intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Module Giáo viên mầm non 1: Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non

Chia sẻ: Lục Duật Thành | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Module Giáo viên mầm non 1: Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non" nhằm giúp bạn đọc hiểu được khái niệm đạo đức và đạo đức nghề nghiệp. Phân tích được các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN. Vận dụng các kiến thức được trang bị và tự đánh giá mức độ đáp ứng của bản thân đối với các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử trong nhà trường. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Module Giáo viên mầm non 1: Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM MODULE 1 ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON ThS. NGUYỄN THỊ TRẦM CA Quảng Trị, 2022 1
  2. Module 1: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN MẦM NON A. MỤC TIÊU - Hiểu được khái niệm đạo đức và đạo đức nghề nghiệp. - Phân tích được các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN. - Vận dụng các kiến thức được trang bị vào tự đánh giá mức độ đáp ứng của bản thân đối với các yêu cầu và quy định về đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử trong nhà trường. - Đề xuất được một số biện pháp tự rèn luyện và trau dồi đạo đức trong hoạt động nghề nghiệp. B. MÔ TẢ NỘI DUNG Module Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non (GVMN) sẽ cung cấp những nội dung cơ bản về: - Khái niệm Đạo đức; Đạo đức nghề nghiệp; Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non. - Đặc thù lao động nghề nghiệp và yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của GVMN - Các quy định pháp luật về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN. - Rèn luyện đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ của người GVMN. C. NỘI DUNG CỤ THỂ I. LÝ THUYẾT (10 tiết): ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI GVMN 1. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI 2
  3. GVMN 1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp 1.1.1. Đạo đức Từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh có nghĩa là lề thói, còn xét theo nguồn gốc ở chữ Hy Lạp có nghĩa là lề thói, tập tục. Ở Phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức. Là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Từ đó, có thể hiểu đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức xuất hiện sớm trong quá trình phát triển của xã hội, nó phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Đạo đức luôn là một trong những phương thức hữu hiệu điều chỉnh hành vi của con người, góp phần quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội trong các chế độ xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội. Bản chất của hành vi đạo đức là tính tự nguyện, tự giác của chủ thể, là hành động vì lợi ích của người khác và có sự thống nhất với lợi ích xã hội nói chung. Vì vậy, các hiện tượng đạo đức thường được biểu hiện dưới hình thức khẳng định một lợi ích chính đáng hay không chính đáng theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đạo đức bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh tồn tại xã hội, thực tiễn lao động sản xuất, điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người một giai đoạn lịch sử nhất định. Do phản ánh các yêu cầu của xã hội, do phương thức điều chỉnh tự giác, 3
  4. tự nguyện nên đạo đức có vai trò to lớn, độc đáo đối với sự phát triển xã hội và con người. Với tư cách một hiện tượng xã hội, đạo đức gắn liền với tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người và là phương diện cấu thành của tất cả các lĩnh vực đó. Chính con người (chứ không phải một sức mạnh siêu nhiên nào đó) trong hoạt động sinh sống mang tính xã hội của mình đã tạo ra các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức; đồng thời tự giác và tự nguyện điều chỉnh các hoạt động của mình theo các nguyên tắc, các chuẩn mực đó nhằm giải quyết một cách hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Nói cách khác, chính con người là