảo ta, trong cả cõi linh hồn
Xòe hết ngàn cánh tay, chẳng chạm vào bát ngát
Ta rùng mình rơi trong muôn thẳm Cô đơn
(Vô thức)
79
Cảm nhận được cái bé nhỏ cô đơn nên nhà thơ không khỏi ưu tư và trở
về để trân trọng nâng niu lấy cái tôi của mình, dù vẫn rất bâng khuâng chìm
trong nỗi niềm tự vấn:
Tôi bâng khuâng trƣớc cánh chim lặng lẽ
Cô đơn bay không biết tới phƣơng nào
Tôi đã khóc dƣới vầng trăng sáng
Đến bây giờ vẫn không hiểu vì sao
(Tự thuật)
Đến mức, ngay cả khi đối diện với tình yêu, bước vào thế giới của cảm
xúc và sự lãng mạn đắm say nhất, con người nhiều băn khoăn ấy cũng không
thoát ra khỏi nỗi hoài nghi mơ hồ xa xăm vẫn đang ngự trị trong tâm trí:
Em mờ tối nhƣ màu thu muộn
Và dịu buồn nhƣ chiếc lá rơi
Cứ mỗi chiều, lòng lại ngơ ngác hỏi
Ta là ta hay ta đã ai rồi?
(Thị trường)
Cảm nhận rõ sự cô đơn trong sâu thẳm cái tôi bản thể, nhưng nhà thơ
không khép kín lòng mình, mà ngược lại, mở lòng chia sẻ nỗi niềm ấy với thế
nhân, như là một sự tìm kiếm tri âm tri kỉ:
Ngọn gió không biết mình ở thời nào
Giọt mƣa không biết mình ở đâu
Bản thân tôi không biết mình là ai
Khi tôi đứng một mình
80
Ai xui tôi gặp em
Trƣớc đó một hơi thở
Em cũng không biết mình là ai
Và cuộc đời tôi là nhƣ thế nào
(Bản sonate hoang dã)
Thậm chí, nhà thơ không chỉ mong muốn chia sẻ với thế nhân mà còn
tham vọng chia sẻ với đất trời, thiên nhiên, tạo hóa. Ông có những câu thơ
đầy trăn trở thẳm sâu:
Này này
Đám mây bay bên trời kia
là mây mùa xuân hay mây mùa thu
Bông hoa nở cuối vƣờn kia
là hoa của niềm vui hay của nỗi buồn
Buồn và vui làm sao phân biệt đƣợc
Vây và cánh làm sao phân biệt đƣợc
Có và không làm sao phân biệt đƣợc
(Bản sonate hoang dã)
Những rồi, hành trình đi tìm kiếm câu trả lời đó cũng vẫn quay trở về cõi
riêng của nó. Cuối cùng, nhà thơ vẫn phải quay trở lại với chính cõi lòng mình:
Tôi nghe âm âm trong tôi
Tiếng những bƣớc chân lạ lùng
Của ch nh tôi đi về ph a không tôi
Miền dân gian mây trắng bay
(Bản sonate hoang dã)
81
Và ở cõi sâu thẳm nhất của lòng mình, đối diện với câu hỏi về cái tôi
bản thể, nhà thơ nhận ra cách giải đáp những trăn trở tự vấn khôn nguôi ấy:
Rất có thể, tôi là vang vọng mơ hồ của những k thác xa xăm
Mà cha ông xƣa thƣờng bỏ lửng giữa những trang sách
(Vô thức)
Đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, tất yếu đến một lúc nào đó
thơ sẽ chạm đến thế giới tâm linh. Khái niệm tâm linh thường được hiểu như
cuộc sống tinh thần đầy bí ẩn đối lập với ý thức kiểu lý tính thuần túy. Những
chuyến đi kỳ vĩ hướng về miền tâm linh đã mở ra trong thơ Trần Nhuận Minh
một không gian nghệ thuật đầy hư ảo và vẻ đẹp của cuộc sống được ánh lên
màu sắc huyền thoại. Khi mở rộng đến thế giới tâm linh của con người, thơ
đạt đến chiều sâu nhân bản mới.
Đó cũng chính là những giá trị sâu sắc và cao đẹp mà thơ Trần Nhuận
Minh đem đến qua sắc thái giọng điệu độc đáo và ấn tượng – giọng điệu tự
vấn bản thân.
Tiểu kết chương 3:
Có thể thấy, như một quy luật tinh thần trong sáng tạo nghệ thuật, cảm
hứng đã chi phối và quy định giọng điệu tương ứng. Với những mạch nguồn
cảm hứng trữ tình, thế sự và đối thoại, thơ Trần Nhuận Minh cũng nổi bật các
giọng điệu ngợi ca yêu thương chia sẻ, phản tỉnh thực tại, tự vấn cá nhân. Tất
cả đã tạo nên một phong cách thơ vừa sâu lắng vừa sắc sảo, ấn tượng.
Những giọng điệu nghệ thuật nổi bật này là một phương diện quan
trọng thể hiện bút pháp và cá tính sáng tạo của tác giả, từ đó cho ta thấy đặc
điểm lớn tạo nên phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh.
