
2
những tín niệm xã hội nào đó được lấy làm chỗ dựa cho một thế giới quan,
nhà khoa học có một cảm quan lý thuyết đặc biệt, một cách nhìn thế giới
riêng. Cái đó thay đổi một khi thế giới quan thay đổi. Những nhân tố ảnh
hưởng tới cách nhìn sự việc của các nhà khoa học có thể được phân tích và
mô hình hóa trên cơ sở tri thức luận: về căn bản, đó là những khủng hoảng
xuất phát từ sự thất bại liên tục của họ trong việc cung cấp những công cụ lý
thuyết và thực nghiệm cần thiết để giải các “bài toán đố” khoa học. Tuy
nhiên, bên cạnh thành công và những đóng góp có giá trị không thể chối bỏ,
cũng là lẽ thường tình khi những phê phán nhằm vào Kuhn kể từ khi cuốn
sách dưới đây ra đời đã luôn chỉ ra những thiên kiến và những sai lầm trong
quan niệm của ông. Những phê phán đối với cuốn sách chủ yếu cho rằng
dường như nó đã gán cho khoa học quá nhiều màu sắc chủ quan và phi duy lý,
quan niệm về khoa học theo chiều hướng tương đối luận. Các nhà tư tưởng
hậu hiện đại và hậu cấu trúc cho rằng Kuhn đã cố chứng minh cho sự phụ
thuộc thái quá của tri thức khoa học vào văn hóa và hoàn cảnh lịch sử của
cộng đồng khoa học, mà quên đi khía cạnh nhận thức và phương pháp. Theo
cách nhìn ấy, Kuhn được coi là tiền thân của những tư tưởng độc đoán hơn
của Paul Feyerabend. Công trình của Kuhn còn được coi như đã góp phần xóa
nhòa đường phân ranh giữa khoa học và phi khoa học. Những người phê phán
quan điểm này của Kuhn mạnh mẽ hơn cả là Karl Popper và Imre Lakatos.
Trong khi các nhà hậu thực chứng logic phê bình Kuhn "nhân văn hóa" khoa
học quá mức cần thiết thì các nhà tư tưởng hậu hiện đại trong đó có
Feyerabend lại cho rằng Kuhn còn quá rụt rè trong việc "nhân văn hóa" này.
Hơn nữa, nhìn trong tương quan bối cảnh hội nhập kinh tế, văn hóa và
khoa học quốc tế trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ thì việc tìm hiểu có chọn lọc triết học phương Tây sẽ góp phần đẩy
nhanh quá trình hội nhập văn hóa, khoa học giữa các quốc gia trong nền văn