chủ thể của các quan hệ, các hoạt động được điều chỉnh bởi đạo đức. Tóm lại: Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, những tiêu chuẩn sinh hoạt chung trong xã hội nhằm điều chỉnh sự ứng xử của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống, đảm bảo cho xã hội một trật tự nhất định, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của nó. 1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp Trong hoạt động nghề nghiệp, những lợi ích cơ bản của con người được thực hiện. Nhưng khi thực hiện lợi ích của mình, mỗi cá nhân hoặc một nhóm người không thể không có quan hệ về mặt lợi ích với người khác, với xã hội. Khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì hoạt động nghề nghiệp của con người chứa đựng giá trị đạo đức. Như vậy có thể thấy, những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là sự thể hiện đặc thù những yêu cầu đạo đức chung của xã hội trong những lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Những chuẩn mực này bị quy định bởi tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất định. Tuy nhiên, tính đặc thù này không có nghĩa là mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội và con người có những đòi hỏi và do đó, có những chuẩn mực hoàn toàn riêng biệt. Thực ra, tính đặc thù của đạo đức nghề nghiệp là ở chỗ, mức độ và quy 4
  5. mô những yêu cầu, những đòi hỏi của xã hội đối với con người trong những lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp khác nhau là khác nhau. Do đó, với mỗi loại hình hoạt động nghề nghiệp nhất định có một số chuẩn mực đạo đức nhất định thể hiện nổi bật làm thành tính đặc thù về mặt đạo đức của nghề nghiệp đó. Những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp một mặt, là sự phản ánh những đòi hỏi của xã hội, mặt khác, lại là động lực tinh thần để con người hoạt động hiệu quả hơn trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Trong xã hội có bao nhiêu nghề nghiệp thì cũng có bấy nhiêu đạo đức nghề nghiệp. Từ đây có thể khái quát, đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của một nghề nghiệp cụ thể mà các thành viên của ngành nghề đó tự đánh giá, điều chỉnh nhận thức và hành vi của bản thân mình cho phù hợp với nhu cầu, lợi ích, mục đích và sự tiến bộ xã hội. Đạo đức nghề nghiệp có thể được xem là tài sản vô hình quý giá nhất tạo nên thương hiệu của mỗi cá nhân. Nó không phụ thuộc vào trình độ học vấn hay địa vị xã hội, mà chính là xuất phát từ nội tâm luôn biết nghĩ cho người khác, không vụ lợi cho riêng mình. 1.2. Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non (GVMN) Trong xã hội có nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Mỗi lĩnh vực, ngành nghề cần có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đặc trưng, nhất là những hoạt động mang tính chuyên môn hoá cao, liên quan đến con người càng cần có những yêu cầu về đạo đức hơn. Giáo dục là một lĩnh vực đặc biệt, có nhiệm vụ “trồng người”, là hoạt động truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm xã hội, giá trị lịch sử cho các thế hệ kế tiếp, đào tạo ra những nhân cách phát triển toàn diện. Đặc trưng của nghề nghiệp luôn đòi hỏi người làm công tác giáo dục cần phải có hệ thống phẩm chất đạo đức đảm bảo cho họ hoàn thành sứ mệnh cao cả. Với vai trò là người “bắc cầu” chuyển giao những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhân loại đến cho học sinh; từ xưa đến nay khi nghiên cứu 5
  6. và đưa ra quan niệm về thầy giáo đã được nhiều nhà tư tưởng quan tâm. Cách đây 400 năm, J.A. Comenxki đã gọi người giáo viên là người “chuyển giao 36 ngọn đuốc của nền văn minh”, sợi dây chuyền giữa các thế hệ và coi chức vụ mà xã hội trao cho người giáo viên là chức vụ quang vinh, dưới ánh mặt trời này không có chức vụ nào ưu việt cho bằng. Có thể nói rằng đạo đức nghề nghiệp của GVMN là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực của đạo đức xã hội, của nghề GVMN trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ dưới 6 tuổi nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi ứng xử trong các mối quan hệ của họ. