
Nhà chí sĩ Ngô Đức Kế -
Từ tù nhân Côn Đảo đến
một nhà báo
Phần 2
Không nghi ngờ gì nữa Nam Phong tạp chí là công cụ chủ yếu của thực
dân Pháp trong công cuộc “chinh phục tinh thần” nhân dân ta và Phạm Quỳnh, cũng như
Nguyễn Văn Vĩnh, đều là những tên lính tiên phong, xung kích trên trận tuyến “chinh phục
tinh thần”.
Đây là những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Con “Rồng Nam phun bạc”
và “phun cả máu nữa” đã giúp Mẫu quốc dẹp tan Đức tặc và bây giờ Mẫu quốc đang rất
cần có một thuộc địa yên tĩnh để tiến hành cuộc khai thác lần thứ hai, nhằm bồi đắp những
tổn thất trong chiến tranh và như vậy “một lỗ thoát hơi” cho tinh thần dân tộc của dân bản
xứ là rất cần thiết và có ích. Trên tạp chí Nam Phong Phạm Quỳnh sẽ thống thiết kêu gọi
“Pháp - Việt đề huề”, “Pháp - Việt tương thân”, “tuần tự tiến bộ” dưới sự “khai hoá đại

nghĩa” của Đại Pháp. Phạm Quỳnh sẽ tích cực thực hiện chủ trương “truyền bá các khoa
học Thái Tây, nhất là học thuật, tư tưởng Đại Pháp” đồng thời “bảo tồn quốc tuý Việt Nam”,
cụ thể là phổ biến chữ Quốc ngữ, xây dựng nền quốc văn, tán dương Truyện Kiều.
Những điều này được phát ra từ Phạm Quỳnh, đối với Ngô Đức Kế thật hết sức mỉa
mai!. Khoảng đầu thế kỷ XX Ngô Đức Kế đã đọc Văn minh tân học sách, trong đó kế sách
đầu tiên được nêu ra là học chữ Quốc ngữ. Nguyễn Phan Lãng, một biên tập viên của Đông
kinh nghĩa thục, đã diễn ý đó thành văn vần để phổ biến trong dân chúng:
Trước hết phải học ngay Quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau
Chữ ta, ta đã thuộc làu
Nói ra nên tiếng, nên câu, nên lời(14).
Sau đó vì “tội” truyền bá chữ Quốc ngữ, những nhân vật chủ chốt của Đông Kinh
nghĩa thục như Lương Văn Can bị đưa đi an trí ở Phnom Penh (Campuchia), Nguyễn Quyền,
Lê Đại bị đày ra Côn Đảo làm bạn tù với Ngô Đức Kế, thế mà nay "tân nhân vật" Phạm
Quỳnh lại được tự do cổ động cho chữ quốc ngữ và tân học!
Như vậy là cuối năm 1923 khi Ngô Đức Kế bước vào làng báo ở Hà Nội thì phải đối
diện với một thế trận "văn hoá nô dịch" đã được bày sẵn và đang được tích cực vận hành.
Ngô Đức Kế cũng phải đối diện với Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong. Ngoài dòng chủ lưu
này, tình hình báo chí Bắc Kỳ trong những năm 20, theo đánh giá của Ngô Đức Kế, "chỉ là
những bài ca, câu lý, tích láo, chuyện vơ, chẳng chuyện tài tử giai nhân thì lại yêu ma thần
quái, nào có ích gì cho tri thức học vấn, có gì bổ cho thế đạo nhân tâm mà lại làm cho mẩn trí
mê hồn, thương luân bại tục nữa"(15).
Đối diện thế trận đó Ngô Đức Kế chỉ có một trái tim, một chí khí đã được thử thách và
tôi luyện qua 13 năm Côn Đảo và sự hậu thuẫn dư luận của nhân dân luôn tha thiết với nền
độc lập của đất nước.
Trên tạp chí Hữu Thanh người đọc bắt gặp một tiếng nói tâm huyết phản biện xã hội
nhưng ấn tượng sâu sắc mà nhà báo Ngô Đức Kế để lại trong tâm trí các thế hệ người đọc có
lẽ là bài luận chiến chống lại phong trào tán dương Truyện Kiều.

