NHỮNG TIẾN BỘ TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ

ĐIỀU TRỊ BỆNH SỎI MẬT

Phần 2

Bệnh sinh của nhiễm trùng huyết từ đường mật

Nội độc tố gây hàng loạt các phản ứng ở người và súc vật thí nghiệm

như: sốt, ngủ lịm (lethargy), hoại tử tế bào, hoạt hóa bổ thể, hoạt hóa miễn

dịch... Trên lâm sàng, nội độc tố gây ra sốc với các biểu hiện sốt, truỵ mạch,

đông máu nội mạch và cuối cùng là suy đa cơ quan.

Bình thường áp lực bài tiết mật tại tế bào gan là 30 cm nước. Khi áp

lực trong đường mật vượt quá áp lực bài tiết mật tại tế bào gan, sự bài tiết

mật bị ngưng trệ. Dưới tác động của áp lực dịch mật cao, mật di chuyển

ngược dòng từ hệ thống nhánh mật vào các xoang, có lẽ đây là cơ chế của

hiện diện nội độc tố trong máu. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu một cách

hệ thống về mối quan hệ giữa áp lực dịch mật với lượng nội độc tố trong

máu. Một vài công trình đang khảo sát áp lực đường mật trước và sau khi

dẫn lưu đường mật qua nội soi.

Khi vi khuẩn bị tiêu diệt và phá hủy bởi kháng sinh, nội độc tố được

phóng thích vào máu. Nghiên cứu trên thực nghiệm chứng minh lượng nội

độc tố trong máu thay đổi theo các nhóm kháng sinh khác nhau(13). Sự khác

nhau này có thể được giải thích bằng một trong những lý do sau đây:

- Kháng sinh có thời gian tiềm ẩn ngắn hay dài. Ví dụ: nhóm

macrolides có tác dụng ngay, làm giảm khả năng sinh sản của vi khuẩn do

đó số lượng vi khuẩn không tăng lên nhiều so với lúc mới bắt đầu sử dụng

kháng sinh.

- Khả năng ức chế tổng hợp polysaccharide của nội độc tố.

- Kiểu kết hợp với protein chuyên chở kháng sinh (PBD: penicillin

binding proteins). Ví dụ Imipenem kết hợp với PBP2 không giết và phá hủy

vi khuẩn nhanh như loại PBP1 hay PBP3 do đó không làm tăng nội độc tố

nhiều như kết hợp với loại 1 và loại 3.

Sự xuất hiện nội độc tố trong máu còn được giải thích do biến dưỡng

nội độc tố bị rối loạn. Nội độc tố bình thường hiện diện trong cơ thể với

nồng độ rất thấp, được chuyển hóa tại tế bào Kupffer của gan và sau đó vào

tế bào gan để được bài tiết vào dịch mật. Trong tình trạng tắc nghẽn, sự bài

tiết của dịch mật bị suy giảm. Điều này dẫn đến sự ứ đọng của nội độc tố

trong tế bào Kupffer. Mối liên quan giữa lượng nội độc tố trong dịch mật và

huyết thanh đang được khảo sát trong một số công trình nghiên cứu. Ngưỡng

của nội độc tố trong dịch mật có thể phản ánh lượng nội độc tố đã bão hòa

tại hệ thống tế bào Kupffer.

Sự hiện diện của nội độc tố trong máu không đồng nghĩa với sự hiện

diện của vi khuẩn trong máu. Lý do đơn giản là nội độc tố chỉ tìm thấy từ vi

khuẩn Gram âm. Trong viêm mủ đường mật, một lượng đáng kể nội độc tố

hiện diện trong hệ tuần hoàn là do sự di chuyển của nội độc tố từ ống mật nhỏ

trong gan qua chỗ nối vào khoảng xoang trong gan. Hiện tượng này xảy ra khi

áp lực trong đường mật tăng cao, không cần có sự hiện diện của vi khuẩn trong

máu.

Có thể có mối liên quan giữa nồng độ nội độc tố trong máu và biểu

hiện lâm sàng. Bệnh nhân có ngũ chứng Reynold có nồng độ endotoxin cao

nhất, kế đến ở bệnh nhân có tam chứng Charcot. Diễn tiến lâm sàng cải thiện

rõ rệt và nồng độ nội độc tố trong máu và trong dịch mật giảm khá nhanh

sau điều trị nội khoa có kết hợp với dẫn lưu đường mật(27). Như vậy, nồng độ

ban đầu của endotoxin có giá trị tiên lượng về độ nặng của viêm đường mật.

