VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ĐỨC DŨNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ĐỨC DŨNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA
HÀ NỘI - 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác khi nước ta đã gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO), nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những diện mạo
sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp
và với số lượng lớn [39]. Ở Việt Nam nói chung cũng như ở TP Hồ Chí Minh nói
riêng hầu hết các tranh chấp kinh tế, thương mại đều được lựa chọn giải quyết bằng
con đường tòa án, bởi các bên tham gia hoạt động thương mại khi giao kết hợp
đồng thương mại thường không biết và không nêu quy định lựa chọn trọng tài trong
hợp đồng nên khi xảy ra tranh chấp không được áp dụng thủ tục này nên việc lựa
chọn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo thủ tục tòa án được coi là giải
pháp hữu hiệu nhất.
Hiện nay, có hai hình thức tài phán quan trọng, đó là Tòa án và Trọng tài.
Tòa án là cơ quan tố tụng, được thành lập và tổ chức hoạt động trên cơ sở quy định
của pháp luật. Trọng tài cũng là cơ quan tài phán nhưng mang tính chất của tài phán
tư, không đại diện cho quyền lực nhà nước. Ở Việt Nam, các bên khi ký hợp đồng
thường thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Toà án như một
giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả nhất các quyền và lợi ích của mình khi
thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải [42]. Tuy nhiên việc giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án mặc dù về thủ tục và hoạt động
đã được quy định rõ trong Bộ luật tố tụng dân sự nhưng trong thực tiễn, việc áp
dụng vào giải quyết trong từng vụ án cụ thể còn nhiều bất cập và gặp khó khăn như
hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ, sự phối hợp của các cơ quan liên
quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại còn chậm trễ, nhận thức
về pháp luật của các đương sự tham gia trong vụ án còn hạn chế, chưa thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của mình…
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước nên có số
doanh nghiệp và công ty tương đối nhiều, trong những năm gần đây các tranh chấp
1
kinh tế, thương mại đang có xu hướng gia tăng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong thời gian vừa qua, công tác xét xử của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh
cũng đã đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều
vướng mắc, quan điểm giải quyết giữa các Tòa án còn chưa thống nhất do pháp luật
giải quyết còn nhiều quy định bất cập, chưa rõ ràng nhưng chưa có sự hướng dẫn cụ
thể… Điều này đã ít nhiều làm giảm hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại của Tòa án, chưa thật sự đảm bảo việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại được công minh, nhanh chóng và chính xác; tình trạng tồn đọng án, giải quyết
án kéo dài vẫn còn đã gây không ít phiền hà, mệt mỏi cho đương sự, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích cho các bên đương sự…Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề
pháp lý về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án để đưa ra các giải
pháp khoa học nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án là vấn đề cấp
thiết. Xuất phát từ các yêu cầu khách quan về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng phương thức Tòa án nói chung và thực trạng giải quyết tranh chấp tại Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho mình
2. Tình hình nghiên cứu lên quan đến đề tài
Hiện tại, có rất nhiều công trình nghiên cứu và các công trình khoa học đã
nghiên cứu về nội dung giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng các phương
thức khác nhau có thể kể đến như:
Tác giả Nguyễn Văn Trình (2019), Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng tố tụng Tòa án - Thực tiễn tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội. Qua tìm hiểu các quy
định của pháp luật, thực trạng áp dụng tại TAND TP. Hồ Chí Minh, tác giả nêu lên
một số vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn và đề xuất một số giải pháp
để phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại của TAND TP. Hồ Chí Minh trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Qua đó, giúp cho việc giải
2
quyết TC kinh tế, thương mại tại Tòa án trở nên hoàn thiện hơn, linh hoạt hơn để
Tòa án luôn là sự lựa chọn của các bên để giải quyết các tranh chấp của mình khi
phát sinh. Tòa kinh tế TAND TP. Hồ Chí Minh đảm nhận vai trò giải quyết các
tranh chấp kinh tế, thương mại phát sinh trên địa bàn [43].
Tác giả Đinh Thị Trang (2013), Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại theo thủ tục tố tụng tòa án ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Luật học của tác giả Đinh Thị Trang, bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội. Đánh giá thực trạng của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
bằng thủ tục tố tụng tại tòa án ở Việt Nam hiện nay. So sánh thủ tục tố tụng tòa án với
một số thủ tục tố tụng khác. Tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện, nâng cao
chất lượng giải quyết án kinh tế, thương mại tại tòa án. Qua đó tìm hiểu, phát hiện ưu
và nhược điểm của thủ tục này để các cơ sở kinh tế, thương mại có được sự lựa chọn
tốt nhất trong việc giải quyết các tranh chấp của mình, nhanh chóng khắc phục những
hạn chế bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó đề
xuất những phương hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng hiện nay ở Việt Nam để phục
vụ tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới [42].
Tác giả Nguyễn Thanh Lan (2018), Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về
kinh doanh thương mại tại tòa án trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Trường Đại học Kinh
tế Tp. Hồ Chí Minh. qua hệ thống cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thực áp dụng pháp luật hiện hành khi giải
quyết tranh chấp tại Toà án địa phương. Những qui định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ về kinh doanh thương mại và giải quyết các tranh chấp trong hoạt động
thương mại của các chủ thể kinh doanh là cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện
thuận lợi để tòa án giải quyết các tranh chấp giữa các đương sự khi tham gia tố
tụng, tuy nhiên một số qui định vẫn còn thiếu sót hạn chế. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu luận văn đã đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện một số vấn đề về luật
hình thức và một số vấn đề về luật nội dung trong hoạt động giải quyết các tranh
chấp về kinh doanh thương mại, nhằm đáp ứng được những đòi hỏi mà công cuộc
cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế đã đặt ra và trên hết là quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể kinh doanh phải được giải quyết nhanh chóng, kịp thời và hiệu
quả khi phát sinh tranh chấp [11].
3
Tác giả Trịnh Hữu Bình (2017), Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại tòa án theo thủ tục rút gọn, Luận văn thạc sĩ Luật, Trường Đại học Trà
Vinh. Trên cơ sở những quy định về trình tự thủ tục giải quyết các vụ án theo thủ
tục rút gọn tại chương XVIII, XIX của BLTTDS năm 2015, luận văn được nghiên
cứu tại Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. Tác giả phân tích những quy định mới của
thủ tục rút gọn được quy định trong BLTTDS năm 2015 sau đó so sánh với thủ tục
thông thường để thấy được những giá trị thiết thực của thủ tục rút gọn trong giải
quyết án, điểm nổi bật là rút ngắn được thời gian giải quyết án mà vẫn đảm bảo tính
khách quan của pháp luật, bên cạnh đó những hạn chế của điều luật từ giai đoạn
nhận đơn khởi kiện, xác định chứng cứ, quyết định xét xử theo thủ tục rút gọn từ
cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm được tác giả nêu ra phân tích cụ thể, để giúp cho
những người làm công tác xét xử nhận thức rõ hơn, thông suốt hơn về tính chất của
một vụ kiện, từ đó xác định vụ án phải được giải quyết theo thủ tục rút gọn, qua đó
đề xuất hoàn thiện những hạn chế của pháp luật còn tồn tại, để thủ tục rút gọn được
mang tính khả thi cao và là sự xác định lựa chọn hàng đầu của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhằm mang lại hiệu quả thiết thực [1].
Bên cạnh đó, tác tìm đọc: Hoàng Minh Chiến (2007), “Các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại”, Giáo trình Luật thương mại, Nxb Công An Nhân
Dân; Trần Đức Thắng, “Nhận diện tranh chấp thương mại”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật; Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội, “Các yếu tố đảm bảo áp dụng pháp
luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án nhân dân”; Đặng
Thanh Hoa (2015), “Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Phạm Lê Mai Ly (2014), “Pháp luật hòa giải
tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa
Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội do TS. Phạm Thị Thanh Thủy hướng dẫn; “Thẩm
quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại”, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hiên, bảo vệ tại Khoa Luật
trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014; “Thực tiễn áp dụng pháp luật
4
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án”, bài viết
của tác giả Triệu Thị Quỳnh Hoa đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2012…
Các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tranh chấp thương mại, từ đó đánh giá
được thực trạng giải quyết, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong quá trình giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, các công trình nêu trên chưa thực sự được áp dụng thực tiễn
khoa học, khiến cho việc áp dụng luật trên thực tế trong công tác giải quyết tranh
chấp thương mại bằng Tòa án còn gặp nhiều lúng túng, chưa có định hướng cụ thể.
Trên thực tế cũng chưa có công trình nào nghiên cứu về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại trong xét xử
sơ thẩm tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh, chỉ ra những bất cập, hạn chế và
nguyên nhân của nó. Từ đó, đề ra một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp
luật nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại nói chung và
tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài xác định các nhiệm vụ cụ thể như:
i) Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại theo con đường Tòa án như khái niệm tranh chấp và giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại bằng con đường toà án
(ii) Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án tại cấp sơ thẩm;
(iii) Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại bằng toà án tại cấp sơ thẩm
iv) Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh.
5
v) Đưa ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại tại cấp sơ thẩm
toà án ND TP HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về những vấn đề lý luận, thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại bằng Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án nhân dân. Luận văn cũng
đồng thời đi sâu vào phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
tại Toà án nhân dân TP Hồ Chí Minh tại các phiên xét xử sơ thẩm với những đặc
thù nhất định so với các địa phương khác. Qua đó thấy được những hạn chế trong
quá trình giải quyết, đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật cụ thể
và nâng cao chất lượng giải quyết kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân TP
Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài phân tích, nghiên cứu về thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại trong xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh từ năm 2016
đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận trên quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách, quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước về pháp luật và các học thuyết khoa học pháp lý liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp sau đây:
(i) Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng trong tất cả các chương
nhằm lý giải những vấn đề thuộc về bản chất, các quan điểm liên quan đến vấn đề
giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo con đường Tòa án tại Tòa án nhân
dân TP Hồ Chí Minh. Từ đó đánh giá được các ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên
nhân của những hạn chế đó nhằm xây dựng các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ
6
thống pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại
bằng Tòa án ở nước ta hiện nay nói chung và tại TP Hồ Chí Minh nói riêng;
(ii) Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh số liệu các vụ việc được
giải quyết hàng năm, số lượng vụ án thụ lý, kết quả giải quyết. Từ đó rút ra những
ưu điểm và hạn chế của từng năm tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh;
(iii) Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê các vụ án tranh chấp
trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại đã thụ lý và giải quyết tại Tòa án nhân dân
TP Hồ Chí Minh từ năm 2016 đến năm 2020.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về việc giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại bằng con đường tòa án.
Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi pháp
luật, các sinh viên chuyên ngành luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của đề tài gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại bằng Tòa án;
Chương 2. Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại từ thực tiễn
xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh;
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm;
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN
1.1. Khái quát giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế, thương mại
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới khi phát triển nền kinh tế thị trường đều đề
cao quyền tự do kinh doanh cho công dân, từ đó tạo ra động lực giúp cho thương
nhân ra đời và phát triền một cách mạnh mẽ. Khi các quan hệ kinh tế, thương mại
ngày càng phát triển thì tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại cũng ngày
càng nhiều và phức tạp.
Hiện nay, ở Việt Nam, cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế thế giới,
khái niệm tranh chấp kinh tế, thương mại được sử dụng ngày càng phổ biến rộng
rãi. Theo từ điển Tiếng việt, thuật ngữ tranh chấp được hiểu là “sự bất đồng, mâu
thuẫn về quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên có liên quan” [49].
Ở nước ta, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong
Luật Thương mại 1997, cụ thể tại Điều 238 quy định “tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng
thương mại”. Luật Thương mại số 36/2005/ QH11 (sau đây gọi chung là Luật
Thương mại 2005), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (sau đây gọi chung là
Luật Doanh nghiệp 2014) và Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 (sau đây
gọi chung là Luật Trọng tài thương mại 2010) không khái niệm thế nào là tranh
chấp kinh tế, thương mại. Trong Luật Thương mại 2005 chỉ đưa ra định nghĩa hoạt
động thương mại “là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác” [13]. Tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 (sau
đây gọi chung là Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) cũng chỉ quy định những trường hợp
tranh chấp về kinh tế, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà
không có khái niệm cụ thể [24].
Theo tác giả Hoàng Minh Chiến: “Tranh chấp trong kinh doanh (hay tranh chấp
thương mại) là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa
8
các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc có liên quan đến hoạt
động kinh doanh” [3]. Theo tác giả Nguyễn Hợp Toàn: “Tranh chấp kinh tế được hiểu
là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về quyền và lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau.” [38].
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tranh chấp kinh tế, thương mại
nhưng có thể hiểu một cách chung và khái quát nhất rằng: Tranh chấp kinh tế,
thương mại là những vướng mắc, bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại giữa các cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích sinh lợi.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tranh chấp kinh tế, thương mại
Trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự đa dạng của các loại hình kinh
doanh và các phương thức kinh doanh, sự phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực thương mại là
điều khó tránh khỏi. Dưới đây là một số đặc điểm pháp lý của tranh chấp kinh tế,
thương mại:
Thứ nhất, tranh chấp kinh tế, thương mại xảy ra, hậu quả thiệt hại về vật chất
đối với các bên khi các bên không có sự thoả thuận thống nhất một cách giải quyết
có lợi nhất cho cả hai bên;
Thứ hai, mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều
kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thương mại của doanh nghiệp là
hoạt động thiết lập một mạng lưới các hành vi thương mại, mà mục tiêu của các bên
khi tham gia vào các quan hệ này là lợi nhuận. Các bên tuy hợp tác, song vẫn cạnh
tranh nhau để sao cho mình thu về được lợi ích nhiều nhất;
Thứ ba, Chủ thể chủ yếu của tranh chấp kinh tế, thương mại là thương nhân.
Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương
nhân [36]. Ngoài ra, tham gia vào các hoạt động thương mại còn có các cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh
doanh (Không phải là thương nhân theo Luật thương mại). Tuy nhiên, cũng có một
số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp kinh
tế, thương mại như tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty; tranh chấp giữa
9
các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất,
giải thể, chia, tách công ty; tranh chấp giữa các bên không phải là Thương nhân
nhưng có thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật Thương
mại và các tranh chấp khác về kinh tế, thương mại;
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp
này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trường [11].
1.1.3. Giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
Ngày nay, cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng và sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, các tranh chấp kinh doanh thương mại sẽ ngày càng gia tăng. Việc
lựa chọn các phương thức giải quyết giải quyết tranh chấp nói riêng hay các vấn đề
liên quan đến quá trình giải quyết nói chung dựa trên một nguyên tắc đó là quyền tự
định đoạt của các bên. Quan hệ thương mại có thể được thiết lập bởi giữa các
thương nhân với nhau hoặc là giữa thương nhân với bên không phải thương nhân.
Một tranh chấp được gọi là tranh chấp kinh doanh thương mại khi có ít nhất một
bên tham gia là thương nhân. Bên cạnh đó cũng có một số trường hợp, các cá nhân
tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như: giữa công ty –
thành viên trong công ty; giữa các thành viên công ty với nhau có liên quan đến
hoạt động, giải thể, chia tách,… công ty;…
Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột như về quyền, về
nghĩa vụ và về lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương
mại có bản chất là các quan hệ tài sản, vì thế nội dung của tranh chấp thường liên
quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các bên. Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại có 4 phương thức. Đó là hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại;
thương lượng; giải quyết thông qua tố tụng tại Tòa Án; giải quyết qua trọng tài
thương mại. Từ những đặc điểm pháp lý của tranh chấp kinh tế, thương mại, đặt ra
vấn đề cấp thiết đó là khi tranh chấp phát sinh, các bên tranh chấp phải tìm kiếm các
giải pháp, cách thức để loại trừ tranh chấp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình một cách nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả và không ảnh hưởng đến quá
trình kinh doanh của mình [12].
10
Giải quyết tranh chấp là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét và ra
quyết định xử lí các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ việc tranh chấp
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Theo từ điển tiếng Việt, “giải quyết tranh chấp là các hình thức, phương
pháp nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa
các bên có liên quan” [45].
Từ phân tích nêu trên, có thể hiểu rằng: Giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại là cách thức mà các bên lựa chọn để giải quyết bất đồng xung đột
quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình hoạt động kinh tế, thương mại.
1.1.4. Giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng phương thức Tòa án
Giải tranh chấp kinh tế, thương mại bằng phương thức Tòa án là hình thức
giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân
danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành,
kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế [8].
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại, tòa án phải
tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là
những nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ
việc tại tòa án, thi hành bản án, quyết định của tòa án; quyền và nghĩa vụ của những
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan,… Đây chính là thủ tục tố tụng tòa án.
Như vậy, tố tụng tòa án chính là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để
giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại bằng tòa án.
Thực tiễn pháp luật tố tụng của các nước cho thấy, tố tụng tòa án đều có
chung một số đặc điểm cơ bản sau :
- Ở hầu hết các nước trên thế giới, thủ tục tố tụng tòa án áp dụng cho các
tranh chấp kinh tế, thương mại được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng
với một số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh tế, thương mại, chẳng
hạn như: về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng,… Do vậy, ở các
quốc gia này người ta không hình thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong
kinh doanh mà chỉ có luật về tố tụng dân sự.
11
Ví dụ: Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các vụ án dân sự và
thương mại được quy định thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự; ở Pháp, Anh và
Mỹ các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án đều được áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự [8].
- Tố tụng tòa án là thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa
án – một cơ quan Nhà nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà
nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ quan
bảo vệ pháp luật.
- Phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của Tòa
án rất chặt chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được. Phán quyết của tòa án có
thể bị kháng cáo, kháng nghị hoặc có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
- Trong tố tụng tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công khai,
bản án được công bố rộng rãi.
* Ưu điểm và nhược của giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
- Ưu điểm giải quyết bằng Tòa án
+ Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính
cưỡng chế cao. Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ; và đảm bảo hiệu lực thi hành của
phán quyết tại Tòa. Nếu các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế bởi cơ quan thi
hành án. Các bên được bảo toàn quyền lợi và nghĩa vụ của mình bắt buộc phải thực
hiện theo phán quyết của Tòa.
+ Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với những thương nhân
kinh doanh vi phạm pháp luật. Đây cũng là một lợi thế; vì khi có những vụ xét xử
công khai sẽ nhận ra những doanh nghiệp mang tính lừa lọc; hay vi phạm để tránh
những trường hợp khác xảy ra.
+ Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia; có điều kiện tốt hơn các trọng tài
viên trong việc tiến hành điều tra; có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ ba đến tòa.
+ Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành chính
rất hợp lý.
12
- Hạn chế giải quyết bằng Tòa án
+ Thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định
trước đó;
+ Phán quyết của tòa án thường bị kháng cáo. Quá trình tố tụng có thể bị trì
hoãn và kéo dài; có thể phải qua nhiều cấp xét xử; ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất, kinh doanh.
+ Nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến
bộ; mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí
mật kinh doanh bị tiết lộ; và uy tín trên thương trường bị giảm sút.
Đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài thì:
+ Phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế. Phán
quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp định
song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.
+ Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan; họ vẫn phải buộc sử dụng
ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc tịch với
một bên.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng
Tòa án
Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung và hoạt động giải quyết các
tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án nói riêng là hoạt động áp dụng pháp
luật. Trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án, có những yếu
tố ảnh hưởng nhất định đến công tác xét xử, phán quyết của Tòa án. Trong khuôn
khổ của đề tài, em xin đưa ra một số yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động trực tiếp tới việc giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án là hệ thống pháp luật. Khi áp dụng pháp
luật nói chung, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
nói riêng “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” hay nói một cách khác, khi giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, Tòa án
phải tuân theo và áp dụng các quy định của Hiến pháp, pháp luật Tố tụng dân sự và
13
hệ thống các văn bản Luật chuyên ngành khác như: Bộ luật Dân sự 2015, Luật
Thương mại 2005 (sửa đổi bổ sung 2017, 2019), Luật Quản lý ngoại thương 2017,
Luật Phá sản 2014, Luật Cạnh tranh 2018, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư
2014, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009, 2019), Luật Các tổ chức tín
dụng 2010 (sửa đổi bổ sung 2017), hệ thống văn bản Luật Ngân hàng nhà nước Việt
Nam 2010, Luật Ngân sách nhà nước 2015… nhằm đưa ra bản án, quyết định chính
xác nhất, đúng pháp luật, có hiệu quả cao. Đặc biệt, trong thời gian giao thoa hiệu
lực giữa các văn bản Luật với nhau hiện nay thì vẫn còn nhiều vướng mắc và bất
cập, ví dụ như Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có hiệu lực, tuy nhiên Tòa án cần
phải có các văn bản hướng dẫn để áp dụng, từ đó dẫn tới việc kéo dài thời gian giải
quyết vụ án.
Xã hội thì luôn luôn vận động và phát triển, còn pháp luật thì vẫn “đứng
yên”. Trong quá trình làm luật, các nhà làm luật không thể dự liệu được hết tất cả
các tình huống có thể xảy ra, từ đó pháp luật trở nên “cũ” không theo kịp với xu
hướng phát triển của kinh tế, xã hội. Do vậy, khi áp dụng pháp luật để giải quyết
các tranh chấp kinh tế, thương mại Tòa án sẽ gặp những trở ngại và khó khăn nhất
định điển hình là Luật Thương mại sửa đổi 2019. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật
ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo con
đường Tòa án [13].
Thứ hai, năng lực đội ngũ cán bộ công chức Tòa án
Thực tế đã chứng minh, hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án phụ thuộc vào
nhiều điều kiện, yếu tố, những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trực
tiếp hoặc gián tiếp. Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án đó là chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án mà trước hết là trình độ chuyên môn, phẩm
chất đạo đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những người trực tiếp được giao nhiệm vụ
giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại, nhân danh nhà nước để ra phán
quyết. Do vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ tham gia giải quyết tranh chấp cần phải có
chất lượng cao, có thể kể đến một số tiêu chí sau:
14
- Nắm vững các quy định của pháp luật về lĩnh vực kinh tế, thương mại, thu
thập và xử lý thông tin để thực hiện có hiệu quả chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ
được giao;
- Có đạo đức nghề nghiệp tốt…
Có như vậy thì khi giải quyết tranh chấp mới đạt hiệu quả cao, thời gian
ngắn, ít tốn kém... Nếu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không có trình độ, đạo
đức nghề nghiệp không cao thì khi giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra một phán quyết
kém chất lượng, từ đó dẫn đến hậu quả án bị hủy, bị sửa… làm cho thời gian kéo
dài, chi phí tốn kém. Đặc thù của kinh tế, thương mại là mục đích lợi nhuận, cần
phải nắm bắt cơ hội làm ăn… do đó, nếu vụ án kéo dài thì các thương nhân khó
lòng có thể yên tâm thực hiện các công việc kinh doanh, hoạt động thương mại của
mình. Vì vậy, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng ảnh hưởng lớn đến
việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
Thứ ba, về cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ
Cơ sở vật chất của Tòa án và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ ngành Tòa án
cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
bằng Tòa án. Cơ sở vật chất phục vụ trực tiếp đến việc giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại bao gồm: trụ sở làm việc, các phương tiện kỹ thuật
phục vụ cho công tác giải quyết tranh chấp, các tài liệu tham khảo, tài kiệu tra cứu
(sách, báo, văn bản luật…) có những ảnh hưởng nhất định đến việc nâng cao chất
lượng xét xử của Tòa án. Chế độ đãi ngộ tốt sẽ khuyến khích cán bộ hăng hái làm
việc, công tâm, chống lại sự tha hóa, biến chất, bị mua chuộc, tham nhũng, nhận hối
lộ… Khi chế độ đãi ngộ không chú trọng, không được hợp lý thì đội ngũ cán bộ Tòa
án sẽ có hiện tượng lơ là công việc, vòi vĩnh các đương sự… từ đó làm sai lệch hồ
sơ vụ án và có những bản án, quyết định không đúng với vụ việc tranh chấp, không
đúng tinh thần của pháp luật. Do vậy, cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án.
1.1.6. Vai trò của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng
Tòa án
Khi có tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, các bên phải tìm
cách giải quyết và tháo gỡ các bất đồng, xung đột, trong đó có phương thức giải
quyết tranh chấp tại Tòa án. Cùng với các vai trò chung, giải quyết quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại bằng Tòa án cũng có những vai trò nhất định.
15
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án góp phần ổn
định môi trường kinh doanh
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, trong đó các
thương nhân hướng đến mục đích của cuối cùng của hoạt động này là lợi nhuận.
Khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên thì sẽ có những tác động tiêu cực đến hoạt
động kinh doanh của các thương nhân. Thông thường, họ sẽ theo đuổi đến cùng vụ
tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích một cách tối đa cho mình, tuy nhiên nếu
không tìm cách giải quyết kịp thời, các thương nhân sẽ bỏ bê công việc làm ăn hiện
tại và cũng như các cơ hội đầu tư kinh doanh ngay trước mắt để đuổi theo một tranh
chấp đang diễn ra. Khi tranh chấp diễn ra quá lâu mà các bên chưa giải quyết được
thì sẽ dẫn đến sự mệt mỏi, tiêu tốn tiền của và kéo dài thời gian, từ đó dẫn tới lãng
phí thời gian và tiền bạc và các cơ hôi làm ăn kinh doanh [35].
Khi tranh chấp được giải quyết tại Tòa án, các bên có thể yên tâm tiếp tục
thực hiện hoạt động kinh tế, thương mại của mình bởi lẽ Tòa án là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân danh quyền lực nhà nước ra
phán quyết, phán quyết của Tòa án được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước. Do đó,
bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng một cách triệt để. Vì vậy, khi giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của các
thương nhân được ổn định và phát triển.
Mặt khác, đặc trưng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại là tính chất đa dạng,
phong phú và phức tạp, từ tranh chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Từ đó,
khi giải quyết triệt để được tranh chấp này sẽ làm ngăn ngừa được các tranh chấp
khác phát sinh, tránh cả một chuỗi dài nảy sinh tranh chấp dẫn đến môi trường kinh
doanh bị đảo lộn không được ổn định, các hoạt động kinh tế, thương mại của các
Thương nhân trong nền kinh tế cũng khó có thể phát triển một cách ổn định, ít nhiều
cũng bị ảnh hưởng bởi các tranh chấp. Do vậy, với hoạt động xét xử của Tòa án,
Tòa án là người thứ ba đứng ra để giải quyết, tháo gỡ các bất đồng, xung đột giữa
các bên, từ đó làm giảm thiểu được đáng kể các tranh chấp xảy ra và phòng ngừa
được các tranh chấp khác có thể phát sinh. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp
thương mại của Tòa án có vai trò ổn định môi trường kinh doanh [38].
16
Thứ hai, giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án có vai trò
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm phạm
Khi thương nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm,
thì thương nhân được quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho mình. Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án dựa vào tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa để xem xét bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bên bị xâm hại. Toà án sẽ ra quyết định, bản án để buộc bên
xâm hại phải chịu các chế tài mà Tòa án áp dụng. Nếu bên xâm hại không thực hiện
những hành vi mà Tòa án yêu cầu thì có thể bị cưỡng chế thực hiện bởi cơ quan Thi
hành án và các cơ quan chức năng có thẩm quyền khác. Thông thường, bên xâm hại
sẽ phải hoàn trả những gì mà đã gây thiệt hại cho bên bị xâm hại, ngoài ra còn phải
bồi thường và bị phạt vi phạm hợp đồng (nếu trong hợp đồng có thỏa thuận việc
phạt vi phạm). Từ đó có thể thấy rằng, Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên bị xâm hại bằng các chế tài và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà
nước.
1.2. Khái quát pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại bằng Tòa án
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
bằng Tòa án
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
Để xem xét một cách toàn diện và đầy đủ về bản chất, vai trò, chức năng cũng
như giá trị của pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án trước hết đòi hỏi
phải làm sáng tỏ pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án là gì?
Trước hết cần phải hiểu thế nào là pháp luật hay nói một cách khác pháp luật
là gì? Theo quan điểm Mác - Lênin, “pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo
mục tiêu và định hướng cụ thể và được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước”. Như vậy,
có thể thấy đặc điểm của pháp luật là tính giai cấp, tính quy phạm phổ biến, tính bắt
buộc chung, tính được đảm bảo bởi Nhà nước [38].
Trong hoạt động kinh tế, thương mại, khi có tranh chấp phát sinh, tùy thuộc
vào đặc điểm, tính chất của tranh chấp, các bên sẽ lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp sao cho phù hợp, trong đó có phương thức giải quyết tranh chấp bằng
17
Tòa án. Như đã phân tích ở phần trên, giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
bằng Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực Nhà nước, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Bản án
hoặc phán quyết của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ
được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, các bên tranh chấp phải
tuân thủ các quy định của pháp luật đặc biệt là các quy định về giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại tại Tòa án bao gồm:
- Các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục về giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
- Các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc, thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
- Các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quá trình giải quyết tranh chấp tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng: Pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại bằng Tòa án là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
Cùng với đặc điểm của pháp luật nói chung, pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại tại Tòa án có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án do
nhà nước ban hành
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2020) thì chỉ có những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Luật thì mới có giá trị
pháp lý. Pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, thương mại cũng tương tự, chỉ có những
văn bản nào do Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục Luật định thì mới có giá trị
áp dụng, nếu không được ban hành theo Luật định thì sẽ không có giá trị pháp lý.
18
Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại bằng Tòa án có thể kể đến như sau, Bộ luật tố tụng dân sự số
92/2015/QH13; Luật Thương mại số 36/2005/QH11; Luật Doanh nghiệp số
68/2014/QH13 và các văn bản Luật chuyên ngành khác.
Thứ hai, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án mang
tính quyền lực nhà nước
Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án mang tính
quyền lực nhà nước vì pháp luật là do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện,
nhờ có sự bảo đảm của Nhà nước mà pháp luật mới có sức mạnh bắt buộc đối với
mọi chủ thể liên quan. Quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa
án là sử dụng quyền lực Nhà Nước, nhân danh Nhà nước giải quyết các tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại tại Tòa án,
mọi khía cạnh, mọi tình tiết của vụ việc đều phải được xem xét cẩn trọng và dựa
trên các cơ sở quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật đã được xác định để ra các
quyết định cụ thể. Pháp luật còn là cơ sở để Tòa án có thẩm quyền áp dụng pháp
luật nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình [8].
Thứ ba, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Tòa án giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại trên cơ sở đơn khởi kiện
của một hoặc các bên tranh chấp yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án
theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Vệt Nam, thực hiện quyền tư pháp, nhân danh quyền lực nhà nước để
ra phán quyết. Do vậy phán quyết của Tòa án (bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật) có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước. Sự cưỡng chế của Nhà nước được biểu hiện thông qua
các chế tài từ hành chính đến hình sự và các cơ quan chuyên môn, điển hình là cơ
quan Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014) [14].
Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật trong việc giải quyết
tranh chấp thương mại “cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách
nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách
19
nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”. Nhà nước luôn luôn khuyến khích các
bên tự nguyện thi hành, đặc biệt, các bên có thể thỏa thuận về việc thi hành án, nếu
thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. Tuy
nhiên, trong quá trình thi hành án, không phải lúc nào bên phải thi hành án cũng tự
nguyện thi hành án một cách đầy đủ, kị thời, do vậy để đảm bảo bản án, quyết định
của Tòa án được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật thì Nhà nước đã
đưa ra các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành. Theo khoản 3 Điều 66 Luật
Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014) các biện pháp bảo đảm thi hành án
bao gồm: Phong tỏa tài sản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Đồng thời, các biện pháp cưỡng chế thi hành án
sẽ được áp dụng nếu bên phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đúng
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Các biện pháp cưỡng chế có
thể kể ra như: khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
bên phải thi hành án; trừ vào thu nhập của bên phải thi hành án; kê biên, xử lý tài
sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; buộc bên
phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định…
Như vậy, với độ ngũ cán bộ, công chức Thi hành án dân sự và các biện pháp
bảo đảm, các chế tài thì bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại được đảm bảo thực hiện bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước.
Thứ tư, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng con đường
Tòa án luôn luôn khuyến khích hòa giải và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên.
Một trong những nguyên tắc cơ bản và vô cùng quan trọng trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động
kinh tế, thương mại. Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy
định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại, Nhà nước tôn trọng và bảo
hộ các quyền đó; trong hoạt động kinh tế, thương mại, các bên hoàn toàn tự
nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn
cản bên nào. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng quy định nguyên tắc hòa giải
trong tố tụng dân sự, theo đó, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh
chấp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
20
Xuất phát từ các nguyên tắc trên, trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại, Tòa án tiến hành hòa giải nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi
xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại. Nếu các bên tranh chấp thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột thì
Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, trừ những vụ án không
được hòa giải và không hòa giải được.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên tranh chấp có thể tự thỏa thuận,
hòa giải với nhau về việc giải quyết tranh chấp đang xảy ra. Khi các bên đã tự hòa
giải được, các bên yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận của mình. Trong hời hạn
07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi
ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các bên. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên có hiệu lực pháp luật ngay
sau khi ban hành.
Như vậy, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
luôn luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên bởi lẽ “việc dân sự cốt ở hai bên”.
1.2.2. Nội dung của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
1.2.2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án
Trong hoạt động kinh doanh, tranh chấp xẩy ra là ngoài sự mong muốn của
các chủ thể khi tham gia các giao dịch, hợp đồng. Song, cần nhận thức rằng tranh
chấp trong kinh doanh là vấn đề tự nhiên và tất yếu của bất kỳ nền kinh tế nào trên
thế giới. Khi xẩy ra tranh chấp, khi các bên không đạt được phương thức hòa giải
thì buộc phải qua con đường tranh tụng tại Tòa án hoặc trọng tài để giải quyết các
tranh chấp.
Theo tác giả Lê Hoài Nam thì “thẩm quyền là quyền được thực hiện những
hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tổ chức hoặc một nhân viên nhà nước.
Như vậy, dưới những góc độ khác nhau thì khái niệm “thẩm quyền” được
giải thích có đôi chút khác nhau. Tuy nhiên, có thể chung quy lại, “thẩm quyền
là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
cá nhân hoặc cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước được
pháp luật quy định”
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ
quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lí trong các cơ quan
21
đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi cơ quan và cá
nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Trong
mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức năng, nhiệm vụ của ngành như thẩm
quyền của Toà án nhân dân là xét xử. Tuy nhiên, một loại việc có thể thuộc thẩm quyền
của một hoặc nhiều cơ quan, cá nhân trong các ngành, cấp khác nhau.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường
được sử dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “thẩm quyền điều tra”
“cơ quan có thẩm quyền”, “người có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”, “thẩm
quyền của Toà án nhân dân”, “thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân”, thẩm
quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”... Thẩm quyền xét xử của Toà án...
Thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt,
quyết định một vấn đề. Trong khoa học pháp lý: Thẩm quyền là một khái niệm quan
trọng, trung tâm. Thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành
động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do
pháp luật quy định.
Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ những quyền do pháp luật quy định, theo
đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong kinh
tế, thương mại bằng Tòa án “là quyền của tòa án trong việc xem xét giải quyết các
vụ án về tranh chấp kinh tế, thương mại theo quy định của pháp luật và quyền ra
bản án, quyết định khi giải quyết vụ việc đó”.
1.2.2.2. Thời hiệu khởi kiện và thời hạn giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, thương
mại bằng Tòa án
* Thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại
Khoản 1 Điều 149 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu là thời hạn do luật quy định
mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều
kiện do luật quy định.
Trong quan hệ kinh tế, thương mại chủ thể tham gia quan hệ này được hường
các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Sự ổn định các quan hệ kinh tế,
22
thương mại là một trong những mục đích điều chỉnh của pháp luật dân sự. Mặt
khác, đối tượng của giao lưu kinh tế, thương mại chủ yếu là tài sản để phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, cho nên tài sản luôn có sự biến đổi về hình
thức và tính năng, tác dụng. Do vậy cùng với sự thay đổi về thời gian thì tài sản có
thể không còn tồn tại. Khi có hành vi vi phạm đến quyền tài sản của mình, người
khởi kiện phải chứng minh nguồn gốc tài sản, loại tài sản, hình thức của tài sản…
Tuy nhiên, với thời gian càng lâu thì việc chứng minh càng gặp khó khăn và nhiều
trường hợp không thể chứng minh được. Do vậy pháp luật quy định một thời hạn
nhất đinh cho sự phát sinh, tồn tại hay chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự, thời hạn
này được gọi là thời hiệu.
Thời hiệu đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ kinh
tế, thương mại. Nếu không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ
kinh tế, thương mại luôn bị đe dọa bởi tranh chấp có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi và đời sống của họ. Hơn nữa các căn cứ phát sinh quan hệ kinh tế, thương
mại do thời gian làm cho quá trình chứng minh phức tạp. Khi giải quyết các tranh
chấp kinh tế, thương mại, Toà án cần phải tiến hành điều tra thu thập chứng cứ để
xác định sự thật khách quan nên nếu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập
chứng cứ khó bảo đảm chính xác.
Như vậy, thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại là thời
hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối
với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
* Thời hạn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
Thời gian theo khái niệm chung nhất dưới góc độ triết học là một khái niệm
thể hiện trình tự biến đổi cùa thế giới bằng vật chất. Thời gian luôn mang tính khách
quan, không có bắt đầu và kết thúc, trôi dần đều theo một chiều duy nhất và không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Thời hạn là một khoảng thời gian có điểm đầu và điểm cuối xác định. Thời
hạn vừa mang tính khách quan của thời gian nói chung đồng thời mang tính chủ
quan của người định ra điểm đầu và điểm cuối.
Trong giao lưu dân sự, thời hạn có vai trò quan trọng trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ thể tham gia. Thời hạn với tư cách là một sự
kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể trong những trường hơp do pháp luât quy định hoặc các bên thoả thuận.
23
Cách thức tính thời hạn chính là những cách thức, phương pháp để tính thời
hạn trong khoảng thời gian xác định điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Nguyên tắc để
tính thời hạn thường được ghi nhận theo nguyên tắc tuân theo quy định của luật
hoặc theo thoả thuận các bên. Cách tính thời hạn được áp dụng theo thỏa thuận của
các chủ thể trong quan hệ. Luật ghi nhận sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong
quan hệ dân sự, trong đó bao gồm cả thời hạn. Những loại thời hạn phổ biến mà các
chủ thể có quyền thoả thuận như thời hạn thực hiện hợp đồng, thời hạn thực hiện
nghĩa vụ, thậm chí thời hạn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
đối với các trường hợp luật quy định bắt buộc cách tính thời hạn mà không cho
phép thỏa thuận thì các bên cần tuân theo. Điển hình như các thời hạn thực hiện các
thủ tục mà luật định như thời hạn thực hiện thủ tục hành chính, thời hạn thực hiện
việc đăng ký khai sinh...
Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do pháp luật quy định. Thời
hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự
kiện có thể xảy ra. Sau khi thụ lý vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại, trong thời
hạn 03 ngày làm việc, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị
đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết
vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.
1.2.2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
Pháp luật quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình
tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi chung là vụ án dân sự)
và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi chung là việc dân sự); trình
tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa
án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án dân sự; nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
24
tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp (gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải
quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án thông
qua các bước:
Chuẩn bị khởi kiện. Khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là Tòa
án, bên yêu cầu cần chuẩn bị cho việc khởi kiện với các công việc sau:
+ Soạn đơn khởi kiện
Đơn khởi kiện phải có các nội dung: ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiên là cá
nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa
chỉ thư điện tử (nếu có); tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích
được bảo vệ; tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của
người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Quyền, lợi
ích hợ pháp của người khởi kiện bị xâm phạm, những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án
giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; họ, tên, địa
chỉ của người làm chứng (nếu có); danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện. Trên thực tế, các Tòa án đều đưa ra mẫu đơn khởi kiện và yêu cầu người khởi
kiện phải thực hiện theo mẫu
+ Xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Trước hết phải xác định thẩm quyền theo loại việc, đây là tranh chấp về kinh
doanh, thương mại bởi là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, các tranh chấp kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện
nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở. Trường hợp vụ án có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
25
+ Chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu là có căn cứ và
hợp pháp
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp dân sự là nghĩa vụ chứng minh luôn thuộc
về người có yêu cầu. Khi khởi kiện, người có yêu cầu phải chứng minh về sự tồn tại
của quan hệ pháp luật kinh doanh thương mại, mẫu thuẫn về quyền lợi giữa các bên
không thể tự giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, người có yêu cầu phải
luôn đưa ra được các chứng cứ, tài liệu chứng minh quyền lợi hợp pháp của họ bị
xâm phạm bởi hành vi vi phạm của 1 hoặc các bên còn lại. Trong giải quyết tranh
chấp dân sự, nếu bên nào không cung cấp được chứng cứ bảo vệ quyền lợi cho
mình thì bên đó phải chịu hậu quả pháp lý. Tòa án chỉ tham gia vào quá trình thu
thập, cung cấp chứng cứ khi các bên không thể tự thu thập được và có đơn yêu cầu.
+ Thu thập chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Chứng cứ phải đảm bảo: khách quan, liên quan và hợp pháp. Chứng cứ phải
được thu thập từ những nguồn sau: tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu
điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận
giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng
lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác mà pháp luật quy định.
+ Nộp đơn khởi kiện.
Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đến
Tòa án có thẩm quyền theo 1 trong các phương thức sau: Nộp trực tiếp tại Tòa án;
Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; Gửi trực tuyến bằng hình thức điện
tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Quy trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Nộp đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.
Trong thời hạn 8 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án
phải ra một trong các quyết định sau: Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền; Trả lại đơn khởi kiện; Tiến hành
thủ tục thụ lý vụ án
26
Trường hợp tiến hành thụ lý vụ án, tòa án ra thông báo người khởi kiện đồng
thời thông báo nộp tạm ứng án phí. Người khởi kiện nộp tạm ứng án phí trong thời
gian 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tạm ứng án
phí. Kể từ ngày người khởi kiện nộp biên lai nộp tạm ứng án phí cho Tòa án, Tòa án
vào sổ thụ lý. Thông báo về việc thụ lý vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,
bị đơn, nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Thời hạn chuẩn bị xét
xử đối với vụ án kinh doanh thương mại kéo dài từ 4 đến 6 tháng.
Hòa giải tại Tòa án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có trách nhiệm
tổ chức hòa giải giữa các bên trong tranh chấp. Trường hợp hòa giải thành, Tòa án
lập Biên bản công nhận sự thỏa thuận giữa các bên. Trường hợp hòa giải không
thành hoặc không hòa giải được, Tòa án lập Biên bản hòa giải không thành/không
hòa giải được, đồng thời ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Phiên Tòa sơ thẩm phải được mở trong thời gian 30 ngày kể từ ngày có
Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa sơ thẩm có thể bị tạm hoãn, thời gian
hoãn tối đa không quá 30 ngày.
1.2.3. Vai trò của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
Vai trò của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại
bằng Tòa án là hết sức to lớn.
Thứ nhất, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại quy định rõ
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết của Tòa án.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì mỗi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Phạm vi hoạt động
và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy định. Trong
cơ quan tư pháp thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp chủ yếu, Tòa án
thực hiện quyền của mình trong các vụ án xét xử theo quy định của Pháp luật để
bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự công bằng cho xã hội, trong đó có lĩnh vực giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương. Pháp luật tố tụng quy định trực tiếp và khá rõ
ràng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự nói chung và trong
lĩnh vực thương mại nói riêng. Theo đó, thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại được tiếp cận dưới bốn góc độ đó là thẩm quyền theo vụ
việc, thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo sự lựa
chọn của nguyên đơn.
27
Với cách tiếp cận này, Tòa án sẽ căn cứ vào đây để có thể xác định được
rằng vụ tranh chấp kinh tế, thương mại đó có thuộc thẩm quyền xét xử của mình
hay không. Khi đã xác định được thẩm quyền giải quyết và thụ lý vụ án, Tòa án sẽ
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại theo một trình tự, thủ tục
được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự. Như vậy, pháp luật quy định thẩm
quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án một cách cụ thể, hợp lý, khoa học giúp tránh
được sự chồng chéo trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại với các cơ
quan giải quyết tranh chấp khác, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải
quyết tranh chấp giữa các thương nhân một cách nhanh chóng và đúng đắn, nâng
cao được hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng một cách rõ
ràng còn tạo thuận lợi cho các thương nhân tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ hai, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại có vai trò đảm
bảo tối đa các quyền của các bên khi tham gia tranh chấp cũng như quy định các
nghĩa vụ của các bên cần phải thực hiện.
Việc pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm cho các thương nhân bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đảm bảo việc giải quyết tranh chấp
một cách nhanh chóng và chính xác. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các
đương sự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của các thương nhân được thể hiện
trong các lĩnh vực như sử dụng các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp trước Tòa án, quyết định quyền và lợi ích của mình trong tố tụng dân sự,
thi hành bản án, quyết định của Tòa án… Để đảm bảo cho các đương sự thực hiện
đúng được các quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật quy định các biện pháp đảm
bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước.
Thứ ba, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án đảm
bảo cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, kịp thời, công khai, nghiêm
minh, và đúng pháp luật
28
Với quy định thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại tối đa là 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án như đã phân tích ở trên, giúp
cho Tòa án giải quyết tranh chấp một cách hanh chóng, kịp thời. Đặc điểm của lĩnh
vực kinh tế, thương mại là tính nhạy bén, mục đích là lợi nhuận, vì vậy nếu thời hạn
tố tụng kéo dài quá lâu sẽ dẫn tới trì trệ kinh doanh của các thương nhân, tốn kém
thời gian, tiền bạc…đặc biệt là làm mất đi nhiều cơ hội làm ăn kinh doanh, từ đó lợi
nhuận bị giảm sút. Do đó pháp Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thời hạn
chuẩn bị xét xử của vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại tối đa là 03 tháng kể từ
ngày thụ lý vụ án [24]. Khác với tố tụng trọng tài, tố tụng dân sự là xét xử công
khai, trừ một số trường hợp luật định, tạo điều kiện cho mọi người giám sát được
hoạt động xét xử, đảm bảo cho việc xét xử giải quyết vụ án dân sự của Tòa án được
minh bạch, đúng pháp luật.
Do đó, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại có vai trò đảm
bảo cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh và đúng
pháp luật.
Thứ tư, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng tòa án có
vai trò giúp cho Tòa án phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao.
Tranh chấp kinh tế, thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân, một trong
những nguyên nhân đó là các thương nhân chưa hiểu biết hoặc không hiểu rõ, tường
tận các quy định của pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Cũng có những
nguyên nhân xuất phát từ những cách hiểu khác nhau về hợp đồng hay thiếu thiện
chí thực hiện hợp đồng của một bên mà dẫn đến các mâu thuẫn, bất đồng xảy ra.
Với nguyên tắc xét xử công khai và đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định
của Tòa án từ đó Tòa án có thể vận dụng vào đó để tuyên truyền, phổ biến pháp
luật. Trong quá trình xét xử vụ án kinh tế, thương mại, tất cả mọi người có thể được
tham dự phiên tòa, trừ một số trường hợp không được tham dự theo luật định (người
dưới 16 tuổi, xét xử kín…), từ đó họ vừa giám sát phiên tòa vừa có thể lĩnh hội
được những kiến thức pháp luật về lĩnh vực kinh tế, thương mại. Khi bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì được đảm bảo thi hành án bởi sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước. Với các trường hợp tranh chấp do thiếu thiện chí trong quá
29
trình thực hiện hợp đồng thì Tòa án sẽ áp dụng các chế tài để buộc thực hiện đúng
những gì mà các bên đã thỏa thuận miễn là không vi phạm điều cấm của Luật và
trái đạo đức xã hội nhằm giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của bên xâm hại. Từ
đó có tác dụng giáo dục, răn đe và làm gương cho các trường hợp khác.
Kết luận chương 1
Sự phát triển của nền kinh tế cùng lúc với quá trình hội nhập của đất nước
tạo ra muôn mặt của đờ sống xã hội. Vì vậy, những tranh chấp trong hoạt động kinh
tế, thương mại thường xuyên xảy ra là điều không thể tránh khỏi và đương nhiên
việc giải quyết là tất yếu và cần thiết. Có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp
khác nhau như giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án… Phương thức giải quyết tranh chấp nào đều có những ưu và nhược điểm khác
nhau nên việc lựa chọn phương thức giải quyết nào là tối ưu sẽ do các bên cân nhắc,
áp dụng. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án tuy có nhiều
hạn chế nhưng cũng không thể phủ nhận được những ưu điểm của nó. Từ đó,
phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Toà án ngày càng được
nhiều đương sự lựa chọn. Quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại M
một mặt Tòa án phải áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung như quy định của
LTM, Luật đất đai v.v..mặt khác Tòa án cũng phải áp dụng các quy phạm pháp luật
tố tụng dân sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp v.v..Cơ sở của
việc pháp luật quy định giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án xuất
phát từ những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, từ những
ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp này, từ tính chất của các tranh chấp
kinh tế, thương mại, từ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án và trọng tài ở nước ta trong những năm
qua và sự phát triển của pháp luật, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án cũng ngày càng phát triển và
hoàn thiện. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
ngày càng có hiệu quả hơn.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TỪ
THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng tòa án
2.1.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án
Trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, Tòa án phải tuân
thủ các nguyên tắc chung về pháp luật, về tố tụng được quy định trong Hiến pháp,
Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng dân sự như: tuân thủ pháp luật trong
tố tụng dân sự; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án xét xử công khai; bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên; bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... Bên
cạnh đó việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại còn có những
nguyên tắc đặc trưng sau:
Thứ nhất, Quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự
Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại, nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận
trong hoạt động kinh tế, thương mại. Tòa án chỉ được giải quyết tranh chấp nếu
được yêu cầu.
Đây là một quyền quan trọng và là một nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án. Sẽ không có quy trình tố tụng dân sự nào
nếu như đương sự không tự mình quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Các đương sự có nhiều lựa chọn để quyết định
dùng phương thức nào (thương lượng, hòa giải, Trọng tài, Tòa án) nhằm bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất. nếu các bên xảy ra
tranh chấp lựa chọn việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án thì khi đã
quyết định khởi kiện, đương sự có toàn quyền quyết định phạm vi khởi kiện. Do đó,
Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp khi có đơn khởi kiện và chỉ giải quyết tranh chấp
trong phạm vi đơn khởi kiện đó.
31
Trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại, các bên tranh chấp có
quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của Luật và trái đạo đức xã hội. Các bên tranh
chấp có quyền dừng vụ kiện, rút yêu cầu, thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu, hòa
giải với nhau bất cứ lúc nào, nếu như họ hoàn toàn tự nguyện, không bị cưỡng ép,
đe dọa… Tòa án có nhiệm vụ hướng dẫn và tạo điều kiện để bảo đảm cho các bên
xảy ra tranh chấp thực hiện quyền quyết định và tự định đoạt của mình.
Như vậy có thể thấy, quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc hay
không là quan trọng nhất, bởi lẽ nó làm ảnh hưởng đến uy tín, bí mật kinh doanh,
quan hệ với đối tác… do đó, khi phát sinh tranh chấp, việc đưa ra Toà án để giải
quyết phải được các bên cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng. Vì đây là biện pháp cuối
cùng khi các bên xảy ra tranh chấp không tìm được cách giải quyết nào tốt hơn.
Thứ hai, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
Như vậy có thể thấy, nội dung xuyên suốt của nguyên tắc này là cung cấp chứng cứ
vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên. Mục tiêu của nguyên tắc này là các bên
tranh chấp chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trên cơ sở
đó, Tòa án tuyên một bản án hoặc đưa ra quyết định đúng pháp luật, phù hợp với
thực tế khách quan, phù hợp với những chứng cứ đã được thu thập, giao nộp và
dùng để chứng minh trong quá trình tố tụng [8].
Thứ ba, nguyên tắc Tòa án chỉ thụ lý đơn khởi kiện khi các bên đã tiến hành
hòa giải ở cấp cơ sở
Nguyên tắc hòa giải gắn liền với nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự.
Khi thương nhân tham gia vào các quan hệ kinh tế là dựa trên nguyên tắc bình đẳng,
tự nguyện. Do đó khi phát sinh tranh chấp, các bên phải chủ động tiến hành thương
lượng, hòa giải với nhau để tìm cách tháo gỡ, giải quyết các vướng mắc, bất đồng.
Trừ các trường hợp thuộc điểm a, c, d khoản 1 Điều 3 Luật Hòa giải cơ sở 2013 thì
không được hòa giải đó là: mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm đến lợi ích Nhà nước,
lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác không được
hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật [18]. Chỉ khi nào có văn bản chứng
minh việc hòa giải ở cơ sở không thành hoặc không tiến hành hòa giải được vì sự
thiếu thiện chí của một hoặc các bên thì lúc đó Tòa án mới thụ lý đơn khởi kiện.
32
Hòa giải là việc các bên tự thương lượng giải quyết tranh chấp với nhau mà
không cần có phán quyết của Trọng tài thương mại hay Tòa án. Nguyên tắc này
xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, thương mại. Khi các đương sự
đã yêu cầu Tòa án can thiệp hoặc trong quá trình xét xử, Tòa án cũng luôn tìm các
biện pháp để các bên có thể hòa giải với nhau nhằm giải quyết một cách nhanh
chóng, dứt điểm vụ án. Tránh gây sự căng thẳng, lãng phí thời gian, tiền bạc, đặc
biệt là uy tín của các bên.
Thứ tư, Nguyên tắc hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Điều 3 Luật hòa giải, đối
thoại tại Tòa án 2020)
Ngày 16/6/2020, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại
Tòa án số 58/2020/QH14 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021). Luật
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: Nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về
hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên
tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với hoạt động
hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải
thành, đối thoại thành tại Tòa án. Quy định đối tượng thực hiện hòa giải, đối thoại
tại Tòa án. Khoản 2 Điều 1 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Hòa giải,
đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn
khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật Tố tụng hành chính” [27].
Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước
khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự nhằm hỗ trợ các bên thỏa thuận giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định (khoản 2 Điều 2 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án). Hòa giải,
đối thoại tại Tòa án là một thủ tục tiền tố tụng, không phải là thủ tục bắt buộc,
người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có quyền đồng ý hoặc không đồng ý giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện
hành chính bằng cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án, nếu đồng ý thì thực hiện việc
hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải đối thoại, không đồng ý thì giải
33
quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Theo
Điều 3 Nguyên tắc hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định như sau: “(i) Các bên
tham gia hòa giải, đối thoại (sau đây gọi là các bên) phải tự nguyện hòa giải, đối
thoại; (ii) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất của các bên, không được
ép buộc các bên thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ; (iii) Bảo đảm bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên; (iv) Nội dung thỏa thuận hòa giải, thống
nhất đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, không
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; (v) Các
thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại phải được giữ bí mật theo quy
định tại Điều 4 của Luật này; (vi) Phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành
linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc; (vii) Hòa
giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại độc lập và tuân theo pháp luật; (viii) Tiếng nói
và chữ viết dùng trong hòa giải, đối thoại là tiếng Việt. Người tham gia hòa giải, đối
thoại có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này họ có thể
tự bố trí hoặc đề nghị Hòa giải viên bố trí phiên dịch cho mình.Người tham gia hòa
giải, đối thoại là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng
ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có
người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại và họ
cũng được coi là người phiên dịch; (ix) Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của trẻ em trong hòa giải, đối thoại [27].
Thứ năm, Nguyên tắc xét xử công khai
Tòa án nhân dân xét xử công khai [17], đây là một nguyên tắc Hiến định.
Nguyên tắc này phát huy được tính dân chủ trong tố tụng dân sự, tạo điều kiện cho
mọi người giám sát được hoạt động xét xử, đảm bảo cho việc xét xử vụ án kinh tế,
thương mại được minh bạch, đúng pháp luật. Ngăn chặn những hành vi vi phạm
pháp luật trong quá trình xét xử, đồng thời đề cao trách nhiệm của người làm công
tác xét xử. Ngoài ra, xét xử công khai còn tăng cường được hiệu quả giáo dục pháp
luật của công tác xét xử. Tại phiên tòa, các tài liệu chứng cứ chứng minh của vụ án
đều phải được đọc, xem xét công khai. Nếu người tham gia tố tụng vắng mặt tại
34
phiên tòa mà phiên tòa vẫn được tiến hành thì Hội đồng xét xử công bố tài liệu,
chứng cứ của vụ án. Trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, bí mật nghề
nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân thì Hội đồng xét xử không công bố tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo yêu cầu chính đáng của đương sự. Đây là
một nguyên tắc thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo của tố tụng dân sự để phù hợp với
nhu cầu, tâm lý của các đương sự. Tuy nhiên, việc thực hiện xét xử kín của Tòa án
chỉ là những trường hợp đặc biệt. việc xét xử kín hay không do Tòa án quyết định.
Trong trường hợp Tòa án xét xử kín những người không có nghĩa vụ tham gia phiên
Tòa thì không được tham dự phiên tòa ngay từ đầu, nhưng cũng có thể họ được
tham dự phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và chỉ không được tham gia phần tranh tụng
vì nếu có sự tham gia của những người này thì sẽ không bảo đảm việc giữa bí mật
nghề nghiệp, bí mật kinh doanh. Tuy nhiên, dù là xét xử kín thì khi tuyên án, Tòa án
vẫn phải tuyên án công khai.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, mục đích cuối cùng của các Thương
nhân là lợi nhuận, do đó bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh là yếu tố đóng vai
trò quan trọng trong trong chiến lược cạnh tranh và phát triển của mình. Nhiều khi
giá trị tranh chấp không thể so sánh được với giá trị của bí mật kinh doanh, hệ quả
tất yếu là nhiều thương nhân không thể bảo vệ được quyền và lợi của mình thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án và họ sẽ tìm đến phương thức giải quyết tranh
chấp khác ưu việt hơn. Từ đó, sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách quản lý
kinh tế của Nhà nước bằng pháp luật.