"Luận về chính học cùng tà thuyết", một bài báo nẩy lửa!
Với chiêu bài “bảo tồn quốc tuý” Phạm Quỳnh nhen nhóm phong trào tán
dương Truyện Kiều. Dưới sự đạo diễn của Phạm Quỳnh, một loạt cộng tác viên của tạp
chí Nam Phong như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, Nguyễn
Tường Tam, Nguyễn Triệu Luật... lần lượt lên tiếng phụ hoạ. Phong trào tán Kiều mỗi
ngày một sôi nổi, một ồn ào. Ngô Đức Kế mô tả: “Trong nước ngày nay, nào là bình
phẩm văn chương Kiều, nào là phê bình nhân vật Kiều, nào là chú thíchKiều, nào là thơ
vịnh Kiều, cho đến hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều, chớp ảnh Kiều, trong nhà, ngoài
đường, trên trời, dưới đất, đâu đâu cũng Kiều, khiến người bịt tai bưng mũi, nhức đầu
long óc vì những tiếng to “Quốc văn!!! Kim Vân Kiều!!! Nguyễn Du!!!”(16).
Theo thời gian cung bực lời tụng ca Truyện Kiều của Phạm Quỳnh lên cao dần.
- Năm 1917: “Truyện Kiều là sách giáo khoa tuyệt phẩm của bọn nữ lưu, thiết tưởng
không kinh thánh truyện hiền nào hay bằng”(17).
- Năm 1919: “Bao giờ trên bán đảo Đông Dương này cón có người An Nam ở, người
An Nam còn biết nói tiếng An Nam thì Truyện Kiều còn có người đọc, Truyện Kiều còn có
người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong núi sông đất nước Việt Nam
không bao giờ mất được”(18).
- Năm 1924, trong Diễn văn kỷ niệm Nguyễn Du, Phạm Quỳnh nâng lời ca tụng lên
đến đỉnh điểm: “Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta;
một nước không thể không có quốc tuý, Truyện Kiều là quốc tuý của ta; một nước không
thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta. “Truyện Kiều vừa là kinh, vừa là
truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc, một cái “hương hoả” rất quý báu,
đời đời làm vẻ vang cho giống nòi”.
Kết thúc bài diễn văn Phạm Quỳnh thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta
còn, nước ta còn, chúng tôi là kẻ hậu sinh, xin dầu lòng dốc chí, cố gia công trau chuốt lấy
tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc bộ ngày
một tấn tới, quốc vận ngày một vẻ vang”(19).

“Truyện Kiều còn - nước ta còn”, lời khẳng định nguỵ biện này hoàn toàn không phù
hợp với thực tế biến thiên của lịch sử. Ngô Đức Kế nói chính xác và giản dị hơn: “Dân tộc
nào còn thì ngôn ngữ văn tự còn, dân tộc nào tiêu diệt thì ngôn ngữ văn tự cũng tiêu diệt”(20).
Dư luận căm tức Phạm Quỳnh nhưng như một bạn đọc của tạp chí Hữu Thanh đã viết
“hiềm vì một nỗi, dẫu muốn nói mà không đủ sức để nói”. Ngô Đức Kế liền lên tiếng, thẳng
thừng vạch rõ tâm địa giả dối của Phạm Quỳnh qua bài Luận về chính học cùng tà
thuyết đăng trên tạp chí Hữu Thanh số 21 tháng 9 năm 1924. Lời văn mở đầu bài báo dõng
dạc, đanh thép như một bản luận tội trước Toà án.
Phạm Quỳnh nói đến Truyện Kiều với Quốc vận, Quốc hồn thì Ngô Đức Kế đặt vấn
đề quan hệ giữa Vận nước với Học thuyết tà hay chính. Ông viết: “Vận nước thịnh hay suy,
quan hệ tại đâu: - tại nhân tâm thế đạo. Nhân tâm thế đạo xấu hay tốt, lỗi tại đâu? - tại học
thuyết tà hay chính.
