ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

ANH THẮN

N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ N O TRON

QU T TRANH H P N SỰ U T NƢ N O

T T A N V ỆT NAM

LUẬN VĂN TH S LUẬT HỌ

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

ANH THẮN

N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ N O TRON

QU T TRANH H P N SỰ U T NƢ N O

T T A N V ỆT NAM

Chuyên ngành: Luật biển và quản lý biển

Mã số: 8380101.08

LUẬN VĂN TH S LUẬT HỌ

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS N u ễn N ƣ Hà

Hà Nội – 2020

LỜ AM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học

của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm

bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn

học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa

Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật xem xét đề

nghị để tôi có thể bảo vệ luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

i An T ắn

i

`M L

LỜ AM ĐOAN ..................................................................................... i

M L ................................................................................................ ii

ANH M HỮ V T TẮT .................................................... v

ANH M N , HÌNH ................................................................... vi

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

ƣơn 1 LÝ LUẬN VỀ N H A V HỨN M NH PH P LUẬT

NƢ N O ỦA T A N TRON QU T TRANH

H P N SỰ U T NƢ N O ................................... 12

1.1 Một số lý luận cơ bản về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tranh chấp

dân sự có yếu tố nước ngoài ..................................................................... 12

1.1.1 Tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài ........................................ 12

1.1.2 Áp dụng pháp luật nước ngoài ........................................................ 13

1.2 Nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam .. 31

1.2.1 Yêu cầu chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam . 31

1.2.2 Thực hiện nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án

Việt Nam .................................................................................................. 34

1.2.3 Thực hiện nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của đương sự

................................................................................................................... 35

1.3 Vai trò của ủy thác tư pháp đối với hoạt động chứng minh pháp luật

nước ngoài ............................................................................................... 36

1.3.1 Tình hình hoạt động ủy thác tư pháp .............................................. 36

ii

1.3.2 Tương trợ tư pháp với hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài 39

T ỂU K T HƢƠN 1 ........................................................................ 44

ƣơn 2 THỰ T ỄN PH P LUẬT V ỆT NAM VỀ N H A V

HỨN M NH PH P LUẬT NƢ N O ỦA T A N TRON

QU T TRANH H P N SỰ U T NƢ N O

................................................................................................................... 46

2.1 Thực tiễn pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước

ngoài của Tòa án Việt Nam ...................................................................... 46

2.1.1 Hạn chế trong quy định chung về tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài . 46

2.1.2 Hạn chế trong quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài ............. 49

2.1.3 Hạn chế trong quy định về nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài

của Tòa án Việt Nam ................................................................................ 50

2.2 Một số kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động chứng minh nội dung pháp

luật để giải quyết xung đột pháp luật ....................................................... 54

T ỂU K T HƢƠN 2 ........................................................................ 61

ƣơn 3 ĐỀ XU T HO N TH ỆN PH P LUẬT V P N

PH P LUẬT VỀ N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ

N O ỦA T A N V ỆT NAM ..................................................... 62

3.1 Những nguyên tắc cơ bản cần đảm bảo ............................................. 62

3.2 Những đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan ................................... 64

3.2.1 Các quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền chứng minh pháp luật .. 64

3.2.2 Các quy định về nội dung chứng minh ........................................... 66

3.3 Những đề xuất hoàn thiện áp dụng pháp luật tại hệ thống Tòa án .... 68

iii

3.3.1 Thống nhất nghiệp vụ trong giải quyết án ...................................... 68

3.3.2 Phối hợp các cơ quan tư pháp, ngoại giao các nước trong thực thi

nghĩa vụ chứng minh nội dung pháp luật ................................................. 69

T ỂU K T HƢƠN 3 ........................................................................ 72

K T LUẬN ............................................................................................. 74

T L ỆU THAM KH O ..................................................................... 77

iv

ANH M HỮ V T TẮT

Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC

Bộ luật dân sự BLDS

Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS

Tòa án nhân dân tối cao TANDTC

Tương trợ tư pháp TTTP

Ủy thác tư pháp UTTP

Công ước LaHay năm 1965 về tống đạt ra ôn ƣớc tốn đạt giấ tờ

nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư

pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương

mại

v

ANH M N , HÌNH

Bảng 1.1. Số lượng yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài và kết quả thực

hiện yêu cầu ủy thác tư pháp của Tòa án Việt Nam giai đoạn 2013-2018 .. 37

Bảng số 1.2. Số lượng yêu cầu ủy thác tư pháp của nước ngoài cho Việt

Nam và kết quả thực hiện yêu cầu giai đoạn 2013-2018 ......................... 38

Hình 1.3. Quy trình thực hiện yêu cầu tống đạt giấy tờ của nước ngoài theo

Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG ngày 19/10/2016 của Bộ

Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao về quy trình, thủ tục

tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự ................................................... 41

Hình 2.1. Giải pháp ELI đang được triển khai tại EU ............................. 57

Hình 2.2. Giải pháp ECLI đang được triển khai tại EU ........................... 58

Hình 3.1. Quy trình UTTP ra theo kênh chính (căn cứ Điều 2 đến Điều 7

Công ước tống đạt giấy tờ) ....................................................................... 65

vi

MỞ ĐẦU

1. Tín cấp t iết của đề tài

Thế giới hiện đại đòi hỏi sự mở rộng của các quan hệ pháp lý giữa

các chủ thể không phân biệt quốc tịch, vị trí địa lý và các khác biệt truyền

thống. Tính đa dạng cao về kinh tế - chính trị, văn hóa và sắc tộc được phản

ánh rõ nét trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Luật Quốc tế ghi nhận sự

gia tăng các xung đột pháp luật – một hiện tượng pháp lý tất yếu khi giữa

hai hay nhiều hệ thống pháp luật tồn tại những khác biệt khi cùng tham gia

điều chỉnh một quan hệ pháp luật.

Như một trong các quy luật cơ bản của phép duy vật biện chứng về

“sự đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo động lực cho sự vận động và phát

triển”, sự tồn tại những xung đột pháp luật trong đời sống tư pháp quốc tế

đòi hỏi sự ra đời của các quy phạm giải quyết xung đột và đồng thời hình

thành yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài của các cơ quan tài phán quốc

gia. Điều này có lẽ không mâu thuẫn và hợp lý khi ranh giới lãnh thổ và

pháp luật giữa các quốc gia không còn là trở ngại cho các quan hệ pháp luật

tư pháp quốc tế từ: đầu tư – kinh doanh; hôn nhân gia đình; bảo vệ người

tiêu dùng; sở hữu trí tuệ…, thì những khó khăn trong quá trình áp dụng

pháp luật nước ngoài cũng như bảo lưu những giá trị pháp luật quốc gia là

những nguyên nhân cơ bản khiến đa phần các quốc gia (trong đó có Việt

Nam) ngần ngại trong áp dụng luật nước ngoài cho quá trình xét xử của cơ

quan tòa án quốc gia.

Năm 2015 ghi dấu sự thay đổi đáng kể trong các quy định tư pháp

quốc tế Việt Nam khi cùng lúc Quốc hội khóa XIII thông qua hai văn kiện

quan trọng là Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 (BLDS năm 2015) và Bộ

1

luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 (BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên,

thực tiễn xét xử tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài sau thời điểm hai

bộ luật này có hiệu lực cho thấy các quy định mặc dù đã được bổ sung, cập

nhật để phù hợp xu hướng thế giới nhưng quy định về áp dụng pháp luật

nước ngoài của Tòa án Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ, đồng thời hệ thống Tòa

án các cấp vẫn có xu hướng “ngần ngại”, “thoái thác” áp dụng pháp luật

nước ngoài bởi thiếu quy trình và hạn chế về nghiệp vụ, năng lực. Hoạt

động áp dụng pháp luật nước ngoài còn chứa đựng trong đó những nguyên

tắc đặc thù đòi hỏi hệ thống tư pháp bắt buộc tuân thủ và không thể tùy tiện

nhằm thể hiện sự tôn trọng cả về quy trình viện dẫn lẫn giải thích pháp luật

của quốc gia nước ngoài.

Mọi sự tuỳ tiện hay giải thích theo quan điểm riêng thiếu viện dẫn và

tham vấn chính tắc đều dẫn tới những sai lệch về kết luận xét xử, phần nào

làm ảnh hưởng đến uy tín xét xử của cơ quan tư pháp quốc gia và giá trị

pháp lý của pháp luật nước ngoài. Đây cũng là cơ sở để nghĩa vụ “chứng

minh pháp luật nước ngoài” trở thành một yêu cầu bắt buộc và quan trọng

trong toàn bộ quy trình giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài

khi Tòa án Việt Nam được yêu cầu áp dụng pháp luật quốc gia khác thay vì

pháp luật Việt Nam.

Trong tiến trình hội nhập sâu hơn kinh tế quốc tế, nếu những bất cập

và rào cản về ngôn ngữ, thông tin và năng lực trong áp dụng pháp luật nước

ngoài vẫn còn chi phối hoạt động xét xử những vụ việc dân sự có yếu tố

nước ngoài của Tòa án các cấp Việt Nam thì hỉnh ảnh môi trường pháp lý

thuận lợi mà Việt Nam đang xây dựng nhằm thu hút nhiều hơn nữa những

chủ thể nước ngoài tham gia sẽ bị ảnh hưởng. Bởi vậy, việc nghiên cứu lý

luận và thực tiễn hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài – tiền đề để

2

áp dụng pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam là một nhiệm vụ quan

trọng và cấp thiết hiện nay của ngành Tòa án.

Nhận thức được thực tế này, học viên quyết định lựa chọn đề tài

nghiên cứu về “Nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài trong giải

quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài tại t a án Việt Nam”. Đề

tài nghiên cứu đáp ứng được yêu cầu cả về khoa học lẫn thực tiễn, cụ thể

là:

Về khoa học: Nghĩa vụ chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài

được coi là một vấn đề khó, chưa có nhiều nghiên cứu trong nước tuy nhiên

lại chứa đựng cơ sở lý luận quan trọng cho hoạt động giải quyết các tranh

chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong bối cảnh các quy định pháp luật

của BLDS và BLTTDS năm 2015 và các hướng dẫn đối với áp dụng pháp

luật nước ngoài còn nhiều hạn chế, nghiên cứu này góp phần hoàn thiện cơ

sở lý luận và thực tiễn xây dựng quy trình và nội dung chứng minh áp dụng

pháp luật nước ngoài và đồng thời đánh giá vai trò, sự tham gia của Tòa án

Việt Nam trong quy trình áp dụng pháp luật của các quốc gia khác trong

giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.

Bên cạnh đó, những kết quả nghiên cứu về quy trình và nội dung

chứng minh pháp luật nước ngoài dựa trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm

nước ngoài cũng tạo tiền đề khoa học để đề xuất xây dựng, bổ sung và hoàn

thiện các quy định pháp luật trong nhiều lĩnh vực như: dân sự; tố tụng dân

sự; tư pháp quốc tế; điều ước quốc tế…

Về thực tiễn: Việc thiếu những nghiên cứu về chứng minh và áp

dụng pháp luật nước ngoài đặt ra thách thức đối với thực tiễn xét xử của

Tòa án các cấp Việt Nam, đòi hỏi phải giải quyết đúng trình tự và nội dung

3

các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng cũng phải đáp ứng được

năng lực xét xử của Tòa án trong nước, trong bối cảnh pháp luật Việt Nam

chưa từng có tiền lệ về áp dụng luật nước ngoài. Các Tòa án Việt Nam rất

cần có những hướng dẫn nghiệp vụ thống nhất trong tiến hành hoạt động

chứng minh và áp dụng pháp luật nước ngoài bao gồm những vấn đề về

nghĩa vụ của các chủ thể; quy phạm nội dung và trình tự chứng mình…

2. Tìn ìn n iên cứu

Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về đề tài cho

thấy hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài nói chung và nghĩa vụ chứng

minh nói riêng là một đề tài được phân tích dưới nhiều góc độ của tư pháp

quốc tế như: xung đột pháp luật; lựa chọn tòa án và luật áp dụng; tương trợ

tư pháp trong dân sự và thương mại; công nhận và thi hành phán quyết tư

pháp… Từ những góc độ nghiên cứu này, vấn đề chứng minh trong áp

dụng pháp luật nước ngoài được thể hiện đa chiều và rõ nét hơn.

Các nghiên cứu của nước ngoài: những nghiên cứu của Hội nghị

LaHaye về Tư pháp quốc tế và kinh nghiệm các quốc gia trong xây dựng

quy phạm tư pháp quốc tế chứa đựng nhiều nội dung liên quan tới áp dụng

pháp luật nước ngoài. Các tài liệu có thể kể tới như:

- HCCP (2014), Enhancing access to foreign law and case law –

Presentation of solutions by the European Union, Doc. Prel. No 14 of April

2014;

- HCCP (2012), Access to Foreign Law in Civil and Commercial

Matters (Joint Conference of the European Commission and the Hague

Conference on Private International Law, February 2012) – Meeting

Report, Conclusions & Recommendations;

4

- HCCP (2009), Accessing the content of foreign law and the need

for the development of a global instrument in this area – a possible way

ahead, Prel. Doc. No 11A of March 2009… được tổng hợp từ website của

Hội nghị tại: https://www.hcch.net/en/publications-and-

studies/publications2

Ngoài ra, các nghiên cứu quốc tế về tư pháp quốc tế được viện dẫn

trong các nghiên cứu trong nước về vấn đề này phải kể tới như:

- Henri Batiffol & Paul Lagarde (1993), Traité de droit international

privé (French Edition), phần số 269;

- Jean-Yves Carlier (2005), Đạo luật Tư pháp quốc tế của Bỉ, Revue

critique de droit international privé 2005, tr.11;

- Chen Weizou và Lyvia Bertrand (2010), La nouvelle loi chinoise de

droit international privé: contexte législatif, principales nouveautés et

critiques, Journal du droit international (Clunet) n°2, tháng 4/2011, var. 2,

phần số 14 và 15;

- Matthew J.Wilson (2014), Demystifying the determination of

foreign law in U.S. Courts: Opening the door to a greater global

understanding, Akron Law Publications, The University of Akron;

- Carlos Esplugues (2007), General report on the Application of

Foreign law by Judicial and Non-Judicial Authorities in Europe, Project

JLS/CJ/2007-1/03; Hausmann Rainer (2008), Pleading and Proof of

foreign law – a Comparative analysis, The European legal forum I 1-2008,

1-14; Thomas F.Bridgman (1980), Proof of foreign law and facts, Journal

of air law and commerce Vol.45/Issue 4;

- Talia Einhorn (2004), The Ascertainment and Application of

Foreign Law in Israeli Courts – Getting the Facts and Fallacies Straight,

https://www.researchgate.net/

5

Để hoàn thiện nghiên cứu, kinh nghiệm một số quốc gia và khu vực

về áp dụng pháp luật nước ngoài được tổng hợp từ Cộng hòa Pháp (từ các

nghiên cứu trên trang web của Tòa án tối cao Pháp:

https://www.courdecassation.fr/); Hoa Kỳ (từ các quy định về điều kiện cấp

phép Foreign law consultant license tại các bang Washington; New York;

Indiana…); Thụy Sĩ (Đạo luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sĩ –

CPIL ngày 18/12/1987); Liên Minh Châu Âu; Nhật Bản và một số quốc gia

khác.

Các nghiên cứu trong nước: chưa có một nghiên cứu chính thức về

nghĩa vụ chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài, tuy nhiên có thể tổng

hợp những khía cạnh lý luận trong nhiều nghiên cứu của các học giả về tư

pháp quốc tế, cụ thể như:

- Trần Minh Ngọc, Bùi Thị Thu, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Đức

Việt, Lê Thị Bích Thủy (2018), Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự

có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB

Lao động;

- Đỗ Văn Đại (2013), Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc

tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 + 3/2013, tr. 46-55;

- Bành Quốc Tuấn (2016), Những điểm mới của hệ thống quy phạm

xung đột trong Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số

18 (322)/Kỳ 2, tháng 9/2016;

- Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2016), Bình luận khoa học Bộ luật

dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân, tr.1052;

- Phùng Hồng Thanh (2019), Áp dụng pháp luật dân sự nước ngoài

tại Việt Nam, so sánh với pháp luật một số quốc gia, Tạp chí tòa án;

6

- Ngô Quốc Chiến (2014), So sánh một số quy định chung của Tư

pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (271),

tháng 8/2014;

- Ngô Quốc Chiến, Nguyễn Minh Hằng (2017), Pháp luật áp dụng

cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật dân sự năm

2015 và khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối

ngoại số 81/2017;

- Ngô Quốc Chiến (2014), So sánh một số quy định chung của Tư

pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (271),

tháng 8/2014;

- Phan Hoài Nam, Nguyễn Lê Hoài (2017), Thẩm quyền của toà án

Đức trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại có yếu tố nước

ngoài và những nội dung có thể tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp

số 6(334), tháng 3/2017;

- Đỗ Minh Tuấn (2014), Xác định nội dung pháp luật nước ngoài để

giải quyết tranh chấp dân sự quốc tế bởi Tòa án, Tạp chí kinh tế đối ngoại

số 70/2014.

