VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ ĐOAN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC

CÓ THỜI HẠN TẠI VIỆT NAM

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS LÊ MAI THANH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết

quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, do tôi thực hiện dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS Lê Mai Thanh.Vì vậy tôi xin chịu trách nhiệm hoàn

toàn về công trình nghiên cứu của mình./.

Học viên Phạm Thị Đoan Trang

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến

PGS.TS. Lê Mai Thanh, người đã chỉ bảo và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt

quá trình nghiên cứu đề tài này. Xin cám ơn Ban giám hiệu, Ban đào tạo sau

đại học, các thầy, cô thuộc khoa luật Kinh tế - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội

và Nhân văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập

và hoàn thiện Luận văn. Xin chân thành cảm ơn tập thể Lãnh đạo Phòng Việc

làm - An toàn lao động thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành

phố Hồ Chí Minh và Ban Giám đốc trung tâm ngoại ngữ Liên Lục Địa

(ICLC), nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian học tập và thực hiện Luận văn./.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 3 năm 2019

Học viên Phạm Thị Đoan Trang

MỤC LỤC

Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................ i

Chương 1: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN ....................................................................................... 7 1.1. Khái quát chung lao động nước ngoài làm việc có thời hạn và nhu cầu điều chỉnh pháp luật .......................................................................................... 7 1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời ............................................................................................................ 12 hạn 1.3. Nội dung pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn .......... 15 1.4. Nguồn pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn ............... 20 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN TẠI VIỆT NAM .............................................. 25 2.1. Thực trạng pháp luật về tuyển dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam ............................................................................................. 25 2.2. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam ................................................................................. 36 2.3. Thực trạng pháp luật quản lý, thanh tra và xử lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam ......................................................................... 44 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN TẠI VIỆT NAM ..................................................................................................... 54 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam ...................................................................................... 54 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam ...................................................................................... 57 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 69

Danh mục các chữ viết tắt

Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái CPTPP Bình Dương

Tổng thầu Hợp đồng, thiết kế, cung ứng EPC

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI

FTA Hiệp định thương mại tự do

HĐLĐ Hợp đồng lao động

LĐNN Lao động nước ngoài

LĐ-TB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội

NNN Người nước ngoài

QLNN Quản lý nhà nước

UBND Ủy ban nhân dân

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp

tác cùng có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách

thức. Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di

chuyển lao động là điều không tránh khỏi.

Người nước ngoài đến Việt Nam làm việc có thời hạn không phải là điều mới

mẻ và đã có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh đối tượng này. Bộ luật Lao

động được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua

ngày 18 tháng 6 năm 2012 đã có những quy định riêng cho một số loại lao

động đặc thù, trong đó có lao động nước ngoài tại Việt Nam. Hướng dẫn thực

hiện Bộ luật Lao động là những nghị định, thông tư được sửa đổi, bổ sung và

thay thế nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, tình hình

kinh tế - xã hội và thực trạng lao động của Việt Nam luôn thay đổi, trong bối

cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế

giới, đặc biệt khi Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ

xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh

Châu Âu (đã được phê chuẩn) khiến Việt Nam phải chịu sự ràng buộc với

những cam kết của mình. Một tất yếu xảy ra khi chúng ta chưa chuẩn bị tốt

cho cuộc hội nhập quốc tế là các văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề

phát sinh sau hội nhập. Một khối lượng lớn lao động nước ngoài vào Việt

Nam làm việc có thời hạn dưới nhiều hình thức nhưng các văn bản pháp luật

hiện hành chưa bao quát hết những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi. Chính vì vậy,

pháp luật lao động về người lao động nước ngoài tại Việt Nam được sửa đổi,

bổ sung và thay thế nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất cập, việc thực hiện các

quyđịnh đó lại chưa nghiêm túc trên phạm vi cả nước, từ người lao động, chủ

sử dụng lao động đến những cơ quan quản lý nhà nước về lao động.

1

Từ tình hình trên, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật về lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của

mình, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật đối với lao

động nước ngoài làm việc có thời hạnở nước ta.

2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu pháp luật về điều kiện đối với lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam là một đề tài khá mới mẻ trên cả bình diện lý luận và

thực tiễn. Đã có một số bài báo và một vài công trình nghiên cứu về vấn đề

này, như:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005), “Bảo hiểm xã hội đối với lao

động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam”, của Vụ Bảo hiểm xã

hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.[48]

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005), “Vấn đề di chuyển thể nhân

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội.[49]

- “Một số vấn đề pháp lý về người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam” của

TS. Lưu Bình Nhưỡng đăng tải trên Tạp chí Luật học, Số 9/2009; Công trình

này đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về lao động nước ngoài, một số hạn

chế khi sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam.[38]

- “Quyền của người lao động di trú (Công ước của Liên hiệp quốc và những

văn kiện quan trọng của ASEAN)” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,

NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2010. Công trình đề cập đến quyền của người lao

động di trú, thực trạng quyền của người lao động di trú.[34]

- Luận văn Thạc sỹ luật học (2011),“Pháp luật về sử dụng lao động nước

ngoài tại Việt Nam”, tác giả Trần Thu Hiền, Khoa Luật – Đại học Quốc gia

Hà Nội năm 2011. Công trình này đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về sử

dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam, thực trạng pháp luật về sử dụng lao

2

động nước ngoài tại Việt Nam và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về sử

dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam.[31]

- “Thực trạng sử dụng lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp” của

ThS. Nguyễn Thị Thu Hương và ThS. Nguyễn Thị Bích Thúy đăng tải trên

Tạp chí Lao động và Xã hội, số 462/2013. Công trình này đề cập đến thực

tiễn sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam trong các doanh nghiệp và đề

xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nước

ngoài tại Việt Nam.[32]

- Luận văn Thạc sỹ luật học (2018),“Pháp luật về quyền của người lao động

Việt Nam làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài”, tác giả Đỗ Thị Quỳnh

Trang, Đại học Luật, Đại học Huế năm 2018. Công trình đề cập đến vấn đề lý

luận về bảo vệ quyền của lao động di trú, thực trạng pháp luật về bảo vệ

quyền của lao động di trú và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

quyền của lao động di trú.[45]

Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ khía

cạnh xã hội mà chưa quan tâm nhiều đến khía cạnh pháp lý hoặc chỉ tập trung

một vấn đề nhỏ về lao động nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, có thể nói

rằng, đề tài “Pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam”sẽ có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố nhưng sẽ phải

tiến hành với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu riêng không mang tính trùng

lặp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là: Hoàn thiện pháp luật về lao động nước ngoài làm

việc cơ thời hạn tại Việt Nam.

3

Nhiệm vụ nghiên cứu là:

- Phân tích và làm sáng tỏ lý luận pháp luật và đánh giá thực tiễn áp

dụng các quy định pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn tại Việt Nam.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp

luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạntại Việt Nam, cũng

như áp dụng có hiệu quả chúng trong thực tiễn đời sống.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về lao

động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam, loại trừ các đối tượng lao động

nước ngoài khác như nhóm lao động bất hợp pháp cũng như nhóm di cư và

sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Luận văn không đi sâu vào quan hệ lao

động giữa người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động mà chỉ

khai thác trong phạm vi nội dung liên quan đến địa vị pháp lý của người lao

động nước ngoài làm việc có thời hạn.

- Về lãnh thổ: Luận văn sẽ nghiên cứu pháp luật Việt Nam đối với lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn mà không bao gồm pháp luật nước ngoài

liên quan.

- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thời điểm từ khi Bộ luật lao động 2012

có hiệu lực đến nay. Pháp luật hiện hành được trích dẫn là Bộ luật lao động

năm 2012; Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 chính thức có hiệu lực từ

ngày 01/01/2021 nên luận văn chỉ sử dụng để phục vụ việc so sánh, đối

chiếu với quy định hiện hành mà không đi sâu phân tích.

4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng

phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-

Lênin. Đây là phương pháp luận vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn.

Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các

phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương

pháp phân tích quy phạm, phương pháp phân tích vụ việc...

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ các vấn đề

pháp luật quản lý và sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam và pháp luật

quốc tế, qua đó thấy được sự tương đồng, khác biệt của Việt Nam và quốc tế

làm luận cứ xác thực cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập

của pháp luật hiện nay về quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

tại Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: Luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận pháp luật về lao động

nước ngoài và điều kiện đối với lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam hiện nay.

Về thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về lao động nước ngoài

tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật, những tồn tại, hạn chế và nguyên

nhân. Đưa ra các yêu cầu, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn tại Việt Nam.

5

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Lý luận pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

tại Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam.

6

Chương 1: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI

LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN

1.1. Khái quát chung lao động nước ngoài làm việc có thời hạn và nhu

cầu điều chỉnh pháp luật

1.1.1. Khái niệm lao động nước ngoài có thời hạn

Có nhiều quan niệm khác nhau về người nước ngoài, tuy nhiên, từ góc độ luật

nhân quyền quốc tế, Điều 1 Tuyên ngôn về Quyền con người của các cá nhân

không phải là công dân của đất nước mình đang sống, được thông qua trong

Nghị quyết số 40/144 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc vào ngày 13/12/1985

định nghĩa “người nước ngoài” (alien) là:... bất cứ người nào không phải là

một công dân của quốc gia (a national of the state) mà họ đang hiện diện

(present)[56]. Nội hàm của khái niệm “người nước ngoài” bao hàm rất nhiều

chủ thể trong luật nhân quyền quốc tế, như: người lao động di trú (migrant

worker), người tị nạn (refugees), người không quốc tịch (stateless persons),

nạn nhân của nạn buôn người (victim of trafficking),…

Lao động nước ngoài (foreign workers) bao gồm những người được cấp phép

lao động trong một khoảng thời gian nhất định ở nước sở tại; người nước

ngoài sinh sống ở nước sở tại hay còn gọi là ngoại kiều (expatriates); những

người có công ăn việc làm ổn định và cư trú dài hạn tại nước sở tại theo pháp

luật hay chính sách của nước sở tại.

Lao động nước ngoài ở bất kỳ quốc gia nào đều là một tất yếu trong tiến trình

toàn cầu hóa mà quốc gia đó đã nhập cuộc. Các nghiên cứu quốc tế đã khẳng

định: “Lao động di trú đã luôn luôn là một phần không thể tách rời của nền

văn minh nhân loại, và những cuộc tranh luận nóng bỏng về hình thức của

nó, cũng như khung khổ pháp lý và vị trí thực tế đã đi cùng với hình thức đó

từ thời thượng cổ không chỉ ở Châu Âu”[54]. Nghiên cứu chuyên sâu về

7

quyền con người, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định rằng:

“Lao động di trú là hiện tượng diễn ra từ lâu trong lịch sử nhân loại nhưng

phát triển đặc biệt nhanh chóng từ đầu thế kỷ XX tới nay” và “Cùng với toàn

cầu hóa kinh tế, dự đoán vấn đề lao động di trú sẽ trở nên hết sức phổ biến

trong thế kỷ XXI và là một trong những đặc trưng cơ bản của thế kỷ này”[53].

Ở góc độ nghiên cứu cá nhân, TS. Lưu Bình Nhưỡng cũng đưa ra nhận định

rằng: “Người nước ngoài vào Việt Nam làm việc là xu thế tất yếu do tác động

của quá trình toàn cầu hóa quan hệ lao động và hội nhập kinh tế”[38].

Ở góc độ quản lý nhà nước, một xu thế tất yếu trong xu thế mở cửa và hội

nhập của Việt Nam là sự xuất hiện của người lao động là người nước ngoài.

Thực vậy không nằm ngoài xu thế chung của thời đại, Việt Nam đã, đang và

sẽ chủ động tiếp nhận một số lượng không nhỏ lao động nước ngoài. Số lượng

lao động nước ngoài này có cả ảnh hưởng tích cực và cả ảnh hưởng tiêu cực

tới nền kinh tế, xã hội Việt Nam trong những năm qua.

Các trích dẫn ở trên cho thấy, với một nội dung tư tưởng như nhau nhưng có

sự khác nhau ít nhiều trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý như “lao động di

trú”, “lao động nước ngoài”, và “lao động nhập cư”. Có thể hiểu thuật ngữ

“lao động di trú” và thuật ngữ “lao động nhập cư” đều được chuyển ngữtừ

thuật ngữ “migrant workers” của tiếng Anh, nên có cùng một nghĩa. Còn

thuật ngữ “lao động nước ngoài” thực chất là lao động di trú nhưng được gọi

phù hợp với góc nhìn của người sử dụng lao động hay người quản trị quốc gia

đối với người lao động di trú tại nước họ. Nếu nhìn nhận vấn đề quản lý lao

động nước ngoài từ góc độ của các cơ quản lý nhà nước Việt Nam, thì rõ ràng

lao động nước ngoài là người nước ngoài đang lao động tại Việt Nam. Dù

không quá phức tạp, nhưng việc làm rõ khái niệm này là một vấn đề mấu chốt

để xác định không chỉ đối tượng và phạm vi quản lý, mà còn xác định phương

thức quản lý đối với từng loại đối tượng được phân chia. Công ước Quốc tế

8

về việc Bảo vệ quyền của tất cả người lao động Di trú và Thành viên Gia đình

họ năm 1990 định nghĩa: “Thuật ngữ “người lao động di trú” dùng để chỉ

một người đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia

mà người đó không phải là công dân” (Điều 2, khoản 1)[56]. Đây là một định

nghĩa khá rõ ràng. Theo tác giả Lê Thị Hoài Thu đánh giá: “Điều này thể hiện

một chính sách toàn diện của Liên hợp quốc đối với người lao động di trú mà

các quốc gia thành viên của Công ước phải bảo đảm thực hiện tại quốc gia

mình”[44].

Có thể thấy định nghĩa này đã làm rõ các đặc trưng cơ bản của khái niệm lao

động nước ngoài đi làm việc có thời hạn như sau: Thứ nhất, người đó phải là

người nước ngoài đối với nước sở tại; và thứ hai, người đó phải đã, đang,

hoặc sẽ làm một công việc có thu nhập do người sử dụng lao động chi trả

trong một thời hạn nhất định (thời hạn nói chung là một khoảng thời gian

được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác hay còn gọi là ngày khởi

đầu, ngày kết thúc) và chịu sự điều chỉnh song trùng của nhiều hệ thống pháp

luật bao gồm pháp luật nước mình là công dân, vừa chịu sự điều chỉnh của

pháp luật của nước nơi thực hiện công việc.

Từ các nghiên cứu trên, học viên đề xuất xây dựng định nghĩa: Lao động

nước ngoài đi làm việc có thời hạn là người không mang quốc tịch của nước

sở tại thực hiện công việc nhất định tại nước đó nhằm mục đích tạo ra nguồn

thu nhập hợp pháp cho chính cá nhân và cho những người thân của họ (nếu

có) trong một khoảng thời gian giới hạn trên cơ sở pháp luật của nước sở tại.

Như vậy, học viên sử dụng định nghĩa này đối với lao động làm việc có thời

hạn hợp pháp tại nước sở tại.

1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn

9

Nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đang đối mặt với sự

dịch chuyển lao động lớn, từ ngành nông nghiệp sang chế biến và công

nghiệp, từ ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao

động cao tạo ra dư thừa lao động ở một số ngành nhưng cũng thiếu ở một số

ngành khác, nhất là ngành công nghệ cao. Việc lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn có trình độ sẽ lấp đầy những thiếu hụt đó, giúp cho nền kinh tế đạt

được những mục tiêu đặt ra. Cách mạng Công nghiệp 4.0 và các FTA sẽ kết

hợp cùng nhau đẩy nhanh sự thay đổi trong nền kinh tế và thị trường lao

động. Lao động nước ngoài có trình độ cao vào Việt Nam làm việc có thời

hạn sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường lao động nước ta. Những lao

động thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa và kỹ thuật thấp bị loại trừ dần hoặc họ

phải vươn lên, tự nâng cao trình độ, chuyên môn của mình. Chất lượng lao

động trong nước từ đó sẽ được nâng cao trên thực tế.Việc cho phép sử dụng

cả lao động trong nước và lao động nước ngoài sẽ khiến các doanh nghiệp, tổ

chức chủ động hơn trong việc bố trí nhân lực phù hợp với đặc thù công việc.

Các tổ chức, cá nhân nước ngoài lại càng mong muốn sử dụng những người

có tác phong làm việc có thời hạn giống như họ mà phải mất một thời gian

tương đối dài, lao động trong nước mới đáp ứng được.