2. Sự hiện diện nội độc tố trong máu làm hệ gan mật phóng thích chất

trung gian gây viêm vào đường tiêu hóa đưa đến hệ quả là tăng tính xâm lấn

của Salmonella enteritidis (lslam 2000...)

3. Khái niệm về trục gan-ruột trong mối quan hệ bệnh sinh học của

từng cơ quan và bệnh lý toàn thân, trong đó có nhiễm trùng (Zeuzem 2000).

4. Vài tác nhân mới hoặc ít gặp cần được quan tâm trong nhiễm trùng

đường mật là Aeromonas (Lau 2000, Chan 2001), Transfusion-transmitted

virus (Nakagawa 2000), Enterococci kháng Vancomycin (Poduval 2001,

Nomura 2000), Cytomegalovirus (Liberek 2000), Campylobacter (Harada

2001). Ngoài ra, còn có vai trò của vi khuẩn kỵ khí trong bệnh cảnh nghẹt

stent (Leung 2001), vai trò Salmonella typhi trong carcinoma túi mật

(Shukla 2000).

5. Ảnh hưởng của một số ký sinh trùng như Ascaris (Khuroo 2001),

Fasciola (Luz 1999, Osman 1999), Opisthorchis (Sripa, Kaewkes 2000),

Cryptosporidium (Chen, LaRusso 2000) trên bệnh cảnh nhiễm trùng đường

mật cũng được ghi nhận.

SIÊU ÂM TRONG CHẨN ĐOÁN SỎI MẬT

Trước khi có máy siêu âm dùng trong Y học, chẩn đoán sỏi túi mật

gặp khá nhiều khó khăn vì:

- Triệu chứng lâm sàng thường không rõ ràng và không đặc hiệu hoặc

hoàn toàn không có triệu chứng.

- X quang bụng không sửa soạn chỉ phát hiện được những sỏi cản

quang, tỉ lệ của loại sỏi này không nhiều. X quang với thuốc cản quang uống

hay chích tĩnh mạch không cho những hình rõ ràng.

- Xét nghiệm máu không có gì thay đổi.

Vì vậy, nhận định trước kia của các công trình ở nước ta về tỉ lệ của sỏi

túi mật là rất thấp, chỉ khoảng 10% của sỏi mật, trong khi đó sỏi đường mật là

hơn 80%.

Ngày nay nhờ siêu âm, chẩn đoán sỏi túi mật trở nên dễ dàng và chính

xác. Người ta thấy bệnh sỏi túi mật khá nhiều và tỉ lệ không không thấp như

những số liệu đã được công bố trước kia. Một số công trình siêu âm cho tỉ lệ

sỏi túi mật trong sỏi mật nói chung là 50-60-70%.

Từ tháng 5 năm 1994 đến tháng 11 năm 2001 bệnh viện ĐHYD TP.

HCM có số liệu sau: Sỏi túi mật 4604 lượt người, Sỏi đường mật 379 lượt

người, Sỏi túi mật và sỏi đường mật 177 lượt người. Như vậy Sỏi túi mật

đơn thuần là 89,22%, Sỏi ống mật chủ đơn thuần là 7,35%, Sỏi túi mật kèm

với sỏi ống mật chủ là 3,43%. Các tỉ lệ này không hoàn toàn phản ảnh thực

tế vì tại bệnh viện này tập trung nhiều phẫu thuật Cắt túi mật nội soi.

Siêu âm trong chẩn đoán sỏi túi mật

Ưu điểm

Túi mật được gan che phủ bên trên nên túi mật được khảo sát dễ dàng

bằng siêu âm. Siêu âm xác định:

a) Hình dáng, kích thước và trương lực của túi mật để đánh giá túi mật

căng hay không căng, bình thường hay to hoặc teo nhỏ.

b) Độ dày của thành túi mật và tính chất phản âm của nó. Dày thành

túi mật thấy trong:

- Viêm mãn tính: thành dày không đều, phản âm khá mạnh.