Rộng xét năm châu, trải xem lịch sử, dọc ngang mấy vạn dặm, trên dưới mấy nghìn
năm, từ đông tới tây, từ xưa đến nay, hễ nước nào khi vận nước thịnh cường tất là khi ấy
trong nước chính học sáng rệt, nước nào khi vận nước suy đốn tất là khi ấy trong nước tà
thuyết lưu hành. Chính học sáng rệt thì thế đạo nhân tâm phải tốt, mà vận nước theo chính
học mà nổi lên, tà thuyết lưu hành thì nhân tâm thế đạo phải hư mà vận nước cũng theo tà
thuyết mà đắm mất”.
Và Ngô Đức Kế đã dẫn ra phong trào tán dương Truyện Kiều như một biểu hiện của
“tà thuyết lưu hành”. Theo Ngô Đức Kế: “Văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du thì vẫn
là hay thiệt - văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì cái vẻai dâm sầu oán, đạo dục
tăng bi, tám chữ ấy không tránh đàng nào cho khỏi”.
“Thế mà ngày nay, đức văn sĩ giả dối ta biểu dương Truyện Kiều lên để khai hoá cho
quốc dân, đem Truyện Kiều làm sách “Quốc văn giáo khoa”, làm sách “sư phạm giảng
nghĩa”... Thậm chí sùng bái Truyện Kiều mà nói rằng: “Truyện Kiều là quốc hoa, là quốc hồn,
là quốc tuý của Việt Nam, không biết có còn “quốc” gì nữa không?
Thậm chí lại nói rằng: “Truyện Kiều quan hệ văn hoá Việt Nam, Truyện Kiều quan hệ
quốc vận Việt Nam, nếu không cóTruyện Kiều thì tình trạng dân tộc Việt Nam chưa biết đến

thế nào! Thiệt là con oanh học nói xằng xiên, bậy bạ, rồ dại điên cuồng, tà thuyết vu dân đến
thế là cực”.
Cuối bài báo Ngô Đức Kế ghi chú “Bài luận này chắc có nhiều người phản đối, ai
phản đối xin cứ gửi thư đến bản chí” nhưng không có ai phản đối! Chỉ có một số độc giả
nồng nhiệt hoan nghênh Ngô Đức Kế.
“Hữu Thanh chủ bút Ngô Tiên sinh văn kỷ điện giám.
Tôi là một người cũng có một chút hoài bão mà tôi đang lo rằng: dễ đồng bào
Việt Nam ta lúc này không có người thật chăng? Làm sao mình xem báo đã nhiều mà chưa
từng có ai nói được một câu nào là có đúng với điều sở học của mình, nào ngờ đâu đến bây
giờ lại có Tiên sinh, thật là đang buồn mà thốt nhiên được vui, đang lo mà thốt nhiên được
sướng”(21).
Thư thứ hai viết:
“Hữu Thanh chủ bút Tiến sĩ Ngô đại nhân văn kỷ nhã giám.
Tôi mới chợt đọc qua một lượt, rồi lại phải đọc đi đọc lại năm bảy lượt mà làm sao
hình như đang lúc mây mù u ám, bỗng dưng ở đâu nổi lên một tiếng sét rất mạnh làm cho
đám mây u ám kia tan hẳn đi mà vừng hồng chói lọi là mặt trời kia hiện ra đó vậy! Bài đó
không những làm cho kẻ thiển kiến hiệp thức táng đởm kinh hồn mà lại làm cho họ phải mở
mắt rộng tai nữa vậy”(22).
Huỳnh Thúc Kháng ca ngợi đó là “một bài tuyệt xướng có giá trị nhất trong quốc văn
báo giới ta”, như “cột đá giữa dòng nước lũ, ngọn đuốc trong khoảng đêm trường”, “Nói về
nghĩa lý thì quang minh chính đại, thật là một bài quan hệ trong học giới rất to tát, mà về biện
bác thì lời nghiêm, nghĩa chánh, có một cái mãnh lực như sét phang trước trán, nước xối sau
lưng, khiến cho ai đọc đến cũng tỉnh giấc hồn mê”(23).
Sau bài báo của Ngô Đức Kế phong trào tán dương Truyện Kiều đang ở tột độ say sưa,
cuồng nhiệt, bỗng chốc xẹp hẳn xuống, Phạm Quỳnh im thin thít, Sở mật thám Pháp cũng lờ
đi, coi như không có chuyện gì xảy ra!

