Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
MỘT PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TOÁN PHÁT HIỆN TRONG MẠNG<br />
RADAR NHIỀU VỊ TRÍ KHI TÍN HIỆU TỪ CÁC ĐÀI RADAR<br />
THÀNH PHẦN KHÔNG ĐỘC LẬP THỐNG KÊ<br />
Nguyễn Đức Minh* <br />
Tóm tắt: Bài báo trình bày các phương pháp giải bài toán phát hiện phân tán<br />
trong mạng radar nhiều vị trí khi tín hiệu từ các đài radar thành phần không độc<br />
lập thống kê. Các phân tích về một số phương pháp kinh điển giải bài toán phát<br />
hiện phân tán như: phương pháp giải sử dụng khai triển Bahadur-Lazarsfeld,<br />
phương pháp sử dụng thêm một biến ngẫu nhiên “ẩn” trung gian, phương pháp sử<br />
dụng công cụ toán học copulas và thống kê phi tham số, mà theo đó đều huớng đến<br />
việc biến đổi bài toán để có thể đưa về trường hợp đơn giản hơn đã giải được khi<br />
tín hiệu từ các đài radar thành phần là độc lập thống kê. Trong bài báo này, chúng<br />
tôi cũng đề xuất một phương pháp giải bằng cách tính trực tiếp các tích phân xác<br />
suất áp dụng cho một lớp các bài toán phát hiện phân tán cho phép giảm thiểu khối<br />
lượng tính toán khi mối tương quan của tín hiệu giữa các đài radar là đối xứng và<br />
bằng nhau.<br />
Từ khóa: Radar, Phát hiện phân tán, Tương quan, Tích phân xác suất.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Trong bài toán phát hiện của radar, thực hiện theo tiêu chuẩn Bayest hay tiêu chuẩn <br />
Neyman-Pearson mọi tính toán đều dẫn đến việc tìm hàm hợp lý (LR-Likehood Ratio). <br />
Với trường hợp các đài radar được kết nối thành mạng có một trung tâm hợp nhất dữ liệu, <br />
các đài radar thành phần truyền về trung tâm hợp nhất các kết quả quan sát của mình. Tại <br />
trung tâm hợp nhất các kết quả này sẽ được hợp nhất theo một quy luật xác định nhằm đưa <br />
ra quyết định cuối cùng về việc có hay không có mục tiêu. Độ phức tạp của bài toán theo <br />
tiêu chuẩn Neyman-Pearson phụ thuộc rất nhiều vào việc tín hiệu thu được từ các đài radar <br />
thành phần là độc lập hay phụ thuộc. Khi tín hiệu ở các đài radar thành phần là độc lập <br />
thống kê chúng ta có thể sử dụng công thức tính tích các xác suất có điều kiện : <br />
n<br />
p ( y1 , y2 ,..., yn H l ) p ( yi H l ) , i 0,1 (1) <br />
i 1<br />
<br />
Lúc này quy luật quyết định ở trung tâm hợp nhất là quy luật ngưỡng trên cơ sở hàm <br />
hợp lý. Các tác giả Thomopoulos, Viswanathan và Bougoulias [1] cũng đã chứng minh <br />
rằng: điều kiện để kiểm định tỷ số hợp lý ở trung tâm hợp nhất là tối ưu khi kiểm định ở <br />
các đài thành phần cũng phải là kiểm định tỷ số hợp lý. Bài toán phát hiện trong mạng <br />
radar nhiều vị trí phân tán với giả thiết về tính độc lập của các phép quan sát từ các đài <br />
radar thành phần đã được giải quyết bởi các tác giả Chair-Varshney [2-3] và một số tác giả <br />
khác. Tuy nhiên, giả thiết về tính độc lập thống kê trong kết quả quan sát của các trạm <br />
radar trong mạng thường không phù hợp cho bài toán phát hiện phân tán trên thực tế. Hàm <br />
mật độ xác suất liên kết tại trung tâm hợp nhất không thể biểu diễn được như là tích của <br />
các hàm mật độ thành phần, đồng thời kiểm định tối ưu tại từng trạm radar trong mạng sẽ <br />
không còn đơn thuần là kiểm định ngưỡng dựa trên tỷ số phù hợp nhất. Do đó, chúng ta <br />
không thể sử dụng công thức nhân xác suất như ở (1). Bài toán không thể tìm được lời giải <br />
hợp lý do vấp phải khó khăn là khối lượng tính toán quá lớn. Đã có rất nhiều các công <br />
trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên, các kết quả còn rời rạc và thường là giải bài <br />
toán trong các điều kiện ràng buộc cụ thể. <br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 40, 12 - 2015 49<br />
Ra đa<br />
<br />
2. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢI ĐIỂN HÌNH<br />
2.1. Phương pháp sử dụng khai triển Bahadur-Lazarsfeld<br />
Tác giả Drapopoulos-Lee (1991) đã mở rộng kết quả của Chair-Varshney (1986) cho <br />
trường hợp các quyết định cục bộ phụ thuộc thống kê. Họ đã sử dụng tất cả các hệ số <br />
tương quan thay cho các xác suất quyết định có điều kiện liên kết. Theo ý tưởng tương tự <br />
như vậy, tác giả Kam (1992) và các cộng sự [4] đã chuẩn hóa các quyết định cục bộ sau đó <br />
sử dụng khai triển của đa thức Bahadur-Lazarsfeld và các hệ số tương quan được chuẩn <br />
hóa để biểu diễn quy luật hợp nhất tối ưu cho trường hợp các quyết định cục bộ tương <br />
quan trong bài toán quyết định nhị phân phân tán. Hàm mật độ xác suất (MĐXS) của các <br />
quyết định nhị phân thành phần có tương quan với nhau có thể được biểu diễn thông qua <br />
tích giữa các hàm MĐXS của các quyết định nhị phân thành phần độc lập thống kê và các <br />
hệ số tương quan. Quy luật hợp nhất theo phương pháp này có dạng: <br />
n (1 pM i )(1 pFi ) n pM i<br />
log ( U) ui log log <br />
i 1 pM i pFi i 1 (1 pFi )<br />
<br />
1 ij1 zi1 z1j 1 1 1 1 1 1 1 1 (2) <br />
i j<br />
<br />
i jk<br />
z z z ... 12...<br />
ijk i j k n z1 z2 ....zn<br />
<br />
log<br />
1 ij0 zi0 z 0j 0 0 0 0 0<br />
z z z ... 12...<br />
ijk i j k<br />
0 1 0<br />
n z1 z2 .... zn<br />
i j i jk<br />
<br />
<br />
Trong đó: U u1 , u2 ,, un là vector của các quyết định tương quan. <br />
pM i và p Fi tương ứng là xác suất bỏ sót mục tiêu và xác suất báo động lầm của trạm <br />
radar thứ I;<br />
n<br />
zi i 1 là các hệ số tương quan và được xác định bởi: <br />
<br />
ij z i z j P (U) <br />
U<br />
<br />
(HÖ sè t¬ng quan bËc 2) <br />
<br />
ijk z i z j zk P( U) <br />
U (3) <br />
<br />
(HÖ sè t¬ng quan bËc 3) <br />
..... <br />
<br />
12...n z 1 z2 ....zn P (U) <br />
U<br />
<br />
(HÖ sè t¬ng quan bËc n) <br />
Khi các hệ số tương quan được đặt bằng 0 thì quy luật hợp nhất tối ưu của bài toán lúc <br />
này trở về với quy luật hợp nhất cho trường hợp độc lập thống kê mà các tác giả Chair-<br />
Varshney đã đưa ra trong [2]. Ưu điểm chính của phương pháp sử dụng khai triển <br />
Bahadur-Lazarsfeld đó là có thể giảm thiểu số lượng các phép tính và đưa ra một cách <br />
tổng quát để giải các bài toán phát hiện khi không còn giả thiết về tính độc lập thống kê <br />
cho từng kết quả quan sát của mỗi trạm radar thành phần trong mạng. Tuy nhiên, khó khăn <br />
vẫn còn ở chỗ khi số lượng các đài radar trong mạng lớn và khi các hệ số tương quan <br />
không thể triệt tiêu hoặc coi bằng 0 thì gánh nặng tính toán là rất lớn và không thể vượt <br />
qua. Bên cạnh đó, cũng rất khó khăn để mở rộng kết quả bài toán cho trường hợp tổng <br />
quát đối với những hệ thống có kiểm định thống kê đa giả thiết m-ary. <br />
<br />
<br />
<br />
50 N. Đ. Minh, “Một phương pháp giải bài toán phát hiện trong mạng radar… thống kê.” <br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
2.2. Phương pháp dùng biến ngẫu nhiên trung gian<br />
Phương pháp giải thứ hai cho bài toán phát hiện phân tán, được tác giả P.K.Varshney <br />
[5] và các cộng sự đưa ra, đã xây dựng một mô hình khung cho lớp các bài toán phát hiện <br />