- Viêm cấp tính: thành dày tương đối lan tỏa, với phù nề lớp cơ cho

phản âm kém rõ rệt, trương lực tăng.

- Có những thay đổi trong xơ gan, báng bụng, hạ albumine máu, tăng

áp lực tĩnh mạch cửa...

c) Có hơi trong thành túi mật gợi ý một viêm túi mật hoại tử. Hơi

trong thành túi mật nhiều khi khó khẳng định.

d) Dịch quanh túi mật: lớp mỏng là hình ảnh của viêm cấp, tạo ổ

không đồng nhất là hình ảnh của áp xe.

e) Co bóp của túi mật: siêu âm giúp đánh giá sự thay đổi về hình dáng

và kích thước của túi mật khi nhịn đói và sau bữa ăn giàu chất béo cho phép

ước lượng khả năng co bóp cũng như lượng mật tống xuất trong các bệnh lý

viêm cấp tính, viêm mãn tính, viêm ứ nước, u cơ tuyến, sỏi kẹt cổ...

f) Xác định sỏi, vị trí sỏi, sỏi chuyển động hay dính vào thành túi mật.

Loại sỏi bùn, sỏi viên hay sỏi nhỏ li ti như cát.

g) Túi mật thon đều hay thắt eo, gập góc, tạo ngăn chứa sỏi.

Hạn che

a) Vùng cổ túi mật khó khảo sát do phản âm của mỡ, mạc nối nhỏ.

Khi bị viêm cấp mỡ bao bọc vùng phễu-cổ rất dày nên khó xác định được

sỏi ở vùng phễu-cổ. Cần phải thay đổi tư thế bệnh nhân để khảo sát.

b) Khi túi mật to hay dài, đáy nhô ra khỏi bờ dưới gan dễ bị hơi tá

tràng, đại tràng ngang che lấp, khó thấy được sỏi.

c) Khó xác định được chính xác số lượng sỏi khi nhiều hơn 3, nhất là

khi các viên sỏi kết dính lại với nhau. Khi sỏi bùn lắng đọng dễ nhầm với

một sỏi to.

d) Không đánh giá được chính xác tình trạng túi mật khi bệnh nhân đã

ăn, lúc này túi mật co nhỏ lại.

Siêu âm trong chẩn đoán sỏi đường mật

Ưu điểm

Đường mật trong gan được nhu mô gan bao phủ xung quanh, đó là

cửa sổ âm học rất tốt để khảo sát đường mật bằng siêu âm.

Siêu âm giúp xác định:

a) Vị trí sỏi tương đối chính xác từ ống mật chủ đến ống gan và các

nhánh hạ phân thùy.

b) Loại sỏi: mềm hay cứng, dạng viên hay dạng bùn...

c) Đường mật

- Kích thước đường mật trong và ngoài gan

- Vách đường mật dày trong viêm đường mật

- Tính chất của dịch mật

- Hơi trong đường mật.

- Áp xe đường mật

d) Theo dõi tiến triển của bệnh, dựa vào:

- Sự di chuyển của sỏi.

- Khẩu kính, độ dày của vách đường mật.

- Độ phản âm của dịch mật.

Hạn che

- Khó khảo sát đường mật ở người mập, thành bụng dày hay khí phế

thũng.

- OMC đoạn sau tá tràng và trong tụy đôi khi không khảo sát được do

hơi trong tá tràng, đại tràng ngang che lấp.

- Dễ bỏ sót nếu sỏi nhỏ hơn khẩu kính bình thường của OMC, dưới 6

mm

- Số lượng sỏi không xác định được chính xác khi có nhiều hơn 3 hòn.

- Hơi trong đường mật nhiều như khi đã nối mật-ruột sẽ không khảo

sát được phía bên dưới.

PHẪU THUẬT nội soi CẮT TÚI MẬT

Bệnh sỏi túi mật khi cần phải điều trị thì phương pháp gần như duy

nhất là phẫu thuật Cắt túi mật. Trước kia phẫu thuật Cắt túi mật chỉ dành cho

các trường hợp có viêm cấp hay có viêm mãn với nhiều đợt đau tái diễn và

đau nhiều.