Ngoài ra còn nhiều bài viết có giá trị khác liên quan tới đề tài nghiên

cứu kể tới như:

- Bành Quốc Tuấn (2011), Hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong

tư pháp quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14/2011, tr. 22-28;

- Lê Mạnh Hùng, Đỗ Ngọc Thanh (2018), Công ước La Hay năm

1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc

thương mại, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử;

7

- Phan Hoài Nam (2016), Công ước Hague 2005 về thỏa thuận lựa

chọn tòa án và khả năng gia nhập của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp số 17/2016, tr. 23-32;

- Nguyễn Xuân Bình (2018), Một số khó khăn trong thực tiễn giải

quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của BLTTDS

2015;

- Võ Trí Hảo (2003), Vai trò giải thích pháp luật của Tòa án, Tạp

chí Khoa học pháp lý số 3 năm 2003;

- Trần Vang Phủ (2019), Một số nguyên tắc giải thích pháp luật trên

thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06

(382)-2019…

Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều rất công phu với nhiều

kiến giải hữu ích liên quan tới các khía cạnh của hoạt động áp dụng pháp

luật nước ngoài. Tuy nhiên vẫn thiếu những nghiên cứu đi thẳng vào vấn đề

áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc hướng dẫn nghiệp vụ cho hoạt động áp

dụng pháp luật nước ngoài.

3. Mục tiêu n iên cứu

Đề tài hướng tới đạt được những mục tiêu nghiên cứu cụ thể như

sau:

Thứ nhất, những tổng hợp lý luận về tư pháp quốc tế có liên quan tới

hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự

có yếu tố nước ngoài (như xung đột pháp luật; lựa chọn luật áp dụng; tương

trợ tư pháp…);

Thứ hai, đánh giá thực tế quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh

8

áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố

nước ngoài, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này;

Thứ ba, đề xuất giải pháp nhằm thực thi hoạt động này trong thực

tiễn xét xử, trong đó xây dựng hệ thống giải pháp về hoàn thiện pháp luật

và xây dựng quy trình nghiệp vụ cần thiết.

4. Đối tƣợn , p ạm vi n iên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung tổng hợp, phân tích và đánh giá các vấn đề lý

luận phát sinh trong hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài, cơ sở hình

thành nghĩa vụ chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài và những xu

hướng xây dựng quy định pháp luật của các quốc gia về vấn đề này. Ngoài

ra, dựa trên những nghiên cứu về tư pháp quốc tế tại các quốc gia; hoạt

động tương trợ tư pháp của Việt Nam để đưa ra, đề xuất các giải pháp phù

hợp, hiệu quả.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án trong áp dụng pháp luật nước

ngoài là một đề tài mới, chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp về lý luận và

thực tiễn.

Về không gian: nghiên cứu hướng đến giới hạn không gian nghiên

cứu trong phạm vi hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân của Việt

Nam; tương trợ tư pháp của nước ngoài cho Việt Nam; khuôn khổ pháp lý

được nghiên cứu bao gồm pháp luật Việt Nam, pháp luật một số quốc gia

và vùng lãnh thổ về tư pháp quốc tế.

Về thời gian: nghiên cứu giới hạn thực tiễn áp dụng pháp luật

9

trong giai đoạn 10 năm từ 2010 đến 2020. Một số nghiên cứu trích dẫn

bản án; án lệ; quan điểm pháp lý có thể hình thành trước khung thời

gian nghiên cứu kể trên.

5. P ƣơn p áp và nội dun n iên cứu

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu lựa chọn áp dụng phương pháp nghiên

cứu phù hợp với từng chương nội dung, cụ thể:

- Chương 1: nghiên cứu áp dụng phương pháp hệ thống hóa, tổng

hợp và phân tích các khái niệm, quan điểm lý luận trong tư pháp quốc tế có

liên quan tới nghĩa vụ chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài;

- Chương 2: nghiên cứu áp dụng đan xen nhiều phương pháp nghiên

cứu như: thống kê, tổng hợp – phân tích, lý giải số liệu để làm rõ thực trạng

hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài và tương trợ tư pháp dân sự; chọn

lọc, so sánh, tổng hợp – phân tích để làm rõ những giá trị kinh nghiệm của

các quốc gia và khu vực trong hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài;

quy nạp để rút ra những kết luận về nghĩa vụ chứng minh của Tòa án khi áp

dụng pháp luật nước ngoài.

- Chương 3: nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp

để đưa ra những định hướng, xu hướng và nguyên tắc cần lưu ý tuân thủ

trong hoàn thiện quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài; tổng hợp các

giải pháp về hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh áp

dụng pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam.

5.2. Nội dung nghiên cứu

10

Đề tài hướng tới giải quyết các nội dung nghiên cứu cơ bản gồm:

Thứ nhất, những vấn đề lý luận về tư pháp quốc tế có liên quan tới

hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự

có yếu tố nước ngoài (như xung đột pháp luật; lựa chọn luật áp dụng; tương

trợ tư pháp…);

Thứ hai, thực tế quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh áp dụng

pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước

ngoài, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này;

Thứ ba, khuyến nghị và giải pháp nhằm thực thi hoạt động này trong

thực tiễn xét xử, trong đó xây dựng hệ thống giải pháp về hoàn thiện pháp

luật và xây dựng quy trình nghiệp vụ cần thiết.

Với nội dung kể trên, nhóm nghiên cứu mong muốn những kết quả

thu được sẽ góp phần hỗ trợ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa

học trong ngành luật quốc tế hiệu quả hơn.

11

C ƣơn 1

LÝ LUẬN VỀ N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ

N O ỦA T A N TRON QU T TRANH H P

N SỰ U T NƢ N O

1.1 Một số lý luận cơ bản về áp dụn p áp luật nƣớc n oài tron tran

c ấp dân sự có ếu tố nƣớc n oài

1.1.1 Tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài

BLTTDS năm 2015 mặc dù không đưa ra khái niệm “tranh chấp dân

sự” nhưng đề cập “tranh chấp dân sự” là một dạng thức của “vụ án dân sự”,

và cùng với “việc dân sự” để hình thành khái niệm chung là “vụ việc dân

sự” tại Điều 1 BLTTDS năm 2015.

Phạm vi của “tranh chấp dân sự” thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án bao gồm: tranh chấp về quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về giao dịch

dân sự, hợp đồng dân sự; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao

công nghệ (trừ một số trường hợp); tranh chấp về quyền sở hữu và các

quyền khác đối với tài sản; tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng; tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp

dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp

luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải

quyết trong vụ án hành chính; tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên

nước, xả thải vào nguồn nước; tranh chấp đất đai; tranh chấp về quyền sở

hữu, quyền sử dụng rừng; tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ

báo chí; tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô

hiệu; tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án; tranh

12

chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản

bán đấu giá… [26, Điều 26]

Các quy định hiện hành về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu

tố nước ngoài hiện nay được ghi nhận ở Phần Tám – Chương 38 BLTTDS

năm 2015. Theo đó, “vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” là: vụ việc dân

sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các

bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; b) Các bên tham

gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay

đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên

tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của

quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. [26, Khoản 2 Điều 464]

Từ các quy định kể trên có thể ghi nhận, một vụ việc dân sự chỉ được

coi là “tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài” khi đáp ứng tiêu chí nội

"dung - thuộc lĩnh vực dân sự hiểu theo nghĩa rộng được quy định tại

BLTTDS" và đồng thời đáp ứng tiêu chí chủ thể hoặc nội dung tranh chấp

có liên quan tới công dân, tổ chức Việt Nam.

1.1.2 Áp dụng pháp luật nước ngoài

Thế giới hiện nay ghi nhận sự tồn tại của 03 nhóm học thuyết về xác

định nội dung pháp luật nước ngoài là cơ sở xác định nghĩa vụ chứng minh

áp dụng pháp luật nước ngoài bao gồm: học thuyết chứng cứ được áp dụng ở

Anh và các quốc gia khối thịnh vượng chung (tên tiếng Anh là Fact doctrine

được phát triển từ vụ Mostyn v. Fabrigas phản ánh quan điểm: luật nước

ngoài chỉ được coi như là chứng cứ và do các đương sự phải nêu ra và tự

chứng minh; Tòa án không được phép nêu ra và chứng minh luật nước

ngoài) [35].

13

Học thuyết pháp luật được áp dụng chủ yếu các quốc gia hệ thống

luật Châu Âu lục địa (tên tiếng Anh là Law doctrine, xuất phát từ học

thuyết iura novit curia - tòa án biết luật, trong phạm vi lãnh thổ của nơi có

tòa án thì luật thành văn là nguồn luật chính, và tòa án chỉ áp dụng pháp

luật của vùng khác (hoặc pháp luật nước ngoài) do qui phạm xung đột dẫn

chiếu và khi đương sự nêu ra và chứng minh, nếu không chứng minh được,

tòa án sẽ áp dụng luật nơi xét xử [35]; và học thuyết của Hoa Kỳ (tên tiếng

Anh là US. Model, cụ thể từ ngày 1/7/1966, với việc bổ sung Quy tắc 44.1

trong Bộ quy tắc tố tụng dân sự liên bang Hoa Kỳ (Federal Rules of Civil

Procedures) năm 1938, Hoa Kỳ đã chuyển từ học thuyết chứng cứ sang

học thuyết riêng, theo đó, tòa án không bắt buộc phải áp dụng pháp luật

nước ngoài khi đương sự không khởi xướng (nêu ra), trường hợp không

bên đương sự nào khởi xướng áp dụng pháp luật nước ngoài, tòa án suy

đoán rằng các bên từ bỏ quyền yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài, ví dụ

như vụ Clarkson Co. v. Shaheen, tòa án áp dụng luật của bang New York

vì không đương sự nào đặt vấn đề luật của Canada được áp dụng để giải

quyết vụ việc) [37].

Ở thời điểm thi hành BLTTDS năm 2004, việc áp dụng pháp luật

nước ngoài trong các tranh chấp dựa chủ yếu vào các quy phạm xung đột

quy định tại Phần 7 BLDS năm 2005 và hướng dẫn nghĩa vụ chứng minh

tại Điều 5 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP trong đó ghi nhận nguyên tắc:

đương sự có nghĩa vụ chứng minh trước cơ quan có thẩm quyền của Việt

Nam về mối quan hệ gắn bó nhất của mình về quyền và nghĩa vụ công dân

với hệ thống pháp luật của nước được yêu cầu áp dụng. Trong trường hợp

đương sự không chứng minh được về mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và

nghĩa vụ công dân của mình đối với hệ thống pháp luật được yêu cầu thì

pháp luật Việt Nam được áp dụng.

14

Cũng cần lưu ý, quy định trên chỉ áp dụng cho các trường hợp sau:

(1) Áp dụng pháp luật đối với người có nhiều quốc tịch nước ngoài hoặc

không có quốc tịch thuộc trường hợp qui định tại Điều 760 BLDS năm 2005;

(2) Áp dụng pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật khác

nhau).

Như vậy, có thể hiểu quan điểm trước đây về nghĩa vụ chứng minh

có nhiều điểm tương đồng với học thuyết pháp luật [33]. Tương tự như

pháp luật tố tụng CHLB Đức (Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự Đức), pháp

luật nước ngoài được coi như pháp luật nội địa, được áp dụng chỉ với điều

kiện tồn tại quy phạm xung đột viện dẫn tới luật nước ngoài bất kể có hay

không yêu cầu của các đương sự. [36]

Tới BLTTDS hiện hành năm 2015, Điều 481 về Xác định và cung

cấp pháp luật nước ngoài để Tòa án áp dụng trong việc giải quyết vụ việc

dân sự có yếu tố nước ngoài tiếp tục làm rõ hơn quan điểm kể trên, trong

đó nhấn mạnh nguyên tắc mới: trường hợp đương sự lựa chọn áp dụng thì

đương sự có nghĩa vụ chứng minh, trường hợp phải áp dụng thì Tòa án

mới có nghĩa vụ áp dụng. Đồng thời, quy định nghĩa vụ chứng minh này

được áp dụng mở rộng cho tất cả các trường hợp áp dụng pháp luật nước

ngoài.

15

O ÁN

Quy định về nghĩa vụ chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài tại

BLTTD năm 2004,

Nghị định hướng dẫn số 138/2006/NĐ-CP và BLTTD năm 2015, Dự

thảo Nghị quyết hướng dẫn

ộ luật tố tụn dân sự năm ộ luật tố tụn dân sự năm 2015 Ghi

c ú 2004

Điều 481 Xác định và cung cấp

pháp luật nước ngoài để Tòa án áp Không quy định

dụng trong việc giải quyết vụ việc

dân sự có yếu tố nước ngoài

Trường hợp Tòa án Việt Nam áp

dụng pháp luật nước ngoài để giải

quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước

ngoài theo quy định của luật Việt

Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành

viên thì trách nhiệm xác định và

cung cấp pháp luật nước ngoài được

thực hiện như sau:

1. Trường hợp đương sự được quyền

lựa chọn pháp luật áp dụng là pháp

16

luật nước ngoài và đã lựa chọn áp

dụng pháp luật nước ngoài đó thì có

nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước

ngoài đó cho Tòa án đang giải quyết

vụ việc dân sự. Các đương sự chịu

trách nhiệm về tính chính xác và hợp

pháp của pháp luật nước ngoài đã

cung cấp.

Trường hợp các đương sự không

thống nhất được với nhau về pháp

luật nước ngoài hoặc trong trường

hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu Bộ Tư

pháp, Bộ ngoại giao, cơ quan đại

diện nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc

thông qua Bộ ngoại giao đề nghị cơ

quan đại diện ngoại giao của nước

ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp

luật nước ngoài;

2. Trường hợp luật của Việt Nam,

điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam là thành

viên quy định phải áp dụng pháp

luật nước ngoài thì đương sự có

quyền cung cấp pháp luật nước

17

ngoài cho Tòa án hoặc Tòa án yêu

cầu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao

hoặc cơ quan đại diện nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở

nước ngoài cung cấp pháp luật nước

ngoài;

3. Tòa án có thể yêu cầu cơ quan, tổ

chức, cá nhân có chuyên môn về

pháp luật nước ngoài cung cấp thông

tin về pháp luật nước ngoài;

4. Hết thời hạn 06 tháng, kể từ ngày

Tòa án yêu cầu cung cấp pháp luật

nước ngoài theo quy định tại Điều

này mà không có kết quả thì Tòa án

áp dụng pháp luật của Việt Nam để

giải quyết vụ việc dân sự đó.

N ị địn số 138/2006/NĐ- ự t ảo N ị qu ết của HĐTP

P n à 15/11/2006 của Tòa án n ân dân tối cao ƣớn

ín p ủ ƣớn dẫn ộ dẫn t i àn một số qu địn của

luật dân sự về quan ệ dân LTT S về t ẩm qu ền, t ủ tục

sự có ếu tố nƣớc n oài iải qu ết vụ việc dân sự có ếu tố

nƣớc n oài (04/9/2019)

18

Điều 5 Nghĩa vụ chứng Điều 14 Xác định và cung cấp pháp

minh của đương sự đối với luật nước ngoài để Tòa án áp dụng

yêu cầu áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự

có yếu tố nước ngoài theo quy định Trong trường hợp áp dụng

tại Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự pháp luật đối với người không

quốc tịch, người nước ngoài 1. Trường hợp các đương sự có

có hai hay nhiều quốc tịch quyền lựa chọn và đã lựa chọn pháp

nước ngoài theo quy định tại luật cụ thể của một nước để áp dụng

Điều 760 của Bộ luật dân sự cho quan hệ pháp luật dân sự giữa

hoặc áp dụng pháp luật của các bên theo quy định tại Khoản 1

nước có nhiều hệ thống pháp Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự, thì

luật khác nhau theo quy định các đương sự phải dịch gửi cho Tòa

tại khoản 3 Điều 4 Nghị định án nội dung pháp luật nước ngoài

này thì đương sự có nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến quan hệ pháp

chứng minh trước cơ quan có luật đó cùng bản dịch ra tiếng Việt

thẩm quyền của Việt Nam về có công chứng bản dịch hoặc chứng

mối quan hệ gắn bó nhất của thực chữ ký người dịch theo quy

mình về quyền và nghĩa vụ định của pháp luật Việt Nam.

công dân với hệ thống pháp Trường hợp nội dung pháp luật nước

luật của nước được yêu cầu áp ngoài được cơ quan có thẩm quyền

dụng. của nước ngoài cấp, xác nhận, chứng

Trong trường hợp đương sự thực, công chứng thì ngoài việc dịch

không chứng minh được về nội dung pháp luật nước ngoài ra

mối quan hệ gắn bó nhất về tiếng Việt có công chứng bản dịch

quyền và nghĩa vụ công dân hoặc chứng thực chữ ký người dịch,

19

của mình đối với hệ thống các đương sự còn phải thực hiện hợp

pháp luật được yêu cầu thì pháp hóa lãnh sự nội dung pháp luật

pháp luật Việt Nam được áp nước ngoài đó theo quy định pháp

dụng. luật Việt Nam.