2.1.2. Thực trạng những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại của Tòa án
* Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án theo
loại việc
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án theo loại
việc là thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương
mại theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại của Tòa án theo loại việc của Tòa án xác định những tranh chấp
nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải
35
quyết của cơ quan nhà nước khác. Một tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án thì
tranh chấp đó do Tòa án nào giải quyết. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại của Tòa án theo loại việc được xác định căn cứ vào các yếu tố như tính
chất riêng biệt của các quan hệ pháp luật thương mại; thành phần chủ thể của quan
hệ pháp luật thương mại; mục đích của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật
thương mại v.v..
Quy định này nhằm tạo điều kiện để Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định
của Hiến pháp năm 2013 [17]. Do đó, để tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho
người dân tiếp cận công lý; đồng thời, để phù hợp với nguyên tắc “Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Bộ
luật này cũng bổ sung, quy định đầy đủ, những loại tranh chấp và việc dân sự thuộc
thẩm quyền của Tòa án bảo đảm phù hợp với luật nội dung đã quy định, như: Luật
Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động... Cụ thể như: các quan hệ
tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng gia công, hợp
đồng hợp tác kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp giữa công ty với thành
viên của công ty, tranh chấp đòi cổ tức được quy định trong LTM, LDN [13] [19]…
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp kinh tế,
thương mại sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: (1) tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh tế, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (2) tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; (3) tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; (4) tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám
đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn
giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (5) các tranh
36
chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật” [24].
Theo quy định trên, có 4 loại quan hệ tranh chấp kinh tế, thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án và so với BLTTDS năm 2004 thì BLTTDS năm
2015 đã quy định bổ sung thêm tranh chấp giữa người với người chưa phải là thanh
viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng góp vốn với công ty, thành viên
công ty thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Có thể thấy, quy định này phù hợp
với thực tế phát sinh những tranh chấp loại này, người chưa phải thành viên công ty
nhưng khi thực hiện giao dịch liên quan tới vốn góp với công ty, thành viên công ty
thì mục đích của họ là trở thành thành viên công ty. Trong quá trình thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng phần vốn góp, phát sinh tranh chấp, họ vẫn chưa được coilà
thành viên công ty, việcquy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án sẽ giúp các bên
có thêm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khoản 4 Điều 30
BLTTDS năm 2015 quy định về tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty;
tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong công ty cổ phần. Quy
định này phù hợp với LDN năm 2014 về quyền khởi kiên của thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, cổ đông công ty cổ phần đối với người quản lý theo quy định
tại Điều 161 LDN năm 2014.
* Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án các cấp
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án các cấp là
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của từng cấp của Tòa án.
Thông thường thẩm quyền của Tòa án các cấp được phân chia căn cứ vào giá trị
tranh chấp, tính chất của sự việc và khả năng, điều kiện của từng cấp Tòa án. Theo
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, thẩm quyền của Tòa án các cấp được quy định
căn cứ vào các tiêu chí: (1) tính chất phức tạp của vụ việc; (2) điều kiện, khả năng
giải quyết các tranh chấp của từng cấp Tòa án [24].
Thẩm quyền của Tòa án các cấp phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các
cấp Tòa án với nhau. Pháp luật tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án các cấp đối với tranh chấp kinh tế, thương mại xuất phát từ
những đặc thù của hệ thống Tòa án của Việt Nam. Hệ thống Tòa án của Việt
37
Nam được xây dựng theo cấp Tòa án, theo đó việc xét xử sơ thẩm có thể ở
TAND cấp huyện hoặc cấp tỉnh. BLTTDS căn cứ vào tính chất phức tạp của vụ
việc để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại giữa
TAND cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh; cụ thể:
Thẩm quyền sơ thẩm của TAND cấp huyện
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2015, Tòa án nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về
kinh tế, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015: Tranh chấp
về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này,
trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này; Tranh chấp về kinh
doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này; Tranh chấp về lao
động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này [24].
TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây: Yêu cầu
về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27 của Bộ luật này;
Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và
11 Điều 29 của Bộ luật này; Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản
1 và khoản 6 Điều 31 của Bộ luật này; Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và
khoản 5 Điều 33 của Bộ luật này”.
Ngoài ra, những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 nêu
trên mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho
cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa
án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND cấp huyện, trừ trường hợp: TAND cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt
Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và
giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước
láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật
này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam [24].
Phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án đảm bảo cho việc giải quyết vụ
việc được chính xác, đúng pháp luật, tránh chồng chéo trong việc xác định thẩm
quyền xét xử của các Tòa án. Theo đó, với những tranh chấp có tính chất phức tạp
38
trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đòi hỏi phải có sự am hiểu chuyên môn nghiệp
vụ hoặc những tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ
thác tư pháp cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài thì không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Đối với các TAND cấp huyện có tổ chức Tòa chuyên trách, thìToà dân sự
của TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc
về dân sự, kinh tế, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện theo quy định tại Điều 35 BLTTDS năm 2015. Cụ thể, Điều 36 BLTTDS
năm 2015 quy định thẩm quyền của các Tòa chuyên trách TAND cấp huyện như
sau: Tòa dân sự TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của
TAND cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này. Tòa gia đình và người chưa
thành niên TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện quy định
tại Điều 35 của Bộ luật này. Đối với TAND cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì
Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán
giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện [24].
Như vậy, đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có toà chuyên trách thì
Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán
giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đây là quy
định hoàn toàn mới của BLTTDS năm 2015 so với các quy định tố tụng dân sự
trước đây. Quy định này nhằm đảm bảo tính thống nhất với cơ cấu tổ chức của Tòa
án cấp huyện theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, đảm bảo chuyên môn
hoá trong việc giải quyết tranh chấp, xét xử.
Thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định tại Điều 37 BLTTDS năm 2015, TAND cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp sau:
“1. TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc sau đây:
39
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4
Điều 35 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4
Điều 35 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.
2. TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35
của Bộ luật này mà TAND cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần
thiết hoặc theo đề nghị của TAND cấp huyện” [24].
Như vậy, Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương
mại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện có đương sự, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp nước ngoài; nhưng tranh chấp trong kinh tế,
thương mại thuộc lĩnh vực chuyên ngành, phức tạp mà không buộc phải xuất hiện yếu
tố nươc ngoài. Đó là những tranh chấp liên quan đến việc do Trọng tài thương mại Việt
Nam giải quyết; tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giai công nghệ
có mục đích lợi nhuận; những tranh chấp trong kinh tế, thương mại thuộc thẩm quyền
của TAND cấp huyện mà TAND cấp tỉnh tự mình lấy lên giải quyết khi thấy vụ việc
phức tạp, việc điều tra thu thập chứng cứ có nhiều khó khăn hoặc cần đảm bảo tính
khách quan trong quá trình giải quyết; phải giám định kỹ thuật phức tạp; tranh chấp
liên quan tới nhiều đương sự, tài sản tranh chấp ở nhiều điạ phương khác nhau…
Đối với các Tòa chuyên trách của TAND cấp tỉnh, theo quy định tại Điều 38
BLTTDS năm 2015.
Tòa dân sự TAND cấp tỉnh có thẩm quyền: Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp, yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh quy
định tại Điều 37 của Bộ luật này; Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc
40
mà bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này [24] [8].
Tòa gia đình và người chưa thành niên TAND cấp tỉnh có thẩm quyền: Giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc
thẩm quyền của TAND cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật này; Giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định hôn nhân và gia đình
chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của Bộ luật này.
Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh có thẩm quyền: Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của TAND
cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật này; Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những
vụ việc mà bản án, quyết định kinh doanh, thương mại chưa có hiệu lực pháp luật của
TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này [24].
Tòa lao động TAND cấp tỉnh có thẩm quyền: Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp, yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh quy
định tại Điều 37 của Bộ luật này; Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc
mà bản án, quyết định lao động chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này”.
Như vậy, Toà kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 37 BLTTDS năm 2015; giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định kinh tế, thương mại chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
* Những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
của Tòa án theo lãnh thổ
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là thẩm quyền của Tòa án theo đơn vị
hành chính lãnh thổ. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh tế, thương mại được xác định theo các yếu tố sau:
Thứ nhất, nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn
có trụ sở (nếu bị đơn là tổ chức).
41
Thứ hai, theo sự lựa chọn của các đương sự
Thứ ba, theo đối tượng tranh chấp là bất động sản.
Nhìn chung pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành quy định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại theo lãnh thổ của Tòa án cũng khá
tương đồng với quy định của pháp luật của các nước trên thế giới.
Theo quy định tại Điều 39 BLTTDS năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp trong thương mại là Tòa án nơi bị đơn cư
trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ
quan, tổ chức)[24].
Ngoài ra, trong trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ lý và đang giải
quyết theo đúng quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ mà trong quá
trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của
đương sự thì theo Điều 471 BLTTDS năm 2015 Tòa án đó tiếp tục giải quyết.
* Những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là giới hạn do luật
định cho các chủ thể trong việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
là hình thức pháp luật đưa ra các quy định về các Tòa án có thẩm quyền giải quyết
và nguyên đơn được lựa chọn theo ý chí của mình. Thực chất của thẩm quyền theo
sự lựa chọn của nguyên đơn là ngoại lệ của những quy tắc chung về thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bên cạnh những tranh chấp nguyên đơn
bắt buộc phải khởi kiện tại Tòa án đã quy định thì một số tranh chấp khác pháp luật
trao quyền chủ động cho nguyên đơn được tự mình quyết định chọn Tòa án để khởi
kiện. Quy định này hướng đến mục tiêu là tạo sự thuận lợi cho nguyên đơn thực
hiện quyền bảo vệ quyền của họ. Quy định về thẩm quyền theo sự lựa chọn của
nguyên đơn nhà lập pháp căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của người khởi kiện; tính
chất của đối tượng tranh chấp [42].
Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn được quy định
trong BLTTDS năm 2015 được chia thành 2 loại: lựa chọn có điều kiện và lựa chọn
không có điều kiện. Việc pháp luật quy định thẩm quyền theo sự lựa chọn là nhằm
42
tăng cường quyền chủ động của công dân trong việc bảo vệ quyền trước Tòa án,
đồng thời giúp Tòa án áp dụng thống nhất về thẩm quyền xét xử.
Như vậy, theo quy định trên, nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải
quyết tranh chấp về kinh tế, thương mại trong các trường hợp cụ thể phù hợp với
quy định pháp luật và điều kiện đảm bảo được sự thuận lợi của nguyên đơn.
Có thể nhận thấy, về thẩm quyền thụ lý giải quyết, theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh tế, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (khoản
1 Điều 30) pháp luật không quy định rõ các trường hợp cụ thể mà chỉ quy định
chung chung, dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xét xử, đặc biệt
là khi quy định như thế thì có rất nhiều vụ án tưởng chừng như đơn giản nhưng lại
rất phức tạp, dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn trong việc xét xử của Tòa án.
2.1.3. Thực trạng những quy định về thủ tục sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại tại Tòa án
* Khởi kiện và thụ lý vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại
Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, bên khởi kiện (nguyên đơn) phải
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và nộp tại TAND có thẩm quyền. Đơn khởi kiện là chứng
thư pháp lý quan trọng để Tòa án xem xét và giải quyết các yêu cầu của nguyên
đơn, do đó nó phải được chuẩn bị thật kỹ lưỡng và đơn khởi kiện vụ án tranh chấp
kinh tế, thương mại phải được làm (theo mẫu) đúng quy định tại Điều 189 BLTTDS
năm 2015.
Tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện vụ án tranh chấp kinh tế,
thương mại: các tài liệu, chứng cứ đương sự có thể nộp kèm theo đơn khởi kiện phụ
thuộc vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện như: hợp đồng, các phụ lục hợp
đồng, các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giao, nhận hàng, thanh toán tiền
hàng… Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đương sự nộp kèm theo đơn khởi kiện,
Thẩm phán xem xét, đánh giá tính đầy đủ và hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ
đương sự nộp kèm theo đơn khởi kiện; yêu cầu người khởi kiện nộp bổ sung tài
liệu, chứng cứ. Sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án cấp thông báo nhận đơn cho
43
người khởi kiện, nếu Tòa án nhận đơn khởi kiện gửi qua bưu điện thì Tòa án gửi
thông báo nhận đơn đơn khởi kiện cho người khởi kiện biết.
Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, việc phân công người xem xét đơn
khởi kiện được thực hiện. Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện phải
có một trong các quyết định sau đây: (i) tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; (ii) chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có
thẩm quyền và thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện biết; yêu cầu bổ sung
tài liệu, chứng cứ; (iii) trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 192 Bộ Luật tố tụng dân sự; (iv) xử lý tình
huống phát sinh khi tiếp nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo
đơn khởi kiện (khởi kiện bằng văn bản hoặc bằng miệng, có đương sự hoặc tài sản
nước ngoài, uỷ quyền khởi kiện…) [24].
Sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện,
Thẩm phán giải quyết vụ việc phải xem xét đơn khởi kiện; xem xét các tài liệu,
chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện; xác định tư cách khởi kiện của người khởi
kiện; thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án; thời hiệu khởi kiện; mức tạm ứng án
phí. Nếu có đầy đủ các yếu tố hợp lệ, ra thông báo nộp tạm ứng án phí.
- Khi người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí, Tòa án thụ lý vụ
án và thông báo thụ lý vụ án cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
* Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải tranh chấp kinh tế, thương mại
Theo Điều 209 và Điều 210 BLTTDS năm 2015, trước khi xét xử sơ thẩm
tranh chấp kinh tế, thương mại Tòa án phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án để giúp các đương sự thoả
thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp, trừ những tranh chấp không được hoà
giải hoặc không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 206 BLTTDS năm
2015 [24].
Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công
bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những vấn đề sau đây:
44
+ Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn
đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;
+ Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác;
+ Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu
cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa;
+ Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết;
+ Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý kiến,
giải quyết các yêu cầu của đương sự. Trường hợp người được Tòa án triệu tập vắng
mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ.
- Khi hòa giải tranh chấp kinh tế, thương mại:…
+ Các bên đương sự sẽ trình bày về quan điểm về những vấn đề cần hòa giải,
hướng giải quyết vụ án và những gười khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có)
phát biểu ý kiến;
+ Sau khi các bên đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác
định những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các
đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;
+ Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa
thống nhất.
- Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải
quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được
gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Hết thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ
ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thoả
thuận đó, thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ra quyết định công nhận sự thoả
thuận của các đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết
định được thì Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán khác quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự.
* Phiên toà sơ thẩm vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại
45
Hội đồng xét xử gồm: 01 thẩm phán và 02 hội thẩm nhân dân. Hội đồng xét
xử quyết định theo nguyên tắc bình đẳng và theo đa số. Phiên toà sơ thẩm gồm 4
giai đoạn: (1) khai mạc phiên toà; (2) thủ tục hỏi tại phiên toà: hỏi đương sự về yêu
cầu của họ, nghe lời trình bày của các đương sự, hỏi từng đương sự, từng vấn đề;
(3) tranh luận tại phiên toà: chủ toạ không được giới hạn thời gian tranh luận nhưng
có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Sau khi những người tham
gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát
viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình
tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần phải
xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi, khi hỏi xong
phải tiếp tục tranh luận; (4) nghị án và tuyên án: các thành viên của Hội đồng xét xử
phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng
vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng, người
có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến đó bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ
vụ án. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét
tại phiên toà, kết quả hỏi tại phiên toà, xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham
gia tố tụng, Kiểm sát viên và phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận, quyết định
của Hội đồng xét xử, được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án
trước khi tuyên án. Sau khi tuyên án xong không được sửa chữa, bổ sung bản án trừ
trường hợp phát hiện lỗi chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai [24].
Những tồn tại, vướng mắc từ quy định pháp luật về thủ tục sơ thẩm
Thời hạn tố tụng quy định đối với một số vụ án ngắn không thể giải quyết
đúng thời hạn do đó có hiện tượng dồn án, tồn đọng án. Theo quy định Điểm b
Khoản 1 Điều 203 Bộ luật tụng dân sự: Thời hạn chuẩn bị xét xử của Bộ luật tố
tụng dân sự về tranh chấp kinh tế, thương mại là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách
quan thì Chán án tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng
không qua 01 tháng đối với vụ án về tranh chấp kinh tế, thương mại. Như thế có thể
thấy rằng thời hạn chuẩn bị xét xử quá ít, trong khi tranh chấp trong lĩnh vực kinh
tế, thương mại là một loại tranh chấp đầy tính phức tạp, cần phải nghiên cứu hồ sơ
một cách kỹ lưỡng, phải tiến hành đầy đủ các bước tố tụng quy định như tống đạt,
46
triệu tập, hòa giải và cũng như chờ đợi các đương sự giao nộp đầy đủ chứng chứ để
có thể xét xử một cách công bằng, khách quan nhất. Do vậy, thời hạn chuẩn bị xét
xử quá ngắn thì khó có thể chỉ trong vòng 02 đến 03 tháng có thể giải quyết tranh
chấp một cách chính xác được. Vì vậy, hiện tượng tồn đọng án, bản án, quyết định
của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị, bị sửa vẫn còn xảy ra.
Ngoài ra, việc xác định đâu là tranh chấp thương mại, đâu là tranh chấp dân
sự cũng rất khó, bởi lẽ, tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định
“tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh tế, thương mại giữa các cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”, trong trường hợp
tranh chấp phát sinh giữa một bên có đăng ký kinh doanh, có mục đích lợi nhuận
với một bên không đăng ký kinh doanh nhưng cũng có mục đích lợi nhuận hoặc chỉ
có một bên đăng ký kinh doanh, có mục đích lợi nhuận, còn một bên không đăng ký
kinh doanh và không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó thuộc lĩnh vực dân sự
hay kinh tế, thương mại.
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm
2.2.1. Vài nét về Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ảnh hưởng đến
việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
Ngành Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 9
năm 1976, hệ thống tổ chức bộ máy lúc bấy giờ gồm Tòa án nhân dân thành phố và
11 Tòa án nhân dân quận - huyện, sau gần 45 năm ngành Tòa án nhân dân thành
phố không ngừng phát triển. Hiện nay ngành Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh gồm Tòa án nhân dân thành phố và 24 Tòa án nhân dân quận - huyện. Tại Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có 05 Tòa chuyên trách, 03 bộ phận trực thuộc.
Biên chế của toàn ngành ban đầu chỉ có 80 người nay lên đến 734 cán bộ - công
chức (thành phố 233; quận - huyện 501), trong đó có 253 Thẩm phán (thành phố 81;
quận - huyện 172), 383 Thư ký (thành phố 119, quận - huyện 264), 98 cán bộ - công
chức khác (thành phố 33; quận - huyện 65) chưa tính đến số hợp đồng [36].
Hiện nay, tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo có 05 người,
gồm 01 Chánh án và 04 Phó Chánh án, các tòa chuyên trách, bộ phận đều bố trí đủ
47
cán bộ lãnh đạo. 24 Tòa án nhân dân quận - huyện ban lãnh đạo có từ 02-03 đồng
chí, tòa thấp nhất có 03 thẩm phán, cao nhất có 17 thẩm phán. Hiện nay, Tòa án
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh có 01 Chánh tòa, 02 Phó Chánh tòa và 14 thẩm
phán [36].
