ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH

CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội- 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH

CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

Chuyên ngành: Luật Quốc tế

Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Giáo viên hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Bá Diến

Hà Nội- 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Kim Dung

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNGVỀ ĐĂNG KÝ HỘ

TỊCH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI .............................................................. 6

1.1. Khái quát chungvề đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài ......................... 6

1.1.1. Khái niệm đăng ký hộ tịch ...................................................................... 6

1.1.2. Khái niệm về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài............................... 9

1.2. Đặc điểm, vai trò của đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài ................... 11

1.3. Pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài ................................. 13

1.3.1. Pháp luật trong nước ............................................................................. 13

1.3.2. Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và các nguồn khác. ....................... 17

CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI ................................ 19

2.1. Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài .................................................. 19

2.1.1. Thẩm quyền đăng ký khai sinh ............................................................. 20

2.1.2. Thành phần hồ sơ .................................................................................. 21

2.1.3. Thủ tục đăng ký khai sinh ..................................................................... 21

2.2. Đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài ..................................................... 22

2.2.1. Thẩm quyền đăng ký khai tử ................................................................. 22

2.2.2. Thành phần hồ sơ .................................................................................. 23

2.2.4. Thẩm quyền cấp giấy báo tử ................................................................. 24

2.3. Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ........................................ 25

2.3.1. Thẩm quyền đăng ký kết hôn ................................................................ 26

2.3.2. Thành phần hồ sơ .................................................................................. 26

2.3.3. Thủ tục đăng ký kết hôn ........................................................................ 27

2.3.4. Tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn ................................................. 27

2.3.5. Từ chối đăng ký kết hôn ........................................................................ 28

2.4. Đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài ................................................... 29

2.4.1. Thẩm quyền đăng ký giám hộ, chấm dứt giám hộ ................................ 31

2.4.2. Thủ tục đăng ký giám hộ cử .................................................................. 31

2.4.3. Thủ tục đăng ký giám hộ đương nhiên ................................................. 31

2.4.4. Thủ tục đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ ....................................... 32

2.5. Đăng ký nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài ................................... 32

2.5.1. Thẩm quyền đăng ký nhận cha, mẹ, con ............................................... 33

2.5.2. Thành phần hồ sơ .................................................................................. 33

2.5.3. Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con....................................................... 34

2.6. Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc có yếu

tố nước ngoài ................................................................................................... 36

2.6.1. Khái niệm về đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại

dân tộc ............................................................................................................. 36

2.6.2. Thẩm quyền đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại

dân tộc ............................................................................................................. 39

2.6.4. Thủ tục yêu cầu bổ sung thông tin hộ tịch ............................................ 40

2.7. Ghi vào sổ việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ

quan có thẩm quyền của nước ngoài ............................................................... 40

2.7.1. Thẩm quyền ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã

được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ........................... 40

2.7.2. Thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;

xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử ..................... 41

2.7.3. Ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải

quyết ở nước ngoài .......................................................................................... 41

2.7.4. Ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn đã được giải quyết ở

nước ngoài ....................................................................................................... 42

2.8. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .......................................... 45

2.8.1. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. ........................... 46

2.8.2. Điều kiện và hồ sơ đối với người nhận con nuôi .................................. 46

2.8.3. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài .................. 48

2.8.4. Thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................................ 49

2.9.Giải quyết xung đột pháp luật và áp dụng pháp luật nước ngoài trong đăng

ký hộ tich có yếu tố nước ngoài ...................................................................... 52

2.9.1. Khái niệm về xung đột pháp luật trong đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài ...................................................................................................... 52

2.9.2. Xác định pháp luật áp dụng trong đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài . 56

2.9.3. Giải quyết xung đột pháp luật trong một số quan hệ hộ tịch có yếu tố

nước ngoài ....................................................................................................... 59

CHƢƠNG 3: TRẠNG THỰC THI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VIÊT NAM VỀ VIỆCĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ

NƢỚC NGOÀI ............................................................................................... 64

3.1.Thực trạng đăng ký hộ tịch có yếu tố tịch nước ngoài tại Việt Nam ........ 64

3.1.1. Những thành tựu đạt được khi thực hiện quy định mới về đăng ký hộ tịch 64

3.1.2. Khó khăn, vướng mắc trong việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài .... 70

3.1.3. Hoạt động đăng ký hộ tịch tại một số địa phương trên cả nước ........... 81

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài ................................................................................ 91

3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài ...................................................................................................... 91

3.2.2. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Tư pháp-

Hộ tịch ............................................................................................................. 94

3.2.3. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch có yếu tố

nước ngoài ....................................................................................................... 97

3.2.4. Bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho công tác

đăng ký hộ tịch và tăng cường công nghệ thông tin trong công tác đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài .............................................................................. 100

3.2.5. Hoàn thiện các điều ước quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài về đăng

ký hộ tịch ....................................................................................................... 102

KẾT LUẬN .................................................................................................. 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đăng ký và quản lý hộ tịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng

luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, việc thực hiện tốt hoạt động này,

tạo cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền con người, bên cạnh việc bảo

vệ quyền và lợi ích của công dân, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch giúp

quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng, hoạt

định chính sách phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.

Công tác đăng ký, quản lý trong thời gian qua góp phần quan trọng vào

sự ổn định, trật tự an toàn xã hội; hệ thống cơ quan quản lý, đăn ký hộ tịch và

đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch từ trung ương đến cấp cơ sở luôn

được củng cố, kiện toàn; hệ thống sổ sách về hộ tịch được lưu trữ, sử dụng tài

liệu; thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch có sự cải cách một

bước, ngày càng thuận lợi cho người dân; việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong đăng ký hộ tịch được triển khai ở một số địa phương đặc biệt đăng ký

hộ tịch có yếu tố nước ngoài có chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới,

tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng

sâu rộng quyền con người, quyền công dân đòi hỏi được ghi nhận và bảo đảm

thực hiện ở mức cao hơn..., nên công tác đăng ký và quản lý hộ tịch có yếu tố

nước ngoài đã bộ lộ nhiều hạn chế, bất cập. Về thể chế, hệ thống quy phạm

pháp lý chưa cao. Về thủ tục, thẩm quyền và phương thức đăng ký hộ tịch còn

phức tạp, chưa tạo thuận lợi nhiều cho người dân (phương thức còn thủ công,

người dân phải xuất trình/ nộp nhiều loại giấy tờ, thủ tục hành chính phức tạp,

1

thẩm quyền còn tản mát ở cả ba cấp, chi phí xã hội lớn.....).

Nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác

đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn

chế nêu trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013

với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của

công dân, đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hướng

từng bước chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.

Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch

có yếu tố nước ngoài ” làm luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến thời điểm này, vấn đề nghiêu cứu pháp luật về thủ tục giải

quyết đối với công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở các góc độ khác nhau.

Tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu chung về đăng ký trong

nước hoặc chỉ tìm hiểu một số tình huống nhất định như đăng ký hộ tịch về

khai sinh có yếu tố nước ngoài, khai tử có yếu tố nước ngoài đặc biệt là thủ

tục đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, riêng đăng

ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thì ít học giả nghiên cứu. Vì vậy tôi chọn

nghiên cứu đề tài “Pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước

ngoài” gắn với việc ban hành Luật Hộ tịch năm 2014, để có thể có nhìn rõ nét

hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài:

3.1. Mục tiêu tổng quát

Việc nghiên cứu Luận văn nhằm mục đích phân tích và đưa ra khái

niệm toàn diện về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, phân tích thực trạng

thủ tục đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, từ đó

tìm ra những điểm còn tồn tại và đưa những kiến nghị nhằm hoàn thiện các

quy định trong pháp luật Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho hoạt động

2

quản lý và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Thức nhất: Hệ thống hóa kiến thức lý luận về hộ tịch có yếu tố nước

ngoài và quản lý nhà nước về hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

Thứ hai: Phân tích, đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập

của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

Thứ ba: Đề xuất và đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài

Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, luận văn tập

trung vào một số vấn đề sau:

Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật

Việt Nam về đăng ký Hộ tịch có yếu tố nước ngoài trong một số văn bản pháp

luậtđược ban hành từ năm 2014, như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hộ tịch

năm 2014, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Nuôi con nuôi năm

2010 và các văn bản khác có liên quan. Nhưng chủ yếu tập trung đi sâu

nghiên cứu những quy định đăng ký Hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Luật Hộ

tịch năm 2014 và vấn đề thủ tục đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại cơ

quan có thẩm quyền ở Việt Nam.

Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng về đăng ký hộ tịch

có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và thực tiễn công tác đăng ký hộ tịch trên

địa bàn cả nước trong đó có đăng ký hộ tịch yếu tố nước ngoài tại một số địa

phương như Hà Nội, Bình Dương.

Về đối tượng nghiên cứu: Để nghiên cứu vấn đề hộ tịch có yếu tố nước

ngoài, luận văn không thể nghiên cứu tất cả các việc hộ tịch có yếu tố nước

3

ngoài mà chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề chính của đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài bao gồm: Đăng ký khai sinh; Khai tử;Kết hôn;

Giám hộ; Đăng ký nhận cha mẹ con; Thay đổi hộ tịch, cải chính hộ tịch có

yếu tố nước ngoài và đăng ký nuôi con nuôi; Ghi vào sổ tịch việc thay đổi hội

tịch có yếu tố nước ngoài, Ghi vào sổ hộ tịch sự kiện khai sinh, kết hôn,ly

hôn, hủy việc kết hôn, giám hộ, nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con;

nuôi con nuôi, thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải

quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam.

Từ việc phân tích các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài, luận văn đưa

ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Việt Nam về

đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài hiện nay.

5. Những đóng góp của Luận văn

Đóng góp quan trọng và có giá trị của luận văn là nêu tổng quan và cụ

thể những quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước

ngoài cũng như vai trò của đăng ký hộ tịch và pháp luật về đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong

quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; góp phần thúc đẩy hội nhập và hợp tác

quốc tế. Bên cạnh đó luận văn phân tích các thủ tục đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài và việc vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ

tịch. Nêu ra thực trạng công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên địa

bàn cả nước và một số tỉnh, thành phố, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải

pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu

tố nước ngoài.

Tính mới của luận văn: Luận văn đề cao vai trò hết sức quan trọng của

công tác đăng ký hộ tịch nhất là việc cấp mã số định danh cá nhân cho người

được khai sinh khi đi đăng ký khai sinh từ đó xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch

điện tử để lưu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về

4

dân cư. Đề tài còn nêu ra những vấn đền liên quan đến cải cách mạnh mẽ về

trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch, tạo thuận lợi tối đa cho người dân khi đăng

ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài (như: đơn giản hóa và cắt giảm nhiều giấy tờ

không cần thiết khi đăng ký hộ tịch; cải tiến phương thức nộp hồ sơ để người

dân lựa chọn- nộp trức tiếp, gửi qua bưu chính hoặc qua hệ thống đăng ký hộ

tịch trực tuyến cấp độ 3 và cấp độ 4; giảm thời hạn đăng ký đối với hầu hết

các việc hộ tịch).

Ngoài ra đề tài còn nêu ra vấn đề phân cấp mạnh mẽ về thẩm quyền

đăng ký hộ tịch cho chính quyền địa phương đặc biệt là việc chuyển thẩm

quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài từ Sở Tư pháp cho UBND cấp

huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu làm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài.

Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài.

