ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

-------*****------

HOÀNG VĂN CƯƠNG

CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ -------*****------- HOÀNG VĂN CƯƠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ DANH TỐN

HÀ NỘI - 2005

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại

tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, tạo ra những thành tựu mang

tính đột phá, làm thay đổi nhanh chóng, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài

người. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển lực

lượng sản xuất. Vì vậy, đối với những nước chậm phát triển, muốn tiến kịp

những nước phát triển phải nhanh chóng nâng cao năng lực khoa học và trình

độ công nghệ, nắm bắt và làm chủ các tri thức mới để rút ngắn quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, đi tắt vào kinh tế tri thức.

Sau gần 20 năm đổi mới, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn

và rất quan trọng làm cho thế và lực của đất nước mạnh lên nhiều. Cùng với

quá trình phát triển đất nước, khoa học và công nghệ nước ta đã có những

bước tiến tích cực, lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành

một bước và có nhiều cố gắng thích nghi với cơ chế mới, có khả năng tiếp

thu, làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trên một số ngành và lĩnh vực

kinh tế. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế

quốc tế, nền khoa học và công nghệ nước ta còn có khoảng cách khá xa so với

các nước phát triển, chưa tạo ra được những năng lực khoa học và công nghệ

cần thiết để thực sự trở thành nền tảng và động lực cho tiến trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác

định phương hướng phát triển khoa học và công nghệ của nước ta đến năm

2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp

thu, làm chủ công nghệ mới; đặc biệt lựa chọn những công nghệ cơ bản, có

vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành, tạo

ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả phát triển của nền kinh tế ”.

Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập

niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều nhà

-1-

nghiên cứu quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trên

toàn cầu, đặc biệt là đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá,

hiện đại hoá như Việt Nam. Việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, chiến

lược làm như thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận và ứng dụng

công nghệ tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước cũng như việc triển

khai đưa công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, từng lĩnh

vực và từng khâu trong quy trình hoạt động sản xuất được coi là khâu then

chốt bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm

hiểu và nghiên cứu về vấn đề: “Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam - Thực

trạng và giải pháp” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài Luận văn

tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Chuyển giao công nghệ là một vấn đề được nhiều nhà hoạch định chính

sách, nhiều cơ quan và các nhà kinh tế trong nước và quốc tế quan tâm. Trong

những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề

chuyển giao công nghệ, cụ thể như:

- Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Thông tin khoa học và công

nghệ quốc gia: “Khoa học công nghệ thế giới – Xu thế và chính sách những

năm đầu thế kỷ XXI”, Hà Nội, 2003.

- GS.TS. Vũ Đình Cự (chủ biên): “Khoa học và công nghệ hướng tới

thế kỷ XXI - Định hướng và chính sách”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2000.

- TS. Lê Văn Hoan: “Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị

trường vào Việt Nam”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.

- PGS.TS. Đàm Văn Nhuệ và TS. Nguyễn Đình Quang: “Lựa chọn

công nghệ thích hợp ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam”, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

- TS. Đặng Kim Nhung: “Chuyển giao công nghệ trong kinh tế thị

-2-

trường và vận dụng vào Việt Nam”, Nxb. Nông nghiệp, 1994.

- TS. Nguyễn Văn Phúc: “Chuyển giao công nghệ và quản lý công

nghệ”, Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội, 1998.

- TS. Nguyễn Văn Phúc (chủ biên): “Quản lý đổi mới công nghệ”,

Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002.

Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và

thực tiễn quan trọng về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, nhưng về cơ bản,

các giải pháp đưa ra nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt

Nam được xem xét trong khuôn khổ tiến trình phát triển khoa học và công

nghệ hoặc trong những giải pháp tăng trưởng và phát triển kinh tế chung của

đất nước. Do mục đích, đối tượng, phạm vi và thời điểm nghiên cứu khác

nhau, đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt

Nam thì việc nghiên cứu vấn đề chuyển giao công nghệ cả về thực trạng lẫn

giải pháp là rất cần thiết.

Chuyển giao công nghệ luôn là một vấn đề mới cả về lý luận và thực

tiễn. Đó là một ẩn số cho các quốc gia chậm phát triển tiến kịp tới sự phát

triển kinh tế của các quốc gia phát triển khác.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của Luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt

động chuyển giao công nghệ trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu

này, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:

- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển giao công nghệ;

- Đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam từ

năm 1996 đến nay;

- Trên cơ sở các phân tích trên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm

thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

-3-

* Phạm vi nghiên cứu:

- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động chuyển giao

công nghệ ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay, đây được coi là mốc thời gian

mà nhiều chuyên gia đánh giá là mở đầu thời kỳ hoạt động chuyển giao công

nghệ có hệ thống.

- Về không gian: Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

- Về nội dung: Vấn đề đặt ra được đề cập từ hai góc độ: Chuyển giao

công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài vào Việt Nam; chuyển giao công

nghệ ngay từ các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của Việt Nam

vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển kinh tế – xã hội, nâng

cao chất lượng cuộc sống xã hội cho nhân dân.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của Luận văn, trong quá

trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp: phương pháp kết hợp

phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích dự báo…

trong quá trình nghiên cứu.

6. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn

- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ.

- Phân tích hoạt động chuyển giao công nghệ của một số nước và rút ra bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt

Nam từ năm 1996 đến nay để từ đó thấy được những mặt còn tồn tại và hạn

chế trong quá trình chuyển giao công nghệ trong thời gian qua.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao

công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về

-4-

chuyển giao công nghệ

Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

trong thời gian qua

Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu

nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời

gian tới

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH

NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

1.1. Lý luận chung về chuyển giao công nghệ

1.1.1. Khái niệm

Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hóa và cung cấp

dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khác của quá trình sản xuất kinh doanh theo một

lôgíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất –

kinh doanh nào. Ngay trong quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực phi

vật chất, thậm chí trong các hoạt động công cộng, người ta cũng nói tới công

nghệ – công nghệ triển khai, cung cấp các dịch vụ và tiến hành các hoạt động.

1.1.1.1. Công nghệ

Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những

căn cứ khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau.

Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ dùng trong sản xuất và được

hiểu là “phương pháp công nghệ”, tức là những phương pháp sản xuất sản

phẩm, được mô tả qua những quy trình được trình bày dưới các hình thức

bản vẽ, sơ đồ, biểu, bảng. Một khái niệm khác cũng được dùng trong mối

quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật – bao gồm toàn bộ các phương

tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất… phục vụ cho sản xuất.

Như vậy, khái niệm công nghệ hiểu theo nghĩa hẹp này được định nghĩa hoàn

toàn độc lập với khái niệm kỹ thuật (theo nghĩa là các phương tiện kỹ thuật).

Tuy rằng các phương pháp này cũng luôn được gắn với những thiết bị, công

cụ nhất định, thậm chí có cả những thiết bị đặc trưng gắn với từng chuyển

giao công nghệ, nhưng chúng thường không được coi là bộ phận hợp thành

của công nghệ. Về sau, khái niệm công nghệ được sử dụng trong cả lĩnh vực

-5-

cung cấp hàng hóa, dịch vụ và gần đây cả trong quản lý.

Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm

công nghệ đã được mở rộng: Công nghệ là tập hợp của tất cả các phương

pháp sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ

thuật cần thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới

hạn trong quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá

trình sản xuất trực tiếp (trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân

phối, lưu thông hàng hóa…). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “ công

nghệ ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta

xem phương pháp và quy trình công nghệ là yếu tố “phần mềm” của công

nghệ, còn thiết bị, máy móc và các công cụ sản xuất là “phần cứng” của công

nghệ.

Từ sau 1980, đặc biệt từ sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở

rộng hơn. Nó được định nghĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình,

máy móc, thiết bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các

kiến thức, hiểu biết, kỹ năng, thông tin cũng như các phương thức tổ chức mà

con người cần áp dụng để sử dụng những phương pháp, phương tiện đó.

Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành 4 yếu tố: Phần cứng (các

phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất…); phần mềm

(các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ); phần tổ

chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ

thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức, thông tin

mà người lao động và cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công

nghệ).

Gần đây, một số tác giả còn coi công nghệ phải bao gồm cả năng lực

tiềm tàng của tổ chức sản xuất – kinh doanh và dịch vụ trong việc sản xuất và

cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho xã hội. “ Công nghệ là tổng hợp những năng

lực nội tại, cở sở vật chất, kỹ năng, hiểu biết và tổ chức cần thiết để có thể tạo

Công nghệ là một khái niệm động, thay đổi cùng với sự phát triển của

tiến bộ khoa học – công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện

nó đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể được tiếp tục mở rộng.

-6-

ra được những sản phẩm hoặc dịch vụ có ích cho xã hội ”.

Công nghệ là một hàng hóa được mua bán trên thị trường công nghệ.

Thị trường công nghệ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi công

nghệ. Việc mua bán công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là

một trong những kênh phổ biến. Bên cạnh đó còn có những kênh khác như

tiến hành mua bán trực tiếp giữa các công ty với nhau, hoặc có thể phổ biến

công nghệ không thông qua con đường thương mại. Để cho việc chuyển giao

công nghệ được hiệu quả cần nắm được thuộc tính cơ bản của công nghệ. Các

thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua, bán, trao đổi và

sử dụng công nghệ. Công nghệ có những thuộc tính sau đây:

Một là, công nghệ có tính hệ thống: Điều này có nghĩa là không thể

đánh giá công nghệ thông qua các thành phần riêng lẻ. Ví như mua được máy

móc hiện đại không có nghĩa là có được công nghệ hiện đại để sản xuất sản

phẩm mong muốn. Vì thế, các yếu tố cấu thành công nghệ có mối quan hệ

hữu cơ và đồng bộ để tạo ra sự gắn kết trong hệ thống. Từng yếu tố cũng

không phải là phép tính cộng giản đơn các thành phần của nó mà là các yếu tố

cấu thành của hệ thống, với các mối tương quan chặt chẽ về không gian và

thời gian, trình tự và điều kiện vận hành. Chỉ khi công nghệ được đổi mới, tức

là ít nhất có một giải pháp nào đó được thay thế bằng một giải pháp tốt hơn,

khiến toàn bộ hệ thống trở nên tiến bộ hơn sẽ đưa tới kết quả cao hơn, thể

hiện ở quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất.

Hai là, công nghệ có tính sinh thể: Đó là, cũng như các hàng hóa khác,

công nghệ cũng có tính chu kỳ sống (ra đời, tăng trưởng, chiếm lĩnh thị

trường, bão hòa, lỗi thời, tiêu vong) và chịu sự chi phối của phương án chiến

lược sản phẩm truyền thống, nên việc các bên nước ngoài chuyển giao các

công nghệ lỗi thời, sắp bị thay thế vào một thị trường mới (như ở Việt Nam)

cũng không nằm ngoài quy luật. Tuy nhiên, khác với các hàng hóa khác, công

nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển như một cơ thể sống, tức là phải được

cung cấp các yếu tố đầu vào, trong môi trường thuận lợi, thích nghi và phải

được bảo dưỡng, duy trì và hoàn thiện. Không nên xem công nghệ như một

sản phẩm “chết” vì như vậy nó sẽ trở thành một gánh nặng cho người sử

-7-

dụng.

Ba là, công nghệ có tính đặc thù về mục tiêu và địa điểm. Thật vậy, tuy

công nghệ là một khái niệm rất rộng và đụng chạm đến nhiều khía cạnh kỹ

thuật, kinh tế, tổ chức và xã hội, nhưng nó lại giải quyết các mục tiêu cụ thể.

Công nghệ nào thì sản phẩm ấy và mỗi công nghệ cho phép đạt được một loại

sản phẩm nhất định, với số lượng, chất lượng và một lượng vật tư tiêu hao

nhất định. Mặt khác, mỗi công nghệ chỉ thực sự vận hành tốt nếu có một môi

trường thích nghi và thuận lợi. Vì vậy, một công nghệ thực sự phù hợp với

quốc gia này lại không phát huy tác dụng ở quốc gia kia, vì khi thay đổi địa

điểm thì các yếu tố đầu vào và môi trường cũng thay đổi. Điều này cho thấy,

chuyển giao công nghệ không chỉ đơn giản là dịch chuyển công nghệ từ vị trí

địa lý này sang vị trí đại lý khác mà là cả một quá trình cải tiến, sửa đổi, thích

nghi hóa cho phù hợp với các điều kiện của môi trường mới. Từ đặc thù này

của công nghệ mà xuất hiện một khái niệm mới được nhiều người nhắc đến là

“công nghệ thích hợp”. Đó là sự phù hợp của công nghệ với các mục tiêu

kinh tế - xã hội, các điều kiện về lao động, trình độ quản lý, tài nguyên thiên

nhiên và hạ tầng kỹ thuật.

Bốn là, công nghệ có tính thông tin. Do công nghệ là một hệ thống kiến

thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất và thông tin nên bản thân công

nghệ có tính thông tin. Thông tin là một loại hàng hóa rất đặc biệt, cho nên

đánh giá, định giá, xử lý, xác định quyền sở hữu và bảo vệ nó là hết sức phức

tạp. Nó đòi hỏi sự can thiệp và bảo hộ không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn

cả phạm vi quốc tế.

a) Định nghĩa

1.1.1.2. Chuyển giao công nghệ

Chuyển giao công nghệ là loại hoạt động thực tiễn đã xuất hiện từ khá

lâu trong lĩnh vực ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, chỉ từ

những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây việc chuyển giao công nghệ và sử

dụng hiệu quả công nghệ được chuyển giao mới có ảnh hưởng quyết định đến

sự thịnh vượng, tốc độ và hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội cũng như chất

lượng cuộc sống của nhiều nước trên thế giới.

Trước đây, chuyển giao công nghệ xảy ra như là kết quả của các hoạt

-8-

động nhằm chống chọi với thiên nhiên để sinh tồn, việc khai thác các nguồn

lợi từ tự nhiên được tiến hành một cách trực tiếp, rồi phát triển lên thành quy

mô giữa các lãnh thổ, các quốc gia và giao lưu với nhau bởi quan hệ chính trị,

kinh tế, thương mại, nhưng chuyển giao công nghệ chỉ là các hệ quả của quá

trình đó, được thực hiện một cách ngẫu nhiên và không được vật chất, tiền tệ

hóa dưới hình thức giao dịch đặc biệt. Ngày nay, chuyển giao công nghệ trở

thành một hoạt động có tính quy luật khách quan, công nghệ trở thành một

hàng hóa để trao đổi buôn bán, và các hoạt động chuyển giao công nghệ

thường được thực hiện với sự tham gia của những chủ thể như: các tổ chức,

cơ quan chính phủ hoặc phi chính phủ, doanh nghiệp, những tập thể hoặc cá

Mặc dù đã có những nghiên cứu về chuyển giao công nghệ nhưng hiện

nay vẫn còn có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm chuyển giao công nghệ.

nhân những nhà khoa học, các tổ chức môi giới, tư vấn…

Theo quan điểm của ESCAP: Chuyển giao công nghệ là sự dịch chuyển

toàn bộ, hoặc một phần công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác.

Theo quan điểm của UNDP: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến

thức kỹ thuật ra khỏi ranh giới nơi sản sinh ra nó.

GS. Christopher Freemen cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là tập hợp

các hoạt động thương mại và pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có

được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ, trong khi sử dụng công

nghệ đó vào một mục đích đã định”.

GS. TS. Shoichi Yamashita lại cho rằng: “Chuyển giao công nghệ là

một quá trình học tập trong đó tri thức về công nghệ được tích lũy một cách

liên tục vào những nguồn tài nguyên con người đang thu hút vào các hoạt

động sản xuất, một sự chuyển giao công nghệ thành công cuối cùng sẽ đưa tới

sự tích lũy tri thức sâu hơn và rộng hơn”.

Trên góc độ của doanh nghiệp, có thể hiểu: “Chuyển giao công nghệ là

hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất thông qua việc áp dụng

một kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất hoặc có thể là áp dụng một

công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Đó là

sự mua bán công nghệ và là quá trình đào tạo, huấn luyện để sử dụng công

-9-

nghệ được tiếp nhận”.

Bộ Khoa học và Công nghệ xác định rằng: “Chuyển giao công nghệ là

một hoặc tập hợp nhiều hoạt động được tiến hành bởi hai bên – bên giao và

bên nhận, trong đó hai bên phối hợp hành vi pháp lý và các hành động thực

tiễn mà mục đích và kết quả là bên giao cung cấp để thực hiện một mục tiêu

xác định”.

Các quan niệm trên tuy khác biệt về nội dung cụ thể và cách tiếp cận

nhưng có những điểm chung sau đây:

- Thứ nhất, Hoạt động chuyển giao công nghệ có hai bên tham gia và

- Thứ hai, Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ bao gồm chuyển

nhượng phương tiện vật chất, kỹ thuật hữu hình mà điều quan trọng hơn là phải

đào tạo, huấn luyện để người lao động nắm giữ, sử dụng thành thạo công nghệ

được chuyển giao và cải tiến công nghệ đó thích nghi với điều kiện thực tế.

có yếu tố quyết định là công nghệ mới;

Như vậy, Chuyển giao công nghệ được xem là một lĩnh vực hoạt động

nhằm đưa những công nghệ từ nơi có nhu cầu chuyển giao công nghệ đến nơi

có nhu cầu tiếp nhận công nghệ một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các

bên tham gia.

b) Nội dung của chuyển giao công nghệ

Thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, những hoạt động chuyển giao công

nghệ ở các mức độ khác nhau đã xuất hiện. Nó được phát triển theo thời gian

cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong nội bộ các quốc gia và giữa các quốc gia

với nhau thông qua mua bán thương mại, chiến tranh chinh phục và di cư.

Chúng ta có thể xác định nội dung của chuyển giao công nghệ bao gồm:

- Chuyển giao phần cứng sản xuất: bao hàm toàn bộ kiến thức được sử

dụng trong sản xuất, thông thường gồm các vật liệu, sản phẩm hay máy móc

thiết bị.

- Chuyển giao phần cứng tổ chức: gồm các thiết bị và phương tiện

được dùng trong các hoạt động phi sản xuất ở trong và ngoài xí nghiệp.

- Chuyển giao tài liệu sản xuất: thường bao gồm 4 loại: Patent; các bí

quyết thiết kế, kế hoạch; các cẩm nang vận hành; các tiêu chuẩn sản xuất.

- Chuyển giao tài liệu tổ chức: đó là tài liệu dùng cho quản ký, bao

gồm các nguyên tắc để vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng, quản lý nhân

-10-

sự, kiểm soát tài chính.

- Chuyển giao các kỹ năng sản xuất: đó là các kinh nghiệm và kỹ năng

được tích lũy và sử dụng trong quy trình sản xuất đó.

Trong nội dung của chuyển giao công nghệ ta cần lưu ý tới hai điểm

mấu chốt đó là: các hình thức hàm chứa công nghệ và và các cấp độ chuyển

giao công nghệ.

Về hình thức hàm chứa công nghệ: có ba hình thức như sau:

- Thứ nhất, công nghệ được hàm chứa trong máy móc, thiết bị. Loại

công nghệ này có thể được chuyển giao thông qua nhiều kênh khác nhau như

thông qua hoạt động mậu dịch, xuất – nhập khẩu nhà máy, thỏa thuận về cấp

- Thứ hai, công nghệ được hàm chứa trong các tài liệu, văn bản dùng để

lưu trữ, phổ biến. Đây là loại thông tin về cách vận hành máy móc, thiết bị (hoạt

động của công nghệ) và phương thức điều hành các hoạt động của doanh nghiệp.

giấy phép, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

- Thứ ba, công nghệ được hàm chứa trong chính con người (các chuyên

gia kỹ thuật, nhà quản trị doanh nghiệp, người quản lý công nghệ…)

Về các cấp độ chuyển giao công nghệ: có ba cấp độ:

- Chuyển giao công nghệ điều hành (cấp độ quản lý và kỹ thuật bậc trung);

- Chuyển giao công nghệ sản xuất (cấp độ tác nghiệp);

- Chuyển giao bí quyết quản lý (cấp độ điều hành toàn bộ, quản lý cao

cấp và bộ máy nghiên cứu và phát triển).

c) Đối tƣợng chuyển giao công nghệ

Các đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm:

* Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy

móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao

Sở hữu công nghiệp bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng

công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng

khác do luật định.

Trong đó, sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ thế giới, có

trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật

trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể

hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, có -11-

tính đổi mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công

nghiệp hoặc thủ công nghiệp.

Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ

cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa

có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng

một hoặc nhiều màu sắc.

Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ

xuất xứ mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có

các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt,

bao gồm các yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.

Quyền sở hữu đối với sở hữu công nghiệp có thể được xác lập bằng

văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp, nếu chủ sở

hữu đệ trình hồ sơ yêu cầu.

* Bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công

nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài

liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật có hoặc

Bí quyết là những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin kỹ thuật quan trọng,

mang tính chất bí mật được tích lũy, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản

xuất, kinh doanh, có khả năng tạo ra những dịch vụ, sản phẩm có chất lượng cao,

đem lại hiệu quả kinh tế lớn, có khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị

trường.

không kèm theo máy móc, thiết bị.

* Các giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ.

* Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như:

- Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây

chuyền…

- Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện quy

trình công nghệ được chuyển giao;

- Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công

nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển

-12-

giao.

* Máy, thiết bị, phương tiện kỹ thuật kèm theo 1 hoặc một só trong 4

đối tượng nêu trên.

1.1.2. Phân loại các hình thức chuyển giao công nghệ

Để có những giải pháp, những hướng tác động thích hợp và có hiệu quả

tới quá trình chuyển giao công nghệ, các hoạt động này cần được phân loại

theo những đặc điểm nhất định, thích hợp với những nhóm giải pháp nhất

định. Toàn bộ các quá trình chuyển giao công nghệ có thể phân loại theo các

cách khác nhau sau đây:

1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể chuyển giao công nghệ

Sự phân loại này cho phép xác định được cơ chế chuyển giao thích

hợp. Theo đó, các quá trình chuyển giao công nghệ được phân chia thành:

- Chuyển giao công nghệ nội bộ doanh nghiệp (giữa cơ quan nghiên

cứu và thiết kế của công ty với các thành viên của nó ở trong một nước hay ở

nhiều nước): Trong trường hợp này, công nghệ do phòng nghiên cứu thiết kế

được chuyển giao cho các bộ phận triển khai khác hoặc cho các bộ phận khác

trong nội bộ công ty, tập đoàn và cuối cùng, chuyển giao tới các nhà máy sản

xuất. Đây là hình thức thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy

mô lớn. Hình thức chuyển giao có thể là sự chuyển giao trên cơ sở hạch toán

nội bộ hoặc hạch toán kinh tế (có tính đến lỗ – lãi của các đơn vị có liên

quan). Nó có thể (nhưng không nhất thiết) là sự chuyển giao có tính bao cấp

- Chuyển giao công nghệ trong nước (giữa các công ty, các cơ quan

nghiên cứu và thiết kế trong nước): Đây là hình thức chuyển giao công nghệ

giữa các đối tác độc lập trong cùng một quốc gia. Các đối tác này có thể có quy

chế hoạt động khác nhau, nhưng đều là những chủ thể độc lập trên thị trường.

Việc chuyển giao công nghệ thường được thực hiện trên cơ sở hạch toán kinh tế.

Lợi ích của các bên được đảm bảo qua các hoạt động thương mại đơn thuần mà

công nghệ là đối tượng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do muốn thúc đẩy

quá trình đổi mới công nghệ, Nhà nước cũng có thể tài trợ cho việc chuyển giao

này (tài trợ trực tiếp cho các cơ quan chuyển giao hoặc cho bên tiếp nhận công

nghệ).

-13-

giữa các đơn vị có liên quan.

nghệ giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau, có địa điểm ở các quốc gia khác

- Chuyển giao công nghệ quốc tế: Đây là hình thức chuyển giao công

nhau. 1.1.2.2. Phân loại theo nội dung công nghệ được chuyển giao

Cách phân chia này được dùng để xây dựng những “khuôn khổ chung

về nội dung” chuyển giao công nghệ. Theo đó người ta xác định:

- Công nghệ chế tạo: Chủ yếu chỉ sử dụng chuyển giao công nghệ về

các phương diện như thiết bị, công nghệ – vật liệu sản xuất với mục đích là

chế tạo sản phẩm.

- Công nghệ thiết kế: Đây là sự chuyển giao công nghệ về các phương

diện như đồ án thiết kế khai thác phát triển sản phẩm, ứng dụng công nghệ,

- Công nghệ quản lý: Chuyển giao công nghệ quản lý về các phương diện

như: Công nghệ quản lý đặc biệt mà xí nghiệp đã nghiên cứu và triển khai thành

công hoặc công nghệ quản lý về tài vụ, vật tư, nhân sự, tư vấn, marketing. Nó đề

tài liệu thuyết minh công nghệ, số liệu tính toán và tư liệu ban đầu.

cập tới các quy trình, cách thức tiến hành các hoạt động quản lý. 1.1.2.3. Phân loại theo tính chất của công nghệ

Cách phân chia này được sử dụng nhiều trong việc xác định quyền và

nghĩa vụ của mỗi bên tham gia quá trình chuyển giao công nghệ. Nó xuất phát từ

thực tế là tùy thuộc vào vị trí của mình trên thị trường nói chung cũng như thị

trường công nghệ riêng, một bên chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ có thể

có lợi thế hơn hoặc bị sức ép nhiều hơn phía đối tác. Việc xác định rõ vị trí này

(và quan trọng hơn là xác định dúng lợi thế hoặc bất lợi thế của mình), có thể

giúp doanh nghiệp xác định được đúng đắn chiến lược của mình trong đàm phán

với đối tác về chuyển giao công nghệ. Người ta có thể phân biệt các trường hợp

bên nhận hoặc bên chuyển giao công nghệ có vị trí độc quyền, công nghệ được

chuyển giao là công nghệ đặc biệt hoặc gắn với thiết bị chuyên dùng, với trình

độ chuyên môn cao hoặc với nhãn hiệu hàng hóa của bên đối tác, việc chuyển

giao công nghệ gắn với hoạt động tư vấn công nghệ, bồi dưỡng, đào tạo nhân

viên có tính đặc trưng… 1.1.2.4. Phân loại theo tính chất của quá trình chuyển giao công nghệ

-14-

công nghệ. Theo đó, các hoạt động chuyển giao công nghệ được phân chia

thành:

Cách phân loại này liên quan tới cách thức và con đường chuyển giao

- Chuyển giao theo chiều dọc:

Đây là quá trình tri thức, lý luận cơ sở được chuyển giao từ các bộ

phận, tổ chức nghiên cứu, phát triển (nơi tạo ra công nghệ) sang các bộ phận,

tổ chức ứng dụng công nghệ đó. Trong quá trình này, cứ sau mỗi bước

chuyển giao, công nghệ lại được phát triển tiếp để trở nên hoàn thiện hơn, có

thể khai thác trên thực tế được hoặc có thể mở rộng giá trị sử dụng của nó. Có

hai quan niệm về chuyển giao công nghệ theo chiều dọc:

Thứ nhất, công nghệ chưa có trên thị trường: Chuyển giao công nghệ

chưa được triển khai (công nghệ vẫn trong sự quản lý của nơi nghiên cứu).

Bên nhận có được công nghệ hoàn toàn mới nếu triển khai thành công.

Thứ hai, Công nghệ đã có trên thị trường:

Chuyển giao từ Nghiên cứu Triển khai Sử dụng Thị trường

Bên nhận đễ dàng làm chủ công nghệ được chuyển giao.

Trong thực tế các chuyển giao công nghệ dọc chỉ chiếm khoảng 5% tổng

số chuyển giao công nghệ trên phạm vi thế giới do bên nhận công nghệ cần có

năng lực triển khai công nghệ ở trình độ cao (trong trường hợp công nghệ chưa

có trên thị trường) và chí phí chuyển giao cao (trong trường hợp thứ 2).

Đây là quá trình đưa công nghệ đã được phát triển hoàn chỉnh, đã được

khai thác và sử dụng tại một tổ chức hoặc khu vực nào đó (doanh nghiệp) sang

cho một tổ chức hoặc khu vực khác (doanh nghiệp) sử dụng. Về nguyên tắc,

trong quá trình chuyển giao công nghệ ngang đối với công nghệ, không cần có

những cải tiến, hoàn thiện thêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ngay trong quá trình

này, việc “thích nghi hóa” cũng chính là quá trình cải tiến công nghệ được

- Chuyển giao theo chiều ngang:

chuyển giao. Hình 1.1: Phân biệt chuyển giao công nghệ dọc và ngang

Chu trình của công nghệ Công nghệ chưa có ở thị trường Công nghệ đã có ở thị trường

-15-

Nghiên cứu Dọc Dọc Triển khai

Sản xuất thử

Sản xuất hàng loạt

Phổ biến trên thị trường

Ngang

1.1.2.5. Phân loại theo phương thức thanh toán và tính chất thương mại

Chuyển giao công nghệ và mua bán công nghệ không phải đồng nhất

nhau. Bởi thế người ta phân biệt hai hình thức:

- Chuyển giao công nghệ phi thương mại: Hình thức này bao gồm toàn

bộ chuyển giao công nghệ có tính học thuật, thông qua các phương thức như

hội nghị quốc tế, triển lãm thành tựu công nghệ và hội thảo chuyên đề, xuất

bản sách báo, trao đổi tư liệu, giảng dạy, khảo sát,…để tiếp thu nhanh thành

quả khoa học công nghệ của người khác. Đó là sự chuyển giao mang tính phi

mậu dịch. Trong loại chuyển giao công nghệ này, bên tiếp nhận không phải

trả chi phí chuyển nhượng.

- Chuyển giao công nghệ có tính thương mại: Nó bao gồm các hình

thức chuyển giao, trong đó công nghệ với tư cách là một loại hàng hóa đặc

biệt, được mua và bán trên thị trường. Bởi thế, quá trình chuyển giao có tính

mậu dịch và được tiến hành bằng phương thức mua bán công nghệ.

1.1.3. Điều kiện chuyển giao công nghệ

Việc chuyển giao công nghệ cho phép cả bên giao và bên nhận công

nghệ có được những lợi thế nhất định. Chính lợi ích này là động lực thúc đẩy

quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng lớn

hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp việc chuyển giao công nghệ không

đem lại lợi ích mong muốn. Bài học rút ra từ những thành công và thất bại là:

Để chuyển giao cũng như tiếp nhận thành công một công nghệ, cần đảm bảo

những điều kiện xuất phát từ bản thân công nghệ, bên cung cấp công nghệ và

bên tiếp nhận công nghệ. Ngoài ra, các điều kiện xuất phát từ chính sách của

Nhà nước từ phiá chuyển giao và phía tiếp nhận công nghệ cũng ảnh hưởng

Xét một cách khái quát, những nhân tố sau đây sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới

quá trình chuyển giao – tiếp nhận công nghệ và thành công của quá trình này:

mạnh mẽ tới việc chuyển giao công nghệ.

-16-

* Nhu cầu đổi mới, chuyển giao công nghệ và thị trường công nghệ

Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng tới việc chuyển giao công

nghệ là nhu cầu đổi mới công nghệ. Nhu cầu này bắt nguồn từ thị trường và nhu

cầu về sản phẩm có liên quan đến công nghệ được xem xét. Khi có sự mất cân

đối trên thị trường về sản phẩm theo hướng nhu cầu không được đáp ứng, các

doanh nghiệp sẽ phản ứng bằng cách nâng cao năng lực sản xuất (nâng cao hệ số

tận dụng năng lực sản xuất, đầu tư theo chiều sâu nhằm đồng bộ hóa hoặc tăng

năng lực sản xuất trên cơ sở công nghệ đang được sử dụng). Nếu những biện

pháp này không đáp ứng được yêu cầu hoặc không giúp doanh nghiệp nâng cao

hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường (hoặc công nghệ truyền

thống đã được khai thác một cách triệt để) đã có những công nghệ mới có khả

năng thay thế công nghệ cũ, doanh nghiệp sẽ tính đến khả năng thay thế công

nghệ truyền thống, đang sử dụng bằng công nghệ mới hoặc cải tiến chúng.

Khi xuất hiện nhu cầu thay thế công nghệ đang được khai thác và sử dụng

bằng công nghệ mới, vấn đề mà doanh nghiệp phải cân nhắc là tự mình nghiên

cứu, thiết kế công nghệ mới hay mua/tiếp nhận công nghệ mới từ các cơ sở, các

doanh nghiệp khác. Cơ sở để doanh nghiệp quyết định vấn đề này là tương quan

giữa chi phí và lợi ích của doanh nghiệp trong từng trường hợp (tự nghiên cứu

hay nhận chuyển giao). Thông thường, vấn đề này hay xuất hiện trong các doanh

nghiệp lớn, đặc biệt là hướng công nghệ được doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu.

Thị trường công nghệ tác động tới tình hình chuyển giao công nghệ ở

chỗ, nếu có nhiều công nghệ mới đã được tạo ra và sẵn sàng chuyển giao với

chi phí có thể chấp nhận được, các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ có điều kiện

thuận lợi trong việc tiếp nhận công nghệ mới và dễ dàng nhận chuyển giao

các công nghệ mình cần. Thiếu nguồn cung cấp hoặc các cơ sở chuyển giao

công nghệ với những điều kiện ngặt nghèo, khắt khe sẽ ảnh hưởng bất lợi tới

việc chuyển giao công nghệ. Thực tế ở các nước đang phát triển, kể cả Việt

Nam, cũng đã cho thấy rằng mặc dù có nhu cầu lớn về công nghệ đơn giản

cho phép chế biến các sản phẩm thô, sản phẩm nông sản sau thu hoạch với

chi phí thấp, điều kiện sử dụng không khắt khe…nhưng do không có cơ quan,

tổ chức nào nghiên cứu và sẵn sàng chuyển giao nên những công nghệ này

nằm trong tình trạng trì trệ từ hàng chục năm nay chưa được cải thiện đáng

kể.