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của GVMN là một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức mà GVMN cần có khi hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc trẻ mầm non, qui định, điều chỉnh nhận thức, hành vi ứng xử, thái độ của GVMN nhằm hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ mầm non. 1.3. Tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viên mầm non Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất Thiếu một đức, thì không thành người” Đạo đức có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người, đặc biệt đối với người giáo viên mầm non, đạo đức nghề nghiệp là yếu tố quan trọng hàng đầu để họ thực hiện công việc của mình. 6
  7. Thứ nhất, đạo đức nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển, hoàn thiện nhân cách của giáo viên mầm non. Nhân cách bao gồm hai mặt thống nhất biện chứng với nhau là phẩm chất và năng lực, trong đó “đức” được coi là nền tảng của nhân cách hay là hạt nhân cơ bản của nhân cách, “tài” là các năng lực thích ứng với xã hội của con người, hiệu quả trong một lĩnh vực nào đó của họ. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân với tư cách là chủ thể hoạt động trong các quan hệ xã hội. Đạo đức được biểu hiện ở đời sống tinh thần lành mạnh, trong sáng; ở hành động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn của cuộc sống. Ở đây, những quan hệ đạo đức được hình thành trên cơ sở con người nhận thức được các yêu cầu đạo đức xã hội và tự nguyện, tự giác thực hiện các yêu cầu đó trong cuộc sống. Điều đó thể hiện tính tích cực xã hội, thôi thúc con người học tập rèn luyện để không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Thứ hai, đạo đức nghề nghiệp là mục tiêu, động lực để giáo viên mầm non vượt qua khó khăn, quyết tâm thực hiện chiến lược "trồng người" trong giáo dục Giáo dục đạo đức nghề nghiệp giúp GVMN nhận ra giá trị và ý nghĩa của nghề dạy học mang tính nhân văn sâu sắc, những giá trị nhân đạo hóa con người. Trên cơ sở đó, GVMN sẽ lựa chọn những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, hình thành niềm tin, lý tưởng nghề nghiệp, định hướng mọi suy nghĩ và hành động của bản thân mình theo tiêu chí tốt đẹp; khắc phục các quan điểm, hành vi, suy nghĩ lệch chuẩn của bản thân; kiên quyết đấu tranh loại bỏ những suy thoái, biến chất về ĐĐNN của GVMN khác; xây dựng những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, văn minh nơi công tác Thứ ba, đạo đức nghề nghiệp có tác dụng giáo dục, nêu gương, xây dựng các giá trị đạo đức mới cho người giáo viên mầm non. 7
  8. Chính đạo đức nghề nghiệp là “bộ lọc” giúp mỗi GVMN lựa chọn, tiếp thu những giá trị tiến bộ, loại bỏ những mặt phản giá trị trong đời sống hàng ngày. Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tác động đến các mối quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế giữa các nước, trong đó có Việt Nam. Quá trình đó đã làm xuất hiện và thúc đẩy quá trình tác động, xâm nhập lẫn nhau giữa các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống và hiện đại, giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ bị lấn át bởi các giá trị ngoại lai. Xu hướng thích nhạc Rap, Rock đang thịnh hành hơn là nhu cầu thưởng thức hát chèo, hát quan họ, cải lương. Người GVMN cũng chịu nhiều tác động đó. Bởi vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp giúp người GVMN giữ vững lập trường tư tưởng chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của dân tộc, khẳng định đó là con đường bách chiến, bách thắng. Xây dựng các phẩm chất đạo đức tốt đẹp của nhà giáo: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, từng bước bồi dưỡng lối sống lành mạnh có văn hóa phù hợp với chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam. 2. ĐẶC THÙ LAO ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP VÀ YÊU CẦU VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GVMN 2.1. Đặc thù lao động nghề nghiệp của người GVMN Lao động sư phạm của giáo viên mầm non là loại hình lao động trí óc mang tính chuyên nghiệp, bởi loại hình lao động này đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo. Vì đối tượng lao động của giáo viên mầm non là trẻ nhỏ, còn rất non nớt, nhạy cảm với mọi tác động bên ngoài, chưa thể tự phục vụ được mình mà sống phụ mộc nhiều vào người lớn. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn trẻ em phát triển với tốc độ rất nhanh về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm xã hội. Các mặt phát triển này hoà quyện với nhau, tương tác với nhau và không tách bạch rõ rệt trong quá trình giáo dục và phát triển. 8