2. Tòa án phải áp dụng pháp luật

nước ngoài để giải quyết vụ việc dân

sự theo quy định tại khoản 2 Điều

478 Bộ luật tố tụng dân sự trong

trường hợp có văn bản quy phạm

pháp luật hoặc điều ước quốc tế cụ

thể mà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là thành viên quy

định về việc Tòa án của nước thành

viên này phải áp dụng pháp luật

nước thành viên kia để giải quyết

một vụ việc dân sự cụ thể.

Ví dụ: Hiệp định tương trợ tư pháp

mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam có quy định về việc Tòa

án của nước thành viên này phải áp

dụng pháp luật nước thành viên kia

để giải quyết một vụ việc dân sự cụ

thể.

3. Tòa án có thể yêu cầu một trong

các cơ quan, tổ chức, cá nhân có

20

chuyên môn về pháp luật nước ngoài

sau đây cung cấp thông tin về pháp

luật nước ngoài theo quy định tại

khoản 3 Điều 478 Bộ luật tố tụng dân

sự:

a) Công ty luật nước ngoài được

phép hoạt động tại Việt Nam;

b) Công ty Luật, văn phòng Luật sư,

luật sư, luật gia trong nước, chuyên

gia pháp lý có kiến thức chuyên môn

về pháp luật nước ngoài liên quan

trực tiếp đến vụ việc dân sự.

4. Chi phí thanh toán cho cơ quan, tổ

chức, cá nhân có chuyên môn về

pháp luật nước ngoài quy định tại

Khoản 3 Điều này do các bên đương

sự phải chịu

Quyền lựa chọn pháp luật cho các chủ thể trong pháp luật dân sự đã

được ghi nhận từ rất lâu trong Tư pháp quốc tế. Theo thời gian, quyền lựa

chọn pháp luật được mở rộng từ lĩnh vực hợp đồng sang các lĩnh vực pháp

luật dân sự khác [42]. Năm 2004, Bỉ ban hành Bộ luật Tư pháp quốc tế (có

hiệu lực năm 2005) và một tác giả đã khẳng định “Bộ luật đã dành một vị

trí rất rộng cho quyền lựa chọn pháp luật. Xuất phát từ tự do ý chí trong

pháp luật thực chất về hợp đồng, sự phát triển này đã được dự báo trong

21

quan hệ vợ chồng trong hôn nhân, thừa kế... Sự đột phá được thể hiện

trong lĩnh vực ly hôn, bồi thường thiệt hại hay phát hành tín phiếu” [44].

Trung Quốc ban hành năm 2010 Luật Tư pháp quốc tế (có hiệu lực

năm 2011) và có tác giả đã cho rằng “Luật mới của Trung Quốc đã dành vị

trí rất ưu ái cho nguyên tắc tự do lựa chọn pháp luật đối với các bên” và:

ngoài quy phạm xung đột pháp luật truyền thống áp dụng nguyên tắc tự do

lựa chọn pháp luật của các bên trong lĩnh vực hợp đồng, các quy định sau

cho phép các bên lựa chọn pháp luật điều chỉnh: khoản 2 Điều 16 về đại

diện theo ủy quyền; Điều 18 về thỏa thuận trọng tài; Điều 24 về quan hệ tài

sản của vợ chồng; Điều 26 về thuận tình ly hôn; Điều 37 về vật quyền đối

với động sản; Điều 38 về vật quyền trong quá trình vận chuyển; Điều 44 về

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Điều 47 về được lợi về tài sản không

có căn cứ pháp luật và thực hiện công việc không có ủy quyền; Điều 49 về

chuyển giao và sử dụng theo thỏa thuận quyền sở hữu trí tuệ; Điều 50 về

bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ [43] [14].

Việc lựa chọn áp dụng pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài

được xác định dựa trên các quy phạm thực chất và quy phạm xung đột

trong tư pháp quốc tế Việt Nam. Do đặc thù Việt Nam theo đuổi mô hình

không ban hành đạo luật Tư pháp quốc tế riêng mà quy định các quy phạm

xung đột tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật, với vị trí trung tâm là BLDS

[31]. Trong các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, áp dụng pháp luật

nước ngoài là một trong nhiều lựa chọn; Thực tiễn cho thấy các tòa án quốc

gia có xu hướng “không mong muốn áp dụng pháp luật nước ngoài” do

những hạn chế về nhân lực và khả năng am hiểu pháp luật nước ngoài, tuy

nhiên áp dụng pháp luật nước ngoài “mặc dù không bắt buộc” nhưng phải

thực hiện để “đảm bảo tính công bằng, khách quan” trong đời sống pháp

luật quốc tế [13, tr.110].

22

Thực tế pháp luật dân sự Việt Nam cũng giới hạn việc các bên tự do

lựa chọn pháp luật áp dụng bằng cách đặt ra những bắt buộc chung cho một

số giao dịch. Ví dụ: Khoản 4 Điều 683 BLDS năm 2015 quy định: khi hợp

đồng có đối tượng là bất động sản thì “pháp luật áp dụng đối với việc

chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê

bất động sản hoặc việc s dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa

vụ là pháp luật của nước nơi có bất động sản”. Nói cách khác, các bên

không thể lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng có đối tượng là bất

động sản. Ngoài hạn chế này, BLDS năm 2015 còn đặt ra các hạn chế khác

như về nội dung pháp luật; về hậu quả áp dụng pháp luật nước ngoài… [5]

a. Căn cứ áp dụng pháp luật nước ngoài

Căn cứ Điều 664 BLDS năm 2015, pháp luật nước ngoài sẽ được áp

dụng khi có một trong các trường hợp sau đây:

Trường hợp 1. Pháp luật nước ngoài sẽ được Tòa án áp dụng theo

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam

[25, Khoản 1 Điều 664]: trong căn cứ này, quy phạm xung đột được áp

dụng triệt để nhằm dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài. Quy phạm

xung đột đó có thể trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

quy định áp dụng pháp luật nước ngoài.

Ví dụ như Khoản 2 Điều 41 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý

về các vấn đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang

Nga quy định: “Hình thức lập hoặc huỷ bỏ di chúc được xác định theo

pháp luật của Bên ký kết mà người để lại thừa kế là công dân vào thời điểm

lập hoặc huỷ bỏ di chúc”) để đảm bảo phù hợp nguyên tắc cơ bản trong

bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực

hiện cam kết quốc tế (Pact sunt servanda).

23

Trường hợp không tồn tại quy phạm trong các điều ước quốc tế, thì

pháp luật nước ngoài có thể được dẫn chiếu bởi quy phạm xung đột tồn tại

trong pháp luật Việt Nam quy định áp dụng pháp luật nước ngoài. Ví dụ

như: Khoản 3 Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định

“Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo

pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.

Vấn đề “bảo lưu trật tự công cộng” ghi nhận trong khái niệm “không

trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là việc mặc dù cho

phép áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng pháp luật quốc gia Việt Nam vẫn

bảo lưu việc duy trì hiệu lực của “trật tự công cộng” theo pháp luật Việt

Nam để áp dụng pháp luật Việt Nam. Việc bảo lưu trật tự công cộng thực tế

chỉ là không áp dụng một hoặc một số quy phạm cụ thể của pháp luật nước

ngoài, không phải là phủ nhận hoàn toàn việc áp dụng pháp luật nước ngoài

[22, tr.59]. Và không áp dụng quy phạm này có thể tùy theo từng tình

huống pháp lý cụ thể, có thể áp dụng hoặc không áp dụng một cách linh

hoạt [12, tr.1052].

Trường hợp 2. Pháp luật nước ngoài được áp dụng theo sự lựa chọn

của các bên [25, Khoản 2 Điều 644]: theo thỏa thuận của các bên, pháp luật

nước ngoài được phép áp dụng nếu nó không vi phạm các nguyên tắc cơ

bản của pháp luật Việt Nam. Như trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước

ngoài, BLDS năm 2015 đã có cải cách quan trọng nếu so với BLDS năm

2005 khi ghi nhận: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa

chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng…” [25, Khoản 1 Điều 683].

Các bên cũng có thể thoả thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với

hợp đồng với điều kiện việc thay đổi đó “không được ảnh hưởng đến

24

quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi

pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý” [25, Khoản 6

Điều 683]. Sự thay đổi này để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế khi

nhiều quốc gia và khu vực đều ghi nhận sự tự do thỏa thuận áp dụng pháp

luật nước ngoài như vậy, cụ thể: Công ước Rome ngày 19/6/1980 về Luật

áp dụng đối với những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và Điều 3 Nghị định

Rome I điều chỉnh về nghĩa vụ hợp đồng tại Liên minh châu Âu thay thế

Công ước Rome 1980 quy định: “Hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do

các bên thỏa thuận lựa chọn. Sự lựa chọn phải được thể hiện rõ ràng hoặc

được chứng minh rõ ràng bởi các điều khoản trong hợp đồng hoặc tùy theo

từng trường hợp cụ thể”.

Tương tự Việt Nam, mỗi quốc gia đều ban hành những điều kiện để

áp dụng pháp luật nước ngoài riêng như Điều 14 Luật Tư pháp quốc tế của

Thụy Sỹ năm 1987 (sửa đổi năm 2014) quy định trong trường hợp luật áp

dụng cho quan hệ dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài khác thì pháp luật

nước ngoài đó sẽ được áp dụng phù hợp với những quy định của luật Tư

pháp quốc tế Thụy Sỹ [30]

Trường hợp 3. Pháp luật nước ngoài được áp dụng theo pháp luật

của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó: thực tế việc

xác định tính chất “có mối liên hệ gắn bó nhất” là tương đối mơ hồ và khó

khăn [25, Khoản 3 Điều 664]. Tư pháp quốc tế của nhiều nước cũng có quy

định về xác định pháp luật áp dụng dựa trên tiêu chí “mối liên hệ gắn bó

nhất” nhưng không định nghĩa thế nào là “mối liên hệ gắn bó nhất” mà trao

cho thẩm phán quyền xác định dựa vào các hoàn cảnh thực tế của vụ việc

cần giải quyết [4].

25

Trong BLDS năm 2015, Việt Nam đã chọn cách liệt kê mối liên hệ

gắn bó nhất trong một số hợp đồng cụ thể: cách làm này giống với phương

pháp được châu Âu áp dụng khi xây dựng Nghị định Rome năm 2008 về

luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu như Khoản 1 Điều 4

của Nghị định này liệt kê 8 loại hợp đồng cụ thể: (điểm a) hợp đồng mua

bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ (điểm b), hợp đồng có đối tượng

là bất động sản (điểm c), (điểm d) hợp đồng thuê bất động sản, hợp đồng

nhượng quyền thương mại (điểm e), (điểm f) hợp đồng bán đấu giá tài sản,

hợp đồng môi giới mua bán các công cụ tài chính (điểm g)), sau đó có một

loạt các quy định chuyên biệt cho các loại hợp đồng chuyên biệt khác là:

hợp đồng vận chuyển (điều 5), hợp đồng tiêu dùng (điều 6), hợp đồng bảo

hiểm (điều 7), hợp đồng lao động (điều 8)), thì BLDS của Việt Nam năm

2015 có quy định về mối liên hệ này khá rải rác trong quy định về hợp

đồng và áp dụng pháp luật với người không quốc tịch; người nhiều quốc

tịch. Như trong quan hệ hợp đồng thì pháp luật trong một số trường hợp

như sau có thể có là liên hệ gắn bó nhất: pháp luật nước nơi người bán cư

trú; nơi người cung cấp dịch vụ cư trú; nơi người nhận quyền cư trú; nơi

người lao động thường xuyên thực hiện công việc; nơi người tiêu dùng cư

trú… [25, Khoản 2 Điều 683]

b. Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài

Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp phải

đảm bảo 02 nguyên tắc cơ bản, gồm: (1) Áp dụng toàn bộ hệ thống pháp

luật nước ngoài và (2) Áp dụng theo đúng cách hiểu và thực tiễn của chính

quốc gia đó.

Đối với nguyên tắc (1): khi áp dụng pháp luật nước ngoài là áp dụng

26

toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, quá trình xét xử đòi hỏi

có những cơ sở để cơ quan tư pháp áp dụng và điều này các đương sự phải

tham gia chứng minh. Nếu các đương sự không thể chứng minh hoặc

không đề xuất chứng minh, hoặc sau khi cơ quan tư pháp không thu thập

đủ căn cứ để áp dụng pháp luật nước ngoài thì cũng không áp dụng.

Đối với nguyên tắc (2): khi áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án

phải đảm bảo nội dung áp dụng pháp luật nước ngoài được hiểu theo đúng

cách hiểu của quốc gia nước ngoài đó [25, Điều 667]. Đây là quy định hoàn

toàn mới so với BLDS 2005 và là một quy định hoàn toàn phù hợp với

nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài, đó cũng chính là nguyên tắc

chung được thừa nhận rộng rãi ở các nước. Bởi khi Toà án của mỗi nước áp

dụng pháp luật nước ngoài mà áp dụng theo cách hiểu riêng của mình thì sẽ

dẫn đến hệ quả là pháp luật nước ngoài không được áp dụng một cách

thống nhất, không bảo đảm giá trị của pháp luật. Do đó nguyên tắc này

ràng buộc Toà án của các nước dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào, ở quốc

gia nào thì việc áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó phải luôn cho ra

một kết quả giống như pháp luật đó được áp dụng tại quốc gia đã ban hành

[30], ví dụ như dẫn chiếu áp dụng pháp luật Hoa Kỳ, thì cần xác định quy

phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của liên bang hay pháp luật của tiểu

bang?

Về mặt nguyên tắc, xung đột pháp luật được nghiên cứu trong Tư

pháp quốc tế dưới góc độ chọn luật áp dụng giữa các hệ thống pháp luật

của các quốc gia có chủ quyền. Do vậy, cần tôn trọng các nguyên tắc giải

quyết xung đột pháp luật trong nội bộ của các quốc gia đối với các nhà

nước liên bang và đối với các quốc gia cho phép tồn tại nhiều hơn một hệ

thống pháp luật. Việc xác định hệ thống pháp luật nào được áp dụng cần

27

tuân theo nguyên tắc xác định pháp luật do chính quốc gia nước ngoài đó

quy định - vấn đề này được đề cập ở mục c nêu dưới đây: Toà án Việt Nam

khi áp dụng pháp luật nước ngoài không được tuỳ tiện giải thích những quy

định của pháp luật nước ngoài theo nguyên tắc pháp luật Việt Nam.

c. Một số trường hợp đặc biệt khi áp dụng pháp luật nước ngoài

Trường hợp 1. Pháp luật nước ngoài dẫn chiếu đến pháp luật

nước thứ ba

Về áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu đến pháp luật

nước thứ ba, đây được hiểu là hiện tượng dẫn chiếu cấp độ 2, phát sinh trên

cơ sở sự xung đột giữa các hệ thuộc luật trong quy phạm xung đột của các

nước hoặc do sự khác nhau về cách giải thích hệ thuộc của các nước. Hiện

nay trên thế giới, trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba rất

hiếm gặp và tư pháp quốc tế Việt Nam không có quy định nào về vấn đề

này. Điều này xuất phát từ việc quy phạm xung đột thường có hai bộ phận

cấu thành: phần phạm vi và phần hệ thuộc.

Theo PGS, TS. Đỗ Văn Đại (Đại học Luật TP Hồ Chí Minh) thì hiện

tượng dẫn chiếu xuất hiện là do một số nguyên nhân sau:

(1) Khi một vấn đề pháp lý thuộc phạm vi của hai quy phạm xung

đột của hai nước có phần hệ thuộc khác nhau, hoặc

(2) do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột của

các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.

Trong Tư pháp quốc tế các nước, một số nước không chấp nhận dẫn chiếu

(bao gồm cả dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba); tuy

nhiên còn một số nước khác lại chấp nhận dẫn chiếu như Pháp, Đức, Anh,

Bỉ, Nhật Bản…

28

Trường hợp 2. Áp dụng pháp luật nước ngoài đối với các quốc gia

có nhiều hệ thống pháp luật.