Tuy nhiên, việc tiếp nhận lao động nước ngoài làm việc có thời hạn cũng làm

tăng gánh nặng việc làm và thất nghiệp ở nước ta. Lao động nước ngoài chất

lượng cao vào Việt Nam làm việc có thời hạn nhưng không có kế hoạch thay

thế bằng người Việt Nam thì sẽ ra sao. Lao động nước ngoài chất lượng thấp

vào Việt Nam sẽ tạo gánh nặng cho nền kinh tế và làm dư thừa lao động phổ

thông trong nước.

Dù muốn, dù không, lao động nước ngoài vẫn hiện diện ở Việt Nam và với số

lượng ngày càng tăng. Pháp luật lao động phải có những quy định cụ thể để

10

quản lý họ nhằm mục tiêu khuyến khích sự phát triển nền kinh tế, đồng thời

vừa phải đảm bảo an toàn cho thị trường lao động trong nước.

Lao động nước ngoài làm việc có thời hạn là một lao động có tính đặc thù,

khác hẳn với lao động trong nước cả về quy trình tuyển dụng, điều kiện lao

động, quyền và nghĩa vụ. Việc quản lý những người lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn không thể áp dụng nguyên các quy phạm pháp luật về quản

lý lao động trong nước. Mặt khác, sử dụng lao động của một quốc gia khác

còn ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, thương mại và văn hóa giữa các nước

với nhau. Do vậy, có thể nói lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam là một vấn đề cần thiết nhưng rất nhạy cảm. Quốc gia có lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn cần đối xử bình đẳng như những người lao

động là công dân của mình nhưng cũng cần có những biện pháp cứng rắn để

bảo vệ công dân mình.

Xét trên bình diện quốc tế, các nước có lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn đều có các văn bản pháp luật cụ thể quy định chi tiết việc tuyển dụng và

quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn. Có nước xây dựng một luật

riêng, cũng có nước quy định thành một mục trong các văn bản pháp luật về

lao động làm việc có thời hạn.

Để bảo đảm cho một người lao động nước ngoài vào làm việc tại một nước,

có nhiều vấn đề quản lý sau phải được đặt ra như: Nhập cảnh, xuất cảnh, cư

trú, cấp phép lao động, điều kiện lao động và sử dụng lao động, việc làm, giáo

dục, y tế, công đoàn, bảo hiểm xã hội, an ninh, trật tự… Người lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn có thể làm việc, cư trú, đi lại nghỉ ngơi ở tất cả các

địa phương và họ có thể tham dự vào nhiều quan hệ lao động khác nhau

không kể lao động giản đơn hay lao động đòi hỏi trình độ cao…Vì vậy chủ

thể quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại nước sở tại bao gồm

nhiều cơ quan trong bộ máy nhà nước và tất cả các chính quyền địa phương,

11

nhiều tổ chức khác ... Các phương thức quản lý cũng khác nhau tùy theo

chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Hiện tại Việt Nam đặt vấn đề lao động nước ngoài làm việc có thời hạn có

tầm quan trọng lớn trong chính sách kinh tế và chính sách ngoại giao. Tại

diễn đàn ASEAN năm 2008, Việt Nam khuyến nghị ASEAN cần hành động

cụ thể và trọn vẹn để người dân các nước thành viên mà muốn tìm việc làm ở

nước ngoài có thể được hưởng lợi từ một thỏa thuận mới của khu vực, mà qua

đó các quyền của họ với tư cách là những người lao động di trú sẽ được bảo

vệ. Cho tới thời điểm hiện nay thực tế Việt Nam đã gửi khoảng nửa triệu

người lao động đi làm việc ở khoảng 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, nên đòi

hỏi có cơ chế pháp lý quốc tế để bảo vệ họ. Sự đòi hỏi này được hiểu ở chiều

ngược lại là Việt Nam suy tính tới quan hệ quốc tế và cam kết thi hành các cơ

chế bảo vệ quyền của những người lao động nước ngoài làm việc đã, đang và

sẽ sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là đặc điểm quan trọng

không chỉ liên quan tới thiết kế chính sách, thiết lập cơ chế quản lý, xây dựng

pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn, mà còn liên

quan tới các tác nghiệp quản lý cụ thể, khi mà Việt Nam hiện nay đã tham gia

một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó nổi bật là

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) –

EVFTA.

Với những lý do xét trên góc độ kinh tế, xã hội và pháp lý như trên, chúng ta

cần phải hoàn thiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn.

1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn

1.2.1. Khái niệm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

12

Về mặt lý luận, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài là quan hệ phát sinh

giữa người sử dụng lao động và người lao động khi những người này có quốc

tịch khác nhau hoặc có cùng quốc tịch nhưng làm việc có thời hạn trên lãnh

thổ của một nước khác theo hình thức hợp đồng lao động hoặc theo các hình

thức khác. Như vậy, yếu tố nước ngoài trong pháp luật lao động thể hiện ở

quốc tịch của người lao động khác với “quốc tịch” của người sử dụng lao

động hoặc quốc gia mà họ đang làm việc có thời hạn[23].

Pháp luật về lao động nước ngoài tác động đến quan hệ lao động giữa một

bên là người sử dụng lao động và một bên là người lao động không phải là

công dân nước sở tại (nơi tiến hành hoạt động quản lý) làm việc tại nước sở

tại có hoặc không hưởng lương trong một khoảng thời gian nhất định. Định

nghĩa này bao quát cả những quan hệ lao động mà trong đó người sử dụng lao

động và người lao động đều là người nước ngoài đối với nước sở tại, và cả

những quan hệ lao động mà trong đó người lao động không hưởng lương bởi

có thể họ phải lao động theo một nghĩa vụ được ấn định theo pháp luật của

nước gửi lao động tới nước sở tại. Rõ ràng khi nghiên cứu chung về lao động

nước ngoài thì các quan hệ lao động như vậy không thể bỏ qua.

Từ các nghiên cứu trên có thể định nghĩa như sau: Pháp luật về lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước ban

hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc Nhà

nước tác động vào đối tượng quản lý là những người nước ngoài nhập cư vào

nước sở tại để làm việc có thời hạn, sinh sống một mình hoặc cùng với gia

đình của họ tại nước sở tại.

Pháp luật này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản là tôn trọng

quyền con người, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm

hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động bản xứ, và tôn trọng

các quyền và lợi ích hợp pháp của lao động nước ngoài nhằm mục tiêu đáp

13

ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử

dụng lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung

của toàn xã hội.

1.2.2. Đặc điểm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

Như định nghĩa ở trên, pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

bao gồm pháp luật nước sở tại quản lý lao động nước ngoài và pháp luật điều

chỉnh quan hệ lao động của họ với người sử dụng lao động.

Xuất phát từ bản chất QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn với

người sử dụng lao động mang các đặc điểm của QHLĐ thông thường, là mối

quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ trong quá trình thuê mướn và sử dụng sức lao

động của NLĐ để hưởng lương, có căn cứ phát sinh, thay đổi, thực hiện,

chấm dứt theo căn cứ phát sinh, thay đổi, thực hiện, chấm dứt của HĐLĐ.

Đặc trưng phân biệt giữa QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn

với QHLĐ thông thường là dấu hiệu chủ thể có yếu tố nước ngoài, một trong

các bên chủ thể là người nước ngoài làm việc có thời hạn. Đặc điểm này làm

cho QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn là đối tượng điều chỉnh

của ngành luật Lao động và ngành luật Tư pháp quốc tế. Do đó, pháp luật về

lao động nước ngoài có thời hạn bao gồm pháp luật công (được sử dụng nhằm

mục đích quản lý) và pháp luật tư (quan hệ lao động với người sử dụng lao

động). Điều đó có nghĩa là: đối với các mối quan hệ tư, phương pháp điều

chỉnh chủ yếu là phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt; còn đối với

các mối quan hệ công, phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh

lệnh - phục tùng. Tuy nhiên các quan hệ tư trong lĩnh vực này không thuần

túy được điều chỉnh bởi phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt mà bị

giới hạn bởi mục đích quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn.

14

1.3. Nội dung pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

1.3.1. Các nguyên tắc pháp luật áp dụng đối với lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn

Như trên đã phân tích, pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

bị ảnh hưởng khá nhiều bởi các điều ước quốc tế, đồng thời được xác định bởi

các chính sách về thị trường lao động của quốc gia. Sự ảnh hưởng này dẫn tới

việc hình thành một hệ thống các nguyên tắc không thể bỏ qua xác định địa vị

pháp lý của lao động nước ngoài làm việc có thời hạn (pháp luật công). Bên

cạnh đó, PL này xác định mối quan hệ giữa người lao động NN làm việc có

thời hạn và người sử dụng lao động NN (pháp luật tư). Các nguyên tắc đó bao

gồm:

Một là, tôn trọng quyền con người. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền

của tất cả người lao động di trú và gia đình họ năm 1990 xác định phạm vi

điều chỉnh của Công ước trên căn bản đặc tính “phổ biến” của quyền con

người như sau: “Công ước này được áp dụng, trừ khi được quy định khác sau

đó, đối với mọi người lao động di trú và các thành viên gia đình họ, không có

bất kỳ sự phân biệt nào như giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo

hoặc tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc xã hội

hoặc dân tộc, quốc tịch, độ tuổi, địa vị kinh tế, tài sản, tình trạng hôn nhân,

thành phần xuất thân và các địa vị khác” (Điều 1)[56]. Để khẳng định cụ thể

hơn nữa về quyền con người mà người lao động di trú phải được hưởng do

đặc tính “cơ bản” và đặc tính “phổ biến” của quyền con người, Công ước

này quy định: “Theo các văn kiện quốc tế về quyền con người, các quốc gia

thành viên Công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người lao động di

trú và các thành viên gia đình họ trong lãnh thổ hoặc thuộc quyền tài phán

của mình được hưởng các quyền theo Công ước mà không có bất kỳ sự phân

15

biệt nào về giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc tín ngưỡng,

quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hoặc dân tộc,

quốc tịch, độ tuổi, thành phần kinh tế, tài sản, tình trạng hôn nhân, thành

phần xuất thân và địa vị khác” (Điều 7)[56]. Quyền con người hiện nay được

xem là trung tâm của đời sống chính trị hiện đại. Bởi thế, Hiến pháp năm

2013 của Việt Nam dành toàn bộ Chương 2 để quy định quyền con người và

quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Như trên đã phân tích, đặc điểm số một

của quản lý lao động nước ngoài là quá trình gắn với bảo vệ quyền con người

và có tính quốc tế sâu sắc. Vì vậy tôn trọng quyền con người là nguyên tắc số

một của quản lý lao động nước ngoài nói chung và lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn nói riêng.

Hai là, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn bên cạnh những ảnh hưởng hữu ích cho sự phát

triển kinh tế - xã hội, đôi khi gây rắc rối cho các vấn đề an ninh, chính trị và

trật tự, an toàn xã hội. Một lực lượng lớn người lao động đến từ quốc gia thù

địch không bao giờ gây sự dễ chịu cho quốc gia sở tại. Thế giới đã chứng kiến

việc có nước sử dụng quân bài ngoại kiều ở nhiều nước khác. Do đó, bảo đảm

an ninh chính trị, an toàn xã hội là một vấn đề không thể bỏ qua trong hoạt

động quản lý lao động nước ngoài, đặc biệt là LĐNN làm việc có thời hạn.

Ba là, bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động bản

xứ. Số lượng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn gia tăng khiến việc

làm cho lao động trong nước có thể sụt giảm. Như vậy đất nước có thể vướng

phải những vấn đề xã hội. Không ai có thể phủ nhận được rằng sự gia tăng số

lượng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn cho người sử dụng lao động

có cơ hội lựa chọn người lao động phù hợp và thúc đẩy cạnh tranh. Nhu cầu

sử dụng lao động có trình độ chuyên môn bậc cao có thể được đáp ứng và

hiệu quả kinh tế có thể được cải thiện. Ở một số nước lao động nước ngoài

16

làm việc có thời hạn bù đắp cho những thiếu hụt về lao động do dân số già

hoặc do lao động trong nước không đủ cho một lĩnh vực cụ thể nào đó. Tuy

nhiên, áp lực của các vấn đề xã hội cũng cần phải được giải quyết. Vì vậy,

nguyên tắc này là một nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản lý lao động

nước ngoài. Nó giúp cho người quản lý luôn luôn chủ động trong việc bảo

đảm hiệu quả kinh tế, đồng thời bảo vệ việc làm cho người lao động bản xứ.

Nguyên tắc thỏa thuận được pháp luật thừa nhận liên quan đến mối quan hệ

với người sử dụng lao động được xây dựng dựa trên bản chất của quan hệ lao

động vốn dĩ là quan hệ vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất xã hội,

trong đó có cơ chế hai bên (NLĐ, đại diện của NLĐ với NSDLĐ; đại diện của

NLĐ với đại diện NSDLĐ). Quan hệ này thể hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi

bên khi tham gia vào quan hệ lao động trong phạm vi doanh nghiệp hoặc giữa

tổ chức đại diện của NLĐ với tổ chức đại diện của NSDLĐ trong phạm vi

ngành thông qua cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận. Đồng thời, bản

thân người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn chịu sự điều chỉnh của

các quy định pháp luật nước sở tại nơi họ tham gia về quan hệ lao động.

1.3.2. Điều kiện, hình thức và ngành nghề đối với lao động nước ngoài

làm việc có thời hạn

Điều kiện lao động (hay còn được hiểu là khả năng làm việc của người lao

động) là một trong những yếu tố tiên quyết đầu tiên đặt ra cho người lao động

nước ngoài khi muốn tham gia vào thị trường lao động ở bất kỳ một quốc gia

nào và luôn được quy định cụ thể trong pháp luật lao động của từng quốc gia.

Việc đặt ra các quy định về điều kiện lao động là hết sức quan trọng vì khác

với các loại mua bán thông thường khác, hàng hóa - sức lao động, đối tượng

mua bán của quan hệ này không thể tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn liền

với chủ thể là NLĐ. Tùy theo nhu cầu thị trường lao động mà mỗi quốc gia sẽ

có những quy định khác nhau liên quan đến các vấn đề về điều kiện lao động

17

như độ tuổi, sức khỏe, năng lực, trình độ của chính bản thân người lao động

đáp ứng nhu cầu làm việc cơ bản.

Về lý luận chung, quan hệ lao động là mối quan hệ lao động – pháp lý giữa

người chủ lao động và người làm thuê (người lao động) và được quy định bởi

Bộ luật lao động được thiết lập bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng phần

lớn đều được thực hiện bằng hình thức thỏa thuận bằng văn bản chính thức là

hợp đồng lao động. Và đối với lao động nước ngoài làm việc có thời hạn thì

cũng không ngoại lệ. Hình thức lao động là một trong thông tin được ghi nhận

tại Giấy phép lao động. Các hình thức này là căn cứ để xác định người nước

ngoài có thuộc diện không phải cấp giấy phép lao động hay có giấy phép lao

động.

Bên cạnh lý do thị trường việc làm đối với lao động trong nước, mục đích

bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo đảm trật tự xã hội, lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn được tham gia thực hiện các công việc mà pháp luật không

cấm, tuy nhiên hầu hết các quốc gia sẽ có quy định hạn chế người nước ngoài

làm một số nghề mang tính đặc thù hoặc giữ một số chức vụ nhất định như

bác sỹ, luật sư, công chứng viên, người đứng đầu cơ quan báo chí, biên tập

viên, tổng biên tập, giám đốc nhà xuất bản ….

1.3.3. Quyền và nghĩa vụ của lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

Với tư cách là người nước ngoài, trước hết người lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn có quyền và nghĩa vụ như người nước ngoài khác theo quy

định pháp luật nước sở tại.

Trong quan hệ lao động của người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

với người sử dụng lao động thì bên cạnh tuân thủ pháp luật nước sở tại, hai

bên sẽ thảo thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ với nhau.

18

Hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy định nội dung bên

trong của QHLĐ khi xác lập các quyền và nghĩa vụ phải dựa trên cơ sở của

HĐLĐ có thời hạn.