Chương 3: Thực trạng thực thi và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

5

Việt Nam về việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

1.1. Khái quát chungvề đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài

1.1.1. Khái niệm đăng ký hộ tịch

Xét về khía cạnh ngôn ngữ “Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính

phụ, được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập. Theo đó từ “hộ” có nghĩa là

“dân cư” hoặc “nhà ở” hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số gồm những

người cùng ăn ở với nhau, còn từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ

sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”.Tuy nhiên có nhiều cách giải nghĩa từ “Hộ

tịch” khác nhau như

Tác giả Nguyễn Văn Khôn đã nêu khái niệm “Hộ tịch” trong cuốn Hán

-Việt từ điển xuất bản năm 1960 như sau: “Hộ tịch: sổ biên dân số có ghi rõ

họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [21, tr.404] hay tác giả Nguyễn

Lân cũng trình bày giải nghĩa từ “Hộ tịch” trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán

Việt xuất bản năm 1989 “ Hộ tịch: quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề

nghiệp của mọi người trong một địa phương” [22, tr.321]. Có thể nhận thấy

theo cách giải nghĩa từ “Hộ tịch” của các tác giả Nguyễn Văn Khôn, Nguyễn

Lân tuy rằng khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều giải nghĩa “Hộ tịch” có

nét khá tương đồng, “Hộ tịch” là quyển sổ chứa đựng các thông tin cơ bản của

cá nhân.

Một cách hiểu khác về “Hộ tịch” trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt

xuất bản năm 1998 đã được tác giả Nguyễn Như Ý trình bày đó là: “Hộ tịch:

Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật”

[43, tr 835] hay“Hộ tịch: Quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một

người tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng

6

một hộ, do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần”[14, tr.385]của

tác giả Nguyễn Văn Đạm trong cuốn từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng

Việt, xuất bản năm 1999.

Về phía cạnh pháp lý, thuật ngữ “Hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa

trong các giáo trình giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ

Việt Nam Cộng hoà, trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:

Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan

niệm “Hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau:

“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân

trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng

nhất của con người: sinh, giá thú và tử" [36, tr.7].

Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa

khác về khái niệm “Hộ tịch” trong cuốn Danh từ và tài liệu Dân luật và Hiến

luật xuất bản năm 1968: “Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các

người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh

và khai tử".[24, tr.111].

Trong văn bản pháp lý đầu tiên về đăng ký hộ tịch của Việt Nam là

Nghị định số 764-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 8/5/1956 ban hành điều

lệ đăng ký hộ tịch chưa đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch là gì, tuy nhiên tại

Điều 1 Nghị định số 764-TTg đã đưa ra mang tính liệt kê các sự kiện đăng ký

hộ tịch bao gồm: “ Đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã

đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các

việc ấy”.

Sau đó tại Điều 1 Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của

Chính phủ về đăng ký, quản lý hộ tịch và Điều 1 Nghị định số 158/2005/NĐ-

CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch đều đưa ra khái niệm Hộ

tịch như sau “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân

7

của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Công tác hộ tịch bao gồm hoạt

động đăng ký hộ tịch, quản lý hộ tịch và những hoạt động khác có liên quan

đến quản lý hộ tịch và đăng ký hộ tịch. Trong đó đăng ký hộ tịch là việc cơ

quan có thẩm quyền: “ Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con

nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ

tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc; Căn cứ vào quyết định của

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha,

mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt

nuôi con nuôi”.

Theo quy định tại Điều 3 của Luật Hộ tịch năm 2014 cũng giống như

Nghị định 158/2005/NĐ-CP, có hai nhóm hành vi với tính chất khác nhau

trong đăng ký hộ tịch:

- Hành vi xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện: Đối với các sự kiện tại

khoản 1 Điều 3 của Luật Hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách

đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc đồng thời cấp cho đương sự giấy

chứng nhận, trích lục hộ tịch về việc đó như Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận

kết hôn, trích lục cải chính…Hành vi xác nhân của cơ quan đăng ký hộ tịch đã

làm phát sinh hiệu lực pháp lý của các sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi

đăng ký các sư kiện đó mới phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ

của cá nhân.

- Hành vi ghi vào sổ hộ tịch khác với hành vi xác nhận, là đối với các

loại việc hộ tịch này, cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ căn cứ vào quyết định của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành ghi chú việc đó vào Sổ hộ tịch.

Điểm phân biệt cơ bản giữa hành vi này với nhóm hành vi xác nhận là hành vi

phát sinh sau và không làm phát sinh hiệu lực pháp lý.

Như vậy sự kết hợp giữa cách hiểu “Hộ tịch” và “Đăng ký hộ tịch” mới

8

có thể mang lại cách hiểu đầy đủ nhất về khái niệm “Hộ tịch”.

1.1.2. Khái niệm về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại

khoản 2 Điều 663 Bộ luật dân sự 2015, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau:

- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;

- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam

nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại

nước ngoài;

- Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam

nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.

Vậy quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài dưa trên 3 yếu tố, chủ thể là

người nước ngoài, đối tượng của quan hệ là tài sản ở nước ngoài hoặc sự kiện

pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài.

Để hiểu thể nào là yếu tố nước ngoài trong đăng ký hộ tịch được xem

xét trên các khía cạnh sau

*Yếu tố chủ thể: Hộ tịch mang yếu tố về nhân thân vì vậy chủ thể

trong đăng ký hộ tich là cá nhân.

Theo khoản 2 Điều 663 của Bộ luật dân sự năm 2015 “Có ít nhất một

bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài”

Cá nhân nước ngoài: Bao gồm người mang quốc tịch nước ngoài và

người không quốc tịch (Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, sửa đổi bổ sung

2014). Nhưng theo quy định Luật hộ tịch thì “Người Việt Nam định cư ở

nước ngoài” được coi là có yếu tố nước ngoài trong đăng ký hộ tịch.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1, Điều 37 của Luật Hộ tịch có quy

định “Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực

hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa

9

công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở

nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa

công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam

hoặc với người nước ngoài”

Vậy chủ thể trong đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được xác định

như sau:

+ Đượng sự là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và các sự kiện hộ

tịch phát sinh ở Việt Nam, ví dụ như: Việc sinh, tử của người nước ngoài tại

Việt Nam. Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và

người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam

+ Một bên đương sự là người Việt Nam còn bên kia là người nước ngoài

+ Giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam

định cư ở nước ngoài.

+ Giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau

+ Giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công

dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.

* Yếu tố sự kiện pháp lý: Sự kiện đăng ký hộ tịch giữa các bên tham

gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan

hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài.

Ví dụ: Việc khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài về cư trú tại Việt

Nam; Ghi vào sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải

quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

* Việc đăng ký hộ tịch giữa công dân Việt Nam nhưng đối tượng quan

hệ dân sự đó ở nước ngoài. Đối tượng ở đây không chỉ là tài sản mà còn có thể

là các hành vi thực hiện ở nước ngoài (như thực hiện công việc ở nước ngoài).

Qua phân tích trên và căn cứ vào Điều 3 của Luật Hộ tịch có thể hiểu

đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận

10

và ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch có yếu tố nước ngoài của cá nhân,

như khai sinh; khai tử; kết hôn; giám hộ; nhận cha mẹ con; thay đổi, cải chính

hộ tịch; xác định lại dân tộc; bổ sung thông tin hộ tịch; Ghi vào Sổ hộ tịch sự

kiện khai sinhh, kết hôn, ly hôn, hủy việt kết hôn; giám hộ, nhận cha mẹ con,

xác định cha, mẹ, con, nuôi con nuôi, thay đổi hộ tịch, khai tử của công dân

Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài.

Tuy Luật hộ tịch không quy định về vấn đề đăng ký nuôi con nuôi có

yếu tố nước ngoài nhưng tại Khoản 2 Điều 1 của Luật Hộ tịch có quy định

“Thẩm quyền, thủ tục giải quyết các việc về nuôi con nuôi được thực hiện

theo quy định của Luật nuôi con nuôi” .

1.2. Đặc điểm, vai trò của đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài

Đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn được các quốc

gia quan tâm thực hiện. Hoạt động này còn là cơ sở để Nhà nước công nhận

và bảo hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện pháp

quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng,

hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất

nước. Tại hầu hết các nước, các sự kiện hộ tịch của con người từ khi sinh ra

đến khi chết như khai sinh, kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi,

cải chính hộ tịch, khai tử… đều được đăng ký và được quản lý chặt chẽ.

Hoạt động đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài là cơ sở để Nhà nước

thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân Việt Nam, người nước

ngoài đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự, ví dụ

như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc,

quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi và được

nhận làm con nuôi…..Bên cạnh đó việc đăng ký hộ tich cũng thể hiện việc

nhà nước công nhận một con người tồn tại với tất cả đầy đủ tính pháp lý, mà

qua đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có năng

11

lực, điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không.Đặc

biệt là Nhà nước ta đảm bảo quyền nhân thân của người nước ngoài, giữa

người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ Việt Nam đảm bảo việc thực hiện

nguyên tắc “không phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam (nước Sở tại) và

người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ Việt Nam”.

Với ý ghĩa như vậy, việc Nhà nước tổ chức quản lý, đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài chính là sự bảo hộ đối với việc thực hiện các quyền của người

nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch không những liên quan đến nhân

thân mà nó còn là cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển

kinh tế, đối ngoại, văn hóa, xã hội, kế hoạch hóa gia đình của đất nước. Một

hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ, chính xác, được cập nhật kịp thời các

thông tin về cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, tỷ suất

sinh, chết … và các thông tin cơ bản về tình hình người nước ngoài nói riêng

sẽ là cơ sở vứng chắc cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách

chính xác, có tính khả thi và tiết kiệm chi phí xã hội.Ngoài ra trên cơ sở theo

dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan nhà nước có định hướng phù hợp

trong việc xây dựng cơ sở y tế, trường học, bố trí giáo viên…, chăm sóc sức

khỏe trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới tính phục vụ an ninh quốc

phòng…

Việc thực hiện pháp luật hộ tịch của các cơ quan nhà nước còn có vai

trò to lớn đối với việc đảm bảo trật tự xã hội. Đặc biệt sau khi Luật Hộ tịch ra

đời, hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịchlà những phương tiện, công cụ để lưu trữ

các thông tin cá nhân vì thể có thể giúp truy tìm nguồn gốc của cá nhân một

cách dễ dàng.

Ví dụ: Để xác định một cá nhân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình

sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hay không thì giấy khai sinh của cá

12

nhân chính là căn cứ để chứng minh về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Xét từ phương diện khoa học quản lý Nhà nước thì đăng ký hộ tịch

giúp Nhà nước thực hiện tốt nhất hoạt động quản lý dân cư.Có thể nói đây là

lĩnh vực quan trọng của nền hành chính mà mọi quốc gia đều quan tâm, sự

vững mạnh của một quốc gia liên quan mật thiết với hiệu quả của hoạt động

quản lý dân cư.Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác đăng ký và

quản lý hộ tịch Quốc Hội đã ban hành Luật Hộ tịch năm 2014 để điều chỉnh

công tác đăng ký và quản lý hộ tịch nói chung và đăng ký và quản lý hộ tịch

nước ngoài nói riêng.

1.3. Pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài

1.3.1. Pháp luật trong nước

Luật hộ tịch số 60/2014/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 20/11/2014

là văn bản có giá trị cao nhất điều chỉnh lĩnh vực Hộ tịch. Ngoài ra còn có các

văn bản hướng dẫn cụ thể về đăng ký hộ tịch gồm Nghị định 123/2015/NĐ-

CP, ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số biện pháp thi hành luật Hộ

tịch;Thông tư 15/2015/TT-BTP, ngày 16/11/2015 quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày

15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật Hộ tịch.