Tại các quốc gia theo cấu trúc liên bang hoặc có tính chất phức tạp

về chính trị thì thực tế vẫn có thể tồn tại nhiều hệ thống pháp luật ở trong

cùng một quốc gia. Ví dụ, trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài phát sinh

tranh chấp và luật áp dụng là luật pháp Hoa Kỳ thì việc áp dụng quy định

của mỗi bang của Hoa Kỳ lại có sự khác nhau. Hay như ở Trung Quốc,

việc dẫn chiếu về pháp luật một số vùng lãnh thổ của Trung Quốc như

HongKong, Macao… cũng có những khác biệt về quy định.

Tư pháp quốc tế các nước hiện nay phân loại các quốc gia này thành

02 nhóm gồm: các nước có các hệ thống pháp luật khác nhau theo lãnh thổ

và các hệ thống pháp luật khác nhau cho các chủ thể khác nhau. Cách quy

định này có thể tìm thấy tại: Điều 3 Đạo luật về Tư pháp quốc tế năm 1998

của Venezuela; Điều 9 Đạo luật về Tư pháp quốc tế năm 2011 của Ba Lan;

Khoản 3 Điều 38 Luật chung về áp dụng pháp luật của Nhật Bản. Hiện nay,

Điều 669 BLDS năm 2015 khắc phục lỗ hổng trong BLDS năm 2005, bằng

cách quy định một cách khách quan, đảm bảo pháp luật nước ngoài được

áp dụng nguyên vẹn về giá trị như ở chính quốc gia ban hành và cũng để

phù hợp với tư pháp quốc tế nhiều quốc gia khác. [22]

Do xu hướng Tư pháp quốc tế tạo ra sự tự do lựa chọn cho các chủ

thể, nên một tình huống đặc biệt có thể xảy ra khi các bên lựa chọn nhiều

hệ thống pháp luật cho một giao dịch/hợp đồng. Trong trường hợp này,

BLDS năm 2015 không có quy định rõ ràng rằng có hay không cho phép

các bên có được lựa chọn nhiều hệ thống luật áp dụng cho hợp đồng của

mình. Đây cũng là điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam với pháp luật

của một số nước.

29

Ví dụ: Điều 38 Luật Tư pháp quốc tế Cộng hòa Monténégro ngày

23/12/2013 quy định: “Hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật do các bên

lựa chọn. Sự lựa chọn này phải rõ ràng hoặc được suy ra từ các quy định

của hợp đồng hoặc các hoàn cảnh cụ thể. Các bên có thể lựa chọn pháp

luật áp dụng cho toàn bộ hoặc một phần hợp đồng. […] Sự tồn tại của thỏa

thuận và hiệu lực của thỏa thuận về luật áp dụng được điều chỉnh bởi điều

14, khoản 2, điều 44 và 45 của Luật này”. Hoặc Khoản 1 Điều 3 Nghị định

Rome năm 2008 của Liên minh châu Âu về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp

đồng cũng có quy định tương tự. [5]

Việc cho phép các bên lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật được giải

thích là tôn trọng quyền tự do lựa chọn, nhưng giải pháp này đặt ra nhiều

khó khăn thực tiễn và có lẽ chỉ phù hợp với các quốc gia có hệ thống tư

pháp phát triển. Đối với thực tiễn xét xử của Việt Nam thì việc áp dụng một

pháp luật nước ngoài cho vụ việc đã khó chứ chưa nói đến áp dụng nhiều

pháp luật trong cùng một tranh chấp.

Trường hợp 3. Áp dụng pháp luật nước ngoài để lẩn tránh pháp luật

Khi tham gia vào quan hệ do Tư pháp quốc tế điều chỉnh, các chủ thể

đều luôn chú trọng đến vấn đề quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi hệ thống

pháp luật thực chất của nước nào bởi lẽ đây là yếu tố quan trọng nhất quyết

định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, quyết định đến mức độ

lợi ích hoặc mục đích mong muốn đạt được khi tham gia quan hệ của các

bên. Tuy nhiên, việc luật thực chất của quốc gia nào sẽ được áp dụng để

điều chỉnh quan hệ lại do quy phạm xung đột đã được áp dụng quyết định.

Do đó quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi quy phạm

xung đột của hệ thống pháp luật nào là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Khi

nhận thấy hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu

30

đến có khả năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách

lẩn tránh để không phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và

hướng đến một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các

quy phạm xung đột sao cho có lợi nhất.

Lẩn tránh chính là hiện tượng đương sự dùng những biện pháp cũng

như thủ đoạn để tránh việc áp dụng hệ thống pháp luật đáng lẽ phải được

áp dụng điều chỉnh các quan hệ của họ và nhắm tới hệ thống pháp luật khác

có lợi hơn [32]. Các đương sự có xu hướng lựa chọn 02 thủ đoạn đó là hoặc

(1) lợi dụng sự khác nhau của các quy phạm xung đột trong hệ thống

pháp luật các nước hoặc

(2) lợi dụng sự khác nhau trong quy phạm xung đột của chính nước

có quy phạm xung đột được áp dụng để chọn luật điều chỉnh quan hệ dân

sự có yếu tố nước ngoài.

Nhìn chung, lẩn tránh pháp luật là thủ đoạn của đương sự để lẩn

tránh khỏi sự chỉ phối của hệ thống pháp luật lẽ ra phải được áp dụng và

lường sự dẫn chiếu của quy phạm pháp luật xung đột đến hệ thống pháp

luật khác có lợi cho mình. Thông thường, đương sự dùng các thủ đoạn như

thay đổi quốc tịch, thay đổi nơi cư trú, nơi kí kết hợp đồng, nơi đăng kí kết

hôn nhằm lẩn tránh pháp luật. Hiện nay, BLDS năm 2015, BLTTDS năm

2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn kiện gia nhập Công

ước về công nhận phán quyết trọng tài nước ngoài…là những cơ sở để Việt

Nam ngăn chặn chủ thể hướng tới áp dụng luật nước ngoài nhằm “lẩn tránh

pháp luật”.

1.2 N ĩa vụ c ứn min p áp luật nƣớc n oài của Tòa án Việt Nam

1.2.1 Yêu cầu chứng minh pháp luật nước ngoài của T a án Việt Nam

31

Khi pháp luật nước ngoài được yêu cầu viện dẫn áp dụng, quá trình

xét xử đòi hỏi những chủ thể tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng phải

chứng minh tính hợp pháp, hợp lý của việc áp dụng pháp luật nước ngoài.

Đương nhiên, việc chứng minh luôn luôn đòi hỏi xác định chủ thể thực

hiện nghĩa vụ này cũng như yêu cầu về chứng cứ, căn cứ phục vụ quá trình

chứng minh. Nghĩa vụ này được hiểu là “nghĩa vụ chứng minh pháp luật

nước ngoài”.

Hiện nay, nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài được thực

hiện trên cơ sở các nguyên tắc được đề cập ở Điều 481 BLTTDS năm

2015, được thực hiện trên cơ sở 03 quy trình khác biệt về chủ thể thực

hiện nghĩa vụ:

Quy trình 1. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh là các đương sự

Trường hợp này sẽ đặt ra nếu các bên thỏa thuận thống nhất được áp

dụng luật nước ngoài. Trong tình huống này, đương sự phải hiểu và nhận

thức được tính phù hợp của pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh

chấp của mình, do vậy nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Về quy

trình, các bên sau khi đạt được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài

phải cung cấp và bảo đảm tính chính xác của luật nước ngoài cho Tòa án

giải quyết.

Điều 481 BLTTDS năm 2015 cũng dự liệu khả năng không đáp ứng

được việc cung cấp và đảm bảo tính chính xác của pháp luật nước ngoài do

các bên cung cấp nên bổ sung thêm cơ chế “phối hợp cung cấp luật nước

ngoài” của các cơ quan tư pháp – hành pháp. Cụ thể, Tòa yêu cầu Bộ Tư

pháp; Bộ Ngoại giao; cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam phối hợp

cung cấp luật nước ngoài cho Tòa án giải quyết. [26, Khoản 1 Điều 481]

32

Quy trình 2. Chủ thể có nghĩa vụ chứng minh là Tòa án

Khác với quy trình 1 khi đương sự là chủ thể có nghĩa vụ thì quy

trình 2 này, đương sự ở vị thế có quyền cung cấp khi việc áp dụng pháp

luật nước ngoài không dựa trên thỏa thuận mà dựa trên pháp luật Việt Nam,

điều ước quốc tế quy định áp dụng pháp luật nước ngoài. Trong quy trình

này, Tòa án là trung tâm có nghĩa vụ đảm bảo việc tìm kiếm pháp luật nước

ngoài phù hợp. Để làm được điều này, Tòa án có thể trực tiếp hoặc yêu cầu

cơ chế phối hợp từ Bộ Tư pháp; Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan đại diện ngoại

giao Việt Nam ở nước ngoài cung cấp (theo Khoản 2 Điều 481) hoặc yêu

cầu chuyên gia pháp luật nước ngoài cung cấp (theo Khoản 3 Điều 481).

Nhìn chung cả hai quy trình được quy định ở Điều 481 đều cho thấy

một thực tế là Tòa án phải đóng vai trò trung tâm của hoạt động chứng

minh áp dụng pháp luật nước ngoài. Đồng thời, việc xây dựng một cơ chế

phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan tư pháp – ngoại giao là bắt buộc

tương tự như cơ chế tương trợ tư pháp dân sự đang được áp dụng hiện nay.

Trong hoạt động phối hợp này, Bộ Tư pháp là cơ quan chủ yếu có được

thông tin về pháp luật nước ngoài qua việc trao đổi thông tin pháp luật các

nước theo kênh chính thức giữa các cơ quan trung ương trong Hiệp định

tương trợ tư pháp, tuy nhiên thực tiễn hiện nay phương thức này cũng mất

rất nhiều thời gian, không đảm bảo việc xử lý hiệu quả kịp thời các vụ việc

theo thủ tục tố tụng. Việc bổ sung cơ chế chuyên gia tham gia vào quá trình

cung cấp pháp luật nước ngoài được bổ sung nhằm tận dụng các chuyên gia

pháp lý đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín, luật sư được

đào tạo và có chứng chỉ hành nghề tại nước ngoài có thể cung cấp nhiều

thông tin cập nhật về pháp luật nước ngoài cho Tòa án Việt Nam.

33

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa phủ nhận nghĩa vụ chứng

minh của đương sự sau khi thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài. Pháp

luật một số quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ có quy định trường hợp mặc dù

quy phạm xung đột có dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng khi

xét xử, cơ quan tòa án sẽ không áp dụng nếu các đương sự không chứng

minh sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài cũng như không đưa ra

được những chứng cứ cần thiết để chứng minh điều này.

1.2.2 Thực hiện nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của T a án

Việt Nam

Thực tế tại các hội thảo về Tư pháp quốc tế Việt Nam cho thấy các

Tòa án Việt Nam có xu hướng “không áp dụng pháp luật nước ngoài” do

những hạn chế về mức độ am hiểu và năng lực cán bộ xét xử, khả năng

tương trợ tư pháp trong quá trình xét xử giữa hệ thống Tòa án Việt Nam và

cơ quan thẩm quyền nước ngoài. Tuy nhiên, trước xu thế chung của tư

pháp thế giới, hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ có xu hướng gia

tăng và trở thành nhu cầu tất yếu khi Việt Nam hội nhập. Hướng dẫn quy

định về nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam,

dự thảo Nghị quyết hướng dẫn như sau:

- Tòa án Việt Nam có thể lựa chọn một trong các cơ quan, tổ chức,

cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài sau đây để cung cấp thông

tin về pháp luật nước ngoài: (a) công ty luật nước ngoài được phép hoạt

động tại Việt Nam; (b) công ty luật, văn phòng luật sư, luật sư, luật gia

trong nước, chuyên gia pháp lý có kiến thức chuyên môn về pháp luật nước

ngoài liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự.

- Chi phí cho chuyên gia do các bên đương sự phải chịu.

34

Dựa trên các hướng dẫn kể trên có thể thấy nội dung điều chỉnh về

nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án còn chưa cụ thể và

mới chỉ đề cập tới những vấn đề cơ bản đã được nói tới tại Điều 481

BLTTDS năm 2015. Những chủ thể có chuyên môn được đề cập trong

hướng dẫn kể trên chỉ “liệt kê” những đơn vị, tổ chức mà Tòa án Việt Nam

có thể căn cứ. Việc tham vấn các chuyên gia có 02 mục đích, trước hết để

chứng minh sự tồn tại của pháp luật nước ngoài áp dụng thông qua việc

cung cấp thông tin về việc ban hành, công bố, hiệu lực, nội dung của các

quy chế pháp lý, hiến pháp, luật, quyết định…và đồng thời chứng minh

việc áp dụng những nội dung pháp luật đó cho vụ việc đang thụ lý. [39]

Tuy nhiên, thực tế là việc cung cấp pháp luật nước ngoài một cách

chính thống nhất với những giải thích đầy đủ nhất phải đến từ hệ thống cơ

quan lập pháp hoặc hành pháp nước sở tại, chứ không phải từ các tổ chức

nghề nghiệp như công ty luật, văn phòng luật…

1.2.3 Thực hiện nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài của đương

sự

Trên cơ sở quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự tại

Khoản 1 Điều 481 BLTTDS năm 2015, dự thảo Nghị quyết hướng dẫn có

quy định về nghĩa vụ cụ thể của đương sự trong quá trình xác định và cung

cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án như sau [10, Khoản 1 Điều 14]:

- Đương sự phải dịch gửi cho Tòa án nội dung pháp luật nước ngoài

liên quan đến quan hệ pháp luật đó cùng bản dịch ra tiếng Việt có công

chứng hoặc chứng thực chữ ký người dịch; trường hợp nội dung pháp luật

nước ngoài được cơ quan nước ngoài cấp thì ngoài việc công chứng dịch

hoặc chứng thực chữ ký còn phải thực hiện hợp pháp hóa lãnh sự.

35

Dựa vào quy định nói trên, có thể thấy nghĩa vụ của đương sự trong

áp dụng pháp luật nước ngoài khá đơn giản và dường như không có bất kỳ

ràng buộc pháp lý nào đối với chủ thể này khi cung cấp các tài liệu kể trên.

Điều này đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật

nước ngoài đó là, đương sự phải là chủ thể có trách nhiệm và tích cực trong

toàn bộ quy trình áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc của

mình. Quy định hướng dẫn kể trên trong dự thảo Nghị quyết cũng không

đặt ra bất kỳ tiêu chí nội dung nào cho nguồn tài liệu pháp luật nước ngoài

do đương sự cung cấp mà chỉ dừng ở quy định về hình thức “công chứng

dịch” và “hợp pháp hóa lãnh sự”. Điều này cho thấy những hướng dẫn này

là chưa đủ để cơ quan liên quan thực hiện.

1.3 Vai trò của ủ t ác tƣ p áp đối với oạt độn c ứn min p áp

luật nƣớc n oài

1.3.1 Tình hình hoạt động ủy thác tư pháp

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian 6

năm (2013-2018) Tòa án thông qua Bộ Tư pháp đã chuyển cho cơ quan có

thẩm quyền nước ngoài, Bộ Ngoại giao 17.154 hồ sơ yêu cầu ủy thác tư

pháp tống đạt văn bản tố tụng và TTCC. Trong số đó, đa phần là các hồ sơ

yêu cầu ủy thác tư pháp để yêu cầu nước ngoài thực hiện theo con đường

ngoại giao. Số hồ sơ yêu cầu ủy thác còn lại được gửi đến một số nước

thành viên Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam như: Nga, Trung

Quốc, Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ba Lan, Séc và Xlô-va-ki-a, Lãnh thổ

Đài Loan.

Tuy nhiên, chỉ có 9.532/17.154 yêu cầu được thực hiện; số hồ sơ yêu

cầu ủy thác tư pháp không được thực hiện là 7.622, chiếm 44,43% tổng số

36

yêu cầu gửi ra nước ngoài. Điều đáng quan tâm là đa số những hồ sơ yêu

cầu ủy thác tư pháp không được thực hiện đều là những hồ sơ yêu cầu thực

hiện theo đường ngoại giao theo nguyên tắc có đi có lại.

Bảng 1.1. ố lượng yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài và kết quả

thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp của T a án Việt Nam giai đoạn 2013-

2018

Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018

3377 3360 3149 3338 1861 2069 Số lƣợn êu cầu ủ t ác tƣ

p áp

1710 1793 2126 1890 855 1158 Số lƣợn êu cầu đƣợc t ực

iện

Tổn cộn số lƣợn êu cầu đƣợc t ực iện: 9532

(Nguồn: Báo Pháp luật Việt Nam, tháng 3 năm 2019)

(Theo Khoản 1, Điều 10, Thông tư liên tịch 12/2016 TTLT-BTP-

BNG-TANDTC quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh

vực dân sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự mà cần tiến hành

hoạt động tố tụng ở nước ngoài thì các cơ quan sau đây có thẩm quyền yêu

cầu ủy thác tư pháp ở Việt Nam: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân

dân cấp cao; Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác theo

quy định của pháp luật).