2.2.2. Kết quả quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước mà trong đó trọng tâm là đổi mới về cải cách kinh tế, chuyển dần từ một nền
kinh tế quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước thực trạng các quan hệ kinh tế trong
nền kinh tế thị trường vốn hết sức phức tạp, đa dạng, nên các tranh chấp kinh tế
cũng đa dạng về loại hình, phức tạp về tính chất và phát sinh ngày càng nhiều.
Chính vì vậy, vấn đề lớn đặt ra là phải có những phương thức giải quyết các tranh
chấp kinh tế một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ quyền
lợi của các chủ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn, ngày 28/12/1993, Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND, thành lập Toà kinh tế thuộc
hệ thống TAND để giải quyết các tranh chấp kinh tế, Luật có hiệu lực từ ngày
01/7/1994. Tại Nghị quyết số 166/UBTVQH9 ngày 02/02/1994, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định: Các cơ quan
trọng tài kinh tế tổ chức theo Pháp lệnh trọng tài kinh tế được Hội đồng Nhà nước
thông qua ngày 10/01/1990 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong
việc giải quyết các vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế cho đến ngày 30/6/1994. Đồng
thời Nghị quyết này cũng giao cho Chánh án TAND Tối cao khẩn trương chuẩn bị
việc thành lập Toà kinh tế TAND Tối cao; Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp với
Chánh án Toà án nhân dân tối cao khẩn trương thành lập các Toà kinh tế - Toà án
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
48
Thực hiện Nghị quyết số 166 nêu trên, ngày 01/7/1994 Toà Kinh tế thuộc
TAND thành phố Hồ Chí Minh được thành lập và chính thức thực hiện chức năng
nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Theo Báo cáo năm 2020 kỷ niệm 20 năm ngày thành lập tòa kinh tế: Để
thành lập Toà kinh tế, Lãnh đạo TAND thành phố Hồ Chí Minh đã phân công một
số Thẩm phán, Thư ký tại các toà chuyên trách của TAND TP. Hồ Chí Minh sang
công tác tại Toà kinh tế, gồm 05 đồng chí Thẩm phán và 03 đồng chí Thư ký, trong
đó có 02 đồng chí là cán bộ lãnh đạo. Ngoài ra, TAND thành phố Hồ Chí Minh còn
tiếp nhận một số đồng chí là Trọng tài viên, cán bộ, nhân viên của cơ quan Trọng tài
kinh tế Nhà nước TP. Hồ Chí Minh được tiếp tục chuyển sang công tác tại Toà kinh
tế. Buổi đầu khi thành lập biên chế của Toà Kinh tế là 17 đồng chí. Toà kinh tế
TAND TP. Hồ Chí Minh vừa bắt tay vào củng cố tổ chức, vừa tiến hành làm công
tác chuyên môn nghiệp vụ. Trong 06 tháng của năm 1994, Tòa kinh tế đã thụ lý 08
vụ việc về kinh doanh thương mại và đã giải quyết được 04 vụ. Đến năm 2019, Tòa
kinh tế đã thụ lý 291 vụ việc kinh doanh thương mại và giải quyết được 266 vụ.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, mặc dù thực hiện Nghị quyết của Quốc hội tăng thẩm
quyền cho Tòa án cấp huyện giải quyết một số loại việc tranh chấp kinh doanh
thương mại trước đây thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh thì Tòa kinh tế TAND
TP. Hồ Chí Minh đã thụ lý 199 vụ và đã giải quyết được 129 vụ. Qua số liệu trên có
thể minh chứng là số lượng các vụ việc kinh doanh thương mại ngày một tăng,
khẳng định vai trò của Tòa kinh tế mà mũi nhọn giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại và phá sản trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong thời ký đổi mới đất nước [36].
Hiện tại, Tòa Kinh tế có 17 biên chế công chức, trong đó có 09 Thẩm phán (có
01 đồng chí Chánh tòa, 01 đồng chí phó Chánh tòa), 08 đồng chí Thư ký. Về chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức: 100% các Thẩm phán, thư ký Toà Kinh tế có trình độ
chuyên môn là cử nhân luật; trong đó có 04 người có trình độ thạc sỹ luật học.
Mặc dù còn gặp không ít khó khăn trong công tác và các yếu tố ảnh hưởng
như địa bàn rộng, địa hình phức tạp, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật còn nhiều
khó khăn, thiếu thốn, thiếu về cán bộ nhất là cán bộ có chức danh là Thẩm phán,
49
Thẩm phán có trình độ năng lực cao, có kinh nghiệm nhưng ngành Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh đã thường xuyên nhận được sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ của
Tòa án nhân dân tối cao, cấp ủy và chính quyền địa phương. Cán bộ Tòa án đã phát
huy sức mạnh đoàn kết, hăng hái thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác
trong những năm gần đây. Số lượng, chất lượng vụ án giải quyết tăng lên về đầu vụ
và chất lượng qua hàng năm. Việc giải quyết của Toà án cũng đạt được tỷ lệ rất cao,
đặc biệt trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Kết quả đó đã góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, duy
trì ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể được thể hiện qua các bảng số liệu sau:
Bảng 2.1. Án kinh tế, thương mại giai đoạn sơ thẩm từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
2017 243 236 2018 268 255
2019 2016 281 256 264 242 94,53 97,12 95,15 93.95 2020 251 244 97,21
Tổng số 1.299 Thụ lý (vụ) 1.241 Giải quyết (vụ) Tỷ lệ (%) 95,53 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 - 2020 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh)
Như vậy, Toà án nhân dân hai cấp TP. Hồ Chí Minh trong công tác giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Mặc
dù số vụ tranh chấp liên quan đến lĩnh vực này xảy ra không nhiều so với các địa
phương khác trên cả nước, nhưng tỷ lệ giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
luôn rất cao, có nhiều vụ án chất lượng, có tính thuyết phục và tuyên truyền cao.
Trong đó phải kể tới nhiều năm Toà án nhân dân các cấp TP. Hồ Chí Minh có tỷ lệ
hoà giải thành cao, tránh việc kiện tụng kéo dài gây thiệt hại, tốn kém cho các
đương sự.
2.2.3. Tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
tại toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại các TAND ở
TP. Hồ Chí Minh trong những năm qua như đã nêu trên có nhiều kết quả. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương
mại của các TAND ở TP. Hồ Chí Minh cũng còn một số hạn chế như sau:
50
Thứ nhất, về việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại giữa TAND cấp huyện với Tòa án chuyên trách cấp huyện hoặc giữa TAND
cấp huyện với TAND cấp tỉnh.
Việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi
tiến hành thủ tục giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu tại Tòa án được phân cấp cho
TAND cấp tỉnh, Tòa chuyên trách cấp tỉnh, TAND cấp huyện và Tòa chuyên trách
cấp huyện. Theo đó, TAND cấp huyện giải quyết các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của BLTTDS năm 2015; Tòa chuyên
trách cấp huyện (Tòa dân sự TAND cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những vụ việc về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của TAND
cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS năm 2015. Đối với TAND cấp huyện
chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét
xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp
huyện; TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về kinh tế,
thương mại có yếu tố nước ngoài (đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần
phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài). TAND cấp
tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của
TAND cấp huyện; Tòa chuyên trách cấp tỉnh (Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh) có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của
BLTTDS năm 2015; giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án,
quyết định kinh doanh, thương mại chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp
huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên,
thực tế việc xác định thẩm quyền các vụ việc trong kinh tế, thương mại vẫn bị nhầm
lẫn về thẩm quyền giữa TAND cấp huyện với Tòa án chuyên trách cấp huyện hoặc
nhầm lẫn giữa TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh.
Ví dụ: đối với tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng như hợp đồng gia
công, hợp đồng hợp tác kinh doanh thì do TAND cấp huyện hay cấp tỉnh giải quyết?
Thực tế các hợp đồng này bản chất của nó là cung ứng dịch vụ, do vậy các tranh chấp
phát sinh nên hướng dẫn theo hướng thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
51
Thứ hai, về việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại của Tòa án theo lãnh thổ.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án theo lãnh
thổ có thể xác định theo thứ tự sau:
+ Trong trường hợp đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi
có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết. Theo quan điểm trước đây của Nghị
quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao (HĐTPTANDTC) hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất
“Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS thì đối tượng tranh chấp ở đây phải được hiểu là đối
tượng tranh chấp chính là bất động sản. Ví dụ: tranh chấp về quyền sở hữu nhà được
xem là tranh chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản. Tuy nhiên, hiện nay văn bản
này hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
+ Các đương sự có quyền tự thỏa thuận bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư
trú làm việc của nguyên đơn.
Ví dụ: Anh A (cư trú tại huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) khởi kiện chị B
(cư trú tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) về việc chị B không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ khoản vay 500 triệu mà chị B đã vay của anh A khi đến hạn trả nợ.
Trường hợp này các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp thực hiện tại
TAND huyện Củ Chi. Lúc này TAND huyện Củ Chi sẽ có thẩm quyền xét xử. Mặt
khác, cần lưu ý đến một số ngoại lệ khác tại Điều 40 BLTTDS 2015. Theo đó,
nguyên đơn có quyền tự mình lựa chọn Tòa án trong 1 số trường hợp đặc biệt.
+ Trong trường hợp đối tượng tranh chấp không là bất động sản và nguyên
đơn, bị đơn không có thỏa thuận hoặc nguyên đơn không có quyền chọn Tòa án
theo Điều 40 thì trường hợp này Tòa án nơi bị đơn cư trú sẽ có quyền giải quyết.
Tuy vậy, thực tế việc xác định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ của Tòa án
vẫn là một trong những vấn đề gây nhiều nhầm lẫn khi xác định thẩm quyền giải
quyết và vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để, cần thiết phải có sự điều chỉnh,
hướng dẫn của các cơ quan liên ngành Trung ương nhằm áp dụng thực hiện đúng
đắn, thống nhất các quy định của pháp luật.
Ví dụ: Trong vụ án, nguyên đơn A cư trú tại Quận 9, TP. Hồ Chí Minh và bị
đơn B cư trú tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo nguyên tắc Tòa án thành
52
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nơi bị đơn B cư trú có thẩm quyền. Nếu các bên thỏa
thuận Tòa án nơi nguyên đơn A cư trú thì phải bảo đảm thẩm quyền của cấp Tòa án.
Nếu vụ án thuộc thẩm quyền Tòa án cấp huyện thì thỏa thuận chỉ được chấp nhận
khi các đương sự thỏa thuận Tòa án nhân dân Quận 9, TP. Hồ Chí Minh giải quyết.
Nếu các đương sự thỏa thuận Tòa án giải quyết thì thỏa thuận đó không được chấp
nhận. Trên thực tế, với những tình huống này việc thoả thuận của đương sự và việc
xác định thẩm quyền của Toà án vẫn có sự nhầm lẫn.
Như vậy, có thể nói một trong những vướng mắc của quy định pháp luật hiện
nay phần nào đã gây khó khăn cho công tác xét xử các vụ án dân sự nói chung và vụ
án tranh chấp kinh tế, thương mại nói riêng như: sự phân cấp hệ thống Tòa án theo
đơn vị hành chính lãnh thổ chưa thực sự mang lại hiệu quả; cách thức tổ chức hệ
thống Tòa kinh tế để giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại chưa phù hợp dẫn
đến chất lượng xét xử các vụ án còn hạn chế; sự phân chia trình tự thủ tục xét xử
qua nhiều cấp Tòa án phức tạp và kéo dài không đáp ứng được yêu cầu quan trọng
trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại là nhanh chóng và kịp thời; về
năng lực giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Tòa án chưa cao do địa vị
của Tòa án còn thiếu tính độc lập và năng lực trình độ của đội ngũ Thẩm phán về
pháp luật kinh tế, thương mại còn hạn chế.
Thứ ba, về việc phân biệt vụ án kinh tế, thương mại (tranh chấp kinh tế,
thương mại) với vụ án dân sự.
Việc xác định mục đích lợi nhuận để phân biệt tranh chấp kinh tế, thương
mại hay bằng vụ án dân sự đối với trường hợp Ngân hàng cho cá nhân, hộ gia đình
vay theo hợp đồng tín dụng, theo hướng dẫn của HĐTPTANDTC tại Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP nêu trên thì chỉ cần xác định mong muốn, nhu cầu, mục đích
vay để làm gì... Mục đích lợi nhuận không phụ thuộc vào cá nhân, hộ gia đình phải
đăng ký kinh doanh hay không, mục đích và kết quả thực tế có lợi nhuận hay không
là án kinh doanh, thương mại, còn vay chỉ mục đích tiêu dùng là án dân sự. Tuy
nhiên, việc xác định mục đích lợi nhuận và mục đích tiêu dùng là rất khó; căn cứ
vào đâu để xác định mục đích vay do đương sự trình bày, thể hiện trên hợp đồng,
chứng cứ khác...
53
Ví dụ: ông A vay của Ngân hàng X 100 triệu đồng để xây nhà. Trong hợp
đồng vay không thể hiện xây nhà với mục đích gì. Ban đầu khi thụ lý vụ án, Tòa án
xác định đây là tranh chấp dân sự; quá trình giải quyết vụ án đã xác minh là rõ ông
A xây nhà trọ (hoặc xây khách sạn) để cho thuê, mục đích thật sự là thu lợi nhuận.
Do đó, đây phải là tranh chấp về kinh doanh thương mại. Khi có chứng cứ xác định
thẩm quyền giải quyết bằng loại án khác thì xử lý như thế nào (tiếp tục giải quyết
hay chuyển sổ thụ lý).
Vụ án thứ nhất: Tranh chấp hợp đồng tín dung giữa Nguyên đơn: Ngân
hàng N và Bị đơn: Tổng công ty M II – Công ty cổ phần. Do Bị đơn kháng cáo
ngày 21/7/2017 và ngày 14/8/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị số 17/QĐKNPT-VC3-kinh tế,
thương mại kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị hủy bản án sơ thẩm chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Theo đó, tại Bản án dân sự
phúc thẩm số 02/2018/kinh tế, thương mại -PT ngày 17/01/2018 của Toà án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh quyết định: “Không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn Tổng công ty M II (Tổng công ty M II – Công ty cổ phần). Chấp nhận một
phần Quyết định kháng nghị số 17/QĐKNPT-VC3-kinh tế, thương mại ngày
14/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Sửa bản án sơ thẩm số 895/2017/kinh tế, thương mại -ST ngày
17/07/2017…” Lý do, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án
là “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm thấy rằng tại thời
điểm ký kết các hợp đồng tín dụng, Công ty B là đơn vị hoạch toán phụ thuộc của
Tổng công ty M II, bản thân Công ty B không có tư cách pháp nhân độc lập để ký
kết các hợp đồng kinh tế, mà chỉ ký kết theo sự ủy quyền của Tổng công ty M II.
Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD/2002 và số 02/HĐTD/2003 thực chất là giao dịch
dân sự giữa Ngân hàng N và Tổng công ty M II. Do đó, quan hệ tranh chấp trong vụ
án phải được xác định lại là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. [28][33].
Thứ tư, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại.
- Việc đương sự cản trở định giá tài sản đã được hướng dẫn tại TTLT số
02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014, nhưng trường
54
hợp đương sự ngăn cản việc xem xét, thẩm định tại chỗ đối với các tài sản thế chấp
trong vụ án tín dụng và Tòa án cũng đã lập biên bản ghi nhận việc này lưu hồ sơ vụ
án theo đúng hướng dẫn tại Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP của HĐTPTANDTC
nhưng sau đó phải xử lý thế nào thì chưa có hướng dẫn.
- Đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng bị Tòa án cấp trên hủy về
giải quyết lại thì phát sinh thêm nhiều người liên quan đến tài sản thế chấp, do họ
tranh chấp với bị đơn về quyền sở hữu, sử dụng tài sản đang thế chấp cho Ngân
hàng, tức là phát sinh quan hệ tranh chấp dân sự trong vụ án kinh doanh, thương
mại, nhưng sau khi Tòa án giải quyết sơ thẩm lần trước đối với vụ án tín dụng thì bị
đơn đã đi khỏi địa phương không ai biết hiện ở đâu. Trường hợp này làm cho Tòa
án lúng túng trong việc giải quyết vụ án, có nhiều quan điểm giữa các Thẩm phán,
các Tòa án khác nhau nên vụ án bị kéo dài là khó tránh khỏi.
Vụ án thứ hai: Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ. Nguyên đơn: M Corp.
(US); Bị đơn: Công ty H1; Người tham gia tố tụng khác: Công ty G. Trong đơn
khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau: Buộc bị đơn
Công ty H1 chấm dứt tất cả hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với bằng
độc quyền sáng chế, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc nhập khẩu, khai thác,
lưu thông, buôn bán, vận chuyển, quảng cáo, chào bán và lưu trữ để lưu thông sản
phẩm xâm phạm quyền đối với BĐQSC số 5684 và số 7037 của nguyên đơn và áp
dụng các biện pháp đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gồm: Buộc Bị
đơn thu hồi tất cả các sản phầm thuốc có tên thương phẩm là “GETSITALIP
100mg” và “ GETSITALIP 50mg” xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với Bằng
độc quyền sáng chế số 5684 và 7037 trên thị trường; Buộc Bị đơn Công ty H1 xin
lỗi và cải chính công khai với nguyên đơn trên tạp chí Dược và Mỹ phâm, tạp chí
Sức khỏe và Đời sống. Đăng ba kỳ liên tiếp của báo Thanh Niên về các hành vi xâm
phạm quyền đối với sáng chế; Buộc Bị đơn Công ty H1 tiêu hủy tất cả các sản phẩm
“GETSITALIP 100mg” và “ GETSITALIP 50mg” còn tồn kho cũng như trên thị
trường trước sự chứng kiến của nguyên đơn; Buộc Bị đơn Công ty H1 không được
đăng ký tại Cục quản lý dược Việt Nam bất kỳ sản phẩm nào chứa các hợp chất
họăc dược chất được bảo hộ trong thời hạn hiệu lực của BĐQSC số 5684 và 7037
55
tại cục quản lý dược Việt Nam. Buộc Bị đơn Công ty H1 trả 300.000.000 đồng là
chi phí mà nguyên đơn đã thuê luật sư; Buộc Bị đơn Công ty H1 bồi thường thiệt
hại cho nguyên đơn 500.000.000 đồng. Theo đó, tại Bản án dân sự sơ thẩm số
1030/2019/kinh tế, thương mại-ST ngày 21/08/2019 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh quyết định: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn…”
Ngày 30/8/2019, nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa án
theo hướng chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn có cung cấp Công ty G, có
địa chỉ 29-30/27 K- 74900, Pakistan. Văn phòng đại diện tại Việt Nam: 70 Lầu 3
đường P, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thế nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không
đưa Công ty G vào tham gia tố tụng với tư cách là người có có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là vi phạm tố tụng, ảnh hưởng đến quyền bảo vệ của Công ty G1 và bị
đơn. Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để chứng minh sản phẩm của Công ty G1
có hay không có vi phạm sáng chế mà nguyên đơn được bảo hộ. Từ những nhận
định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm thủ tục tố tụng. Do đó, Toà án nhân
dân cấp cao tại TP.HCM ban hành Bản án dân sự phúc thẩm số 41/2020/kinh tế,
thương mại -PT ngày 28/07/2020 quyết định: “Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
1030/2019/kinh tế, thương mại - ST ngày 21/08/2019 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh. Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh giải quyết lại
theo thủ tục sơ thẩm…” [30][35].
- Bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy
giao về giải quyết lại; trước khi bản án bị hủy thì Cơ quan Thi hành án dân sự đã trả lại
tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn theo quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp
luật trước kia. Nay nguyên đơn vẫn yêu cầu Tòa án tiếp tục xem xét, giải quyết yêu cầu
khởi kiện nhưng không chịu nộp lại tiền tạm ứng án phí theo yêu cầu của Tòa án, cũng
là một vấn đề khiến nhiều Toà án còn gặp khó khăn, lúng túng khi thực hiện.
Vụ án thứ ba: Tranh chấp đòi cổ tức giữa nguyên đơn (Tổng Công ty Du
lịch S - TNHH Một thành viên) với bị đơn (Công ty Cổ phần Vận chuyển Sài Gòn).
Do nguyên đơn là cổ đông có phần vốn góp 23.284.940.000 đồng chiếm 29,11%
vốn điều lệ của Công ty Cổ phần Vận chuyển Sài Gòn T (Công ty Sài Gòn T có vốn
điều lệ 80 tỷ đồng). Vào ngày 20/4/2015, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn rút toàn bộ
56
vốn khỏi Công ty Sài Gòn T. Công ty Sài Gòn T còn nợ Tổng Công ty Du lịch Sài
Gòn cổ tức của các năm 2009, 2010, 2011 tổng cộng là 3.911.869.500 đồng. Công
ty Sài Gòn T đã thanh toán cho Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn một phần tiền nợ cổ
tức là 1.950.000.000 đồng (cụ thể thanh toán 1.000.000.000 đồng vào ngày
25/12/2015, 400.000.000 đồng vào ngày 17/3/2016, 400.000.000 đồng vào ngày
01/4/2016, 100.000.000 đồng vào ngày 24/5/2016 và 50.000.000 đồng vào ngày
08/8/2016), còn nợ lại 1.961.869.500 đồng. Sau đó, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn
đã nhận của Công ty Sài Gòn T Văn bản số 119/2016/CV-STT ngày 12/8/2016 về
việc Công ty Sài Gòn T xin thanh toán số nợ còn lại theo từng đợt và cam kết thực
hiện trước ngày 31/12/2016. Tuy nhiên, Công ty Sài Gòn T chỉ thanh toán thêm
được 536.869.500 đồng (cụ thể thanh toán 161.896.500 đồng vào ngày 07/10/2016,
175.000.000 đồng vào ngày 15/11/2016 và 200.000.000 đồng vào ngày
01/12/2016), còn nợ lại 1.425.000.000 đồng. Do không thanh toán nên Tổng Công
ty Du lịch Sài Gòn đã khởi kiện đến Tòa án với yêu cầu Công ty Sài Gòn T phải
thanh toán số tiền nợ gốc là 1.425.000.000 đồng và lãi chậm trả tạm tính từ ngày
01/01/2017 đến 01/9/2017 với mức lãi suất 0,75%/tháng là 85.500.000 đồng. Tại
phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có thay đổi yêu cầu so với đơn khởi kiện do nguyên
đơn có nhận Văn bản số 168/2018/CV/STT-PL ngày 06/11/2018, của Công ty Sài
Gòn T với nội dung Công ty Sài Gòn T xác nhận còn nợ nguyên đơn số nợ (cổ tức)
gốc là 1.005.871.500 đồng đúng với yêu cầu của nguyên đơn. Sau đó, tại Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1634/2018/kinh tế, thương mại-ST ngày
14/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử: “Chấp nhận
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty Cổ phần Vận chuyển Sài Gòn T có
trách nhiệm thanh toán cho Tổng Công ty Du lịch S – TNHH Một thành viên số nợ
cổ tức là 1.005.871.500…” Ngày 28/11/2018, bị đơn Công ty cổ phần vận chuyển
Sài Gòn T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Trong phiên tòa cấp phúc thẩm Đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát
biểu: Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm
vì: Toà án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 93 Luật Doanh nghiệp năm
57
2005 để xem xét giải quyết vụ án trên; nguyên đơn đã rút vốn vào năm 2015, nên
không thể hạch toán phần thuế bị truy thu vào các năm tiếp theo được. Trong vụ án
này, Toà án cấp sơ thẩm lại nhận định: “Về vấn đề truy thu thuế thì các đương sự tự
giải quyết, nếu không giải quyết được thì các đương sự được quyền khởi kiện bằng
vụ án khác” là chưa giải quyết triệt để vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị
đơn. Do vậy, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại phiên toà, huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho toà án
cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung. Cho nên, tại Bản án dân sự phúc thẩm
số 70/2019/kinh tế, thương mại -PT ngày 29/10/2019 của Toà án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh đã quyết định: “Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ
phần Vận chuyển Sài Gòn T. Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm số 1634/2018/kinh tế,
thương mại-ST ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Chuyển hồ
sơ về cho toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung…” [29][34].
Vụ án thứ tư: Tranh chấp hợp đồng góp vốn Ông Nguyễn Thái B nguyên
đơn trình bày: Vào năm 2009, bị đơn bà M - Giám đốc Công ty A, gọi vốn đầu tư
thành lập Trường A1 (gọi tắt là A1), tại thành phố Sydney, bang New SouthWales,
vì vậy vào ngày 20/02/2009, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông và ba người bạn gồm:
Ông Nguyễn Hữu Ngh, bà Lý Thị Thu H, ông Dương Hồng H1 đã cùng nhau ký
Hợp đồng số 01/2009/GVĐT với bà M. Tổng số tiền huy động là 500.000 đô la Úc.
Sau đó bà M nâng tổng mức đầu tư dự án lên 700.000 đô la Úc, nên ông cùng với
ông Ngh, bà H, ông H1 đã ký hợp đồng số 02B/2009/HDTD ngày 08/03/2009 để
thay thế hợp đồng số 01/2009/GVĐT nêu trên, cụ thể số tiền góp vốn đầu tư của
mỗi người như sau: “ Ông góp 175.000 đô la Úc, chiếm 25% tổng vốn đầu tư; Bà M
góp 210.000 đô la Úc, chiếm 30% tổng vốn đầu tư; Ông Nguyễn Hữu Ngh góp
70.000 đô la Úc, chiếm 10% tổng vốn đầu tư; Bà Lý Thị Thu H góp 70.000 đô la
Úc, chiếm 10% tổng vốn đầu tư; Ông Dương Hồng H1 góp 175.000 đô la Úc,
chiếm 25% tổng vốn đầu tư”.
Việc đầu tư này được Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cấp Giấy chứng
nhận đầu tư ra nước ngoài số 235/BKH-ĐTRNN ngày 06/05/2009. Tính đến tháng
04/2009, ông đã thực giao cho bà M bằng tiền đồng Việt Nam tương đương với số
58
tiền 111.250 đô la Úc tại TP. Hồ Chí Minh. Khi nhận tiền xong, bà M không tiến
hành triển khai bất cứ một hoạt động đầu tư nào. Ngày 29/12/2009, các cổ đông họp
lại với nhau. Sau cuộc họp bà M xác nhận số dư thực tế góp vốn của từng thành
viên và thống nhất sẽ chuyển tiếp số tiền góp vốn này thành cổ phần góp vốn riêng
lẻ cho từng cá nhân khi được góp vốn vào trường mới. Thời gian qua ông cùng với
những người góp vốn luôn tìm mọi cách để gặp bị đơn Bà M, nhưng bị đơn bà M
luôn cố tình tránh mặt. Do quá bức xúc nay ông yêu cầu bà M phải trả lại cho ông
số tiền 111.250 đô la Úc (tỷ giá 16.500 đồng/AUD) tương đương 1.835.625.000
đồng (tỷ giá 16.500 đồng/AUD) và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 15/02/2012 đến
ngày xét xử sơ thẩm (tháng 06/2016) là 4 năm 4 tháng (52 tháng) x 0,5%/tháng x
1.835.625.000 đồng = 477.262.500 đồng, tổng cộng vốn, lãi là 2.312.887.500 đồng.
Vì vậy, tại Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 973/2016/KDTM-ST
ngày 19/09/2016, Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh xử: “Chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn ông Nguyễn Thái B.Bị đơn bà M có trách nhiệm hoàn trả lại cho ông B
số tiền vốn đầu tư 111.250 đô la Úc tương đương 1.874.562.500 đồng và
515.504.687 đồng tiền lãi. Tổng cộng vốn, lãi là 2.390.067.187 (hai tỷ, ba trăm chín
mươi triệu, không trăm sáu mươi bảy ngàn, một trăm tám mươi bảy) đồng…” Sau
khi xét xử sơ thẩm, bà M (bị đơn) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa
phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm chưa tống đạt
hợp lệ cho bị đơn là bà M. Trong quá trình giải quyết vụ án thì bà M cũng không
tham gia tố tụng. Do đó, có căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Về người tham gia tố tụng: Tòa án xác định quan
hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng góp vốn”. Tuy nhiên, theo các Hợp đồng
góp vốn, ngoài bà M và ông Nguyễn Thái B tham gia góp vốn thì còn các thành
viên khác cùng tham gia góp vốn là ông Nguyễn Hữu Ngh, ông Dương Hồng H1 và
bà Lý Thị Thu H cùng tham gia góp vốn. Tuy chỉ có ông B khởi kiện yêu cầu bà M
trả lại phần vốn góp của ông B vào công ty, nhưng việc phải đưa ông Ngh, ông H1,
bà H là rất cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa hết
các thành viên góp vốn vào tham gia tố tụng là thiếu sót. Ngoài ra, trong hồ sơ vụ
án còn có bản thỏa thuận chuyển nhượng vốn ngày 07/12/2009 giữa ông B với bà M
cũng chưa được làm rõ và Các biên nhận bà M ký xác nhận là xác nhận việc góp
59
vốn chứ không phải ký nhận nợ các thành viên góp vốn. Đồng thời, Tòa án cấp sơ
thẩm chưa làm rõ các mâu thuẫn xác định bà M phải trả ông M 111.250 AUD, thế
nhưng đã tuyên buộc bà M trả cho ông B 111.250 AUD là chưa đủ cơ sở. Từ những
phân tích nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm tố tụng,
chưa thu thấp đầy đủ chứng cứ mà tại phiên tòa phúc thẩm không khắc phục được.
Việc thiếu sót này ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Do đó, Hội
đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử lại theo quy định của pháp luật. Từ đó, theo Bản án dân sự phúc thẩm số
48/2020/KDTM -PT ngày 13/08/2020 ra quyết định: “Chấp nhận một phần kháng
cáo của bà M. Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
973/2016/KDTM-ST ngày 19 tháng 9 năm 2016 của Toà án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh. Chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
lại theo quy định của pháp luật…” [31][32].
Như vậy, thực tế việc giải quyết các trường hợp nêu trên vẫn còn nhiều bất
cập, mỗi nơi xác định và thực hiện theo trình tự, thủ tục khác nhau dẫn đến kết quả,
trình thủ giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự nhau nhưng trình tự, thủ tục có
thể không giống nhau, tạo ra sự không đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, công tác xét xử, giải quyết loại án này còn để xảy ra tình trạng án
bị sửa, bị hủy; xảy ra tình trạng xác định thiếu người tham gia tố tụng; xác định sai
tư cách người tham gia tố tụng; tuyên án không rõ ràng khó thi hành án; giải quyết
yêu cầu phản tố còn sai sót; Thu thập chứng cứ chưa đầy đủ…
Thứ hai, Việc tranh tụng tại một số phiên tòa còn chưa được tốt; kỹ năng
điều khiển phiên tòa của một số thẩm phán còn yếu, lúng túng; việc phát hành bản
án còn chậm, tính toán sai số liệu, nhầm lẫn phải đính chính lại; biên bản nghị án
còn thiếu sót.
Thứ ba, Việc cung cấp chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết án
kinh tế, thương mại còn chưa đầy đủ, các đương sự ở xa, nhiều khi triệu tập cố tình
không đến dẫn đến giải quyết gặp khó khăn; không thực hiện đầy đủ các thủ tục do
pháp luật quy định về nghĩa vụ tự chứng minh.
Thứ tư, Trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm, hiệu quả
công tác của một số Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân chưa cao. Công tác
kiểm tra nghiệp vụ xét xử, công tác thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại và việc chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án
chưa được thường xuyên.
60
Thứ năm, Việc tống đạt các văn bản của Toà án cho các đương sự còn cứng
nhắc, có vụ việc tống đạt các văn bản còn chậm dẫn đến các đương sự chưa chủ
động được thời gian, công việc, để tiến hành giải quyết tranh chấp.
Thứ sáu, Sau khi giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại một số Bản án,
Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật chưa được thi hành một cách nghiêm
túc, đúng pháp luật để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên giải
quyết tranh chấp.
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại còn một số tồn tại, hạn
chế nhất định, những hạn chế này xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh còn có nhiều tồn tại và bất cập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có nguyên nhân quan và chủ quan. Trong khuôn khổ của khóa luận, em xin
nêu ra một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 còn có quy định rất khó và chưa
rõ để xác định đâu là tranh chấp thương mại, đâu là tranh chấp dân sự, đó là, tại
khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định “tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”, trong trường hợp tranh chấp phát sinh giữa
một bên có đăng ký kinh doanh, có mục đích lợi nhuận với một bên không đăng ký
kinh doanh nhưng cũng có mục đích lợi nhuận hoặc chỉ có một bên đăng ký kinh
doanh, có mục đích lợi nhuận, còn một bên không đăng ký kinh doanh và không có
mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó thuộc lĩnh vực dân sự hay kinh tế, thương
mại? Thì đây cũng là một vấn đề tương đối khúc mắc trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân nói chung và tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
Mặt khác, các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại 2005 vẫn còn nhiều bất
cập và hạn chế. Nhiều nội dung hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán hay các Nghị định của Chính phủ... còn có mâu thuẫn với Luật Thương mại
2005. Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán của Pháp luật dẫn đến một hậu quả
đương nhiên đó là Thẩm phán đưa ra những quyết định, bản án thiếu khách quan,
ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng.
61
Thứ hai, Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về lĩnh vực thương mại và
giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án vẫn còn nhiều bất cập thiếu sót cả về
luật nội dung và luật hình thức. Đối với luật nội dung thì còn nhiều những quy định
chồng chéo lẫn nhau, có những quy định pháp luật thì không còn phù hợp với thực
tại khách quan của xã hội, điển hình như Luật Thương mại 2005, khi nền kinh tế đã
phát triển rất nhiều hơn trước, các quan hệ thương mại cũng phong phú và phức tạp
hơn nhưng Luật Thương mại vẫn chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời để phù hợp
với kinh tế - xã hội hiện nay.
Mặt khác, quy định về cách thức tính lãi chậm trả của Bộ luật Dân sự 2015
(có hiệu lực từ 01/01/2017) so với Luật Thương mại 2005 là có sự khác nhau, như
vậy sự không đồng nhất của pháp luật dẫn tới sự khó khăn trong cách áp dụng pháp
luật để giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại tòa án nói chung và thực tiễn
xét xử tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
Thứ ba, thời hạn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án là quá
ngắn, gây nhiều áp lực về tiến độ công việc cho các thẩm phán. Trong khi đó, cùng
một thời gian, Thẩm phán phải nghiên cứu nhiều hồ sơ và nhiều loại vụ việc khác
nhau vì vậy chất lượng của bản án, quyết định của Tòa án chưa được đảm bảo một
cách tuyệt đối. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như sự không hợp tác giữa
các đương sự với nhau, các đương sự không cung cấp hết, đầy đủ các chứng cứ để
giải quyết vụ án, triệu tập đương sự nhưng họ không đến Tòa, nguyên đơn ở cách xa
Tòa án, có những nguyên đơn ở Hà Nội, Nam Định… từ đó công tác xét xử của Tòa
án nhân dân TP. Hồ Chí Minh cũng gặp không ít những khó khăn và bất cập.
2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án tranh chấp thương mại vẫn
còn hiện tượng chạy án, nhũng nhiễu, tham nhũng, vòi vĩnh các đương sự. Và cùng
với đó là tâm lý “bôi trơn” của các đương sự để mình có thể giành được phần thắng
kiện trong tay. Đây là một hiện tượng tha hóa đạo đức nghề nghiệp, bản tính tham
lam của con người của một bộ phận số ít các cán bộ, công chức ngành Tòa án nói
chung và Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh nói riêng. Từ đó dẫn đến hiện tượng án
sai vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, trình độ chuyên môn của một số cán bộ, công chức
Tòa án chưa cao, đặc biệt là có ít kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp
thuộc lĩnh vực kinh tế, thương mại. nên khi xét xử cũng gặp không ít khó khăn. Do
đó vẫn có hiện tượng bị hủy án, sửa án.
62
Thứ hai, nguyên nhân liên quan tới hạn chế trong tổ chức phiên toà và chất
lượng tranh tụng tại phiên toà.
Đổi mới công tác tổ chức và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là một trong
những yêu cầu cấp thiết, quan trọng trong tiến trình cải cách Tư pháp. Trình tự thủ
tục giải quyết các vụ án hiện nay đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn, đây là những cơ
sở pháp lý để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa trong thời gian qua.
Tuy nhiên công tác tổ chức phiên tòa trong thời gian qua chưa thực sự đi vào chiều
sâu, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa chưa cao. Bên cạnh những nguyên nhân
như: Văn bản áp dụng luật đã được sửa đổi, bổ sung kịp thời song vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu của tiến trình cải cách; hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu,
chưa kịp thời… thì vấn đề quan trọng nhất đặt ra đó là công tác tổ chức cán bộ. Nếu
làm tốt công tác này, tất yếu chất lượng tổ chức phiên tòa và tranh tụng tại phiên tòa
sẽ đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả cao. Theo đánh giá, hiện tại số lượng các thẩm
phán của Toà án nhân dân trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh cũng như các thẩm phán
có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm vẫn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tiễn
đòi hỏi, điều này đã gây không ít khó khăn trong việc trao đổi, bàn bạc, thống nhất,
giải quyết các vụ án.
Thứ ba, nguyên nhân liên quan tới việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Tất cả các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm.
Đây là cấp xét xử không thể thiếu và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án. Thực tiễn cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm túc thì
bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó vụ án sẽ
không bị kéo dài. Hoặc nếu bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị để xét xử lại theo
thủ tục phúc thẩm thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và tiền của của Nhà
nước cũng như của những người tham gia tố tụng. Mặc dù chất lượng xét xử của
cấp sơ thẩm hiện nay đã được nâng lên rất nhiều xong vẫn chưa đáp ứng yêu cầu,
tình trạng án sơ thẩm bị sửa, hủy đang có xu hướng tăng. Nguyên nhân của tình
trạng này là do: Các vụ án ngày càng có chiều hướng gia tăng và phức tạp; trình độ,
năng lực, phẩm chất của người xét xử còn hạn chế; hệ thống pháp luật tố tụng còn
nhiều bất cập, chưa điều chỉnh kịp thời… Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng giải
63
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh cần có
phương hướng, lộ trình đúng đắn và kịp thời.
Thứ tư, là ý thức chấp hành pháp luật, trình độ hiểu biết của một số nguyên đơn
trong vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại chưa cao. Trong quá trình giải quyết cố ý
không chấp hành đầy đủ quy định pháp luật, yêu cầu cung cấp chứng cứ, luôn bảo thủ
vì muốn dành phần thắng, cá biệt còn có những trưởng hợp có ý gây khó khăn, sử dụng
(lý ông mèo) hoặc nhất quyết theo ý hiểu hay phong tục tập quán dân tộc mình.