  9. Nói chung, giáo viên mầm non là người tổ chức các hoạt động giáo dục cho tất cả trẻ trong lớp học, còn trẻ em tham gia vào các hoạt động khác nhau một cách tích cực, hào hứng và có ý nghĩa. Tuy trong một lớp có đông trẻ, song mỗi trẻ có đặc điểm phát triển riêng, vốn kinh ghiệm cá nhân đa dạng, trẻ có đặc điểm học khác biệt so với độ tuổi lớn. Ngoài ra, mỗi trẻ có thiên hướng và năng lực riêng cần được cô giáo phát hiện, lưu ý và khuyến khích phát triển. Mặt khác, nhân cách của trẻ trong tương lai như thế nào sẽ phụ thuộc rất lớn vào công lao dạy dỗ, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của giáo viên mầm non, là người thường xuyên bên cạnh trẻ. Để giúp trẻ em phát triển tốt và hài hoà các mặt thì giáo viên phải có một số năng lực chuyên biệt trong tổ chức các hoạt động phù hợp với trẻ lứa tuổi mầm non như: khả năng múa, hát, đánh đàn, vẽ... Đó cũng chính sự thể hiện tính nghệ thuật trong lao động sư phạm của giáo viên mầm non. Nhân cách của giáo viên mầm non có ảnh hưởng nhiều đến phát triển nhân cách của trẻ em. Bàn về nhân cách của người giáo viên mầm non, trước hết chúng ta cần tìm hiểu đặc thù lao động của người giáo viên. 2.1.1. Mục đích lao động của giáo viên mầm non nhằm giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Lao động sư phạm của giáo viên mầm non là loại hình lao động có ý nghĩa như là một yếu tố xã hội góp phần “sáng tạo ra con người", bước khởi đầu cải biến con người tự nhiên thành con người xã hội, tạo dựng nên con người đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Sản phẩm của lao động đặc thù này cũng tạo ra những nét khác biệt – hình thành nhân cách và những giá trị nhân bản với sự tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn đặt nền móng ban đầu của hình thành nhân cách, do đó, lao động sư phạm của giáo viên mầm non có một sắc thái rất riêng, khác hẳn so với giáo viên của các bậc học 9
  10. khác là tạo bước khởi đầu quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách lâu dài sau này của con người mới. 2.1.2. Đối tượng lao động của giáo viên mầm non là trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi- Lứa tuổi non nớt nhất của mỗi cuộc đời con người. Bất cứ loại hình lao động nào cũng có đối tượng tác động. Hoạt động sư phạm của giáo viên mầm non có đối tượng tác động biệt – trẻ em dưới 6 tuổi (72 tháng tuổi), là tuổi bắt đầu hình nhân cách, lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ, hình thành phẩm chất đạo đức con người. Đối tượng của giáo dục nói chung là con người. Đối tượng của giáo dục mầm non là trẻ em trước tuổi đến trường (từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi). Thành quả lao động sư phạm của giáo viên mầm non là sự phát triển hài hòa đứa trẻ, mà sự phát triển đó lại phụ thuộc nhiều vào đạo đức, trình độ nghiệp vụ và nghệ thuật sư phạm, năng lực giao tiếp sư phạm của người giáo viên. Ngoài ra, sự phát triển của trẻ còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như : môi trường gia đình (văn hoá, giáo dục, kinh tế, lối sống...), trạng thái tâm lí, khả năng nhận thức hành vi, cách ứng xử của trẻ và môi trường xã hội, nơi trẻ sinh ra và lớn lên. Để thực hiện tốt hoạt động sư phạm mầm non, vai trò của giáo viên mầm non thật không đơn giản. Thực hiện được nó, đòi hỏi giáo viên mầm non phải dựa trên cơ sở những tri thức, kĩ năng chăm sóc, giáo dục trẻ nhỏ, nắm vững những thành tựu khoa học tâm lí giáo dục hiện đại về trẻ em mầm non, đồng thời phải am hiểu đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ em lứa tuổi này. Theo K.Đ. Usinxki: “Muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện”. Như vậy, muốn đạt được hiệu quả dạy dỗ và giáo dục như mong muốn thì giáo viên phải nghiên cứu và hiểu rất rõ các đặc điểm phát triển của trẻ, lựa đúng những tác động sư phạm 10