-17-

* Động lực của hai bên cung ứng và tiếp nhận công nghệ

Động lực thúc đẩy người có công nghệ tìm cách chuyển giao công nghệ

này là thúc đẩy sự tiêu dùng rộng rãi một hoặc một số sản phẩm mới, tham

nhập thị trưởng mới hoặc mở rộng thị trường đã có, tăng thêm lợi nhuận từ

các hoạt động chuyển giao công nghệ. Động lực đó cũng có thể là giúp bên

chuyển giao cung cấp được (hoặc cung cấp thêm) các sản phẩm, vật tư,

nguyên liệu gắn với công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi công

nghệ của doanh nghiệp (chuyển giao công nghệ và các thiết bị liên quan để

Động lực thúc đẩy người sử dụng tiếp nhận công nghệ là thông qua nhập

công nghệ mà phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tiết

kiệm chi phí để giảm giá thành, tăng lợi nhuận, đổi mới hoặc đa dạng hóa sản

phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay thế nguyên, vật liệu quý hiếm đang

sử dụng bằng những nguyên, vật liệu mới rẻ tiền, dễ kiếm hơn….

thay thế chúng bằng một công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn…).

Nhận thức được tác động của nhân tố này, cả bên chuyển giao công

nghệ lẫn bên tiếp nhận công nghệ cần có ứng xử thích hợp trong toàn bộ quá

trình từ đàm phán, ký kết hợp đồng cho tới các hoạt động cụ thể triển khai

việc chuyển giao công nghệ. Nếu mỗi bên chỉ biết đến lợi ích của mình,

không chú ý và đảm bảo lợi ích của các đối tác thì sẽ không thể thực hiện

thành công việc chuyển giao công nghệ.

* Năng lực công nghệ thực tế của bên chuyển giao và bên tiếp nhận

Năng lực thực sự của hai bên chuyển giao/tiếp nhận công nghệ không chỉ

ảnh hưởng tới việc chuyển giao công nghệ, mà cả tới việc khai thác, sử dụng

công nghệ sau khi chuyển giao kết thúc. Nguồn lực có ý nghĩa quan trọng nhất là

vốn đầu tư và lao động có trình độ, có tay nghề thích hợp. Nhìn chung, một

doanh nghiệp có tiềm lực càng lớn và đồng bộ, càng có điều kiện thuận lợi để

chuyển giao hoặc tiếp nhận công nghệ, càng có điều kiện chủ động lựa chọn

công nghệ cần chuyển giao – tiếp nhận cũng như đối tác chuyển giao, hình thức

chuyển giao cũng như các điều kiện chuyển giao công nghệ.

Trong quan hệ chuyển giao, nếu thị trường công nghệ không có gì đặc

biệt, công nghệ và việc khai thác công nghệ không thuộc độc quyền của bên nào

thì bên nào có tiềm lực thấp hơn sẽ phụ thuộc vào bên có tiềm lực cao hơn, hoặc

chịu thiệt hơn so với bên có tiềm lực cao hơn. Nếu cả hai bên đều chỉ có tiềm lực

-18-

công nghệ

được. Ví dụ dễ quan sát thấy trong thực tiễn là: Nếu cả hai bên chuyển giao và

tiếp nhận công nghệ đều ít vốn, một bên không thể bán công nghệ theo phương

thức trả chậm, còn bên kia không có tiền để thanh toán ngay cho bên chuyển

giao thì việc chuyển giao công nghệ sẽ không thành. Ngược lại nếu cả hai bên

đều có nguồn lực tài chính dồi dào thì việc chuyển giao sẽ thuận lợi hơn.

hạn chế, việc chuyển giao công nghệ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thực hiện

* Điều kiện môi trường

Quy mô, phạm vi của hoạt động chuyển giao công nghệ có quan hệ mật

thiết với môi trường quốc tế, môi trường kinh doanh, quan hệ với chính sách

của Chính phủ, thể chế quản lý và điều kiện công kinh tế, văn hóa của các

nước. Môi trường tác động tới việc chuyển giao công nghệ qua các nội dung

chủ yếu sau:

- Cơ sở hạ tầng phát triển, có các thông số, cấu trúc và phương thức

vận hành thích hợp với công nghệ được chuyển giao thì việc chuyển giao có

thể được tiến hành một cách thuận lợi. Nhờ đó, sau khi chuyển giao, công

nghệ có thể được khai thác, phát huy tốt hơn, vốn đầu tư nhanh chóng được

thu hồi. Điều này càng kích thích các doanh nghiệp khác thực hiện việc

chuyển giao công nghệ tương tự.

- Tập quán, ý thức pháp luật của cộng đồng cũng ảnh hưởng mạnh mẽ

tới nhu cầu chuyển giao công nghệ. Nếu quyền tác giả bị xâm phạm, không

được bảo vệ, các bí quyết công nghệ có thể được chuyển giao, phổ biến bất

hợp pháp, nhu cầu chuyển giao công nghệ có thể lớn lên, nhưng lợi ích của

người nghiên cứu, thiết kế công nghệ không được đảm bảo. Điều này làm cho

các khoản đầu tư vào nghiên cứu để đổi mới công nghệ bị giảm đi và kết quả

sẽ có ít công nghệ được chuyển giao hơn. Thực tế ở các nước đang phát triển,

cụ thể như ở Việt Nam, cho thấy rằng: Khi bản quyền không được bảo vệ,

người ta chỉ đầu tư cho những công nghệ đòi hỏi ít vốn, thu hồi nhanh, ít rủi

ro. Chính điều này làm cho công nghệ mới thường là sự cải tiến không đáng

kể của những công nghệ đã biết và hiệu quả kinh tế cũng như các tác động,

tiến bộ kỹ thuật – công nghệ của chúng thường cũng không tăng lên đáng kể.

- Chính sách, chủ trương và các quy định cụ thể của Nhà nước có liên

quan tới việc chuyển giao công nghệ nói chung cũng như từng hình thức

chuyển giao công nghệ cụ thể mà thông thoáng, thuận lợi cho việc chuyển -19-

giao công nghệ thì quá trình này có thể được triển khai, thực hiện một cách dễ

dàng. Ngược lại, nếu các chính sách, quy định này mà thiếu nhất quán, không

thuận lợi, thiếu đồng bộ, không được triển khai kịp thời thì hoạt động chuyển

giao công nghệ cũng sẽ gặp trắc trở, triển khai chậm và kém hiệu quả. Điều

kiện được các nhà đầu tư đánh giá cao nhất trong môi trường pháp lý chính là

sự đồng bộ và nhất quán trong chính sách cũng như giữa các chính sách với

việc triển khai chúng trong thực tế.

- Trình độ văn hóa chung, trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng, kỹ

xảo của đội ngũ cán bộ, công nhân viên càng cao thì việc chuyển giao và tiếp

nhận công nghệ mới cũng càng thuận lợi có hiệu quả.

1.1.4. Tác động của hoạt động chuyển giao công nghệ

Cũng giống như mọi hoạt động khác, hoạt động chuyển giao công nghệ

cũng có tác dụng hai mặt là tích cực và rủi ro cho các bên liên quan. Các bên

liên quan tới hoạt động này bao gồm bên cung cấp công nghệ (gồm đối tác

cung cấp và nước có đối tác cung cấp công nghệ), bên tiếp nhận công nghệ

(gồm đối tác nhận và nước có đối tác nhận công nghệ).

1.1.4.1. Đối với bên cung cấp công nghệ

* Với đối tác cung cấp công nghệ

Chuyển giao công nghệ giữa hai công ty không phải là chuyển giao

một chiều, mà là sự vận động ở cả hai chiều. Nhà cung cấp cũng đưa ra sản

phẩm ra thị trường như bất kỳ những thương gia nào, nhưng chỉ có điều sản

phẩm của họ ở đây là công nghệ. Chính đặc thù này tạo cho họ một số thuận

lợi và khó khăn nhất định.

- Tác động tích cực: Tác động này thể hiện ở chỗ bên cung cấp công

nghệ có cơ hội để cải tiến và thích ứng công nghệ với môi trường hoạt động

mới; tăng thêm lợi nhuận mà không cần sản xuất do việc bán công nghệ, bán

các loại nguyên vật liệu đi kèm; tiếp cận nhanh chóng các thị trường mới mà

nước ngoài bảo hộ; cho phép tiết kiệm chi phí sản xuất nhờ tiếp cận và khai

thác các nguồn lực sẵn có tại địa phương như nguồn lao động rẻ và lành nghề,

nguồn tài nguyên thiên nhiên; xâm nhập lẫn nhau về công nghệ; tạo uy tín với

-20-

khách hàng, nâng cao hình ảnh của công ty trên thị trường…

Trong trường hợp công nghệ được chuyển giao từ các nước phát triển

sang các nước đang phát triển thì thực tế cho thấy năng lực đàm phán của các

nước đang phát triển trong lĩnh vực này thấp hơn so với các nước phát triển.

Bởi vậy, bên cung cấp công nghệ thường gặp những tình huống đàm phán

tương đối dễ dàng.

Trong một số trường hợp, song song với việc chuyển giao công nghệ,

bên cung cấp công nghệ có thể bán vật liệu, thiết bị và các phần cứng cho bên

tiếp nhận công nghệ. Ngoài ra, bên nhận có thể cần đến các dịch vụ liên quan

đến việc chuyển giao và vì vậy họ yêu cầu bên giao cung cấp các dịch vụ cho

nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến việc chuyển giao công nghệ. Tuy

nhiên, cũng có trường hợp, bên chuyển giao công nghệ không chú ý đến lợi

ích không dự tính trước, những đề án đa dạng hóa sản phẩm, thực hiện các

hoạt động kinh doanh…

- Tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực trên đây, hoạt

động chuyển giao công nghệ cũng gây ra những bất lợi cho bên chuyển giao

công nghệ. Đó là tăng thêm tình trạng cạnh tranh, đặc biệt trong trường hợp

đối thủ cạnh tranh của bên cung cấp công nghệ lại mua lại công ty của bên

nhận công nghệ; gây tình trạnh cách ly với khách hàng trong trường hợp

người tiếp nhận sở tại làm chủ thị trường sản phẩm thì người cung cấp công

nghệ nước ngoài sẽ giảm mức độ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng; làm mất

những nhân viên có kinh nghiệm và rủi ro khác liên quan đến hợp đồng như

không được trả tiền, chậm trễ trong sản xuất, bị tiết lộ bí mật, ngừng trả tiền

sau khi hết hạn hợp đồng…

* Với nước có đối tác cung cấp công nghệ

Những tác động tích cực đối với các nước này là tạo điều kiện giảm

nguy cơ nghèo đói của phía tiếp nhận. Các nước công nghiệp thừa nhận rằng

họ không thể duy trì việc giàu có của họ nếu bộ phận dân số thế giới sống

trong nghèo khổ. Tăng sức mua của bên tiếp nhận do đó làm tăng cơ hội bán

được hàng hóa.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực này, việc chuyển giao cũng

-21-

gây ra những rủi ro nhất định thể hiện ở việc mất vị trí dẫn đầu về kỹ thuật

của nước cung cấp, các vấn đề liên quan đến bảo vệ bí mật quân sự, bảo vệ

những lĩnh vực công nghệ cao như sản xuất máy bay…

1.1.4.2. Đối với bên tiếp nhận công nghệ

* Với đối tác nhận công nghệ

- Tác động tích cực: Tác động này thể hiện ở việc tiết kiệm được chi

phí cho nghiên cứu và triển khai; đạt được sự tiến bộ về thương mại và kỹ

thuật; tạo cơ hội cho việc đối thoại thường xuyên với người có kinh nghiệm

trong việc chuyển giao công nghệ; giúp bên tiếp nhận trao đổi các vấn đề

hàng ngày, có nguồn thông tin để giải quyết các vấn đề khác, được phổ biến

tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng

phát triển. Trong không ít trường hợp, bên tiếp nhận có thể đạt được những

điều khoản có lợi cho việc tiếp nhận.

công nghệ như tình trạng lệ thuộc vào bên chuyển giao, không làm chủ được

công nghệ; có thể gặp phải những thất bại về kỹ thuật và thương mại; định giá

công nghệ sai thực tế và thường là cao hơn giá trị thực của công nghệ; các điều

khoản của hợp đồng có nhiều sơ hở,… Đây là những rủi ro trong trường hợp

thiếu sót của công nghệ nước ngoài hay là những đánh giá sai về thị trường cũng

như do thị trường thay đổi. Bên cạnh đó còn có những vấn đề liên quan đến bản

thân bên chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn như chậm trễ về chuyển giao công

nghệ liên quan đến số lần công nghệ được chuyển giao và mức độ thành công

của các lần chuyển giao.

- Tác động tiêu cực: Những rủi ro có thể xảy ra đối với bên tiếp nhận

Những tác động tích cực thể hiện ở việc tạo ra được nhiều công ăn việc

làm cho người lao động; tăng thu nhập ngoại tệ; sử dụng nguyên liệu địa

phương; tăng cường các hoạt động sản xuất thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh

xuất khẩu.

* Với nước có đối tác nhận công nghệ

Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, hoạt động chuyển giao công

nghệ thường gây ra những rủi ro cho nước tiếp nhận, như tiếp nhận công nghệ

gây ô nhiễm môi trường, công nghệ đòi hỏi nhiều vốn, đòi hỏi trang bị và

nguyên vật liệu nước ngoài và tiêu thụ nhiều năng lượng; nhập khẩu trùng lặp

và không tránh khỏi các điều khoản bất lợi cho việc tiếp nhận công nghệ.

-22-

1.1.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ

Đánh giá công nghệ là một trong những hoạt động quan trọng được mọi

quốc gia, doanh nghiệp, đặc biệt là các bên nhận, có nhu cầu nhập công nghệ rất

quan tâm. Hoạt động này được tiến hành trong mọi giai đoạn từ khi công nghệ

xuất hiện, được giới thiệu, khi lập kế hoạch hoặc chiến lược phát triển công nghệ

(đánh giá tại thời điểm lựa chọn), khi tiếp nhận cũng như trong quá trính sử dụng

công nghệ (đánh giá định kỳ) cho mãi tới tận khi nó bị thay thế bằng một công

nghệ khác. Thậm chí, ngay từ khi mới xuất hiện ý tưởng về một công nghệ, mới

chuẩn bị nghiên cứu chi tiết để thiết kế ra công nghệ đó, hoặc là nhu cầu về nhập

một công nghệ đang chuẩn bị đưa ra thị trường, người ta cũng phải đánh giá sơ

bộ về chúng, từ đó xem xét có nên tiếp tục chi phí cho nó hay không.

Một hoạt động chuyển giao công nghệ thường được đánh giá trên 4 nội

dung cơ bản (mặt hoặc đặc tính của công nghệ) sau đây:

- Năng lực hoạt động của công nghệ;

- Trình độ kỹ thuật và công nghệ;

- Hiệu quả của công nghệ;

- Tác động môi trường và các ảnh hưởng kinh tế – xã hội khác.

Bốn nội dung này có liên quan mật thiết với nhau, tác động tới nhau

một cách tổng hợp. Chính vì vậy, bên cạnh việc đánh giá những nội dung trên

một cách riêng rẽ, người ta cũng phải đánh mối quan hệ qua lại giữa các nội

dung trên và tác động tổng hợp của chúng đối với công nghệ được xem xét,

đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc của ngành.

Tương ứng với các nội dung đánh giá hoạt động chuyển giao công

nghệ, các chỉ tiêu đánh giá có thể tập hợp thành 3 nhóm sau đây:

1.1.5.1. Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động của công nghệ

Chỉ tiêu năng lực hoạt động của công nghệ phản ánh khả năng hoạt

động của công nghệ, là một thông số kỹ thuật (và kinh tế) của công nghệ bao

gồm các chỉ tiêu cụ thể như:

- Công suất;

- Thời gian hoạt động ổn định hoặc có khả năng hoạt động ổn định, có

hiệu quả của công nghệ;

- Chế độ bảo trì, bảo dưỡng;

- Các chỉ tiêu về điều kiện hoạt động của công nghệ (giới hạn về nhiệt

-23-

độ, độ ẩm, yêu cầu về môi trường làm việc…)

- Quy mô và phạm vi hoạt động của công nghệ, trong đó quy mô và

phạm vi hoạt động về mặt không gian đóng vai trò rất quan trọng;

- Quy mô và đặc tính của những đối tượng lao động (nguyên vật liệu)

được gia công, chế biến bằng công nghệ xem xét;

- Các chỉ tiêu về khoảng dao động của các chỉ số quy định năng lực

làm việc của công nghệ (khoảng dao động của các thông số kỹ thuật).

Trong chuyển giao công nghệ, các chỉ tiêu, thông số này được mô tả,

thông báo cùng với các mô tả khác về công nghệ đó (dưới dạng các mô tả

bằng hình vẽ hoặc mô tả bằng lời). Nếu công nghệ nói trên được doanh

nghiệp sử dụng tự nghiên cứu, thiết kế thì chúng cũng phải được các cán bộ

nghiên cứu xác định cùng với các thông số, các mô tả khác về công nghệ đó.

Những chỉ tiêu này tạo thành những thông số cơ bản và không thể thiếu trong

các hồ sơ về bất kỳ công nghệ nào.

1.1.5.2. Các chỉ tiêu về hiệu quả của công nghệ

Các chỉ tiêu này thường được coi (một cách không chính xác) là các chỉ

tiêu đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ về mặt kinh tế bao gồm:

- Tỷ suất vốn đầu tư trên một đơn vị công suất do công nghệ tạo ra;

- Lãi suất, tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn đầu tư cho việc tiếp nhận và

sử dụng, khai thác công nghệ;

- Mức (hoặc tỷ lệ) hạ giá thành của sản phẩm nhờ việc áp dụng công

nghệ. Chỉ tiêu này thường được sử dụng trên cơ sở các chỉ tiêu tương ứng của

những công nghệ được coi là “cơ sở ” đang được sử dụng hoặc đang là thông

dụng. Trong nhiều trường hợp, người ta cũng sử dụng những chỉ tiêu tương

ứng của các công nghệ được coi là “chuẩn” (hoặc là công nghệ được coi là

nền tảng của những công nghệ cụ thể cùng thuộc một “dòng” công nghệ).

- Hệ số huy động công suất đảm bảo hòa vốn. Đây là chỉ tiêu rất cần

được xem xét bởi trong nhiều trường hợp, công suất của một dây chuyền

công nghệ không được khai thác một cách tối đa. Với chỉ tiêu này và những

dự báo về sự biến động nhu cầu và quy mô thị trường, người khai thác, sử

dụng công nghệ có căn cứ quan trọng để ra quyết định xem có nên sử dụng nó

-24-

hay không và nếu sử dụng nó thì mức độ rủi ro cao hay thấp.

- Mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng trong quá trình sử dụng công nghệ

để sản xuất một sản phẩm. Bởi một công nghệ có thể được sử dụng để sản xuất

nhiều sản phẩm cụ thể khác nhau, hoặc tính với một sản phẩm “quy chuẩn”.

- Tỷ lệ tổn thất, thất thoát (hoặc tỷ lệ tận dụng) nguyên vật liệu, nhiên

liệu, năng lượng trong một quá trình sản xuất (tương quan giữa lượng nguyên

vật liệu bị tổn thất hoặc thất thoát, không được chuyển hóa vào sản phẩm).

Một chỉ tiêu tương đương là hệ số tận dụng nguyên vật liệu, tính theo lượng

nguyên vật liệu có ích có trong sản phẩm hoàn chỉnh với tổng số nguyên vật

liệu được đưa vào sản xuất.

1.1.5.3. Các chỉ tiêu về tác động môi trường và các ảnh hưởng kinh tế-xã

hội khác

Các tác động này thường được liệt kê và phân tích có tính định tính,

sau đó, chúng tiếp tục được lượng hóa thông qua những chỉ tiêu đặc trưng cho

từng tác động. Những tiêu thức, chỉ tiêu được sử dụng có thể là:

- Các yếu tố môi trường bị tác động bởi việc ứng dụng công nghệ và

hình thức tác động của công nghệ tới môi trường. Người ta cũng xác định cả

những tác động gián tiếp mà việc ứng dụng công nghệ tạo ra cho môi trường

hoặc cho một yếu tố cấu thành môi trường thông qua các yếu tố cấu thành

môi trường khác, vì các yếu tố môi trường thường luôn tác động qua lại lẫn

nhau.

- Quy mô của môi trường (số lượng người hoặc sinh vật khác, diện tích

đất đai, độ dày của khí quyển và lòng đất…) chịu ảnh hưởng bất lợi hoặc

được lợi về mặt môi trường trong quá trình sử dụng công nghệ.

- Lượng chất thải độc hại thải ra môi trường trong quá trình sử dụng

công nghệ. Chỉ tiêu này được phân tích qua các thông số tuyệt đối hoặc tương

đối. Người ta cũng sử dụng các chỉ tiêu bổ sung như mức tăng (hoặc giảm)

- Mức độ và hình thức mà môi trường bị tác động (có lợi hoặc bất lợi) bởi

việc sử dụng công nghệ. Để đo mức độ tác động tới môi trường, người ta có thể

tính toán các chỉ số phản ánh sự biến đổi các chỉ số môi trường dưới dạng tác

động của việc ứng dụng công nghệ. Ví dụ, khi đầu tư một dây chuyền sản xuất hóa học, người ta có thể đo lượng lưu huỳnh trong 1m3 không khí trước và sau

khi đưa công nghệ vào sản xuất. Trên cơ sở đó, có thể tính xem sau khi đưa công

-25-

lượng chất thải độc hại đối với môi trường…

nhiêu phần trăm, vượt mức giới hạn cho phép là bao nhiêu phần trăm.

- Chi phí cho việc khắc phục hậu quả của các tác động bất lợi tới môi

trường hoặc tới các yếu tố cấu thành chúng. Thông thường, cần phải tính toán

một cách đầy đủ các chi phí cho các biện pháp khắc phục cả tác động bất lợi do

công nghệ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra, nhưng trên thực tế, người ta chỉ tính

toán chi phí khắc phục những tác động trực tiếp của công nghệ tới môi trường.

nghệ mới vào sản xuất, hàm lượng lưu huỳnh trên 1m3 không khí tăng lên bao

Sau ngày Ấn Độ giành được độc lập, các cơ sở nghiên cứu phục vụ công

nghiệp còn rất nghèo nàn, Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp

(CSIR) đã được thành lập năm 1942 với vài ba phòng thí nghiệm, vì vậy việc ưu

tiên hàng đầu từ năm 1947 đến cuối năm 1960 là xây dựng cơ sở hạ tầng, bao

gồm đội ngũ cán bộ và hệ thống rộng lớn các viện, phòng thí nghiệm quốc gia.

Đối với một nước khoảng 1 tỷ dân với 80% dân số sống ở vùng nông thôn và

các vùng hẻo lánh như Ấn Độ thì ưu tiên số một của khoa học và công nghệ là

phục vụ phát triển nông nghiệp, trước tiên là phục vụ mục tiêu tự túc về lương

thực, thể hiện rõ qua cuộc “cách mạng xanh” tiến hành từ năm 1965. Đây là

thành công điển hình của khoa học và công nghệ Ấn Độ kể cả dưới góc độ

chuyển giao công nghệ (dọc và ngang), đưa khoa học vào sản xuất vào đời sống.

Việc này đã làm cho sản xuất lương thực của Ấn Độ tăng từ 55 triệu tấn (năm

1951) lên 167 triệu tấn (năm 1988), nghĩa là gấp 3 lần trong 37 năm. Đó là kết

quả tổng hợp của hàng loạt các biện pháp như đầu tư vào công nghệ sinh học,

thủy lợi, điện khí hóa nông thôn, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, giao thông, cơ

giới hóa nông nghiệp, cho vay tín dụng…Hiện nay Ấn Độ đang tiến hành giai

đoạn 2 của cuộc “Cách mạng xanh” còn gọi là cuộc “Cách mạng công nghệ sinh

học”, ứng dụng của nó rất lớn, ví dụ như trong công nghiệp là cải tiến sản xuất

thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu sinh học, các axit hứu cơ; làm giàu quặng bằng

phương pháp sinh học; xử lý chất thải; sản xuất hóocmôn…

1.2. Chuyển giao công nghệ của một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 1.2.1. Chuyển giao công nghệ của một số nƣớc trên thế giới 1.2.1.1. Ấn Độ

* Các chính sách công nghiệp ảnh hƣởng tới chuyển giao công nghệ

Năm 1948, Chính phủ Ấn Độ có nghị quyết về đầu tiên về chính sách

công nghiệp. Nghị quyết này đã chú ý hướng tới sự phát triển mạnh về công

-26-

nghiệp nặng. Trong khi công nhận đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng

trong sự nghiệp công nghiệp hóa thì nghị quyết cũng đồng thời chỉ rõ công

nghệ nhập phải được quản lý chặt chẽ, không nhập các công nghệ mà trong

nước có khả năng làm được.

Chính sách công nghiệp lần thứ hai (năm 1956), xác định một số ngành

công nghiệp nòng cốt mà Nhà nước trực tiếp đảm nhiệm, các chương trình

chủ yếu thiết lập những ngành công nghiệp quốc doanh thông qua việc nhập

khẩu có chọn lọc các công nghệ từ các nước công nghiệp hóa.

Năm 1970, khoa học công nghệ trong nước đã đạt tới trình độ có thể đóng

góp rất căn bản cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Luật sáng chế

của Ấn Độ được ban hành nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước.

Năm 1973, đầu tư nước ngoài đạt 40% tổng số đầu tư trong cả nước. Năm

1976, Qũy phát triển kỹ thuật được thành lập. Các vùng chế xuất (Exported

Production Zone - EPZ) được thiết lập nhằm khuyến khích đưa công nghệ cao

từ bên ngoài vào trong nước.

Chính sách công nghiệp năm 1980 nhấn mạnh sự cần thiết tăng tính cạnh

tranh ở thị trường trong nước, tăng cường và hiện đại hóa công nghệ đã đặt

nền móng cho việc tăng xuất khẩu và tăng đầu tư nước ngoài ở những khu

công nghệ cao.

Chính sách công nghiệp năm 1991 đã cho phép tỷ lệ vốn đầu tư nước

ngoài lên tơí 51% trong một số ngành công nghiệp ưu tiên cao, cho phép tự

động ký các hiệp định công nghệ nhập ngoại trong các ngành công nghệ ưu

tiên cao như: sắt, thép, máy phát và các thiết bị điện, máy nông nghiệp và hóa

chất,…với khoản tiền trả cả gói tới 10 triệu Rupi, 5% tiền bản quyền cho sản

phẩm nội địa, 8% cho xuất khẩu với tổng số tiền phải trả là 8% lượng hàng

bán ra trong thời gian trên 10 năm kể từ ngày ký hiệp định, hay 7 năm kể từ

khi bắt đầu sản xuất. Hình thức chuyển giao công nghệ là mua bán lixăng, lập

Từ năm 1991, Chính phủ Ấn Độ cải cách kinh tế trong nước theo các

hướng:

liên doanh hoặc các xí nghiệp có 100% sản phẩm để xuất khẩu.

- Về cơ cấu kinh tế tiếp tục củng cố vai trò của nhà nước trong các

ngành kinh tế then chốt, Chính phủ đẩy mạnh khuyến khích tự do kinh doanh,

-27-

cho phép mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân vào một số ngành trước

đây chỉ do Nhà nước quản lý, tư nhân hóa các cơ sở sản xuất thua lỗ hoặc các

ngành sản xuất dựa trên công nghệ trình độ thấp.

- Chấm dứt chế độ kiểm soát kinh doanh bằng cách xóa chế độ cấp

giấy phép (trừ một số lĩnh vực cụ thể liên quan đến các ngành an ninh và có

tầm quan trọng chiến lược), thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các ngành và

các đơn vị kinh tế.

- Về tài chính, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài chính khắc

khổ, cố gắng giảm thâm hụt ngân sách, giảm trợ cấp (lương thực, đường,

phân bón), giảm chi phí của Chính phủ và chi phí quốc phòng, tăng thuế các

mặt hàng xa xỉ và thuế thu nhập của các công ty lớn, huy động thêm nguồn

tiền trong nước để thúc đẩy và mở rộng sản xuất.

* Các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ

của Chính phủ Ấn Độ trong thời gian gần đây:

- Mở cửa ngành công nghiệp Ấn Độ cho đầu tư nước ngoài và chấp

nhận cạnh tranh. Theo chính sách công nghiệp mới, cổ phần của nước ngoài

được phép tăng từ 40% lên 50% trong các ngành ưu tiên, bao gồm 31 khu vực

khác nhau và các công ty có số cổ phần nước ngoài dưới 51% không cần xin

giấy phép của Chính phủ. Chính phủ bảo đảm quyền tự chủ thông qua các

hiệp định, hợp đồng chuyển giao công nghệ với nước ngoài trong các lĩnh

vực: công nghiệp luyện kim, thiết bị điện, giao thông, đóng tàu, đường sắt,

chế tạo máy, công nghiệp hóa chất và phân bón, công nghệ phần mềm, máy vi

tính.

- Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa kinh tế thông qua xóa bỏ một loạt thủ tục

cấp giấy phép và kiểm soát, mở rộng và tự do hóa hệ thống cấp giấy phép bổ

sung nhằm thúc đẩy xuất khẩu, xóa bỏ chế độ trợ cấp xuất khấu nhằm khuyến

khích cải tiến chất lượng, giảm giá thành để tăng cường xuất khẩu.

- Điều chỉnh lại cơ cấu xuất nhập: trước đây chính sách xuất khẩu chỉ

khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu hàng chế tạo vì có giá trị gia tăng cao, trợ

cấp xuất khẩu cũng dành cho ngành này vì có đầu vào nhập khẩu cao, không

khuyến khích xuất hàng tiêu dùng hoặc hàng sơ chế. Chính sách thương mại

mới khuyến khích cả việc xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng như: thuốc lá,

-28-

chè, cà phê, đay, bông,…Theo đó, khuyến khích tối đa cho các mặt hàng xuất

khẩu có đầu vào nhập khẩu thấp, quy định những mặt hàng nhập khẩu phải

- Về tài chính, Chính phủ cố gắng cải thiện cán cân thanh toán và hạn chế

thâm hụt thương mại, tranh thủ các nguồn viện trợ nước ngoài quan trọng như

của IMF, WB, ADB, huy động nguồn ngoại tệ của Ấn kiều và thậm chí kể cả

tiền “đen” (không có nguồn gốc hợp pháp). Để khuyến khích các nhà đầu tư, Ấn

Độ tuyên bố nới lỏng luật kiểm soát ngoại hối (FERA) cho phép các nhà đầu tư

nước ngoài được chuyển vốn ngoại tệ, lợi nhuận, tiền thưởng ra khỏi Ấn Độ.

- Về khoa học và công nghệ, Ấn Độ tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ từ bên

ngoài để thực hiện các dự án nhằm hiện đại hóa kỹ thuật trong một số lĩnh vực

và các chương trình hợp tác khoa học và công nghệ chung với trên 40 nước trên

thế giới. Ấn Độ nhận được hàng năm khoảng 60 tỷ rupi viện trợ nước ngoài

(trong đó 18% không hoàn lại, 82% vay). Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ấn Độ tăng

cường hợp tác và cử cán bộ khoa học sang Mỹ, Cộng đồng Châu Âu, Đức và các

nước phát triển khác học tập, trao đổi. Ấn Độ đẩy mạnh việc xuất khẩu công

nghệ ra nước ngoài: chú trọng việc mở rộng các lĩnh vực hợp tác trong khu vực

công nghệ cao. Ấn Độ coi trọng phát triển hợp tác Nam – Nam; tranh thủ sự

giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và mở rộng các hình thức hợp tác hai bên và

nhiều bên cùng có lợi trên mọi cấp: Nhà nước trung ương, Bang, Bộ ngành và cơ

sở trực tiếp.

- Về nhập khẩu công nghệ qua nghiên cứu và phát triển, Chính phủ Ấn

Độ yêu cầu các nhà nhập khẩu công nghệ phải qua nghiên cứu và phát triển để

thích nghi, thử nghiệm và nghiên cứu phát triển cho phù hợp với Ấn Độ. Chi phí

cho bản quyền công nghệ nhập khẩu ở Ấn Độ mức chung là 8% tiền bán hàng

trong 10 năm từ khi ký hợp đồng hoặc 7 năm từ khi được đưa vào sử dụng (kinh

nghiệm các nước khác chi phí nhập khẩu công nghệ chiếm 2% đến 4% lợi nhuận

toàn bộ). Các nhà công nghiệp Ấn Độ có yêu cầu nhập khẩu công nghệ qua

nghiên cứu phát triển phải trả 20 triệu rupi (tương đương 650.000 USD) để cho

các cơ quan nghiên cứu và phát triển tiếp nhận, thích nghi, thử nghiệm và chi phí

các hoạt động của nghiên cưú và phát triển. Việc nhập khẩu được miễn thuế đối

gắn với xuất khẩu.

với các bản thiết kế, bản vẽ và hiện nay kể cả các tư liệu sản xuất có liên quan. 1.2.1.2. Trung Quốc

-29-

Bản dự thảo kế hoạch 5 năm lần thứ IX về phát triển kế hoạch kinh tế –

xã hội và những mục tiêu dài hạn cho đến năm 2010 được kỳ họp thứ 4 Quốc

hội khóa VIII (năm 1980) của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua

đã vạch ra đường lối phát triển có tính chiến lược của Trung Quốc. Nền khoa

học và công nghệ của Trung Quốc sẽ có nhiệm vụ trước mắt rất nặng nề trong

việc góp phần đưa đất nước đạt được những mục tiêu chủ yếu này. Đạt được

những thành công như hiện nay, Trung Quốc đã phải ban hành tổng thể kế

hoạch khoa học và công nghệ.