phân tán dựa trên mô hình độc lập có điều kiện. Thông qua một biến ngẫu nhiên trung gian <br />
được thêm vào để tạo ra sự độc lập có điều kiện giữa phép quan sát của các đầu thu thành <br />
phần trong mạng. Mô hình đưa ra đã hợp nhất bài toán phát hiện phân tán với các phép <br />
quan sát độc lập và phụ thuộc. Nền tảng mới tách riêng sự ảnh hưởng lẫn nhau của các quy <br />
luật quyết định cục bộ tối ưu cho bài toán phụ thuộc giống như trường hợp với bài toán <br />
độc lập. Quy luật hợp nhất tối ưu tìm được sẽ là quy luật hợp nhất chung cho cả hai trường <br />
hợp độc lập và phụ thuộc. <br />
2.3. Phương pháp sử dụng lý thuyết Copulas<br />
Với việc hợp nhất các quyết định tương quan, lý thuyết copulas không yêu cầu các thông <br />
tin về xác suất tiên nghiệm của phép quan sát từ các bộ phát hiện hay từ các quyết định. Lý <br />
thuyết này xây dựng nên các hàm phân bố xác suất dựa trên một thủ tục lựa chọn copulas. <br />
Trong [6] tác giả Ashok Sundaresan và các cộng sự đã trình bày nghiên cứu của mình với <br />
một hệ thống các sensor phân tán hoạt động ở cùng một ngưỡng và chỉ biết về phân bố riêng <br />
của các quan sát của từng sensor mà không biết xác suất tiên nghiệm của phân bố liên kết <br />
của chúng. Quy luật hợp nhất ở trung tâm sử dụng tiêu chuẩn Neyman-Pearson. Kết quả cho <br />
thấy rằng quy luật hợp nhất dựa trên các hàm copulas sẽ không thể tốt hơn phương pháp <br />
Chair-Varshney nếu hàm phân bố được tạo ra sử dụng một hàm copulas có tham số xác định <br />
mà không mô hình hoá đầy đủ hàm phân bố xác suất cơ sở của các phép quan sát. Để chọn <br />
được hàm copulas tốt nhất cần một quá trình huấn luyện. Nhìn chung hướng nghiên cứu sử <br />
dụng lý thuyết copulas còn mới và chưa có nhiều kết quả. <br />
2.4. Phương pháp phi tham số<br />
Trong phương pháp phi tham số các yêu cầu kinh điển của mô hình thống kê tham số <br />
đối với tín hiệu và nhiễu quan sát được sẽ được nới lỏng ra. Điều này có nghĩa là bài toán <br />
kiểm định giả thuyết tổng hợp sẽ không bị ràng buộc chặt chẽ vào các hàm mật độ xác suất <br />
với các họ tham số đặc biệt. Các sơ đồ phát hiện với tỷ số báo động lầm cố định (CFAR) <br />
nhìn chung thường dựa trên các giả thuyết tham số với tham số thường là công suất nhiễu <br />
chưa được biết. Những tham số này có thể thu được từ việc ước lượng các kết quả quan sát <br />
để thu lấy xác suất báo động lầm cố định hoặc được giới hạn. Theo tác giả Jerry D. Gibson <br />
và các cộng sự [7] phương pháp phi tham số tỏ ra tổng quát và hữu hiệu hơn phương pháp <br />
tham số nhất là đối với các trường hợp phép quan sát từ các sensor có tương quan. Tuy <br />
nhiên hạn chế chính của phương pháp phi tham số khi các phép quan sát là không độc lập <br />
thống kê chính là việc không thể duy trì được tỷ số báo động lầm không đổi đối với một <br />
ngưỡng phát hiện cố định khi các phép quan sát là tương quan hoặc hàm mật độ xác suất <br />
của nhiễu nền thay đổi. <br />
3. PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TOÁN PHÁT HIỆN PHÂN TÁN BẰNG CÁCH<br />
TÍNH TRỰC TIẾP CÁC TÍCH PHÂN XÁC SUẤT<br />
Bài toán tìm quy luật hợp nhất tối ưu khi các quyết định tương quan, một cách tự nhiên, <br />
luôn dẫn tới việc tính toán các tích phân đa biến của các hàm mật độ xác suất, nhưng <br />
không phải lúc nào cũng có thể tính được các tích phân phức tạp ấy. Việc giảm thiểu khó <br />
khăn này có thể thực hiện bằng phương pháp giải bài toán bằng cách tính trực tiếp các tích <br />