  11. mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng, phát huy tối đa tiềm năng của trẻ và vai trò chủ đạo của mình. 2.1.3. Công cụ lao động của giáo viên mầm non là hệ thống tri thức, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp và những dạng hoạt động được tổ chức phù hợp với lứa tuổi trẻ em để giúp trẻ phát triển về mọi mặt. Công cụ lao động của GVMN chính là nhân cách của người giáo viên, Giáo viên có công cụ đặc biệt đó là trí tuệ và phẩm chất của mình. Nhân cách của giáo viên như là một công cụ lao động thực sự, nó sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ khi giáo viên có sức thuyết phục lớn đối với trẻ và những người xung quanh. Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ là sản phẩm giáo dục. Để đảm bảo chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, giáo viên mầm non không ngừng phấn đấu vươn lên. Trước hết, giáo viên phải có năng lực chọn lựa trí thức cơ bản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với mục tiêu giáo dục trẻ mầm non, không ngừng nâng cao trình độ của bản thân, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, độc lập sáng tạo, đặc biệt học hỏi, tìm hiểu các phương pháp dạy học hiện đại, sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học tiên tiến. 2.1.4. Thời gian lao động của giáo viên mầm non mang tính liên tục, kế tiếp, mang sắc thái riêng, không giống với thời gian làm việc hành chính và khác với thời gian lao động của giáo viên phổ thông. 2.1.5. Môi trường lao động của giáo viên Mầm non là sự tích hợp của môi trường sư phạm và môi trường gia đình, trong đó giáo viên vừa là nhà giáo, vừa là người mẹ thứ hai của trẻ. 2.1.6. Sản phẩm lao động của người giáo viên mầm non chính là nhân cách đứa trẻ được giáo dục. 2.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của GVMN Hoạt động lao động sư phạm của GVMN có sắc thái riêng, khác hẳn với giáo viên của các bậc học khác, đây là giai đoạn giáo dục để tạo bước khởi đầu 11
  12. quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách lâu dài của con người mới. Trong hoạt động đó thì nhân tố nền tảng chi phối hoạt động sư phạm của GVMN là đạo đức người thầy. Chính đặc thù này đã tạo nên sự khác biệt giữa đạo đức nghề nghiệp của GVMN với đạo đức nghề nghiệp các ngành khác, điều này được biểu hiện như sau: Thứ nhất, GVMN phải quý trẻ, yêu nghề. Đây là tố chất cơ bản nhất trong đạo đức nghề của người GVMN. Cốt lõi trong đạo đức nghề nghiệp của GVMN là quan hệ giữa GVMN với trẻ mầm non. Người GVMN là những người thầy đầu tiên dẫn dắt học trò của mình trở thành con người có đạo đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng. Dấu ấn nhân cách của trẻ mầm non được in đậm từ dấu ấn nhân cách của GVMN. Để chăm sóc và giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi phát triển tốt về thể chất, tinh thần thì mỗi người GVMN phải dành trọn công sức và tâm huyết của mình để trao lại cho học trò thứ tài sản vô giá, đó là “đạo làm người”, hết lòng yêu thương học sinh. Chính tình yêu thương trẻ vô bờ bến là động lực thúc đẩy mỗi người GVMN luôn gắn bó, thiết tha với học sinh của mình. Không có bậc học nào giữa người dạy và người học lại có mối quan hệ mật thiết như ở bậc học mầm non, bởi quan hệ giữa cô giáo và trẻ vừa là quan hệ thầy - trò, vừa là quan hệ bạn bè, vừa là quan hệ mẹ - con trong gia đình. Quan hệ giữa cô giáo và trẻ gắn bó, giữ gìn như mẹ và con. Giáo viên không chỉ thực hiện chức năng giáo dục mà còn phải bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ trong môi 38 trường như ở gia đình để giúp trẻ phát triển toàn diện, hài hòa về thể chất và tâm lý. Xuất phát từ tình yêu con trẻ, là sức mạnh thôi thúc người GVMN gắn bó thiết tha với nghề, coi nghề dạy học là hơi thở, là sự sống của chính mình. Họ tôn trọng tri thức, lấy “dạy chữ, dạy người” làm lẽ sống. Luôn coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, bằng học vấn và cống hiến. 12