37

Thẩm quyền ủy thác tư pháp về dân sự

Cũng trong thời gian từ 2013 đến 2018, Tòa án Việt Nam nhận được

4.910 yêu cầu ủy thác tư pháp của nước ngoài. Các yêu cầu này chủ yếu là

của các nước chưa cùng với Việt Nam là thành viên Hiệp định tương trợ tư

pháp, CƯTĐGT. Trong đó, Tòa án Việt Nam đã thực hiện được

2592/4.910 yêu cầu ủy thác tư pháp.

Bảng số 1.2. ố lượng yêu cầu ủy thác tư pháp của nước ngoài cho Việt

Nam và kết quả thực hiện yêu cầu giai đoạn 2013-2018

Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018

872 825 805 666 753 989 Số lƣợn êu cầu của nƣớc

n oài

405 414 460 284 439 590 Số lƣợn êu cầu đƣợc t ực

iện

Tổn cộn số lƣợn êu cầu đƣợc t ực iện: 2592

(Nguồn: Báo Pháp luật Việt Nam, tháng 3 năm 2019)

38

Với thực tiễn yêu cầu và kết quả thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp ra

nước ngoài như trên, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2004; trong đó phần quy định về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài của BLTTDS năm 2015 cho phép Tòa án xét xử vắng

mặt đương sự ở nước ngoài trong một số trường hợp cụ thể mà Tòa án

không nhận được kết quả ủy thác tư pháp ra nước ngoài để bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong nước. Giải pháp này phù hợp với

thông lệ quốc tế cũng như phù hợp với quy định về cho phép Tòa án xét xử

vắng mặt đương sự ở nước ngoài quy định tại Công ước Tống đạt giấy tờ

mà Việt Nam là thành viên từ năm 2016 [16].

1.3.2 Tương trợ tư pháp với hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài

Căn cứ Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Uỷ thác tư pháp là yêu

cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan

có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt

động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan

hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên [27, Khoản 1 Điều 6].

Trong nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài, phạm vi tương trợ tư

pháp giữa Việt Nam và nước ngoài dự kiến bao gồm:

(1) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến pháp luật nước

ngoài;

(2) Triệu tập chuyên gia, luật sư, luật gia nước ngoài;

(3) Tương trợ về giải thích pháp luật. Trong đó, hiện chỉ có hoạt

động tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu được ghi nhận trong Luật Tương trợ tư

pháp hiện hành năm 2007 [27, Điều 10].

39

Tương trợ tư pháp của nước ta hiện được hỗ trợ đáng kể bởi việc

Việt Nam gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế vào ngày

10/4/2013; gia nhập Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước

ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc

thương mại vào năm 2016 và phê chuẩn việc gia nhập Công ước La Hay

1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc

thương mại vào ngày 13/01/2020. Vai trò của các công ước này rất quan

trọng trong việc hỗ trợ Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có

yếu tố nước ngoài, trong đó dự kiến có việc chứng minh pháp luật nước

ngoài thời gian tới. Cụ thể:

- Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư

pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại: giúp Việt

Nam không mất thời gian, nhân lực và kinh phí cho việc đàm phán điều

ước quốc tế song phương mà cùng một lúc thiết lập được quan hệ hợp tác

tương trợ tư pháp, tống đạt giấy tờ với nhiều quốc gia. Tuy nhiên, Công

ước tống đạt giấy tờ chỉ điều chỉnh việc thực hiện UTTP về tống đạt giấy

tờ. Trong hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài, việc tống đạt các

văn bản của Tòa án Việt Nam tới các cơ quan thẩm quyền của nước ngoài

đề nghị tương trợ về chuyên môn đối với nội dung pháp luật nước ngoài

được áp dụng sẽ diễn ra thường xuyên đòi hỏi quá trình luân chuyển văn

bản, giấy tờ phải được thông suốt và nhanh chóng.

40

ình 1.3. Quy trình thực hiện yêu cầu tống đạt giấy tờ của nước ngoài

theo Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG ngày 19/10/2016 của

Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, T a án nhân dân tối cao về quy trình, thủ

tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự

(Nguồn: Sổ tay hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp lĩnh vực dân sự

tại Việt Nam)

- Công ước LaHay 1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong

lĩnh vực dân sự hoặc thương mại: hiện có 62 quốc gia thành viên, là cơ sở

pháp lý quốc tế quan trọng cho hoạt động hợp tác tương trợ tư pháp trong

lĩnh vực thu thập chứng cứ. Những quốc gia mà Việt Nam có nhu cầu

tương trợ tư pháp thu thập chứng cứ cao đều là thành viên của Công ước

này, ngoài các quốc gia thành viên thuộc Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc như

Đức, Anh, Hoa Kỳ, Australia phải kể đến một số quốc gia Đông Nam Á và

Châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore cũng đã gia nhập Công ước

từ rất sớm.

Bên cạnh đó, xu thế chung của các quốc gia là đều đồng thời tham

41

gia Công ước thu thập chứng cứ và Công ước tống đạt giấy tờ (hiện nay có

đến 53 quốc gia đồng thời tham gia cả hai Công ước) bởi lẽ đây là một cặp

công cụ pháp lý đồng hành, hỗ trợ cho hoạt động tương trợ tư pháp, giúp

giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại một cách nhanh chóng, triệt để.

Khi gia nhập Việt Nam tuyên bố bảo lưu đối với việc thực hiện qua kênh

thu thập chứng cứ bổ sung.

Để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, theo quy định của

Điều 35 Công ước, Việt Nam đã chỉ định Bộ Tư pháp là Cơ quan Trung

ương để thực hiện nhiệm vụ nhận Văn bản yêu cầu từ các quốc gia thành

viên, chuyển trả văn bản xác nhận thực hiện yêu cầu và thông báo lý do của

việc không thực hiện yêu cầu. Hiện nay, theo quy định của Luật Tương trợ

tư pháp năm 2007, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối tiếp nhận yêu cầu tương

trợ tư pháp về dân sự với nước ngoài (ủy thác ra) và của nước ngoài (ủy

thác vào), trong đó có các yêu cầu thu thập chứng cứ. Do đó, việc chỉ định

Bộ Tư pháp là Cơ quan Trung ương của Việt Nam phù hợp với quy định

pháp luật Việt Nam, các Hiệp định TTTP trong lĩnh vực dân sự.

Ngoài ra, Việt Nam hiện đang nghiên cứu tham gia Công ước

LaHaye 2005 về thỏa thuận lựa chọn tòa án. Một phần nội dung về quyền

thỏa thuận lựa chọn tòa án đã được đưa vào BLTTDS năm 2015 với nhiều

điểm khác biệt so với luật cũ. Như tại Điều 472 BLTTDS năm 2015 đã đề

cập tới khái niệm “Thỏa thuận lựa chọn Tòa án nước ngoài”. Việc gia nhập

Công ước về lựa chọn Tòa án sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho

các đương sự trong các tranh chấp dân sự được chủ động trong việc thỏa

thuận lựa chọn tòa án nước ngoài hoặc Việt Nam cũng như lựa chọn pháp

luật nước ngoài để áp dụng [20, tr.23-32].

42

Song hành với hệ thống văn kiện pháp lý quốc tế về tư pháp quốc tế

hỗ trợ cho hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài, thì mới đây Dự

thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao về: Phần

8 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu

tố nước ngoài đang được lấy ý kiến. Tuy nhiên, quy định liên quan còn

chung chung, chưa cụ thể.

Với khung pháp lý về điều ước về tư pháp quốc tế như vậy, hoạt

động chứng minh pháp luật nước ngoài được hỗ trợ đáng kể.

43

T ỂU K T HƢƠN 1

Tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài là một khái niệm được phân

tích có sự khác biệt so với tranh chấp dân sự thông thường bởi yếu tố đặc

thù về nội dung và chủ thể tham gia. Theo pháp luật Việt Nam, việc áp

dụng luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam phải dựa trên một trong các căn

cứ gồm: các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; theo sự thỏa

thuận của đương sự hoặc theo pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó

nhất, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự toàn vẹn về ý chí và hình

thức pháp luật nước ngoài.

Khi phát sinh một tranh chấp như vậy, các quốc gia trên thế giới có

nhiều lựa chọn trong xây dựng quy định về xác định nội dung pháp luật

nước ngoài được áp dụng. Trên cơ sở kế thừa quan điểm pháp lý truyền

thống, BLTTDS năm 2015 và dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thống nhất

quan điểm nghĩa vụ chứng minh thuộc hệ thống Tòa án khi tồn tại các quy

phạm xung đột dẫn chiếu, trường hợp đương sự thỏa thuận thì nghĩa vụ

chứng minh thuộc về đương sự.

Đối với nghĩa vụ chứng minh của Tòa án trong trường hợp có dẫn

chiếu hoặc hoạt động phối hợp với cơ quan tư pháp – ngoại giao khi

đương sự không thống nhất về pháp luật nước ngoài áp dụng, việc lựa

chọn đơn vị cung cấp pháp luật nước ngoài bao gồm hệ thống văn bản;

các tham vấn chuyên môn và giải thích pháp luật là yếu tố quyết định.

Những hướng dẫn hiện hành mới chỉ ghi nhận chủ thể tham vấn mới dừng

ở các đơn vị tư vấn luật trong nước và ngoài nước mà chưa xây dựng cơ

chế phối hợp tham vấn các cơ quan lập pháp – hành pháp và tư pháp của

quốc gia. Đây là một hạn chế lớn trong bối cảnh hoạt động tương trợ tư

44

pháp dân sự của Việt Nam mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đã có gần 20

năm triển khai, hoàn toàn có thể hỗ trợ đương sự và Tòa án Việt Nam

trong cung cấp pháp luật nước ngoài.

45

CHƢƠN 2

THỰ T ỄN PH P LUẬT V ỆT NAM V K NH N H ỆM QU

T VỀ N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ N O

ỦA T A N TRON QU T TRANH H P N SỰ

U T NƢ N O

2.1 T ực tiễn p áp luật Việt Nam về n ĩa vụ c ứn min p áp luật

nƣớc n oài của Tòa án Việt Nam

2.1.1 ạn chế trong quy định chung về tố tụng dân sự có yếu tố nước

ngoài

Hiện nay, mặc dù BLTTDS năm 2015 của Việt Nam đã có nhiều thay

đổi liên quan tới quy trình tố tụng dân sự đối với các tranh chấp có yếu tố

nước ngoài nhưng thực tế xét xử vẫn bộc lộ một số hạn chế ảnh hưởng phần

nào tới hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt Nam. Cụ

thể:

Thứ nhất, tiêu chí xác định đương sự là “người Việt Nam định cư ở

nước ngoài” làm cơ sở áp dụng tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài (trong

đó có quy trình chứng minh pháp luật nước ngoài).

BLTTDS năm 2015 đã loại bỏ tiêu chí tình trạng cư trú của chủ thể

là “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” khi xác định tiêu chí vụ việc

dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều này xuất phát từ những bất cập do quy

định tại Điều 3 khoản 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP hướng dẫn BLDS

năm 2005 trước đây và Luật Quốc tịch năm 2008 đều quy định “Người Việt

Nam định cư ở nước ngoài là người có quốc tịch Việt Nam và người gốc

Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Tuy nhiên,

46

lại không có văn bản pháp luật hay hướng dẫn xác định thế nào là “cư trú,

sinh sống lâu dài” dẫn đến việc khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật.

Để tháo gỡ vướng mắc này BLTTDS năm 2015 đã loại bỏ tiêu chí tình

trạng cư trú ra ngoài các tiêu trí xác định vụ việc dân sự có yếu tố nước

ngoài.

Thực tiễn khi gặp vụ việc đương sự là người Việt Nam ở nước ngoài

(nếu không thuộc các tiêu chí tại Khoản 2 Điều 464 BLTTDS năm 2015)

thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết sẽ áp dụng pháp luật giải quyết theo

thủ tục thông thường. Việc áp dụng này mặc dù đã khắc phục được hạn chế

từ luật cũ nhưng chưa phản ánh được tính đặc thù của chế định thủ tục giải

quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan trực tiếp đến đương sự

ở nước ngoài. Với vụ việc đương sự ở nước ngoài nhưng tiến hành thủ tục

tố tụng như vụ việc dân sự thông thường sẽ không bảo đảm được quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự ở nước ngoài, gây khó khăn cho Tòa án

trong công tác áp dụng pháp luật. [1]

Ví dụ vụ án: Chị X (quốc tịch Việt Nam) đăng ký kết hôn với anh Y

(quốc tịch Việt Nam) tại UBND xã M, thị xã N, tỉnh Z. Sau một thời gian

chung sống, anh Y đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Thời gian lao động

nước ngoài, chị X làm đơn xin ly hôn. Theo Điều 464 BLTTDS 2015 thì

đây không thuộc trường hợp vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, trình tự

giải quyết theo thủ tục thông thường, Tòa án phải thực hiện nhiều lần việc

cấp tống đạt các văn bản như: Thông báo thụ lý, Thông báo mở phiên họp

kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ

án ra xét xử; Giấy triệu tập lần 1; Giấy triệu tập lần 2; Bản án sơ thẩm…

Với thời hạn nêu trên và thủ tục thông thường thì Tòa án không thể giải

quyết được đúng thời hạn trong vụ án trên. [1]

47

ơ đồ 2.1. giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015

(Nguồn: https://danluat.thuvienphapluat.vn/)

48

Thứ hai, còn tồn tại những bất cập khi pháp luật nước ngoài được

lựa chọn trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Khoản 1 Điều 664 BLDS năm 2015 quy định: “Pháp luật áp dụng

đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước

quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật

Việt Nam”. Điểm mới đáng lưu ý ở đây là BLDS năm 2015 đã thiết lập thứ

tự ưu tiên áp dụng giữa Điều ước quốc tế và Luật quốc gia. Cũng theo Điều

664 BLDS năm 2015, Điều ước quốc tế về nội dung được áp dụng ưu tiên

so với Điều ước quốc tế về xung đột (dưới dạng các Hiệp định song

phương về tương trợ tư pháp…).

Tuy nhiên, BLDS năm 2015 vẫn chưa giải quyết được vấn đề xung

đột giữa hai Điều ước quốc tế về nội dung hoặc giữa hai Điều ước quốc tế

về xung đột luật. Ví dụ: hai văn kiện song phương ký kết giữa Việt Nam và

một quốc gia khác đều dẫn chiếu tới việc áp dụng hai hệ thống pháp luật

khác nhau về cùng vấn đề thì hiện chưa có cơ sở để áp dụng ưu tiên hệ

thống nào.

2.1.2 ạn chế trong quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài

Thứ nhất, cần hướng dẫn chi tiết về trình tự và cách thức áp dụng

pháp luật nước ngoài trong tố tụng dân sự Việt Nam.

Hiện nay, mặc dù áp dụng pháp luật nước ngoài được đã được quy

định cụ thể hơn trong BLTTDS năm 2015 tuy nhiên nếu so sánh với các

điều khoản hướng dẫn hoạt động áp dụng pháp luật Việt Nam thì các quy

định này còn quá ít, chưa phản ánh được thực chất đây là quá trình tố tụng

cần hướng tới trong bối cảnh quốc tế hóa như hiện nay. Với các quy định

tại Điều 481 BLTTDS năm 2015; hướng dẫn tại dự thảo Nghị quyết về giải

49

quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thì pháp luật hiện hành mới

điều chỉnh 02 nội dung cơ bản là: thời điểm nào và chủ thể nào có nghĩa vụ

cung cấp pháp luật nước ngoài; và chi phí cho quá trình phối hợp cung cấp

pháp luật nước ngoài do chủ thể nào chịu. Còn rất nhiều nội dung khác

chưa có hướng dẫn như: phạm vi nội dung pháp luật nước ngoài cần cung

cấp; đầu mối cơ quan thẩm quyền nước ngoài về vấn đề này; chủ thể chịu

trách nhiệm về tính hợp pháp và chính xác của tài liệu pháp luật nước

ngoài; hồ sơ chi tiết và biểu mẫu hướng dẫn…

Thứ hai, thiếu quy phạm áp dụng bắt buộc.

Quy phạm áp dụng bắt buộc là một khái niệm để chỉ các quy phạm

phải được áp dụng cho một quan hệ dân sự nhất định, thường liên quan tới

trật tự công hoặc áp dụng cho một hoàn cảnh quốc tế đặc thù. Thực tiễn

pháp lý của Bỉ ghi nhận khái niệm này ở Điều 20 Bộ luật Tư pháp quốc tế

đồng thời đảm bảo tính toàn vẹn ý nghĩa của các quy phạm xung đột [4].

Việc bổ sung quy phạm áp dụng bắt buộc là cần thiết trong các trường hợp

việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong một số bối cảnh đặc biệt không có

lợi cho trật tự công cộng của quốc gia.