82
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Để tạo nên diện mạo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cần có cả
một quá trình với sự đóng góp của nhiều thế hệ, nhiều tác giả. Vì vậy, muốn
nhận diện một nền thơ ca, cần phải đặc biệt quan tâm nhận diện và phân tích
một số tác giả đặc sắc, có tầm vóc và bề dày sáng tác, tạo được dấu ấn và có
những đóng góp quan trọng vào đời sống thơ ca. Đặt trong góc nhìn đó, có thể
thấy thơ ca hiện đại Việt Nam đã ghi nhận những nhà thơ có vị trí và đóng
góp quan trọng, một trong số đó có nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nghiên cứu
thơ ca Trần Nhuận Minh, vì thế, không chỉ là nghiên cứu về một cá nhân, mà
còn là một cách tiếp cận để nhận diện các vấn đề của nền thơ hiện đại Việt
Nam nói chung.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một tác giả có bề dày sáng tác với hơn hai
mươi tập thơ – một khối lượng đồ sộ đáng nể mà không có nhiều tác giả có
được. Những tác phẩm của Trần Nhuận Minh đã tạo ra một gương mặt tác giả
thực sự đặc sắc, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa thách thức vừa mời gọi.
Hành trình sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh trải dài qua những giai đoạn
lịch sử khác nhau, khởi nguồn từ phong cách thơ truyền thống, ngày càng
hướng đến phong cách thơ hiện đại. Phân tích diễn trình đó, qua sự thay đổi
và vận động mạch thơ Trần Nhuận Minh cũng là một cách để chúng ta có
thêm góc nhìn về những thay đổi và vận động của thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung.
2. Nhà thơ Trần Nhuận Minh là một người được sinh ra và trưởng
thành trong một thời kì lịch sử của dân tộc – thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Ông cũng như bao người cùng thời sống trong bầu không khí hào hùng của
những năm tháng mà ai ai cũng hướng đến cái “ta”, cả dân tộc hòa chung một
lẽ sống lớn, lí tưởng lớn, tình cảm lớn. Niềm vui trong thơ Trần Nhuận Minh
83
to lớn, sôi nổi, hân hoan và tươi sáng như niềm vui của cả đất nước. Không
chỉ thế, ông còn là một người đã gắn bó cả cuộc đời mình với mảnh đất vùng
mỏ Quảng Ninh với những nỗi niềm vui buồn, thăng trầm của người thợ nơi
đây. Những gắn bó sâu nặng đó đã trở thành một phần làm nên một chất thơ
hồn hậu, yêu thương của Trần Nhuận Minh. Có lẽ vì những lẽ đó, thơ Trần
Nhuận Minh luôn tràn đầy nguồn cảm hứng trữ tình ấm áp, sâu nặng.
Thơ của Trần Nhuận Minh đi sâu vào đời tư, thế sự, để khám phá những
miền sâu xa trong cõi tâm linh, sâu thẳm của con người. Cái tôi ấy thể hiện nỗi
buồn đau nhân thế, chứa đựng giá trị nhân văn cao cả. Trần Nhuận Minh mong
muốn được chia sẻ, cảm thông, thấu hiểu hơn với tình đời, tình người.
Nếu trước đây, nhà văn vẫn thường đóng vai một “tiểu thượng đế” giữ
tư cách phán truyền và rất thường khi độc quyền chân lý, ban phát lẽ phải, vì
lẽ phải mà nhà văn đề xuất cũng chính là những giá trị tư tưởng cao đẹp của
cộng đồng, của thời đại thì giờ đây nhà văn chỉ là người đề xuất một cái nhìn
riêng, bộc lộ một tư tưởng của riêng mình bình đẳng với nhiều cái nhìn và tín
niệm của bao người khác. Dường như, Trần Nhuận Minh đã sớm thức nhận
và vô cùng thấm nhuần tinh thần này. Có thể nói, ông là một trong những nhà
thơ tiên phong, đưa vào thơ mình những đối thoại đầy gợi mở và đặt ra những
vấn đề rất đáng suy ngẫm.
3. Trần Nhuận Minh là nhà thơ nặng lòng yêu thương với quê hương,
đất nước, đồng bào và nhân dân. Ông đã bằng tất cả nỗi lòng của mình viết
lên những câu chuyện về cuộc sống của những người nông dân, công nhân,
thay họ bày tỏ những tâm tư tình cảm chất chứa trong lòng; hướng ngòi bút
của mình đến những phận người bé nhỏ bất hạnh bất kì trong đời sống thường
ngày. Tất cả những điều đó đã giúp cho thơ Trần Nhuận Minh tìm được tiếng
nói chung, đến được với nhiều người. Nó là một giọng điệu thơ vừa đầy tự
hào ngợi ca, vừa hết mực yêu thương chia sẻ.