Trước hết HĐLĐ đó sẽ xác lập dựa trên thỏa thuận giữa hai bên (trừ những

nội dung pháp luật nước sở tại cấm). Theo đó, một bên là NLĐ nước ngoài

làm việc có thời hạn cam kết hoàn thành một loại công việc, thực hiện đầy đủ

nội quy lao động và các quy định khác trong quá trình lao động và bên kia là

NSDLĐ, có nghĩa vụ giao việc cho NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn như

đã cam kết, trả lương theo năng suất, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo các điều

kiện làm việc an toàn, vệ sinh và thực hiện các nghĩa vụ khác do pháp luật

quy định. Hai bên phải gặp gỡ để thiết lập QHLĐ dựa trên nguyên tắc cùng

nhau thương lượng, tôn trọng, hợp tác và tự nguyện; kết quả của quá trình

thương lượng đó HĐLĐ có thời hạn được ký kết. Trong QHLĐ, NLĐ đặt

hoạt động của mình dưới sự quản lý điều hành của NSDLĐ, chịu sự phân

công công việc, chấp hành các quy định về hoạt động lao động mà NSDLĐ đề

ra.

Tuy nhiên, do QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn là đối tượng

điều chỉnh của ngành luật Tư pháp quốc tế, nên nếu các bên không thỏa thuận

hoặc thỏa thuận trái pháp luật thì HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn có thể bị điều chỉnh bởi pháp luật về QHLĐ có yếu tố nước ngoài

(Tư pháp quốc tế).

1.3.3. Về giải quyết tranh chấp lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có quy định riêng về giải quyết tranh

chấp lao động cá nhân của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam. Chính vì vậy, nếu phát sinh tranh chấp giữa NLĐ nước ngoài làm việc

có thời hạn và NSDLĐ sẽ áp dụng các quy định chung trong Bộ luật Tố tụng

dân sự, BLLĐ và các văn bản khác có liên quan. BLLĐ năm 2012 có quy

19

định khái niệm chung về tranh chấp lao động là những tranh chấp lao động là

tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong QHLĐ

và phân loại tranh chấp lao động thành tranh chấp lao động cá nhân và tranh

chấp lao động tập thể từ đó có những quy định về chủ thể có thẩm quyền giải

quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục giải quyết đối với hai loại tranh chấp này.

Việc giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân trong QHLĐ của NLĐ nước

ngoài làm việc có thời hạn được tiến hành bởi hòa giải viên lao động và Tòa

án nhân dân. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân trong

quan hệ lao động của người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn bao

gồm các thủ tục sau: Thương lượng; Hòa giải tranh chấp lao động cá nhân tại

Hòa giải viên lao động và Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân.s

1.4. Nguồn pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

1.4.1. Nguồn pháp luật Việt Nam

Hiến pháp ghi nhận các quyền cơ bản của công dân trong đó quy định tại

Điều 81 “người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và

pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng tài sản và các quyền

lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam”; đồng thời đưa ra khung pháp lý

mang tính chất định hướng cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp

luật nói chung và pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất cảnh, nhập cảnh

đối với người lao động nước ngoài nói riêng.

Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh QHLĐ của NLĐ nước

ngoài nằm rải rác tại nhiều Bộ luật và Văn bản pháp luật. Phần lớn các quy

định tồn tại trong Bộ luật Lao động 2012 và các Văn bản hướng dẫn thi hành.

BLLĐ năm 2012 lần đầu tiên tách phần quy định về NLĐ nước ngoài trong

đó bao gồm cả NLĐNN làm việc có thời hạn thành một phần riêng, nhưng

vẫn giữ nguyên quan điểm của Nhà nước Việt Nam về mục đích của hoạt

20

động tuyển dụng NLĐ nước ngoài nói chung và NLĐNN làm việc có thời hạn

nói riêng là “Chỉ được tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài đối với

công việc quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà

lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, phải giải trình nhu cầu sử dụng và

phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” (Điều 170).

Bên cạnh đó, việc sử dụng NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn theo HĐLĐ

tại Việt Nam trong những lĩnh vực đặc thù còn được sự điều chỉnh của các

văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật thể dục, thể thao năm 2006; Bộ luật

hàng hải năm 2015; Luật hàng không dân dụng năm 2006 (sửa đổi bổ sung

năm 2014); Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012), các đạo luật

và những văn bản dưới luật khác. Ngoài ra, QHLĐ của NLĐ nước ngoài còn

chịu sự điều chỉnh của BLDS 2015 về các quy định liên quan đến xác định

pháp luật áp dụng điều chỉnh cho QHLĐ có yếu tố nước ngoài.

1.4.2. Điều ước quốc tế liên quan

Bên cạnh pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế về lao động mà Việt Nam ký

kết hoặc tham gia là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh lao

động nước ngoài làm việc có thời hạn ở Việt Nam.

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Đây là 2 trong số 8 công ước về

nhân quyền mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia. Hai công

ước quy định những quyền cơ bản về kinh tế, chính trị, xã hội... mà con người

được hưởng, trong đó có quyền lao động. Tại Công ước về các quyền kinh tế,

xã hội và văn hóa có quy định tại Điều 6, 7, 8, 9, 10 như sau: “Các quốc gia

thành viên của Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm

quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do

chọn hoặc chấp thuận, và các quốc gia sẽ thi hành các biện pháp thích hợp

để đảm bảo quyền này, công nhận quyền của mọi người được hưởng những

21

điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt đảm bảo: a) Trả thù lao

cho tất cả mọi người làm công phải: i) Bằng nhau cho những công việc có giá

trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào, đặc biệt là phụ nữ phải đảm

bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công bằng

ngang nhau đối với những công việc như nhau; ii) Bảo đảm một cuộc sống

tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp các quy định của Công ước

này; b) Những điều kiện làm việc an toàn và vệ sinh; c) Cơ hội ngang nhau

cho mọi người trong việc đề bạt lên chức vụ cao, chỉ cần xét tới thâm niên và

khả năng làm việc; d) Sự nghỉ ngơi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những

ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như những ngày nghỉ lễ; cam

kết bảo đảm các quyền của mọi người được thành lập và gia nhập công đoàn,

bảo hiểm xã hội..”.[56].

Cam kết của Việt Nam gia nhập WTO: Trong tất cả các dịch vụ mà Việt Nam

cam kết với WTO, chưa có cam kết về việc mở cửa thị trường lao động, tuy

nhiên trong cam kết về thương mại dịch vụ, có hai phương thức cung cấp dịch

vụ mà lao động nước ngoài có thể đến Việt Nam, đó là hiện diện thương mại

và hiện diện thể nhân[52].

Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với một số nước Việt Nam đã ký

các hiệp định tương trợ tư pháp pháp lý với các nước, nhằm bảo vệ tốt hơn

quyền lợi cho công dân trong các các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, hôn

nhân gia đình...Trong các hiệp định không quy định trực tiếp quyền và nghĩa

vụ lao động, nhưng thường quy định các nguyên tắc pháp lý, những thủ tục tư

pháp, đặc biệt trong những hiệp định được ký kết gần đây thường có các quy

phạm xung đột điều chỉnh các quan lao động có yếu tố nước ngoài[24, tr.59].

Các điều ước quốc tế song phương về lao động: Các hiệp định về lao động

cũng chiếm một vị trí đáng kể trong hệ thống các điều ước quốc tế mà Việt

Nam ký kết. Các công ước của ILO mà Việt Nam phê chuẩn: Trong ngành

22

luật lao động quốc tế hầu hết các điều ước quốc tế về lao động do Tổ chức

Lao động quốc tế (ILO) ban hành. Các công ước và khuyến nghị của ILO có

vị trí hết sức quan trọng, coi là luật mẫu để các quốc gia hoàn thiện pháp luật

lao động của nước mình. Là thành viên của ILO từ 1980, đến nay Việt Nam

đã phê chuẩn 24 Công ước của ILO. Riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê

chuẩn 3 Công ước của ILO, bao gồm: Công ước 88 về tổ chức dịch vụ việc

làm; Công ước 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật; và đặc biệt

là Công ước số 98 về Áp dụng các nguyên tắc của quyền tổ chức và thương

lượng tập thể[27].

23

Kết luận chương 1

Chương 1 của luận văn tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lý luận

cơ bản nhất về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn. Trong đó, làm rõ

khái niệm lao động nước ngoài làm việc có thời hạn.

Từ việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các khái niệm có liên quan, học viên

đã xây dựng khái niệm chung nhất về lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn, làm cơ sở cho việc phân tích các đặc điểm về lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn.

Học viên cũng đã phân tích cụ thể khái niệm pháp luật về lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn; nguyên tắc pháp luật về lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn, quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa hai mối quan hệ tồn tại

song song: một là giữa chủ thể quản lý (các cơ quan quản lý Nhà nước) và

người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn; hai là giữa cá nhân, tổ chức

sử dụng lao động với lao động nước ngoài làm việc có thời hạn.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận pháp luật lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn, học viên sử dụng làm cơ sở và tiền đề để có thể phân tích, đánh giá thực

trạng pháp luật tại Chương 2.

24

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC

NGOÀI LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN TẠI VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về tuyển dụng lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam

Trong mối quan hệ lao động nói chung sẽ có hai thành phần cơ bản là người

lao động và người sử dụng lao động. Ở đây, xét về mối quan hệ lao động có

yếu tố nước ngoài thì có thể có hai trường hợp xảy ra: Một là, người lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn và người sử dụng lao động trong nước. Hai

là, người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn và người sử dụng lao động

là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, người lao động nước

ngoài muốn làm việc có thời hạn phải đáp ứng các điều kiện để được tuyển

dụng vào làm việc, còn người sử dụng lao động cũng phải đảm bảo điều kiện

tuyển dụng người lao động.

2.1.1. Về điều kiện tuyển dụng lao động nước ngoài có thời hạn

Căn cứ theo Điều 170 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về điều kiện tuyển

dụng lao động nước ngoài nói chung bao gồm cả LĐNN làm việc có thời hạn

như sau:

“1. Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu trong nước chỉ được

tuyển lao động là công dân nước ngoài vào làm công việc quản lý, giám đốc

điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp

ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

2. Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu nước ngoài trước khi

tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài vào làm việc trên lãnh thổ Việt

Nam phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động và được sự chấp thuận bằng

văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

25

Như vậy, việc tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài chỉ khi đáp ứng

đầy đủ các điều kiện theo quy định được viện dẫn ở trên. Chỉ tuyển dụng lao

động là người nước ngoài vào làm công việc quản lý, giám đốc điều hành,

chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được

theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động

và được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đối với người sử dụng lao động trong nước: ngoài những vị trí công việc nêu

trên, người sử dụng lao động trong nước không được phép tuyển dụng lao

động nước ngoài mà phải tuyển dụng lao động trong nước. Quy định này là

hoàn toàn phù hợp với chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, tránh

tình trạng dư thừa lao động trong nước, cũng như góp phần giải quyết việc

làm, giảm thất nghiệp, tệ nạn xã hội.

Đối với người sử dụng lao động nước ngoài: Trước khi tiến hành tuyển dụng

lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam ít nhất là 30 ngày thì phải làm

báo cáo giải trình nhu cầu sử dụng lao động theo Mẫu số 1 ban hành kèm theo

Thông tư số 40/2016/TT-BLĐTBXH và được sự chấp thuận bằng văn bản của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh). Theo đó, đối với người sử dụng lao

động nước ngoài, pháp luật không hạn chế vị trí công việc tuyển dụng như

người sử dụng lao động trong nước. Tuy nhiên, quy định pháp luật có sự ràng

buộc khi yêu cầu người sử dụng lao động phải giải trình nhu cầu sử dụng lao

động (trừ nhà thầu). Trong văn bản giải trình nhu cầu sử dụng lao động, người

sử dụng lao động phải xác định rõ nhu cầu sử dụng lao động đối với từng

công việc mà hiện nay vị trí công việc đó người lao động Việt Nam chưa đáp

ứng được. Đồng thời, báo cáo giải trình này với Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu trong quá trình sử dụng lao

26

động mà người sử dụng lao động muốn thay đổi người lao động thì cũng phải

báo cáo với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Bên cạnh đó, tương tự như người lao động trong nước, người lao động nước

ngoài muốn làm việc tại Việt Nam cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện chung

theo quy định của Điều 171 Bộ luật lao động năm 2012 và Điều 9 Nghị định

11/2016/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành Bộ luật Lao động về cấp giấy phép lao động cho lao động là công

dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam bao gồm: người lao động nước

ngoài phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; Trình độ chuyên môn, tay

nghề, sức khỏe phù hợp với vị trí công việc; Không bị truy cứu trách nhiệm

hình sự và không là người phạm tội. Ngoài ra, do có sự di chuyển về lãnh thổ

làm việc nên người lao động nước ngoài còn phải được cấp giấy phép lao

động bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam cấp. Trong những điều

kiện nêu trên thì giấy phép lao động có tính chất tiên quyết giống như một

giấy thông hành, chứng minh người lao động nước ngoài được phép làm việc

tại Việt Nam một cách hợp pháp. Do đó, pháp luật cũng quy định khá chặt

chẽ trong việc xin cấp giấy phép lao động. Căn cứ theo Điều 9 Nghị định số

11/2016/NĐ-CP quy định chi tiết về điều kiện cấp giấy phép lao động, người

lao động nước ngoài muốn xin cấp phép lao động tai Việt Nam trước hết phải

đảm bảo đầy đủ những điều kiện như phân tích ở trên. Thêm vào đó, tùy

thuộc vào doanh nghiệp mà người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn

sẽ có yêu cầu vị trí tuyển dụng riêng.

2.1.2. Về hình thức làm việc có thời hạn của lao động nước ngoài tại Việt

Nam

Điều kiện về hình thức làm việc là điều kiện không được quy định cụ thể

trong BLLĐ năm 2012 mà được điều chỉnh trong Nghị định số 11/2016/NĐ-

CP ngày 03/02/2016, là quy định chung cho cả các hình thức người nước

27

ngoài làm việc tại Việt Nam bao gồm cả NLĐ nước ngoài làm việc có thời

hạn và những chủ thể khác như tình nguyện viện, người cung cấp dịch vụ theo

hợp đồng (thực hiện công việc theo hợp đồng dịch vụ), người chịu trách

nhiệm thành lập hiện diện thương mại (thực hiện công việc liên quan đến

thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam, không được trực tiếp cung cấp

dịch vụ). Theo đó, quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ cho phép lao

động nước ngoài vào làm việc theo 4 vị trí là chuyên gia, giám đốc điều hành,

lao động kỹ thuật và nhà quản lý, nhưng với điều kiện lao động Việt Nam

không đáp ứng được. Đây là hình thức làm việc gây nhiều tranh cãi bởi vì các

hình thức làm việc này bị quy định trùng lặp, không cần thiết đưa ra vào quy

định về hình thức làm việc. Liệu có nên gọi đây là hình thức làm việc hay

không khi đây được coi chức danh hoặc tiêu chí về nghề nghiệp cụ thể đã

được quy định tại Điều 170 BLLĐ năm 2012 về Điều kiện tuyển dụng lao

động là công dân nước ngoài.

Các hình thức lao động của người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay phát sinh

chủ yếu ở dạng hợp đồng lao động, di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp,

được công ty mẹ cử sang hoặc thực hiện các hợp đồng kinh tế thương mại.

Trường hợp người lao động nước ngoài làm việc theo hình thức thực hiện hợp

đồng lao động thì sau khi người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao

động thì người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài phải ký kết

hợp đồng lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật Việt Nam trước

ngày dự kiến làm việc cho chủ sử dụng lao động theo quy định tại khoản 3,

Điều 12 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ.

Trường hợp người lao động nước ngoài làm việc theo hình thức di chuyển

trong nội bộ doanh nghiệp thì phải có văn bản của doanh nghiệp nước ngoài

cử sang làm việc tại hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài đó

trên lãnh thổ Việt Nam và văn bản chứng minh người lao động nước ngoài đã

28

được doanh nghiệp nước ngoài đó tuyển dụng trước khi làm việc tại Việt Nam

ít nhất 12 tháng theo quy định tại điểm a, khoản 7, Điều 10 Nghị định số

11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ.

Theo BLLĐ 2019, tại Điều 20 Luật mới quy định, chỉ còn 2 loại hợp đồng lao

động là: HĐ xác định thời hạn và không xác định thời hạn. Loại hợp đồng

theo mùa vụ bị bãi bỏ từ ngày BLLĐ có hiệu lực. Ghi nhận hình thức Giao

kết hợp đồng lao động thông qua giao dịch điện tử có hiệu lực như hợp đồng

bằng văn bản, quy định về HĐLĐ theo hướng bảo vệ tốt hơn đối với NLĐ, cụ

thể tại Điều 13 có bổ sung khoản 1: “HĐLĐ được giao kết thông qua phương

tiện điện tử có giá trị như HĐLĐ bằng văn bản” và khoản 2: “Trước khi

nhận NLĐ vào làm việc thì NSDLĐ phải giao kết hợp đồng lao động với

NLĐ”.