2.1.3 ạn chế trong quy định về nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước

ngoài của T a án Việt Nam

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa quy định về trách nhiệm của Toà

án Việt Nam trong việc tìm kiếm và xác định nội dung pháp luật nước

ngoài.

Điều 481 BLTTDS năm 2015 là một quy định hoàn toàn mới trong

Tư pháp quốc tế Việt Nam trong đó xác định rõ trách nhiệm của đương sự

cũng như các cơ quan Nhà nước trong việc cung cấp và xác định pháp luật

50

nước ngoài. Như đã đề cập, trong trường hợp các đương sự lựa chọn pháp

luật nước ngoài để áp dụng thì nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài cho

Toà án giải quyết vụ việc dân sự thuộc về các bên, các đương sự phải chịu

trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã

cung cấp. Trong trường hợp này, các cơ quan nhà nước như Bộ Ngoại giao,

Bộ Tư pháp, cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài chỉ

có trách nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài khi được Tòa án Việt Nam

yêu cầu. Ngược lại, trong trường hợp pháp luật nước ngoài cần được áp

dụng theo sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam

hoặc trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì việc cung cấp

pháp luật nước ngoài là quyền chứ không phải nghĩa vụ của các đương sự.

Với trường hợp này, Toà án có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của

Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài. Toà án cũng có thể yêu cầu cơ

quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp

thông tin về pháp luật nước ngoài.

Tuy nhiên, thực tế ngoài quy định này thì hiện chưa có bất kỳ hướng

dẫn cụ thể nào của ngành Tòa án trong hoạt động cung cấp và chứng minh

pháp luật nước ngoài. Điều này có thể sẽ là một kẽ hở dẫn đến việc Toà án

có tâm lý “bỏ qua” việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các

tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.

Thứ hai, những hướng dẫn về nghĩa vụ chứng minh của Tòa án chưa

tận dụng và kết nối với các quy định về tương trợ tư pháp.

Với thực tiễn tương trợ tư pháp khá phong phú và việc tăng cường

gia nhập các công ước về tư pháp quốc tế, Việt Nam hiện nay có tương đối

đầy đủ các điều kiện để thực thi hoạt động cung cấp pháp luật nước ngoài

51

để Tòa án Việt Nam áp dụng. Về phạm vi tương trợ tư pháp, các hoạt động

tống đạt văn bản, chứng cứ, tài liệu liên quan tới pháp luật nước ngoài

không có gì khác biệt với quy trình tống đạt văn bản phục vụ tố tụng dân sự

thông thường. Thậm chí ở một số quốc gia, quy trình cung cấp pháp luật

nước ngoài còn đơn giản hơn so với tống đạt tài liệu tố tụng do thực tế tài

liệu pháp luật nước ngoài là những tài liệu được công bố, phổ thông và

chính thống.

Thứ ba, tiêu chí tổ chức chuyên môn cung cấp pháp luật nước ngoài

chưa đầy đủ và thiếu hợp lý.

Các quy phạm pháp luật được xây dựng trên cơ sở khái quát các mô

hình hành vi của các chủ thể trong xã hội. Để đưa pháp luật vào cuộc

sống, các chủ thể phải làm điều ngược lại, áp dụng các quy phạm pháp

luật với tư cách là quy tắc xử sự chung vào từng trường hợp cụ thể. Chính

nội dung của các quy phạm pháp luật không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ

hiểu và hoàn toàn sát hợp với tình huống phát sinh trong cuộc sống đã làm

phát sinh hoạt động giải thích pháp luật. Hoạt động này nhằm làm sáng tỏ

nội dung, tư tưởng của các quy phạm pháp luật để có nhận thức đúng và

thực hiện đúng pháp luật [15].

“Giải thích pháp luật” (tiếng Anh: statutory interpretation) là một

thuật ngữ dùng để chỉ một quá trình xác định ý nghĩa đúng của một văn bản

luật/pháp luật được thực hiện bởi chủ yếu là cơ quan tư pháp, trên nền tảng

một số nguyên tắc nhất định, nhằm xác định ý nghĩa của một quy định pháp

luật và áp dụng vào giải quyết một vụ việc cụ thể, trong trường hợp quy

định đó chưa rõ nghĩa [23]. Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ và Châu Âu lục

địa lại có xu hướng khác nhau trong lựa chọn cơ quan giải thích pháp luật,

52

thông thường trao quyền cho hệ thống tòa án nhưng cũng không ít quốc gia

trao quyền này cho hệ thống cơ quan hành chính hoặc lập pháp.

Như vậy, việc cung cấp pháp luật nước ngoài nếu theo hướng dẫn tại

dự thảo Nghị quyết thuộc về các tổ chức nghề nghiệp như văn phòng luật,

công ty luật, luật sư, luật gia…đang đi ngược lại với ý nghĩa ban đầu của

hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài, đó là “lựa chọn cơ quan tin cậy và

thấu hiểu nhất về pháp luật nước ngoài”.

Thứ tư, cần tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của đương sự trong

trình tự áp dụng pháp luật nước ngoài.

Các quy định hiện hành dường như đang tập trung tăng cường vai

trò của Tòa án – cơ quan giải quyết tranh chấp trong trình tự áp dụng pháp

luật nước ngoài, khi mà việc lựa chọn áp dụng này có lợi cho đương sự

chứ không có lợi cho hệ thống tư pháp. Mặc dù đã có hướng dẫn về nghĩa

vụ cung cấp pháp luật nước ngoài hay thanh toán chi phí tham vấn chuyên

môn nhưng dường như các quy định hiện còn quá dễ dãi với các đương sự

lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài. Do vậy, cần nghiên cứu bổ sung

thêm các nghĩa vụ tương trợ của đương sự tham gia phối hợp cùng hệ

thống tư pháp để xác minh tính hợp pháp, đúng đắn của pháp luật nước

ngoài khi Tòa án Việt Nam được cung cấp, để đảm bảo hoạt động áp dụng

pháp luật này không quá dễ dàng.

Thứ năm, những nghiên cứu pháp lý độc lập của Tòa án đối với

những nội dung pháp luật nước ngoài được áp dụng có thể gặp khó khăn.

Những bất cập trong áp dụng pháp luật nước ngoài có thể xuất phát

từ chính những báo cáo nghiên cứu pháp luật độc lập do Tòa án thực hiện

bởi nhiều lí do. Trước hết, những khác biệt về trình độ lập pháp và tính

53

chuẩn mực trong ngôn ngữ pháp lý giữa các quốc gia [37].

Ví dụ: không thể so sánh những giải thích pháp luật Hoa Kỳ với

pháp luật của một quốc gia kém phát triển hoặc bất cập đến từ những hệ

thống pháp luật nước ngoài có nhiều điểm tương đồng với pháp luật sở tại.

Thật vậy, sự tương đồng đáng kể trong nội dung có thể dẫn tới việc cơ quan

xét xử bỏ qua hoặc tùy tiện áp dụng kế thừa mà không cân nhắc tới việc

trưng cầu tham vấn pháp luật nước ngoài, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới

kết quả xử lý vụ việc tranh chấp.

2.2 Một số kin n iệm quốc tế tron oạt độn c ứn min nội dun

p áp luật để iải qu ết xun đột p áp luật

Thứ nhất, để đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật, nhiều

quốc gia lựa chọn xây dựng quy định riêng để xác định pháp luật nước

ngoài được áp dụng.

Để đảm bảo hoạt động chứng minh pháp luật nước ngoài được áp

dụng, cũng giống như Việt Nam, nhiều quốc gia cũng ban hành những

điều kiện riêng.

Ví dụ: Điều 14 Luật Tư pháp quốc tế của Thụy Sỹ năm 1987 (sửa

đổi năm 2014) quy định trong trường hợp luật áp dụng cho quan hệ dẫn

chiếu đến pháp luật nước ngoài khác thì pháp luật nước ngoài đó sẽ

được áp dụng phù hợp với những quy định của luật Tư pháp quốc tế

Thuỵ Sỹ. Điều 116 của bộ luật này cũng quy định pháp luật điều chỉnh

hợp đồng là luật do các bên trong hợp đồng lựa chọn (bao gồm cả pháp

luật nước ngoài).

Điều 3 và Điều 41 Luật Tư pháp quốc tế của Trung Quốc năm 2010

cũng ghi nhận việc cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng lựa chọn luật

54

áp dụng cho quan hệ của mình, phù hợp với quy định của pháp luật Trung

Quốc.

Điều 34 Luật Tư pháp quốc tế Bỉ năm 2004 quy định “Ngoại trừ

những vấn đề được đạo luật này quy định khác, luật của nước mà cá nhân

mang quốc tịch sẽ điều chỉnh địa vị và năng lực của cá nhân đó”.

Liên quan đến việc xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Quy

định Rome I đã đề cập tại Điều 22, cụ thể là trường hợp pháp luật nước

ngoài được xác định để áp dụng điều chỉnh hợp đồng bao gồm nhiều hệ

thống pháp luật của các khu vực lãnh thổ trong cùng Nhà nước đó.

Với những trường hợp này, mỗi đơn vị lãnh thổ có những quy định

pháp luật riêng thì pháp luật của lãnh thổ đó được xem là pháp luật của một

quốc gia trong việc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng. Quy định

như vậy đã để cho chính các quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu

được tự xác định nguyên tắc xác định pháp luật giữa các lãnh thổ nội bộ

của họ. Theo đó, nếu tranh chấp liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp

luật của Anh, Wales, Scotland và Bắc Ireland thì việc xác định pháp luật áp

dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp

luật Vương quốc Anh.

Thứ hai, pháp luật khu vực có xu hướng xây dựng hệ thống thông tin

pháp luật chung cho các thành viên.

Để xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Liên minh Châu Âu xây

dựng và thông qua Công ước về cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài

năm 1968 (The 1968 European Convention on Information on Foreign

law): bất kỳ một yêu cầu cung cấp thông tin nào cũng phải được khởi

xướng từ một cơ quan có thẩm quyền mặc dù yêu cầu đó có thể không xuất

55

phát từ nhu cầu của cơ quan này và yêu cầu này chỉ có thể được xác lập khi

vụ việc có liên quan đã chính thức được tiếp nhận và trong quá trình giải

quyết. Điều này được hiểu là trong quá trình giải quyết tranh chấp, bất kỳ

chủ thể nào có liên quan cũng có thể phát sinh nhu cầu được cung cấp

thông tin về pháp luật nước ngoài nhưng tất cả những nhu cầu đó đều phải

được chuyển đến cơ quan có thẩm quyền (cơ quan tiếp nhận) và cơ quan

này sẽ thực hiện những công đoạn tiếp theo, các chủ thể khác không có

thẩm quyền sẽ không được tự gửi đi những yêu cầu như thế. Và yêu cầu

này sẽ được chuyển trực tiếp cho cơ quan tiếp nhận của quốc gia nước

ngoài.

Nội dung của yêu cầu này phải thể hiện rõ những điểm sau:

(i) Chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin là ai cũng như tình tiết của vụ

việc đang được giải quyết;

(ii) Thể hiện ở mức chính xác nhất có thể những thông tin cần cung

cấp liên quan đến pháp luật nước ngoài;

(iii) Nếu quốc gia nước ngoài nhận được yêu cầu có nhiều hệ thống

pháp luật thì cần chỉ rõ cần tìm hiểu thông tin của hệ thống pháp luật nào.

Cùng với đó, Công ước cũng có những quy định khá rõ ràng cụ thể liên

quan đến thời gian, ngôn ngữ và chi phí liên quan đến hoạt động cung cấp

thông tin pháp luật nước ngoài. Với những quy định nêu trên, Công ước đã

xây dựng nên một cơ chế khá chặt chẽ và hiệu quả để giúp các quốc gia

thành viên có thể tiến hành hoạt động cung cấp và tiếp nhận thông tin về

pháp luật nước ngoài, các quốc gia Belarus, Costa Ria và Mexico đã tham

gia Công ước mặc dù không phải là thành viên EU. [38]

Bên cạnh đó, một bộ giải pháp chia sẻ pháp luật trực tuyến đã được

56

EU triển khai nhằm thúc đẩy quá trình thông tin pháp luật giữa các quốc

gia trong liên minh, cụ thể là:

- ELI (European Legislation Identifier): ELI là một giải pháp trang

web điện tử cho phép truy cập trực tiếp luật pháp quốc gia thông qua định

danh. ELI tạo ra một hệ thống chung nhằm chia sẻ luật pháp và dữ liệu luật

pháp, cho phép truy xuất tới nguồn pháp luật để sử dụng, đọc và hiểu.

Nguồn luật pháp được sử dụng trong ELI được chuẩn hóa, sắp xếp, tổng

hợp và kết nối với nhau giữa các quốc gia. Hiện ELI được thiết lập tại các

quốc gia thành viên và các thiết chế hiện tại của EU.

ình 2.1. Giải pháp ELI đang được triển khai tại EU

(Nguồn: website EuroLex)

- ECLI (European Case Law Identifier): khác với ELI, ECLI là

một hệ thống nhằm tăng cường khả năng truy cập các án lệ, tình huống

pháp lý trên môi trường internet, gồm 03 thành phần cơ bản:

(1) Hệ thống case law ECLI;

57

(2) Hệ thống tìm kiếm các case law trong dữ liệu; và

(3) Hệ thống tìm kiếm các nghiên cứu đa ngôn ngữ và quốc tế về

case law. ECLI được thiết lập tại các quốc gia thành viên và Tòa án Công

lý liên minh Châu Âu nhằm thuận lợi hóa quá trình tra cứu các bản án,

quyết định, án lệ tại các quốc gia thành viên.

ình 2.2. Giải pháp ECLI đang được triển khai tại EU

(Nguồn: Website EuroLex)

Thứ ba, các quốc gia nhấn mạnh vai trò chủ động của đương sự

trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài.

Liên quan đến việc chứng minh, xác định pháp luật nước ngoài áp

dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung, pháp luật của

Hoa Kỳ ghi nhận tại Điều 44.1 Bộ luật tố tụng dân sự liên bang quy định

58

rằng một bên tham gia quan hệ có yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài

thì phải đưa ra thông báo bằng văn bản chính thức hoặc một hình thức

khác tương tự như văn bản.

Trong việc xác định pháp luật nước ngoài, Toà án có thể xem xét bất

kỳ nguồn hay công cụ nào có liên quan, bao gồm bản lời khai – có hoặc

không được đệ trình bởi các bên tham gia quan hệ hoặc được chấp nhận

theo Luật chứng cứ liên bang và quyết định của Toà án sẽ có giá trị cuối

cùng trong việc xác định pháp luật áp dụng. Quy định như vậy, nếu không

có thông báo chính thức của các bên yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài

cho quan hệ của họ thì Toà án sẽ không bị ràng buộc nghĩa vụ phải làm

điều này.

Pháp luật của Cộng hòa Pháp cũng quy định về nghĩa vụ cung cấp

các chứng cứ để áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo đó, đương sự vụ việc

khi muốn áp dụng pháp luật nước ngoài phải soạn thảo một tài liệu để đề

xuất việc áp dụng pháp luật nước ngoài và gửi tới cơ quan đại diện ngoại

giao nơi có pháp luật nước ngoài (Văn bản này có tên gọi là “certificat de

coutume”, nguồn: https://www.courdecassation.fr/). Văn bản sẽ được soạn

bằng tiếng Pháp và được chuyển tới lãnh sự quán hoặc đại sứ quan, có thể

do một chuyên gia pháp lý về pháp luật nước ngoài soạn thảo để yêu cầu

cung cấp.

Thứ tư, nguồn của pháp luật nước ngoài áp dụng được quy định đa

dạng và phù hợp nhất để giải quyết vụ việc.

Theo chỉ dẫn của Điều 44.1 Bộ luật tố tụng dân sự liên bang Hoa Kỳ,

Toà án sẽ được cung cấp một phạm vi khá lớn trong việc xác định nội dung

pháp luật nước ngoài, với nhiều cách thức khác nhau, ngay cả khi những

59

bằng chứng có được khác với quy định của Luật về chứng cứ nhằm đem

đến cho cả Toà án và các chủ thể có liên quan cơ hội thực hiện những biện

pháp tốt nhất để có thể chứng minh pháp luật áp dụng - một phương pháp

phổ biến trên thực tiễn được thực hiện bởi những nhân chứng chuyên môn;

ý kiến của những chuyên gia này có thể được trình bày thông qua lời khai

gián tiếp hoặc trực tiếp tại Toà án, bản tuyên bố. Lời khai của các chuyên

gia này không đòi hỏi phải chứng minh được pháp luật nước ngoài cần áp

dụng và Toà án hoàn toàn có thể từ chối tiếp nhận dù đó là những kết luận

rất khó chối cãi đồng thời Toà án sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa trên

những thu thập từ các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài – có nghĩa là

ý kiến của các chuyên gia chỉ mang tính chất tham khảo. Bên cạnh đó, Toà

án cũng có thể xem xét những bản sao của các nguồn luật nước ngoài, sách

chuyên khảo nước ngoài từ điển nước ngoài, hoặc các công cụ pháp lý trực

tuyến khác để có thể xác định nội dung pháp luật nước ngoài.