Thứ năm, sau khi giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại một số Bản án,
Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật chưa được thi hành một cách nghiêm
túc, đúng pháp luật để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên giải
quyết tranh chấp là do còn có những tiêu cực nhất định trong tổ chức thi hành, quy
định trình tự thủ tục còn rườm rà, phức tạp. Bên cạnh đó là ý thức tự giác thi hành
của bên thua kiện không cao, còn có hiện tượng trốn tránh, tẩu tán tài sản …
64
Kết luận chương 2
Để làm rõ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh, chương này chương này đã làm nổi bật về hai vấn đề như sau:
Vấn đề thứ nhất là cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại
Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, theo đó làm nổi bật được
nội dung của pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại
Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành bao gồm về thẩm quyền xét
xử, các nguyên tắc xét xử của Tòa án và thời hiệu khởi kiện, thời hạn giải quyết
tranh chấp thương mại tại Tòa án, từ đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế
của pháp luật.
Vấn đề thứ hai là thực trạng công tác xét xử của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh từ năm 2016 đến nay. Vẫn còn nhiều những hạn chế và bất cập bởi những
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến có những sai lầm trong bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Có thể kể ra một số nguyên nhân như
là sự chồng chéo, không thống nhất của pháp luật, pháp luật chưa theo kịp được với
trình độ phát triển của xã hội, Thẩm phán hiểu và vận dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp thương mại vẫn còn có sự khác nhau…
Vì vậy, trong thời gian tới cần phải sửa đổi, bổ sung những quy định pháp
luật sao cho phù hợp với thực tiễn cả kinh tế, xã hội, nhanh chóng ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đặc biệt là hệ thống Án lệ mới
được đưa vào áp dụng để cho công tác xét xử ngày càng được hoàn thiện và nâng
cao chất lượng hơn.
65
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP SƠ THẨM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại của Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Kế thừa thành quả của thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, căn cứ Kết
luận số 84 của Bộ Chính trị về tổng kết Nghị quyết 49 trong đó xác định: nghiên
cứu, xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định
hướng đến năm 2045, trong đó có nội dung về cải cách tư pháp. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy thủ tục tố tụng ở Việt Nam nói chung và thủ tục giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại nói riêng hiện nay còn khá nhiều rườm rà và còn nhiều bất cập. Việc
cải cách liên tục trang quá trình thực hiện các nội dung tố tụng giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại bằng Tòa án là rất cần thiết.
Thứ hai, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác thương mại quốc tế với nhiều
quốc gia trên thế giới thông qua thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định thương
mại tự do song phương, đa phương và khu vực. Những cơ hội, tác động tích cực của
hội nhập là điều không thể phủ nhận, song cùng với đó là xu hướng ngày càng gia
tăng của các vụ tranh chấp thương mại quốc tế. Trong những năm gần đây, các văn
bản pháp luật Việt Nam điều chỉnh trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được chú trọng
tăng cường về chất lượng. Điều đó là do Việt Nam điều chỉnh để đáp ứng những
tiểu chuẩn cao hơn trong cam kết về hội nhập kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng đã chú trọng hơn việc tham gia các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực
pháp luật để thông qua đó cải cách pháp luật trong nước.
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại của Tòa án nhân dân
Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại là nhu cầu
cấp bách bắt đầu từ yêu cầu thực tế phải giải quyết khối lượng rất lớn công việc mà
66
tòa án phải đảm nhận. Hàng năm, số lượng án tranh chấp kinh tế, thương mại tại tòa
án đơn vị đều gia tăng rất nhanh tạo ra một khối lượng công việc khổng lồ cho các
thẩm phán. Đặc biệt trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án tranh chấp
kinh tế, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án tăng trung bình mỗi
năm đạt khoảng 15% làm cho công việc của các tòa án ngày càng quá tải. Có thể
nói yêu cầu cần cấp thiết phục vụ cho ngành tòa án là phải hoàn thiện khung pháp
luật tố tụng giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, rút ngắn thời gian giải quyết
án, đổi mới và nâng cao trình độ giải quyết án của thẩm phán sơ thẩm và chuyên
trách đồng thời cần hạn chế các nhược điểm còn tồn tại để phát huy các điểm mạnh
dần dần thu hút sự chú ý quan tâm hơn nữa của giới doanh nhân vào con đường giải
quyết tranh chấp bằng tòa án. Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống ngành tòa án văn
minh, hiện đại đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại là việc làm hết sức cần thiết. Trên cơ sở các số liệu thực tế về tình trạng
gia tăng hàng năm của loại án tranh chấp kinh tế, thương mại cho thấy số lượng án
loại này sẽ còn gia tăng hơn nữa trong giai đoạn sắp tới.
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại của Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm
Xu hướng đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới đã, đang và sẽ có
những tác động mạnh mẽ đến quan điểm và cơ chế giải quyết tranh chấp. Về mặt lý
luận, nhu cầu thống nhất và phù hợp của hệ thống pháp luật là yêu cầu tất yếu đặt
ra. Trong tình hình hiện nay, các tranh chấp kinh tế, thương mại trong xu thế khu
vực hoá và toàn cầu hoá là rất đa dạng, phức tạp, đòi hỏi hệ thống pháp luật của
chúng ta phải luôn được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện sao cho phù hợp với sự phát
triển của thực tiễn và phù hợp với những thông lệ, tập quán thương mại quốc tế.
Tranh chấp kinh tế, thương mại với xu hướng diễn ra thường xuyên, phổ biến và gia
tăng về số lượng cũng như tính chất phức tạp cùng với sự phát triển về quy mô,
nhịp độ, các loại, dạng hoạt động thương mại trong phạm vi địa bàn tỉnh cũng như
trong quốc gia và trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, giải quyết nhanh gọn,
có hiệu quả, hợp lý các tranh chấp kinh tế, thương mại càng trở nên cần thiết đối với
mục tiêu thúc đẩy hoạt động kinh tế, thương mại. Bởi lẽ, nếu chúng được giải quyết
nhanh gọn, hợp lý, có hiệu quả thì không những tạo điều kiện để hoạt động kinh tế,
67
thương mại diễn ra một cách suôn sẻ, không gặp ách tắc, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể kinh doanh được bảo đảm mà còn tạo ra môi trường tâm lý tốt cho các
thương nhân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, kinh doanh. Cội nguồn của của mọi
học thuyết, cơ sở của mọi lý luận chính là thực tiễn. Thực tiễn hoạt động pháp luật
nói chung và pháp luật tố tụng về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại nói
riêng đang đặt ra những yêu cầu cho việc tiếp tục hoàn thiện. Qua thực tiễn giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh xin có
Một số kiến nghị về hoàn thiện các quy định pháp luật sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung về pháp luật kinh tế, thương mại
Hiện nay, để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại,
Tòa án phải dựa vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành như Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 (sửa đổi 2017,
2019), Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Kinh doanh bất động sản 2014… Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện thì thấy các quy định của các văn bản Luật vẫn còn có
những mâu thuẫn nhau, các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa được đồng nhất,
nên khi áp dụng để giải quyết tranh chấp, Thẩm phán nhiều khi cảm thấy mơ hồ,
không biết áp dụng như thế nào cho hợp tình hợp lý, nhiều khi các thẩm phán còn
có những cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề của luật quy định. Do đó cần
phải thực hiện rà soát, hệ thống lại các quy định của pháp luật sao cho các văn bản
quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại được đồng bộ, có tính hệ
thống, tránh sự chồng chéo, trùng lặp giữa các quy định. Đồng thời cũng thể hiện sự
rõ ràng các quy định của pháp luật, tuy nhiên cần tránh tình trạng pháp luật quy
định chung chung, không rõ ràng.
Thứ hai, cần có quy định, hoặc hướng dẫn cụ thể về quy định tại khoản 1
Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định “tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh tế, thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau
và đều có mục đích lợi nhuận”, để đảm bảo phân định rõ đâu là tranh chấp kinh tế,
thương mại, đâu là tranh chấp dân sự. Mặt khác, pháp luật về thương mại vẫn còn
nhiều bất cập và hạn chế. Nhiều nội dung hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội
đồng Thẩm phán hay các Nghị định của Chính phủ... còn có mâu thuẫn với Luật
68
Thương mại. Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán của pháp luật dẫn đến một hậu
quả đương nhiên đó là Thẩm phán đưa ra những quyết định, bản án thiếu khách
quan, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Để việc áp
dụng pháp luật được đúng và hiệu quả, Tòa án nhân dân Tối cao cũng đã có những
giải đáp để hướng dẫn một cách cụ thể. Do đó, việc thống nhất giữa các quy định
trong văn bản Luật và các văn bản hướng dẫn của pháp luật kinh tế, thương mại là
điều hết sức cần thiết. Từ đó giúp cho việc giải quyết tranh chấp thương mại của
Tòa án được diễn ra một cách mau chóng, dễ dàng hơn. Tạo điều kiện cho Tòa án
có thể đưa ra được những bản án, quyết định hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật để
bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quá trình tham gia
giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, Cần những quy định mới về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại.
Từ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành như Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015, Luật Thương mại (sửa đổi 2017, 2019), Luật Doanh nghiệp 2014, Nghị
quyết số 02/2016/NQ-HĐTP của Hộ đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có
thể thấy rằng những văn bản này không quy định thế nào là tranh chấp kinh tế,
thương mại mà chỉ liệt kê một số trường hợp (được liệt kê tại Điều 30 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015) mà không quy định hết các trường hợp mà Tòa án có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Do đó cần phải có một khái niệm chính
xác nhất về tranh chấp và giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Có như vậy thì
khi xác định loại hình tranh chấp mới dễ dàng và bao trùm được toàn bộ nội hàm
của tranh chấp, giải quyết tranh chấp thương mại. Cách liệt kê các trường hợp tranh
chấp theo quy định của pháp luật hiện nay thì vẫn còn hạn chế, chưa bao trùm được
hết các loại tranh chấp thương mại. Đồng thời vẫn còn có những quy định chồng
chéo và mâu thuẫn với nhau như đã nói ở trên.
Hiện nay, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án vẫn
chưa có quy định về trường hợp chỉ một bên có đăng ký kinh doanh và nhằm mục
đích lợi nhuận còn bên kia thì không, hoặc là các bên không đăng ký kinh doanh và
không nhằm mục đích sinh lợi nhưng khi giao kết Hợp đồng thì các bên căn cứ vào
Luật Thương mại để thỏa thuận, như vậy, khi xẩy ra tranh chấp, việc xác định loại
69
tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự hay kinh tế, thương mại đối với Thẩm phán là
tương đối khó khăn. Thiết nghĩ cần phải có những quy định này để có thể phân định
loại hình tranh chấp được rạch ròi và dễ dàng hơn.
Thứ tư, hoàn thiện công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án Sau khi
giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật cần phải được thi hành một cách nghiêm túc, đúng pháp luật để đảm
bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên giải quyết tranh chấp. Vì vậy, cần
phải hoàn thiện công tác tổ chức của cơ quan thi hành án để bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp thương mại được thi
hành một cách đầy đủ, nhanh chóng, nghiêm minh và đúng pháp luật.
Thứ năm, hoàn thiện về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý sao cho hoạt động kinh
tế, thương mại trên cả nước nói chung và trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng
được đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế của cả nước và của riêng địa phương
trong xu thế phát triển và hội nhập sâu rộng như hiện nay. Quy định rõ hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi là gì, các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác là thế nào
thì đến nay chưa có một văn bản nào quy định và hướng dẫn về vấn đề này. Do đó
cần phải đổi mới pháp luật, đổi mới tư duy lập pháp là hết sức cần thiết. Cần hoàn
thiện pháp luật hình thức quy định về trình tự, thủ thục giải quyết tranh chấp kinh
tế, thương mại theo hướng gọn nhẹ, tránh rườm rà nhưng phải mang lại hiệu quả
cao trong công tác giải quyết tranh chấp. Đảm bảo được hiệu lực thi hành các thỏa
thuận, cam kết của các bên tranh chấp. Cần phải đổi mới pháp luật hơn nữa để có
thể tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử của Tòa án nói chung và tại Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh nói riêng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Mặt khác,
quy định tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các bên giải quyết tranh chấp. Tăng
cường khả năng giám sát của Đảng, Nhà nước thông qua hệ thống Nghị quyết của
Đảng, pháp luật của nhà nước, xây dựng các tiêu chuẩn, chuẩn mực phục vụ cho
hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại.
Cần ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật tố tụng dân sự
2015 về lĩnh vực kinh tế, thương mại. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 mới có hiệu lực thi
hành từ 01/7/2016, đến nay đã được hơn 2 năm áp dụng, tuy nhiên văn bản hướng dẫn
thi hành áp dụng bộ luật này còn rất ít, do đó gây khó khăn, cản trở cho việc giải quyết
70
tranh chấp dẫn tới kéo dài thời gian giải quyết. Vì thế, cần phải ban hành kịp thời các
văn bản hướng dẫn chi tiết của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhằm đáp ứng cho công
tác xét xử nói chung và trong lĩnh vực kinh tế, thương mại nói riêng.
Việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng Tòa án phải tuân theo
một trình tự, thủ tục tố tụng nghiêm ngặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
nên các bên giải quyết tranh chấp có thể cảm thấy gò bó hơn so với việc giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài thương mại. Vì vậy, khi xây dựng cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại tại Tòa án nhân dân các huyện, Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh
cần phải “nới lỏng” trình tự thủ tục tuy nhiên vẫn phải đảm bảo theo quy định của
pháp luật với các hướng như sau: tổ chức phiên Tòa theo hướng thân thiện và điều
hành phần tranh tụng một cách thỏa mái nhất cho các bên đang tranh chấp, nhằm
hạn chế sự căng thẳng, xung đột giữa các bên, đảm bảo bí mật nghề nghiệp, bí mật
kinh doanh. Khi các bên tranh chấp yêu cầu và Tòa án xét thấy hợp lý, đúng pháp
luật thì Tòa án có thể hạn chế số người tham dự phiên Tòa, nhất là các đối tượng có
cùng ngành nghề hoạt động thương mại.
Thứ sáu, việc cung cấp chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết án
kinh tế, thương mại còn chưa đầy đủ, các đương sự ở xa, nhiều khi triệu tập cố tình
không đến dẫn đến giải quyết gặp khó khăn; không thực hiện đầy đủ các thủ tục do
pháp luật quy định về nghĩa vụ tự chứng minh nhưng chưa có quy định cụ thể về
chế tài xử lý các trường hợp này. Vì vậy cần có quy định biện pháp, mức độ xử lý
để hạn chế thấp nhất các vi phạm trên.
Thứ bảy, đối với thời hạn tố tụng, cần phải sửa đổi bổ sung sao cho kéo dài
thời hạn chuẩn bị xét xử hơn nữa. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thời hạn
chuẩn bị xét xử tối đa là 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, thiết nghĩ cần phải kéo
dài thời hạn này hơn nữa, và kéo dài thêm 01 tháng với tổng số là 04 tháng.
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại của Tóa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thông qua
hoạt động xét xử sơ thẩm
Qua thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh không tránh khỏi những tồn tại, những tồn tại đều xuất phát từ các
nguyên nhân được nêu trên do đó cần có những giải pháp khắc phục tồn tại thực
hiện tốt iải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh đó là:
71
Thứ nhất, tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật
Trên cơ sở tính chất của chủ thể tiến hành giải thích, giải thích pháp luật
được phân loại thành giải thích của cơ quan lập pháp (Quốc hội); giải thích của cơ
quan hành pháp (Chính phủ); giải thích của cơ quan tư pháp (Tòa án) và giải thích
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác như: giải thích của các Luật sư, Thẩm phán, Nhà
khoa học.... Giải thích pháp luật với nhiệm vụ làm sáng tỏ hơn các quy phạm pháp
luật, kết quả của việc giải thích pháp luật có giá trị như pháp luật, nên nó rất cần
thiết và có vai trò vô cùng quan trọng trong nhận thức - thực thi - áp dụng pháp luật.
Có thể khẳng định rằng, giải thích pháp luật là một nhu cầu tất yếu khách quan đối
với mọi xã hội và mọi hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, về lý thuyết, nhu cầu này chỉ
không phát sinh khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn thiện tuyệt đối và
nhận thức pháp luật của người dân ở trình độ cao. Tuy nhiên, pháp luật là một yếu
tố của kiến trúc thượng tầng, nó được xây dựng trên nền tảng là cơ sở hạ tầng và để
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống thực tế.
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn của việc giải thích pháp luật và định hướng,
quan điểm hoàn thiện nêu trên, việc giải thích pháp luật cần có sự phân định về
thẩm quyền giữa các chủ thể trong việc giải thích pháp luật theo hướng trao một
phần thẩm quyền giải thích pháp luật cho hệ thống Tòa án. Bởi vì, tư pháp (theo
nghĩa hẹp là hệ thống Tòa án) là việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và
các vụ kiện tụng trong nhân dân. Tòa án là các cơ quan xét xử có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Mục đích cơ bản của cơ quan tư
pháp là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên (cả Nhà nước và công dân).
Nguyên tắc hoạt động là khách quan và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy, nếu Tòa án giải thích pháp luật sẽ bảo
đảm tính khách quan hơn. Thêm vào đó, thực tế cho thấy, đa số các nhu cầu giải
thích đều phát sinh và gắn liền hữu cơ với một vụ việc cụ thể. Nói cách khác, đa
số giải thích pháp luật đều là giải thích vụ việc và gắn với việc giải quyết một
72
tranh chấp nhất định và theo phân công quyền lực Nhà nước thì chính Tòa án là
cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này.
Về phạm vi thẩm quyền của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý của nội dung
giải thích: tất nhiên, khi chúng ta đã trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án
tức là đồng nghĩa với việc chúng ta phải công nhận hình thức giải thích chính thức
mang tính vụ việc bên cạnh hình thức giải thích chính thức mang tính quy phạm
hiện nay của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội. Đây cũng chính là một trong các căn cứ
để xác định phạm vi thẩm quyền giải thích của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý
của nội dung giải thích. Tức là, trong quá trình Tòa án giải quyết một vụ việc cụ thể
thuộc thẩm quyền mà phát sinh nhu cầu giải thích pháp luật để áp dụng thì Thẩm
phán được giao xét xử vụ việc đó giải thích. Các nội dung giải thích phải được ghi
trong các văn bản có liên quan, đặc biệt nội dung giải thích chính thức phải được
thể hiện trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó. Giá trị pháp lý của nội dung
giải thích chính là giá trị pháp lý của quyết định, bản án được tuyên.
Nhìn chung, ở các quốc gia trên thế giới theo truyền thống thông luật hay
truyền thống luật dân sự, việc giải thích pháp luật đều được trao cho Tòa án. Thông
thường, các Thẩm phán giải thích pháp luật thông qua những vụ việc cụ thể được
giải quyết tại Tòa án. Giải thích pháp luật là nghĩa vụ, là một phần công việc hàng
ngày của Thẩm phán ở các quốc gia này.
Việt Nam là một quốc gia theo truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, Tòa
án không được trao cho quyền giải thích pháp luật. Do đó, quyền này được trao
UBTVQH (tại khoản 2 Điều 74 Hiến pháp). TAND tối cao chỉ có quyền đề nghị
UBTVQH giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (tại khoản 1 Điều 159 Luật Ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2020). Như
vậy, các Thẩm phán Việt Nam không có quyền giải thích pháp luật.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, do ngôn từ của các quy định của pháp luật là
quá chung chung, nên Thẩm phán không thể không giải thích pháp luật khi áp dụng
vào các vụ việc cụ thể. Và với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 về việc áp dụng án lệ tại Tòa án, thì Thẩm phán cần phải diễn giải pháp luật
khi xét xử các vụ án. Như vậy, cũng như Thẩm phán của các quốc gia trên thế giới,
73
Thẩm phán Việt Nam có nghĩa vụ phải giải thích pháp luật trong hoạt động xét xử
của mình.