Luật Hộ tịch gồm 7 chương và 77 điều gồm những nội dung cơ bản

như sau: Luật quy định về phạm vi điều chỉnh, khái niệm hộ tịch và nội dung

đăng ký hộ tịch, quy định về đảm bảo quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của

cá nhân. Luật hộ tịch đã dành riêng một Điều (Điều 6) để xác định quyền và

nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của công dân. Theo đó, các sự kiện hộ tịch của công

dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam, công dân

nước ngoài thường trú tại Việt Nam đều phải được cơ quan có thẩm quyền

thực hiện việc đăng ký hộ tịch. Ngoài ra Luật Hộ tịch còn quy định các hành

13

vi nghiêm cấm đối với cá nhân khi đăng ký hộ tịch và việc áp dụng khoa học

công nghệ trong đăng ký và quản lý hộ tịch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

người dân, Luật Hộ tịch đã quy định các phương thức đăng ký hộ tịch hết sức

linh hoạt. Theo đó, cá nhân có yêu cầu đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục

hộ tịch có thể trực tiếp nộp hồ sơ, gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính và khi

điều kiện cho phép có thể gửi qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến.

Đặc biệt Luật Hộ tịch đã giành cả chương III(gồm 7 Mục, 18 điều, từ

Điều 35 đến Điều 52) để quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng

ký các loại việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của UBND

cấp huyện bao gồm: Đăng ký khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;

thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc, ghi vào sổ hộ tịch

việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm

quyền của nước ngoài.

Trước đây việc điều chỉnh việc đăng ký hộ tịch, đặc biệt là đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau như

Nghị định 158/2005/NĐ-CP; Nghị định 68/2002/ NĐ-CP Hướng dẫn Luật

Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP hướng dẫn

Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài và Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật hôn nhân gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có

yếu tố nước ngoài. Sự tản mạn của các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch

có yếu tố nước ngoài như trên đã ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật về hộ

tịch nói chung và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói riêng. Ngoài ra,

quy định của pháp luật hiện hành về phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch còn

nhiều bất cập. Việc thẩm quyền đăng ký hộ tịch còn chồng chéo, không rõ

ràng giữa chức năng quản lý và đăng ký hộ tịch. Trình tự, thủ tục đăng ký các

14

việc hộ tịch còn rườm rà, bất cập, nhiều quy định còn thiên về việc tạo thuận

lợi cho cơ quan quản lý nhà nước hơn là tạo thuận lợi cho người dân.Việc tồn

tại nhiều loại sổ sách, giấy tờ về hộ tịch đã gây bất lợi, tạo nhiều áp lực cho cả

cơ quan nhà nước và người dân trong việc lưu giữ, bảo quản, sử dụng.Bên

cạnh đó việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý hộ tịch

chưa được quan tâm. Tuy nhiên từ khi Luật Hộ tịch ra đời đã tạo cơ sở pháp

lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch,

khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế như trên, nhất là trong

bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng và việctriển

khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con

người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng bộ, thống nhất với các luật

liên quan (như Bộ luật Dân sự 2015, Luật Quốc tịch, Luật Nuôi con nuôi,

Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Căn cước công dân).

Liên quan đến vấn đề đăng ký hộ tịch, đặc biệt là đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài hiện nay ngoài Luật Hộ tịch năm 2014 còn được điều chỉnh

theo một số văn bản pháp luật khác.

Bộ luật Dân sự năm 2015: Có thể nói, Bộ luật Dân sự là văn bản nền

tảng, văn bản gốc có giá trị pháp lý cao nhất quy định một cách có hệ thống

về quyền nhân thân trong đó đăng ký hộ tịch là một trong quyền nhân thân mà

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cho cá nhân như: Quyền được khai

sinh, khai tử, quyền thay đổi họ, tên, quyền được xác định lại dân tộc… Đặc

biệt pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy

định tại phần thứ năm của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đối với lĩnh vực Hôn nhân và gia đình: Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014, Nghị định 126/2014/NĐ-CP, ngày 31/12/2014 quy định một số điều và

biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Luật hôn nhân và gia đình quy

15

định cụ thể chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử

giữa các thành viên gia đình, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và

xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình và ngoài ra

Luật cũng có các điềuquy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài tại chương VIII gồm từ điều 121 đến 130của Luật.

Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 và được sửa đổi, bổ sung năm 2014:

Luật này có mỗi quan hệ với Luật Hộ tịch về thủ tục đăng ký hộ tịch đặc biệt

là trong lĩnh vực khai sinh có yếu tố nước ngoài tại Điều 36 Luật Hộ tịch quy

định: “Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là người nước ngoài thì

phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ về việc chọn quốc tịch cho con.

Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con thì văn bản thỏa

thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước ngoài

mà người đó là công dân đồng ý cho nhận quốc tịch”

Đối với lĩnh vực nuôi con nuôi: Luật Nuôi con nuôi 2010, Nghị định

19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 về quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật nuôi con nuôi; Thông tư 12/2011/TT-BTP ngày 27/06/2011 về việc ban

hành và hướng dẫn việc ghi chép lưu trữ, sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi;

Thông tư 24/2014/TT-BTP ngày 29/12/2014 về sửa đổi, bổ sung một số điều

của thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp về việc ban

hành và hướng dẫn việc ghi chép lưu trữ và sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi

và Nghị định 24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019 về sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi và

các văn bản hướng dẫn thi hành quy định nguyên tắc, điều kiện nuôi con nuôi,

thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ

của cha mẹ nuôi, con nuôi và cha mẹ đẻ; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức

trong việc nuôi con nuôi và tại chương III của Luật từ điều 28 đến điều 43 có

16

quy định về việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

1.3.2. Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và các nguồn khác.

Trong các điều ước đa phương là nguồn của tư pháp quốc tế thì các

điều ước trong khuôn khổ của Hội nghị Lahaye về tư pháp quốc tế có ý nghĩa

rất quan trong. Nội dung của các điều ước quốc tế này điều chỉnh nhiều lĩnh

vực khác nhau của tư pháp quốc tế như:

* Điều ước quốc tế đa phương.

Công ước LaHaye 1993 được thông qua ngày 29/05/1993 về bảo vệ trẻ

em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước có hiệu lực từ ngày 01/5/1995 và

ngày 18/7/2011 Chủ tịch nước ra Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN phê

chuẩn toàn văn Công ước và có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012.