Cuối những năm 1980, Trung Quốc bắt đầu một thời kỳ mới, dựa vào

khoa học và công nghệ để thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng tính cạnh tranh

trên thị trường quốc tế. Trong thời kỳ đầu, Trung Quốc gặp phải những vướng

mắc: làm thế nào để theo kịp sự thay đổi của công nghệ mới và tiến hành thực

hiện công nghệ nào?. Trả lời câu hỏi này, Trung Quốc đã tiến hành các

chương trình nhìn trước về công nghệ nhằm đưa ra các quyết định cho chính

sách phát triển khoa học và công nghệ cấp quốc gia. Cụ thể như: Chương

trình nghiên cứu chính sách công nghệ quốc gia (tháng 1 năm 1983), Chương

trình nghiên cứu và phát triển công nghệ cao (năm 1986), Chương trình ưu

tiên nghiên cứu cơ bản quốc gia(năm 1990), Đề cương phát triển khoa học và

công nghệ quốc gia trung và dài hạn (tháng 3 năm 1992), Chương trình lựa

chọn dự án công nghệ then chốt quốc gia (năm 1994),…

Các chương trình này đóng vai trò tư vấn quan trọng trong việc ra

quyết sách khoa học và công nghệ ở tầm quốc gia, góp phần quan trọng trong

việc lựa chọn chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Từ đó thúc đẩy

các hoạt động chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao năng lực công nghệ

quốc gia. Trong các chương trình trên thì chương trình “Chuyển giao công

nghệ cho địa bàn nông nghiệp, nông thôn” được coi như là một thành công

lớn, góp phần giải quyết vấn đề an ninh lương thực, nâng cao nhận thức và

cách thức quản lý sản xuất cho nông dân, hiện đại hóa khu vực nông thôn.

Qua việc thực hiện một số chương trình ứng dụng khoa học và công

nghệ vào địa bàn nông thôn như: chương trình “đốm lửa”, chương trình “xóa

đói giảm nghèo bằng khoa học và công nghệ”, chương trình “xây dựng các

-30-

khu trình diễn ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp” cho thấy, Trung

Quốc rất coi trọng mặt trận nông nghiệp, nông thôn và nhấn mạnh chủ trương

đưa khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Cụ

thể hóa chủ trương này, Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã đề xuất

và chỉ đạo thực hiện một số chương trình trọng điểm về ứng dụng khoa học

và công nghệ vào địa bàn nông thôn, miền núi. Mục đích để hướng tới là:

- Xây dựng mô hình trình diễn (các điểm sáng) về ứng dụng khoa học

và công nghệ tại một số địa bàn thí điểm để tạo hình mẫu phổ biến, nhân rộng

cho các vùng nông thôn khác học theo.

- Nâng cao năng lực tiếp thu khoa học và công nghệ cho địa bàn nông

thôn với sự hỗ trợ, chi viện của các cơ quan khoa học và công nghệ, các

trường đại học của Trung ương và các thành phố lớn nhằm từng bước thu hẹp

Ứng dụng mỗi loại chương trình này, Trung Quốc có những cơ chế hỗ trợ

và phương thức chỉ đạo khác nhau. Điều này đã giúp cho việc nâng cao hiệu quả

ứng dụng các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và tăng cường tiếp thu khoa học và

công nghệ của các địa bàn nông thôn với các trình độ phát triển khác nhau.

khoảng cách về công nghệ giữa thành thị và nông thôn.

Trong tổ chức, chỉ đạo, Trung Quốc đã tiến hành khá thận trọng, kiên

trì, vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm trước khi phổ biến nhân rộng.

Trung Quốc giải quyết tương đối thành công trong phân cấp, phân công và

phối hợp chỉ đạo thực hiện các chương trình ứng dụng khoa học và công nghệ

vào địa bàn nông thôn. Đây chính là kinh nnghiệm cho các chương trình

Trước hết, về phân cấp, trong chỉ đạo thực hiện chương trình “đốm lửa”

và chương trình “xóa đói giảm nghèo bằng khoa học và công nghệ”, Trung Quốc

đều chia thành 3 cấp (trung ương, tỉnh, huyện). Chẳng hạn, đối với chương trình

“đốm lửa”, Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ xem xét hỗ trợ những dự án vượt quá

khả năng giải quyết của một tỉnh. Cũng tương tự như vậy, Sở khoa học và công

nghệ chỉ xem xét hỗ trợ những dự án vượt quá khả năng của cấp huyện. Với

cách làm này vừa tạo điều kiện để cấp Trung ương tập trung nguồn lực và sự chỉ

đạo đối với những dự án phức tạp, có ý nghĩa quan trọng liên tỉnh, đồng thời

nâng cao trách nhiệm và quyền chủ động, sáng tạo của cấp tỉnh, cấp huyện.

khác.

Hai là, về phân công giữa các cơ quan quản lý của Nhà nước cùng cấp.

-31-

Tuy các dự án trình diễn ứng dụng khoa học và công nghệ do hệ thống quản

lý khoa học và công nghệ trực tiếp chỉ đạo, nhưng Trung Quốc vẫn xác định

chính quyền địa phương phải là người chịu trách nhiệm trước trung ương; và

các cơ quan quản lý chức năng của chính quyền địa phương (kế hoạch, tài

chính, ngân hàng,…) đều có trách nhiệm liên đới hỗ trợ đảm bảo việc thực

Chính nhờ việc quy định rõ ràng trên mà việc huy động các nguồn lực

thuộc ngân sách địa phương và vốn tín dụng ngân hàng tương đối thuận lợi.

Tương tự như vậy, việc gắn kết các dự án trình diễn ứng dụng khoa học và công

nghệ với các dự án kinh tế – xã hội đã được lồng ghép ngay từ đầu và việc triển

khai nhân rộng các mô hình trình diễn ở giai đoạn sau cũng thuận lợi hơn.

Ba là, việc phối hợp chỉ đạo giữa Trung ương và địa phương cũng được

thể chế hóa tương đối rõ ràng. Chẳng hạn, chương trình “xóa đói giảm nghèo

bằng khoa học và công nghệ ”, đã quy định: tổ trưởng tổ chỉ đạo của Bộ Khoa

học và Công nghệ, và chuyên gia công nghệ chính được cử xuống biệt phái tại

địa phương chính thức tham gia trong cơ cấu lãnh đạo của chính quyền địa

phương (thường giữ chức phó) để có đủ quyền lực điều phối cả nguồn lực trung

ương và địa phương cho việc thực hiện các dự án do trung ương trực tiếp hỗ trợ.

Đồng thời, cũng xác định rõ chế độ trách nhiệm của các bên tham gia chỉ đạo.

hiện các dự án này tại địa phương.

- Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn diện về sự thành, bại

của các dự án được triển khai tại địa bàn.

- Tổ trưởng tổ chỉ đạo do Bộ Khoa học và công nghệ cử xuống địa bàn

chịu trách nhiệm về chất lượng và hiệu quả của các dự án được duyệt, về chất

lượng của các cơ quan khoa học và chuyên gia công nghệ được chọn để chủ

trì các dự án.

- Các cơ quan khoa học và các chuyên gia công nghệ chịu trách nhiệm

giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ nảy sinh trong quá trình triển

khai dự án, kể cả khâu nhân rộng sau này.

Bốn là, coi trọng nguyên tắc “cạnh tranh” trong việc tiếp nhận các

Điều này cũng áp dụng ngay cả đối với các chương trình “xóa đói giảm

nghèo bằng khoa học và công nghệ”. Mặc dù Bộ khoa học và công nghệ đã chọn

một số huyện khó khăn làm địa bàn thí điểm, nhưng khi xét chọn các dự án cụ

thể, Bộ chỉ xem xét và tài trợ những dự án có chất lượng tốt, có luận cứ đầy đủ

-32-

nguồn tài trợ của trung ương với các địa phương.

đã đặt các địa phương, các cơ quan hỗ trợ khoa học và công nghệ phải chú ý

ngay từ đầu tới việc xây dựng, thẩm định chất lượng của các dự án ứng dụng

khoa học và công nghệ trước khi trình lên bộ khoa học và công nghệ.

theo tôn chỉ của chương trình, chứ không hỗ trợ theo kiểu “bình quân”. Điều này

Năm là, đối với các hộ nông dân tham gia dự án quyền lợi được hưởng

là được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, được hướng dẫn kỹ thuật miễn

phí. Nhưng khi họ muốn tham gia dự án đều phải ký hợp đồng cam kết trách

nhiệm và được vay vốn tín dụng ưu đãi với chế độ trả dần để mua các vật tư

kỹ thuật (cây, con giống, phân bón,…) chứ Nhà nước không bao cấp hoàn

toàn. Đây cũng là một cơ chế để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các hộ

nông dân và tạo thuận lợi cho khâu “nhân rộng” ở giai đoạn sau.

Sáu là, về mặt tổ chức chỉ đạo, tương xứng với chủ trương coi trọng

việc chuyển giao công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn

nông thôn và ý thức được những khó khăn, thách thức của nhiệm vụ quan

trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài này; cùng với việc khởi xướng chương

trình “đốm lửa”, chương trình “xóa đói giảm nghèo bằng khoa học và công

nghệ”, Bộ khoa học và công nghệ Trung Quốc đã từng bước hình thành được

một hệ thống tổ chức từ trung ương tới địa phương để chỉ đạo các chương

trình này như: văn phòng chương trình đốm lửa, trung tâm phát triển công

nghệ nông thôn, công ty đốm lửa, tổ chỉ đạo chương trình xóa đói giảm nghèo

bằng khoa học và công nghệ do một Thứ trưởng trực tiếp phụ trách,… Cũng

tương tự như vậy, ở cấp tỉnh và huyện, tuy tên gọi có khác nhau, nhưng cũng

Hàng năm, Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đều tổ chức các hội

nghị tổng kết và tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ của các Sở khoa học và công

nghệ các tỉnh về quản lý các dự án trình diễn ứng dụng khoa học và công nghệ

tại địa bàn nông thôn. Ngoài ra, Bộ đã chỉ đạo xây dựng một mạng lưới các

trung tâm bồi dưỡng về quản lý dự án và công nghệ đốm lửa tại các vùng khác

nhau trên toàn đất nước Trung Quốc (cuối năm 2000, đã có 40 trung tâm thuộc

Trung ương và gần 5.000 cơ sở do các tỉnh tự lập ra, trong 15 năm đã bồi dưỡng

có các tổ chức chuyên trách với chức năng tương tự như ở trung ương.

được gần 60 triệu người về công nghệ đốm lửa và quản lý các dự án đốm lửa). 1.2.1.3. Malaixia

-33-

Sau 20 năm (1971 - 1990) thực hiện chính sách kinh tế mới đến nay,

Malaixia đã đạt được những thành tựu đáng kể. Năm 1991, Malaixia bắt đầu

một chương trình phát triển toàn diện đất nước 30 năm (1991- 2020) gọi là

“Tầm nhìn Malaixia 2020” với mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát

triển. Bình quân GDP/người năm 1995 đạt 4.022 USD, dự kiến sẽ đạt 7.800

USD vào năm 2020, tăng gấp 3,5 lần so với năm 1990. Cuộc khủng hoảng tài

chính trong khu vực đã tác động mạnh đến nền kinh tế, tuy nhiên Malaixia đã

không chấp nhận các điều kiện cho vay của Qũy Tiền tệ quốc tế (IMF) mà

quyết tâm tự lực vươn lên để thoát khỏi khủng hoảng. Gần đây Malaixia đang

chuyển mạnh sang hướng hợp tác kinh tế với cộng đồng Châu Âu.

Malaixia là một nước có nền kinh tế hỗn hợp, do đó vai trò định hướng

của Chính phủ là rất quan trọng. Về chiến lược và kế hoạch phát triển đất

nước, Malaixia thực hiện một kế hoạch dài hạn với mục tiêu phát triển khoa

học và công nghệ quốc gia nhằm nâng cao năng suất lao động phục vụ công

nghiệp hóa đất nước.

Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Malaixia vẫn không cắt

giảm đầu tư cho khoa học và công nghệ. Điều đó thể hiện đúng những cam

kết của Chính phủ coi khoa học và công nghệ là động lực quan trọng trong

phát triển quốc gia. Malaixia đã đặt trọng tâm vào một số loại hình công nghệ

coi là chủ chốt để phát triển. Mục tiêu phát triển công nghệ của Malaixia là

học hỏi, tạo công nghệ và làm chủ công nghệ.

Ở Malaixia, quản lý khoa học và công nghệ cấp Liên bang là Bộ khoa

học, công nghệ và môi trường và cấp Bang là Sở khoa học, công nghệ và môi

trường. Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ ở các Bang khá chủ động

và tương đối độc lập riêng rẽ. Cấp Liên bang có một cơ quan chính sách khoa

học và công nghệ chỉ đạo, cùng hội đồng chính sách khoa học và công nghệ cấp

Bang thực hiện những nhiệm vụ cấp Liên bang đề ra bằng nguồn kinh phí của

Bang.

* Về tổ chức, quản lý khoa học và công nghệ

Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia của Malaixia có nhiệm vụ

hoạch định, giám sát, đánh giá chính sách khoa học và công nghệ quốc gia,

đứng đầu là phó Thủ tướng Liên bang phụ trách về khoa học và công nghệ.

-34-

Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Khoa

học, công nghệ và môi trường về hoạch định chính sách khoa học và công

nghệ, điều phối các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Hội đồng xem xét

những khuyến nghị đề ra chương trình hoạt động xây dựng kế hoạch phát

triển công nghệ trong công nghiệp. Trong hội đồng quốc gia có hai hội đồng

nhỏ:

- Hội đồng khoa học và công nghệ;

- Hội đồng theo dõi giám sát, điều phối các chương trình ưu tiên quốc

gia, thành viên gồm đại diện của Chính phủ và khối doanh nghiệp.

Chính phủ Malaixia rất coi trọng khoa học và công nghệ, trong đó

đánh giá cao vai trò của tư nhân trong quá trình phát triển quốc gia và đã thúc

đẩy mạnh mẽ các hoạt động của tư nhân. Malaixia là một nước nhập khẩu

công nghệ khá nhiều và đã tạo ra một hành lang công nghệ đa phương tiện

nhằm hỗ trợ cho phát triển công nghệ. Hành lang này cũng đã khuyến khích

sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu với sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh

nâng cao nhận thức xã hội về khoa học và công nghệ.

Ở Malaixia, Chính phủ định hướng chỉ đạo cho các cơ quan nghiên cứu

và phát triển hoạt động như một công ty. Mục đích là để cơ quan này chủ

động và thuận hơn trong hoạt động. Chính phủ có chính sách thông thoáng

tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu liên kết chặt chẽ hơn với các cơ sở

công nghiệp, các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất dịch vụ. Trong các hoạt

động hợp tác giữa các viện nghiên cứu và phát triển, trường đại học với các tổ

chức công nghiệp đều có ghi nhớ cam kết của hai bên, sự hợp tác làm tăng

Đối với các trường đại học, Chính phủ Malaixia cũng đề ra chủ trương

phải gắn những kết quả nghiên cứu với thị trường, tiến tới chủ động kinh phí cho

nghiên cứu khoa học. Chính phủ cũng có những chính sách tăng đầu tư cho

nghiên cứu và phát triển; tăng đầu tư cho mạo hiểm công nghệ; tăng khuyến

khích năng lực công nghệ địa phương; và khuyến khích liên kết giữa các trường

đại học với các khu vực sản xuất.

cường thương mại hóa những sản phẩm khoa học và công nghệ.

Tuy nhiên, ở Malaixia còn có một số vấn đề tồn tại trong nghiên cứu và

phát triển: xuất hiện nhiều cơ quan bị trùng lặp chức năng. Chẳng hạn, Bộ

Nông nghiệp có một cơ quan nghiên cứu về nông nghiệp; ngoài ra Bộ Thủy

sản, ngành công nghiệp thô, Bộ Phát triển nông thôn cũng có cơ quan nghiên -35-

cứu về nông nghiệp. Từ đó không có sự phối hợp nghiên cứu của những cơ

quan khác nhau, dẫn đến có sự trùng lặp trong nghiên cứu giữa các Bộ. Có

quá nhiều cơ quan nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực công nghiệp (do chủ

trương công nghiệp hóa của Malaixia), có nhiều kết quả nghiên cứu không

đưa ra thương mại hóa được.

* Về cơ chế cấp phát tài chính cho nghiên cứu

Về cơ chế cấp phát tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển,

Malaixia đề ra 4 cơ chế ưu tiên như sau:

- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu thuộc các lĩnh vực ưu tiên;

- Tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghiệp/ công nghệ;

- Tăng cường tài trợ cho nghiên cứu những công nghệ đa phương tiện;

- Tăng cường tài trợ cho việc nhân rộng những mô hình thành công;

Trong đó các nguồn tài trợ là từ ngân sách nhà nước và cả kinh phí của

các cơ sở công nghiệp tư nhân.

Quá trình xét duyệt các dự án, đề tài nghiên cứu: các dự án, đề tài được các viện nghiên cứu xét trước, sau đó chuyển lên bộ phận xem xét đánh giá thuộc Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. Sau đó sẽ được chuyển tới bộ phận chiến lược nhằm xem xét những nghiên cứu đó có thuộc mục tiêu chiến lược hay không. Cuối cùng là hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ quốc gia xét duyệt (phó Thủ tướng phụ trách khoa học và công nghệ của Chính phủ làm chủ tịch hội đồng).

Để nâng cao hiệu quả đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, trước đây

khi xét tài trợ cho các dự án nghiên cứu có các hội đồng để xét duyệt, đánh

giá các dự án, bao gồm các hội đồng kỹ thuật và các hội đồng chính sách.

Thành viên của hội đồng này bao gồm các nhà khoa học đầu ngành, đại diện

cho khối quản lý, khối doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp được mời vào

trong các hội đồng đánh giá dự án để đánh giá về hiệu quả kinh tế và mức độ

thương mại của các dự án. Các nhà khoa học đánh giá theo cách của họ theo

những kiến thức đã được quốc gia và quốc tế công nhận. Các nhà quản lý

đánh giá theo sự đóng góp đối với xã hội, những mặt thể chế chính sách, sự

đóng góp phát triển kinh tế. Các nhà doanh nghiệp đánh giá sự phù hợp của

-36-

các dự án đối với các doanh nghiệp, khả năng áp dụng và triển khai.

Các chương trình tài trợ khác chủ yếu hướng vào tài trợ cho phát triển

công nghiệp, với mục đích là:

- Tăng cường tạo ra những sản phẩm mới;

- Tăng cường các mối liên kết giữa công nghiệp và đại học;

- Tài trợ cho các đơn vị tăng cường mối quan hệ với quốc tế.

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có nhiệm vụ quản lý phần qũy

này. Điều kiện để các chương trình này xin tài trợ là: chứng minh được có

mối quan hệ/liên kết với đại học; thuộc các hướng ưu tiên của quốc gia; và

các kết quả nghiên cứu đó là thiết thực cho đất nước. Những đề nghị đó phải

đệ trình cho một ban thư ký của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường, rồi

trình lên Ủy ban chỉ đạo để được thông qua.

Chương trình hỗ trợ nhân rộng những mô hình thành công: Chính phủ

Malaixia dành 50 triệu RYM đầu tư cho chương trình này. Cơ quan quản lý

bao gồm Thư ký của hội đồng quốc gia về công nghệ thông tin và Ban điều

hành Công ty Vi điện tử quốc gia. Các nguồn tài chính cho nghiên cứu và phát triển: trước đây các nguồn

tài chính cho nghiên cứu và phát triển chủ yếu do Nhà nước cấp. Ngày nay,

ngoài kinh phí do Nhà nước cấp còn có các qũy khác, cơ chế cấp phát theo

chương trình gọi là Qũy tài trợ cho nghiên cứu và phát triển, phát triển công

nghệ. Năm 2000 đầu tư cho nghiên cứu phát triển xấp xỉ bằng 1% GNP, dự

kiến năm 2020 khoảng 2% GNP. Malaixia khuyến khích các nguồn tài trợ cả

từ khu vực nhà nước, tư nhân và cộng đồng các doanh nghiệp.

* Về liên kết giữa các hoạt động nghiên cứu với công nghiệp và sản

xuất

Mục tiêu của Malaixia là trở thành nước công nghiệp phát triển. Với

quan điểm: Nhà nước, khu vực tư nhân và công cộng nghiên cứu phải đi cùng

nhịp, Malaixia đã có chính sách phối hợp giữa các trường đại học, viện

nghiên cứu với công nghiệp; sản phẩm nghiên cứu từ các trường đại học và

viện nghiên cứu phải phục vụ sản xuất.

Mối liên kết giữa nghiên cứu và công nghiệp được thể hiện rõ ở các

viện nghiên cứu và các trường đại học. Một số trường đại học sử dụng các kết

quả nghiên cứu của sinh viên và các nhà khoa học một cách tích cực vào hoạt

-37-

động phát triển công nghệ. Chẳng hạn, như đại học PUTRA Malaixia. Nhiều

kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cùng với sinh viên đã được thương

mại hóa trên thị trường, các hoạt động nghiên cứu này được phối hợp chặt chẽ

với các doanh nghiệp bên ngoài. Các hoạt động này bao gồm cả lĩnh vực

nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và cơ khí chế tạo máy.

Hoạt động nghiên cứu của các viện và trường đại học vừa là nhiệm vụ

bắt buộc, vừa được Nhà nước khuyến khích để các hoạt động nghiên cứu liên

kết với công nghiệp và gắn với các hoạt động sản xuất. Sinh viên sau đại học

được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ, mỗi sinh viên được tài

trợ một khoản kinh phí 1600 RYM cho nghiên cứu khoa học nhằm thu hút họ

tham gia tích cực hơn vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Qua phân tích một số đặc điểm nổi trội trong chính sách chuyển giao

công nghệ ở một số quốc gia nêu trên, dù sự tương đồng có thể là ít, nhiều,

song đối với những nước đang phát triển, đi sau như Việt Nam, để có sự phát

triển kinh tế, đón đầu về mặt công nghệ trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và

hội nhập như ngày nay thì những bài học rút ra từ kinh nghiệm ở các quốc gia

nêu trên là rất quan trọng. Chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm về một

số vấn đề sau:

1.2.2.1. Về phía Nhà nước

+ Tăng cường cải tiến và xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế

kỹ thuật, tạo sự đồng bộ và phát triển cho tất cả các vùng, đặc biệt là các khu

chế xuất, khu công nghiệp.

+ Xây dựng khung pháp lý để hình thành và phát triển thị trường công

nghệ phù hợp với điều kiện nước ta và thông lệ quốc tế, từ đó sẽ đẩy nhanh

mức độ thị trường hóa các hoạt động khoa học – công nghệ và ứng dụng

thành tựu của nó.

+ Thiết lập Hội đồng chính sách về chuyển giao công nghệ trong đó có

các nhà khoa học đầu ngành, các nhà đại diện cho khối quản lý và khối các

doanh nghiệp sản xuất. Từ đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội và mức độ

thương mại của các dự án.

Trong hoạt động chuyển giao công nghệ cần phải chú ý:

- Việc lựa chọn dự án cần phải bám sát với nhu cầu thực tế của địa

-38-

phương để xác định những dự án phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội và phát huy được những thế mạnh của địa

phương, trên cơ sở đó lựa chọn những công nghệ tiến bộ và thích hợp. Cần ưu

tên những dự án khai thác được tiềm năng của địa bàn, tạo ra sản phẩm mới,

sản phẩm hàng hóa đã có thị trường hoặc đồng thời phải có biện pháp tạo ra

thị trường.

- Các cơ quan được chọn phải có công nghệ được khẳng định, nắm

vững công nghệ cần chuyển giao, có tiềm lực khoa học và công nghệ, có cán

bộ khoa học và công nghệ tâm huyết, nhiệt tình bám sát địa bàn để giúp đỡ

nhân dân tiếp thu kỹ thuật mới trong quá trình triển khai dự án. Cần chú ý

nhiều hơn tới các công nghệ của các nước trên thế giới và trong khu vực để

lựa chọn ứng dụng các công nghệ thích hợp với nước ta, đẩy nhanh quá trình

tiếp cận hội nhập với các nước trong vấn đề ứng dụng khoa học và công nghệ.

- Cần có sự lồng ghép các dự án ứng dụng tiển bộ kỹ thuật thuộc dự án

chuyển giao công nghệ với các chương trình, dự án khác để tăng sức mạnh,

tăng hiệu quả đầu tư trên một địa bàn: thực tiễn cho thấy, để có được sự lồng

ghép này cần có sự quan tâm chính quyền các cấp vì đây là nơi đề xuất và

thực thi các chương trình, dự án trên địa bàn thuộc quyền quản lý trực tiếp

của họ. Hơn nữa, cũng chính các cấp này mới có đầy đủ thông tin để tổ chức

việc lồng ghép. Do vậy việc xác định cơ quan chủ trì thực hiện dự án và chủ

nhiệm dự án cho các dự án là rất quan trọng.

- Cần chú ý vận dụng các chính sách ưu đãi của nhà nước đối với việc

ứng dụng kỹ thuật mới và chuyển giao công nghệ vào sản xuất: chú ý khuyến

khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ để tạo ra các sản phẩm có giá trị

cao. Sự gắn kết giữa các dự án phát triển sản phẩm mới và các dự án phát

triển vùng nguyên liệu với các doanh nghiệp để duy trì và phát triển kết quả

khi dự án kết thúc.

- Phải đặc biệt coi trọng vấn đề đào tạo bồi dưỡng nhận thức, tay nghề

cho người tiếp nhận, xây dựng đội ngũ kỹ thuật viên và bồi dưỡng trình độ

quản lý sản xuất cho cán bộ địa bàn để họ có thể duy trì và tiếp tục phát triển

kết quả của dự án khi đội ngũ cán bộ chuyển giao công nghệ rút khỏi địa bàn.

Phải xây dựng được hệ thống dịch vụ kỹ thuật đi kèm để phục vụ cho nhu cầu

-39-

mở rộng sản xuất.

Để duy trì và phát triển các công nghệ được chuyển giao, nhân rộng mô

hình đạt hiệu quả cao ra sản xuất đại trà trên địa bàn và ra địa bàn khác, cần

có những biện pháp cơ bản như: Đưa các giải pháp khoa học và công nghệ đã

được ứng dụng thành công trong các mô hình thành các chỉ tiêu, biện pháp

trong kế hoạch phát triển kinh tế của địa phương; tổng kết, nhân điển hình và

đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá kiến thức, kinh nghiệm ra

cộng đồng; sử dụng các nguồn đầu tư từ các chương trình kinh tế - xã hội

khác để mở rộng, phát triển mô hình vào kế hoạch kinh tế - xã hội của địa

phương.

1.2.2.2. Về phía các doanh nghiệp

- Khi tiến hành lựa chọn công nghệ, doanh nghiệp không chỉ phân tích

chính bản thân công nghệ dự định chuyển giao, mà phải nhìn nhận vai trò, vị

trí của công nghệ đó cũng như đánh giá năng lực của chính doanh nghiệp có

công nghệ được chuyển giao;

- Khi tiến hành đàm phán để chuyển giao công nghệ, cần nghiên cứu,

tìm hiểu kỹ lợi ích thực sự, mong muốn thực sự của doanh nghiệp có công

nghệ chuyển giao; đồng thời, cũng cần biết quan hệ của họ với công nghệ dự

định chuyển giao, đặc biệt là những hạn chế và ràng buộc đối với việc khai

thác, sử dụng công nghệ;

- Ngay từ khi chuẩn bị tiếp nhận công nghệ, cần tính đến khả năng

thích ứng hóa và khả năng tiếp tục chuyển giao công nghệ. Những dự định

này cần được chuẩn bị khi soạn thảo các hợp đồng chuyển giao để đảm bảo

cơ sở pháp lý cho hoạt động này.

- Nội dung của chuyển giao công nghệ cần được xác định rõ trong các

hợp đồng với đối tác. Trong việc chuẩn bị các hợp đồng này, cần nghiên cứu

những thông lệ của thế giới và trong nước, tình hình thị trường công nghệ,…

để tránh phải trả giá cao hoặc chi phí trùng lắp.

Qua những phân tích về lý luận cũng như thực trạng hoạt động và các

chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở một số nước

nêu trên chúng ta càng thấy rõ được vai trò của hoạt động này trong chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang

phát triển. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ngày nay diễn ra rất nhanh

-40-

và ảnh hưởng rộng khắp tới mọi lĩnh vực, mọi quốc gia. Các quốc gia đang

phát triển với những bất lợi về các nguồn lực phục vụ cho việc nghiên cứu

khoa học và công nghệ thì vẫn có thể đi tắt, đón đầu các loại công nghệ mới,

để đổi mới, cải tiến công nghệ của quốc gia nhờ vào hoạt động chuyển giao

công nghệ. Tuy vậy, hoạt động này luôn có hai mặt của nó, sự thành công của

mỗi quốc gia chỉ có thể phụ thuộc vào những chính sách, chiến lược và cơ

chế kinh tế thích hợp của chính quốc gia đó.

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG

NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Tổng quan về môi trƣờng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

Môi trường chuyển giao công nghệ của một quốc gia là khung cảnh

quốc gia, trong đó có diễn ra các hoạt động chuyển giao công nghệ. Nó bao

gồm các yếu tố có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm quá trình chuyển giao, ứng

dụng và phát triển công nghệ.

Qua nghiên cứu một số quốc gia, chúng ta thấy sự ảnh hưởng của môi

trường chuyển giao công nghệ đến hoạt động chuyển giao công nghệ là rất

lớn. Việc phân tích tổng quan môi trường chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

xin tập trung vào các thành phần như sau:

2.1.1. Cơ sở hạ tầng chuyển giao công nghệ

Bất kỳ một hình thức chuyển giao công nghệ nào cũng liên quan đến

các yếu tố đó là: Bên giao công nghệ; bên nhận; công nghệ được chuyển giao;

hình thức chuyển giao và môi trường chuyển giao.

Ở Việt Nam cũng như các nước đang phát triển trên thế giới, muốn

phát triển khoa học và công nghệ thì phải xây dựng cho mình một cơ sở hạ

tầng công nghệ và chuyển giao công nghệ vững chắc. Cơ sở hạ tầng chuyển

giao công nghệ cho hoạt động chuyển giao công nghệ có tầm quan trọng

tương tự như cơ sở hạ tầng kinh tế đối với phát triển kinh tế, song khác với cơ

sở hạ tầng kinh tế bao gồm: hệ thống năng lượng, hệ thống cấp thoát nước,

thông tin liên lạc và giao thông vận tải; thì cơ sở hạ tầng chuyển giao công

nghệ là sự phối hợp giữa yếu tố nền tảng, bao gồm: Các cơ chế, các công cụ

-41-

và các nguồn lực. Để thuận tiện cho việc phân tích tổng quan môi trường

chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, tác giả xin tập trung vào các thành phần

như sau:

2.1.1.1. Cơ chế chuyển giao công nghệ

Cơ chế chuyển giao công nghệ là hệ thống các văn bản pháp lý (Luật;

chính sách; Nghị định;…), cùng hệ thống các cơ quan từ Trung ương đến địa

phương, liên quan đến hoạt động chuyển giao công nghệ (Thẩm định, đánh

giá, kiểm tra, cung cấp thông tin, tư vấn,… chuyển giao công nghệ).

Chuyển giao công nghệ khác với mua bán sản phẩm thông thường, đặc

biệt là trường hợp chuyển giao công nghệ quốc tế, có liên quan đến mối liên

hệ giữa các quốc gia. Vì vậy, cần có những quy định riêng, nhằm tạo thuận

lợi cho chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời ngăn

ngừa những thiệt hại cho lợi ích quốc gia. Ở Việt Nam, cơ chế chuyển giao

công nghệ thể hiện:

* Các văn bản pháp lý liên quan đến chuyển giao công nghệ:

Trước năm 1996 văn bản pháp lý chủ yếu về chuyển giao công nghệ ở

Việt Nam là pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam có

hiệu lực từ tháng 12/1988. Pháp lệnh này hết hiệu lực từ ngày 01/7/1996.

Những quy định pháp lý về chuyển giao công nghệ trong nước và với nước

ngoài được quy định trong Bộ Luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01/7/1996.

Trong Bộ Luật dân sự, các vấn đề liên quan đến chuyển giao công nghệ

quy định tại các phần sau: Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao

công nghệ; Phần thứ bảy: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Các điều

836, 837 và 838).

* Các công cụ và thủ tục tiến để hành chuyển giao công nghệ:

Để có thể thực hiện các quy định trong Bộ Luật dân sự, Chính phủ đã

ban hành các Nghị định như:

- Nghị định 45/1998 NĐ- CP quy định chi tiết về chuyển giao công

nghệ;

- Nghị định 16/2000 NĐ- CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ;

- Nghị định 24/2002 NĐ- CP về ưu tiên các hoạt động chuyển giao

-42-

công nghệ trong các ngành mũi nhọn;

- Nghị định 115/2005 NĐ- CP về chuyển đổi mô hình hoạt động của

các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ;

- Thông tư về quy trình hình thành, sàng lọc, thẩm định, giám sát quá

trình chuyển giao công nghệ…

Bên cạnh các văn bản pháp lý có liên quan đến chuyển giao công nghệ,

các cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho chuyển giao công nghệ cũng đã được thành

lập và đi vào hoạt động. Các tổ chức tư vấn về công nghệ và chuyển giao

công nghệ như công ty nghiên cứu và tư vấn chuyển giao công nghệ và đầu tư

(CONCETTI); Công ty sở hữu công nghiệp; Công ty tư vấn nước ngoài về

công nghiệp (FORINCONS)…ngoài ra còn có nhiều công ty, chi nhánh, văn

phòng của nước ngoài về tư vấn công nghệ và chuyển giao công nghệ.

2.1.1.2. Các nguồn lực

a. Các tổ chức khoa học và công nghệ

Tính đến ngày 31/12/2003 trong cả nước có 1.199 tổ chức đăng ký hoạt

động khoa học và công nghệ, tăng thêm 84 (7,5%) so với năm 2002, 148

(14,1%) so với năm 2001 và 346 (40,1%) so với năm 2000. Trong số 1.199 tổ

chức khoa học và công nghệ, có 668 tổ chức (55,7%) thuộc khu vực nhà

nước, 487 (40,7%) thuộc khu vực tập thể và 44 tổ chức (3,7%) thuộc khu vực

tư nhân.