Quy định về hình thức làm việc trong Nghị định 11/2016 NĐ-CP phù hợp với

các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế đa phương của các tổ

chức quốc tế liên chính phủ như WTO và AEC, nhưng còn thiếu các quy định

trong cam kết song phương về lao động với một số các quốc gia như hình

thức làm việc kết hợp với kỳ nghỉ được quy định trong Thỏa thuận giữa

Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Australia

về chương trình lao động kết hợp kỳ nghỉ, do thỏa thuận này có hiệu lực từ

ngày 01 tháng 3 năm 2017 sau khi Nghị định 11/2016 có hiệu lực.

2.1.3. Về ngành nghề đối với người nước ngoài khi làm việc có thời hạn ở

Việt Nam

Với mục đích quản lý NLĐ nước ngoài nói chung là LĐNN làm việc có thời

hạn nói riêng, pháp luật của một số quốc gia cũng quy định các điều kiện

hành nghề riêng để chọn lọc hoặc điều tiết số lượng NLĐ nước ngoài như các

điều kiện về bằng cấp, GPLĐ và một số ngành nghề nhất định được điều

chỉnh bới các văn bản pháp lý chuyên ngành ví dụ như quy định về điều kiện

29

hành nghề, tiêu chuẩn đối với NNN làm hướng dẫn viên du lịch có thời hạn

tại Việt Nam sẽ có những quy chuẩn riêng, còn trong lĩnh vực giáo dục,

Thông tư 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 12 năm 2017 của Bộ Giáo dục

và Đào tạo về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa thì

theo các quy định từ Điều 4 đến Điều 8 mà Thông tư đề cập thì người biên

soạn sách giáo khoa sẽ phải là công dân Việt Nam, không phải là NNN; một

ví dụ khác là nghề luật sư, căn cứ Khoản 30 Điều 1 Luật Luật sư sửa đổi 2012

quy đinh về phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài quy định thì Luật sư

nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được tư vấn pháp luật nước ngoài và

pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp

luật nước ngoài và chỉ được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có

Bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như

đối với một luật sư Việt Nam; đặc biệt trong lĩnh vực y tế, bác sỹ là người

nước ngoài hành ngề khám chữa bệnh tại Việt Nam phải có phiên dịch nhưng

trên thực tế lại xảy ra các trường hợp các phòng khám đa khoa, chuyên khoa

có thuê các bác sỹ là người Trung Quốc, khi bị cơ quan chức năng thanh,

kiểm tra thì họ đổ lỗi cho người phiên dịch, lách luật, vi phạm chuyên môn

khi khám chữa bệnh nên Dự thảo sửa dổi, bổ sung Luật khám chữa bệnh

trong thời gian tới sẽ quy định khắt khe hơn về điều kiện để cấp chứng chỉ

hảnh nghề cho bác sĩ nước ngoài muốn hành nghề tại Việt Nam phải rành

tiếng Việt là yêu cầu rất cần thiết. Điều này để hạn chế những sai sót về

chuyên môn do bệnh nhân và bác sĩ không hiểu hết ý nhau hoặc người phiên

dịch diễn đạt không hết ý của bác sĩ.

Theo thống kê, một số lĩnh vực người lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn ở Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn như Khoa học công nghệ, giáo dục y tế,

quản lý nhà nước,…chiếm gần 25%; Công nghiệp chế biến chế tạo: 22,2%,

Xây dựng: 13%, Khách sạn, nhà hàng gần 12%,… Các lĩnh vực khác chỉ

30

chiếm từ 1-5%[22]. Các ngành nghề lao động nước ngoài tham gia rất đa

dạng. Đối với ngành giày da, may mặc (quản lý, giám đốc) có khoảng 432

nghìn người, chiếm 24,12%, chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan. Ngành giáo

dục (giáo viên) có khoảng 300 nghìn lao động chiếm khoảng 16,6%, chủ yếu

tập trung vào lao động châu Âu quốc tịch Anh, Australia, Mỹ, Canada và

New Zealand. Ngành công nghệ cao (kỹ sư, IT) có khoảng 100 nghìn lao

động, chiếm gần 6%, chủ yếu từ Nhật, Mỹ, Đan Mạch. Còn lại là ngành tài

chính ngân hàng, chứng khoán khoảng 90 nghìn người chiếm gần 1%[19].

Điều đáng nói ở đây không chỉ lao động cao cấp và kỹ thuật nhập khẩu vào

Việt Nam mà lao động phổ thông các nước cũng bắt đầu đến Việt Nam để

hành nghề, cho dù đến thời điểm này chúng ta chưa cho phép lao động phổ

thông nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo Sở Lao động - Thương binh và

Xã hội Tp.HCM, đa số những lao động nhập khẩu vào Tp.HCM này đều

không có trình độ, chuyên môn cao. Tại quận Gò Vấp, Bình Tân, Bình Chánh,

Tân Phú Tp.HCM là nơi tập trung lao động châu Phi nhiều nhất. Lao động

này đến Việt Nam làm đủ thứ nghề, từ thu gom hàng giày da, may mặc giá rẻ

để bán đến thợ hồ, bốc vác...[19]. Điều này đang đi ngược lại với chính sách

thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh

mẽ của đất nước khi gia nhập thị trường lao động quốc tế.

2.1.4. Về trình tự, thủ tục tuyển người nước ngoài làm việc có thời hạn

tại Việt Nam

Khác với quy trình tuyển dụng lao động trong nước, việc tuyển dụng lao động

nước ngoài vào làm việc có thời hạn tại Việt Nam có quy trình phức tạp hơn.

Đòi hỏi các chủ lao động mất nhiều thời gian và tiến hành các thủ tục nhiều

hơn.

Căn cứ pháp lý hiện nay về trình tự, thủ tục tuyển người nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam bao gồm Bộ luật Lao động 2012, Luật Nhập cảnh,

31

xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014, Nghị

định 11/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Bộ luật Lao động về cấp giấy

phép lao động cho lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt

Nam; việc trục xuất lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam

không có giấy phép lao động.

Theo đó, để có thể tuyển dụng, trước hết cần đáp ứng điều kiện mà pháp luật

lao động đã quy định tại Điều 170 Bộ luật lao động năm 2012[2]. Đồng thời,

căn cứ Nghị Định số 11/2016/NĐ-CP hướng dẫn Bộ Luật Lao Động có hiệu

lực ngày 01/04/2016 và Thông Tư số 40/2016/TT-BLĐ-TB&XH có hiệu lực

ngày 12/12/2016 hướng dẫn về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam,

có thể thấy quy trình tuyển dụng có thể khái quát như sau: Để bắt đầu tuyển

dụng người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn; trong thời hạn 30 ngày

kể từ ngày dự kiến sử dụng NLĐNN, doanh nghiệp phải gửi Báo cáo giải

trình về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn đến

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến NLĐNN sẽ làm việc. Trong

thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo giải trình, Chủ tịch Ủy ban

nhân dân sẽ có văn bản thông báo chấp thuận hay không chấp thuận việc sử

dụng NLĐNN làm việc có thời hạn theo từng vị trí công việc mà doanh

nghiệp đã giải trình. Sau khi tuyển được NLĐNN, doanh nghiệp thực hiện

công việc “Đề nghị cấp giấy phép lao động” trước ít nhất 15 ngày làm việc,

kể từ ngày người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn dự kiến bắt đầu

làm việc cho người sử dụng lao động; hoặc “Đề nghị xác nhận không thuộc

diện cấp giấy phép lao động” nếu NLĐNN làm việc có thời hạn thuộc các

trường hợp không phải cấp giấy phép lao động.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy

phép lao động, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép lao động

cho người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn theo mẫu do Bộ Lao

32

động - Thương binh và Xã hội quy định. Trường hợp không cấp giấy phép lao

động thì có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.

Sau khi người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn được cấp giấy phép

lao động thì người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài phải ký

kết hợp đồng lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật lao động

Việt Nam trước ngày dự kiến làm việc cho người sử dụng lao động.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ký kết hợp đồng lao động, người

sử dụng lao động phải gửi bản sao hợp đồng lao động đã ký kết tới Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động đó. Doanh nghiệp

thực hiện việc “Bảo lãnh cho người lao động nước ngoài được cấp thị thực

nhập cảnh vào Việt Nam”. Thủ tục bảo lãnh thực hiện theo quy định tại Điều

16 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt

Nam 2014. Theo đó, khi DN tiến hành nộp hồ sơ cho cơ quan quản lý xuất

nhập cảnh. Nếu chấp thuận thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh gửi thông báo

cho bên DN và thông báo cho cơ quan đại diện của VN tại nước mà người

nước ngoài cư trú. Và khi đó DN sẽ thông báo cho người nước ngoài liên hệ

với cơ quan đại diện của VN nơi họ cư trú để xin cấp thị thực nhập cảnh vào

Việt Nam làm việc (ký hiệu thị thực LĐ).

Thêm vào đó, theo quy định, người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ

các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của

người nước ngoài làm việc có thời hạn vào Việt Nam làm việc và người nước

ngoài phải nghiên cứu đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam do người

sử dụng lao động cung cấp, đồng thời phải chuẩn bị các giấy tờ cần thiết và

thực hiện theo đúng quy định. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này không

ai kiểm soát được. Thực tế, nhiều chủ sử dụng lao động không cung cấp hoặc

cung cấp không đầy đủ cho người lao động nước ngoài các quy định pháp luật

về quyền và trách nhiệm của cả hai bên và bản thân nhiều người lao động

33

nước ngoài làm việc có thời hạn cũng còn xem nhẹ việc nghiên cứu các quy

định này, ngay cả khi chủ sử dụng lao động đã cung cấp. Ngoài ra, một trong

các quy định không phù hợp mà các công ty đa quốc gia phải đối mặt là gửi

nhân viên nước ngoài đến Việt Nam trong một thời gian ngắn để thực hiện

các công việc thuộc trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện

cấp giấy phép lao động, ví dụ tại điểm e điều 7 Nghị định 11/2016/NĐ-CP

quy định: “Vào Việt Nam làm việc tại vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc

điều hành hoặc lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời

gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm”. Theo quy định trong thời

gian rất ngắn yêu cầu họ phải thực hiện thủ tục không thuộc diện xin giấy

phép lao động là không phù hợp với thực tế vì thủ tục hành chính phức tạp,

thời gian xử lý hồ sơ lâu trong khi đó họ chỉ ở Việt Nam một vài ngày hoặc

một vài tuần. Có khi nhận được chấp thuận không thuộc diện xin giấy phép

lao động thì họ đã không còn làm việc tại Việt Nam.

2.1.5. Thực tế tuyển dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam

Theo quy định tại Điều 170 của Bộ luật lao động năm 2012, khi các doanh

nghiệp Việt Nam nhận thấy người lao động, nguồn nhân lực của doanh

nghiệp chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh thì các chủ thể

kinh tế trong nước được phép tuyển lao động là công dân nước ngoài vào làm

với các vị trí tuyển dụng: quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao

động kỹ thuật mà lao động Việt Nam không thể đáp ứng được. Điều luật này

mang ý nghĩa vô cùng to lớn phản ánh mối quan hệ pháp lý bảo hộ lao động

trong nước khi Việt Nam được thế giới đánh giá là quốc gia có dân số trẻ, lực

lượng nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động dồi dào trong khi vấn đề thất

nghiệp, giải quyết việc làm, đặc biệt là các khu vực vùng sâu, vùng xa, miền

núi, hải đảo; vấn đề sa thải người lao động bất hợp pháp đang diễn biến phức

34

tạp thì không thể để các doanh nghiệp Việt Nam tuyển dụng ồ ạt người lao

động nước ngoài làm mất cân bằng lao động trong bối cảnh hiện nay. Thế

nhưng nghịch lý là người lao động nước ngoài, đặc biệt là lao động phổ

thông, nếu họ không đủ điều kiện cấp Giấy phép lao động, cũng không có đủ

khả năng để được xin vào làm ở những doanh nghiệp có tiếng nên đương

nhiên là không khai báo với chính quyền địa phương và cơ quan quản lý lao

động. Một bộ phận người sử dụng lao động chưa hoàn thành trách nhiệm báo

cáo đầy đủ và kịp thời với cơ quan quản lý lao động về nhu cầu tuyển dụng,

tình hình lao động tại đơn vị mình. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn tuyển

dụng “chui” những người không đủ điều kiện cấp Giấy phép lao động dưới

dạng hướng dẫn viên du lịch tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ[36].

Những khó khăn hiện nay liên quan đến việc tuyển dụng lao động nước ngoài

làm việc có thời hạn tại Việt Nam đó là về mặt thủ tục hành chính như theo

quy định tại Điều 10 Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Bộ

luật lao động về cấp giấy phép lao động cho lao động là công dân nước ngoài

vào làm việc tại Việt Nam; việc trục xuất lao động là công dân nước ngoài

làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động, việc xin lý lịch tư pháp

Việt Nam cho người nước ngoài theo quy định là không quá 20 ngày nhưng

thực tế còn kéo dài nhiều thời gian hơn và việc kê khai lý lịch vẫn còn phức

tạp. Trong thời gian chờ đợi người nước ngoài sẽ không làm việc nếu chưa

được cấp giấy phép lao động và doanh nghiệp, tổ chức vẫn phải chi trả các

khoản chi phí cho người lao động nước ngoài. Giấy chứng nhận sức khỏe

hoặc giấy khám sức khỏe phải khám bắt buộc tại một số bệnh viện theo quy

định của Bộ Y tế, trong khi một vài bệnh viện bác sĩ khám tại đó không thông

thạo ngoại ngữ, khi ấy buộc phải có phiên dịch đi cùng. Hoặc việc giấy khám

sức khỏe tại một số bệnh viện quy định chỉ có giá trị thời hạn trong vòng 03

tháng kể từ ngày cấp. Có trường hợp người lao động nước ngoài bị kéo dài hồ

35

sơ xin cấp giấy phép lao động thì buộc phải khám lại sức khỏe để xin giấy

khám sức khỏe mới. Việc hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ của người nước

ngoài gây mất nhiều thời gian, nếu không nắm rõ các quy định về thủ tục hợp

pháp hóa thì sẽ phải kéo dài thời gian xin cấp giấy phép lao động. Ngoài ra

việc xin cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài còn gặp một số trở

ngại như: các văn bản chứng minh, xác nhận bằng cấp và kinh nghiệm làm

việc của người nước ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu vị trí công việc tuyển

dụng; mức lương được trả quá thấp so với quy định; bản dịch các giấy tờ

tiếng nước ngoài sang tiếng Việt không hợp lệ hoặc không được chấp nhận,…

2.2. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn tại Việt Nam

Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm

việc có thời hạn được xác định theo nội dung hợp đồng lao động và theo quy

định của pháp luật.

Các bên thỏa thuận những nội dung của điều khoản nhưng không được trái

pháp luật, trái thỏa ước lao động tập thể. HĐLĐ với NLĐ nước ngoài làm

việc có thời hạn phải đảm bảo các nội dung chủ yếu theo quy định tại Điều 23

BLLĐ năm 2012 và Điều 4 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm

2015 về hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động năm 2012 bao

gồm quyền, trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, tổ chức

đại diện tập thể lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thực

hiện một số quy định của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động, thương

lượng tập thể, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, kỷ luật lao động, trách

nhiệm vật chất và giải quyết tranh chấp lao động.

Hợp đồng bao gồm các nội dung sau: Nghĩa vụ về cung cấp thông tin của chủ

thể giao kết HĐLĐ; nghĩa vụ pháp lý liên quan đến công việc và địa điểm làm

việc của NLĐ nước ngoài; nghĩa vụ tuân thủ các quy định về thời hạn hợp

36

đồng của HĐLĐ ký kết với NLĐ nước ngoài; quyền và nghĩa vụ pháp lý liên

quan đến tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, trang bị bảo hộ

cho người lao động; quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến chế độ bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thời điểm có hiệu lực và

ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng.

37

2.2.1. Thực trạng pháp luật về quyền lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam

Về cơ bản, quyền của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam đối

với người sử dụng lao động tương tự như người lao động Việt Nam làm việc

trong nước quy định tại Điều 5 Bộ luật lao động 2012. Tại quy định BLLĐ

2019 bổ sung quy định về quyền của NLĐ, cụ thể tại Điều 5 quy định bổ sung

như sau: Bổ sung: NLĐ không bị cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại

nơi làm việc; Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến

tính mạng, sức khỏe trong quá trình thực hiện công việc và các quyền khác

theo quy định pháp luật. Đồng thời, Quy định bổ sung Điều 8 về các hành vi

nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động như lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo

gian dối hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa gạt NLĐ hoặc để tuyển dụng NLĐ

với mục đích mua bán người , bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc lợi dụng dịch

vụ việc làm, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để

thực hiện hành vi trái pháp luật. Ngoài ra, BLLĐ 2019 còn mở rộng quyền

cho NLĐ được đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần báo trước cụ thể

Tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật mới quy định về quyền của người lao động được

đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong 07

trường hợp cụ thể. Điều này thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong

việc bảo vệ NLĐ trước sự o ép về vị thế của họ trong mối quan hệ lao động,

thể hiện sự quan tâm, tính nhân văn khi áp dụng tinh thần của ĐUQT mà Việt

Nam là thành viên.