Ngoài ra còn một số điều ước quốc tế khác giám tiếp điều chỉnh về lĩnh

vực hộ tịch như.

Mặt khác một số công ước quốc tế điều chỉnh những nội dung trong

lĩnh vực hộ tịch mà Việt Nam không phải là nước thành viên nhưng cũng có

thể là nguồn dẫn chứng trong việc giải quyết hồ sơ liên quan đến công tác

đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài như Công ước Lahaye 1902 về giải

quyết xung đột phát luật liên quan tới hôn nhân (Convention of relating to the

settlement of the conflict of the laws concerning marriage).Công ước được

thông qua tại Hội nghị La Haye về Tư pháp quốc tế được tổ chức lần thứ ba.

* Các Hiệp định tương trợ tư pháp.

Ngoài các điều ước quốc tế đa phương là nguồn điều chỉnh trong lĩnh

vực hộ tịch có yếu tố nước ngoài thì các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt

Nam ký với các nước cũng là nguồn luật cơ bản để giải quyết các thủ tục đăng

ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài như Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và

hình sự giữa Việt Nam và Lào, ký kết ngày 06/7/1998, có hiệu lực ngày

19/02/2000; Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về vấn đề dân sự và hình

17

sự giữa Việt Nam với Liên Bang Nga được ký kết ngày 25/8/1998, có hiệu

lực ngày 27/08/2012; Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia

đình và hình sự giữa Việt Nam với Bun-ga-ri được ký kết ngày 03/10/1986,

18

có hiệu lực ngày 05/07/1987….

CHƢƠNG 2

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐĂNG KÝ HỘ

TỊCH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

2.1. Đăng ký khai sinh có yếu tố nƣớc ngoài

Đăng ký khai sinh là một loại sự kiện đăng ký hộ tịch, là sự kiện đăng

ký đầu tiên có liên quan đến nhân thân của một người từ khi mới sinh ra nó

xác định những thông tin về bản thân người được đăng ký khai sinh như họ

tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh và thông tin

về cha, mẹ của người được đăng ký khai sinh và là cơ sở pháp lý chứng minh

quyền, nghĩa vụ của cá nhân đó trong các mối quan hệ xã hội (như quan hệ

cha mẹ con; các quyền thừa kế…). Vậy việc đăng ký khai sinh có ý nghĩa

quan trọng đối với mỗi cá nhân.

Theo quy định tại Điều 6 của Nghị Định 123/2015/NĐ-CP ngày

15/11/2015 về quy định chi tết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch

thì giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá

nhân có nội dung về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân

tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai

sinh của người đó. Trường hợp nội dung trong hồ sơ, giấy tờ cá nhân khác với

nội dung trong giấy khai sinh của người đó thì Thủ trưởng cơ quan, tổ chức

quản lý hồ sơ hoặc cấp giấy tờ có trách nhiệm điều chỉnh hồ sơ, giấy tờ theo

đúng nội dung trong giấy khai sinh.

Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 35 của

Luật Hộ tịch và Điều 29 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 và

Điều 6 của Thông tư 15/2015/TT-TP ngày 16/11/2015.

Theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 thì thủ tục đăng ký khai sinh

nói chung và khai sinh có yếu tố nước ngoài nói riêng có nhiều điểm mới so

19

với Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 với việc quy định cấp mã

số định danh cho người đăng ký khai sinh. Số định danh cá nhân được cấp

cho mỗi công dân Việt Nam nhằm mã hóa những thông tin cơ bản của công

dân, không lặp lại ở người khác, được quản lý trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về

dân cư. Đối với người dưới 14 tuổi, số định danh cá nhân được ghi vào giấy

khai sinh và đây chính là số thẻ căn cước công dân của người đó khi đủ tuổi

được cấp căn cước công dân.

Thẩm quyền đăng ký khai sinh, Luật mới cho phép Ủy ban nhân dân

nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ đều thực hiện đăng ký khai sinh

được, thay cho quy định như trước đây về việc ưu tiên cho Ủy ban nhân dân

cấp xã nơi cư trú của người mẹ, nếu không xác định được nơi cư trú của

người mẹ thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người cha mới được thực

hiện. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân khi tiến

hành các thủ tục về hộ tịch mà còn thể hiện tính chất công bằng nhất định

trong quá trình cải cách tư pháp.

2.1.1. Thẩm quyền đăng ký khai sinh

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ

thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em trong các trường hợp sau đây:

- Trẻ em được sinh ra tại Việt Nam:

+ Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người nước

ngoài hoặc người không quốc tịch;

+ Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước còn người

kia là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;

+ Có cha và mẹ là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;

+ Có cha và mẹ là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch;

- Trẻ em được sinh ra ở nước ngoài chưa được đăng ký khai sinh về cư

trú tại Việt Nam:

+ Có cha và mẹ là công dân Việt Nam;

20

+ Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam.

2.1.2. Thành phần hồ sơ

+ Tờ khai theo mẫu quy định

+ Giấy chứng sinh. Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn

bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh có thực; nếu không có giấy

chứng sinh thì phải có giấy cam đoan về việc sinh. Đối với hồ sơ khai sinh

cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài về cư trú tại Việt Nam thì Giấy khai sinh

hoặc giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp xác nhận về việc

trẻ em sinh ra ở nước ngoài và quan hệ mẹ- con nếu có.

Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là người nước ngoài thì

phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ về việc chọn quốc tịch cho

con.Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con thì văn bản thỏa

thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước ngoài

mà người đó là công dân.

Lưu ý: Đối với hồ sơ khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài về cư

trú tại Việt Nam thì ngoài giấy tờ quy định ở trên thì cần bổ sung thêm giấy tờ

chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam (như hộ chiếu, giấy tờ có

giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất,

nhập cảnh) và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về việc

trẻ em đang cư trú tại Việt Nam

Nội dung khai sinh được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 14

của Luật Hộ tịch và Khoản 1 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày

15/11/2015. Về việc đặt tên quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự

năm 2015 có quy định “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc

tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà

không phải là chữ”

2.1.3. Thủ tục đăng ký khai sinh

Công dân nộp hồ sơ tại bộ phận “Một Cửa” của UBND cấp quận, huyện.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, cán bộ “ Một Cửa”

21

chuyển vào phòng chuyên môn.

Nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức làm công

tác hộ tịch ghi nội dung khai sinh và công chức làm công tác hộ tịch, người đi

đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp giấy khai sinh cho người được đăng ký

khai sinh.

Lƣu ý: Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới đăng ký khai sinh cho

trẻ sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại

địa bàn xã đó còn mẹ hoặc cha là công dân nước láng giềng thường trú tại đơn

vị hành chính tương đương cấp xã của Việt Nam tiếp giáp với xã ở khu vực

biên giới của Việt Nam nơi công dân Việt Nam thường trú (Điều 17 của Nghị

định 123/215/NĐ-CP)

2.2. Đăng ký khai tử có yếu tố nƣớc ngoài

Khai tử là việc khai báo cho người chết. Giấy khai tử là một loại giấy

tờ hộ tịch của cá nhân được cơ quan nhà nước, có thẩm quyền cấp cho gia

đình, thân nhân, người đại diện hoặc cá nhân, tổ chức có liên quan để xác

nhận tình trạng một người đã chết, xác định về thời gian chết, địa điểm chết

và nguyên nhân cái chết. Giấy chứng tử về mặt pháp lý là căn cứ rõ ràng nhất

xác định thời điểm chết của người được khai tử - căn cứ để xác định thời điểm

mở thừa kế, diện thừa kế, di sản thừa kế.

Đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 51 và

Điều 52 của Luật Hộ tịch năm 2014. Riêng đăng ký khai tử cho người nước

ngoài cư trú tại khu vực biên giới được quy định tại Điều 20 của Nghị Định

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015.

2.2.1. Thẩm quyền đăng ký khai tử

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú cuối cùng của người chết thực

hiện việc đăng ký khai tử cho người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam định

22

cư ở nước ngoài chết tại Việt Nam. Trường hợp không xác định được nơi cư

trú cuối cùng của người chết theo thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi người

đó chết hoặc nơi phát hiện thi thể người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.

Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký khai tử

cho người chết là người nước ngoài cư trú tại xã đó (Điều 20, Nghị định

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015)

2.2.2. Thành phần hồ sơ

+ Tờ khai theo mẫu quy định

+ Giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay giấy báo tử cho cơ quan đăng ký

hộ tịch.

+ Giấy chứng nhận thường trù hoặc tạm trú tại Việt Nam của người

đã chết

+ Hộ chiếu, chinh minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế của

người đi khai tử.

2.2.3. Thủ tục đăng ký khai tử

Công dân nộp hồ sơ tại bộ phận “Một Cửa” của UBND cấp quận,

huyện.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy địnhcán bộ “ Một Cửa” chuyển

vào phòng Tư pháp. Nếu thấy việc khai tử đúng thì công chức làm công tác

hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi khai tử ký vào Sổ hộ tịch. Phòng

Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục hộ tịch

cho người đi khai tử. Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không

quá 03 ngày làm việc.

Sau khi đăng ký khai tử, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo

bằng văn bản kèm theo trích lục hộ tịch cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho

cơ quan có thẩm quyền của nước mà người chết là công dân.

Trường hợp người chết là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thì

công chức làm công tác hộ tịch khóa thông tin của người chết trong Cơ sở dữ

23

liệu hộ tịch điện tử.

2.2.4. Thẩm quyền cấp giấy báo tử

Giấy báo tử được cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

a) Đối với người chết tại cơ sở y tế thì Thủ trưởng cơ sở y tế cấp Giấy

báo tử.

b) Đối với người chết do thi hành án tử hình thì Chủ tịch Hội đồng thi

hành án tử hình cấp giấy xác nhận việc thi hành án tử hình thay Giấy báo tử.

c) Đối với người bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì Bản án, quyết định

có hiệu lực của Tòa án thay Giấy báo tử.

d) Đối với người chết trên phương tiện giao thông, chết do tai nạn, bị giết,

chết đột ngột hoặc chết có nghi vấn thì văn bản xác nhận của cơ quan công an

hoặc kết quả giám định của Cơ quan giám định pháp y thay Giấy báo tử.

đ) Đối với người chết không thuộc một trong các trường hợp quy định

tại các Điểm a, b, c và d của Khoản này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người

đó chết có trách nhiệm cấp Giấy báo tử.

Lƣu ý: Đối với trường hợp một người đã bị tòa án tuyên đã chết, khi

quay trở về được thực hiện theo pháp luật Dân sự: Khi một người bị tuyên bố

là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu

cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết

định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Quan hệ nhân thân của

người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ

quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau đây:

+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Toà án cho

ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 78 của Bộ luật này thì quyết định cho

ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;

+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người

24

khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.

+ Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những

người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.

Trong trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết

người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó

phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại

thì phải bồi thường.

2.3. Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài

Đăng ký kết hôn là thủ tục pháp lý, là cơ sở để luật pháp bảo vệ quyền

lợi và sự ràng buộc về nghĩa vụ của mỗi người. Giấy đăng ký kết hôn là một

loại giấy tờ hộ tịch nhân thân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận

một người nằm trong trình trạng hôn nhân. Sau khi đăng ký kết hôn, sẽ phát

sinh quyền lợi và nghĩa vụ đối với người chồng và người vợ. Nếu như nam nữ

sống chung mà không đăng ký kết hôn thì sẽ gặp rắc rối trong việc xác định

tài sản chung và tài sản riêng, cũng như rất khó khăn để chứng minh quyền lợi

của mình.

Việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 37,

38 Luật Hộ tịch năm 2014; Nghị Định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 về

quy định chi tết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư

15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của

Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.