  13. Thứ hai, kiên nhẫn biết tự kiềm chế. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Kiên nhẫn là khả năng tiếp tục làm việc đã định một cách bền bỉ, không nản lòng”. Người có tính kiên nhẫn là người không nản lòng, phấn đấu không ngừng để đạt mục tiêu đặt ra. Người có tính kiên nhẫn là nguời chiến thắng được chính mình. Nghề GVMN là một nghề vất vả, thời gian chăm sóc và giáo dục trẻ xuyên suốt từ sáng sớm đến chiều muộn với bộn bề bao công việc. Đối tượng giáo dục khác với các cấp học khác là trẻ mầm non còn bé bỏng, hồn nhiên, nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Bởi vậy, GVMN phải luôn âu yếm, vui vẻ ngọt ngào với trẻ, kiên nhẫn giáo dục trẻ hình thành các hành vi đúng. Đồng thời phải biết tự kiềm chế sự bực tức, nóng giận khi trẻ tỏ ra bướng bình không vâng lời hoặc có lỗi với bạn, hay vụng về làm đổ vỡ đồ chơi, đồ dùng sinh hoạt... Chính tính kiên nhẫn giúp người GVMN sẽ làm việc bằng tinh thần trách nhiệm cao nhất, không dễ khuất phục trước khó khăn, không dễ thất bại, mà nỗ lực hết mình để theo đuổi ước mơ, lý tưởng là người đi ươm những mầm non cho đất nước. Thứ ba, có tinh thần trách nhiệm cao. Nói về tinh thần trách nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng và Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kì to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm 39 khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy…làm không có tinh thần trách nhiệm”, “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm”. Người GVMN khi được phân công công việc, dù to hay nhỏ, dù quan trọng hay ít quan trọng, dù phức tạp hay ít phức tạp đều phải thấy được công việc dạy học của mình là rất vinh quang, đáng tự hào, phải nêu cao ý thức, trách nhiệm, chủ 13
  14. động, sáng tạo, thực hiện hết sức mình để hoàn thành một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất, đem lại kết quả cao nhất, nhưng với chi phí thấp nhất. Thứ tư, có kĩ năng ứng xử sư phạm khéo léo. Nhà tâm lý học Paul Herry đã cho rằng: “Kĩ năng là khả năng sử dụng tri thức, các phương pháp, kĩ thuật và thiết bị cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ nhất định có được từ kinh nghiệm, giáo dục và đào tạo”. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó để áp dụng vào thực tế”. Kỹ năng ứng xử sư phạm là yêu cầu quan trọng đối với mỗi giáo viên, đặc biệt là GVMN. Đây chính là khả năng người GVMN vận dụng linh hoạt các phương pháp giáo dục vào chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Sự ứng xử khéo léo của giáo viên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, đến việc xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa GVMN với phụ huynh học sinh hoặc với đồng nghiệp của mình. Nhà giáo dục học K.D.Usinxki đã khẳng định: muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu con người về mọi mặt. Bởi vậy, muốn đạt được hiệu quả giáo dục thì GVMN phải hiểu rõ đặc điểm phát triển của trẻ, lựa chọn đúng những tác động sư phạm mềm dẻo, phù hợp từng đối tượng, phát huy tối đa tiềm năng của trẻ và vai trò chủ đạo của mình. Muốn vậy, GVMN phải được trang bị hệ thống các phương pháp sư phạm để vận dụng linh hoạt trong từng hoàn cảnh nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao. 2.2.1. Yêu cầu về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của GVMN trong giai đoạn hiện nay 2.2.1.1. Đối với trẻ - Yêu thương, không cáu gắt, đánh, mắng, trách phạt trẻ. - Đối xử công bằng với tất cả trẻ, tôn trọng sự khác biệt của mỗi cá nhân trẻ. 14