Bảng 2.1: Các tổ chức KH&CN ở Việt Nam tính đến 31/12/2003

Khu vực trực thuộc Năm 2000 Tỷ lệ Số (% ) lượng Năm 2001 Tỷ lệ Số (% ) lượng Năm 2002 Tỷ lệ Số (% ) lượng Năm 2003 Tỷ lệ Số (% ) lượng

517

60,6

611

58,2

631

56,5

668

55,7

Khu vực nhà

nước

342

40,1

423

40,3

437

39,1

466

38,9

- Thuộc Bộ,

ngành

120

14,1

129

12,3

134

12,0

141

11,7

-Thuộc trường

ĐH

55

6,4

59

5,6

60

5,4

61

5,1

- Thuộc DNNN

311

36,5

399

37,9

440

39,5

487

40,6

Khu vực tập thể

25

2,9

41

3,9

44

4,0

44

3,7

-43-

Khu vực tư nhân

Tổng số

853

100

1.051 100

1.115 100

1.199 100

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ 2004

Từ bảng trên ta thấy, tuy số lượng các tổ chức khoa học và công nghệ

thuộc khu vực nhà nước tăng liên tục trong thời gian qua, nhưng tỷ trọng của

chúng trên tổng số các tổ chức khoa học và công nghệ đăng ký lại liên tục

giảm (từ 60,6% năm 2000, 58,6% năm 2001, 56,5% năm 2002 và năm 2003

chỉ còn 55,7%). Tỷ lệ này có thể còn tiếp tục giảm trong những năm tới. Đây

chính là động thái phát triển tích cực, phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị

trường.

Tình trạng này ở khu vực tập thể và khu vực tư nhân lại ngược lại, tăng

cả về số lượng và tỷ trọng. Tổ chức khoa học và công nghệ loại này thu hút

sự tham gia của cán bộ khoa học và công nghệ đã về hưu, mới tốt nghiệp đại

học, một số nhà khoa học người Việt Nam định cư nhiều năm ở nước ngoài,

nay về nước sinh sống và làm việc,…

b. Các trường đại học, cao đẳng, học viện ở trong nước và cơ sở đào

tạo của nước ngoài ở Việt Nam

Tính đến năm 2004, cả nước có 220 trường đại học, cao đẳng và học

viện với khoảng 40.400 giảng viên, trong đó số giáo sư chiếm 0,8%, phó giáo

sư chiếm 3,4%, tiến sỹ khoa học và tiến sỹ chiếm 14%, thạc sỹ chiếm 27%,

đại học và cao đẳng chiếm 54,8%.

Bảng 2.2: Số lƣợng các trƣờng đại học và cao đẳng

Loại hình trường

Đại học - Công lập

- Ngoài công lập Cao đẳng - Công lập

- Ngoài công lập

2000 - 2001 Tỷ lệ Số (%) lượng 41,6 74 32,0 57 9,6 17 58,4 104 55,6 99 2,8 5 100 178 2001 - 2002 Tỷ lệ Số (%) lượng 38,6 76 29,9 59 8,7 17 61,4 121 54,8 108 6,6 13 100 197 2002 - 2003 Tỷ lệ Số (%) lượng 39,7 85 31,8 68 7,9 17 60,3 129 55,6 119 4,7 10 100 214

Tổng số

-44-

Nguồn: Thống kê giáo dục và đào tạo 2004 http:// www.moet.edu.vn/thongke/dhcd.htm

Ngoài ra, hiện nay ở Việt Nam còn có một số cơ sở đào tạo đại học của

nước ngoài như Trung tâm đào tạo Genetics của Singapo ở Hà Nội, RMIT ở

TP Hồ Chí Minh,…

Cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị nghiên cứu khoa học cũng được

cải thiện hơn trước, đặc biệt là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia

TP Hồ Chí Minh. Bằng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ, trong hệ

thống các trường đại học và cao đẳng đã có khoảng 60 phòng thí nghiệm,

trong đó có những phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Nét

mới về củng cố và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của các trường

đại học và cao đẳng hiện nay là chú trọng nhiều hơn về đầu tư xây dựng hệ

thống thư viện, một số trường đã triển khai xây dựng thư viện điện tử. Nhiều

trường đã có mạng nội bộ, 100% số trường đại học và cao đẳng đã kết nối

Internet, phục vụ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Năm học 2002 – 2003 là năm thư hai tiếp tục triển khai Quyết định số 47/2001/QĐ- TTg ngày 04/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy hoạch mạng lưới trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2001 - 2010”. Đây là một trong những biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò và vị trí của các trường đại học và cao đẳng trong phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động khoa học và công nghệ nói riêng và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung.

c. Các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ * Tổ chức dịch vụ về sở hữu công nghiệp Các tổ chức dịch vụ sở hữu công nghiệp nhằm tập trung hỗ trợ các

quyền sở hữu công nghiệp. Hiện nay có khoảng 23 tổ chức dịch vụ sở hữu

doanh nghiệp và địa phương nâng cao nhận thức, năng lực quản lý và thực thi

công nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam, bao gồm các công ty, văn phòng

hoặc trung tâm tư vấn pháp luật về sở hữu công nghiệp thuộc nhiều thành

phần kinh tế khác nhau. Trong thời kỳ 1996 – 2000, Cục sở hữu công nghiệp

đã nhận được tổng số 266 đơn đang ký sáng chế và giải pháp hữu ích, cấp 32

văn bằng độc quyền sáng chế và 32 bằng độc quyền về giải pháp hữu ích cho

công dân Việt Nam. Riêng 2003, Cục đã nhân 1426 đơn đăng ký sáng chế và

giải pháp hữu ích, trong đó của công dân Việt Nam là 31, chiếm 2,5% tổng

số.

-45-

* Tổ chức dịch vụ về tiêu chuẩn - đo lường – chất lượng

Hoạt động của các tổ chức dịch vụ tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng

thời gian qua đã có những tác động trực tiếp và tích cức đối với nền kinh tế,

góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại, tránh

được những rủi ro trong hoạt động chuyển giao công nghệ, bảo vệ quyền lợi

cho bên nhận công nghệ, cho người tiêu dùng, phục vụ các yêu cầu về quản lý

Nhà nước, bảo vệ môi trường, đồng thời phục vụ các yêu cầu phát triển sản

xuất, kinh doanh, hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống các hoạt động dịch vụ

chính về tiêu chuẩn - đo lường – chất lượng bao gồm: hệ thống xây dựng tiêu

viên của các ban kỹ thuật và tiểu ban kỹ thuật; hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn

phương tiện đo; hệ thống thử nghiệm; hệ thống công nhận, chứng nhận chất

lượng; hệ thống đào tạo và thông tin về tiêu chuẩn - đo lường – chất lượng.

chuẩn Việt Nam với 86 ban kỹ thuật, 36 Tiểu ban kỹ thuật và trên 800 thành

Các tổ chức dịch vụ về tiêu chuẩn - đo lường – chất lượng cũng có

nhiều thành tựu. Đã ban hành 4860 tiêu chuẩn, trong đó 1200 tiêu chuẩn Việt

Nam tương đương hoặc phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (chiếm 24,6%).

Hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo, đã có 97 tổ chức được ủy

quyền khiểm định phương tiện đo và 11 phòng hiệu chuẩn được công nhận.

Hàng năm hệ thống này đã tiến hành kiểm định, hiệu chuẩn hàng triệu

phương tiện đo lường và thử nghiệm trong cả nước, đảm bảo sự thống nhất về

đo lường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, kỹ

thuật và công nghệ. Tính đến cuối năm 2003, đã có 56 phòng thí nghiệm

được công nhận theo các chuẩn mực tiêu chuẩn của quốc tế ISO 17025. Các

phòng thí nghiệm này đã phục vụ kịp thời cho việc quản lý chất lượng sản

phẩm, cũng như các yêu cầu của các cơ quan thương mại, thuế quan và của

các doanh nghiệp. Hệ thống công nhận, chứng nhận chất lượng, ngoài Trung

tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn (Quacert) thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn -

Đo lường - Chất lượng, có trên 20 tổ chức chứng nhận của nước ngoài đang

hoạt động tại Việt Nam. Hệ thống công nhận Việt Nam đã tiến hành đánh giá

công nhận 69 phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn trong cả nước theo các chuẩn

mực quốc tế. Một hệ thống các Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ

-46-

đã được hình thành ở 61 tỉnh, thành trong cả nước. Các trung tâm này có

nhiệm vụ giới thiệu các thành tựu và triển khai ứng dụng các thành tựu, tiến

bộ khoa học và công nghệ vào thực tế sản xuất.

* Dịch vụ Internet

Dịch vụ Internet ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu, thói quen của cán bộ

khoa học và công nghệ, nhất là giới trẻ. Internet được xác định là một bộ phận

quan trọng thuộc hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia. Giá thuê bao và khai thác

Internet ngày càng giảm (giá cước truy cập Interet hiện nay chỉ còn

20VNĐ/phút).

Việt Nam đã có một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông

hiện đại. Hầu hết các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố đã xây dựng được mạng

máy tính nội bộ, kết nối Internet – cơ sở hình thành chính phủ điện tử. Theo

thống kê của Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông, đến cuối năm 2004, Việt

Nam đã có 8 nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet và 12 nhà cung cấp dịch

vụ Internet (trong tổng số 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet được cấp phép)

chính thức hoạt động. Về mạng viễn thông công cộng đã có tổng số hộ thuê

bao điện thoại lên tới 7,5 triệu thuê bao, đạt mật độ 9,3 máy/100 người dân;

tổng số người sử dụng Internet khoảng 6,8 triệu người, đạt mật độ 7,8 thuê

bao/100 người dân; số báo điện tử đã đưa lên Internet khoảng trên 30 đầu tên.

d. Nhân lực khoa học và công nghệ

-47-

Theo quan điểm của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thì nhân lực khoa học và công nghệ bao gồm những người: đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và đang làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ; đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành khoa học và công nghệ nào; chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng có một công việc trong một lĩnh vực khoa học và công nghệ đòi hỏi trình độ tương đương. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở tháng 4 năm 1999, Việt Nam có khoảng 1.200.000 người có trình độ đại học và cao đẳng. Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, trong các năm 2000 và 2003, hàng năm nước ta có khoảng 200.000 người tốt nghiệp sau đại học, đại học và cao đẳng. Như vậy, tính tới cuối năm 2003, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tiềm năng của Việt Nam có khoảng 2 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng trở lên

(trong đó có trên 14.000 tiến sỹ và 20.000 thạc sỹ). Tuy nhiên số lượng cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ và nghiên cứu phát triển, thấp hơn nhiều so với số lượng nêu trên.

* Đào tạo sau đại học Năm 2003, tổng số cán bộ khoa học và công nghệ được đào tạo sau đại học ở nước ta là 42.027 người, bao gồm 3 phần: đã tốt nghiệp, đang đào tạo và tuyển mới. Bảng 2.3: Đào tạo sau đại học trong năm 2003

Hệ đào tạo Tốt nghiệp Đang đào tạo Tuyển mới

1. Nghiên cứu sinh 366 2.708 715

2. Cao học 3.490 20.470 7.487

3. Chuyên khoa I 991 3.763 1.354

4. Chuyên khoa II 89 477 233

Tổng cộng 4.820 27.418 9.789

* Đào tạo đại học, cao đẳng

Nguồn: Thống kê cao đẳng và đại học năm 2003-2004/ Bộ GD&ĐT

Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng nước ta năm 2003 là 1.516.517

người. Số này bao gồm các sinh viên đã tốt nghiệp, đang đào tạo và tuyển

mới của ba khu vực: công lập, bán công và dân lập.

Bảng 2.4: Đào tạo đại học và cao đẳng theo hệ đào tạo năm 2003

Hình thức đào tạo Tốt nghiệp Đang đào tạo Tuyển mới

-48-

A. Đại học 1. Hệ chính quy 2. Hệ cử tuyển (lớp riêng) 3. Không chính quy 4. Liên kết đào tạo hệ chính quy 5. Đào tạo văn bằng II 6. Hoàn chỉnh kiến thức 7. Đào tạo từ xa Tổng cộng (1) 68.528 455 35.598 619 2.936 1.552 452 110.140 470.107 2.822 317.184 11.140 27.855 1.385 - 830.493 124.052 1.032 73.276 3.719 8.270 - - 209.349

B. Cao đẳng 1. Hệ chính quy 2. Hệ cử tuyển (lớp riêng) 3. Không chính quy 4. Liên kết đào tạo hệ chính quy 5. Đào tạo văn bằng II 6. Hoàn chỉnh kiến thức 7. Đào tạo từ xa Tổng cộng (2) Tổng số (1+2) 183.551 543 40.307 6.706 607 543 - 232.263 1.062.756 63.110 364 14.174 1.062 - - - 78.710 288.059

44.704 69 9.055 1.461 273 - - 55.562 165.702 Nguồn: Thống kê cao đẳng và đại học năm học 2003-2004/Bộ GD&ĐT

* Đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề

Năm 2003, tổng số học sinh đã tốt nghiệp, đang đào tạo và tuyển mới

trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề dài hạn trong cả nước

ta là 284.952 người.

Bảng 2.5: Đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề năm 2003

Hệ đào tạo 1. Trung học chuyên nghiệp Tốt nghiệp Đang đào tạo 36.738 120.477 Tuyển mới 52.306

2. Dạy nghề dài hạn 12.143 41.416 21.872

Tổng cộng 48.881 161.893 74.178

Nguồn: Thống kê cao đẳng và đại học năm 2003-2004/Bộ GD&ĐT

Năm học 2003 – 2004, nếu không kể 1.634 sinh viên là người nước ngoài

đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng của Việt Nam, thì tổng số sinh

viên nước ta (bao gồm số tuyển mới và đang đào tạo) lên tới 1.421.750 người so

với 1.020.667 người năm học 2002- 2003 và 974.119 người năm học 2001-

2002.

e. Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ

Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được cấu thành từ các

nguồn sau: Ngân sách nhà nước; vốn của doanh nghiệp và vốn của nước

ngoài. Trong 3 nguồn trên, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ từ

ngân sách của nhà nước vẫn là nguồn chủ yếu.

* Kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN)

Chỉ riêng trong năm 2003, NSNN đầu tư cho khoa học và công nghệ là

-49-

3.180 tỷ đồng đạt 2% tổng chi NSNN, tương đương 0,52% GDP.

Bảng 2.6: Kinh phí đầu tƣ cho khoa học và công nghệ từ NSNN

Nội dung

lệ chi KH&CN so với chi 2001 2.322 2 2002 2.814,7 2 2003 3.180 2

Tổng chi KH&CN (tỷ đồng) Tỷ NSNN(%) Tỷ lệ chi KH&CN/GDP (%) 0,48 0,52 0,52

Nguồn: Bộ khoa học và công nghệ năm 2004

Nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ từ NSNN bao gồm:

- Vốn đầu tư XDCB;

- Kinh phí sự nghiệp khoa học (SNKH)

Bảng 2.7: Cơ cấu đầu tƣ cho khoa học và công nghệ từ NSNN

2001 2002 2003

Nội dung

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Giá trị (tỷ đồng)

Giá trị (tỷ đồng)

722 XDCB SNKH 1.600 Tổng cộng 2.322 31,1 68,9 100

Giá trị (tỷ đồng) 35,7 1.004,7 1.810 64,3 2.814,7 100

1.168 2.012 3.180 36,7 63,3 100

Nguồn: Bộ khoa học và công nghệ năm 2004

Ngoài kinh phí đầu tư của NSNN thì các bộ, ngành, tỉnh, thành phố và

các địa phương cũng tự huy động các nguồn tài chính để đầu tư xây dựng cơ

sở hạ tầng cho hoạt động chuyển giao công nghệ. Vốn NSNN đầu tư cho

khoa học và công nghệ theo quy trình xây dựng cơ bản để xây dựng mới, cải

tạo, mở rộng và đầu tư chiều sâu (mua sắm trang thiết bị khoa học) cho các tổ

chức khoa học và công nghệ. Còn kinh phí SNKH được đầu tư để triển khai

các chương trình, đề tài nghiên cứu và dự án sản xuất thử nghiệm; chi trả

lương và hoạt động của bộ máy ở các tổ chức nghiên cứu phát triển.

Theo số liệu điều tra 7.233 doanh nghiệp sản xuất trên toàn quốc do Tổng

cục Thống kê thực hiện năm 2002, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ

trong các doanh nghiệp chủ yếu dành cho hai nội dung nghiên cứu phát triển và

đổi mới công nghệ. Trong đó, phần dành cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ lệ khá

cao (92%) và tập trung chủ yếu vào đầu tư mua sắm thiết bị, đây thể hiện sự

quan tâm của doanh nghiệp chủ yếu là vào công nghệ hoàn thiện được thương

-50-

* Kinh phí đầu tư trong các doanh nghiệp

nghệ trong các doanh nghiệp được dành cho nghiên cứu phát triển. Mặc dù tỷ lệ

này còn rất khiêm tốn nhưng cũng đã phản ánh nỗ lực của doanh nghiệp trong

Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp để tăng cường

việc vươn lên để tạo sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực.

năng lực nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh,

tạo đà cho doanh nghiệp sẵn sàng thích ứng trong hội nhập kinh tế quốc tế.

mại hóa trên thị trường. Chỉ có 8% tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công

* Kinh phí đầu tư từ các nguồn nước ngoài

Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, nguồn kinh phí đầu tư từ các

nguồn nước ngoài cho hoạt động khoa học và công nghệ có ý nghĩa quan

trọng. Nguồn kinh phí này được thực hiện thông qua các hình thức sau:

- Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;

- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA);

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.

Nguồn kinh phí nói trên được chi cho các nội dung hoạt động khoa học

và công nghệ chủ yếu như: chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp; đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học; mua sắm trang thiết bị xây dựng cơ sở vật

chất– kỹ thuật; thực hiện các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu; trao đổi, cung cấp

thông tin khoa học và công nghệ; tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; tổ chức

Chợ công nghệ,…

Từ năm 1996 đến nay, Nhà nước ta, đặc biệt là Bộ Khoa học và Công

nghệ đã có nhiều đổi mới trong hoạt động quản lý phát triển công nghệ nhằm tạo

ra một môi trường thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh. Bộ đã phối hợp cùng các

cơ quan liên ngành tổ chức các cuộc họp báo, diễn đàn và gặp mặt thường niên

với lãnh đạo của các ngành, các doang nghiệp, từ đó lấy ý kiến, tham luận và các

kiến nghị để tham khảo và đưa ra các chính sách công nghệ liên quan tới tất cả

các ngành và các lĩnh vực như: năng lượng, cơ khí, hóa chất, luyện kim, nông

nghiệp, thủy sản, dầu khí, bưu chính - viễn thông, xây dựng, giao thông vận tải,

công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ dệt may,…

2.1.2. Môi trƣờng chính sách về chuyển giao công nghệ

Mục tiêu của các chính sách là “thúc đẩy” và “định hướng” phát triển

khoa học và công nghệ, cụ thể như:

- Thiết lập các tổ chức để tích lũy kiến thức và kỹ năng công nghệ;

-51-

- Cải thiện cơ cấu hạ tầng công nghệ;

- Thúc đẩy nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ;

- Hỗ trợ các đề tài nghiên cứu có tính chiển lược cơ bản đã được chọn

làm nền móng cho các công nghệ mới trong tương lai;

- Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ chuyển giao

công nghệ, tiếp nhận công nghệ mới.

Một loạt các chính sách đòn bẩy để khuyến khích hoạt động chuyển

giao công nghệ cũng được thực thi như:

- Miễn giảm thuế trên phần đầu tư và tái đầu tư vào nghiên cứu và triển

khai;

- Các sản phẩm mới là kết quả của nghiên cứu triển khai trong nước, có

hàm lượng khoa học và công nghệ cao, sẽ được miễn thuế 3 năm đầu và giảm

50% thuế 2 năm tiếp theo;

- Thuế bổ sung đánh vào các sản phẩm không theo chính sách công

nghệ - công nghiệp quốc gia;

- Thực hiện chế độ bảo hộ mậu dịch linh hoạt đối với sản phẩm nội địa

có áp dụng công nghệ mới;

- Cho phép các đơn vị Nghiên cứu và triển khai mở doanh nghiệp để

gắn hoạt động nghiên cứu và triển khai với sản xuất.

Nhà nước ta còn tiến hành một loạt các hoạt động cải cách vĩ mô, sửa

đổi một số bộ luật liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ, nghiên

cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ như Luật đầu tư nước ngoài, luật

khoa học và công nghệ, lụât thuế, luật đất đai,…từ đó tạo ra những bước

ngoặt cho khoa học và công nghệ nước nhà, nâng cao năng lực công nghệ và

khả năng cạnh tranh quốc gia.

Về chính sách khoa học và công nghệ, Chính phủ sắp xếp lại các tổ

chức nghiên cứu và phát triển theo Quyết định 782/2002- TTg của Thủ tướng

Chính phủ và Nghị định 115/2005 NĐ- CP cho phép thí điểm thành lập doanh

nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo nghiên cứu, nhằm gắn kết nghiên

cứu khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh.

Công tác tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ cũng được

chú ý. Ngoài việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách nhà nước dành cho khoa học và

công nghệ (năm 2003 đạt 2% NSNN), Nhà nước còn có chính sách ưu đãi về

-52-

đầu tư, thuế và tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ nhằm

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ.

Về chuyển giao công nghệ, trong giai đoạn 1996 – 2003 đã có rất nhiều

chính sách, Nghị định, Thông tư của Nhà nước nhằm khuyến khích và hỗ trợ

các hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các hoạt động chuyển giao

công nghệ từ nước ngoài vào và các hoạt động chuyển giao công nghệ trong

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Các biện pháp hỗ trợ tài chính, thuế, cơ sở

vật chất ngày càng trở lên hữu hiệu. Các quy định trong quy trình chuyển giao

công nghệ được giảm đi rất nhiều, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện

ở Việt Nam. Trong thời gian qua, chúng ta đã thẩm định cho 14562 dự án

nhóm A, trong đó 4230 dự án đầu tư nước ngoài và 10332 dự án đầu tư trong

nước. Đã phê duyệt 678 hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đã xác nhận 6 dự

án công nghệ cao và 12 dự án áp dụng công nghệ mới được hưởng chế độ ưu

đãi khuyến khích đầu tư. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh một số điều

khoản trong các văn bản pháp lý và các công cụ, thủ tục để thực hiện hoạt

động chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế, một số doanh nghiệp ở nhiều

ngành đã tiếp thu và tạo dựng được công nghệ tiên tiến, cán bộ khoa học và

công nghệ được nâng cao trình độ chuyên môn, tằng cường khả năng quản lý.

Nhiều sản phẩm đạt chất lượng tốt, đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, đáp

ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

2.1.3. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ

Phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác quốc tế trong lĩnh

vực khoa học và công nghệ ngày càng được mở rộng về quy mô, hình thức và

hiệu quả. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác và đối tác về khoa

học và công nghệ với trên 70 quốc gia, tổ chức quốc tế, vùng lãnh thổ; đồng

thời là thành viên tích cực của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế. Nét đặc

trưng trong những năm qua là với sự hỗ trợ của nhiều nước, nhiều trung tâm,

tổ chức nghiên cứu hỗn hợp giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với các

nước đã được tạo dựng, những cơ sở khoa học và công nghệ này được trang

bị các thiết bị nghiên cứu, triển khai hiện đại, phục vụ cho hoạt động phát

triển, tiếp nhận các thành tựu khoa học và công nghệ hiệu quả hơn. Cụ thể

một số trung tâm như:

-53-

- Trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ Việt - Đức (HWC) được thành lập trên cơ sở Dự án Trung tâm tư vấn và đào tạo kỹ thuật hợp tác giữa

Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng và Phòng Tiểu thủ công nghiệp Koblenz (CHLB Đức) với tổng kinh phí là 1,8 triệu DM; - Trung tâm hợp tác công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc (VIKOTECH), kết quả hợp tác giữa Viện nghiên cứu ứng dụng công nghệ Việt Nam (NACENTECH) với Viện KH&CN Hàn Quốc (KIST) do Chính phủ Hàn Quốc viện trợ không hoàn lại với tổng số vốn là 2,88 triệu USD; - Trung tâm đào tạo hạt nhân Việt Nam – Ấn Độ, kết quả hợp tác giữa Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam và Ủy ban năng lượng nguyên tử Ấn Độ với tổng số vốn là 215 nghìn USD; - Khu trình diễn, nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp tổng hợp Việt Nam –Trung Quốc, kết quả của hợp tác giữa Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội với Viện KHKT nông nghiệp tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc;… Có được những kết quả như trên là do sự tác động của một loạt các

chính sách đổi mới, khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ và mở

rộng các loại hình hợp tác quốc tế đa phương, song phương giữa Việt Nam với nhiều tổ chức và các quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã tham gia tích cực

vào các hội nghị, hội nghị cấp cao, diễn đàn của nhiều tổ chức khoa học và

công nghệ của khu vực và thế giới. Với việc thực hiện đúng các cam kết quốc

tế, Việt Nam ngày càng có điều kiện hội nhập sâu hơn và có vị thế cao trong

các tổ chức khoa học và công nghệ quốc tế.

Trên cơ sở các nghị định thư đã ký kết với các nước, Bộ KH&CN đã

phê duyệt 24 nhiệm vụ hợp tác KH&CN thực hiện từ năm 2003 với kinh phí

hỗ trợ hơn 17 tỷ đồng từ nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học. Các nhiệm vụ,

chương trình hợp tác này bao gồm các nhiệm vụ, dự án nghiên cứu chung, các

dự án nhập kết quả nghiên cứu hoặc chuyển giao công nghệ, hội thảo, triển

lãm công nghệ,…Trong số các nhiệm vụ đã được phê duyệt, có rất nhiều dự

án có ý nghĩa khoa học và giá trị trong thực tiễn cao.

Thông qua hợp tác quốc tế, các quy trình đàm phán thỏa thuận, điều

kiện thương mại được thuận lợi hơn, do đó có nhiều hoạt động chuyển giao

công nghệ diễn ra nhiều hơn.

2.1.4. Thực trạng công nghệ ở Việt Nam

Nhìn chung, trình độ công nghệ của Việt Nam so với các nước trong

khu vực và thế giới rất lạc hậu thể hiện ở những điểm sau đây:

-54-

- Công nghệ, thiết bị hiện đại tiên tiến chiếm một tỷ lệ rất thấp;

- Trình độ cơ khí hóa của nền kinh tế thấp;

- Mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và nguyên liệu cho sản xuất cao;

- Chất lượng sản phẩm thấp, chủng loại đơn điệu khó cạnh tranh với

các sản phẩm nhập khẩu;

- Công nghệ thiết bị không đồng bộ, do nhiều nguồn khác nhau nên

không phát huy được hết khả năng của máy móc thiết bị.

Theo đánh giá khái quát trên, chúng ta có thể phân chia công nghệ

Việt Nam theo bốn nhóm:

- Nhóm 1: Những thiết bị, công nghệ lạc hậu hơn mức trung bình của

thế giới khoảng 1 – 2 thế hệ. Phần lớn các công nghệ và thiết bị này tập trung

ở các ngành như ráp điện tử, ô tô, lắp máy, xây dựng, thủy sản đông lạnh…

- Nhóm 2: Các thiết bị và công nghệ lạc hậu 2 – 3 thế hệ so với trung

bình của thế giới. Ví dụ như trong ngành điện, giấy, đường, chế biến thực

phẩm…

- Nhóm 3: Các thiết bị lạc hậu từ 3 – 5 thế hệ, chủ yếu bao gồm công

nghệ và các thiết bị trong ngành đường sắt, đường bộ, cơ khí, đóng tàu, vật

liệu xây dựng…

- Nhóm 4: Các loại thiết bị và công nghệ có mức độ lạc hậu cao hơn.

2.2. Tình hình hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thời gian qua

Có thể khẳng định, sự thành công của quá trình tăng trưởng kinh tế tại

Việt Nam phải kể đến yếu tố đầu tư, chủ động đổi mới công nghệ trên cơ sở đầu

tư mua công nghệ, trang thiết bị mới hoặc thay thế một phần hay toàn bộ công

nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến và có hiệu quả hơn nhằm

nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hoặc tạo ra sản phẩm mới có tính cạnh

tranh cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.

2.2.1. Các hình thức chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

Trong những năm qua hoạt động chuyển giao công nghệ được thực

hiện chủ yếu theo các luồng sau đây:

2.2.1.1. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam

Luồng công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được coi là luồng chính

và có số lượng lớn. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, tính từ

năm 1998 cho đến nay, theo thẩm quyền được phân cấp, Bộ Khoa học và

công nghệ đã thẩm định trên 3.500 công nghệ thuộc các dự án đầu tư và hợp

-55-

đồng chuyển giao công nghệ.

* Chuyển giao công nghệ thông qua dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài

Phần lớn các nhà đầu tư đồng thời là bên giao công nghệ và đặc biệt

phát triển dưới hình thức công ty mẹ chuyển giao công nghệ cho công ty con

thông qua các dự án 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo kênh này, vì

lợi ích của mình, bên giao công nghệ thường chuyển giao đầy đủ, đồng bộ các

nội dung công nghệ và đảm bảo hỗ trợ kỹ thuật để dự án thành công trong

việc sản xuất và bán sản phẩm trong lãnh thổ và xuất khẩu.

Để có công nghệ, các chủ đầu tư Việt Nam thường thông qua việc mua

công nghệ hoặc mua thiết bị kèm theo công nghệ từ nước ngoài. Việc chuyển

giao công nghệ được xác lập theo nguyên tắc các bên tự thỏa thuận, do đó đòi

hỏi bên nhận công nghệ phải có hiểu biết đầy đủ về pháp luật chuyển giao công

nghệ, có năng lực và kiến thức nghiệp vụ để đàm phán, lập và ký kết hợp đồng

chuyển giao công nghệ.

* Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động đầu tư trong nước

* Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động đầu tư của người Việt

Nam định cư ở nước ngoài

Ở nước ta hiện nay nhìn chung hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các

viện, trường và cơ sở nghiên cứu cho doanh nghiệp còn hạn chế, mang tính cục

bộ, phạm vi hẹp, tự phát, thiếu các cơ quan dịch vụ trung gian môi giới hợp đồng

triển khai công nghệ, liên kết giữa người mua và người bán công nghệ. Có nhiều

nguyên nhân, nhưng xét về góc độ chuyển giao công nghệ thì các công nghệ

được tạo ra chưa thực sự ổn định, chưa có khả năng thương mại hóa, các nội

dung chuyển giao công nghệ không đầy đủ và đặc biệt là chưa rõ quyền lợi của

bên giao công nghệ, do vậy khả năng rủi ro rất cao. Việc chuyển giao công nghệ

giữa các doanh nghiệp trong nước còn ít, quy mô nhỏ, nội dung chuyển giao

Theo số liệu thống kê, hiện có khoảng 600 dự án, công nghệ với tổng số vốn đầu tư khoảng 400 triệu USD của Việt kiều đầu tư vào Việt Nam theo Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài và khoảng 1000 dự án, công nghệ với tổng số vốn đầu tư khoảng 4000 tỷ VND của Việt kiều đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. 2.2.1.2. Chuyển giao công nghệ trong nước

công nghệ thường không đầy đủ và hình thức chuyển giao còn đơn giản. 2.2.2. Hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài

-56-

FDI trong thời gian qua

Cũng như các nước đang phát triển khác, trong điều kiện của Việt Nam

hiện nay thì việc chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI có một ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó cho phép chúng ta xóa bỏ và rút ngắn khoảng

cách lạc hậu về công nghệ so với các nước phát triển.

Tính từ năm 1998 đến tháng 9 năm 2003 đã có 4.800 dự án đầu tư trực

tiếp nước ngoài được cấp phép đầu tư, với tổng số vốn đăng ký khoảng 52,5

tỷ USD và hiện đang có 4.100 dự án còn có hiệu lực với tổng vốn đăng ký

khoảng 39,87 tỷ USD. Đã có 2.170 dự án được đưa vào hoạt động sản xuất,

kinh doanh và khoảng 700 dự án đang xây dựng cơ bản. Nước ta đứng thứ 5

trong khu vực, thứ 11 ở Châu Á, thứ 34 trên thế giới về thu hút vốn đầu tư

trực tiếp của nước ngoài. Trong đó khoảng trên 70% dự án có nội dung

chuyển giao công nghệ hoặc sản xuất sản phẩm mới, nhưng chỉ có khoảng 4%

tổng số các dự án có hợp đồng chuyển giao công nghệ được trình Bộ Khoa

học và Công nghệ để xin phê duyệt theo quy định của pháp luật.

Trong số các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt, số

hợp đồng thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm 63%, chế biến nông sản, thực

phẩm chiếm 26% và y dược, mỹ phẩm chiếm 11%.

Vốn thực hiện (Triệu USD)

Số dự án

Số VĐK (Triệu USD)

K/ngạch xuất khẩu (Triệu USD)

Số dự án rút giấy phép

Số VĐK rút giấy phép (Triệu USD)

Chỉ tiêu Năm

Bảng 2.8: Số liệu về FDI qua các năm

-57-

1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 37 70 111 155 193 272 362 404 326 336 259 274 324 365 539 596 1388 2271 2987 4071 6616 8538 4450 3979 1477 1972 52 112 257 352 440 786 1790 1982 2577 3320 6 38 48 34 58 56 52 55 167 102 149 24 293 402 79 217 477 1024 352 2426 501 1856 213 394 1099 1946 2671 2646 3605 3823 4600 2228

2001 2002 2003 462 638 962 2075 5450 6708

2300 4130 5426

1458 2506 3760 60 176 83 1026 2086 1480

Nguồn: Vụ quản lý dự án, MPI, tháng 6/2005.

Số liệu thống kê trên cho thấy:

- Thời kỳ 1988 – 1996: Nhịp độ thu hút FDI tăng nhanh và quy mô

bình quân của 1 dự án ngày càng lớn.

- Thời kỳ từ 1997 đến nay: Nhịp độ thu hút FDI giảm đáng kể, đồng

thời quy mô bình quân 1 dự án giảm đi rõ rệt. Số dự án được cấp giấy phép

xin hoãn, giãn tiến độ lên tới 7 – 8 tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp phải sản xuất

cầm chừng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất.

Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới đã được

chuyển giao và nhiều sản phẩm mới được sản xuất trong các xí nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài; nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo

lại để cập nhật kiến thức phù hợp với yêu cầu mới. Đồng thời hoạt động đầu

tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước

trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Một số kết quả cụ thể

về các mặt có liên quan đến công nghệ do hoạt động đầu tư nước ngoài mang

lại được thể hiện:

* Trình độ công nghệ của sản xuất

Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước

ngoài trong thời gian qua đã góp phần nâng cao rõ rệt trình độ công nghệ của

sản xuất trong nước so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được

công nghệ tiên tiến, tiếp cận được với trình độ hiện đại của thế giới. Trong đó

phải kể đến ngành bưu chính – viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí; một số

dây chuyền tự động đã được đưa vào trong nước như công nghệ CAD, CAM

được đưa vào trong thiết kế cơ khí chế tạo, dệt may, nhựa,… Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài, một số công nghệ mới được nhập vào trong nước ta,

như công nghệ sản xuất ống gang chịu áp lực bằng gang graphit cầu, sản xuất

ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo đường xoắn ốc, sản

xuất cáp quang, sản xuất đồ trang sức bằng kim loại với quy mô công nghiệp

bằng phương pháp đúc khuôn mẫu chảy,… * Trang thiết bị

-58-

Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài tương đối đồng bộ và là trang thiết bị có trình độ cơ khí hóa trung

bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước. Phần lớn các thiết

bị đó được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng hạ

vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa (các máy đột,

Một số dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa trong các xí nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao,

như dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động

kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử,… Một số ít dây chuyền sản xuất

chuyên môn hóa có các thiết bị tự động hóa hoàn toàn, sản phẩm thiết kế và sản

xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính (thêu nhiều màu).

ép, đập trên các dây chuyền sản xuất các kết cấu kim loại…)

Công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư

nước ngoài trong thời gian qua đã nhanh chóng tạo ra lợi nhuận, đáp ứng nhu

cầu trước mắt của các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất–kinh doanh.

Đồng thời nó cũng phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế

thị trường, đổi mới công nghệ trong sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người

lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đây là những công nghệ đã

ổn định, phổ cập trong việc sử dụng ở các nước đang phát triển, phù hợp với

quy mô sản xuất và nhu cầu về sản phẩm trên thị trường. * Sản phẩm và chất lượng sản phẩm

Trước đây ở nước ta, nhiều sản phẩm phải nhập nguyên chiếc hoặc lắp

ráp đơn giản, nay qua hoạt động đầu tư nước ngoài bằng công nghệ mới và

trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại đã sản xuất được ở trong nước, góp phần

nâng cao dần tỷ lệ chế tạo nội địa các sản phẩm, linh kiện, bộ phận, chi tiết,…

Trong đó có nhiều sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp như đèn hình, các

bộ phận của động cơ xe máy, tổng đài điện tử số, máy biến thế điện áp cao…

Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra

được nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt

hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh

đó, việc đầu tư và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào đã hạn chế mức

độ tối đa các loại hàng hóa trước đây nước ta phải nhập khẩu với số lượng lớn

như: bia, các loại gạch đá ốp lát, sứ vệ sinh, xi măng, sắt thép xây dựng,…

Chất lượng các loại sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước

-59-

ngoài nêu trên hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế

(ISO). Đồng thời, do sức ép của cạnh tranh thị trường được tạo ra bởi các xí

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hàng ngoại, nên nhiều doanh nghiệp

trong nước đã cố gắng đổi mới công nghệ, nhập các thiết bị máy móc, công

nghệ mới và tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không thua kém

hàng nhập, với giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưa chuộng, như các loại

quạt điện, giày da, giấy vải, các sản phẩm nhựa dân dụng, bánh kẹo, bàn

ghế,… * Trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh

Thông qua đầu tư nước ngoài, trong một thời gian ngắn, nhiều cán bộ

quản lý các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh, kể cả quản lý nhà nước đã tiếp

cận được với phương thức quản lý mới – quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị

trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước. Hàng nghìn cán

bộ quản lý, cán bộ, công nhân kỹ thuật được đi học tập, tham quan ở các công

ty, các nhà máy, xí nghiệp ở nước ngoài. Hàng chục nghìn cán bộ quản lý sản

xuất, cán bộ, công nhân kỹ thuật khác được đào tạo ngay tại các xí nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài và trực tiếp trên các dây chuyền sản xuất.

Nhiều dây chuyền sản xuất phức tạp, có quy mô lớn đã hình thành và

đang được vận hành có hiệu quả với sự điều hành phối hợp của cán bộ Việt

Nam và các chuyên gia nước ngoài. Cho đến nay trong nhiều xí nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài số cán bộ là người nước ngoài đã giảm đáng kể, một

số xí nghiệp hoàn toàn do người Việt Nam điều hành, phía nước ngoài chỉ cử

người đến kiểm tra định kỳ.

Nhìn chung hơn 10 năm qua trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh của

số đông cán bộ trong các công ty liên doanh đã được nâng lên đáng kể. Đây là

một trong những vấn đề được quan tâm thông qua việc thực hiện các dự án

đầu tư nước ngoài, và cũng là một trong những mục tiêu chính cần đạt được

trong chuyển giao công nghệ.

2.2.3. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua nhập khẩu thiết bị,

máy móc

Trước năm 1989, đặc điểm hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua

nhập khẩu thiết bị máy móc là Nhà nước nắm độc quyền thông qua sự viện

trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1989 cùng với những đổi mới về

-60-

cơ chế và chính sách kinh tế, hoạt động này cũng được thay đổi về cơ bản.

Nghị định số 78/HĐBT, tháng 9/1989, quy định về chế độ và tổ chức

quản lý hoạt động nhập khẩu thiết bị, máy móc trực tiếp cho các cơ sở sản

xuất thuộc mọi thành phần kinh tế. Theo đó các đơn vị thuộc mọi thành phần

kinh tế ở trong nước được tạo điều kiện để tiếp xúc với ban hàng quốc tế. Các

doanh nghiệp sản xuất có cơ sở sản xuất ổn định, có đội ngũ cán bộ đủ trình

độ thẩm định, đánh giá các dự án công nghệ sẽ được quyền trực tiếp nhập

khẩu thiết bị, máy móc cho nhu cầu sản xuất.

Để thực hiện quyền bình đẳng trong hoạt động nhập khẩu thiết bị, máy

móc, cũng như hoạt động ngoại thương nói chung, tháng 1/1998 Chính phủ

ban hành Nghị định số 10/CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm

hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; và Nghị định số 12/CP

quy định về quy chế nhập khẩu thiết bị, máy móc từ nước ngoài. Những chính

sách đổi mới đã tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy hoạt động ngoại thương

Việt Nam, trong đó có hoạt động nhập khẩu thiết bị, máy móc. Sau đây là

bảng kết quả tổng hợp các hoạt động trên:

Bảng 2.9: Kết quả tổng hợp Kim ngạch xuất – nhập khẩu

và hoạt động nhập khẩu thiết bị, máy móc

Nhập khẩu thiết Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu bị, máy móc

Năm

Quy mô

Tốc độ

Quy mô

Tốc

Quy mô

Tốc

Quy mô

Tốc

(Triệu

(%)

(Triệu

độ

(Triệu

(Triệu

độ

độ

USD)

-

(%) 23,5

USD) 2.752

(%) 7,3

USD) 2.404

USD) 348

(%) 14,5

1990

124 246 -13,2 2.338 -15,1 2.087 251 12,0 98,4 1991

1240 4.04,1 23,7 2.540 8,7 2.580 - -40 1992

986 - 15,7 3.924 54,4 2.985 938 31,4 1993

980 - 35,8 5.825 48,5 4.054 1.771 43,7 1994

1224 24,9 34,4 8.155 40,0 5.449 2.706 49,7 1995

2140 74,8 3,2 11.143 36,6 7.256 2.887 53,6 1996

1854 - 26,6 11.592 4,0 9.185 2.407 26,2 1997

3652 96,8 9.360 1,9 11.499 -0,89 2.139 22,9 1998

3456 - 11.742 2,1 11.541 23,3 200 1,7 1999

-61-

4520 30,8 14.482 25,5 15.636 33,2 1.153 8,0 2000

4750 5,1 2001 15.027 3,8 16.162

19,4

2.770 16,8

5160 8,6 2002 16.536 10,0 19.300 18,4 2.770 16,8

5362 3,9 2003 19.880 19,0 24.995 26,7 5.115 25,7

5.120 - 28,9 31520 2004 26.000 25,0 5.520 21,2

Nguồn: Tổng hợp từ: Tổng cục Thống kê năm 2002, 2003, 2004; Niên giám thống kê năm 2003, 2004; Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 2001, 2002, 2003, 2004; Hoạt động xuất – nhập khẩu hàng hóa năm 2003 - Tổng cục Thống kê năm 2004; Báo Đầu tư số tháng 8 và tháng 10 năm 2005; Tạp chí Phát triển và Kinh tế số tháng 8/2005; Báo cáo tổng kết của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội tại kỳ họp thứ XI năm 2005.

Số liệu bảng trên cho thấy xuất - nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh

qua các năm, đặc biệt thời kỳ 1992 – 1996. Tốc độ xuất khẩu đã đạt trên

30%. Tuy nhiên từ năm 1997 do tác động của khủng hoảng tài chính khu

vực, tốc độ tăng xuất - nhập khẩu đã bị chậm lại, năm 1998 tốc độ tăng xuất

khẩu chỉ đạt 1,9%, tốc độ nhập khẩu là -0,89%. Từ năm 2002 hoạt động

ngoại thương đã có dấu hiệu phục hồi. Vào năm này đã có 17 mặt hàng đạt

kim ngạch trên 100 triệu USD và có 3 mặt hàng kim ngạch trên 2 tỷ USD là

dầu thô, dệt may và thủy sản, năm 2003 có thêm mặt hàng giày dép. Cơ cấu

xuất khẩu đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng hàng chế biến năm 1991

chiếm 8% đến năm 2000 đã đạt 44% và năm 2004 là trên 50%, theo đó tỷ

trọng sản phẩm thô đã giảm dần.

Cũng theo số liệu bảng trên, thì hoạt động nhập khẩu, đặc biệt là nhập

khẩu thiết bị, máy móc cũng tăng cả về số lượng lẫn quy mô. Nhờ có những

điều chỉnh trong cơ chế và chính sách kinh tế mà quan hệ thương mại được

mở rộng, tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận được những

thành tựu mới của khoa học và công nghệ, từ đó đổi mới công nghệ sản

xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mặt hàng, nâng cao năng

suất lao động. Hoạt động nhập khẩu thiết bị, máy móc thời kỳ 1990 – 1995

chủ yếu là dựa trên những mối quan hệ quen biết cá nhân nên những dự án

nhập khẩu thiết bị, máy móc là không nhiều. Thời kỳ 1996 – 2004, khi mà

quan hệ thương mại được mở rộng cả chiều rộng lẫn chiều sâu, những cam

kết quốc tế được Việt Nam thực hiện, trình độ cán bộ, lao động được nâng

-62-

lên thì các hoạt động này diễn ra theo đúng trình tự thương mại, hợp đồng

ký kết giữa các bên. Qua luồng chuyển giao công nghệ, trình độ cơ khí hóa

và công nghệ trong sản xuất được hiện đại hóa, sản phẩm sản xuất ra đáp

ứng được nhu cầu của thị trường trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh

của sản phẩm, trình độ tay nghề của người lao động được nâng lên, năng

suất lao động tăng.

2.2.4. Kết quả ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất

2.2.4.1. Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp

* Nông nghiệp

Từ khi thực hiện chính sách đổi mới đến nay, ngành nông nghiệp

nước ta đã đạt được những thành tích lớn, góp phần chuyển nhanh sang sản

xuất hàng hóa, đưa nông sản thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đời sống

nông dân được cải thiện đáng kể. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình

quân hàng năm là 5,6%. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo

đứng thứ hai trên thế giới, vấn đề an ninh lương thực của đất nước được đảm

bảo.

Đạt được kết quả trên là nhờ vào việc thực hiện chính sách đổi mới về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh đầu tư. Nhưng bên cạnh đó,

việc ứng dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ đóng vai

trò rất quan trọng trong các khâu lai tạo giống cây trồng, kỹ thuật phòng trừ

sâu bệnh, thủy lợi, nuôi trồng, chế biến nông sản, tiếp thu các công nghệ

giống lúa lai và giống lúa cao sản mới, triển khai kỹ thuật nuôi cấy mô.

Với sự nỗ lực của các nhà khoa học, nhiều biện pháp đã được triển khai

kịp thời trong sản xuất. Các giống cây trồng, vật nuôi đang có trong cơ cấu

sản xuất hiện nay phần lớn là do kết quả của khoa học và công nghệ mang lại,

một phần do các nhà khoa học nghiên cứu đưa lại, một phần do cải tiến giống

nhập ngoại. Việc áp dụng các giống cây lương thực – thực phẩm mới vào sản

xuất đã làm tăng năng suất từ 15 – 20%, góp phần nâng cao sản lượng lương

thực trong cả nước đạt trên 38,62 triệu tấn vào năm 2004, đảm bảo an ninh

lương thực và xuất khẩu từ 3 - 4 triệu tấn gạo/năm. Giá trị sản xuất nông

nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng/ha năm 1995

Về nghiên cứu chọn giống, trong những năm qua các nhà khoa học đã

chọn, tạo được trên 30 giống lúa quốc gia (mỗi giống lúa quốc gia làm lợi 10 tỷ

-63-

lên 18,2 triệu đồng/ha năm 2004.

không phải phụ thuộc vào nhập khẩu ngô lai từ nước ngoài (mỗi giống ngô làm

lợi 5 tỷ đồng/vụ), 9 giống lạc và nhiều giống cây công nghiệp, cây ăn quả…

đồng/vụ), 12 giống ngô lai có năng suất cao, giá rẻ, đạt chất lượng tốt, nhờ đó

Trong năm 2004, tổng diện tích lúa đạt 7.466 nghìn ha, năng suất trung

bình cả năm đạt 45,1 tạ/ha, tăng gần 4 tạ so với năm 1999, sản lượng lúa cả

nước đạt 33,67 triệu tấn, tăng 4,45 triệu tấn (hơn 7%) so với năm 1999.

Nguyên nhân chủ yếu là do áp dụng các giống cao sản mới, các kỹ thuật canh

tác tiên tiến làm cho năng suất tăng lên trong khi diện tích tăng không đáng

kể. Đặc biệt, thời gian qua, các nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu ra 4

trong 5 loại giống lúa phục vụ xuất khẩu là OM 1490, OM 2013, MTL 250,

VND 95-20 và ST 3. Tổng diện tích gieo trồng 4 loại giống lúa này đã chiếm

30% tổng diện tích lúa xuất khẩu. Giống lúa còn lại IR 64 cũng do các nhà

khoa học nghiên cứu ra trước đây.

Về chăn nuôi, trong thời gian qua, do tích cực đẩy mạnh việc ứng dụng

những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới về di truyền, khai thác có hiệu quả

nguồn gen qúy của vật nuôi, lai tạo các giống ngoại nhập, ngành chăn nuôi đã

chọn, nghiên cứu ra được 12 giống vật nuôi có năng suất phù hợp với điều

kiện Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành, đạt trung

bình 3,5–5%/năm. Các kết quả nghiên cứu về chăn nuôi đã mở ra một triển

vọng lớn cho chăn nuôi gia cầm và thủy hải sản tại các hộ gia đình, tạo nguồn

thu nhập lớn cho nông dân. Công nghệ cấy truyền phôi đã được đưa vào áp

dụng để tạo đàn bò giống hạt nhân và bò lai hướng sữa, xây dựng đàn bò cái

hạt nhân hướng sữa cho năng suất cao, đạt 3.400 – 4000 lít/chu kỳ, cao gấp

1,5 lần giống bò sữa thường, có con cho sữa cao tới 6.592 lít/chu kỳ. Khảo

nghiệm thành công công thức lai 2–3 máu giữa lợn ngoại (Đại Bạch,

Landrace) với lợn nội (Móng Cái). Các công thức lai với tỷ lệ máu lợn ngoại

1/2, 3/4, 7/8 cho tỷ lệ nạc tương ứng là 39-43%, 44-47%, 49-52%. Hoàn

chỉnh quy trình công nghệ nuôi lợn lai với các quy mô khác nhau có thể ứng

dụng trong nông hộ. Ứng dụng chương trình phần mềm PIGBLUP, PIGALES

Thời gian qua chúng ta đã triển khai việc nuôi giữ và sản xuất ở quy mô

công nghiệp các giống gà hướng thịt, gà hướng trứng 240-280 trứng/năm. Đưa

vào sản xuất các dòng gà BT1, BT2 tạo ra từ kết quả ngh iên cứu trong nước và

tổ hợp lai như: IBE, ABE, ISA-MPK, tổ hợp lai gà Tam Hoàng- RhodRi… Đưa

-64-

và PIGCHAMP trong đánh giá giá trị và quản lý lợn giống.

Hoàng, Lương Phương…), từ Israen (Kabir), từ Pháp (Sasso) phù hợp với chăn

nuôi nông hộ. Hình thành các hộ chăn nuôi thả vườn có quy mô ngày càng cao,

làm thay đổi cơ cấu chăn nuôi. Nhờ công tác nghiên cứu chọn lọc nên các giống

vịt siêu trứng Khakicampell, vịt siêu thịt CV super M, vịt CV layer 2000 được

nhập vào nước ta trong nhiều năm nay vẫn giữ được các chỉ tiêu kinh tế – kỹ

thuật như lúc mới nhập, phát huy được trong sản xuất, đã trở thành nguồn thu

nhập lớn cho nông dân các tỉnh trong toàn quốc và xuất khẩu sang một số nước.

vào phục vụ sản xuất giống gà thả vườn có nguồn gốc từ Trung Quốc (Tam

Công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã đạt được nhiều tiến bộ,

hàng triệu cây con đã được tạo ra để chuyển giao vào công tác trồng rừng. Kết

quả trong 5 năm 1996 – 2000 đã trồng được 1,1 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ

9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi tái sinh 700 nghìn ha. Tổng diện tích và

độ che phủ rừng cả nước tăng lên đáng kể: năm 1995, có 9.302.200 ha, chiếm

28,3% độ che phủ; năm 2000, có 10.915.592 ha, chiếm 33,2% độ che phủ. Năm

2003, diện tích rừng tập trung theo Chương trình 5 triệu ha rừng đạt 200.000 ha,

diện tích rừng bị cháy giảm 60%, bị phá giảm 51% so với năm 2002.

* Lâm nghiệp

Nhiều biện pháp kỹ thuật, quy trình sản xuất đã được chuyển giao như:

quy trình khôi phục, chăm sóc, làm giàu rừng; quy trình trồng rừng thâm canh phục vụ nguyên liệu giấy đưa năng suất từ 8 – 10 m3/ha/năm lên 18 – 20 m3/ha/năm ở 5 tỉnh miền núi phía Bắc; quy trình trồng bạch đàn; quy trình trồng phi lao; quy trình ươm thông nhựa và trồng thông trên các vùng đất khô cằn, kỹ thuật trích nhựa thông; kết quả nhân giống luồng bằng cành không sử

dụng kích thích tố.

Trong thời gian qua, chúng ta đã nghiên cứu thành công kỹ thuật nhân

giống keo lai bằng hom phổ biến cho các tỉnh phía Nam. Đồng thời chuyển

giao công nghệ nuôi cấy mô các giống keo lai, cung cấp giống cho các dự án

khuyến lâm. Ba dòng keo lai tự nhiên BV10, BV16 và BV32 đã được công

nhận giống có khả năng sinh trưởng nhanh, có giá trị kinh tế hơn keo lá tràm.

keo tai tượng bạch đàn đã được đưa vào phổ biến rộng rãi trong sản xuất, tạo

ra hàng triệu cây con để trồng rừng. Kết quả rừng trồng sau 3 – 4 năm đã cho

tỷ lệ cây sống, tỷ lệ tăng trưởng, năng suất rừng trồng tăng lên gấp hai lần (có

nơi tăng gấp 5 lần) so với rừng trồng bằng cây con có nguồn gốc từ hạt.

-65-

* Ngư nghiệp

Về nuôi trồng thủy sản: Chúng ta đã nghiên cứu thành công mô hình

nuôi tôm sú năng suất cao (1,5 – 2,5 tấn/ha) ít phải thay nước; các mô hình

nuôi cá kết hợp với lúa có năng suất lúa 4,5 – 5 tấn/ha/năm. Áp dụng và

chuyển giao rộng rãi quy trình sản xuất tôm sú, tôm tảo, tôm càng xanh, cung

cấp tôm giống chủ động cho việc nuôi tôm thương phẩm.

Nghiên cứu thành công và áp dụng rộng rãi công nghệ sản xuất giống

cá ba sa nhân tạo, thay thế hoàn toàn và không phụ thuộc vào việc phải nhập

cá giống từ Campuchia, hạ giá thành cá giống, chủ động trong sản xuất, góp

phần mang tính quyết định trong việc khôi phục và phát triển nghề nuôi cá bè.

Trong nghiên cứu đã đạt được kết quả sản xuất giống thủy sản biển (cá

giò, cá song) và cá nước ngọt (cá chép lai, cá rô phi đơn tính, trê lai, cá bống,

cá tra,…). Sản xuất được giống cua biển, ghẹ, điệp, ốc hương, sò huyết, trai

ngọc. Đồng thời đã đạt được kết quả nuôi vi tảo, luân trùng, artemia thu bào

xác và sản xuất thức ăn công nghiệp cho tôm cá.

Về khai thác thủy sản: Hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực

này đã đạt được một số thành tựu đáng kể, như: xây dựng atlas ngư cụ Việt

Nam gồm 100 bản vẽ về các mẫu ngư cụ điển hình ở Việt Nam; xác định các

nghề có năng suất cao phù hợp với cỡ loại tàu khai thác hải sản xa bờ; khảo

sát, thiết kế và thi công các mẫu lưới kéo đôi cho tàu công suất 200 và 300

CV; tiến hành thiết kế ba loại lưới rê mực (2a=50; 60; 70mm); ứng dụng

thành công chài di động cho nghề vây khơi khai thác thủy sản.

Về chế biến thủy sản: Áp dụng chương trình quản lý chất lượng và vệ

sinh an toàn thực phẩm theo hệ thống HACCP. Công nghệ chế biến một số

sản phẩm từ cá tạp; công nghệ chế biến nước mắm ngắn ngày sử dụng enzim

có nguồn gốc vi sinh vật và thực vật.

2.2.4.2. Lĩnh vực công nghiệp

Các kết quả nghiên cứu của ngành công nghiệp đã tạo ra những sản

phẩm hàng hóa phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, ngành xây dựng,

giao thông vận tải. Nhiều sản phẩm được dùng trong ngành quốc phòng. Có

sản phẩm được dùng ở các xí nghiệp liên doanh; một số sản phẩm được xuất

khẩu hoặc được thị trường chấp nhận thay thế hàng nhập khẩu. Từ các kết

quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, đã đưa vào áp dụng hàng trăm quy

-66-

trình công nghệ, tạo ra nhiều hàng hóa, phục vụ sản xuất và đời sống.

Trong hoạt động khoa học và công nghệ, chúng ta đã chú trọng phát

huy hiệu quả phối hợp giữa tổ chức khoa học và công nghệ với các lực lượng

khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, tạo

mạng lưới khoa học và công nghệ sâu rộng. Thực hiện thí điểm thành công

mô hình doanh nghiệp nhà nước trong các cở sở nghiên cứu, mô hình gắn

nghiên cứu với khoa học và công nghệ, với sản xuất kinh doanh của ngành.

Hiện nay chúng ta đang tiến hành thí điểm mô hình gắn kết viện nghiên cứu

với các công ty, “Viện – Doanh nghiệp”, “Doanh nghiệp – Viện”. Phát huy sự

phối hợp giữa các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước với một số cơ

quan khoa học và công nghệ nước ngoài, các tổ chức quốc tế để nghiên cứu

khoa học và công nghệ hoặc chuyển giao công nghệ.

Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao, các

tổ chức khoa học và công nghệ đã đẩy mạnh sản xuất thử nghiệm các sản

phẩm mới do kết quả nghiên cứu tạo ra, thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn dịch

vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ, sản xuất máy móc thiết bị,

trực tiếp phục vụ sản xuất và đời sống.

Nhờ vào việc áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, chuyển

giao công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp mà nhịp độ tăng giá trị sản xuất

công nghiệp bình quân hàng năm đạt 13,5%; trong đó, công nghiệp quốc

doanh tăng 9,5%, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5%, khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài tăng 21,8%. Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp

chủ yếu đã tăng khá nhanh, cơ cấu các ngành công nghiệp có sự dịch chuyển

đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu

chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ hiện đại.

Những kết quả nổi bật của hoạt động nghiên cứu khoa học và công

nghệ và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp gồm:

* Trong ngành cơ khí, chế tạo máy:

Hiện nay chúng ta đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu và thực nghiệm

thuộc chương trình công nghệ chế tạo máy, tạo ra được các kết quả thiết thực

phục vụ sản xuất. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh

vực này tập trung giải quyết các công nghệ cơ bản về hàn, đúc, thiết kế và chế

tạo đồng bộ một số thiết bị lớn có tầm quan trọng và tác động thúc đẩy phát

-67-

triển sản phẩm mới. Đồng thời, đã tạo ra nhiều sản phẩm cơ khí có giá trị

như: thiết bị sấy cà phê, thiết bị phân hạt cà phê trên cơ sở kỹ thuật quang,

điện tử và tự động hóa, máy sấy hoa quả, thực phẩm, chế biến thức ăn gia

súc,…

Về công nghệ cơ bản: Tiến hành nghiên cứu công nghệ hàn các thùng tháp lớn bằng thép không gỉ, công nghệ hàn tấm dày. Trong khâu đúc đã nghiên cứu áp dụng công nghệ hộp nguội, các công nghệ cát - nhựa tự cứng và cát - nhựa thổi khí; đồng thời đúc thử một số sản phẩm có khối lượng lớn ở Công ty HAMECO, một số chi tiết hộp số máy Bông Sen, đúc thép không gỉ và gang crôm cao. Nghiên cứu công nghệ khử khí trong luyện thép bằng nguyên tố Al, Si, Mn và khử bằng khí trơ (N, Ar) trong quá trình chế tạo các sản phẩm xích màng cào, các loại van thép không gỉ. Chế tạo thành công và đưa vào sử dụng tại các mỏ than mũi khoan xoáy cầu kiểu Nhật Bản KCN 247.7, giá thành bằng 50% nhập của Nhật Bản. Về chế tạo thiết bị lớn: Chương trình cơ khí đã chế tạo và lắp đặt tổ bơm công suất 36.000 m3/giờ tại trạm bơm Cốc Thành với giá 2,4 tỷ đồng, rẻ hơn rất nhiều so với sản phẩm cùng loại do Nhật Bản hoặc Italia sản xuất (giá

nhập khoảng 1 triệu USD) và do Trung Quốc sản xuất (giá 360.000 USD).

Chế tạo thành công phần điện của động cơ công suất 1.900 kw và phục hồi

thành công động cơ máy nghiền bi có công suất lớn của ngành xi măng và

dầu khí, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nghiên cứu, hoàn thiện thiết kế máy

Về hệ thống các máy công cụ và máy CNC: Hoàn thành điều khiển số

bằng máy tính hóa 10 chi tiết máy phay 6606, máy bào HC13 TA, máy doa

ngang W250, máy tiện SKJ-63, lò nấu thép hồ quang DCII3 và 5 lò điện trở.

Đồng thời, triển khai hoàn thành cơ bản điều khiển số bằng máy tính hóa 9 máy

công cụ: 2450, 2657,2620, 6606, 6641, 6F610, 7242, 3M173, 2B460.

kéo Bông Sen BS20 cùng công nghệ chế tạo các chi tiết cơ bản của máy.

* Trong ngành dệt may và da giày:

Trong thời gian qua, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ

trong ngành dệt may đã được áp dụng vào các doanh nghiệp, có tác dụng góp

phần làm đổi mới công nghệ và sản phẩm. Kết quả các nỗ lực nghiên cứu

phát triển đã góp phần khẳng định vị trí nguồn nguyên liệu dệt Việt Nam

(bông, tơ tằm). Trên cơ sở đó, Nhà nước đã xây dựng các chương trình phát

-68-

triển vùng nguyên liệu dệt. Ngoài ra, lực lượng cán bộ nghiên cứu khoa học

và công nghệ đã tập trung cùng với cán bộ quản lý tư vấn cho doanh nghiệp

trong việc lựa chọn công nghệ và thực hiện các dự án đầu tư.

Hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực da giày đã đạt được

một số kết quả đáng khích lệ, như: nghiên cứu thành công và bước đầu cho ra

đời phần mềm thiết kế giày dép trên máy vi tính; triển khai sản xuất các mẫu

giày dép mới theo phương pháp tiên tiến, nhanh, chính xác, đảm bảo yêu cầu

kỹ thuật, giúp chủ động trong thiết kế tạo mẫu, sản xuất ra sản phẩm đẹp, thời

trang. Nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất giày da chuyên dụng bảo

hộ lao động, nghiên cứu ổn định mũ da giày chịu nhiệt, kiểu dáng và công

nghệ sản xuất. Nghiên cứu thành công một số phương pháp trau chuốt mới để

nâng cao chất lượng da thành phẩm và đưa ra một quy trình trau chuốt sản

phẩm chất lượng cao phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nghiên cứu và áp

dụng thành công công nghệ thuộc da mũ giày bằng phương pháp thuộc kết

hợp tanin thảo mộc và tanin tổng hợp, quy trình công nghệ sạch, sản phẩm

hợp vệ sinh và giảm ô nhiễm môi trường.

* Trong chế biến thực phẩm và đồ uống:

Chúng ta đã khảo sát thành công công nghệ ép tách và tinh lọc dầu thực

vật (đậu tương, lạc vừng) giúp cho việc lựa chọn công nghệ thích hợp và đầu

tư làm dầu ăn xuất khẩu. Đồng thời chúng ta đã nghiên cứu thành công công

nghệ và thiết bị trong dây chuyền chế biến rau, củ quả thái lát, chiên ròn trong

chân không; ứng dụng công nghệ sấy đặc biệt (sấy lạnh, sấy tầng sôi, sấy

thổi) vào chế biến và bảo quản nông sản. Nghiên cứu thành công chất bảo

quản thực phẩm trong sản xuất rau quả đóng hộp, giải quyết khó khăn cho các

vùng trồng rau quả, từng bước đạt tiêu chuẩn của quốc tế.

Nghiên cứu thành công việc sử dụng nguyên liệu trong nước, thay thế

nguyên liệu nhập ngoại trong sản xuất bia; lựa chọn chế độ thủy phân tinh bột

từ các ngũ côc khác nhau thành sirô giàu đường maltose cho sản xuất bia, phù

hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành bia nói

riêng, giúp cho nông nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, đã xây dựng được bộ

sưu tập, lưu giữ các loại men bia và enzime công nghiệp thực phẩm, có giá trị

ứng dụng trong thực tế sản xuất, có ý nghĩa rất lớn để ổn định và nâng cao

chất lượng bia, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của sản

-69-

xuất.

Nghiên cứu thành công công nghệ chế biến nước quả tươi giàu dinh

dưỡng, có triển vọng ứng dụng vào sản xuất đại trà phục vụ nhu cầu nước quả

tươi ở trong nước, nhằm khuyến khích phát triển trồng trọt các loại quả nhiệt

đới. Đồng thời hoàn thiện quy trình nâng cao chất lượng rượu vang từ quả

nhiệt đới, xác định được chế độ xử lý hoa quả, chế độ lên men và nghiên cứu

ứng dụng một số chất phụ gia.

* Trong ngành năng lượng:

Các nhà khoa học trong ngành đã cùng các nhà hoạch định chính sách

hoàn thành xây dựng chiên lược và chính sách phát triển năng lượng bền

vững, đánh giá lại tài nguyên năng lượng và đưa ra quy hoạch tổng thể phát

triển năng lượng dài hạn đến năm 2020. Các đề tài nghiên cứu khoa học và

công nghệ trong lĩnh vực này đã đạt được một số kết quả nổi bật như:

Nghiên cứu thành công công nghệ gia công các phụ tùng chi tiết thay

thế của các tổ máy thủy điện đang vận hành đã đến thời gian phải duy tu bảo

dưỡng. Chế tạo thành công hệ thống truyền nhiệt qua vách phục vụ cho việc

thay thế hệ thống làm mát của Liên Xô trước đây tại 8 tổ máy phát điện của

nhà máy thủy điện Hòa Bình, với giá thành tự chế tạo bằng 40% giá nhập của

Cộng hòa Liên bang Nga và chất lượng còn cao hơn.

Nghiên cứu và đưa vào chế tạo hàng loạt các mô hình điện mặt trời

công suất từ 30W đến 1.500W phục vụ cho các vùng sâu, vùng xa, biên giới

và hải đảo. Chế tạo và đưa vào sử dụng hàng loạt các thiết bị đo lường và

đóng cắt cho lưới điện trung thế: cầu dao phụ 24 kV, cầu dao cách ly 35 kV,

các loại máy biến áp điện (TU) 35 kV và máy biến dòng điện (TI) 35 kV.

Đồng thời nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và lắp ráp hoàn chỉnh máy biến áp

Nghiên cứu, đổi mới các công nghệ và thiết bị nhằm nâng cao năng suất

lao động, tăng sản lượng khai thác than, giảm giá thành. Nghiên cứu ứng dụng

tin học trong công nghiệp khai thác mỏ. Nghiên cứu sử dụng máy xúc thủy lực

gầu ngược để đào sâu đáy mỏ, thay thế cho máy xúc gầu thuận EKG cổ truyền,

giải quyết về căn bản vấn đề đào sâu đáy mỏ cho các mỏ lộ thiên, nâng cao chất

lượng than, giảm chi phí sản xuất và đảm bảo an toàn trong quá trình xuống sâu. Nghiên cứu và áp dụng thành công công nghệ vét bùn bằng tàu hút bùn ở mỏ than Cọc Sáu, giúp nạo vét được trên 1 triệu m3 bùn tồn đọng hàng chục năm có chiều dày 10 – 20 m, phục hồi khai thác gần 8 triệu tấn than, đem lại

-70-

không bình dầu phụ 400 kVA-22kV phù hợp với khí hậu Việt Nam.

hiệu quả kinh tế hàng chục tỷ đồng. Nghiên cứu chế tạo thành công bột

manhêtit siêu mịn làm huyền phù cung cấp cho các nhà máy tuyển quặng với

giá bằng 50% giá nhập ngoại. Trên cơ sở đó đã đầu tư xây dựng dây chuyền

sản xuất, mỗi năm cung cấp trên 1.000 tấn cho các nhà máy tuyển quặng. Nhờ

vậy đã chấm dứt không phải mua từ nước ngoài từ năm 1997.