84
Trong thơ ca, những nhà thơ có tầm tư tưởng nghệ thuật cao thường có
ý thức về phản tỉnh rất sâu sắc. Nó đem đến cho thơ ca những giá trị nhận
thức vô cùng ý nghĩa. Trần Nhuận Minh là một nhà thơ mang tinh thần như
thế. Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta có thể nhận thấy trong đó trách
nhiệm sống mà nhà thơ đã nghiêm khắc đặt ra cho mình, cho người. Đó là
những tiếng nói dự cảm, dự báo, phản tỉnh về hiện tình xã hội, với những éo
le ngang trái ngổn ngang trong các số phận con người, trong các vấn đề đời
sống. Nó làm nên một giọng điệu phản tỉnh thực tại đầy sắc sảo và ấn tượng
cho thơ Trần Nhuận Minh.
Các nhà thơ khi đạt đến tầm nhất định trong tư tưởng nghệ thuật cũng
sẽ luôn đặt ra những vấn đề, những câu hỏi cho chính mình. Những cuộc tự
vấn của thi sĩ thường đem lại những góc nhìn riêng, độc đáo và sâu sắc. Nhà
thơ Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều những tác giả mang đặc trưng
này khi sáng tạo. Cũng chính vì đặc trưng này, thơ Trần Nhuận Minh có một
sắc thái giọng điệu rất đáng chú ý, đó là giọng điệu tự vấn cá nhân.
4. Nghiên cứu về cảm hứng và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần
Nhuận Minh trước hết là cách nhận diện và đi sâu vào những đặc trưng nghệ
thuật nổi bật của một tác giả giàu thành tựu của thơ Việt Nam hiện đại, đồng
thời, qua đây, chúng ta cũng có thêm một đối chiếu quan trọng để góp phần
nhận diện đặc điểm, quá trình vận động phát triển cũng như những động
hướng của thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn An (2007), Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc, NXB
Hội nhà văn.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia, Hà
Nội.
3. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH&THCN, Hà Nội.
4. Nguyễn Việt Chiến (2017), Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975 -
2000), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa học Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin.
6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học,
Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (1987), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Giáo dục.
10. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội.
11. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của Văn học Việt Nam trong thời
kì Đổi mới, Tạp chí Văn học, (7).
12. Hà Minh Đức (chủ biên), (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
13. Lê Thị Hải Hà (2008), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
14. Trần Minh Hà, Trần Nhuận Vinh (2015), Trần Nhuận Minh và một
hƣớng tìm diện mạo mới cho thơ, NXB Hội Nhà văn.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (1999), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
86
16. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
17. Nguyễn Thái Hòa (2006), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học,
NXB Giáo dục.
18. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003), Phân t ch phong cách
ngôn ngữ trong tác ph m văn học, NXB Đại học Sư phạm.
19. Nguyễn Văn Hưng (2011), Thơ Trần Nhuận Minh, Luận văn thạc sĩ, Đại
học Sư phạm Thái Nguyên.
20. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
21. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
22. Phong Lê (2008), Hiện đại hóa Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
23. Phong Lê (2009), Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, NXB Văn
học.
24. Thanh Lê (2005), Hành trang văn hóa, NXB Khoa học xã hội.
25. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB
giáo dục, Hà Nội.
27. Phương Lựu (chủ biên), (2006), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
28. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của
các nhà văn, NXB Giáo dục.
29. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn - tƣ tƣởng và phong cách, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội.
30. Trần Nhuận Minh (2007), Trần Nhuận Minh – Thơ, NXB Văn học.
31. Trần Nhuận Minh (2011, in lần thứ 2), Bốn mùa, NXB Hội Nhà văn.
87
32. Trần Nhuận Minh (2011, in lần thứ 6), Gửi lại dọc đƣờng, NXB Hội Nhà
văn.
33. Trần Nhuận Minh, Nguyễn Đức Tùng (2012), Đối thoại văn chƣơng,
NXB Tri thức.
34. Trần Nhuận Minh (2013, in lần thứ 5), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,
NXB Hội Nhà văn.
35. Trần Nhuận Minh (2014, in lần thứ 5), Miền dân gian mây trắng, NXB
Hội Nhà văn.
36. Trần Nhuận Minh (2015, in lần thứ 22), Nhà thơ và hoa cỏ, NXB Hội
Nhà văn.
37. Trần Nhuận Minh (2015, in lần thứ 13), Bản sonate hoang dã, NXB Hội
Nhà văn.
38. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học.
39. Trần Thị Phượng, Phan Thu Hương (2011) Chân dung và bút t ch các
nhà văn Việt Nam, NXB Giáo dục.
40. Đào Xuân Quý (2003), Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân.
41. Trần Đình Sử (1994), Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con đƣờng của
thơ, Tạp chí Văn học, số 1.
42. Trần Đình Sử (1995), Những nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục.
43. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, NXB Văn học.
44. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.
45. Bích Thu (2013), Văn học Việt Nam trong quá trình hội nhập,
http://vienvanhoc.org.vn.
46. Chu Quang Tiềm (2005), Tâm lý văn nghệ, NXB Thanh niên.
47. Lê Ngọc Trà (1990), L luận văn học, NXB Trẻ.
48. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
49. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá t nh sáng
tạo, NXB Văn học.
88
PHỤ LỤC
89