  15. - Luôn thấu hiểu trẻ. - Tạo được niềm tin yêu, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và phát triển hơn. 2.2.1.2. Đối với bản thân - Biết giữ gìn đạo đức, giữ gìn hình ảnh của mình trong các hoạt động nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống. - Luôn có ý thức tôn trọng pháp luật, giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh với cái sai, cái chưa đúng. - Ngay thẳng, trung thực, biết giữ gìn uy tín của bản thân. - Biết trọng danh dự, coi trọng những vinh dự của bản thân, của nghề. - Biết bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần cao quý của nghề. - Tự giác rèn luyện, hun đúc phẩm chất nghề nghiệp. - Mạnh dạn, công khai hơn trong việc phê bình và tự phê bình. - Tạo dựng tấm gương mẫu mực về phẩm chất, phong cách nhà giáo. 2.2.1.3. Đối với phụ huynh và cộng đồng xã hội - Giữ thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử - Luyện tập sự chỉnh chu để thu hút cảm tình của người tham gia giao tiếp - Chủ động, bình tĩnh, tự tin, hoà nhã, vui vẻ, ân cần khi giao tiếp với PH; - Tôn trọng tuyệt đối những thông tin cá nhân của gia đình trẻ, của PH; - Trao đổi với phụ huynh những thông tin cụ thể, chính xác và trung thực nhất về trẻ. - Tuyên truyền kiến thức, kĩ năng chăm sóc, giáo dục trẻ đến các bậc phụ huynh. - Phối kết hợp trong các hoạt động CS,GD trẻ. 2.2.1.4. Đối với đồng nghiệp và cấp trên - Yêu thương, tôn trọng và chân thành. 15
  16. - Sẵn sàng giúp đỡ/ hỗ trợ, ý thức đoàn kết vì lợi ích chung. - Cởi mở, thẳng thắn - Hướng dẫn và chia sẻ cách giải tỏa cảm xúc, luôn tạo cảm xúc lạc quan trong công việc và cuộc sống - Đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện phẩm chất nhà giáo cũng như chyên môn, nghiệp vụ. - Có ý thức xây dựng tập thể đoàn kết, thân thiện. - Giao tiếp và ứng xử với cấp trên theo tinh thần lắng nghe, cầu tiến, chấp hành tốt nhiệm vụ, biết giữ gìn, bảo vệ uy tín, danh dự cho cấp trên, tạo không khí vui vẻ, thân thiện… 2.2.2. Phẩm chất, hành vi đạo đức trong mô hình nhân cách người giáo viên mầm non hiện nay Mô hình nhân cách người giáo viên mầm non hiện nay: Để nói về nhân cách người giáo viên mầm non, trước hết chúng ta cần xem xét về nhân cách người giáo viên nói chung. Nhiều nhà tâm lí, nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm nghiẻn cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau vể mô hình nhân cách người giáo viên, nhưng tựu chung lại các nhà khoa học đều nhất trí rằng, nhân cách nghề nghiệp nói chung hay nhân cách người giáo viên nói riêng là tổ hợp những phẩm chất đạo đức và năng lực (kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp) có ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả lao động trong quá trình hành nghề. Nhân cách nghề nghiệp nói chung, nghề sư phạm nói riêng không tách bạch với nhân cách chung của một con người với tư cách là một công dân. Tuy nhiên nhân cách nghề nghiệp vừa là một chỉnh thể thuộc tính tâm lí ổn định, vừa là một cấu trúc cá biệt tạo nên những đặc điểm nhân cách khác nhau của từng người trong một quá trình hành nghề. Căn cứ vào cấu trúc nhân cách nói chung, nhân cách nghề nghiệp và đặc trưng chung của nghề sư phạm trong quá trình giáo dục con người, cấu trúc 16
  17. nhân cách của người giáo viên được xác định trong ba thành phần cơ bản là: - Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị; - Kiến thức; - Kĩ năng nghề. Ba thành phần này được thống nhất với nhau tạo thành một nhân cách trọn vẹn của người giáo viên. Nhân cách của người giáo viên, một phẩn được hình thành trước khi học nghề, tiếp tục được hình thành và phát triển một cách có hệ thống trong quá trình học nghề và tiếp tục được củng cố và tiến triển một cách ổn định, vững chắc trong quá trình hành nghề. Nhân cách của người giáo viên mầm non cũng được thống nhất với mô hình nhần cách của người giáo viên chung. Phẩm chất, hành vi đạo đức của người giáo viên mầm non là một yếu tố cơ bản cấu thành nên nhân cách. Phẩm chất đạo đức của người giáo viên mẩm non được thể hiện ở những điểm sau: 2.2.2.1. Yêu nước, có niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa - Trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; - Chấp hành tốt luật pháp Nhà nước, chủ trương, chính sách của Đảng và những quy định của ngành, của trường mầm non; - Có định hướng tốt trong đổi mới nội dung, phương pháp chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và nuôi dưỡng trẻ; - Là một công dân tốt có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, tham gia phát triển văn hoá - xã hội của cộng đồng; mẫu mực trong hành vi giao tiếp ứng xử là tấm gương cho trẻ noi theo. 2.2.2.2. Yêu thương, tôn trọng và công bằng với trẻ - Không phân biệt đối xử với trẻ và chấp nhận sự đa dạng của trẻ; - Tận tụy, chăm sóc trẻ và kiên nhẫn trong giáo dục trẻ mầm non; - Xây dựng mối quan hệ thân mật, gần gũi, ân cần, chu đáo với trẻ ở trong độ tuổi khác nhau (tuổi nhà trẻ và tuổi mẫu giáo); 17