60

T ỂU K T HƢƠN 2

BLTTDS năm 2015 với nhiều điểm mới về tư pháp quốc tế nhưng

vẫn tồn tại một số hạn chế trong kỹ thuật lập pháp, phần nào tạo rào cản

cho quy trình áp dụng pháp luật nước ngoài. Đối với quy định về nghĩa vụ

chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài, cơ bản còn thiếu các hướng dẫn

chi tiết về trình tự và cách thức áp dụng; thiếu quy phạm áp dụng bắt buộc;

thiếu quy định về trách nhiệm của Tòa án trong tìm kiếm và xác định nội

dung pháp luật; chưa tận dụng được hệ thống quy trình tương trợ tư pháp

dân sự; thiếu tiêu chí chuyên môn đối với nguồn cung cấp pháp luật nước

ngoài và những nghiên cứu độc lập của Tòa án Việt Nam khi áp dụng pháp

luật nước ngoài.

Những hạn chế này phần nào được tư pháp quốc tế của các

quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới khắc phục phần nào. Đơn cử như

một hệ thống chuẩn hóa thông tin pháp luật thành văn và bản án trực tuyến

đang được vận hành hiệu quả ở EU; bộ tiêu chí và điều kiện đối với tư vấn

luật nước ngoài tại hay cơ chế đa dạng hóa nguồn pháp luật nước ngoài tại

chính quyền các bang và chính quyền liên bang ở Hoa Kỳ; hệ thống biểu

mẫu trưng cầu cung cấp pháp luật nước ngoài được sử dụng ở cơ quan đại

diện ngoại giao Bỉ và Pháp… Đây là những kinh nghiệm quý báu cho Việt

Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

61

ƣơn 3

ĐỀ XU T HO N TH ỆN PH P LUẬT V P N PH P LUẬT

VỀ N H A V HỨN M NH PH P LUẬT NƢ N O ỦA

T A N V ỆT NAM

3.1 N ữn n u ên tắc cơ bản cần đảm bảo

Bản chất của việc áp dụng pháp luật nước ngoài chính là quá trình

Toà án vận dụng, áp dụng các quy phạm pháp luật cụ thể trong hệ thống

pháp luật của một quốc gia khác hoặc vùng lãnh thổ, các tiểu bang của

quốc gia khác để giải quyết một quan hệ hay một vấn đề pháp lý cụ thể

trong Tư pháp quốc tế. Quá trình này phải được tiến hành theo những

nguyên tắc nhất định nhằm thể hiện sự tôn trọng hệ thống pháp luật của

quốc gia nước ngoài.

Thứ nhất, việc áp dụng pháp luật nước ngoài phải dựa trên tinh thần

thiện chí và cầu thị.

Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ được đặt ra khi có quy

phạm xung đột dẫn chiếu tới vì quy phạm này xác định hệ thống pháp luật

cụ thể nào có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố

nước ngoài hoặc có thể do các đương sự thỏa thuận áp dụng pháp luật nước

ngoài. Quy phạm xung đột có thể được xây dựng trong hệ thống hệ thống

pháp luật của quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế mà quốc gia tham

gia gồm cả điều ước quốc tế song phương và đa phương.

Trong xu thế toàn cầu hóa và tăng cường hợp tác, các quốc gia

cùng nhau thỏa thuận để ban hành nên các quy phạm xung đột giúp giải

quyết xung đột pháp luật, do đó, các quốc gia phải thực hiện các cam kết

62

của mình một cách tận tâm, thiện chí. Nếu quốc gia nào thiếu thân thiện

trong việc thực hiện các cam kết thì chính quốc gia đó sẽ bị giảm sút uy

tín cũng như ảnh hưởng xấu tới việc thiết lập quan hệ hợp tác với các

quốc gia khác trên trường quốc tế.

Từ đó, Toà án quốc gia không thể áp dụng pháp luật nước ngoài một

cách tùy tiện theo cách hiểu hay theo cách giải thích của bản thân mình,

điều này sẽ làm sai lệch bản chất và phần nào làm ảnh hưởng đến giá trị

pháp lý của pháp luật nước ngoài. Mọi nỗ lực trưng cầu tham vấn chuyên

môn của Tòa án quốc gia là cần thiết và phù hợp với xu hướng chung.

Thứ hai, cơ quan xét x là đầu mối nhưng không có nghĩa vụ áp

dụng pháp luật nước ngoài bằng mọi giá.

Thực tế pháp luật các quốc gia và cả pháp luật Việt Nam đều phản

ánh vai trò quan trọng và không thể thiếu của Tòa án trong quy trình áp

dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố

nước ngoài. Nhưng bên cạnh đó, do việc lựa chọn pháp luật nước ngoài

luôn đòi hỏi quy trình và phát sinh chi phí tốn kém cho hoạt động tương

trợ tư pháp và phối hợp thực hiện nên xu hướng chung các quốc gia sẽ

chuyển trách nhiệm thanh toán và thực hiện thủ tục cho đương sự nếu như

có nhu cầu.

Điều này là phù hợp bởi hệ thống tòa án không đủ năng lực giải

quyết các vụ việc dân sự theo pháp luật quốc gia khác trong khi tình trạng

quá tải trong xét xử vẫn tồn tại. Bất kể năng lực thẩm phán có được nâng

lên bao nhiêu thì không thể đòi hỏi quá trình giải quyết vụ việc dân sự như

hội đồng xét xử của nước sở tại. Do vậy, xu hướng chung trong hoạt động

này là tạo cơ chế để cơ quan xét xử không quá phụ thuộc vào yêu cầu từ

phía đương sự trong áp dụng pháp luật nước ngoài.

63

3.2 N ữn đề xuất oàn t iện p áp luật liên quan

3.2.1 Các quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền chứng minh pháp luật

Thứ nhất, cần hoàn thiện tiêu chí “có yếu tố nước ngoài” để thống

nhất căn cứ áp dụng trình tự tố tụng cho phù hợp.

Bộ luật TTDS 2015 cần có văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định

tại điểm a khoản 1 Điều 469 Bộ luật TTDS 2015 về tiêu chí xác định “nơi

cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam” [21]. Như đã đề cập, việc

quy định mơ hồ hoặc bỏ đi những tiêu chí về thời gian cư trú khiến quá

trình áp dụng pháp luật đối với vụ việc có yếu tố nước ngoài gặp khó khăn.

Việc quy về áp dụng tố tụng trong nước với vụ việc có yếu tố nước ngoài

sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng của đương sự trong vụ việc.

Thứ hai, s a đổi nội dung hoạt động tương trợ tư pháp dân sự

theo hướng mở rộng nội hàm hoạt động liên quan tới chứng minh pháp

luật nước ngoài.

Như đã đề cập, việc cung cấp thông tin và nội dung pháp luật nước

ngoài để Tòa án áp dụng có ý nghĩa rất quan trọng. Hiện nay, trong bối

cảnh hoạt động này chưa thể hình thành một cơ chế riêng biệt thì việc bổ

sung tài liệu, hồ sơ pháp luật nước ngoài trong phạm vi tương trợ tư pháp

dân sự là rất cần thiết. Cụ thể, bổ sung các loại tài liệu phục vụ hoạt động

chứng minh pháp luật nước ngoài tại Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp năm

2007, đồng thời bổ sung nội dung ủy thác tư pháp trong hoạt động cung cấp

thông tin và tài liệu pháp luật nước ngoài bao gồm nhưng không giới hạn

các văn bản pháp luật, văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn, văn bản giải

thích chính thức, báo cáo nghiên cứu và hướng dẫn nghiệp vụ liên quan tới

nội dung pháp luật nước ngoài cần áp dụng.

64

Đối với thực hiện nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước ngoài, cần

xem xét hoạt động tương trợ tư pháp dân sự với nội dung chính là quy

trình, hồ sơ UTTP ra nước ngoài (UTTP ra). Trong đó, quy trình UTTP đối

với yêu cầu cung cấp pháp luật nước ngoài được thực hiện như sau:

1. Thẩm quyền yêu cầu: Tòa án nhân dân cấp tỉnh; cấp cao; tối cao

có yêu cầu cung cấp pháp luật nước ngoài (trên cơ sở chứng minh thỏa

thuận của đương sự hoặc viện dẫn của pháp luật);

2. Chi phí thực hiện: gồm phí/lệ phí và chi phí thực tế phát sinh khi

thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc gia được yêu

cầu. Nghĩa vụ nộp chi phí thuộc về đương sự trong tranh chấp.

3. Xây dựng hồ sơ UTTP ra: đối với tống đạt giấy tờ, hiện Việt Nam

áp dụng 01 kênh chính, 04 kênh thay thế (kênh ngoại giao – lãnh sự trực

tiếp; kênh lãnh sự gián tiếp; kênh ngoại giao gián tiếp và kênh bưu điện)

theo Công ước Tống đạt giấy tờ. Trong đó, kênh thay thế có giá trị như

kênh chính nhưng tiết kiệm thời gian và hiệu quả hơn [3]

ình 3.1. Quy trình UTTP ra theo kênh chính (căn cứ Điều 2 đến Điều 7

Công ước Tống đạt Giấy tờ)

65

(Nguồn: Sổ tay hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp lĩnh vực dân

sự tại Việt Nam)

Trên cơ sở quy trình kể trên, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp các

cơ quan liên quan xây dựng quy trình đặc thù trong cung cấp pháp luật

nước ngoài

Thứ ba, xây dựng quy trình và biểu mẫu riêng cho hoạt động chứng

minh pháp luật nước ngoài.

Trước hết cần thông nhất vai trò của Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa

án nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện hoạt động phối hợp trong yêu cầu

cung cấp pháp luật nước ngoài. Theo đó, đương sự khi thỏa thuận áp dụng

pháp luật nước ngoài cần có đơn yêu cầu gửi cơ quan Tòa án kèm theo căn

cứ chứng minh thỏa thuận của các bên về áp dụng pháp luật nước ngoài.

Việc lựa chọn chủ thể xác minh nội dung pháp luật nước ngoài cần

có thẩm định của Tòa án thụ lý, trường hợp Tòa án phối hợp với Bộ Tư

pháp, cơ quan ngoại giao thì cần thiết xây dựng danh mục các đơn vị, tổ

chức đủ điều kiện cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài và đảm bảo tính

chính xác và đúng đắn của thông tin. Ngoài ra, Tòa án cũng cần xây dựng

và cập nhật thường xuyên danh sách các chuyên gia pháp lý về pháp luật

nước ngoài (tương tự như danh sách trọng tài viên; hòa giải viên) để cung

cấp cho đương sự lựa chọn hoặc Tòa án chỉ định tham gia quá trình giải

quyết vụ việc.

3.2.2 Các quy định về nội dung chứng minh

Thứ nhất, cần nghiên cứu, cân nhắc áp dụng các quy định hợp lý từ

học thuyết Hoa Kỳ trong chứng minh nội dung pháp luật nước ngoài

66

Như đã đề cập, học thuyết Hoa Kỳ cho thấy những ưu việt khi tận

dụng được những ưu điểm của học thuyết chứng cứ và học thuyết pháp

luật trong xác định nội dung pháp luật nước ngoài. Trong đó, nhấn mạnh

nghĩa vụ khởi xướng áp dụng pháp luật nước ngoài của các đương sự hoặc

quy phạm xung đột có dẫn chiếu áp dụng. Đây là xu hướng tất yếu mà các

Tòa án Việt Nam được hưởng lợi do không có nghĩa vụ bắt buộc phải giải

quyết theo pháp luật nước ngoài, đồng thời khi các quy định về điều kiện

và nội dung tham vấn pháp luật nước ngoài trở nên rõ ràng thì việc áp

dụng học thuyết Hoa Kỳ là thích hợp và giảm tải đáng kể cho hoạt động

xét xử. Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam chủ đạo vẫn ảnh hưởng bởi

pháp luật Châu Âu lục địa (học thuyết pháp luật) do vậy cần nghiên cứu

bổ sung quy định một cách hài hòa và hợp lý.

Thứ hai, mở rộng nguồn xác định nội dung pháp luật nước ngoài.

Trên cơ sở trách nhiệm của Tòa án trong xác định tính tin cập và

chính xác của pháp luật nước ngoài được áp dụng, cho phép mở rộng

nguồn tư liệu tham vấn trên cơ sở quan hệ hợp tác thông tin giữa các hệ

thống tòa án các quốc gia. Trên cơ sở kinh nghiệm về hệ thống thông tin

pháp luật và bản án của EU và AEC, hệ thống Tòa án Việt Nam cần cân

nhắc bổ sung thêm những nguồn mới như: các nghiên cứu; báo cáo nghiệp

vụ ngành; trao đổi kinh nghiệm áp dụng pháp luật do các cơ quan quyền

lực công hoặc các tổ chức phi chính phủ uy tín thực hiện.

Các quy định liên quan cũng cần cân nhắc việc xây dựng thứ tự ưu

tiên áp dụng giữa những nguồn pháp luật nước ngoài được trưng cầu, cũng

như cơ chế phối hợp trong tống đạt giấy tờ, tương trợ tư pháp dân sự.

Thứ ba, làm rõ quan hệ tương trợ giữa đương sự và Tòa án trong

xác định nội dung.

67

Cần xác định rõ trách nhiệm pháp lý khi hoạt động tương trợ phối

hợp giữa Tòa án Việt Nam và các cơ quan liên quan không đạt kết quả,

cũng như trách nhiệm thanh toán các chi phí phát sinh từ cơ chế phối hợp

đa ngành này trong trường hợp cơ sở của việc áp dụng pháp luật nước

ngoài không đạt được. Việc dồn trách nhiệm thanh toán cho các đương sự

dường như không đảm bảo lợi ích của các bên trong vụ việc, đồng thời

không hình thành trách nhiệm mẫn cán của hệ thống tòa án. Một cơ chế san

sẻ trách nhiệm thanh toán có thể được cân nhắc bổ sung để hài hòa lợi ích

các bên trong tranh chấp.

3.3 N ữn đề xuất oàn t iện áp dụn p áp luật tại ệ t ốn Tòa án

3.3.1 Thống nhất nghiệp vụ trong giải quyết án

Thứ nhất, xây dựng thí điểm một quy trình tố tụng riêng khi áp dụng

pháp luật nước ngoài để đảm bảo sự tham gia của các chuyên gia pháp lý;

đại diện cơ quan chuyên môn nước ngoài.

Như đề cập, để giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

trong đó Tòa án Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong hoạt động

xét xử đòi hỏi một quy trình tố tụng khác biệt. Theo đó, ngoài các bước tố

tụng thông thường như thụ lý đơn khởi kiện, triệu tập các bên, áp dụng các

biện pháp khẩn cấp tạm thời…thì quy trình tố tụng còn phát sinh thêm nội

dung yêu cầu cung cấp pháp luật nước ngoài. Trường hợp yêu cầu cung cấp

pháp luật nước ngoài, quá trình tố tụng có thể kéo dài do phải áp dụng

tương trợ tư pháp dân sự; trưng cầu ý kiến chuyên gia; tham vấn cơ quan

thẩm quyền và chuyên môn của quốc gia đó.

Quá trình xét xử có sự tham gia của chuyên gia và cơ quan chuyên

môn có thể cũng sẽ khác biệt khi hoàn toàn có thể áp dụng các mô hình giải

68

pháp Tòa án điện tử để hạn chế chi phí cho đương sự. Những vấn đề này

đòi hỏi phải nghiên cứu mô hình tố tụng khác biệt so với tố tụng hiện nay.

Thứ hai, xây dựng tiêu chí chuyên môn khi tham vấn pháp luật nước

ngoài.

Hiện nay các quốc gia hình thành ngành nghề “tư vấn pháp luật nước

ngoài” (tiếng Anh: foreign law consultant/lawyer) đòi hỏi phải cấp chứng

chỉ hành nghề. Ở Hoa Kỳ, mỗi bang lại có những chuẩn riêng đối với hoạt

động cấp chứng chỉ hành nghề này, theo đó:

- Washington Supreme Court Admission and Practice Rule 14

Limited Practice Rule for Foreign Law Consultants của bang Washington

quy định (Nguồn: http://www.courts.wa.gov):

- Foreign Legal Consultancy Rule 16 của Đoàn luật sư bang Florida quy

định người hành nghề phải đáp ứng nhiều tiêu chí khắt khe như: có kinh

nghiệm luật sư hành nghề tối thiểu 5 năm… (Nguồn:

http://internationallawsection.org)

3.3.2 Phối hợp các cơ quan tư pháp, ngoại giao các nước trong thực thi

nghĩa vụ chứng minh nội dung pháp luật

Thứ nhất, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung

cấp pháp luật nước ngoài.