Vì nhiều bệnh nhân sỏi túi mật không được chẩn đoán và vì phẫu

thuật không đơn giản, nên số phẫu thuật Cắt túi mật không nhiều. Nhiều

bệnh nhân có sỏi túi mật ngần ngại không chấp nhận cuộc mổ, chỉ chấp nhận

khi túi mật đã hoại tử gây viêm phúc mạc toàn thể hay tạo thành áp xe hoặc

khi đã quá đau không chịu nổi.

Lịch sử

Với những phát minh về quang học và những cải tiến về dụng cụ

trong vòng 20 năm trở lại đây, “Phẫu thuật ít xâm hại" ra đời. Cắt túi mật nội

soi là một trong những phẫu thuật nội soi ra đời sớm. Nó được coi là phẫu

thuật nội soi ra đời sớm nhất trong các phẫu thuật nội soi ở ổ bụng.

Phẫu thuật Cắt túi mật nội soi được Philippe Mouret thực hiện lần đầu

tiên năm 1987, ở thành phố Lyon, nước Pháp. Với những ưu điểm của phẫu

thuật của nó, ngay sau khi ra đời nó đã được phổ biến rất nhanh chóng. Đến

năm 1992 ở Mỹ và năm 1995 ở Pháp, 80% Cắt túi mật được thực hiện bằng

phẫu thuật nội soi.

Để có thể thực hiện được phẫu thuật, phải tạo được khoảng trống

trong ổ bụng. Có hai cách tạo khoảng trống là bơm hơi ổ bụng và nâng thành

bụng bằng khung. Hơi ngày nay được dùng là khí CO2. Mỗi loại có ưu

nhược điểm riêng.

Tình hình ở nước ta

Tại Việt Nam, phẫu thuật Cắt túi mật nội soi được thực hiện lần đầu

tiên ở bệnh viện Chợ Rẫy TPHCM ngày 23.9.1992. Cho tới nay nhiều cơ sở

phẫu thuật ở Hà Nội: bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện

Saint Paul, bệnh viện Quân đội 108, 103, bệnh viện E, bệnh viện Bưu

Điện... ở Huế: bệnh viện Trung ương Huế, ở TP. HCM: bệnh viện Chợ Rẫy,

bệnh viện Bình Dân, bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bệnh viện ĐHYD TP.

HCM, bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện 30 tháng 4, bệnh viện Trưng

Vương, bệnh viện Vạn Hạnh, bệnh viện Hoàn Mỹ ..., ở đồng bằng sông Cửu

Long: bệnh viện Cần Thơ, bệnh viện Kiên Giang, bệnh viện Tiền Giang,

bệnh viện An Giang... đã thực hiện phẫu thuật này.

Con số phẫu thuật lớn nhất có lẽ là của bệnh viện ĐHYD TP. HCM.

Trong 6 năm rưỡi, từ 19.5.1995 đến 31.12.2001, số phẫu thuật Cắt túi mật

nội soi đơn thuần ở trung tâm này là 3524. Tỉ lệ Cắt túi mật nội soi càng

ngày càng nhiều do được trang bị máy móc và dụng cụ tốt hơn, nhiều hơn và

phẫu thuật viên được đào tạo nhiều hơn, quen với kỹ thuật hơn. Số bệnh

nhân tăng dần hàng năm: 7 tháng rưỡi năm 1995: 74, năm 1996: 123, năm

1997: 307, năm 1998: 556, năm 1999: 747, năm 2000: 782, 11 tháng rưỡi

năm 2001: 898.

Lúc đầu Cắt túi mật nội soi chỉ được chỉ định trong những trường hợp

không có viêm cấp tính, không có vết mổ cũ ở bụng, không có sỏi ở đường

mật. Về sau, chỉ định được mở rộng dần. Tỉ lệ Phẫu thuật mở bụng của Cắt

túi mật giảm dần: năm 1996: 26,3%, năm 1997: 16,6%, năm 1998: 9,5%,

năm 1999: 4,1%, năm 2000: 2,7%. Năm 2001: 4,2%.

Trong thời gian gần đây, với các phẫu thuật viên thành thạo và túi mật

không dính nhiều, thời gian mổ trung bình khoảng 20 phút, khối lượng khí

CO2 được sử dụng trung bình khoảng 10 lít.