  18. - Coi trọng tính tích cực, chủ động, sáng tạo cá nhân của trẻ mầm non; động viên khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động chung/nhóm; - Xây dựng và duy trì việc phối hợp với gia đình trong việc châm sóc - giáo dục trẻ; tuyên truyền về trẻ và phổ biến thông tin về phương pháp giáo dục trẻ. 2.2.2.3. Yêu nghề, tâm huyết, gắn bó và có trách nhiệm cao với nghề nghiệp - Có tình cảm và yêu trẻ, có động cơ nghề nghiệp, say mê sáng tạo, nhanh chóng thích ứng với tình huống mới; - Có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc, giáo dục trẻ trong độ tuổi; - Có quan hệ tin cậy dễ chịu với người khác, hợp tác thiện chí, trao đổi kinh nghiệm tự hoàn thiện bản thân. - Có suy nghĩ và quan điểm tích cực, hoàn thành tốt các công việc được giao nhằm đáp ứng với yêu cầu đổi mới mục tiêu chăm sóc - giáo dục, bảo vệ và nuôi dưỡng trẻ. 2.2.2.4. Có ý thức tổ chức, có đạo đức tốt thương yêu đồng cảm với người khác Bản thân luôn có ý thức tổ chức, có đạo đức tốt thương yêu đồng cảm với người khác mềm dẻo, hiểu biết, sáng tạo, lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị phù hợp với với văn hoá dân tộc. 3. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI GVMN Căn cứ vào Quy định về đạo đức nhà giáo (Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống tác phong, giữ gìn bảo vệ tác phong nhà giáo được thể hiện ở điều 3, 18
  19. 4, 5, 6 của quy định Gồm 4 tiêu chí lớn: + Phẩm chất chính trị (Điều 3); + Đạo đức nghề nghiệp (Điều 4); + Lối sống, tác phong (Điều 5); + Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo (Điều 6). Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp 1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. 2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành. 3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. 4. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Căn cứ vào Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên mầm non (TT26/2018/TT-BGDĐT ngày 8/10/2018) đã quy định vể đạo đức lối sống của giáo viên mầm non ở điều 4, tiêu chuẩn 1. Điều 4. Tiêu chuẩn 1. Phẩm chất nhà giáo: Tuân thủ các quy định và rèn luyện đạo đức nhà giáo; chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện đạo đức và tạo dựng phong cách nhà giáo. Tiêu chí 1. Đạo đức nhà giáo: Thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nhà giáo; Có ý thức tự học, tự rèn luyện và phấn đấu nâng cao phẩm chất 19
  20. đạo đức nhà giáo; Là tấm gương mẫu mực về đạo đức nhà giáo; chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện đạo đức nhà giáo. Tiêu chí 2. Phong cách làm việc: Có tác phong, phương pháp làm việc phù hợp với công việc của giáo viên mầm non; Có ý thức tự rèn luyện, tạo dựng phong cách làm việc khoa học, tôn trọng, gần gũi trẻ em và cha mẹ trẻ em; Là tấm gương mẫu mực về phong cách làm việc khoa học, tôn trọng, gần gũi trẻ em và cha mẹ trẻ; có ảnh hưởng tốt và hỗ trợ đồng nghiệp hình thành phong cách nhà giáo. Căn cứ Quyết định Số: 04/VBHN-BGDĐT ngày 24 tháng 12 năm 2015 về việc ban hành Điều lệ trường mầm non. (Điều 35) Điều 35. Nhiệm vụ của giáo viên 1. Bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. 2. Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non: lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục; Xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Đánh giá và quản lý trẻ em; Chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. 3. Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; Gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp. 4. Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho cha mẹ trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em. 5. Rèn luyện sức khỏe; Học tập văn hóa; Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2