Về mặt pháp lý, người nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp Việt Nam

được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân trong quan hệ pháp luật về lao

động. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến hoạt động nghề

nghiệp như công đoàn, bảo hiểm xã hội… thì quyền tham gia của họ còn chưa

được pháp luật Việt Nam thừa nhận. Nếu căn cứ vào quy chế pháp lý thì

38

người nước ngoài lao động tại Việt Nam có thể được chia thành hai loại cơ

bản, đó là người nước ngoài làm việc có thời hạn cho người sử dụng lao động

nước ngoài và người nước ngoài làm việc có thời hạn cho người sử dụng lao

động Việt Nam.

Đối với người nước ngoài làm việc có thời hạn cho các hiện diện thương mại

của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam (người sử dụng lao động nước

ngoài có thời hạn) thì thông thường, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ được xác

định theo pháp luật của quốc gia mà doanh nghiệp đó mang quốc tịch, nếu hai

bên không có thỏa thuận luật áp dụng trong hợp đồng lao động. Đây là những

người đã ký hợp đồng lao động với doanh nghiệp ở nước ngoài, theo luật

nước ngoài. Sau đó, họ chỉ đến Việt Nam làm việc theo hình thức di chuyển

nội bộ trong doanh nghiệp. Do đó, các quy định của Bộ luật Lao động Việt

Nam, về nguyên tắc, sẽ không được áp dụng cho những đối tượng lao động

này. Đồng thời, trong một số lĩnh vực khác liên quan như bảo hiểm xã hội,

công đoàn… thì họ đương nhiên có quyền tham gia bảo hiểm ở nước ngoài và

là thành viên của công đoàn ở quốc gia mà doanh nghiệp nước ngoài đó mang

quốc tịch, mặc dù họ đang lao động trên lãnh thổ Việt Nam.

Ngược lại, đối với người nước ngoài làm việc có thời hạn cho người sử dụng

lao động Việt Nam thì địa vị pháp lý của họ trong lĩnh vực lao động sẽ được

điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động Việt Nam và các quy định khác của pháp

luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.

2.2.2. Thực trạng pháp luật về nghĩa vụ lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam

Bộ luật lao động hiện hành và Nghị định 11/2016/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ

sung bởi Nghị định 140/2018/NĐ-CP và Thông tư 40/2016/TT-BLĐTBXH

hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP về cấp giấy

39

phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có nhiều

quy định về nghĩa vụ của người lao động nước ngoài tại Việt Nam, cụ thể:

Thứ nhất, đối với người lao động theo hợp đồng lao động, khi muốn làm việc

cho doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam, phải nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển đúng

theo quy định.

Thứ hai, người lao động nước ngoài có trách nhiệm nghiên cứu và thực hiện

đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền và nghĩa vụ

của họ khi được chủ sử dụng lao động hoặc bên Việt Nam cung cấp các tài

liệu này.

Thứ ba, họ phải cung cấp cho người sử dụng lao động các giấy tờ cần thiết để

được tuyển dụng và cấp Giấy phép lao động theo yêu cầu của từng hình thức

lao động vào Việt Nam.

Thứ tư, đối với một số đối tượng không phải xin cấp Giấy phép lao động thì

phải thông báo với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi họ đến. (Người

chào bán dịch vụ phải thông báo trước ít nhất 7 ngày trước khi đến Việt

Nam). Ngoài ra, họ phải cung cấp đầy đủ thông tin cá nhân cho chủ sử dụng

lao động hoặc phía Việt Nam để họ lập trích ngang thông tin cá nhân, gửi cơ

quan quản lý lao động theo quy định.

Thứ năm, khi có Giấy phép lao động, người nước ngoài phải giữ gìn Giấy

phép khi còn hiệu lực và phải xuất trình khi làm thủ tục xuất nhập cảnh hoặc

khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ sáu, trước khi rời khỏi Việt Nam, người nước ngoài phải hoàn thành đầy

đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Việt Nam, đặc biệt, nộp thuế thu nhập cá

nhân theo các quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân.

Thứ bảy, ngoài ra, người lao động nước ngoài còn phải tuân thủ đầy đủ và

nghiêm túc kỷ luật lao động của nơi làm việc và các quy định pháp luật khác

của Việt Nam.

40

2.2.3. Thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa người lao động nước

ngoài với người sử dụng lao động và giải quyết tranh chấp

Khi NLĐ nước ngoài đáp ứng đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam, họ sẽ tham

gia vào QHLĐ và trở thành NLĐ với đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà pháp luật

quy định.

QHLĐ được thực hiện trên cơ sở do các bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ

lao động được thể hiện thông qua HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn, đồng thời phải tuân thủ các quy định bắt buộc của pháp luật mỗi

nước. Nhìn chung, các quy định về duy trì và thực hiện QHLĐ áp dụng cho

NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn và NLĐ sở tại không có sự phân biệt.

Tuy nhiên, do yêu cầu quản lý, các quốc gia đều có các quy định riêng đối với

HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn, nhưng những nội dung và

nguyên tắc cơ bản vẫn phù hợp với chế định chung về HĐLĐ như hình thức

hợp đồng bắt buộc phải bằng văn bản, số lượng các ngày nghỉ lễ, thời hạn hợp

đồng.

Những quy định riêng về HĐLĐ đối với NLĐ nước ngoài làm việc có thời

hạn có thể được quy định trong một đạo luật độc lập, hoặc một phần riêng

trong luật về lao động hoặc trong một văn bản pháp luật khác. Và tại Việt

Nam, điều này cũng không ngoại lệ, các nội dung chứa đựng các quy phạm

riêng điều chỉnh mối quan hệ mang tính chuyên biệt giữa NLĐNN làm việc

có thời hạn tại nước ta với NSDLĐ thông qua hình thức HĐLĐ được quy

định trong BLDS năm 2015.

Quá trình duy trì và thực hiện QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời

hạn được tiến hành kể từ thời điểm HĐLĐ giữa NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn và NSDLĐ đã được ký kết có hiệu lực. Như đã trình bày ở trên, theo

quy định tại khoản 3, Điều 12 Nghị định 11/2016/NĐ-CP, Khi NLĐ nước

41

ngoài làm việc có thời hạn được cấp GPLĐ, NSDLĐ phải ký HĐLĐ bằng văn

bản theo quy định của pháp luật lao động trước ngày dự kiến làm việc cho

NSDLĐ. Tuy nhiên, việc thực hiện HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn tuân thủ các quy định riêng của pháp luật dành cho HĐLĐ của NLĐ

nước ngoài làm việc có thời hạn và một số quy định chung về HĐLĐ. Về cơ

bản, một số vấn đề pháp lý liên quan đến thực hiện QHLĐ của NLĐ nước

ngoài làm việc có thời hạn như xác định thời điểm có hiệu lực của HĐLĐ, các

trường hợp HĐLĐ của NLĐ nước ngoài vô hiệu, xác định quyền và nghĩa vụ

của các bên trong QHLĐ, mốt số vấn đề khác như hình thức, ngôn ngữ

HĐLĐ. Theo quy định, HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn là

HĐLĐ có yếu tố nước ngoài do một bên chủ thể là NLĐ mang quốc tịch nước

ngoài (Điều 663 BLDS năm 2015: “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi

ít nhất một bên chủ thể là cá nhân, pháp nhân nước ngoài”). HĐLĐ của NLĐ

nước ngoài làm việc có thời hạn có liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật

khác nhau như Luật Quốc tịch của NLĐ, Luật Quốc tịch hoặc Luật nơi có trụ

sở chính của doanh nghiệp cử NLĐ đến làm việc, Luật nơi tiến hành lao

động, … Do đó, một vấn đề sẽ được đặt ra khi giải quyết các tranh chấp về

HĐLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn là xác định hệ thống pháp

luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng cho QHLĐ đã phát sinh giữa các chủ

thể. Xác định pháp luật áp dụng cho QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn được quy định tại BLDS năm 2015.

Xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ lao động của người lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng lao

động: Theo quy định tại khoản 1 Điều 683: “Các bên trong quan hệ hợp đồng

được thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng” thì NLĐ và

NSDLĐ có quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng pháp luật áp dụng đối với

HĐLĐ giữa các bên. Trong QHLĐ gồm có QHLĐ cá nhân (thể hiện thông

42

quan HĐLĐ) và QHLĐ tập thể (thể hiện thông quan thỏa ước lao động tập

thể). Do đó, khoản 1 Điều 683 sẽ áp dụng cho HĐLĐ cá nhân mà không áp

dụng cho thỏa ước lao động tập thể.

Xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ lao động của người lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn khi không có sự thỏa thuận của các bên trong hợp

đồng lao động: Theo khoản 1 và 2 Điều 683 BLDS năm 2015, trường hợp các

bên không có sự thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho HĐLĐ thì áp

dụng pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất đối với HĐLĐ. Pháp

luật của nước được coi là pháp luật có mối quan hệ gắn bó nhất đối với

HĐLĐ là pháp luật nước nơi NLĐ thường xuyên thực hiện công việc đối với

HĐLĐ. Nếu NLĐ thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác

nhau hoặc không xác định được nơi NLĐ thường xuyên thực hiện công việc

thì pháp luật nước nơi có quan hệ gắn bó nhất với HĐLĐ là pháp luật nước

nơi NSDLĐ thường trú đối với cá nhân hoặc nơi đăng ký đối với pháp nhân.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có quy định riêng về giải quyết tranh

chấp lao động cá nhân của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam. Chính vì vậy, nếu phát sinh tranh chấp giữa NLĐ nước ngoài làm việc

có thời hạn và NSDLĐ sẽ áp dụng các quy định chung trong Bộ luật Tố tụng

dân sự, BLLĐ và các văn bản khác có liên quan. BLLĐ năm 2012 có quy

định khái niệm chung về tranh chấp lao động là những tranh chấp lao động là

tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong QHLĐ

và phân loại tranh chấp lao động thành tranh chấp lao động cá nhân và tranh

chấp lao động tập thể từ đó có những quy định về chủ thể có thẩm quyền giải

quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục giải quyết đối với hai loại tranh chấp này.

Theo báo cáo của Cục Quan hệ Lao động và Tiền lương (Bộ LĐ-

TB&XH)[19], hiện các vấn đề về tranh chấp lao động nước ngoài thường diễn

ra ở tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động tập thể.

43

Theo đó, về tranh chấp lao động cá nhân, số lượng các vụ được xủ lý bởi các

hòa giải viên trung bình chỉ đạt 3 - 4 vụ mỗi năm. Số vụ được hòa giải thành

công chiếm tỷ lệ 60%, số vụ hòa giải không thành chiếm tỷ lệ 40%, nguyên

nhân của việc hòa giải không thành là người sử dụng lao động thiếu thiện chí,

vắng mặt trong các buổi hòa giải. Bên cạnh đó, hiện nay, các vụ tranh chấp

lao động cá nhân mà tòa án thụ lý đều là các tranh chấp lao động cá nhân.

Theo báo cáo của tòa án, trong 5 năm (2012-2016) tòa án các cấp đã xét xử sơ

thẩm 24.854 vụ tranh chấp lao động nước ngoài (trong đó tranh chấp lao động

nước ngoài đưa ra tòa án giải quyết vẫn tập trung chủ yếu ở địa bàn trọng

điểm về kinh tế, công nghiệp, dịch vụ phát triển như: TP. Hồ Chí Minh, Đồng

Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà

Nẵng…)[43].

2.3. Thực trạng pháp luật quản lý, thanh tra và xử lý lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam

2.3.1. Thực trạng quản lý cấp phép lao động

Hiện nay, cơ quan có thẩm quyền cấp cấp phép lao động (bao gồm cấp mới,

gia hạn, cấp lại, thu hồi) Giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Trước đây,

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cấp trong một số trường hợp.

Việc giao toàn bộ quyền cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong lĩnh

vực này thể hiện sự đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho cả

người sử dụng lao động và người lao động.

Thời hạn của Giấy phép lao động phụ thuộc vào thời gian làm việc tiếp của

người nước ngoài làm việc có thời hạn cho người sử dụng lao động được xác

định trong hợp đồng lao động hoặc văn bản của phía nước ngoài cử người

nước ngoài làm tại Việt Nam hoặc hợp đồng ký kết giữa đối tác phía Việt

Nam và phía nước ngoài nhưng mỗi lần gia hạn tối đa không quá 02 năm[09].

44

Tuy nhiên, những con số thực tế cho thấy “công cụ quản lý” này được thực

hiện chưa được hiệu quả hay nói cách khác, nó chưa phát huy được tác dụng

quản lý như mong muốn của cơ quan quản lý lao động. Theo Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có lao động nước

ngoài làm việc nhưng không nắm được tình hình bởi những số liệu chủ yếu do

các doanh nghiệp, tổ chức báo cáo. Theo Báo cáo13 năm thực hiện Bộ luật

Lao động của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện tổng số lao

động nước ngoài được cấp phép tính đến thời điểm này chỉ chiếm khoảng

37,9%, trong đó: thành phố Hồ Chí Minh: 29,3%, Hà Nội: 39,1%, Quảng

Ninh: 10,3%, Tây Ninh: 72,1%, Hải Phòng: 57,7%, Lâm Đồng: 18,7%.

Những con số còn lại là lao động nước ngoài không được cấp phép[18]. Như

vậy, hiện nay có khoảng hàng chục nghìn lao động nước ngoài đang làm việc

ở Việt Nam nhưng chưa được cấp phép lao động. Phần lớn họ đều là lao động

phổ thông. Ngoài những công việc như làm người giúp việc, buôn bán nhỏ,

một bộ phận đáng kể là người đi theo các nhà thầu, phần lớn là nhà thầu

Trung Quốc. Có thể kể đến những ví dụ điển hình các công trình, đơn vị có số

lao động Trung Quốc áp đảo lao động Việt Nam như công trình khai thác

bôxit ở Tân Rai, Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Nhà máy nhiệt điện than

Hải Phòng, công trình khí – điện – đạm Cà Mau … . Theo quy định hiện

hành, nhà thầu nước ngoài (thầu chính, thầu phụ) được phép sử dụng lao động

nước ngoài nhưng trên thực tế các nhà thầu đã thực hiện không đúng các quy

trình tuyển dụng. Có nhiều nhà thầu phụ nước ngoài chưa được cấp Giấy phép

thầu nhưng vẫn hoạt động bình thường. Chủ đầu tư thì khoán trắng cho nhà

thầu chính. Nhà thầu chính lại thuê nhà thầu phụ. Và mọi hoạt động liên quan

đến tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài do nhà thầu phụ tự quyết định

và chính quyền địa phương cũng không biết. Do vậy, những nhà thầu phụ này

sử dụng bao nhiêu lao động nước ngoài và trình độ của họ thế nào thì nhà

45

thầu chính và chủ đầu tư cũng không biết. Đây chính là sự buông lỏng trong

khâu quản lý ở địa phương và chủ đầu tư.

Về phía cơ quan cấp giấy phép lao động, ở một số địa phương, cũng có những

sai phạm như: xác nhận đối tượng không phải cấp giấy phép lao động sai quy

định; áp dụng “linh hoạt” khi cấp giấy phép lao động như cho nợ một số giấy

tờ; hoặc khi gia hạn giấy phép lao động, không kiểm tra kỹ việc xây dựng và

thực hiện kế hoạch đào tạo người Việt Nam thay thế. Bên cạnh đó, việc cấp

lại giấy phép lao động hiện nay chưa có quy định đối với trường hợp có sự

thay đổi về nội dung giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên

doanh nghiệp hay thậm chí tên người lao động khi họ thay đổi tên. Nếu như

chỉ vì những nội dung này thay đổi mà phải làm lại từ đầu thủ tục cấp giấy

phép lao động thì sẽ rất mất thời gian, công sức và phiền hà. Nếu như bổ sung

thêm các trường hợp này cho quy định cấp lại giấy phép lao động thì không

những khiến cho thủ tục hành chính gọn nhẹ mà còn tạo thuận lợi cho cả

người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài mà chúng ta đang cần.