phân xác suất. Kết quả của việc tính toán các tích phân được áp dụng cho việc giải một lớp <br />
các bài toán phát hiện phân tán. Tại trung tâm hợp nhất phép kiểm định tỷ số hợp lý có thể <br />
viết như sau: <br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 40, 12 - 2015 51<br />
Ra đa<br />
H<br />
P (u | H1 ) P (u1 , u 2 ,.., u N | H1 ) 1<br />
(u ) (4) <br />
P (u | H 0 ) P (u1 , u 2 ,.., u N | H 0 ) H 0<br />
Trong đó là ngưỡng tại trung tâm hợp nhất, được xác định bởi mức độ hiệu năng <br />
theo yêu cầu. Nếu ràng buộc các trạm radar hoạt động với cùng một ngưỡng t và phân bố <br />
trong phép quan sát của các trạm radar là đối xứng thì khi đó: <br />
<br />
... p<br />
u1 u2 uN<br />
Z1 ... Z N ( Z1 ,..., Z N | H1 ) dZ1 ....dZ N<br />
(u) (5) <br />
... p<br />
u1 u2 uN<br />
Z1 ... Z N ( Z1 ,..., Z N | H 0 )dZ1....dZ N<br />
<br />
Trong đó u1, u2,…,uN biểu diễn không gian hay vùng tương ứng của tích phân tùy <br />
thuộc vào việc ui=0 hay 1. Công thức (5) có thể được viết gọn lại như sau: <br />
t t t<br />
<br />
<br />
.... P (Z | H )dZ z 1<br />
<br />
(u) <br />
t t<br />
<br />
t<br />
(6) <br />
.... P (Z | H z 0<br />
) dZ<br />
<br />
<br />
Với Pz ( Z | H i ) ; (i 0,1) là hàm mật độ xác suất của các quan sát của radar dưới giả <br />
thuyết Hi và là một hàm của hệ số tương quan ij . Từ kết quả nghiên cứu toán học của tác <br />
giả S.Santi Gupta [8] về việc tính tích phân xác suất với các biến ngẫu nhiên phân bố <br />
chuẩn ta có công thức : <br />
t1 t2 tn<br />
<br />
<br />
Fn t1 , t2 ,..., tn ; ij <br />
... f x1 , x2 ,..., xn ;ij dx1...dxn (7) <br />
<br />
<br />
Để ý rằng (7) là tích phân cần tính và chính là tử và mẫu số của biểu thức (6) <br />
Nếu ma trận tương quan ij của các xi có cấu trúc: ij i j (i j) trong đó <br />
1 i 1 khi đó biến xi có thể được tạo ra từ (n+1) biến ngẫu nhiên phân bố chuẩn <br />
Z1 , Z 2 ,..., Z n ; Y bằng việc biến đổi: X i Z i 1 i iY , và điều này dẫn đến công <br />
thức: <br />
n t y <br />
f (t1 , t2 ,..., tn ;{ij }) F i i<br />
f ( y )dy (8) <br />
2 12 <br />
i 1 (1 i ) <br />
Nếu ij với mọi i, j khi đó công thức (7) trở thành: <br />
<br />
n<br />
t y <br />
f (t , t ,..., t ;{ }) (1 2 ) 12 f ( y )dy (9) <br />
F<br />
<br />
Với n, t và ρ cho trước có thể tính được tích phân trên bằng phương pháp khai triển <br />
chuỗi tetrachoric và f(y) cùng với F(X) một cách tương ứng là hàm phân bố tích lũy và <br />
hàm phân bố chuẩn. Tác giả S.Santi Gupta đã hoàn thiện một bảng tính của các tích phân <br />
trên với n từ 0 đến 30 và ρ chạy từ 0 tới 1 với bước nhảy 0,05. Như vậy với các cơ sở toán <br />
học đã trình bày, hoàn toàn có thể tìm được giá trị của biểu thức (6) thông qua cách tính <br />
trực tiếp các tích phân và do đó tìm được lời giải cho một lớp bài toán phát hiện trong <br />
<br />
<br />
<br />
52 N. Đ. Minh, “Một phương pháp giải bài toán phát hiện trong mạng radar… thống kê.” <br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
mạng radar phân tán nhiều vị trí được kết nối thành mạng khi các đài radar thành phần <br />
hoạt động tại cùng một ngưỡng, có mối tương quan đối xứng và bằng nhau. <br />
Xét một hệ thống gồm 3 trạm radar hoạt động tại cùng một ngưỡng t và mức tín hiệu S, <br />
chịu ảnh hưởng của nhiễu Gaussian trung bình 0 tương quan bằng nhau và bằng sao <br />
cho mật độ kết hợp tại các sensor có ma trận hiệp phương sai như dạng sau [10]: <br />
1 <br />
<br />
1 , 0