Tham khảo và phân tích mô hình của các nước Liên minh Châu Âu

thông qua Công ước Liên minh Châu Âu về cung cấp thông tin pháp luật

nước ngoài rất có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập Cộng

đồng kinh tế ASEAN (AEC). Mặc dù AEC thực chất chưa thể được coi là

một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Châu Âu, do AEC không có

cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc

69

cao và rõ ràng như EC, tuy nhiên AEC vẫn mở ra cơ hội cho các nước

thành viên trong khu vực có thể thiết lập những thoả thuận hợp tác pháp lý,

cụ thể là liên quan đến việc cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.

Nói đến áp dụng pháp luật nước ngoài cho các quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngoài nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền

là việc tiếp cận và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài. Rào cản về về

chính sách pháp luật, ngôn ngữ, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên

rất nhiều khó khăn cho các chủ thể áp dụng pháp luật. Đây là thực trạng

không phải chỉ tồn tại trong Tư pháp quốc tế Việt Nam mà còn cả ở các

nước phát triển trên thế giới. Do vậy, nếu có thể xây dựng được một cơ chế

cung cấp, trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài giữa các nước thành viên

AEC sẽ là một giải pháp hiệu quả để khắc phục những khó khăn đang tồn

tại đối với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Việt Nam chúng ta có thể đề xuất với các nước thành viên AEC xây

dựng các Hiệp định về vấn đề cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài, ghi

nhận các nội dung cụ thể là: (i) Thiết lập hoặc chỉ định cơ quan có vai trò

tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin pháp luật đến từ các quốc gia nước

ngoài và chuyển giao thông tin cần thiết cho các cơ quan có thẩm quyền

của quốc gia nước ngoài; (ii) Quy trình, cách thức cung cấp nội dung pháp

luật nước ngoài; (iii) Thời hạn, chi phí của việc cung cấp thông tin pháp

luật nước ngoài… Đây mặc dù là giải pháp mang tầm vĩ mô nhưng trong

tương lai nếu thực hiện được sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các nước thành

viên AEC.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ xét x với tiêu chuẩn riêng dành

cho hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài.

70

Việc lựa chọn các thẩm phán xét xử cho các vụ việc áp dụng pháp

luật nước ngoài đòi hỏi ngoài kiến thức và năng lực xét xử, còn phải thông

thạo ngoại ngữ và am hiểu về quan điểm pháp lý các vùng lãnh thổ. Mặc dù

đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, không trực tiếp liên quan đến các

quy định của pháp luật tuy nhiên nếu các giải pháp bổ trợ này được triển

khai hiệu quả sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp

dụng pháp luật nước ngoài đi vào thực tiễn một cách dễ dàng hơn. Chúng ta

cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong ngành Toà án, mà cụ thể ở

đây chính là các thẩm phán. Thực trạng những quan hệ hợp đồng thương

mại quốc tế hiện nay ở Việt Nam hầu như không được giải quyết theo đúng

những nguyên tắc của Tư pháp quốc tế, xuất phát rất nhiều từ sự hạn chế

năng lực của các thẩm phán…

Thứ tư, cần xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả trong lĩnh vực tư

pháp quốc tế nói chung và áp dụng pháp luật nước ngoài tại Tòa án

Việt Nam nói riêng.

Bộ Tư pháp phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức hoặc các cơ sở giáo

dục thường xuyên tổ chức các Hội thảo quốc tế với sự tham gia của các

chuyên gia, các học giả nước ngoài uy tín trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế

để cập nhật những thông tin về pháp luật nước ngoài, về thực tiễn xét xử

của Toà án nước ngoài cho các luật sư, chuyên gia pháp lý, luật gia… cũng

như các đối tượng nghiên cứu pháp luật khác.

Thực tiễn xét xử của Toà án các nước cho thấy, trong quá trình xác

định nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án có thể nhận sự hỗ trợ rất hiệu

quả từ phía các chuyên gia nghiên cứu pháp luật. Do đó, việc đẩy mạnh

công tác trang bị kiến thức pháp luật nước ngoài cho nhóm đối tượng này

cũng là một giải pháp cần thiết.

71

Thứ năm, cần nâng cao hàm lượng kiến thức tư pháp quốc tế và

pháp luật so sánh trong giáo dục và đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt ngành

tòa án.

Các cơ sở đào tạo pháp lý cần chú trọng đầu tư việc giảng dạy Tư pháp

quốc tế cho người học ở các cấp độ khác nhau. Mục tiêu này có thể được đẩy

mạnh bằng cách cho người học tiếp cận với pháp luật nước ngoài thông qua

phương pháp học bằng tình huống, vụ việc (case study). Những nguyên tắc nền

tảng của Tư pháp quốc tế và những kiến thức về pháp luật nước ngoài nếu được

củng cố cho sinh viên luật ngay từ trong giảng đường sẽ giúp ích rất nhiều khi

họ phải đối mặt với những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trên thực tế.

72

T ỂU K T HƢƠN 3

Áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế đòi hỏi các

quốc gia phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản về tinh thần thiện chí, cầu

thị và tôn trọng trọn vẹn về hình thức và nội dung pháp luật nước ngoài

đồng thời tạo sự chủ động nhất định cho cơ quan xét xử trong áp dụng pháp

luật nước ngoài. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất:

- Nhóm các giải pháp về hoàn thiện pháp luật bao gồm: hoàn thiện

tiêu chí “có yếu tố nước ngoài”; sửa đổi quy định về tương trợ tư pháp theo

hướng bổ sung các tài liệu pháp luật nước ngoài; xây dựng cơ chế tận dụng

quy trình và hệ thống tương trợ tư pháp hiện có phục vụ cung cấp pháp luật

nước ngoài; xây dựng biểu mẫu và quy trình cung cấp pháp luật nước ngoài

theo hướng nhanh gọn, không rườm rà…

Đối với quy trình chứng minh áp dụng pháp luật nước ngoài, cần

nghiên cứu bổ sung những quy định theo hướng vận dụng kinh nghiệm

quốc tế nhằm giảm tải công việc và tăng tính chủ động cho hệ thống tòa án;

bổ sung, đa dạng nguồn pháp luật nước ngoài tham khảo giải quyết vụ việc;

bổ sung quyền và nghĩa vụ của quan hệ giữa đương sự và Tòa án trong xác

định nội dung pháp luật nước ngoài…

- Nhóm các giải pháp về áp dụng pháp luật tại hệ thống Tòa án: thí

điểm dự thảo quy trình tố tụng riêng khi pháp luật nước ngoài được viện

dẫn; xây dựng bộ tiêu chí chuyên môn đối với các đơn vị tham vấn và

nguồn tài liệu tham vấn; tăng cường phối hợp khu vực và quốc tế trong xây

dựng dữ liệu pháp luật chung; từng bước cập nhật, nâng cao tiêu chuẩn cán

bộ xét xử vụ việc áp dụng pháp luật nước ngoài; tăng cường hiệu quả đào

tạo và bồi dưỡng cán bộ ngành.

73

K T LUẬN

Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tự do hóa các hoạt động

giao thương là xu hướng không thể đảo ngược trên thế giới hiện nay. Các

đặc điểm này là cơ sở hình thành sự tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa các

quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này khiến việc áp dụng pháp luật nước

ngoài trong các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại là một nhu cầu tất

yếu của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Thực tế là, mặc dù tư pháp quốc tế Việt Nam thời gian qua đã có

những thay đổi, bổ sung đáng kế để theo kịp xu hướng quốc tế thì thực tiễn

giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam cho thấy rất

hãn hữu Tòa án các cấp Việt Nam viện dẫn và áp dụng pháp luật nước

ngoài trong hoạt động xét xử, việc trau dồi thực tiễn và rút kinh nghiệm xét

xử chưa thể thực hiện do thực tiễn xét xử không có. Trước những điều

chỉnh, bổ sung quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài trong BLDS và

BLTTDS năm 2015 cùng các văn bản hướng dẫn; xu hướng hội nhập trong

lĩnh vực tư pháp quốc tế và yêu cầu xét xử trong tình hình mới, đòi hỏi phải

xây dựng và hoàn thiện cơ chế áp dụng pháp luật nước ngoài cho hệ thống

Tòa án các cấp Việt Nam.

Qua tổng hợp lý luận, thực tiễn Việt Nam và quốc tế, nghiên cứu đã

tập trung làm rõ các luận điểm khoa học chính sau đây:

1. Tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài là tranh chấp đặc thù về

nội dung và chủ thể tham gia. Việc áp dụng luật nước ngoài của Tòa án

Việt Nam phải dựa trên căn cứ gồm: các điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên; theo sự thỏa thuận của đương sự hoặc theo pháp luật của nước

74

có mối liên hệ gắn bó nhất, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự toàn

vẹn về ý chí và hình thức pháp luật nước ngoài. Thế giới ghi nhận những

lựa chọn khác nhau về nghĩa vụ chứng minh khi áp dụng pháp luật nước

ngoài, Việt Nam bước đầu kế thừa những giá trị đó và nội luật hóa trong

quy định BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, do hạn chế về quy định hướng

dẫn khiến thực tiễn xét xử có áp dụng pháp luật nước ngoài chưa có tiền lệ

ở Việt Nam.

2. Mặc dù đã khắc phục những thiếu sót từ BLTTDS năm 2004,

nhưng BLTTDS năm 2015 vẫn tồn tại một số hạn chế trong kỹ thuật lập

pháp, thiếu hướng dẫn chi tiết về tiêu chí chuyên môn đối với tham vấn và

cung cấp pháp luật nước ngoài; thiếu cơ chế trách nhiệm và chưa tận dụng

được hệ thống quy trình tương trợ tư pháp dân sự. Những hạn chế này phần

nào được tư pháp quốc tế của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới

khắc phục phần nào. Đây là những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam

trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

3. Những nguyên tắc cơ bản về tinh thần thiện chí, cầu thị và tôn

trọng trọn vẹn về hình thức và nội dung pháp luật nước ngoài đồng thời tạo

sự chủ động nhất định cho cơ quan xét xử trong áp dụng pháp luật nước

ngoài là xu hướng chung cần tuân thủ. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục hoàn

thiện pháp luật theo hướng tiếp tục hoàn thiện quy phạm tư pháp quốc tế

Việt Nam; sửa đổi, bổ sung quy phạm pháp luật tương trợ tư pháp; xây

dựng bộ thủ tục hành chính chuẩn mực. Đồng thời, vận dụng kinh nghiệm

quốc tế; thí điểm quy trình tố tụng riêng; xây dựng bộ tiêu chí chuyên môn;

tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế trong xây dựng dữ liệu pháp luật và

tăng cường hiệu quả đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngành.

75

Qua nghiên cứu cho thấy, những quy định hiện hành về nghĩa vụ

chứng minh của Tòa án trong áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam là

cơ bản đáp ứng được yêu cầu và xu hướng chung của quốc tế. Tuy nhiên,

để đảm bảo hiệu quả thực thi trong hoạt động xét xử, đòi hỏi những điều

chỉnh kịp thời, thống nhất về quan điểm hoàn thiện pháp luật và đề xuất sửa

đổi, bổ sung quy định liên quan để hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài

không còn là “điểm nghẽn” trong công tác xét xử của ngành Tòa án trong

thời gian tới.

76

T L ỆU THAM KH O

I. Tiến Việt

1. Nguyễn Xuân Bình (2018), Một số khó khăn trong thực tiễn giải

quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của BLTTDS 2015

2. Bộ luật Tố tụng dân sự CHLB Đức

3. Bộ Tư pháp (2018), Sổ tay hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp

lĩnh vực dân sự tại Việt Nam

4. Ngô Quốc Chiến (2014), So sánh một số quy định chung của Tư

pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (271),

tháng 8/2014

5. Ngô Quốc Chiến, Nguyễn Minh Hằng (2017), Pháp luật áp dụng

cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật dân sự năm

2015 và khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối

ngoại số 81 năm 2017

6. Chính phủ (2006), Nghị định số 138/2006/NĐ-CP hướng dẫn BLDS

về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài;

7. Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài

tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại năm 1965;

8. Công ước La Hay về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực

dân sự hoặc thương mại năm 1970;

9. Công ước La Hay về thỏa thuận lựa chọn tòa án năm 2005;

10. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối

77

cao về Phần 8 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 về thủ tục giải quyết vụ việc

dân sự có yếu tố nước ngoài

11. Nghị định Rome về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng của Liên

minh châu Âu năm 2008

12. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2016), Bình luận khoa học Bộ luật

dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân, tr.1052

13. Nguyễn Bá Diến (2013), Giáo trình Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, tr.110

14. Đỗ Văn Đại (2013), Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc tế

Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 + 3/2013, tr. 46 – 55

15. Võ Trí Hảo (2003), Vai trò giải thích pháp luật của Tòa án, Tạp chí

Khoa học pháp lý số 3 năm 2003

16. Lê Mạnh Hùng, Đỗ Ngọc Thanh (2018), Công ước La Hay năm

1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc

thương mại, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử

17. Luật Tư pháp quốc tế của CHDCND Trung Hoa năm 2010;

18. Luật Tư pháp quốc tế của Thụy Sỹ năm 1987 (sửa đổi năm 2014);

19. Luật Tư pháp quốc tế Cộng hòa Monténégro năm 2013;

20. Phan Hoài Nam (2016), Công ước Hague 2005 về thỏa thuận lựa

chọn tòa án và khả năng gia nhập của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp số 17/2016, tr. 23 - 32

21. Phan Hoài Nam, Nguyễn Lê Hoài (2017), Thẩm quyền của toà án

Đức trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, thương mại có yếu tố nước

ngoài và những nội dung có thể tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp

78

số 6(334)-tháng 3/2017;

22. Trần Minh Ngọc, Bùi Thị Thu, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Đức

Việt, Lê Thị Bích Thủy (2018), Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự

có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB

Lao động, tr.59

23. Trần Vang Phủ (2019), Một số nguyên tắc giải thích pháp luật trên thế

giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06(382)-

2019

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp Việt Nam;

25. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự;

26. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự;

27. Quốc hội (2007), Luật tương trợ tư pháp;

28. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình;

29. Quốc hội (2008), Luật quốc tịch;

30. Phùng Hồng Thanh (2019), Áp dụng pháp luật dân sự nước ngoài tại

Việt Nam, so sánh với pháp luật một số quốc gia, Tạp chí tòa án

31. Bành Quốc Tuấn (2016), Những điểm mới của hệ thống quy phạm

xung đột trong Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số

18 (322)/Kỳ 2, tháng 9/2016

32. Bành Quốc Tuấn (2011), Hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong tư

pháp quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14/2011, tr. 22 - 28.

33. Đỗ Minh Tuấn (2014), Xác định nội dung pháp luật nước ngoài để

giải quyết tranh chấp dân sự quốc tế bởi Tòa án, Tạp chí kinh tế đối ngoại

79

số 70/2014

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Pháp luật về giải

quyết tranh chấp thương mại quốc tế, NXB Tư pháp

II. Tiến An

35. Carlos Esplugues (2007), General report on the Application of

Foreign law by Judicial and Non-Judicial Authorities in Europe, Project

JLS/CJ/2007-1/03;

36. Hausmann Rainer (2008), Pleading and Proof of foreign law – a

Comparative analysis, The European legal forum (E) 1-2008, 1-14;

37. Matthew J.Wilson (2014), Demystifying the determination of foreign

law in U.S. Courts: Opening the door to a greater global understanding,

Akron Law Publications, The University of Akron;

38. Talia Einhorn (2004), The Ascertainment and Application of Foreign

Law in Israeli Courts – Getting the Facts and Fallacies Straight,

https://www.researchgate.net/

39. Thomas F.Bridgman (1980), Proof of foreign law and facts, Journal

of air law and commerce Vol.45/Issue 4;

40. Washington Supreme Court Admission and Practice Rule 14 for

Foreign Law Consultants của bang Washington, Hoa Kỳ

41. Foreign Legal Consultancy Rule 16 của Đoàn luật sư bang Florida,

Hoa Kỳ

III Tiến P áp

42. Henri Batiffol, Paul Lagarde (1993), Traité de droit international

privé, LGDJ 1993, phần số 269;

80

43. Chen Weizou, Lyvia Bertrand (2010), La nouvelle loi chinoise de

droit international privé du 28 octobre 2010: contexte législatif,

principales nouveautés et critiques, Journal du droit international (Clunet)

n°2, tháng 4/2011, var. 2, phần số 14 và 15;

44. Jean-Yves Carlier (2005), Đạo luật Tư pháp quốc tế của Bỉ, Revue

critique de droit international privé 2005, tr. 11 và tiếp theo.

81