* Trong ngành dầu khí:

Áp dụng các kỹ thuật tiến bộ trong thu nổ và xử lý số liệu địa chấn, tăng

cường sử dụng địa vật lý ba chiều. Sử dụng công nghệ và thiết bị khoan ngang,

khoan định hướng. Sử dụng các dàn khoan hiện đại với các dịch vụ kỹ thuật tiên

tiến như: choòng khoan PDC, thiết bị đo đồng thời khi khoan MWD, dung dịch

khoan có chất lượng cao ít độc hại đến môi trường. Áp dụng các công nghệ hiện

đại về nghiên cứu mỏ, mô hình hóa mỏ để chính xác hóa trữ lượng dầu khí thu

hồi cho các mỏ đang phát triển, cập nhật số liệu về trữ lượng tiềm năng cho toàn

thềm lục địa Việt Nam. Áp dụng các biện pháp tăng cường khai thác và nâng

cao dần hệ số thu hồi dầu khí bằng cách mở rộng khoảng mở vỉa, gây nứt vỡ

thủy lực, bơm ép nước, gaslift, sử dụng phương pháp hóa học, vi sinh. Nâng cấp,

cải tạo hệ thống các dàn khai thác, đặc biệt chú trọng nâng cấp tự động hóa các

quá trình giám sát khai thác, theo dõi, thu nhận số liệu, hệ thống đóng mở các

van an toàn, phòng cháy và chữa cháy tự động. * Trong ngành bưu chính – viễn thông:

Trong thời gian qua, công tác nghiên cứu trong lĩnh vực bưu chính -

viễn thông đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Nhiều đề tài nghiên cứu đã

tạo ra các kết quả mang hàm lượng công nghệ cao và được triển khai ứng

dụng trong các lĩnh vực khai thác dịch vụ, điều hành sản xuất, kinh doanh và

công nghiệp bưu chính - viễn thông. Các đề tài nghiên cứu cũng đóng góp vai

trò quan trọng trong công tác xây dựng, định hướng, chiến lược phát triển,

quy chế, chính sách đổi với ngành bưu chính – viễn thông… Cụ thể là: nghiên

cứu và áp dụng thành công việc kết nối và cung cấp thông tin hàng ngày qua

các trang chủ của hơn 10 cơ quan thông tấn, báo chí, các dịch vụ thông tin

trên mạng Internet. Nghiên cứu và xây dựng xong phương pháp thẩm định

nhà nước đề án phóng vệ tinh viễn thông của Việt Nam và đã xây dựng xong

đề án tổng thể về việc phóng vệ tinh của Việt Nam. Xây dựng được 1 trạm

-71-

thu ảnh vệ tinh NOAA, thử nghiệm thành công quy trình xử lý ảnh NOAA để

bắt các PIXEL lửa, giúp nhanh chóng xác định tình trạng cháy rừng, đánh giá

hiện trạng thảm thực vật và trường nhiệt biển Đông do các luồng nước nóng

hoặc do các luồng cá vận động gây ra. Xây dựng các module mô phỏng phục

vụ việc thăm dò và dự đoán trữ lượng dầu khí, phục vụ an ninh, quốc phòng

như mô phỏng điều kiện bay của tên lửa phòng không, tình huống tác chiến

phục vụ huấn luyện phân đội tàu tên lửa hải quân.

Mạng lưới bưu chính – viễn thông của nước ta đã có những bước phát

triển nhảy vọt, với trình độ công nghệ. Nhiều dịch vụ bưu chính mới, tiên tiến

đã phát triển rộng khắp đất nước, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của khách

hàng. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực này được

định hướng vào việc tiếp tục mở rộng các dịch vụ bưu chính, mở dịch vụ

EMS tại 47 tỉnh, thành trong nước và mở EMS quốc tế với 49 nước. Tiếp tục

hiện đại hóa mạng viễn thông quốc tế thông qua sử dụng cáp quang biển và

thông tin vệ tinh với 4.863 kênh có chất lượng cao. Nhờ đó, mạng viễn thông

trong nước tiếp tục được nâng cấp và mở rộng. Chúng ta đã nhanh chóng đưa

vào khai thác nhiều tuyến truyền dẫn băng rộng cấp kỹ thuật số đồng bộ liên

tỉnh, nâng dung lượng truyền dẫn từ 622 Mb/s lên 2,5 Gb/s tại các tuyến cáp

quang vòng trên tuyến trục Bắc – Nam, phát triển thông tin vệ tinh VSAT,

đặc biệt là cho các vùng sâu, vùng xa; chuyển đổi trung kế R2 sang báo hiệu

kênh chung C7 của mạng cấp I lên 14.000 mạch, đảm bảo sử dụng rộng rãi

báo hiệu C7 trên tuyến trục liên tỉnh và quốc tế; mở rộng thông tin di động

GMS, với các dịch vụ roaming quốc tế, WAP. SMS, GPRS; chuyển dần sang

mạng thông tin di động thế hệ 3 (3G) với tiêu chuẩn CDMA.

* Trong ngành giao thông vận tải:

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành giao thông vận tải, hoạt động

khoa học và công nghệ đã đạt được những thành tựu quan trọng, phục vụ đắc lực

cho sản xuất – kinh doanh trên cả 3 lĩnh vực: kết cấu hạ tầng giao thông vận tải,

công nghiệp giao thông vận tải và tổ chức khai thác vận tải. Những thành tựu

khoa học và công nghệ đáng chú ý trong giai đoạn này bao gồm:

Nghiên cứu và ứng dụng thành công các công nghệ đúc hẫng để thi

công cầu bêtông dự ứng lực khẩu độ lớn tới 130m và công nghệ đúc đẩy để

thi công cầu dự ứng lực khẩu độ trung bình; và đã triển khai có hiệu quả trong

-72-

thi công các cầu sông Gianh, sông Mã, sông Phú Lương, Hiền Lương,… Kết

quả trên đã khẳng định được công nghệ xây dựng cầu ở Việt Nam đang tiến

kịp trình độ của khu vực và thế giới. Chúng ta tiếp thu và làm chủ công nghệ

cầu dây văng. Trên cơ sở nắm vững công nghệ thi công cầu dây văng Mỹ

Thuận, đã tự thiết kế, thi công cầu dây văng khẩu độ 50 - 60m, như cầu Thác

Giếng, cầu Đắc Rông,… Sản xuất các kết cấu thép có kết cấu phức tạp và yêu

Áp dụng thành công các công nghệ sử dụng bấc thấm và vải địa kỹ thuật

trong xây dựng nền đường trên đất yếu, công nghệ sản xuất và sử dụng cấp phối

đá dăm làm lớp móng mặt đường trong xây dựng đường bộ. Nhờ áp dụng các

công nghệ này, chúng ta đã cải tiến từng bước chất lượng đường, tăng năng suất

và tiến độ thi công, giải quyết được các vấn đề kỹ thuật trong xây dựng đường

trên nền đất yếu, trong các vùng sình lầy, các vùng ngập lũ và bước đầu đáp ứng

được yêu cầu xây dựng đường ở nông thôn, miền núi, đồng bằng sông Cửu

Long.

cầu lắp lẫn cao như dàn Benlây, UIKM, dầm cầu thép kiểu dàn nhịp 30m.

* Trong ngành xây dựng và kiến trúc:

Trong 5 năm qua, việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và

công nghệ, đổi mới và tiếp nhận các công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực thi

công xây lắp, chế tạo thiết bị cơ khí xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng

đã đóng góp nhiều cho tăng trưởng của ngành xây dựng nói riêng và của cả

nền kinh tế nói chung. Nhiều sản phẩm của các công nghệ mới đã thay thế

sản phẩm nhập ngoại, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong nước, thậm chí

còn xuất khẩu tại chỗ hoặc xuất khẩu ra nước ngoài mang lại hiệu quả kinh tế

cao. Một số thành tựu khoa học và công nghệ nổi bật đã mang lại lợi ích kinh

Ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu trong sản xuất các sản phẩm

tế thiết thực trong sản xuất như:

lửa cao alumin, bêtông chịu lửa cao ít xi măng, men cho gạch gốm ốp lát, đã tiết

kiệm được khoảng 8,5 tỷ đồng. Áp dụng các công nghệ mới trong thi công và

chế tạo cơ khí như công nghệ chế tạo dầm hàn, công nghệ sơn và làm sạch sản

phẩm, công nghệ lốc tôn, thiết bị sản xuất xi măng và gạch không nung,…đã

mang lại hiệu quả ước tính 12,631 tỷ đồng. Áp dụng các loại phụ gia cho bêtông

do tự nghiên cứu và sản xuất đã tiết kiệm được hàng tỷ đồng mỗi năm nhờ tiết

xi măng bền sunphát cao, xi măng giếng khoan dầu khí chủng loại G, gạch chịu

kiệm xi măng, nâng cao chất lượng bêtông, cải thiện công nghệ thi công. 2.2.4.3. Lĩnh vực Y – dược

-73-

Các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và công nghệ đã thực sự đóng

góp một vị trí đòn bảy then chốt và là động lực để phát triển khoa học và công nghệ trong ngành y tế, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ

sức khỏe nhân dân. Các hướng nghiên cứu được tập trung đầu tư trong thời gian qua là: dị ứng thuốc; sức khỏe sinh sản của phụ nữ tuổi mãn kinh; quy trình sản xuất và chuẩn hóa các sản phẩm từ huyết tương; giải pháp phòng

chống sốt rét ở một số vùng kinh tế và vùng sâu, vùng xa; xây dựng tiêu chuẩn bụi môi trường, chẩn đoán phòng chống bụi phổi silíc; nghiên cứu mô hình sản xuất tại chỗ và cung cấp thuốc thiết yếu từ nguồn dược liệu phục vụ

cộng đồng ở miền núi; chuyển giao công nghệ sản xuất vắcxin sởi tại Việt Nam. Các đề tài nghiên cứu đã đi sâu vào nghiên cứu ở mức phân tử, nghiên cứu về gen, về miễn dịch, men nhằm tìm hiểu sâu về quá trình bệnh lý, cơ chế

sinh bệnh, cơ chế tác dụng của thuốc. Trong giai đoạn hiện nay, ngành y tế đã đạt được một số kết quả như: thu thập gần 10.000 chủng vi sinh vật, trong đó có 9.797 chủng trong nước.

Nghiên cứu khai thác chủng; mã hóa thông tin các chủng đang lưu giữ; thăm dò chuẩn bị khai thác chủng ở Việt Bắc. Mở thêm cơ sở bảo tồn lưu giữ gen và giống cây thuốc ở miền Nam, nâng tổng số mạng lưới lên 12 cơ quan, đơn

vị. Có khoảng 80/250 loài cây thuốc quý hiếm được bảo tồn, 86 loài/chủng đã được bảo quản hạt trong kho lạnh. Chương trình KHCN.11 đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất

văcxin viêm gan B tái tổ hợp AND thế hệ 2 trong phòng thí nghiệm; ổn định công nghệ sản xuất vắcxin viêm gan B từ plasma thế hệ 1, quy mô 500.000

liều/năm, đạt tiêu chuẩn quốc tế và đã sản xuất được hơn 3 triệu liều giá rẻ bằng 1/3 nhập ngoại, phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng; ổn định công nghệ sản xuất vắcxin phòng tả có phối hợp kháng nguyên, quy mô bán

công nghiệp 500.000 liều/năm và đã sản xuất được 2 triệu liều phục vụ cho việc phòng tránh dịch bệnh ở các vùng bị lũ lụt. Trong điều trị, đã ứng dụng một số thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo bước nhảy

vọt của ngành y tế Việt Nam trong điều trị và chẩn đoán một số bệnh về tim mạch như: nong và đặt stand, nong van 2 lá, siêu âm tim qua thực quản với độ thành công 98 – 100%, chi phí rẻ hơn rất nhiều so với điều trị ở nước ngoài.

-74-

Thành công trong việc tách một số thành phần máu để truyền máu từng phần thay thế truyền máu toàn phần, tăng tính an toàn trong truyền máu và hiệu quả

trong điều trị các bệnh về máu. Nghiên cứu thành công quy trình hỗ trợ cắt

cơn và duy trì hỗ trợ cai nghiện ma túy bằng phương pháp điện châm, không dùng thuốc, không độc hại, không tai biến và có giá trị kinh tế.

Nhờ có những kết quả của khoa học và công nghệ cùng với những nỗ lực vượt bậc của ngành y tế, nên trong thời gian qua, nước ta đã không xảy ra bất kỳ vụ dịch lớn nào, kể cả ở những vùng bị bão lụt. Việt Nam đã được

công nhận là nước thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, tỷ lệ sốt rét mới mắc giảm hẳn, tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính giảm, không xảy ra những vụ dịch sốt rét lớn trong cả nước. Các kỹ thuật và công nghệ chẩn đoán, điều trị,

cũng như dự phòng đã được đổi mới, nâng cấp và hiện đại hóa đáng kể. Việt Nam đã tự cung cấp được nhiều sản phẩm thuốc thiết yếu cho xã hội, phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là đồng bào ở các

vùng sâu, vùng xa, vùng núi, những vùng gặp khó khăn do thiên tai lũ lụt. Sản xuất được 9/10 loại vắcxin, đáp ứng cho các chương trình tiêm chủng mở rộng, làm lợi cho nhà nước hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Trình độ công nghệ,

trình độ sản xuất của ngành y tế ngày càng được nâng cao, một số loại vắcxin có khả năng xuất khẩu. Việc áp dụng kỹ thuật tiến bộ và ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong

lĩnh vực y học đã góp phần thiết thực nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và y học dự phòng, từng bước tiếp cận với các kỹ thuật và công nghệ tương ứng của các nước trong khu vực, góp phần đáng kể vào mục tiêu phát triển ngành y tế.

Trong thời gian qua, các tiến bộ kỹ thuật và kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ đã được áp dụng vào thực tiễn, đem lại hiệu quả chữa bệnh cao như: trong lĩnh vực tim mạch, đã áp dụng phương pháp phẫu thuật tim kín và hở, thay van tim; siêu âm, nội soi, đo áp lực buồng tim; siêu âm lòng mạch, chụp chọn lọc mạch vành tim và các mạch nội tạng trong chẩn đoán và điều trị. Trong chẩn đoán hình ảnh và chẩn đoán có đi kèm can thiệp, đã có phẫu thuật nội soi và nội soi can thiệp; kỹ thuật X - quang vi tính cắt lớp (CT) và cộng hưởng từ hạt nhân (MRI); phối hợp siêu âm – nội soi – can thiệp. Ngoài ra, ngành y tế còn đạt được một số tiến bộ kỹ thuật và thành công trong việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào chẩn đoán -

-75-

điều trị – dự phòng: phân tích thành phần sỏi mật; ghép thận; thay chỏm xương đùi; phẫu thuật phình đại tràng bẩm sinh; lade điện quang đông trong phẫu thuật điều trị một số bệnh ung thư, bệnh lý về mắt; thụ tinh trong ống nghiệm, điều trị

vô sinh; phẫu thuật dẫn lưu chữa bệnh não ung thủy; ghép tủy xương bằng

truyền tế bào gốc máu ngoại vi để điều trị một số bệnh máu ác tính và bệnh di truyền bẩm sinh về máu; mổ đục thủy tinh thể theo kỹ thuật facco. Quy trình

công nghệ sản xuất huyết thanh mẫu của nước ta đã đạ được tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới trong truyền máu và đảm bảo an toàn truyền máu, công nghệ tách chiết thành phần máu đảm bảo truyền máu từng phần.

2.3. Đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian từ năm 1996 đến nay

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc và tác động kinh tế xã hội Trong giai đoạn 1996 – nay, cùng với sự tăng trưởng cao về kinh tế; sự mở rộng và phát triển của các quan hệ kinh tế đối ngoại; sự cải tiến, mở rộng và xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế;… thì hoạt động chuyển giao công nghệ cũng có nhiều mặt tích cực đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội. 2.3.1.1. Những kết quả đạt được

- Năng lực hoạt động của công nghệ Các công nghệ được chuyển giao qua các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu là các công nghệ phục vụ cho ngành công nghiệp, sau đến là ngành dịch vụ. Quy mô chuyển giao công nghệ so với trước đó (1986 - 1995) gấp 3,5 lần, được thực hiện rộng khắp trong cả nước, trong đó tập trung ở những nơi có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như Bình Dương, Bà Địa – Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,… Tại đây, các công nghệ được phát huy hết công suất, thời gian hoạt động của công nghệ tương đối ổn định, thu hút được lao động tại chỗ và các vùng lân cận. So với trước đây, hàng hóa được sản xuất ra rất đa dạng và phong phú, phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu sang các thị trường lớn trên thế giới, hạn chế tối đa các mặt hàng nhập khẩu trước đó. Có rất nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng hóa ở một số ngành, một số lĩnh vực được thực hiện nhiều lần do sự ổn định của chất lượng sản phẩm được sản xuất ra. Các công nghệ được chuyển giao cũng có nhiều công nghệ được cải tiến phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, với những thông số kỹ thuật đáp ứng được các tiêu chuẩn của quốc tế, sử dụng tiết kiệm các nguồn nguyên – nhiên

liệu. Sự liên thông trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh đã tạo ra một mạng lưới vệ tinh rộng khắp, tận dụng tối đa các nguồn lực, khai thác triệt để các lợi thế tại nơi công nghệ được đưa vào sản xuất. Các công nghệ trong

-76-

nước được triển khai và ứng dụng vào sản xuất chủ yếu tập trung ở lĩnh vực

nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực nông, thủy, hải sản. Những công nghệ này

được áp dụng trong một quy mô nhỏ ở mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương khác nhau phù hợp với tiềm năng của từng vùng. Đây là những công nghệ sạch,

tiêu hao ít năng lượng và có khả năng thu hồi vốn nhanh.

- Trình độ kỹ thuật của công nghệ Các công nghệ được lựa chọn vào Việt Nam, tùy vào tững lĩnh vực cụ

thể và hình thức chuyển giao mà có thông số kỹ thuật so với khu vực và thế giới là khác nhau. Theo sự đánh giá chung của nhiều chuyên gia, về mặt tổng thể cho thấy hoạt động chuyển giao công nghệ trong những năm qua thông

qua các luồng khác nhau mà công nghệ được nhập vào chủ yếu là các công nghệ đạt trình độ trung bình của thế giới, ở thế hệ thứ hai, thứ ba là chủ yếu. Tuy vậy, độ ổn định của quy trình sản xuất, mức độ chính xác của sản phẩm,

những thông số về kỹ thuật luôn được cải tiến hợp lý.

- Về sản phẩm: Các sản phẩm được sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Những mặt hàng xa xỉ, những mặt hàng

dân dụng, phục vụ cho các nhu cầu đi lại, sinh hoạt hàng ngày,… nhờ những dây chuyền sản xuất tại chỗ với chất lượng, mẫu mã và kiểu dáng tốt, giá thành hợp lý có sức cạnh tranh được đưa ra thị trường và được thị trường

chấp nhận. Bên cạnh đó công nghệ bảo quản, xử lý sau thu hoạch, sản xuất và chế biến cũng được nâng cao và đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.

- Trình độ quản lý và lao động: Nhờ có hoạt động chuyển giao công nghệ mà trình độ quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ được nâng lên rõ rệt.

Những kinh nghiệm quản lý được tích lũy ngay trong quá trình làm việc, hội thảo trong và ngoài nước, thông qua các chương trình đào tạo, hợp tác quốc tế. Công nhân, kỹ thuật viên được tuyển dụng và làm việc trực tiếp trên các

dây chuyền, quy trình sản xuất mới, cùng với người nước ngoài nên đòi hỏi phải có trình độ tay nghề cao, chuyên môn tốt thì mới đáp ứng được nhu cầu của sản xuất. Thông qua việc tiếp cận với các công nghệ mới, trình độ người

lao động ngày càng được nâng lên, đạt mức chuẩn của khu vực. 2.3.1.2. Tác động kinh tế - xã hội

Với sự hiện đại hóa của công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công

nghệ vào thực tiễn sản xuất đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, làm thay

-77-

- Góp phần tăng trưởng kinh tế

đó là sự đa dạng trong các nguồn vốn đổ vào Việt Nam đã góp phần không nhỏ

cho sự tăng trưởng kinh tế, giảm thiểu tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế thời gian

qua. Các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ trọng điểm, các hướng

công nghệ ưu tiên về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật

liệu mới, tự động hóa, công nghệ cơ khí – chế tạo máy, đã góp phần nâng cao

năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất,

chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế, đóng góp tích cực cho sự tăng

trưởng kinh tế của ngành, địa phương nói riêng và kinh tế đất nước nói chung.

Nếu so sánh với các thời kỳ trước đây, thời kỳ 1976 – 1980 tăng trưởng bình

quân đạt 0,4%/năm, thời kỳ 1981 – 1985 đạt 6,4%/năm, thời kỳ 1985 – 1990

giảm còn 3,9%/năm, đạt cao nhất 8,2%/năm ở thời kỳ 1991 –1995, thời kỳ 1996

– 2000 giảm còn 6,7%/năm và ước đạt 7,5%/năm giai đoạn 2000 – 2005. Trong

năm 2004 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đạt khá cao là 7,7%.

đổi cục diện thị trường, tỷ trọng xuất - nhập khẩu của nhiều mặt hàng. Thêm vào

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Nhờ các hoạt động chuyển giao công nghệ mà cơ cấu kinh tế của nước ta cũng có sự thay đổi tỷ trọng, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa có sức

cạnh tranh cao hơn như da giày, điện tử, thủy sản,… Bảng 2.10: Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam (Đơn vị %)

Năm Tổng số

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Tỷ trọng của các ngành Nông nghiệp Công nghiệp – Xây dựng Dịch vụ 42,51 27,76 42,15 25,77 41,73 25,78 40,08 25,43 38,74 34,53 38,63 23,25 38,46 22,99 38,23 21,80 38,50 20,40 29,73 32,08 32,49 34,49 36,73 38,12 38,55 39,97 41,10

Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2003 – 2004, Thời báo kinh tế Việt Nam.

Tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2005 tăng cao (8,1%), cao

nhất so với cùng kỳ từ 1996 năm đến nay. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng

-78-

trong GDP tương ứng là 41,25%, dịch vụ là 38,13%, nông nghiệp là 20,62%.

Trong giai đoạn từ 1996 đến nay, đóng góp của nông nghiệp trong

GDP đã giảm đáng kể trong khi đó đóng góp của công nghiệp – xây dựng và

dịch vụ trong GDP đã được tăng lên tương ứng. Với chủ trương ưu tiên

chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ,

phần nào đã nâng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp lên, theo đúng

chiến lược phát triển của đất nước. Trong xu thế chung của nền kinh tế thì

nhân tố công nghệ ngày càng phát huy tác dụng lớn vai trò và tăng khả năng

đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế.

Bảng 2.11: Tỷ lệ đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với tăng

trƣởng GDP (Đơn

vị: %)

Các yếu tố 1993 –1997 1998 - 2002

Vốn 69 57,5

Lao động 16 20

TFP (các nhân tố tổng hợp) 15 22,5

Tổng số 100 100

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam 2003 -2004

Nhưng không vì thế mà nông nghiệp nước ta lại không được chú

trọng. Nhờ những thành tựu khoa học và công nghệ mà trong lĩnh vực nông

nghiệp đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất

cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, cung cấp nguyên liệu cho

ngành công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), đưa nước ta từ chỗ là

nước nhập khẩu lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo, cà phê,…

hàng đầu trên thế giới. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển giao công nghệ trong

nông nghiệp cũng có tác động làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm,

tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm, nâng cao thu nhập và đời sống cả khu

vực nông nghiệp lẫn các khu vực khác.

- Giải quyết việc làm và các tác động kinh tế - xã hội khác

Cùng với sự phát triển của các hoạt động kinh tế của đất nước, hoạt động chuyển giao công nghệ trong thời gian qua đã có tác động mạnh mẽ đến

việc giải quyết việc làm, tạo thu nhập và tăng thu nhập cho người lao động.

-79-

Các công nghệ được chuyển giao đi theo nó một loạt các tác động kèm theo,

đó là việc xây dựng nhà xưởng, tìm nguồn lực đầu vào cho sản xuất,… rồi các

hoạt động sau sản xuất, các dịch vụ đi kèm cũng phải tính đến. Đó chính là cơ

hội mở ra cho người lao động tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm. Chính vì

vậy mà vấn đề giải quyết việc làm cho lực lượng lao động dồi dào của Việt

Nam được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống kéo theo những thay đổi

trong cuộc sống, giảm thiểu các tệ nạn xã hội. Đặc biệt đối với đội ngũ những

cán bộ khoa học và công nghệ thì nhờ đó mà đời sống được cải thiện, làm

tăng nhiệt huyết trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ hơn.

Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam trong thời gian qua được cải

thiện, từ khoảng 140 USD năm 1990 lên 312 USD năm 1996, 483 USD năm

2003 và 545 USD năm 2004. Tỷ lệ nghèo đói tính theo tiêu chuẩn quốc tế

giảm mạnh từ trên 70% năm 1990 xuống còn 29% năm 2003. Tỷ lệ tăng dân

số tự nhiên hàng năm từ 2,3% xuống còn 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65 tuổi

tăng lên 71 tuổi.

Bảng 2.12: Chỉ số đói nghèo của Việt Nam giai đoạn 1997 - 2004

HPI % trẻ em %Mù % Dân số %Dân số dưới 5 % Dân số chữ không không được tuổi được Năm không thọ (từ 15 Xếp % sử dụng các bị suy quá 40 tuổi tuổi sử dụng hạng dịch vụ y tế dinh trở lên) nước sạch dưỡng

1997 33/78 26,2 12,1 7,0 57 10 45

1998 - 26,1 11,0 6,3 57 10 45

1999 51/92 28,7 11,6 8,1 57 - 41

2000 47/85 28,2 11,2 7,1 55 - 41

2001 45/90 29,1 12,8 6,9 44 - 39

2003 39/94 19,1 10,7 7,3 23 - 33

2004 41/95 20,0 10,7 9,7 23 - 33

Nguồn: Báo cáo phát triển con người 1997 - 2004

Trong những năm qua, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam

được cải thiện đáng kể, tăng từ 0,590 năm 1996, đến 0,688 năm 2003. Trong

Báo cáo phát triển con người năm 2004 với 177 quốc gia, Chương trình Phát

-80-

triển của Liên hợp quốc đưa ra kết quả là Việt Nam đứng thứ 112 với chỉ số

HDI là 0,691, trong đó chỉ số thu nhập là 0,52, chỉ số giáo dục là 0,82 và chỉ

số tuổi thọ là 0,73. Theo chỉ số phát triển con người (HDI) này, Việt Nam

đứng trên Inđonesia, Tajikistan, Ai Cập, Nam Phi, Ấn Độ,...

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Những hạn chế

- Số lượng và quy mô các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt

Nam là chưa nhiều, hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra lẻ tẻ, các luồng

và đối tượng không đa dạng. Trong tình hình ấy lại luôn có hiện tượng giải

thể, rút giấy phép trước thời hạn đã ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động

chuyển giao công nghệ. Từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài cuối năm 1987 đến

tháng 12 năm 2004 đã có trên 900 dự án bị giải thể trước thời hạn, với số vốn

đăng ký bị giải thể khoảng 12.000 triệu USD chiếm trên 28% số dự án được

cấp giấy phép và chiếm trên 30% vố đầu tư đăng ký. Đây là một tỷ lệ khá cao,

chứng tỏ môi trường chính sách, đầu tư ở Việt Nam luôn phải đối mặt với

nguy cơ rủi ro cao mà các nhà đầu tư nước ngoài không lường trước gây ra,

chẳng hạn như: môi trường vĩ mô của Việt Nam còn nhiều bất định; chất

lượng công tác thẩm định dự án FDI chưa cao; trình độ quản lý dự án của nhà

quản trị còn nhiều hạn chế; chính sách kinh tế của Việt Nam còn thiếu nhất

quán, thường xuyên thay đổi; thủ tục hành chính rườm rà, chậm chạp,…

- Ý thức thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ

Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển giao công

nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện không theo

các quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ (chẳng hạn không lập

và ký kết hợp đồng hoặc chỉ ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà

không trình để phê duyệt, chuyển tiền cho chuyển giao công nghệ khi chưa

được phê duyệt hợp đồng…). Nhiều hợp đồng được ký giữa các bên là do bên

nước ngoài soạn sẵn với những điều khoản có lợi cho họ; trách nhiệm của bên

giao không rõ ràng và có những diều khoản trái với quy định của pháp luật

Việt Nam; chi phí chuyển giao công nghệ không hợp lý, vượt quá nhiều so

với quy định. Những hợp đồng đó thường được sửa lại nhiều lần, làm kéo dài

thời gian phê duyệt.

-81-

- Tình trạng ô nhiễm môi trường

Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra người ta chỉ chú ý đến

sản phẩm của công nghệ tạo ra là gì, chứ không chú ý nhiều đến những tác

động của quy trình sản xuất và sản phẩm có tác động đến môi trường như thế

nào. Đăc biệt là đối với các dự án FDI thì mục tiêu lợi nhuận luôn được đặt

lên trên hết và là mục tiêu chuyển giao công nghệ. Cùng với đó là trình độ

của nhiều cán bộ, nhiều chuyên gia kinh tế, kỹ thuật Việt Nam còn hạn chế,

thiếu thông tin, đôi khi không quan tâm đến lợi ích chung, phẩm chất bị tha

hóa. Cho nên, trong thời gian qua nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

không quan tâm hoặc sử dụng công nghệ xử lý chất thải chưa hiệu quả, chưa

giải quyết triệt để và khó đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường.

Bảng 2.13: Đánh giá chung về ô nhiễm của các ngành công nghiệp

Thành phần môi trƣờng

STT Ngành Kim loại Sức khỏe Bụi Khí độc Tiếng ồn Nước nặng cộng đồng

Điện lực

1 Nhiệt điện **** **** ** *** ** V

Thủy điện V V V V V ****

2 Cơ khí ** ** *** ** ** ***

3 Hóa chất *** **** ** ** ** ****

4 Luyện kim **** **** *** *** *** ***

5 Điện tử V V V ** *** V

6 Khai khoáng **** ** *** *** *** **

7 Dệt nhuộm **** *** ** **** *** V

8 Giấy **** *** ** **** V V

9 Thuộc da *** **** ** **** **** V

10 Bột ngọt ** ** V **** V V

Nguồn: Báo cáo tổng kết hiện trạng môi trường, Diễn đàn phát triển

Việt Nam (VDF), 6/2005.

Ghi chú:**** Ô nhiễm nặng;

*** Ô nhiễm vừa;

** Ô nhiễm nhẹ;

-82-

V Không ô nhiễm.

Với kết quả tổng thể như trên thì các tác động bất lợi của công nghệ

gây ra cho môi trường là khá lớn, dưới nhiều hình thức, quy mô và lượng chất

độc hại là lớn. Điều này sẽ tạo ra một áp lực về chi phí để cải tạo, khắc phục

và thay đổi hành vi về nó là rất lớn.

2.3.2.2. Những nguyên nhân chủ yếu

* Về phía Nhà nước:

- Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động

chuyển giao công nghệ:

Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay vẫn còn duy trì sự bao cấp gián tiếp

của Nhà nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất

kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp nhà nước ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng

dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và đổi mới công nghệ.

Các doanh nghiệp trong nước thiếu động lực, không quan tâm đến đổi mới

công nghệ. Thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để gắn các hoạt động chuyển

giao các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất kinh doanh và khuyến

khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thị

trường khoa học và công nghệ, hệ thống tài chính, tiền tệ còn manh nha, kém

phát triển không tạo ra những điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được

nguồn vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ.

- Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp: đầu tư xây

dựng tiềm lực khoa học và công nghệ trong thời gian dài chưa được chú trọng

đúng mức, thiếu tập trung và không đồng nhất dẫn đến cơ sở hạ tầng chuyển

giao công nghệ yếu kém, hiệu quả đầu tư thấp. Thiếu quy hoạch đào tạo đội

ngũ cán bộ khoa học trình độ cao để có thể thực hiện thành công việc tiếp

nhận và đưa công nghệ được chuyển giao vào sản xuất.

* Về phía doanh nghiệp:

- Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ còn lẻ tẻ,

thiếu quy hoạch và chiến lược, thiếu sự gắn bó và phối hợp giữa phương

hướng đổi mới, chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như

chiến lược kinh doanh.

- Năng lực tiếp nhận công nghệ của bên Việt Nam còn yếu thể hiện ở

chỗ thiếu những chuyên gia kinh tế, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, công nhân có

-83-

trình độ tay nghề vững vàng nên bị các nhà đầu tư nước ngoài qua mặt.

- Hạn chế về khả năng tài chính của bên Việt Nam, chưa giải quyết hài

hòa giữa mục tiêu kinh tế - xã hội và lợi ích tài chính của doanh nghiệp.

- Trình độ thẩm định công nghệ của phía Việt Nam còn nhiều bất cập

dẫn đến tình trạng nâng giá công nghệ quá mức, gây thiệt hại trước mắt và lâu

dài cho phía Việt Nam. Thậm chí, phẩm chất của nhiều cán bộ, chuyên gia bị

tha hóa, không quan tâm đến lợi ích chung.

Qua sự phân tích của chương này chúng ta đã thấy được những nét

tổng quan nhất về môi trường chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Những

nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động chuyển giao công nghệ

trong thời gian qua. Với hai kênh chuyển giao công nghệ chính, đặc biệt là

kênh chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài FDI đã có

những tác động rất lớn đến năng lực công nghệ, trình độ công nghệ và nền

kinh tế đát nước. Những tác động tích cực ấy đã làm thay đổi vị trí, sức cạnh

tranh của nền kinh tế,…trên thị trường khu vực và thế giới. Tuy vậy, do là

một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nên

những bất cập trong chính sách, pháp luật, cơ chế và sự yếu kém trong cơ sở

hạ tầng cũng như các nguồn lực là không tránh khỏi. Điều này nó làm hạn

chế, gây kìm hãm đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ. Chính vì lẽ

đó mà trong thời gian tới, trong chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là các

chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao

năng lực công nghệ quốc gia, chúng ta nhất thiết phải chú ý đến cải thiện môi

trường vĩ mô, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, đổi mới, cải tiến thủ tục hành

chính liên quan đến chuyển giao công nghệ; có chính sách đầu tư phát triển

công nghiệp; cải thiện môi trường chuyển giao công nghệ; tăng cường các

hoạt động đánh giá, thẩm định công nghệ; tạo sự gắn kết giữa doanh nghiệp,

nhà nước và tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ. Có như vậy, chúng

ta mới tận dụng được các lợi thế và biến lợi thế đó thành những công cụ để

-84-

nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ trong thời gian tới.

CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO

CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Bối cảnh mới, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khoa học -

công nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

3.1.1.1. Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển

với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính

đột phá, khó dự báo trước và ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã

hội loài người.

Nhờ những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, đặc biệt là

công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,…, xã hội

loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang

thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền

kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể

rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,

hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tùy thuộc vào phần lớn vào năng lực

khoa học và công nghệ. Lợi thế của nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao

động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có

trình độ chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết

định trong đời sống kinh tế – xã hội của mọi quốc gia.

Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ

ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về những doanh nghiệp

biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp

ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng

mạnh về tài chính và khoa học và công nghệ, các công ty xuyên quốc gia,

đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.

Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ

cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm

lượng công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường; đẩy mạnh chuyển

-85-

giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm

cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên cho

đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư

cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao

chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và

thu hẹp khoảng cách phát triển.

3.1.1.2. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng.

Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các

nước để bảo vệ lợi ích quốc gia.

Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết

liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và

nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ

chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gắt gay hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh

toàn cầu hóa kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin, xu hướng

phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân

hàng điện tử, chính phủ điện tử,… đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của

các quốc gia và từng doanh nghiệp.

Tự do hóa thương mại, đầu tư, tài chính, ngày càng mổ rộng với tốc độ

phát triển cao, tạo ra sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu

cơ. Toàn thế giới sẽ tiến tới một dạng thị trường thống nhất một cách tương

đối.

Tính độc lập kinh tế của mỗi quốc gia sẽ chỉ mang tính tương đối.

Không một quốc gia nào, dù đó là siêu cường kinh tế, có thể phát triển một

cách biệt lập. Tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính là một xu thế khách

quan, chứa đựng những yếu tố thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển, song đồng

thời luôn tiềm ẩn những yếu tố bất ổn: khủng hoảng tài chính, tiền tệ có tính

lan truyền, khó kiểm soát trong nền kinh tế có tính toàn cầu,… Khi khủng

hoảng xảy ra, thua thiệt nhất luôn là các nước có cấu trúc kinh tế yếu, cứng

nhắc và kém thay đổi với những đột biến.

Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động về nguồn nhân

lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin, điều chỉnh các quy định về pháp

lý,… thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi

-86-

quốc tế là điều khó tránh khỏi.

3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc

Gần 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai đoạn phát triển mới: nền kinh tế có mức tăng trưởng

cao; tình hình chính trị, xã hội ổn định; xu thế dân chủ hóa, xã hội hóa trong

các vấn đề lớn liên quan đến kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước ngày

càng mở rộng; đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt; quan hệ hợp tác quốc

tế được cải thiện.

Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo

hướng thị trường và mở cửa; đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa đất nước ta cơ bản

trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế, cam kết thực hiện các thỏa thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định

thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng

cường đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, khuyến

khích khu vực dân doanh, hỗ trợ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ;

đẩy mạnh cải cách hành chính,…

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 của nước ta đã xác

định mục tiêu phát triển tổng quát là: Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém

phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của

nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Trong bối cảnh đó, khoa học và công nghệ có nhiệm vụ cung cấp kịp

thời luận cứ khoa học cho các quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước;

đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả và khả cạnh tranh của nền

kinh tế, đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2010.

3.1.3. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khoa học - công

nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam

3.1.3.1. Cơ hội

Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển khoa học và

công nghệ, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển khoa học và

công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và

-87-

động lực cho CNH, HĐH đất nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, với đường lối đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri

thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên

tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học và công

nghệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Đổi mới kinh tế, hội nhập, đẩy mạnh CNH, HĐH là điều kiện thuận lợi

để phát triển khoa học – công nghệ và chuyển giao công nghệ. Cạnh tranh

khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế cũng là yếu tố kích thích

chuiyển giao công nghệ.

Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,

cùng với việc thực hiện đa dạng hóa những phương thức chuyển giao công

nghệ, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá

trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước.

Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lước phát triển nguồn nhân

lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.

Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát

triển khoa học và công nghệ của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước

ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi

để tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời thúc đẩy đổi

mới công nghệ và ứng dụng thành tựu cho phát triển khoa học và công nghệ

trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập

khu vực và quốc tế.

3.1.3.2. Thách thức

Trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về khoa học và

công nghệ, xu hướng chuyển giao công nghệ và nền kinh tế của thế giới hiện

đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tùy thuộc

vào trình độ và năng lực khoa học và công nghệ của quốc gia. Thách thức lớn

nhất đối quá trình tiếp nhận công nghệ và sự phát triển khoa học và công nghệ

nước ta hiện nay là phải nhanh chóng nâng cao năng lực khoa học và công

nghệ để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều kiện nước ta còn

nghèo, môi trường thể chế và chính sách còn nhiều bất cập, vốn đầu tư hạn

hẹp, trình độ phát triển kinh tế và khoa học và công nghệ còn khoảng cách

-88-

khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Sự cạnh tranh trong

hội nhập có thể dẫn tới những hững hụt và thất bại trong khoa học – công

nghệ và chuyển giao công nghệ.

Trong xu thế phát triển kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên

thiên nhiên, giá lao động rẻ dần dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân

lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không

sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước

trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.

Trong quá trình hội nhập kinh tế, nước ta đang đứng trước những khó

khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại,

tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ,… phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình

trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội

nhập khu vực và quốc tế.

Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết

sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế chuyển giao công

nghệ, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực khoa học và công nghệ

quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và khoa học và công nghệ ngày càng xa

và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi.

3.2. Quan điểm định hƣớng nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công

Việt Nam đang tập trung nhiều nỗ lực để chủ động hội nhập vào nền kinh

tế khu vực và thế giới một cách có hiệu quả. Để thực hiện thành công chủ trương

này, chúng ta phải nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế quốc

dân cả 3 cấp độ: sản phẩm, dịch vụ, doanh nghiệp, quốc gia trên tất cả mọi lĩnh

vực. Quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai

ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) là: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ”. Vì vậy phải đẩy mạnh

ứng dụng, chuyển giao công nghệ hiện đại, tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam

cũng như ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong nước vào thực tiễn sản xuất,

kinh doanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng nhằm hiện đại hóa sản xuất và quản

lý kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả

sản xuất – kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển bền vững. Do vậy

trong thời gian tới việc chuyển giao công nghệ cần phải chú ý những điểm sau:

-89-

nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới

3.2.1. Phải thực hiện đa dạng các hoạt động chuyển giao công nghệ từ

nƣớc ngoài vào Việt Nam

Việc đa dạng hóa luồng chuyển giao, đa phương hóa đối tượng chuyển

giao, đa dạng hóa nội dung chuyển giao công nghệ,… nhằm tăng cường các

hoạt động: tiếp nhận công nghệ và máy móc mới; tiếp cận với các nguồn tài chính nước ngoài; tăng năng suất và hiệu suất lao động; tiếp nhận các kỹ thuật

quản lý hiện đại; tiếp cận các thị trường thế giới; tạo việc làm,… * Thực hiện đa dạng hóa các đối tượng chuyển giao công nghệ: mở

rộng quan hệ với nhiều nước, nhiều hãng, nhiều công ty, nhiều trình độ và

nhiều phương hướng phát triển công nghệ…

Đảng ta đã xác định đường lối mở cửa đa phương hóa, đa dạng hóa

trong quan hệ đối ngoại bằng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác

tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,…”. Đây cũng chính là điều

kiện thuận lợi để chúng ta tiến hành thực hiện đa dạng hóa với các đối tượng

chuyển giao công nghệ.

Đa dạng hóa đối tượng chuyển giao công nghệ phải gắn liền với chọn

lọc lĩnh vực, biết lựa chọn ra những đối tác có triển vọng mang lại kết quả tối

ưu. Điều này chỉ đạt được trên cơ sở chúng ta phải hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu

về công nghệ của từng nước, từng hãng, từng công ty xuyên quốc gia có công

nghệ chuyển giao; thái độ của các nước đó trong quan hệ kinh tế, chính trị với

Việt Nam; ý đồ của các nước và các hãng trong chuyển giao công nghệ…

Như vậy, chúng ta cần xây dựng một hệ thống thông tin về thực trạng công

nghệ ở các nước công nghiệp phát triển, cần tổ chức mạng lưới thông tin công

nghệ nhằm tạo cách nhìn xác thực về các đối tác tương lai. * Thực hiện đa dạng hóa các luồng chuyển giao công nghệ

Đa dạng hóa các luồng chuyển giao công nghệ là chủ trương lớn của

Đảng trong việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Trong đó cần lưu ý:

- Chuyển giao công nghệ qua luồng nhập cư chuyên gia

Cho đến nay luồng chuyên gia nhập cư vào nước ta không nhiều,

nhưng xét về tiềm năng thì đây cũng là một luồng chuyển giao công nghệ

đáng quan tâm và có nhiều triển vọng. Những chuyên gia này là những người

có tài năng, giàu kinh nghiệm và có mối quan hệ rộng với nhiều tổ chức khoa

-90-

học và công nghệ quốc tế.

- Chuyển giao công nghệ qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI)

Chuyển giao công nghệ theo cách này có các đặc điểm là: Công nghệ

đưa vào Việt Nam cùng với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và đồng

Công nghệ được chuyển giao theo con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài

sẽ là luồng chính và có số lượng lớn ở Việt Nam. Trong luồng này, phía nước

ngoài thường chuyển giao một cách đồng bộ từ khâu nghiên cứu thị trường, thiết

kế, lắp đặt công nghệ sản xuất đến quản lý sản xuất, kinh doanh… có lợi cho họ

hơn, cho nên chúng ta cần quan tâm trong việc đào tạo và bố trí đội ngũ cán bộ

kỹ thuật và công nhân để làm chủ các công nghệ nhập, trên cơ sở đó có bước cải

tiến và tiến tới làm ra được những công nghệ mới, độc lập.

thời nhà đầu tư cũng chính là người chuyển giao công nghệ.

- Chuyển giao công nghệ qua các con đường cho vay vốn hoặc tài trợ

của nước ngoài

Luồng chuyển giao công nghệ theo cách này thường thông qua hoạt

động đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh của các công ty, xí nghiệp trong

nước được nước ngoài tài trợ hoặc cho vay vốn… Vai trò của phía nước

ngoài trong luồng chuyển giao công nghệ này chỉ là người hướng dẫn, còn hệ

thống thực hiện vẫn là phía Việt Nam, nên muốn đảm bảo thành công cần

Đối với chuyển giao công nghệ qua luồng vay vốn hoặc tài trợ nước

ngoài, bên nhận thường gặp khó khăn lớn trong việc làm sao nhận được đúng và

đủ những yếu tố công nghệ mình cần, xác định đúng giá cả của công nghệ. Do

đó, để mở rộng luồng này một cách có hiệu quả phải có nỗ lực to lớn của phía

nhận công nghệ. Cũng cần phải thấy rằng, trong trường hợp bên nước ngoài cho

vay vốn có kèm theo các điều kiện phải nhập công nghệ thì đó cũng là khó khăn

cho chúng ta, khi đó đòi hỏi chúng ta phải có đủ thông tin, bản lĩnh để tránh

những cái “bẫy” của bên giao, tránh nhập những công nghệ “thải” của họ.

phải quan tâm đầy đủ trong việc làm chủ công nghệ nhập.

Như vậy, mỗi luồng chuyển giao công nghệ đều có mặt ưu, nhược, nên

việc đa dạng hóa luồng chuyển giao công nghệ cũng có ý nghĩa quan trọng

trong vấn đề tạo thêm nhiều cơ hội cho mình lựa chọn, khai thác được

phương án tối ưu nhất.

* Thực hiện đa dạng hóa các nội dung và phương thức chuyển giao

-91-

công nghệ

Qua kinh nghiệm của thế giới, có thể thực hiện đa dạng hóa các nội

dung của chuyển giao công nghệ là:

+ Chuyển giao phần cứng sản xuất;

+ Chuyển giao phần cứng tổ chức;

+ Chuyển giao tài liệu sản xuất;

+ Chuyển giao tài liệu tổ chức;

+ Chuyển giao các kỹ năng sản xuất.

Chúng ta cần lựa chọn phương thức chuyển giao thích hợp để tránh sự

bất đồng về lợi ích giữa bên giao và bên nhận công nghệ. Có 4 phương thức

chuyển giao công nghệ:

+ Phương thức sở hữu công cộng, theo đó công nghệ không thương mại hóa;

+ Phương thức tiêu chuẩn, trong đó nhu cầu của bên mua có thể được

đáp ứng bằng cách tiếp nhận điều kiện chuẩn do bên bán đưa ra;

+ Phương thức hợp tác, theo đó quan hệ giữa bên mua và bên bán được

tạo nên qua đàm phán;

+ Phương thức chống cạnh tranh, theo đó chi phí cho việc tạo ra công

nghệ mới được loại trừ bằng các cơ chế hạn chế sức mạnh thị trường.

3.2.2. Phát huy năng lực nội sinh để nâng cao hiệu quả chuyển giao công

nghệ

Để phát huy năng lực nội sinh nâng cao hiệu quả chuyển giao công

nghệ của đất nước, chúng ta cần chú trọng đến nâng cao năng lực nội sinh của

các địa phương, các vùng miền trong cả nước nhằm tạo ra những điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ được chuyển giao từ

nước ngoài vào và ngay từ những kết quả nghiên cứu ứng dụng trong nước

vào thực tiễn sản xuất.

Đối với các nước, nhất là những nước phát triển và các con rồng Châu

Á, họ rất chú trọng tới phát triển năng lực nội sinh quốc gia. Ở đây giải pháp

phổ biến mà họ đã tập trung đầu tư trong cả một thời gian dài là phát triển

giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ. Trong khoa học và công

nghệ các nước rất chú trọng đầu tư vào quá trình nghiên cứu và triển khai.

Bảng 3.1:GDP và đầu tƣ cho nghiên cứu phát triển

-92-

STT Nước GDP (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng Tỷ trọng đầu tư nghiên

GDP (%)

Hoa Kỳ Nhật Bản Đức Trung Quốc Hàn Quốc Thái Lan Xingapo Malaixia Philippin Việt Nam (2002) 9.248,5 4.367,7 2.091,2 991,2 406,9 125,3 84,9 78,9 76,5 35,1 3,8 0,62 1,3 7,1 6,68 4,12 5,35 5,42 2,4 7,04 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

cứu phát triển /GDP (%) 2,679 2,913 2,313 0,693 2,681 0,175 1,799 0,199 0,078 0,52 Nguồn: UNDP, Vietnam Development Cooperation Report, 2003.

Những quốc gia đạt kết quả cao trong phát triển kinh tế - xã hội trong

thời gian gần đây đã cho rằng, muốn có chuyển giao hay tiếp nhận công nghệ một cách mạnh mẽ và hiệu quả thì nước đó cần phải có đủ năng lực nội sinh

về khoa học và công nghệ.

Như vậy, theo kinh nghiệm của các nước, Việt Nam phải chú trọng cả

việc nhập công nghệ và phát triển công nghệ nội sinh, từng bước nâng cao

tiềm lực nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam; phải có các

dự án nghiên cứu và phát triển lớn, phù hợp và chủ động tiến hành hợp tác

nghiên cứu và phát triển với các nước, các công ty và tổ chức quốc tế. Vì vậy,

“Mục tiêu chiến lược và quan điểm phát triển” của Đảng thể hiện trong Văn

kiện Đại hội IX là “năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng

ứng dụng công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển một số

lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu

mới, công nghệ tự động hóa”.

3.2.3. Chuyển giao công nghệ phải đƣợc đặt trong một quy hoạch, chiến

lƣợc gắn với chính sách đổi mới

Trong quá trình chuyển giao công nghệ, cần khác phục các hiện tượng:

- Các doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu thiết bị, máy móc một cách

-93-

miễn cưỡng, tự phát không phải do chủ động theo kế hoạch;

- Những máy móc, thiết bị được nhập khẩu phần lớn là từ phía đối tác

thứ ba hoặc các mối quan hệ cá nhân giới thiệu, không phải do các doanh

nghiệp tự tìm kiếm, đặt quan hệ trực tiếp;

- Công nghệ được chuyển giao trong lúc còn thiếu nhiều điều kiện, tiền

đề cần thiết (về kết cấu hạ tầng, thị trường, lao động, vốn);

- Phương hướng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp chưa gắn với

chiến lược phát triển của ngành.

Để tránh tình trạng trên, một mặt, các doanh nghiệp phải tự mình xây

dựng các chiến lược kinh doanh, mặt khác, Nhà nước cần lấy các chiến lược

và việc thực hiện chiến lược của doanh nghiệp làm cơ sở, làm căn cứ để xem

xét các phạm vi về chuyển giao công nghệ. Nếu công nghệ được xem như

một hàng hóa thông thường thì các chiến lược kinh doanh sẽ được xem như

những căn cứ để xử lý và xác định trách nhiệm khi có những thiệt hại do

chuyển giao công nghệ gây ra.

Trong các chiến lược mà các doanh nghiệp cần xác định, để định

hướng chuyển giao công nghệ cần phải cân đối, phối hợp các bộ phận sau với

nhau:

- Chiến lược về thị trường và khách hàng;

- Chiến lược sản phẩm;

- Chiến lược liên kết kinh tế;

- Chiến lược đầu tư.

3.2.4. Phải "lựa chọn công nghệ phù hợp" trong hoạt động chuyển giao

công nghệ vào Việt Nam

Công nghệ thích hợp mới thực sự là cái mà các nước đang phát triển,

trong đó có Việt Nam cần đến. Tránh tình trạng trong những năm qua, hoạt

động nhập khẩu công nghệ ồ ạt, đã nhập luôn cả những công nghệ không phải

là công nghệ nguồn, cá biệt còn có "rác thải". Công nghệ thích hợp có nghĩa

là phải tính đến nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh trong nước

như yếu tố dân số, việc làm, tài nguyên, môi trường văn hóa – xã hội và các

hệ thống pháp lý – chính trị. Như vậy, vấn đề không chỉ nằm trong tiêu chuẩn

về khoa học, mà còn nằm trong tiêu chuẩn hành vi, về đặc điểm văn hóa – xã

-94-

hội của công nghệ.

Việc “lựa chọn công nghệ phù hợp” cũng cấn phải được nhấn mạnh

trong các hoạt động đưa các kết quả nghiên cứu và triển khai trong nước vào

thực tiễn sản xuất, từ đó nhân rộng mô hình ứng dụng thành tựu khoa học –

công nghệ đạt được đó ra các địa phương khác tương ứng với những điều

kiện cụ thể khác nhau. Để thực hiện điều này chúng ta cần có chính sách lựa

chọn đúng các mặt hàng để chuyển giao công nghệ, lựa chọn đúng công nghệ

để triển khai. Có như vậy thì sản phẩm được sản xuất ra mới có tính cạnh

tranh tại thị trường Việt Nam, tức là phải đáp ứng được nhu cầu của người

tiêu dùng, trước hết là của các doanh nghiệp và có thể cạnh tranh được với

sản phẩm nhập ngoại đang có trên thị trường.

Vấn đề “lựa chọn công nghệ phù hợp” có ý nghĩa rất quan trọng vì đây

là nhân tố quyết định đến sản phẩm đầu ra, liên quan trực tiếp đến chiến lược

phát triển và mở rộng sản xuất cũng như thâm nhập – mở rộng thị trường của

mỗi doanh nghiệp và còn có nhiều tác động kinh tế – xã hội khác nữa.

3.2.5. Có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ để tạo sự cạnh tranh lành

mạnh nhằm thu hút các luồng chuyển giao công nghệ

Nếu mỗi địa phương của nước ta trở thành một đầu mối riêng lẻ, độc

lập trên thị trường công nghệ thế giới thì chúng ta không tránh khỏi những

thua thiệt không đáng có. Bởi vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa

phương với nhau trong để tạo những điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp thực hiện họat động chuyển giao công nghệ. Việc phối hợp với nhau

này có tác dụng khắc phục những cản trở trong quá trình nhập công nghệ như:

vốn ít, thông tin ít, lực lượng tư vấn ít, sự độc quyền của bên ngoài.

Việc phối hợp thống nhất giữa các địa phương không phải chỉ đơn giản

là tuân thủ những chủ trương, chính sách của Chính phủ ban hành, mà còn là

sự chủ động liên hệ và nối kết giữa các tỉnh, thành phố khác trong cả nước

nhằm nhất thể hóa nhu cầu về các hoạt động chuyển giao công nghệ phù hợp

với điều kiện, khả năng, năng lực và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở

mỗi địa phương.

Mặt khác, chúng ta phải tiến hành cạnh tranh có hiệu quả với các nước

trong khu vực trong việc tranh thủ thu hút các luồng chuyển giao công nghệ.

Cuộc cạnh tranh này sẽ diễn ra trên các mặt:

-95-

- Các chính sách ưu đãi có liên quan tới chuyển giao công nghệ;

- Trình độ và tiềm năng phát triển kinh tế;

- Thị trường lao động;

- Các điều kiện về tiếp nhận và sử dụng công nghệ,…

Như vậy, để tăng cường thu hút các luồng chuyển giao công nghệ, các

cơ quan, bộ, ngành của Nhà nước phải tham khảo, theo dõi động thái và chính

sách kinh tế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng của các nước trong khu vực và

có sự điều chỉnh thích hợp nhằm tạo ra vị thế tương đối hấp dẫn các nhà

chuyển giao công nghệ của thế giới.

Một điều cần lưu ý ở đây là tránh sự đồng loạt đưa ra chính sách ưu

tiên riêng của địa phương nhằm tạo ra lợi thế cá biệt, để thu hút các nguồn

quả sẽ thế nào vẫn còn là một ẩn số, nhưng trước mắt chắc chắn sẽ khó tránh

khỏi tính tự phát, trùng lặp, thừa thiếu, gây ra lãng phí và hiệu quả thấp cho toàn

đầu tư, thiếu sự chỉ đạo chung của Chính phủ. Việc này sẽ đi đến đâu và hậu

cục. 3.2.6. Chuyển giao công nghệ phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội

Trong điều kiện Việt Nam là một nước nghèo, lạc hậu, trình độ công

nghệ thấp so với thế giới. Vì vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ một mặt

phải đảm bảo mục tiêu trước mắt, đồng thời phải đảm bảo thực hiện mục tiêu

lâu dài. Các công nghệ được chuyển giao phải đảm bảo:

- Chuyển giao công nghệ phải nhằm mục tiêu nâng cao trình độ công

nghệ sản xuất, thể hiện ở các khía cạnh như chú trọng công nghệ nhiều tầng,

công nghệ chế biến hàng nông sản, công nghệ phục vụ sản xuất hàng xuất

khẩu, công nghệ nâng cao năng suất lao động; sử dụng tiết kiệm nguyên liệu,

nhiên liệu, vật liệu, năng lượng; cải tiến kiểu dáng, nâng cao chất lượng sản

phẩm; tạo ra những chủng loại sản phẩm mới hướng tới xuất khẩu.

- Khai thác hợp lý các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu tại chỗ,

sử dụng các nguồn lao động dồi dào, tạo công ăn việc làm, khai thác hợp lý

và phát triển các tài nguyên tái tạo được.

- Công nghệ được chuyển giao phải đảm bảo không gây ra những tác

động làm ảnh hưởng hoặc đưa đến hậu quả xấu cho môi trường như ô nhiễm

đất, nước, không khí; gây hại cho hệ động - thực vật; làm mất cân bằng sinh

thái nói chung; làm ảnh hưởng tới môi trường dân cư về mặt văn hóa xã hội.

- Công nghệ được chuyển giao phải đảm bảo an toàn lao động cho

-96-

người lao động cũng như môi trường làm việc và môi trường xung quanh đó.

Trong trường hợp do tính chất của công nghệ, có khă năng xuất hiện những

tác động mà trước đó chưa có, chưa đề cập, làm ảnh hưởng tới người lao động

và môi trường, thì bên chuyển giao công nghệ phải có giải pháp phòng ngừa

cụ thể. Các giải pháp này coi như một phần của công nghệ được chuyển giao

và được giải trình chi tiết trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.

3.2.7. Đẩy nhanh chuyển giao công nghệ theo hƣớng thị trƣờng

Chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ vốn mang tính xáo trộn,

xét trong ngắn hạn. Công nghệ nói chung, đặc biệt là các công nghệ mới, các

sáng chế mới đều có giá trị của nó, không có công nghệ cho không. Người

nhận công nghệ phải trả giá cho công nghệ mà họ nhận được. Trong xu thế

phát triển như ngày nay, việc nắm giữ các công nghệ mới, tiên tiến, có giá trị

kinh tế và xã hội cao là một điều rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta phải nhanh

chóng thay đổi nhận thức, đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế đối với hoạt

động khoa học – công nghệ cũng như chuyển giao công nghệ, xây dựng các

giải pháp hỗ trợ, tư vấn,… Từ đó tạo lập môi trường thông thoáng, cạnh tranh

nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ theo hướng thị trường. Có

như vậy chúng ta mới:

- Thông qua chuyển giao công nghệ để tranh thủ thu hút các nguồn vốn

đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế;

- Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công

nghệ cần thiết, đặc biệt là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;

- Tạo bước chuyển biến trong quan hệ kinh tế quốc tế;

- Nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách: nhu cầu thiết yếu của xã

hội, nhu cầu đổi mới công nghệ để đáp ứng sức ép của cạnh tranh;

- Có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ, học tập phương pháp quản

lý tiên tiến;

- Tránh được những rủi ro nếu phải tự làm, nhờ mua licence công nghệ;

- Nếu thành công có thể rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, đồng thời

đi tắt vào các công nghệ hiện đại nhất, nhanh chóng tạo lập được sự bền vững

trong phát triển kinh tế.

3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công

-97-

nghệ trong thời gian tới

Để góp phần đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng

như phát triển khoa học và công nghệ và thúc đẩy hoạt động chuyển giao

công nghệ trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp

chủ yếu sau đây:

3.3.1. Về phía Nhà nƣớc

3.3.1.1. Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ

Đổi mới có chế quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ hiện nay theo

hướng hình thành cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường định hướng

XHCN, với đặc thù của hoạt động chuyển giao công nghệ và yêu cầu chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

các tổ chức và cá nhân hoạt động chuyển giao công nghệ.

a. Đổi mới quản lý nhà nước về hoạt động chuyển giao công nghệ

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về chuyển giao công

nghệ theo hướng thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước, phù hợp với

tiến trình cải cách hành chính; tăng cường sự chỉ đạo và điều hòa phối hợp

của Chính phủ trên cơ sở phân cấp và quy định rõ ràng trách nhiệm trong

quản lý nhà nước về hoạt động chuyển giao công nghệ đối với các bộ và các

tỉnh, thành phố.

Nhà nước tập trung xây dựng các định hướng chuyển giao công nghệ

trọng điểm, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, xây dựng cơ sở

hạ tầng chuyển giao công nghệ quốc gia; đồng thời xây dựng các cơ chế,

chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong

và ngoài nước đầu tư phát triển và tham gia hoạt động chuyển giao công

nghệ.

Nâng cao chất lượng và hiệu quả của Hội đồng chính sách khoa học và

công nghệ quốc gia trong quá trình chuẩn bị các quyết định của Chính phủ về

ưu tiên, chiến lược, các cơ chế, chính sách về hoạt động chuyển giao công

nghệ quốc gia.

Tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức chính

trị-xã hội, nhất là Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam trong tư vấn, phản

biện và giám định xã hội đối với các chính sách, chương trình, dự án phát

-98-

triển kinh tế - xã hội và hoạt động chuyển giao công nghệ.

b. Đổi mới phương thức tổ chức và thực hiện các hoạt động chuyển

giao công nghệ

Việc tổ chức và thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ phải nhằm

đáp ứng cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao năng lực

công nghệ của quốc gia, ngành, địa phương và cơ sở.

* Thực hiện sự phân công, phân cấp trong tổ chức và thực hiện các

- Chính phủ quyết định các định hướng phát triển ngành, lĩnh vực ưu tiên

làm cơ sở xác định hoạt động chuyển giao công nghệ cấp nhà nước, có tầm quan

trọng quốc gia, mang tính liên ngành và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế - xã

hội, an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia. - Các Bộ, ngành quyết định các hoạt động chuyển giao công nghệ phục

hoạt động chuyển giao công nghệ

vụ trực tiếp mục tiêu phát triển của bộ, ngành.

- Các địa phương quyết định các hoạt động chuyển giao công nghệ chủ

yếu mang tính ứng dụng, phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

của đại phương.

- Các tổ chức chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội

thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ trong việc xác định các hoạt động

chuyển giao công nghệ dựa vào nhu cầu của thực tiễn và mục tiêu, kế hoạch

* Đổi mới cơ chế tổ chức và thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ - Cơ chế tổ chức và thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ phải

phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động chuyển giao công nghệ cấp quốc gia.

được đổi mới theo hướng mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học và

doanh nghiệp, tổ chức xã hội, bảo đảm dân chủ, cạnh tranh, khách quan, công

khai và bình đẳng trong việc tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt

động chuyển giao công nghệ; đổi mới căn bản công tác đánh giá công nghệ,

lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chuẩn, bảo đảm sự tương hợp với chuẩn

mực quốc tế, nhằm đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống.

- Đối với các nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, thực hiện

cơ chế liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức khoa học và công

nghệ và doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình từ triển khai thực hiện, đánh giá

-99-

và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tiễn.

- Kết hợp phương thức tuyển chọn thông qua cạnh tranh, công khai,

dân chủ, đảm bảo chọn đúng tổ chức, cá nhân có đủ năng lực thực hiện hoạt

động chuyển giao công nghệ ở các cấp, các ngành và địa phương.

- Tăng cường quản lý kết quả của hoạt động chuyển giao công nghệ

nhằm nâng cao chất lượng đánh giá công nghệ, từ đó nhân rộng ứng dụng

trong thực tiễn.

c. Đổi mới cơ chế quản lý của các tổ chức hoạt động chuyển giao

công nghệ

Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức hoạt động chuyển

giao công nghệ trên cơ sở:

* Ban hành cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức hoạt

động chuyển giao công nghệ của Nhà nước:

- Nhà nước giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức hoạt

động chuyển giao công nghệ phù hợp với đặc thù của mỗi loại hình hoạt

động, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của tổ chức này.

- Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức hoạt động chuyển

giao công nghệ của Nhà nước phải được thực hiện trong việc xây dựng và

thực hiện kế hoạch hoạt động chuyển giao công nghệ, quản lý tài chính, tài

sản, nhân sự và hợp tác quốc tế.

Căn cứ vào đặc thù của mỗi loại hình hoạt động chuyển giao công

nghệ, Nhà nước có cơ chế, chính sách phù hợp:

- Các tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện

nghiên cứu cơ bản, nghiên cưú luận cứ phục vụ xây dựng chính sách, chiến

lược, nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ trọng điểm và những lĩnh vực công

ích, được Nhà nước định hướng thực hiện các hoạt động chuyển giao công

nghệ theo chức năng hoạt động và bảo đảm kinh phí hoạt động.

- Các tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ nhằm ứng dụng và phát

triển công nghệ tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường, chuyển sang một

trong những hình thức sau: tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ theo cơ

chế tự trang trải kinh phí, doanh nghiệp hoạt động chuyển giao công nghệ.

Đối với các tổ chức này, Nhà nước chỉ cấp kinh phí theo cơ chế đặt

-100-

hàng chuyển giao công nghệ.

Quy định chế độ tự đánh giá bên ngoài định kỳ đối với các tổ chức hoạt

động chuyển giao công nghệ của Nhà nước theo các tiêu chuẩn tương hợp với

tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao hiệu quả đầu tư. Kết quả (số bài báo đăng trên

tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế, số bằng sáng chế, giải pháp hữu ích)

và ứng dụng kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, dần trở thành những

tiêu chí quan trọng nhất đối với các tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ

và nhà khoa học để được nhận tài trợ của Nhà nước.

* Ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt

động chuyển giao công nghệ chuyển đổi theo các hình thức sau:

- Chuyển sang cơ chế tự trang trải kinh phí, được Nhà nước hỗ trợ quỹ

lương và hoạt động bộ máy trong 5 năm kể từ khi có quyết định chuyển đổi;

- Chuyển đổi thành doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp,

được Nhà nước giao quyền sử dụng toàn bộ tài sản và áp dụng chính sách ưu

đãi như đối với doanh nghiệp mới thành lập;

- Chuyển đổi thành doanh nghiệp hoạt động chuyển giao công nghệ,

ngoài các chế độ, chính sách đối với doanh nghiệp nêu trên, được hưởng các

chế độ ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Nhà nước có chính sách hỗ trợ chuyển đổi đối với cán bộ khoa học và

công nghệ, công chức, viên chức trong khi chờ, thuyên chuyển, đào tạo lại,

thôi việc,...

* Xây dựng cơ chế liên kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và

đào tạo:

- Tăng cường chức năng nghiên cứu trong các trường đại học: Quy

định nhiệm vụ nghiên cứu đối với cán bộ giảng dạy đại học; tăng đầu tư cho

hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học.

- Thực hiện liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu phát triển với các

trường đại học: Quy định nhiệm vụ giảng dạy đối với các cán bộ nghiên cứu

thuộc các tổ chức nghiên cứu – phát triển; xây dựng quy chế dùng chung

phòng thí nghiệm và thiết bị phục vụ nghiên cứu và giảng dạy; thành lập các

loại hình tổ chức liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu như học viện và các hình

d. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động chuyển giao công thức hợp tác khác.