Về thủ tục cấp giấy phép lao động, có 76,4% LĐNN cho rằng không gặp khó

khăn trong quá trình xin phép. Tuy nhiên, vẫn còn hơn 19% LĐNN làm việc

có thời hạn cho rằng thủ tục cấp phép khá rườm rà, họ phải đi lại nhiều lần tới

các cơ quan chức năng mới hoàn thành thủ tục. Gần 95% LĐNN được doanh

nghiệp/tổ chức sử dụng lao động làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động, chỉ

có 4,1% tự làm các thủ tục này. Lo ngại khó khăn, vướng mắc trong quá trình

làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động, một bộ phận doanh nghiệp và cá nhân

LĐNN phải thuê công ty/cá nhân làm dịch vụ xin cấp giấy phép lao động và

phải trả phí cho “dịch vụ” này. Mặc dù kết quả khảo sát cho thấy chỉ có gần

2% LĐNN trả lời có sử dụng “dịch vụ” này, tuy nhiên con số thực tế có thể

lớn hơn do những LĐNN được doanh nghiệp/tổ chức lo thủ tục không biết

doanh nghiệp tự làm hay thuê dịch vụ[50].

46

Đối với cơ quan cấp giấy phép lao động (Sở LĐ-TBXH, Ban quản lý Khu

công nghiệp, Khu chế xuất) chỉ thực hiện cấp phép cho LĐNN làm việc có

thời hạn khi doanh nghiệp/LĐNN làm việc có thời hạn cung cấp đầy đủ hồ sơ,

thủ tục. Tuy nhiên, việc quản lý LĐNN sau khi cấp giấy phép lao động còn

khá nhiều vướng mắc. Ví dụ: sau khi cấp giấy phép, LĐNN làm việc có thời

hạn có thực sự làm việc tại doanh nghiệp đăng ký hay không; có làm đúng nội

dung công việc trong giấy phép lao động hay không; thời gian làm việc tại

doanh nghiệp có đúng theo thời hạn giấy phép lao động không.

Các vi phạm trong thực tế liên quan đến cấp giấy phép lao động còn phát sinh

thêm một số trường hợp như: LĐNN làm việc có thời hạn thực tế không làm

việc tại doanh nghiệp/địa phương đăng ký; thời hạn cấp giấy phép lao động

dài hơn so với thời gian làm việc thực tế; LĐNN làm việc có thời hạn thực

hiện công việc không đúng giấy phép lao động;…Công tác nắm số lượng

LĐNN hiện nay phụ thuộc vào các báo cáo của DN, tuy nhiên các cơ quan

quản lý chỉ nắm được khoảng 80% tổng số LĐNN làm việc có thời hạn đang

làm việc tại các DN, vì có không ít DN không báo cáo định kỳ hoặc báo cáo

tăng - giảm LĐNN làm việc có thời hạn khi họ đã về nước, chuyển đi nơi

khác. Tại Việt Nam chưa có chế độ đăng ký sử dụng LĐNN làm việc có thời

hạn tại các DN hoặc hệ thống quản lý LĐNN trên phạm vi cả nước, khiến cho

công tác quản lý LĐNN làm việc có thời hạn tại các KCN Đồng Nai nói riêng

và cả nước nói chung chưa thật chặt chẽ và có hệ thống. Sau Đồng Nai, tỉnh

Bình Dương là địa phương có số LĐNN làm việc có thời hạn khá nhiều

(3.837 người), nhưng mới có 2.554 người được cấp GPLĐ. Điều đáng chú ý

là chỉ có 25% có bằng cấp chuyên môn từ đại học trở lên, 8% có bằng cấp

chuyên môn trung cấp, còn lại 67% lao động phổ thông đã từng làm việc tại

các DN ở nước ngoài có kinh nghiệm quản lý sản xuất[32].

47

Năm 2018, tại Bà Rịa - Vũng Tàu hiện có 585 LĐNN (543 người được cấp

GPLĐ), có 371 người (chiếm 63,42%) quốc tịch Trung Quốc và Đài Loan

(Trung Quốc), phần lớn không có bằng cấp chuyên môn, chỉ có văn bản xác

nhận 5 năm kinh nghiệm trong nghề và thực hiện công việc không đòi hỏi kỹ

thuật cao… Các DN đều xây dựng kế hoạch đào tạo lao động Việt Nam thay

thế, song hầu hết các kế hoạch này là để đối phó với các cơ quan chức năng

của Việt Nam, chưa có kết quả cụ thể[36].Xuất phát từ nguyên nhân các cơ

quan chức năng chưa quản lý được việc DN đưa LĐNN làm việc có thời hạn

vào làm việc ở vị trí lao động phổ thông; từ đó dẫn đến sự gia tăng đột biến

lượng lao động phổ thông là người nước ngoài. Lực lượng này nhập cảnh theo

hình thức du lịch, được các DN, tổ chức tuyển vào làm thời vụ và làm việc

khi chưa có GPLĐ. Đáng chú ý là nhiều DN mà chủ đầu tư là người Đài Loan

(Trung Quốc) sử dụng nhiều LĐNN làm việc có thời hạn không có bằng cấp,

chứng chỉ chuyên môn (lao động phổ thông), sau đó hợp thức hóa thủ tục xin

cấp GPLĐ bằng cách chứng nhận nghề. Bên cạnh đó, đa số các KCN chưa có

khu vực dành riêng cho LĐNN làm việc có thời hạn nên các DN tổ chức cho

LĐNN làm việc có thời hạn lưu trú ngay tại DN bằng cách xin phép xây dựng

nhà nghỉ trưa nhưng thực tế bố trí cho LĐNN lưu trú ngay tại nhà máy, xưởng

sản xuất nhằm giảm chi phí.

2.3.2. Thực trạng thanh, xử lý các vấn đề liên quan đến lao động

Do là một trong những điều kiện quan trọng để người lao động nước ngoài

làm việc tại Việt Nam, chính vì vậy, khi người lao động, người sử dụng lao

động vi phạm thì bị xử lý theo quy định tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP ngày

07 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và

đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và

48

Điều 8 Nghị định 11/2016/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành Bộ luật lao động về cấp giấy phép lao động cho lao

động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam như sau:

Về phía người lao động: Người lao động nước ngoài có hành vi làm việc tại

Việt Nam nhưng không có giấy phép lao động theo quy định của pháp luật

(trừ trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép

lao động) thì bị sẽ trục xuất ra khỏi Việt Nam.

Về phía người sử dụng lao động: Doanh nghiệp sử dụng người lao động nước

ngoài mà không có giấy phép lao động hoặc giấy xác nhận không thuộc diện

cấp giấy phép lao động thì sẽ bị xử phạt như sau:Vi phạm từ 01 người đến 10

người: Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng;Vi phạm từ 11

người đến 20 người: Phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng;Vi

phạm từ 21 người trở lên: Phạt tiền từ 120.000.000 đồng đến 150.000.000

đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp phải chịu hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ

hoạt động từ 01 tháng đến 03 tháng.

Trong thời gian qua công tác thanh tra, kiểm tra lao động nước ngoài đã có

tác dụng tích cực thúc đẩy các tổ chức, doanh nghiệp nâng cao nhận thức thi

hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài,

kịp thời uốn nắn các sai lệch, giúp cho cá nhân, tổ chức sử dụng lao động

nước ngoài phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật lao động, thực hiện

đúng các quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH, xu hướng lao động nước ngoài từ các quốc

gia châu Á đến Việt Nam làm việc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, đặc biệt là lao

động Trung Quốc, Đài Loan chiếm khoảng 58% tổng số người nước ngoài;

lao động nước ngoài mang quốc tịch Châu Âu (Anh, Pháp…) chiếm khoảng

28,5% và các nước khác chiếm 13,5%[18].Đó là chưa kể đến lực lượng lao

động đến từ các quốc gia như Châu Phi, Trung Đông nhập cảnh vào Việt Nam

49

kiếm việc làm nhưng chủ yếu là lao động phổ thông. Điển hình nhất là thành

phố Hồ Chí Minh, số người nước ngoài đến từ các nước châu Phi và Trung

Đông năm sau luôn cao hơn năm trước. Theo Sở Lao động – Thương binh và

Xã hội thành phố Hồ Chí Minh thì những lao động này đều không có trình độ

chuyên môn cao. Tại quận Gò Vấp, Bình Tân, Bình Chánh, Tân Phú của

thành phố là nơi tập trung nhiều lao động châu Phi nhất. Những người này

đến Việt Nam làm đủ thứ nghề, từ thu gom giày da, may mặc giá rẻ để bán

đến thợ hồ, bốc vác, bán hàng, bán cà phê quanh các khu mua sắm dành cho

người nước ngoài. Điều này tạo nên sức ép cho các cơ quan quản lý nhà nước

trong quá trình hoạch định các kế hoạch để gia tăng cơ hội việc làm cho lao

động trong nước, đặc biệt đối với lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn cũng

như những lao động phải chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành

nghề sản xuất khác do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa và công nghiệp

hóa. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ lao động này có ý thức tuân thủ pháp

luật rất kém. Vì vậy, tình hình an ninh trật tự ở những khu vực có người lao

động châu Phi thường xuyên diễn ra các cuộc ẩu đả, gây ảnh hưởng đến tình

hình an ninh trật tự tạ khu vực đông dân cư sinh sống. Thế nhưng việc xử lý

những đối tượng này lại rất khó. Theo phòng PA18 Công an Thành phố Hồ

Chí Minh, việc xử lý đối tượng vi phạm pháp luật gặp nhiều trở ngại, do họ

luôn tỏ thái độ bất hợp tác, không giấy tờ tùy thân, không tiền bạc, bất đồng

ngôn ngữ, không có cơ quan chủ quản để ràng buộc trách nhiệm, không biết

đến từ đâu để trục xuất. Theo pháp luật Việt Namcụ thể tại Nghị định

112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định hình

thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo

thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam

trong thời gian làm thủ tục trục xuất quy định, đối tượng vi phạm chỉ bị giữ

50

không quá 24 giờ rồi thả. Trong khi đó, chúng ta không có nhà tạm giữ cho

những người nước ngoài cư trú.

Các trường hợp vi phạm pháp luật lao động đối với việc sử dụng lao động

nước ngoài tại Việt Nam không phải là ít trên thực tế. Tuy nhiên, các hình

thức và biện pháp xử lý đối với người lao động nước ngoài và chủ sử dụng lao

động nước ngoài vi phạm chưa được quy định cụ thể và phù hợp với thực tế.

Về mặt pháp lý, người sử dụng lao động và cá nhân có hành vi vi phạm Bộ

luật lao động hiện hành và các văn bản hướng dẫn có liên quan thì tuỳ theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm

hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người nước ngoài đang làm

việc tại Việt Nam mà chưa được cấp giấy phép lao động thì phải làm thủ tục

để đề nghị cấp giấy phép lao động theo quy định tại Nghị định này. Sau 06

(sáu) tháng làm việc tại Việt Nam nếu người lao động nước ngoài không có

giấy phép lao động thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị Bộ

Công an ra quyết định trục xuất khỏi Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, theo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí

Minh thì biện pháp trục xuất khỏi Việt Nam trong trường hợp này vẫn chưa

có tiền lệ từ trước tới nay và không đủ kinh phí để thực hiện. Cũng tại thành

phố Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội

đã tiền hành nhiều đợt thanh tra, kiểm tra tình hình sử dụng lao động nước

ngoài trên địa bàn và áp dụng nhiều biện pháp như nhắc nhở, xử phạt hành

chính. Tuy nhiên, các biện pháp chế tài về kinh tế dường như chưa đủ sức răn

đe. Nhiều doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt nhưng vẫn tiếp tục duy trì

quan hệ lao động với người nước ngoài trái pháp luật. Có thể nói, thực tế, việc

xử phạt vi phạm pháp luật do sử dụng lao động nước ngoài trái phép chưa

nhiều và chưa triệt để. Một phần do ý thức của người lao động, người sử dụng

51

lao động, một phần cũng do các quy định pháp luật chưa thực sự chặt chẽ và

tính khả thi không cao.

Ngoài ra, ở Việt Nam, số lượng thanh tra lao động khá thấp so với số doanh

nghiệp (ví dụ, chỉ có khoảng 30 thanh tra lao động tại TP HCM)[42]. Số

lượng này không đủ để giải quyết hiệu quả với khối lượng công việc hiện tại

và không thể kỳ vọng họ có thể xác định và giải quyết hiệu quả các vụ việc

liên quan đến hành vi không công bằng trong lao động.Thêm vào đó, theo quy

định, cơ quan công an mới có quyền kiểm tra đột xuất lao động để xử lý đại lý

này, còn thanh tra các sở ngành muốn kiểm tra phải có kế hoạch, phối hợp

công an, báo cáo doanh nghiệp trước ba ngày nên không hiệu quả. Có trường

hợp thanh tra sở vào kiểm tra các cửa hàng Trung Quốc còn bị bảo vệ cửa hàng

này dọa đánh và không cho vào. Cơ chế kiểm tra, quản lý còn rối rắm nên rất

khó cho các địa phương. Hậu quả của việc không quản lý được lao động nước

ngoài làm việc trái phép tại Việt Nam là tạo nên sức ép cho các cơ quan quản

lý nhà nước trong việc hoạch định các kế hoạch để gia tăng việc làm cho lao

động trong nước, đặc biệt đối với lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn cũng

như lao động phải chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề

sản xuất khác do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa.

Ngoài ra, không quản lý được số lao động này cũng có nghĩa ngân sách nhà

nước bị giảm một khoản thu đáng kể thông qua nghĩa vụ thuế mà đáng lẽ họ

phải nộp. Không những vậy, việc lao động phổ thông nước ngoài nhập cư vào

Việt Nam còn ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, trật tự công cộng trong

nước.

52

Kết luận chương 2

Nội dung Chương 2 của luận văn đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng

pháp luật lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam; quá trình

phân tích, đánh giá, học viên tập trung nghiên cứu rút ra những đánh giá

chung nhất về thực trạng các nội dung của pháp luật về lao động nước ngoài

làm việc có thời hạn tại nước ta trong giai đoạn hiện nay, từ đó chỉ rõ những

kết quả đó đạt được cũng như những hạn chế, bất cập của công tác quản lý

này trong thời gian qua. Đặc biệt luận văn đã chỉ ra nguyên nhân của những

hạn chế, bất cập của công tác quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn bao gồm các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Đây là

cơ sở quan trọng để học viên đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn tại Việt Nam trong thời gian tới.

53

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC CÓ THỜI HẠN

TẠI VIỆT NAM

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam

Mở cửa thị trường lao động đã và đang tạo điều kiện cho việc di chuyển lao

động Việt Nam ra nước ngoài làm việc, đồng thời cũng tạo điều kiện cho lao

động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam ngày một gia tăng. Vấn đề được

đặt ra là xây dựng một khung pháp luật thích hợp nhằm quản lý và sử dụng

lao động nước ngoài tại nước ta có hiệu quả phục vụ cho phát triển kinh tế và

đảm bảo an sinh xã hội.

Xuất phát từ thực tiễn cần phải có quy định về tuyển dụng và quản lý lao

động nước ngoài làm việc tại Việt Nam nên ngay từ Bộ luật Lao động của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành ngày 23/6/1994, có

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1995, đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các

năm 2002, 2006, 2007 và 2012; trong đó lần sửa đổi năm 2012 là lần sửa đổi

cơ bản, toàn diện trong đó đã có những quy định về lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam từ điều kiện của lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt

Nam, điều kiện tuyển dụng, giấy phép lao động, thời hạn của giấy phép, các

trường hợp giấy phép hết hiệu lực... Để hướng dẫn thực hiện các nội dung

trong quy định của Bộ luật Lao động trong giai đoạn 10 năm (từ năm 2008-

2018) Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định và Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH đã

ban hành 6 Thông tư về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, phối hợp

với Bộ Ngoại giao và Bộ Công an ban hành 2 Thông tư liên tịch để hướng

dẫn thực hiện thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ New

Zealand và Chính phủ Australia về chương trình làm việc kết hợp kỳ nghỉ.

54

Thêm vào đó, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 có hiệu lực từ ngày

01/01/2021 và sẽ thay thế cho Bộ luật Lao động 2012 hiện hành với các điểm

mới về mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh cũng như quyền và nghĩa vụ

của người lao động và người sử dụng lao động trong thời gian tới. Tuy nhiên,

vẫn chưa thật sự nhấn mạnh đến các thực trạng như đã phân tích trên đối với

các vấn đề liên quan đến lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam như đã đề cập.