Cần phải nói thêm rằng, việc giải thích pháp luật của Thẩm phán (Tòa án)
hoàn toàn khác về tính chất với giải thích pháp luật của UBTVQH. Nếu giải thích
pháp luật của UBTVQH là có tính bắt buộc chung thì giải thích pháp luật của Thẩm
phán (Tòa án) chỉ có hiệu lực đối với vụ án cụ thể mà Thẩm phán xét xử và chỉ
được áp dụng cho những vụ án tương tự xảy ra trong tương lai nếu đó là án lệ.
Nhưng trong thời gian tới, Quốc hội phải là chủ thể đảm nhận thẩm quyền
này thay vì ủy quyền cho Ủy Ban Thường vụ Quốc hội. Quốc hội phải bằng việc
ban hành nghị quyết để giải thích các quy định của luật trên cơ sở đề nghị giải thích
luật của các chủ thể đã được quy định. Phạm vi giải thích pháp luật của Quốc hội
còn lại chủ yếu là liên quan đến các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước
và các quy định về thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước (các quy phạm pháp luật
thuộc luật công). Tuy nhiên, cũng nhấn mạnh nên thừa nhận án lệ ở mức độ đủ để
bù đắp sự xơ cứng, thiếu tính cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật, đủ để Tòa án
có thể có đủ thẩm quyền bảo vệ lợi ích của công dân tốt hơn trước các quy phạm đa
nghĩa, không rõ nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, khi trao cho Tòa án
quyền được giải thích luật cũng phải đề ra những yêu cầu cụ thể như: chỉ áp dụng
việc giải thích cho những vấn đề mà luật không rõ ràng, khó hiểu hoặc do nhiều
cách hiểu khác nhau; giải thích pháp luật là để áp dụng cho những trường hợp cụ
thể trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án; giải thích pháp luật phải trên
phương diện công bằng, bình đẳng bảo đảm cho công lý được bảo vệ.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại
Một trong những giải pháp nâng cao công tác xét xử, đảm bảo an ninh trật tự
xã hội đó là chú trọng và tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong
cán bộ, công chức và nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau như: tăng cường
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng nhiều hình thức phong
phú, đa đạng; cung cấp những văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành cho tất cả
cán bộ trong ngành, giới thiệu văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật
74
có liên quan; phát hành các tạp chí tìm hiểu, hỏi đáp pháp luật miễn phí cho người
dân khi đến Tòa án; tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua chi đoàn thanh niên,
đội ngũ cán bộ cũng đã góp phần chuyển tải một số quy định của pháp luật đến với
người dân một cách nhanh nhất. Đặc biệt là cần có sự kết hợp tuyên truyền pháp
luật gắn liền với sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng sẽ đem lại hiệu quả thiết
thực, thu hút được nhiều đối tượng tham gia…
Trong tình hình hiện nay, số lượng án các loại trong đó có án kinh tế, thương
mại có chiều hướng gia tăng. Để Toà án các cấp giải quyết, xét xử nhanh và đúng quy
định của pháp luật thì cần thực hiện tốt các giải pháp trên nhằm hạn chế những vướng
mắc trong quá trình giải quyết án kinh tế, thương mại, góp phần nâng cao hơn nữa công
tác giải quyết, xét xử án kinh tế, thương mại của ngành Toà án nhân dân.
Để khắc phục những khó khăn trên, TAND hai cấp của TP. Hồ Chí Minh cần
thực hiện tốt các giải pháp trọng tâm của TAND tối cao đề ra như: (1) tăng cường
công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật; (2) nâng cao chất lượng bản án,
quyết định của Tòa án; (3) công khai các bản án, quyết định của Tòa án trên cổng
thông tin điện tử Tòa án nhân dân; (4) tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm; (5)
tăng cường công tác hòa giải và đối thoại; (6) phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan trong quá trình giải quyết các loại án.
Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo cán bộ giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh vẫn còn một số bất cập như Thẩm phán cũng vẫn còn
một số tồn tại như chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ nên không thể đánh giá được một cách
chính xác, khách quan vụ tranh chấp, kiến thức pháp luật chưa vững, áp dụng luật
chưa chính xác, chủ yếu chỉ dùng đến các văn bản Luật mà không xem đến các văn
bản dưới Luật dẫn đến đường lối xử lý chưa đúng đắn. Cũng đã có vụ án, Thẩm
phán xác định sai tư cách của người tham gia tố tụng. ngoài ra còn có hiện tượng
xem xét vượt quá yêu cầu khởi kiện của các đương sự, xác định lỗi và chế tài phạt
vi phạm hợp đồng không đúng quy định. Với số lượng vụ án về việc giải quyết
tranh chấp thương mại ngày càng tăng và tính chất vụ án ngày càng phức tạp như
75
hiện nay, ngoài việc mỗi cán bộ cần phải tự học, trao đổi kiến thức thì việc đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ giải quyết tranh chấp thương mại là việc hết sức cấp
bách và cần thiết. bên cạnh đó cần phải tổ chức nhiều hội nghị, kể cả hội nghị trực
tuyến, cũng như mở rông đối tượng tập huấn. Tổ chức hội thảo chuyên đề pháp luật
hàng quý, hàng năm để thông qua đó trao đổi, rút kinh nghiệm qua thực tiễn hoạt
động xét xử của bản thân, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị sửa đổi bổ sung
về pháp luật sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất cho hoạt động xét xử.
Thứ tư, nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của
Tòa án, trong đó chú trọng đến việc nâng cao năng lực, kỹ năng và trình độ của
thẩm phán, hội thẩm nhân dân.
(1) Đối với Thẩm phán
Thẩm phán là chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức
Tòa án. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử, vì thế số lượng, chất
lượng của đội ngũ Thẩm phán là yếu tố quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết
các vụ án tranh chấp thương mại. Pháp luật cần quy định cụ thể hơn nữa về tính
chuyên nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng
lực chuyên môn, đạo đức, nghiệp vụ xét xử… để xây dựng đội ngũ Thẩm phán
chuyên nghiệp.
Đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của Thẩm phán về lĩnh
vực giải quyết tranh chấp thương mại là yếu tố quan trọng mang tính tiên quyết đề
nâng cao hiệu quả trong hoạt động xét xử. Địa vị và chất lượng xét xử của Thẩm
phán chỉ được nâng cao khi đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Việc xét xử của tòa án phải dựa trên cơ sở của pháp luật mới đảm bảo
được tính vô tư, khách quan và không bị phụ thuộc vào bất kỳ ý chí chủ quan nào.
Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả xét
xử cũng như địa vị của Thẩm phán. Đối với Thẩm phán tòa chuyên trách, phải có
năng lực trình độ chuyên môn kinh nghiệm, trải qua quá trình công tác xét xử trong
việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, cần phải được tập huấn bồi dưỡng
thường xuyên, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại.
Đây chính là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng Thẩm phán trong việc giải
76
quyết các tranh chấp thương mại. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp trong lĩnh
vực kinh tế, thương mại bằng Tòa án nói chung và thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh nói riêng, luôn cần đến sự hiểu biết, công tâm của những người tiến
hành tố tụng. Trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp là điều mà các
cán bộ Tòa án luôn luôn phải phấn đấu và không ngừng hoàn thiện bản thân. Vì vậy
công tác đào tạo cán bộ của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh cần phải được chú
trọng nhiều hơn nữa, đặc biệt là kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại, cụ thể cần
có những kỹ năng như sau như sau:
Kỹ năng đọc và kiểm tra hồ sơ vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại
Đọc tên tiêu đề, mục lục của tài liệu để bước đầu nắm bắt được nội dung của
vụ việc. Đối với những tài liệu liên quan đến những dự án lớn có nhiều nội dung
cần đọc phần mục lục để nắm được bố cục của hồ sơ, tài liệu đó. Bên cạnh đó, việc
quan trọng nhất là việc kiểm tra hồ sơ, tài liệu của vụ án đó, bao gồm: kiểm tra hồ
sơ khởi kiện vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại; kiểm tra các điều kiện thụ lý vụ
án. Trước hết, Thẩm phán phải xem xét tư cách pháp lý của người khởi kiện,
thường đó sẽ là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, cũng có nhiều trường hợp
đó chỉ là các đơn vị phụ thuộc của pháp nhân và không có tư cách chủ thể pháp lý
độc lập, trong trường hợp này thì pháp nhân có đơn vị phụ thuộc sẽ thực hiện quyền
khởi kiện. Ngoài ra, Thẩm phán cũng cần xem xét người khởi kiện có tư cách khởi
kiện hay không và xác định người khởi kiện có bị mất quyền khởi kiện hay không.
Cuối cùng, để xác định tranh chấp kinh tế, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án hay không, Thẩm phán phải vận dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Kỹ năng sắp xếp hồ sơ, tài liệu
Đối với những vụ án kinh tế nói chung, hồ sơ thường có nhiều bút lục vì án
kinh tế thường phức tạp về chứng cứ và các tài liệu liên quan. Do vậy, để có thể dễ
dàng chủ động trong việc tra cứu tài liệu tại phiên tòa, Thẩm phán cần sắp xếp hồ sơ
theo các phương thức hợp lí:
- Sắp xếp theo trật tự thời gian: sắp xếp theo trình tự thời gian của tiến trình
giải quyết vụ việc từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra
77
xét xử. Bằng cách này, Thẩm phán có thể nhanh chóng tìm các bút lục cần thiết tại
phiên tòa bằng cách ghi chép danh mục các tài liệu cần dùng, số bút lục của tài liệu
hoặc dùng các phiếu nhỏ đánh dấu để ghi nhớ các trang, các nội dung quan trọng.
- Sắp xếp theo chủ đề: có thể sắp xếp theo tập chủ đề, ví dụ như tập chứng cứ
về tố tụng, chứng cứ về nội dung; tập tài liệu về tư cách chủ thể (gồm quyết định
thành lập, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, quyết định bổ nhiệm, giấy ủy
quyền,…); tập tài liệu về hợp đồng (hợp đồng, phụ lục hợp đồng, giấy ủy quyền kí
hợp đồng, hóa đơn, chứng từ, biên bản…)
- Sắp xếp hồ sơ theo nguồn hình thành từ các chủ thể khác nhau trong hoạt
động tố tụng, ví dụ: tập tài liệu theo nguyên đơn cung cấp, tài liệu do bị đơn cung
cấp, tài liệu do các cơ quan khác cung cấp,…
Kỹ năng hỏi trong vụ án tranh chấp thương mại tại tòa án:
Thẩm phán có thể hỏi lần lượt từng đương sự về từng vấn đề, đây là cách hỏi
phù hợp với quy định tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhưng lại khó khăn
cho Thẩm phán trong việc chốt lại vấn đề. Thẩm phán cũng có thể hỏi các đương sự
về từng vấn đề một, cách này sẽ giúp Thẩm phán dễ dàng làm rõ từng vấn đề. Dù
với cách hỏi nào, các câu hỏi của Thẩm phán cũng cần rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu và đi
thẳng vào vấn đề đang cần làm rõ.
Kỹ năng viết bản án trong vụ án giải quyết tranh chấp thương mại:
Thẩm phán cần lưu ý trong phần mở đầu, khi trích yếu các vụ án tranh chấp
thương mại cần ghi đúng tên quan hệ pháp luật tranh chấp theo quy định tại Điều 30
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, chứ không ghi theo nội dung tranh chấp. Ví dụ, hai
bên tranh chấp về quyền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa, phần trích
yếu sẽ ghi là “tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” chứ không ghi là “tranh
chấp về việc yêu cầu thanh toán”.
Tóm lại, trong các kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại nêu trên thì kỹ
năng đọc và kiểm tra hồ sơ và kỹ năng viết bản án trong vụ án giải quyết tranh chấp
thương mại là quan trọng nhất.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử thì đạo đức nghề nghiệp của
Thẩm phán cần được chú trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp
thương mại. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi người Thẩm phán tự có trách nhiệm tự
hoàn thiện mình, luôn hướng tới chân, thiện, mĩ; thấu hiểu được hoàn cảnh của các
78
đương sự, những người liên quan trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh tế, thương
mại. Việc tự rèn luyện để nâng cao đạo đức, nghề nghiệp của người Thẩm phán
phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình công tác.
Xuất phát từ công việc hàng ngày, thông qua các mối quan hệ xã hội, quan hệ với
đồng nghiệp, với các đương sự, thông qua các phiên tòa xét xử giúp cho người
Thẩm phán nhìn nhận, đánh giá lại năng lực của chính mình trong việc giải quyết
các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, nêu cao tinh thần, tự giác, ý thức
trong công việc, chấp hành nghiêm túc pháp luật. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp
cho thẩm phán là việc làm thường xuyên mà trước hết là thuộc về trách nhiệm của
mỗi Thẩm phán và của cả hệ thống chính trị và sự giúp đỡ, giám sát của nhân dân.
(2) Đối với Hội thẩm nhân dân
Các hội thẩm nhân dân đa số là cán bộ chủ chốt hoặc đại diện các ban,
ngành, đoàn thể ở cấp huyện đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Phần
lớn các hội thẩm nhân dân đều có trình độ cử nhân Luật hoặc cử nhân kinh tế và đã
được Tòa án nhân dân tập huấn về công tác nghiệp vụ xét xử, công tác hội thẩm. Để
hội thẩm nhân dân ngày càng lớn mạnh, có chuyên môn về thương mại thì cần phải
được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, cập nhật những kiến thức, kỹ năng về việc xét
xử tranh chấp kinh tế, thương mại.
Thứ năm, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm đối với tập thể, cá nhân cán bộ, công chức trong Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh có hành vi lợi dụng chức vụ, nghề nghiệp, quyền hạn trong thi hành công vụ để
nhũng nhiễu nhân dân, hạch sách nhân dân, ăn hối lộ, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
móc ngoặc để trục lợi cũng như các biểu hiện vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, quy tắc ứng xử trong ngành Tòa án. Kiên quyết loại ra khỏi ngành những cán
bộ, công chức vi phạm pháp luật, đạo đức và quy chế nghề nghiệp.
Thứ sáu, việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản chung phải đúng quy định,
đúng mục đích, đúng chế độ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch. Thực hiện
kịp thời các chính sách của nhà nước đối với cán bộ công chức Tòa án nhân dân nói
chung và tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nói riêng. Cần phải xây dựng hoàn
chỉnh hơn nữa về kế hoạch điều hành tiết kiệm trong các khoản chi tài chính trong
kinh phí từ Ngân sách nhà nước, thực hiện tự chủ để chi thu sao cho hợp lý đối với
kinh tế của địa phương.
79
Cần phải có các kế hoạch khen thưởng cho các cá nhân hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao hàng năm, như vậy thì mới có thể khuyến khích được các cá
nhân có nhiều thành tích đóng góp cho nền Tư pháp nước nhà. Mặt khác cũng cần
phải kiểm điểm thật nghiêm đối với những cá nhân chưa thực sự cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ của mình được giao nhằm lấy đó làm gương và rút kinh nghiệm
đối với những cá nhân khác.
Kết kuận chương 3
Trong công tác xét xử của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh thời gian qua
cũng đã đạt được những thành tích đáng kể, tuy nhiên cũng vẫn còn tồn tại không ít
những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp thương mại. Vì vậy, ở
chương này, em có một số kiến nghị như hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại; nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết tranh chấp của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… và một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh như cần phải đề nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật sao cho
phù hợp với thực tiễn xét xử, nâng cao trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm… đặc biệt là
kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại của những người tham gia tố tụng. ngoài ra
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các chủ thể tham gia hoạt động thương
mại là hết sức quan trọng, với mục đích nhằm tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra
không nên có trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
80
KẾT LUẬN
Cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta
cũng đang có sự chuyển biến rõ nét và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều quan
hệ kinh tế mới được hình thành, các doanh nghiệp được thành lập ngày càng nhiều,
đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, sự cạnh tranh nhằm
chiếm lĩnh thị phần cũng ngày càng gay gắt và phức tạp, từ đó các tranh chấp xảy ra
trong lĩnh vực kinh tế, thương mại ngày càng tăng về số lượng và tính chất ngày
càng phức tạp của nó. Do đó, đòi hỏi phải có phải có một hành lang pháp lý hoàn
thiện để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xã hội. Đảng, Nhà nước cần chú trọng hơn
nữa trong việc thay đổi tư duy lập pháp, cải cách hệ thống pháp luật một cách thống
nhất và toàn diện hơn nữa trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại nói
chung và tại Tòa án nói riêng để có thể áp dụng một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
Chính vì thế, cần phải có các công trình nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận về giải
quyết tranh chấp kinh tế, thương mại và pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Trong
khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, em đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Từ đó có
thể thấy rằng, giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng phương thức Tòa án
đang là phương thức thông dụng và phổ biết nhất và cũng là sự lựa chọn cuối cùng
của các bên. Vì vậy việc đảm bảo hiệu quả chất lượng áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng con đường Tòa án thì cần phải có sự
hoàn thiện của pháp luật và cũng như trình độ, đạo đức của Thẩm phán và cũng như
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc nâng cao trình độ thẩm phán để
giải quyết các vụ án tranh chấp kinh tế, thương mại đã phần nào đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như tính công bằng,
hiệu quả, nhanh chóng và đảm bảo quyền quyết định của các bên tham gia tranh
chấp trên địa bàn thành phố.
Qua quãng thời gian hoạt động, việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại bằng Tòa án trên địa bàn thành phố đã đạt được những hiệu
quản nhất định. Các vụ án tranh chấp trong kinh tế, thương mại được Tòa án nhân
81
dân TP. Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết kịp thời, nhanh chóng, có hiệu quả và đúng
pháp luật. Bước đầu đã tạo được và cũng cố niềm tin đối với các thương nhân,
doanh nghiệp và những cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân khi tham gia
vào hoạt động thương mại. Những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh đưa ra sớm được thực thi trong cuộc sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia tranh chấp, góp phần duy trì thực hiện pháp luật trong
đời sống sản xuất, kinh tế, thương mại và đảm bảo tính pháp chế trong các hoạt
động kinh tế, thương mại tại TP. Hồ Chí Minh.
Việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân cũng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc nhận thức và tuân thủ pháp luật. Để làm được điều đó thì công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là bước đầu tiên của quá trình thi hành
pháp luật và có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng. trong những năm vừa qua, Tòa
án nhân dân TP. Hồ Chí Minh cũng đã đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của mình. Đây là một sự cố gắng không
ngừng của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nhằm đem khẩu hiệu “sống, làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật” vào đời sống của người dân ngày càng tốt hơn nữa.
Nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn giải quyết tranh chấp, đòi hỏi của các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ kinh tế, thương mại cũng như công cuộc cải cách tư
pháp ở nước ta nói chung và phạm vi trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng cần
phải có những đổi mới nhất định, trong chương 3 của Luận văn, em đã đề xuất một
số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Mong rằng
những đề xuất đó sẽ góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao năng lực hoạt động
trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp trong kinh tế, thương mại của Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới, tạo điều kiện để xây dựng một nhà nước Việt
Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”.
82
81