-101-

nghệ

- Triển khai áp dụng cơ chế tự chủ tài chính đồi với tổ chức hoạt động

chuyển giao công nghệ của Nhà nước phù hợp với mỗi loại hình hoạt động

chuyển giao công nghệ, như: ứng dụng và phát triển công nghệ, nghiên cứu

cải tiến công nghệ ngoại nhập,…

- Cải tiến chế độ tài chính trong việc thực hiện hoạt động chuyển giao

công nghệ: Nghiên cứu áp dụng cơ chế khoán kinh phí thực hiện đề tài, dự án

chuyển giao công nghệ; cải tiến thủ tục thanh quyết toán tài chính theo hướng

đơn giản hóa nhưng đảm bảo quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra.

- Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính đối với hoạt động chuyển giao

công nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động chuyển

giao công nghệ.

3.3.1.2. Xây dựng và phát triển thị trường công nghệ

Trong những năm gần đây, thị trường công nghệ đã bắt đầu hình thành,

song còn rất manh nha. Chúng ta chưa tạo ra được những động lực và cơ chế

đủ mạnh để kích thích cả cung lẫn cầu trên thị trường này. Để tạo lập và thúc

đẩy thị trường công nghệ phát triển cần phải:

* Đẩy mạnh đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế nhằm tạo nhu cầu

ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống

Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đẩy mạnh cải cánh doanh nghiệp

nhà nước, từng bước hạn chế độc quyền của các Tổng công ty nhà nước; ban

hành các chính sách về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, về giải thể và phá

sản doanh nghiệp, hạn chế khoanh nợ, dãn nợ. Nhà nước cần triệt để xóa bỏ

bao cấp, đổi mới cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ

cạnh tranh tự do, lành mạnh. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện

các cam kết quốc tế và thúc đẩy việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế

(WTO) tạo ra sức ép đẩy các doanh nghiệp quan tâm thực sự đến hiệu quả sản

xuất, kinh doanh và tính toán hiệu quả khi lựa chọn công nghệ, đổi mới sản

phẩm.

Tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với việc nâng cao năng lực đổi

mới công nghệ của doanh nghiệp (như cung cấp thông tin, tư vấn chuyển giao

công nghệ; có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh

ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; miễn giảm thuế đối với những sản

-102-

phẩm đang trong sản xuất thử nghiệm, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và

các sản phẩm xuất khẩu; miễn thuế đối với phần kinh phí mà các cơ sở sản

xuất dùng để đào tạo và đào tạo lại; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi với

việc thực hiện chế độ khấu hao nhanh nhằm đẩy nhanh tốc độ đổi mới công

nghệ, chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán, hoàn

thiện và mở rộng các công cụ của thị trường tài chính, như thuê mua tài

chính, công ty tài chính,… để các doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn

đầu tư trung và dài hạn phù hợp với chu kỳ đổi mới sản phẩm, đổi mới công

nghệ.

Áp dụng cơ chế Nhà nước mua sản phẩm khoa học và công nghệ từ

những nghiên cứu không sử dụng ngân sách nhà nước để phục vụ các nhu

cầu phát triển kinh tế - xã hội. Có những biện pháp nhằm quản lý chặt chẽ

công nghệ nhập.

* Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường công nghệ

Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường công nghệ như;

Luật khoa học – công nghệ, luật sở hữu trí tuệ, luật chuyển giao công nghệ.

Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và nâng cao hiệu lực thực thi

pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.

Thể chế hóa các giao dịch trong thị trường công nghệ nhằm đẩy mạnh

thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ, góp vốn bằng bản quyền

đối với sản phẩm nghiên cứu hoặc các hình thức sở hữu trí tuệ khác; mua, bán

sản phẩm khoa học và công nghệ; giao dịch thương mại điện tử,…

Ban hành các quy định về tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn của sản phẩm

khoa học và công nghệ trước khi đưa vào ứng dụng thực tiễn. Hình thành các

tổ chức quản lý thị trường về công nghệ.

* Cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ mới

- Chính phủ cần sớm ban hành văn bản pháp luật chi tiết để thực hiện

các quy định tại Chương III, phần 6 của Bộ Luật dân sự về chuyển giao công

nghệ với những nội dung mở rộng cho các nhà đầu tư có sự chuyển giao công

nghệ, kèm theo việc ban hành Thông tư hướng dẫn cụ thể trong việc thực hiện

-103-

Nghị định về chuyển giao công nghệ;

- Xúc tiến việc hướng dẫn thi hành Điều 65 Luật Đầu tư nước ngoài

(sửa đổi năm 2005) về việc cho phép các viện, trường, bệnh viện được liên

doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài;

- Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công

nghệ cao, các vùng kém phát triển… thông qua ưu đãi thuế;

- Ban hành danh mục các công nghệ ưu tiên được chuyển giao hoặc

miễn thuế hoặc giảm thuế chuyển giao công nghệ;

- Ban hành danh mục các dự án hoàn toàn không phải lập danh mục

báo cáo tác động môi trường trong bất kỳ giai đoạn nào như tinh thần Điều 39

Nghị định số12/CP ngày 18-02-1997. Hạn chế tối đa việc lập và phê duyệt đề

án đánh giá tác động môi trường qua 2 giai đoạn;

- Tiếp tục ban hành, bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan nhằm

cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước;

- Tăng cường quản lý các hoạt động dịch vụ, tư vấn chuyển giao công

nghệ, đánh giá tác động môi trường để tránh những phiền hà, trung gian

không cần thiết.

* Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới trên thị trường công nghệ

Khuyến khích, hỗ trợ việc hình thành và phát triển các tổ chức tư vấn,

môi giới dịch vụ chuyển giao công nghệ, chợ thiết bị và công nghệ ở địa

phương và ở quy mô cả nước.

3.3.1.3. Phát triển nguồn lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ

a. Phát triển nhân lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ

* Nâng cao nhân thức về vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ

- Quán triệt đến mọi cấp, mọi ngành quan điểm đội ngũ trí thức, khoa

học và công nghệ là tài sản của quốc gia và là nguồn lực góp phần quan trọng

quyết định sự thành công của quá trình CNH, HĐH đất nước. Đội ngũ này

bao gồm các cán bộ khoa học và công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu –

phát triển, các trường đại học, các cán bộ tham gia hoạt động chuyển giao

công nghệ trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức

-104-

chính trị, xã hội, nghề nghiệp.

- Các ngành, các cấp cần quan tâm đầu tư, tạo những điều kiện thuận

lợi nhằm phát huy cao nhất tiềm năng sáng tạo của đội ngũ này trong công

cuộc CNH, HĐH đất nước.

* Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ nhằm giải

phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa

học và công nghệ:

- Từng bước chuyển chế độ biên chế sang chế độ hợp đồng lao động

đối với cán bộ khoa học và công nghệ, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển cán

bộ, hình thành thị trường lao động trong hoạt động chuyển giao công nghệ.

- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự đối

với các tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ trong việc quyết định tuyển

dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho thôi

việc, xếp lương, khen thưởng và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ, nhân

viên.

* Xây dựng các chính sách tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ

cho các cá nhân hoạt động chuyển giao công nghệ:

- Phát huy tinh thần yêu nước, lý tưởng XHCN, hoài bão và lòng say

mê khoa học, tinh thần hợp tác nghiên cứu trong đội ngũ cán bộ khoa học và

công nghệ.

- Thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, xóa bỏ dần chế độ phân phối

bình quân, thực thi chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến của các nhà

khoa học và công nghệ; không giới hạn mức thu nhập đối với cán bộ hoạt

động chuyển giao công nghệ, miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân từ hoạt

động chuyển giao công nghệ. Bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm

khích lệ sáng tạo và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng rộng rãi.

- Ban hành chính sách khen thưởng đối với các cá nhân có thành tích

khoa học và công nghệ có giá trị khoa học và thực tiễn cao; chính sách

khuyến khích cán bộ hoạt động chuyển giao công nghệ làm việc tại địa bàn có

điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.

* Đổi mới chính sách đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ

- Đẩy mạnh việc tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ khoa

-105-

học và công nghệ đi đào tạo một cách đồng bộ ở các nước có trình độ khoa

học và công nghệ tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh vực công nghệ trọng

điểm quốc gia.

- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, các nhà khoa học, các tổng

công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề; hình thành các tập thể

khoa học và công nghệ mạnh, đủ sức giải quyết các hoạt động chuyển giao

công nghệ quan trọng do sản xuất, đời sống, quốc phòng, an ninh đặt ra.

- Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng đào tạo công nhân kỹ

thuật (đặc biệt là công nhân có tay nghề cao) cho các ngành đang thu hút đầu

tư nước ngoài và những ngành kinh tế - xã hội trọng điểm.

- Huy động tối đa và hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp

vào quá trình đào tạo nhân lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ, nhất là

khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

- Ưu tiên sử dụng các nguồn tài chính từ hợp tác, tài trợ quốc tế kể cả

nguồn vốn ODA cho đào tạo nhân lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ,

đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ trọng điểm.

- Khuyến khích mở các trường đại học, viện nghiên cứu công nghệ quốc

tế hoặc khu vực tại Việt Nam. Từ đó tạo cơ hội hợp tác nghiên cứu và đào nguồn

lực cán bộ khoa học công nghệ cho Việt Nam.

b. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về các hoạt động chuyển

giao công nghệ

- Nhà nước cần tăng cường đầu tư, nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở

thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ và các thành tựu ứng dụng

khoa học và công nghệ hiện có, xây dựng và phát triển các hệ thống thông tin

khoa học và công nghệ quốc gia liên thông quốc tế, khai thác hiệu quả các

nguồn thông tin về các hoạt động chuyển giao công nghệ trong và ngoài

nước, khắc phục tình trạng lạc hậu về thông tin hiện nay của nước ta.

-Xây dựng và phát triển các ngân hàng dữ liệu quốc gia về chuyển giao

công nghệ, về sở hữu trí tuệ, số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên

và tiềm lực khoa học và công nghệ.

- Đẩy mạnh việc phổ biến thông tin về ứng dụng công nghệ mới tới

-106-

người sử dụng, chú trọng thông tin phục vụ doanh nghiệp, phát tr iển nông

thôn, vùng sâu, vùng xa.

c. Tập trung xây dựng một số tổ chức hoạt động chuyển giao công

nghệ và cơ sở hạ tầng chuyển giao công nghệ đạt trình độ tiên tiến trong

khu vực cho một số hướng công nghệ trọng điểm

Tập trung đầu tư xây dựng một số tổ chức hoạt động chuyển giao công

nghệ trong một số hướng công nghệ trọng điểm, đảm bảo cho các cơ quan

này có đầy đủ những trang thiết bị nghiên cứu, thực nghiệm, thông tin tư liệu,

đội ngũ cán bộ khoa học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đạt trình độ

tiên tiến của khu vực phục vụ các hướng chuyển giao công nghệ trọng điểm

quốc gia.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đo lường, chất lượng đạt trình độ tương

hợp với khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh phát triển các tổ chức nghiên cứu và

ứng dụng công nghệ cao.

d. Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính cho

hoạt động chuyển giao công nghệ

Xây dựng cơ chế, chính sách đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho hoạt

động chuyển giao công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới

công nghệ; thu hút nguồn vốn đàu tư nước ngoài, sử dụng viện trợ phát triển

chính thức (ODA) đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ; khuyến khích

thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm có

vốn ngân sách nhà nước; bảo đảm tốc độ tăng chi cho khoa học và công nghệ

từ ngân sách nhà nước hàng năm.

Tập trung đầu tư cho các hướng công nghệ trọng điểm; dành vốn đầu

tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong các ngành

khoa học; thực hiện đầu tư đồng bộ giữa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật

với đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ.

Xây dựng hệ thống tiêu chí và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư

cho hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là hiệu quả kinh tế - xã hội.

3.3.1.4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về chuyển giao công nghệ

- Đa dạng hóa đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về chuyển giao công

-107-

nghệ, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về chuyển

giao công nghệ với hợp tác quốc tế về kinh tế. Thể chế hóa việc quy định đưa

nội dung chuyển giao công nghệ vào các dự án hợp tác quốc tế về kinh tế.

Tranh thủ tối đa các kênh chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài, đặc

biệt là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hợp tác nghiên cứu khoa học

và công nghệ, coi trọng hợp tác phát triển các ngành công nghệ cao.

- Ban hành chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước

ngoài và các chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia

nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn về chuyển giao công nghệ,…

- Tăng cường tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức

hoạt động chuyển giao công nghệ trong hợp tác quốc tế: gửi cán bộ đi đào tạo ở

nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoạt động chuyển giao công nghệ

được tham gia các hội nghị quốc tế, tiến hành nghiên cứu, trao đổi, giảng dạy ở

nước ngoài; mời chuyên gia nước ngoài hợp tác trong nghiên cứu giảng dạy;

thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng xuất khẩu sản phẩm hàng hóa từ triển

khai các kết quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất.

- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức hoạt động chuyển giao

công nghệ nước ngoài lập cơ sở nghiên cứu, triển khai hoặc mở các trường

dạy nghề, các trường đại học chất lượng cao theo quy định của pháp luật.

- Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế về chuyển giao công

nghệ. Chiến lược này phải đưa ra những định hướng, mục tiêu, giải pháp

nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách

về khoa học và công nghệ của nước ta với khu vực và thế giới.

3.2.1.5. Xây dựng và củng cố hạ tầng cơ sở cho hoạt động chuyển giao

công nghệ

Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì hạ tầng cơ sở cho hoạt

động chuyển giao công nghệ là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến

việc nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Trước mắt chúng ta cần lưu ý:

+ Đối với trường học nói chung cần chú trọng trang thiết bị phục vụ thí

nghiệm và thực hành, tránh tình trạng học sinh học chay hoặc thực hành với

trang thiết bị lạc hậu, để sau khi ra trường khả năng hành nghề không bị hạn

-108-

chế so với bằng cấp.

+ Đối với các tổ chức nghiên cứu và triển khai cần xây dựng và củng cố cho phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt cần tập trung đầy đủ trang thiết bị ở khâu nghiên cứu và thử nghiệm để thời gian nghiên cứu không kéo dài, có điều kiện thử nghiệm ở quy mô bán công nghiệp, nhanh chóng hoàn thiện công nghệ, hạn chế rủi ro và có khả năng cạnh tranh với công nghệ nước ngoài. + Thường xuyên bổ sung nhân lực có năng lực cho các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan nghiên cứu để có năng lực mạnh hơn các cơ sở sản xuất, từ đó nâng cao vị trí, uy tín của mình trong việc đề xuất công nghệ mới, làm chức năng tư vấn, hướng dẫn cơ sở sản xuất hoạt động và đặc biệt là lựa chọn hợp lý công nghệ nhập. + Cần có các biện pháp hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất cần thiết nhằm tạo ra các điều kiện để mối quan hệ giữa đào tạo, nghiên cứu và thực tiễn sản xuất gắn liền với nhau, phục vụ hỗ trợ lẫn nhau. + Củng cố và tăng cường trang thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng đảm bảo sự cân đối với trình độ trong khu vực và thế giới, tạo ra cơ sở cho hàng hóa nước ta dễ dàng thâm nhập thị trường ngoài nước. + Củng cố và hoàn chỉnh mạng lưới các cơ quan thông tin về các hoạt động chuyển giao công nghệ để cung cấp thông tin đầy đủ “để biết” và “để làm”. + Tăng cường và phát huy tác dụng tích cực của các tổ chức tư vấn, đặc biệt là các chuyên gia nước ngoài về chuyển giao công nghệ và đầu tư, cần bổ sung đội ngũ cán bộ thành thạo nghiệp vụ cũng như tạo cơ sở dữ liệu cần thiết thực hiện có chất lượng công tác tư vấn. 3.3.2.Về phía doanh nghiệp

Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ so với thế giới, do vậy những biện pháp để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ phải có sự tương hợp với những đặc điểm vốn có của nó. Rõ ràng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập như hiện nay thì việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ,… là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược kinh doanh khoa học,

-109-

khả thi và thích hợp

Việc xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược kinh doanh khoa

học, khả thi và thích hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để xác định

chiến lược phát triển và ứng dụng công nghệ mới, từ đó có chính sách,

phương thức thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ và

chuyển giao công nghệ.

Chiến lược phát triển và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phải

mang tính dài hạn, có tính chất linh hoạt, dựa trên nền tảng chiến lược đã định

từ trước chứ không phải chờ tình hình đến đâu ngả theo đến đó. Để có được

chiến lược đó, các doanh nghiệp phải thực hiện một loạt các biện pháp phối

hợp như:

- Tăng cường các biện pháp thu hút tài chính và huy động các nguồn

vốn khác nhau trong xã hội;

- Tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị

trường công nghệ;

- Tạo dựng một môi trường lành mạnh gắn kết các thành viên, các

phòng ban trong doanh nghiệp, cũng như tạo mối liên kết chặt chẽ giữa doanh

nghiệp với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ, và các

trường đại học;

- Tăng cường, mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài

nước, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia của các nước phát

triển.

3.3.2.2. Nâng cao tính tự lực trong việc phát triển tiềm lực khoa học và

công nghệ

Trên thực tế, không một doanh nghiệp nào, dù có khả năng lớn đến

đâu, có thể tự đảm bảo toàn bộ các công nghệ cho mình. Hơn nữa, trong điều

kiện hiện nay, khi tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra với tốc độ ngày càng

nhanh, việc phát triển công nghệ cực đoan theo một con đường có thể gây ra

sự tụt hậu hoặc lạc hậu, phụ thuộc về mặt công nghệ. Chính vì vậy, các doanh

nghiệp luôn phải biết cách kết hợp nhiều cách khác nhau để nâng cao năng

lực công nghệ, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.

-Tạo dựng môi trường kinh doanh, thị trường sản phẩm ổn định để khai

-110-

thác các hoạt động liên kết khoa học và công nghệ;

- Nâng cao nhận thức trong hoạt động chuyển giao công nghệ để thực

hiện tốt các hoạt động nhập khẩu công nghệ và tiếp nhận công nghệ chuyển

giao: cần có sự phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia chuyển giao công nghệ và

các chuyên gia pháp lý để xây dựng những điều khoản rõ ràng và bình đẳng

trong các hợp đồng chuyển giao; cần có những dự tính về quyền hạn và quyền

lợi cũng như trách nhiệm của cả bên chuyển giao và bên tiếp nhận chuyển giao

đối với lợi ích do sự cải tiến, thích nghi hóa các công nghệ sau khi chuyển giao;

khi nhận chuyển giao công nghệ từ phía nước ngoài, cần chú trọng tới sự khác

biệt về tập quán, về hệ thống pháp luật giữa nước có doanh nghiệp tiếp nhận,

nước có cơ sở chuyển giao và nước mà quy chế pháp lý của nó được thống nhất

chọn làm căn cứ phân xử các tranh chấp có thể có sau này; tăng cường sử dụng

các dịch vụ tư vấn và trung gian công nghệ, chuyển giao công nghệ.

- Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại dưới nhiều hình thức và

tuyển dụng nhân lực công nghệ;

- Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, các tổ hợp công nghiệp và

tạo dựng các mạng lưới vệ tinh;

- Chuyển giao công nghệ và đầu tư sang các vùng khác chậm phát triển

hơn từ đó làm tăng quá trình “luân chuyển công nghệ”, tạo điều kiện đổi mới

công nghệ;

- Tạo sự gắn kết trong mối quan hệ giữa Nhà nước (nhà tài trợ), nhà

khoa học (người có nghiên cứu, giải pháp công nghệ) và doanh nghiệp (người

triển khai, thực hiện và thương mại hóa công nghệ).

Tóm lại, Sự phân tích ở trên cho thấy vai trò và sự tác động của bối

cảnh quốc tế về hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Sau gần 20

năm đổi mới, với sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế theo hướng thị trường,

nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ

rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong thời

gian tới cũng rất lớn. Để tăng trưởng kinh tế vững chắc thì việc thúc đẩy các

hoạt động chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả cũng là một chiến lược

phát triển kinh tế cần được coi trọng. Muốn thúc đẩy hoạt động chuyển giao

công nghệ và việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học vào thực tiễn

-111-

sản xuất thì cần thiết phải có một môi trường vĩ mô ổn định, hệ thống luật

pháp hoàn thiện, cơ sở hạ tầng kinh tế tốt. Nhưng đó là những chiến lược lâu

dài, trước mắt chúng ta cần phải xây dựng môi trường chuyển giao công nghệ

thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập như hiện nay, tạo dựng được cơ

sở hạ tầng cho nền khoa học và công nghệ quốc gia, thay đổi nhận thức về đổi

mới công nghệ và chuyển giao công nghệ. Do vậy, cần thiết phải có những

chính sách định hướng, chỉ đạo của Nhà nước trên cơ sở có sự phối hợp của

các ban ngành và tính tự lực phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của

doanh nghiệp. Từ đó có thể tranh thủ mọi nguồn lực sẵn có, phát huy những

-112-

lợi thế để tăng cường các hoạt động chuyển giao công nghệ hiệu quả hơn.

KẾT LUẬN

Thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các hoạt động chuyển giao công nghệ

đã và đang là vấn đề bức xúc trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh CNH, HĐH, chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế.

Chuyển giao công nghệ là một lĩnh vực hoạt động nhằm đưa những

công nghệ từ nơi có nhu cầu giao công nghệ đến nơi có nhu cầu nhập công

nghệ, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia. Chuyển giao công nghệ là một

sự lựa chọn của nhiều quốc gia đang phát triển trong chiến lược phát triển

kinh tế đất nước. Thực tế cho thấy nhiều thành tựu kinh tế đạt được của một

số nước là nhờ có những chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy các hoạt

động chuyển giao công nghệ dưới nhiều hình thức khác nhau.

Trong những năm qua, nhờ việc tăng cường các hoạt động chuyển giao

công nghệ mà nhiều công nghệ ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đã có sự đổi

mới, góp phần nâng cao năng suất lao động, khai thác triệt để các nguồn lực

trong nước, làm thay đổi cơ cấu nhiều mặt hàng và nâng cao chất lượng sản

phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và tăng

trưởng nền kinh tế. Tuy vậy, vẫn còn nhiều những hạn chế, tồn tại đang đặt ra

cho các hoạt động chuyển giao công nghệ trong thời gian tới như môi trường

chính sách, điều kiện vật chất, năng lực của các nguồn lực (đặc biệt là nguồn

nhân lực khoa học và công nghệ ),…

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay,

muốn thúc đẩy, tăng cường các hoạt động chuyển giao công nghệ một cách có

hiệu quả thì các chính sách đưa ra phải có khả năng thích ứng với điều kiện

quốc tế, phù hợp với thực trạng từng ngành, tững lĩnh vực trong tiến trình

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập. Đặc

biệt, các chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao công nghệ

phải có sự thống nhất và thực hiện đồng bộ cùng với các chính sách kinh tế

khác trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước, tránh sự mâu thuẫn trong

các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Chúng ta cần đổi mới cơ chế quản

-113-

lý hoạt động chuyển giao công nghệ; xây dựng và phát triển thị trường công

nghệ; phát triển nguồn lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ; đẩy mạnh

hội nhập quốc tế về chuyển giao công nghệ; xây dựng và củng cố hạ tầng cơ

sở cho hoạt động chuyển giao công nghệ; làm thay đổi cách thức xây dựng

chiến lược trong doanh nghiệp; nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp trong

việc phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ. …Có như vậy, Việt Nam mới

từng bước nâng cao năng lực công nghệ quốc gia, tăng vị thế, sức cạnh tranh

trên thị trường quốc tế và hướng tới một nền kinh tế tri thức với sự tăng

-114-

trưởng kinh tế bền vững.!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt:

1- Bộ Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ Viêt Nam năm 2001

Khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2003

2- Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2002.

3- Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài: Quản lý công nghệ,

Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002.

4- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

5- TS. Đỗ Đức Định: Một số vấn đề chiến lược công nghiệp hoá và lý thuyết

phát triển, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1999.

6- TS. Nguyễn Mạnh Hùng: Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, chương

trình ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010

và định hướng 2020, và hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện,

Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004.

7- Vũ Quế Hương (Biên dịch): Quản lý đổi mới và phát triển sản phẩm mới,

Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà nội, 2001.

8- PGS.TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên): Quản trị dự án và doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, Tập I, II, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002.

9- Luật Dân sự – Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

10- Luật Khoa học – Công nghệ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

11- E.Wayne Nafziger: Kinh tế học của các nước đang phát triển,

Nxb Thống kê, 1998.

12- Nghị định của Chính phủ số 45/1998/NĐ- CP – Quy định chi tiết về

chuyển giao công nghệ.

13- Niên giám thống kê năm 2000, 2001, 2002, 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội,

năm 2001, 2002, 2003, 2004.

14- Hoàng Đình Phu: Lịch sử kỹ thuật và cách mạng công nghệ đương đại,

-115-

Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội, 1997.

15- Trần Thanh Phương: Tác động và những hệ quả kinh tế – xã hội của cách

mạng khoa học công nghệ mới đối với sự phát triển trước ngưỡng cửa năm

2000.

Phần I. Trung tâm Thông tin tư liệu và công nghệ quốc gia, Hà Nội -1994

16- TS. Danh Sơn: Quan hệ giữa phát triển khoa học-công nghệ với phát

triển kinh tế-xã hội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt Nam,

Nxb. Khoa học-Xã hội, Hà Nội, 1999.

ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam,

Nxb. Khoa học - Xã hội, 1997.

17- Bùi Tất Thắng (chủ biên): Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu

18- Tập thể tác giả: Dự báo thế kỷ 21, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2000.

19- GS.TS. Trần Văn Thọ: Công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại Châu Á

- Thái Bình Dương, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.

20- GS.TS. Nguyễn Văn Thường (chủ biên): Tăng trưởng kinh tế Việt Nam –

Những rào cản cần phải vượt qua, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005.

21- PGS.TS. Trần Văn Tùng (chủ biên): Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông

Á,

Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2003.

22- PGS.TS. Trần Văn Tùng (chủ biên): Cạnh tranh kinh tế,

Nxb. Thế giới, Hà Nội - 2003.

23- Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, Ban Nghiên cứu dự

báo, Chiến lược và Quản lý khoa học: Phác thảo chiến lược phát triển khoa

học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

24- Trường Nghiệp vụ quản lý: “Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ

và môi trường”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2000.

25- Tư duy lại tương lai, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002.

26- Từ điển Bách khoa Việt Nam. Hà Nội – 1995.

27- Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP): Hỏi đáp về

chuyển giao công nghệ nước ngoài, đàm phán và thực hiện hợp đồng.

-116-

Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội, 1995.

28- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Dự án VIE 01/025: Hội

nhập kinh tế - Áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước,

Nxb. Giao thông - Vận tải, Hà Nội - 2003.

29- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Dự án VIE 01/025: Nâng

cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb. Giao thông- Vận tải, Hà Nội- 2003.

Tài liệu Tiếng Anh:

1- F. Betz: Strategic technology management. Mcgraw – Hill international

Editions – 1996.

2- Philip Epple: Technology transfer from SMEs to developing countries,

P.Lang – Europaischer Verlag der Wissenschaften. Frankfuhrt am Main –

1996.

3- Rohland Fleck: Increasing incentives for technology: The weaknesses,

prospect and project in European, Nxb Wiesbaden, 1996.

4- Christopher Freemen: Industrial policy and economic potential – Japan’s

experience, Nxb. Pinter, London – 1997.

5- K.W. Grewlich: Châu Âu trong cuộc chạy đua công nghệ toàn cầu: Thị

trường quốc tế trở thành thị trường nội địa, Nxb Bertelsmann, Berlin – 1992.

6- Riedel, James (1999), “Economic Development in East Asia: Doing What

Comes naturally”, in Helen Hughes, Achieving Industrialization in East Asia,

UK: Cambridge Univesity Press, pp.1-38.

Wealth Creation, Mc Graw – Hill Higher Education. International Editions 2000.

7- Tarek M. Khalil: Management of Technology: The Key to Competitiveness and

8- Từ điển khoa học, công nghệ và môi trường của Australia,

Nxb. Thoms Nelson – 1999.

9- C. Wang: Management of Technology. Hanoi - 1998

10- Shoichi Yamashita: Chuyển giao công nghệ và quản lý của Nhật Bản

sang các nước ASEAN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1994.

Các trang Web:

+ HTTP://WWW. BEA.DOC.GOV.

+ HTTP: //WWW.MOET.EDU.VN

-117-

+ HTTP://WWW.OECD.ORG.

+ HTTP://WWW.UNDP.ORG.

-118-

+ HTTP://WWW.WORLDBANK.ORG.

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ .................................................................................. 5 1.1. Lý luận chung về chuyển giao công nghệ ........................................... 5 1.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 5 1.1.1.1. Công nghệ ...................................................................................... 5 1.1.1.2. Chuyển giao công nghệ................................................................... 8 1.1.2. Phân loại các hình thức chuyển giao công nghệ ................................ 13 1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể chuyển giao công nghệ ............................... 13 1.1.2.2. Phân loại theo nội dung công nghệ được chuyển giao .................... 14 1.1.2.3. Phân loại theo tính chất của công nghệ ........................................ 14 1.1.2.4. Phân loại theo tính chất của quá trình chuyển giao công nghệ ...... 14 1.1.2.5. Phân loại theo phương thức thanh toán và tính chất thương mại ... 16 1.1.3. Điều kiện chuyển giao công nghệ ..................................................... 16 1.1.4. Tác động của hoạt động chuyển giao công nghệ................................ 20 1.1.4.1. Đối với bên cung cấp công nghệ.................................................... 20 1.1.4.2. Đối với bên tiếp nhận công nghệ ................................................... 22 1.1.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ.......................... 22 1.1.5.1. Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động của công nghệ ......................... 23 1.1.5.2. Các chỉ tiêu về hiệu quả của công nghệ ......................................... 24 1.1.5.3. Các chỉ tiêu về tác động môi trường và các ảnh hưởng kinh tế-xã hội khác ......................................................................................................... 25 1.2. Chuyển giao công nghệ của một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ........................................................................ 26 1.2.1. Chuyển giao công nghệ của một số nước trên thế giới ....................... 26 1.2.1.1. Ấn Độ .......................................................................................... 26 1.2.1.2. Trung Quốc .................................................................................. 29 1.2.1.3. Malaixia....................................................................................... 33 1.2.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam............................................. 38 1.2.2.1. Về phía Nhà nước ......................................................................... 38 1.2.2.2. Về phía các doanh nghiệp ............................................................. 40 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở

VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ......................................................................... 41 2.1. Tổng quan về môi trƣờng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam ......... 41 2.1.1. Cơ sở hạ tầng chuyển giao công nghệ ............................................... 41

-119-

2.1.1.1. Cơ chế chuyển giao công nghệ ...................................................... 42 2.1.1.2. Các nguồn lực .............................................................................. 43 2.1.2. Môi trường chính sách về chuyển giao công nghệ ............................. 51 2.1.3. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ ....................................... 53 2.1.4. Thực trạng công nghệ ở Việt Nam.................................................... 54 2.2. Tình hình hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam thời gian qua ................................................................................................................ 55 2.2.1. Các hình thức chuyển giao công nghệ ở Việt Nam ............................ 55 2.2.1.1. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam ..................... 55 2.2.1.2. Chuyển giao công nghệ trong nước ............................................... 56 2.2.2. Hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài FDI trong thời gian qua .................................................................................... 56 2.2.3. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua nhập khẩu thiết bị, máy móc .......................................................................................................... 60 2.2.4. Kết quả ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất ..................... 63 2.2.4.1. Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp................................................. 63 2.2.4.2. Lĩnh vực công nghiệp.................................................................... 66 2.2.4.3. Lĩnh vực y – dược ......................................................................... 73 2.3. Đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian từ năm 1996 đến nay ....................................................................... 76 2.3.1. Những kết quả đạt được và tác động kinh tế xã hội ........................... 76 2.3.1.1. Những kết quả đạt được ................................................................ 76 2.3.1.2. Tác động kinh tế - xã hội ............................................................... 77 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân........................................................ 81 2.3.2.1. Những hạn chế ............................................................................. 81 2.3.2.2. Những nguyên nhân chủ yếu ......................................................... 83 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO85CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN TỚI................................................................................................ 85 3.1. Bối cảnh mới, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khoa học - công nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam ................................... 85 3.1.1. Bối cảnh quốc tế.............................................................................. 85 3.1.1.1. Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ .................................. 85 3.1.1.2. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ........................................ 86 3.1.2. Bối cảnh trong nước ........................................................................ 87 3.1.3. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển khoa học - công nghệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam ....................................................... 87

-120-

3.1.3.1. Cơ hội .......................................................................................... 87 3.1.3.2. Thách thức ................................................................................... 88 3.2. Quan điểm định hƣớng nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới ....................................................... 89 3.2.1. Phải thực hiện đa dạng các hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam .................................................................................. 90 3.2.2. Phát huy năng lực nội sinh để nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ ......................................................................................................... 92 3.2.3. Chuyển giao công nghệ phải được đặt trong một quy hoạch, chiến lược gắn với chính sách đổi mới........................................................................ 93 3.2.4. Phải "lựa chọn công nghệ phù hợp" trong hoạt động chuyển giao công nghệ vào Việt Nam ................................................................................... 94 3.2.5. Có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ để tạo sự cạnh tranh lành mạnh nhằm thu hút các luồng chuyển giao công nghệ.......................................... 95 3.2.6. Chuyển giao công nghệ phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội ......... 96 3.2.7. Đẩy nhanh chuyển giao công nghệ theo hướng thị trường ................. 97 3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ trong thời gian tới .......................................................................... 97 3.3.1. Về phía Nhà nước............................................................................ 98 3.3.1.1. Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ.............. 98 3.3.1.2. Xây dựng và phát triển thị trường công nghệ ............................... 102 3.3.1.3. Phát triển nguồn lực cho hoạt động chuyển giao công nghệ ......... 104 3.3.1.4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về chuyển giao công nghệ ................. 107 3.2.1.5. Xây dựng và củng cố hạ tầng cơ sở cho hoạt động chuyển giao công nghệ ....................................................................................................... 108 3.3.2.Về phía doanh nghiệp ..................................................................... 109 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược kinh doanh khoa học, khả thi và thích hợp ................................................................................ 109 3.3.2.2. Nâng cao tính tự lực trong việc phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ ....................................................................................................... 110 KẾT LUẬN ........................................................................................... 113

-121-

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 115