Đánh giá kết quả đạt được về thực hiện quy định của pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, chính sách quản lý lao động nước

ngoài thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước là những vị trí công việc mà

lao động Việt Nam không đáp ứng được thì được sử dụng lao động nước

ngoài. Những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện được nghiên

cứu, trao đổi, đối thoại và cộng đồng doanh nghiệp, tổ chứcđặc biệt là các nhà

đầu tư nước ngoài đánh giá cao, cụ thể như: Các văn bản pháp luật quy định

việc quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam được ban hành tương

đối đầy đủ và đồng bộ; Một số văn bản hướng dẫn thực hiện quản lý lao động

nước ngoài làm việc tại Việt Nam từng bước được bổ sung, hoàn chỉnh theo

hướng chủ động và tăng cường quản lý. Các bộ, ngành đã tích cực xây dựng

các văn bản chỉ đạo, đôn đốc thực hiện các văn bản pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Trình tự, thủ tục, hồ sơ trong việc

chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn; cấp,

cấp lại giấy phép lao động; xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động

đã giảm bớt thủ tục hành chính, phù hợp với thông lệ quốc tế; Ứng dụng công

nghệ thông tin trong cấp giấy phép lao động theo tinh thần Nghị quyết số

36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử, thực hiện

việc cấp giấy phép lao động cho lao động nước ngoài qua mạng điện tử; Các

doanh nghiệp, tổ chức sử dụng người lao động nước ngoài làm việc có thời

55

hạn thực hiện đúng quy định của pháp luật về lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam. Lực lượng lao động nước ngoài làm việc tại Việt

Nam chủ yếu là chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành và lao động kỹ

thuật, đã bổ sung đáng kể nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật, kinh

nghiệm quản lý điều hành, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn

quốc tế mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Công

tác phối hợp, trao đổi thông tin trong quản lý lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn giữa các cơ quan chuyên môn ở địa phương chưa chặt chẽ, kịp thời

và đồng bộ giữa ngành LĐ-TB&XH kế hoạch và đầu tư, công an...trong việc

chia sẻ thông tin, giải quyết các vi phạm phát sinh; Công tác tuyên truyền phổ

biến chính sách pháp luật đối với việc quản lý lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam ở địa phương mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa

thực sự thường xuyên, liên tục, dẫn đến cách hiểu và thực hiện chưa được

thống nhất, gây khó khăn cho doanh nghiệp, tổ chức; Việc phối hợp thực hiện

trong việc quản lý còn hạn chế, công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp,

tổ chức trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nước

ngoài chưa được quan tâm đúng mức; Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của

một số nhà thầu và người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn trong việc

tuyển, sử dụng và thực hiện cấp giấy phép lao động; xuất nhập cảnh và cư trú

còn hạn chế; nhiều người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn vào Việt

Nam mới thực hiện việc cấp giấy phép lao động.

Ngày nay, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi

trọng trên cơ sở coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm

trong thương mại quốc tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi

ích và các điều kiện lao động cơ bản. Đây là cách tiếp cận của các FTA thế hệ

mới và đang trở thành xu thế trong những năm gần đây trên thế giới. Việc đưa

56

nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh

công bằng giữa các quan hệ thương mại. Đồng thời, xu hướng hội nhập kinh

tế quốc tế trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã làm thay

đổi mạnh mẽ chiến lược phát triển doanh nghiệp, mô hình kinh doanh, cơ cấu

nguồn nhân lực của các doanh nghiệp FDI.

Do đó, hoàn thiện pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam là cần thiết trên cơ sở những phương hướng sau:

Thứ nhất, khắc phục những bất cập còn tồn tại trong các quy định của pháp

luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam đảm bảo dung hòa mối quan hệ giữa người lao động và

người sử dụng lao động.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn tại Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thị trườug lao động Việt Nam.

Thứ tư hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời

hạn tại Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn tại Việt Nam

Lao động nước ngoài đã đóng góp vào sự phát triển và tăng trưởng kinh tế

nước ta. Tuy nhiên, lực lượng này cũng đã mang đến không ít những hệ lụy

trong quản lý thị trường lao động.Để tạo điều kiện phát triển lành mạnh thị

trường lao động và an ninh việc làm trong thời gian tới và dựa trên những

phương hướng được đề xuất ở trên, chúng ta cần có những giải pháp nhằm

hoàn thiện phá luật và nâng cao hiệu qua thực hiện pháp luậtvề lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam.

57

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam

Trên cơ sở những đánh giá thực trạng từ Chương 2 với những giải pháp đề

xuất cụ thể như sau:

Thứ nhất, xem xét và quy định về quyền gia nhập tổ chức công đoàn hoặc

quyền thành lập tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi của NLĐ nước ngoài trong

đó bao gồm cả NLĐNN làm việc có thời hạn. Pháp luật công đoàn hiện nay

vẫn chưa ghi nhận quyền thành lập và gia nhập tổ chức công đoàn của NLĐ

nước ngoài làm việc tại Việt Nam (Điều 5 Luật Công đoàn Việt Nam 2012).

Hạn chế này cũng mâu thuẫn với nhiều điều khoản của BLLĐ năm 2012 như

Điều 5, Điều 50, Điều 189, v.v ... Khi NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn

không được hưởng quyền lợi của đoàn viên công đoàn, nếu doanh nghiệp có

sử dụng nhiều NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn hoặc NLĐ nước ngoài

làm việc có thời hạn đang được thuê mướn tại các vị trí quan trọng của doanh

nghiệp (quản lý, giám đốc điều hành) thì NSDLĐ cũng khó khăn khi xây

dựng thỏa ước lao động tập thể, xử lý kỷ luật lao động, đơn phương chấm dứt

HĐLĐ đối với NLĐ nước ngoài. Tiêu chuẩn quốc tế cũng như các cam kết về

lao động của Việt Nam trong các FTAs đều đặt ra vấn đề thay đổi lớn đó là

quyền tự do liên kết, thương lượng tập thể. Chương 19 của Hiệp định CPTPP

quy định về 15 điều trong đó có điều khoản về tự do hiệp hội và thực hiện có

hiệu quả quyền thương lượng tập thể. Quy định về quyền gia nhập tổ chức

công đoàn của NLĐ nước ngoài nói chung và NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn hoặc quyền thành lập tổ chức bảo vệ quyền lợi của NLĐ nước ngoài

có ảnh hưởng và tác động quan trọng tới quan hệ HĐLĐ. Việc gia nhập tổ

chức công đoàn giúp bảo vệ hiệu quả nhất quyền, lợi ích của NLĐ nước ngoài

58

làm việc có thời hạn, bảo đảm nghĩa vụ thương lượng thiện chí của NSDLĐ

nếu quan hệ HĐLĐ phát sinh mâu thuẫn, bất đồng, tranh chấp. Nhà nước Việt

Nam và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đang xem xét trao quyền cho

NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn được gia nhập tổ chức công đoàn/hoặc

cho phép thành lập tổ chức bảo vệ quyền lợi của NLĐ nước ngoài. Những vấn

đề cần cân nhắc khi cho phép NLĐ nước ngoài tham gia hoạt động công đoàn

như: các giới hạn mức tự chủ hoạt động; cam kết về tôn chỉ, mục đích hoạt

động; nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, cần nghiên cứu xây dựng các điều kiện để ký kết các hiệp định với

một số nước phái cử về chính sách BHXH cho lao động di cư, đặc biệt là lao

động nước ngoài đến Việt Nam làm việc có thời hạn, thúc đẩy bảo vệ quyền

của người lao động di cư nói chung và đặc biệt là lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn.Hiện nay, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, sửa đổi

năm 2015 (thay thế Luật BHXH năm 2006) đã bổ sung NLĐNN làm việc có

thời hạn trên 6 tháng tại Việt Nam vào đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc.

Theo Điều 124 Luật BHXH năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2015, quy định

này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Việc tham gia BHXH và các chế độ BHXH cụ thể áp dụng đối với NLĐNN

làm việc có thời hạn cần được quy định chi tiết. Bởi lẽ, việc thực hiện BHXH

bắt buộc với NLĐNN làm việc có thời hạn sẽ rất khó khăn khi Việt Nam còn

thiếu sự kết nối và thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực này với các đối tác. Đây

chính là bảo đảm nguyên tắc công bằng và tránh tình trạng thu bảo hiểm

chồng chéo, gây ảnh hưởng không tốt đối với người lao động và doanh

nghiệp. Nếu các yếu tố trên không rõ ràng, thị trường lao động nói riêng và

môi trường đầu tư nói chung khó tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Vì

vậy, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chế độ BHXH bắt buộc

với NLĐNN vào Việt Nam làm việc có thời hạn. Điều này không chỉ chỉ bảo

59

đảm tối ưu hóa các quyền lợi không chỉ cho NLĐNN làm việc có thời hạn tại

Việt Nam mà còn đảm bảo quyền lợi cho số đông người lao động Việt Nam

đang và sẽ đi làm việc ở nước ngoài.

Thứ ba, bổ sung các quy định pháp luật đối với NLĐ nước ngoài làm việc có

thời hạn trong một số công việc đặc thù. Hiện nay, có rất nhiều công việc có

tính chất đặc biệt và sử dụng lao động nước ngoài với số lượng lớn (ví dụ như

lao động nước ngoài trong lĩnh vực hàng hải, hàng không, khai thác dầu khí,

thể thao, giáo dục, v.v…). Các quan hệ HĐLĐ trong những lĩnh vực này khá

phức tạp không chỉ do yếu tố nước ngoài của chủ thể mà còn do tính chất

công việc và sự di chuyển quốc tế thường xuyên của NLĐ. Các công việc này

không chỉ được điều chỉnh bởi pháp luật lao động quốc gia mà còn được điều

chỉnh bởi luật chuyên ngành hoặc điều ước quốc tế hoặc quy chế tổ chức nghề

nghiệp quốc gia hoặc quốc tế (và thậm chí đan xen lẫn nhau). Các quy định

đối với việc tuyển dụng sử dụng NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn trong

những lĩnh vực này vẫn được áp dụng giống như những NLĐ nước ngoài làm

việc có thời hạn thông thường trong khi tính chất công việc phức tạp, dễ xảy

ra các vi phạm, tranh chấp ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. Do đó, cần có

những văn bản hướng dẫn quy định riêng một số quy định phù hợp với từng

dạng công việc này.

Thứ tư, sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục cấp GPLĐ của NLĐ nước

ngoài. Bổ sung quy định về cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét, giải

quyết việc cấp, cấp lại GPLĐ đối với các trường hợp Sở LĐTBXH trả lời

không cấp, cấp lại GPLĐ mà NSDLĐ cho rằng không hợp lý. Về vấn đề thu

hồi GPLĐ, NLĐ nước ngoài sẽ bị Sở LĐTBXH có thẩm quyền thu hồi GPLĐ

đã cấp trong trường hợp NSDLĐ hoặc NLĐ nước ngoài không thực hiện

đúng quy định (Khoản 2 Điều 17 Nghị định 11/2016/NĐ-CP). Tuy nhiên việc

quy định căn cứ thu hồi GPLĐ là quá rộng và khó xác định nên cần ban hành

60

các văn bản hướng dẫn để xác định các căn cứ cụ thể, rõ ràng hơn trong

trường hợp này. Có thể bỏ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định

11/2016/NĐCP quy định về trường hợp GPLĐ bị mất thì phải có xác nhận

của cơ quan Công an cấp xã của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của

nước ngoài theo quy định của pháp luật vì các thông tin về GPLĐ đã được lưu

trữ nên quy định này là không cần thiết.

Thứ năm, hoàn thiện các quy định về việc xử lý vi phạm khi tuyển dụng và sử

dụng NLĐ nước ngoài làm việc bất hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể

cân nhắc bổ sung thêm một số hình thức xử phạt bổ sung khác trong xử phạt

hành chính. Biện pháp bổ sung duy nhất hiện nay là NSDLĐ vi phạm các quy

định pháp luật về tuyển dụng NLĐ nước ngoài thì bị đình chỉ không cho phép

tuyển dụng lao động nước ngoài trong một thời hạn từ 1 đến 3 tháng. Thời

hạn này không hợp lý vì không có tính răn đe nên có thể quy định kéo dài hơn

là từ 3 tháng đến 12 tháng. Đối với NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn bị

áp dụng hình thức trục xuất nên có thêm quy định hình phạt bổ sung là cấm

quay trở lại Việt Nam trong vòng 20 năm hoặc vĩnh viễn.

Thứ sáu, cần có sự bổ sung về điều kiện sử dụng lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn đối với NSDLĐ là các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ,

các hình thức tổ chức kinh doanh khác được luật quy định. Về lý thuyết, việc

cho phép và thừa nhận nhu cầu tuyển dụng NLĐ nước ngoài của các loại chủ

thể như hộ kinh doanh, hợp tác xã, cá nhân hoạt động thương mại là để đảm

bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên trên

thực tế, khả năng kinh tế của loại chủ thể này có thể không đảm bảo cho việc

thuê mướn sử dụng lao động nước ngoài (quy mô nhỏ, điều kiệc làm việc, khả

năng chịu trách nhiệm). Các điều kiện sử dụng lao động ở các doanh nghiệp

được sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước nhưng ở cá nhân hoạt động

thương mại (và cả hộ gia đình, tổ hợp tác) rất khó kiểm tra. Hơn nữa các vị trí

61

được phép tuyển dụng (nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động

kỹ thuật) hầu hết cũng không thích hợp với quy mô, tổ chức kinh doanh của

cá nhân hoạt động thương mại, hộ gia đình, tổ hợp tác. Thực tế cho thấy, số

lượng NLĐ nước ngoài được các “loại NSDLĐ” này tuyển dụng rất ít, do đó,

Nghị định nên quy định hẹp hơn về đối tượng này là “Hộ kinh doanh và cá

nhân có đăng ký kinh doanh”. Điều kiện “có đăng ký kinh doanh” sẽ đảm bảo

khả năng bảo vệ các quyền lợi cho NLĐ nước ngoài cũng như điều kiện để

nhà nước thanh tra, kiểm tra việc tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài.

Thứ bảy, cần bổ sung quy định về các điều kiện đối với NLĐ nước ngoài làm

việc có thời hạn phù hợp với chính sách thu hút NLĐ nước ngoài có chuyên

môn cao của Việt Nam. Hiện nay Nhà nước ta cấp GPLĐ cho lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn theo vị trí công việc (4 loại công việc) để nhằm

phù hợp với chính sách thu hút NLĐ nước ngoài có chuyên môn cao. Tuy

nhiên thực tế cũng cho thấy, lao động phổ thông nước ngoài (lao động bất hợp

pháp) vẫn vào Việt Nam làm việc. Khoản 4 Điều 10 Nghị định 11/2016/NĐ-

CP và khoản 2, 3 Điều 6 Thông tư 40/2016/TTBLĐTBXH quy định về văn

bản chứng minh là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động

kỹ thuật nhưng chưa đưa ra đầy đủ tiêu chí để xác nhận, đặc biệt thiếu các

quy định về công nhận bằng cấp, chứng nhận trình độ của NLĐ nước ngoài

làm việc có thời hạn. Như vậy, Việt Nam cần xây dựng các quy định về công

nhận bằng cấp, chứng nhận trình độ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời

hạn bao gồm các quy định về định nghĩa văn bằng, phân loại, tiêu chí công

nhận, điều kiện cộng nhận, …

Và cuối cùng, để nâng cao hiệu quả của sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý

lao động nước ngoài (Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội, Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an, Cục hải

quan các tỉnh biên giới, bộ đội biên phòng), theo học viên, trách nhiệm của

62

các cơ quan này cần được quy định rõ ràng hơn. Việc trao đổi thông tin cho

nhau thường xuyên sẽ giúp các cơ quan này quản lý lao động nước ngoài làm

việc có thời hạn tại Việt Nam hiệu quả hơn và có thể kiểm soát tối đa các

trường hợp vào Việt Nam làm việc “chui” thông qua visa du lịch.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam

Một là, cơ quan quản lý lao động các cấp cần lên kế hoạch và triển khai thực

hiện việc rà soát, thống kê số lượng người nước ngoài làm việc có thời hạn

đang sinh sống trên địa bàn mình quản lý và danh sách người lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn tại từng doanh nghiệp, tổ chức nhằm chấn chỉnh

ngay tình trạng lao động nước ngoài làm việc bất hợp pháp tại Việt Nam

nhằm nâng cao vai trò, nhiệm vụ của Chính phủ, sự phối hợp của các cơ quan

quản lý nhà nước về lao động trong vấn đề xây dựng các quy định pháp luật

về sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam.