Ưu nhược điểm

Qua công trình của mình, các phẫu thuật viên ở bệnh viện ĐHYD TP.

HCM đã khẳng định những ưu điểm của phẫu thuật nội soi Cắt túi mật

Ưu điểm

- Tỉ lệ tử vong rất thấp

- Sau mổ chỉ đau nhe

- Ngày sau mổ bệnh nhân đã có thể tự túc mọi sinh hoạt cá nhân

- Thời gian nằm viện ngắn, trước mổ 1 ngày, sau mổ 3 ngày

- Ngay ngày sau khi ra viện bệnh nhân có thể lao động trở lại

- Một ưu điểm nổi bật là 3 vết sẹo rất ngắn và sẽ mờ dần theo thời

gian

- Không có nhiễm trùng ở thành bụng và các biến chứng vết mổ vì ở

thành bụng chỉ có 3 đường rạch rất ngắn chỉ 0,5-1 cm.

2. Nhược điểm

- Tai biến thương tổn đường mật. Tai biến này đã xảy ra, công việc

sửa chữa các tai biến này đơn giản nếu phát hiện được trong khi mổ, nhưng

nếu chỉ chẩn đoán được trong thời kỳ hậu phẫu thì công việc điều trị vô cùng

phức tạp.

- Chi phí cao vì phẫu thuật nội soi đòi hỏi những trang thiết bị đắt

tiền. Chi phí này được bù lại bằng thời gian nằm viện ngắn. Ngoài ra gía

thành máy móc và dụng cụ càng ngày càng rẻ.

Cách phòng ngừa tổn thương đường mật tốt nhất là phải nắm thật

vững giải phẫu học của vùng và phải thành thạo trong mổ mở. Phẫu thuật

viên phải được học lý thuyết kỹ lưỡng, phải sử dụng thành thạo các dụng mổ

nội soi, phải được thực tập trên súc vật, phải được kiến tập và phụ mổ trên

người.

Điều hết sức quan trọng nữa là phẫu thuật viên nội soi phải là phẫu

thuật viên mổ kinh điển giỏi. Một yêu cầu nữa của Cắt túi mật nội soi là phải

được tiến hành ở những cơ sở phẫu thuật có điều kiện và có khả năng xử lý

những thương tổn đường mật. Những thương tổn của đường mật trong phẫu

thuật Cắt túi mật nội soi thường rất phức tạp.

Chỉ định

Vì những ưu điểm đó mà phẫu thuật Cắt túi mật nội soi đầu tiên ra đời

năm 1987, cho tới nay mới chỉ 14 năm, mà hầu như các cơ sở phẫu thuật có

điều kiện đã chọn phẫu thuật này để điều trị bệnh sỏi túi mật khi cần phẫu

thuật.

Cũng chính vì tính đơn giản của nó mà người ta đã chỉ định mổ rộng

rãi hơn trong bệnh lý sỏi túi mật:

- Khi sỏi túi mật có triệu chứng rõ rệt, ảnh hưởng tới cuộc sống của

bệnh nhân

- Khi đang trong tình trạng viêm cấp tính

- Khi có vết mổ cũ ở bụng trên hay bụng dưới

- Bệnh nhân được mổ hở lấy sỏi ống mật chu

- Kèm với mở ống mật chủ lấy sỏi trong ống mật chủ, sỏi trong gan

- Kèm với các phẫu thuật nội soi khác như bóc nang buồng trứng...

hay với các phẫu thuật mổ hở ở bụng như cắt tử cung hoặc các phẫu thuật

khác như cắt trĩ, cắt bướu tuyến giáp...

Khi phẫu thuật Cắt túi mật nội soi đã trở nên đơn giản và nhẹ nhàng

thì chỉ định của nó được mở rộng hơn vì không thể biết diễn biến của túi mật

khi trong lòng có chứa sỏi. Trước kia tỉ lệ Cắt túi mật vì viêm cấp khá cao,

thời gian gần đây giảm đi rất nhiều, có lẽ là nhiều túi mật có sỏi đã được cắt

bỏ. Ngoài sỏi túi mật, các bệnh lý khác của túi mật cũng được chỉ định Cắt

túi mật nội soi như pôlíp túi mật, rối loạn vận động túi mật.