Hai là, cần tăng công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về sử

dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam thông qua việc

tăng cường sự phối hợp giữa các ngành Lao động – Thương binh và Xã hội,

Tư pháp, Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Ngoại giao trong việc quản lý người

nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam. Xây dựng quy chế phối hợp

giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và

Đầu tư, Công an tỉnh và các ban, ngành có liên quan tại địa phương trong việc

quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn. Ngoài ra, Cục Quản lý xuất

nhập cảnh cần tang cường kiểm tra chặt chẽ việc DN có được UBND

tỉnh/thành phố chấp thuận trước khi duyệt và cấp thị thực DN cho lao động.

Tạo điều kiện cho địa phương cùng tham gia với các sở, ngành trong công tác

kiểm tra. Đồng thời, phải tăng cường công tác quản lý tạm trú, tạm vắng đối

với LĐNN làm việc có thời hạn.

63

Thứ ba, cần đơn giản hóa, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, pháp

lý. Việc làm này giúp giảm thiểu thời gian, công sức và chi phí không cần

thiết cho người lao động cũng như người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, cần

hoàn chỉnh hệ thống thông tin thị trường lao động, phát huy tốt hơn vai trò

của các Trung tâm giới thiệu việc làm. Nếu việc tuyển dụng lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn của các doanh nghiệp, tổ chức đều thực hiện qua

Trung tâm giới thiệu việc làm thì việc quản lý lao động nước ngoài sẽ thuận

tiện hơn rất nhiều vì hiện nay có nhiều lao động nước ngoài đến từ Australia,

Philippines, Malaysia muốntìm việc làm tại Việt Nam thông qua các mạng

tìm việc như vietnamwork.com và dịch vụ “săn đầu người” (head-hunter) của

các công ty dịch vụ phát triển nguồn nhân lực Việt Nam như NetViet, HR

Vietnam, Pricewaterhouse Coopers… Tuy nhiên, hiện nay chưa có thống kê

về số lượng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam theo từng

hình thức như trên[30].

Thứ tư, cần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng và thường xuyên các quy định

của pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam tại các doanh nghiệp, tổ chức và từng địa phương với nhiều hình thức

phong phú để mọi người nắm rõ và có ý thức tuân thủ thực hiện. Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội có thể phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, các đơn vị thông tin, nhất là các cơ

quan báo chí tích cực tuyên truyền, thông tin, giới thiệu về đường lối, chính

sách, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam. Các cơ quan, đơn vị này cũng có thể thường xuyên tổ

chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật để mọi doanh nghiệp, tổ chức tham gia,

không giới hạn những doanh nghiệp, tổ chức có sử dụng lao động nước ngoài.

Gắn việc sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn của từng người sử

dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã hội. Khi người lao động nước

64

ngoài vào làm việc tại nước sở tại không đơn giản là họ chỉ có mối quan hệ

hợp đồng với người sử dụng lao động cụ thể mà họ và gia đình của họ sinh

sống tại nước sở tại. Có nhiều mối quan hệ khác phát sinh từ đó có liên quan

tới lợi ích của toàn xã hội. Tuy nhiên mục tiêu chủ yếu của họ là việc làm tại

một nơi cụ thể của một người sử dụng lao động cụ thể. Do đó việc gắn kết

giữa việc sử dụng lao động nước ngoài làm việc có thời hạn của từng người

sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã hội là một mục tiêu phải được

đặt ra cho hoạt động quản lý lao động nước ngoài. Mục tiêu này góp phần

thiết kế các chính sách và ban hành các quy tắc pháp luật phù hợp, đồng thời

bảo đảm cho sự thi hành các chính sách và pháp luật liên quan bởi hơn ai hết

người sử dụng lao động gần gũi nhất với người lao động nước ngoài làm việc

có thời hạn. Kinh nghiệm Malaysia cho thấy “Liên đoàn những người sử

dụng lao động Malaysia” có vai trò quan trọng trong việc thiết kế và thi hành

chính sách cũng như pháp luật quản lao động nước ngoài[35].

Thứ năm, quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người lao động nước

ngoài làm việc có thời hạn bao gồm những quyền, nghĩa vụ tương tự lao động

Việt Nam và những quyền, nghĩa vụ riêng, trong đó đặc biệt quan tâm tới chế

độ bảo hiểm xã hội cho người lao động nước ngoài. Bởi lẽ, bảo đảm quyền lợi

cho lao động nước ngoài làm việc có thời hạn ở nước ta cũng tức là nhằm bảo

vệ người lao động nước ta làm việc ở nước khác. Hiện nay các quyền và

nghĩa vụ của người lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam

nằm rải rác ở các văn bản luật và các điều khoản khác nhau. Vì vậy, có lẽ nên

có những quy định thống nhất trong một điều khoản của một văn bản pháp

luật về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam.

Và cuối cùng, cần tăng cường công tác đào tạo nghề cho lực lượng lao động

trong nước. Làm tốt việc này sẽ giúp lao động Việt Nam chủ động nâng cao

65

trình độ chuyên môn, kỹ thuật, đáp ứng đủ yêu cầu của các nhà đầu tư, giảm

thiểu sự thua thiệt của người lao động Việt Nam ngay trên sân nhà.Việc xây

dựng kế hoạch trung và dài hạn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp

ứng cho nhu cầu về lao động ở địa phương, đặc biệt là nhu cầu của các nhà

thầu nước ngoài nhằm thay thế bằng sử dụng trong nước.

66

Kết luận chương 3

Xuất phát từ thực tiễn pháp luận và hiệu quả điều chỉnh pháp luật về lao động

nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam, luận văn nêu lên 3 nhóm giải

pháp lớn trên các góc độ về mặt lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa quan trọng

đối với sự phát triển quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.

Các đề xuất có tính chất hỗ trợ cho nhau, đều có ý nghĩa thiết thực, tuy nhiên

biện pháp thực hiện khác nhau, trong đó hoàn thiện pháp luật cần thực hiện

trước vì chúng có có tác động trực tiếp đến sự phát triển các quan hệ lao động.

Song, hiệu quả pháp luật sẽ cao nhất nếu thực hiện các giải pháp một cách

nhanh chóng và đồng bộ.

67

KẾT LUẬN

Luận văn đã phân tích pháp luật về người lao động nước ngoài làm việc có

thời hạn tại Việt Nam trong đó luận văn đã làm rõ một số vấn đề là cơ sở lý

luận về khái niệm lao động nước ngoài làm việc có thời hạn và đặc điểm pháp

luật điều chỉnh lao động nước ngoài làm việc có thời hạn như: đặc điểm của

NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn theo các điều ước quốc tế về lao động

di trú, pháp luật Việt Nam và pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới; cơ

cấu và nguồn của pháp luật điều chỉnh QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc

có thời hạn trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; các nguyên tắc điều chỉnh

QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn …

Thông qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã khái quát, đánh giá thực trạng áp

dụng pháp luật về lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam,

những vấn đề về thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật điều chỉnh

QHLĐ của NLĐ nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam như vấn đề

cấp phép lao động, ký kết và thực hiện HĐLĐ, số lượng, chất lượng của NLĐ

nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam, từ đó phân tích, làm rõ những

hạn chế, tồn tại, thiếu sót, đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân của những hạn

chế, tồn tại, thiếu sót này trong quá trình áp dụng pháp luật. Trên cơ sở nghiên

cứu, luận văn cũng đã đưa ra quan điểm; các giải pháp để nâng cao hiệu quả

công tác xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao

động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam trong thời gian tới. Quá

trình nghiên cứu đề tài luận văn, học viên đã tuân thủ quy trình và phương

pháp nghiên cứu khoa học; bám sát mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài; tích cực

nghiên cứu, sưu tầm tài liệu; tranh thủ ý kiến của giảng viên hướng dẫn. Do

đó, luận văn đã cơ bản giải quyết được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật:

1. Quốc hội (2013) Hiến pháp Nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

2. Quốc hội (1991) Bộ luật Lao động 2012, Hà Nội.

3. Quốc hội (2015) Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.

4. Quốc hội (2015) Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội.

5. Quốc hội (2012) Luật Công đoàn, Hà Nội.

6. Quốc hội (2014) Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người

nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.

7. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm

2013 của Chính phủ quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức

xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.

8. Chính phủ (2013), Nghị định 112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013

của Chính phủ quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ

người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người

nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục

xuất quy định, Hà Nội.

9. Chính phủ (2016), Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 nă 2016

của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động

về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam), Hà Nội.

10. Chính phủ (2018), Nghị định số 143/2018/NĐ-CP của Chính phủ về

chế độ bảo hiểm, an toàn lao động của người nước ngoài, Hà Nội.

69

11. Bộ Công an - Bộ Ngoại giao (2012), Thông tư liên tịch số

01/2012/TTLT/BCA-BNG ngày 03 tháng 01 năm 2012 sửa đổi, bổ sung

Thông tư liên tịch số 04/2002/TTLT/BCA-BNG ngày 29 tháng 01 năm 2002

và Thông tư liên tịch số 05/2009/TTLT/BCA-BNG ngày 12 tháng 5 năm

2009 của Bộ Công an - Bộ Ngoại giao trong lĩnh vực xuất nhập cảnh, Hà

Nội.

12. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư số

40/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng

dẫn Nghị định 11/2016/NĐ-CP về cấp giấy phép lao động cho người lao

động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà Nội.

13. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), Thông tư số

23/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/8/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và

Xã hội hướng dẫn thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ chấp thuận nhu cầu sử

dụng người lao động nước ngoài; cấp, cấp lại giấy phép lao động; xác

nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động cho người lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam qua mạng điện tử theo mức độ 3 của dịch vụ

công trực tuyến, Hà Nội.

Tài liệu chuyên khảo:

Tài liệu trong nước:

14. Hà An (2020), “Đảm bảo quyền lợi cho người lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, ngày 06/3/2020.

15. Bùi Quảng Bạ (1996) Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý

nhà nước đối với người nước ngoài ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ

khoa học luật học, Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.

16. Khánh Bình (2007) “Thu hút lao động chất lượng cao năm 2007 - cuộc

đua quyết liệt”, Báo Sài Gòn Giải phóng, ngày 03/01.

70

17. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2007) Dự thảo Nghị định quy

định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc có thời hạn tại

Việt Nam, Hà Nội.

18. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2008) Dự báo tác động của tăng

trưởng kinh tế và hội nhập giai đoạn 2011-2020 tới lao động việc làm và

các vấn đề xã hội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

19. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015) Đánh giá tình hình chính

sách về lao động nước ngoài làm việc tại Việt nam và đề xuất một số nội

dung cần sửa đổi, bổ sung trong nghị định số 120/2013/NĐ-CP của Chính

Phủ, Tài liệu báo cáo Hội thảo, ngày 23- 24/3/2015.

20. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2019) Hội thảo tham vấn Dự

thảo Kế hoạch chiến lược về thúc đẩy gia nhập và thực hiện các tiêu chuẩn

lao động quốc tế tại Việt Nam, Tài liệu báo cáo Hội thảo, ngày 17/6/2019.

21. Phan Huy Đường - Tô Hiến Thà (2011) “Lao động nước ngoài ở Việt

Nam: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lao động và Xã hội, từ ngày 1 đến

15/3/2011.

22. Đức Hạnh (2007) “Lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt

Nam: không hạn chế số lượng”, Báo Phụ nữ Thủ đô, ngày 26/9.

23. Lý Hà (2007) “Thị trường lao động Việt Nam trong WTO - 5 nhóm

giải pháp phát triển lao động theo thị trường”, Thời báo Kinh tế Việt Nam,

ngày 16/01.

24. Việt Hưng (2007) “Thị trường lao động quý 3-2007: Tiếp tục lệch cung

- cầu”, Báo Tuổi trẻ, ngày 13/11.

25. Dũng Hiếu (2008) “Lao động phổ thông nhập khẩu vào Việt Nam”,

Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 02/12.

26. TS. Nguyễn Thị Hồi (2008), Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp

chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30.

71

27. Hội Luật gia Việt Nam (2008) Bảo vệ quyền của người lao động di trú,

Pháp luật & thực tiễn quốc tế, khu vực và quốc gia, Nxb. Hồng Đức, Hà

Nội.

28. Hội Luật gia Việt Nam (2008) Những điều cần biết về người lao động

di trú, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

29. Tuấn Hùng (2009) “Thành phố Hồ Chí Minh khó quản lý lao động

nước ngoài”, Báo Công thương, ngày 09/6.

30. Phạm Hồ - Nam Dương (2009) “Không quản được lao động nước

ngoài”, Báo Người lao động, ngày 02/7.

31. Trần Thu Hiền (2011) Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại

Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Bích Thúy (2013) “Thực trạng sử

dụng lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp”, Tạp chí Lao động và

Xã hội, số 462/2013.

33. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003) Giáo trình Tư pháp quốc

tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

34. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010) Quyền của người lao

động di trú (Công ước của Liên hiệp quốc và những văn kiện quan trọng

của ASEAN), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

35. Cao Nhất Linh (2007) “Lao động nước ngoài tại Việt Nam trong thời

kỳ hội nhập”, Báo Lao động và Xã hội, ngày 01 đến 15/6.

36. Đoàn Loan (2020) “Gần 40% người nước ngoài làm việc chui ở Việt

Nam”, Báo VnExpress, ngày 07/3/2020.

37. TS. Trần Thị Thúy Lâm (2011) “Lao động nhập cư ở Việt Nam, thực

trạng và giải pháp”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học kỷ niệm 65 năm trường Đại

học Công đoàn, tháng 5/2011.

72

38. TS. Lưu Bình Nhưỡng (2009) “Một số vấn đề pháp lý về người nước

ngoài đến làm việc tại Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 9/2009.

39. Hồng Sâm (2008) “Chiến lược việc làm thời WTO: Một số giải pháp

then chốt”, Báo Tài chính Việt Nam, ngày 18/02.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006) Giáo trình Luật Lao động Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007) Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

42. Hữu Tuấn (2009) “Siết chặt quản lý lao động nước ngoài”, Báo Đầu tư,

ngày 05/8.

43. Đào Thị Thúy (2010) Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu

tố nước ngoài của tòa án nhân dân trong bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam,

Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

44. Lê Thị Hoài Thu (2013) “Bảo đảm quyền của người lao động di trú

trong pháp luật lao động Việt Nam”, Bảo đảm quyền con người trong pháp

luật lao động Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

45. Đỗ Thị Quỳnh Trang (2018) “Pháp luật về quyền của người lao động

Việt Nam làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài”, Tạp chí Pháp luật và

Thực tiễn, số 03, tr. 88.

46. Lê Quang Thuận (2019) “Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

tác động đối với kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Tài chính.

47. Xuân Trường (2019), “Hoãn tuyên án vụ tranh chấp hợp đồng lao động

giữa người nước ngoài và công ty WMC”, Báo mới, ngày 22/01/2019.

48. Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2005) Bảo

hiểm xã hội đối với lao động nước ngoài làm việc có thời hạn tại Việt Nam,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

73

49. Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2005) Vấn

đề di chuyển thể nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

50. Hồ Văn - Phương Thảo (2009) “Lao động phổ thông nước ngoài đổ vào

Việt Nam”, Báo Tuổi trẻ, ngày 17/4.

51. Lê Hải Vân (2010) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm

2009 và triển vọng năm 2010”, tapchicongsan.org.vn, ngày 12/12/2019.

Tài liệu tiếng nước ngoài:

52. ASEAN (2014) Asean Conference on Globalization and Labor

Administration: Cross-Border Labor Mobility, Social Security and

Regional Integration, Manila, Philippines, November 19-21,2014, pg. 9.

53. International Organization for Migration (2006) World Migration 2005

Costs and Benefits of International Migration (Vol. 3), Academic

Foundation, Switzerland.

54. Cizinsky Pavel, Cech Valentova Eva, HradecnaPavla, Holikova Klara,

Jelinkova Marie, Rozumek Martin, RozumkovaPavla (2014) Foreign

Workers in the labour market in the Czech Republic and in selected

European countries, Association for Intergration and Migration

Organization for Aid Refugees Multicultural Center Prague, pg. 13.

55. Plender Richard, Michael Wilderspin (2009), The European private

international law of obligations, Sweet & Maxwell.

56. United Nations, Declaration on the human rights of individuals who are

not nationals of the country in which they live, 1985. Tại

http://www.un.org/documents/ga/res/40/a40r144.htm

74