Luật Hộ tịch đã thay đổi thẩm quyền giải quyết việc kết hôn này thuộc

về Ủy ban Nhân dân cấp Quận/ Huyện thực hiện thay cho Sở Tư pháp như

trước đây và một trong những thay đổi mới của thủ tục đăng ký kết hôn là

giúp cho việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trở nên đơn giản hơn là: Bỏ thủ

tục phỏng vấn khi kết hôn với người nước ngoài. Điều này giúp các đối tượng

muốn đăng ký kết hôn giảm bớt áp lực so với trước đây để có thể đạt được

25

mong muốn.

2.3.1. Thẩm quyền đăng ký kết hôn

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực

hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa

công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở

nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa

công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam

hoặc với người nước ngoài.

Trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký

kết hôn tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong

hai bên thực hiện đăng ký kết hôn.

Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký kết hôn giữa

công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với công dân của nước láng

giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương cấp xã của Việt Nam tiếp

giáp với xã ở khu vực biên giới của Việt Nam nơi công dân Việt Nam thường

trú. (Điều 18, Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015)

2.3.2. Thành phần hồ sơ

+ Tờ khai theo mẫu quy định.

+ Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (đối với công dân Việt Nam).

Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài là giấy do cơ

quan có thẩm quyền nước ngoài cấp còn giá trị sử dụng xác nhận hiện tại

người đó không có vợ hoặc không có chồng; trường hợp nước ngoài không

cấp xác nhận tình trạng hôn nhân thì thay bằng giấy tờ do cơ quan có thẩm

quyền nước ngoài xác nhận người đó có đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật

nước đó. Nếu giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài

không ghi thời hạn sử dụng thì giấy tờ này và giấy xác nhận của tổ chức y tế

theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 của Luật Hộ tịchchỉ có giá trị 6 tháng, kể

26

từ ngày cấp.

+ Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc

nước ngoài xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà

không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan

đăng ký hộ tịch.

Người nước ngoài, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài phải nộp

thêm bảm sao hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu.Trường hợp

người nước ngoài không có hộ chiếu để xuất trình theo quy định tại thì có thể

xuất trình giấy tờ đi lại quốc tế hoặc thẻ cư trú.

Ngoài giấy tờ quy định trên, nếu bên kết hôn là công dân Việt Nam đã

ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì còn

phải nộp bản sao trích lục hộ tịch về việc đã ghi vào sổ việc ly hôn hoặc hủy

việc kết hôn theo quy định; nếu là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ

trong lực lượng vũ trang thì phải nộp văn bản của cơ quan, đơn vị quản lý xác

nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không trái với quy định của

ngành đó.

2.3.3. Thủ tục đăng ký kết hôn

Công dân nộp hồ sơ tại bộ phận “Một Cửa” của UBND cấp quận,

huyện.

Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Phòng Tư pháp tiến hành nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ và xác minh nếu thấy

cần thiết. Trưởng phòng Phòng Tư pháp chịu trách nhiệm về kết quả thẩm tra

và đề xuất của Phòng Tư pháp trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn.

Nếu hồ sơ hợp lệ, các bên có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của

Luật Hôn nhân và gia đình thì Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp huyện ký 02 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.

2.3.4. Tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn. Phòng Tư pháp tổ chức trao Giấy

27

chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.

Việc trao, nhận Giấy chứng nhận kết hôn được thực hiện theo quy định

tại Khoản 3 Điều 38 của Luật Hộ tịch.

Trường hợp một hoặc hai bên nam, nữ không thể có mặt để nhận Giấy

chứng nhận kết hôn thì theo đề nghị bằng văn bản của họ. Phòng Tư pháp gia

hạn thời gian trao Giấy chứng nhận kết hôn nhưng không quá 60 ngày, kể từ

ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn. Hết

60 ngày mà hai bên nam, nữ không đến nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì

phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hủy Giấy chứng

nhận kết hôn đã ký.Nếu sau đó hai bên nam, nữ vẫn muốn kết hôn với nhau

thì phải tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn từ đầu.

2.3.5. Từ chối đăng ký kết hôn

Việc đăng ký kết hôn bị từ chối nếu một hoặc cả hai bên vi phạm điều

cấm hoặc không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia

đình Việt Nam năm 2014.

Điều cấm trong đăng ký kết hôn: Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; Tảo

hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; Người đang có vợ, có

chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa

có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người

đang có chồng, có vợ;

Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng

máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ

nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha

chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế

với con riêng của chồng.

Điều kiện đăng ký kết hôn: quy định tại điều 8 của Luật Hôn nhân và

gia đình năm 2014 như sau: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở

28

lên; Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;Không bị mất năng lực

hành vi dân sự; Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết

hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân

và gia đình năm 2014.

Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp huyện từ chối đăng ký kết hôn,

phòng Tư pháp thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho hai bên nam, nữ.

Lƣu ý: Điều kiện kết hôn căn cứ vào quy định tại điều 8 của Luật hôn

nhân gia đình trong đó về độ tuổi kết hôn: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ

18 tuổi trở lên, Ví dụ:Theo quy định Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Nguyễn Văn A sinh ngày 01/7/1995 thì đến tháng 01/7/2015 Nguyễn Văn A

mới đủ tuổi đăng ký kết hôn, tức nguyễn Văn A phải đủ tròn 20 tuổi mới đăng

ký kết hôn. Trước đó theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì

đến ngày 02/7/2014 Nguyễn Văn A đã đủ điều kiện để đăng ký kết hôn. Vậy

theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đổ tuổi kết hôn sẽ được

cộng thêm 1 tuổi so với quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

Trong trường hợp đăng ký kết hôn có người đang trong thời hạn công

tác/ học tập/ lao động ở nước ngoài về nước làm thủ tục đăng ký kết hôn thì

phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại

về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với trường hợp hôn nhân thực tế: Đối với trường hợp nam, nữ

chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà

chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết

hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ

chung sống với nhau như vợ chồng.

2.4. Đăng ký giám hộ có yếu tố nƣớc ngoài

Quy định về Giám hộ là một trong những chế định đặc biệt trong pháp

luật dân sự. Giám hộ là người giám hộ thực hiện việc chăm sóc,bảo vệ quyền,

29

lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự

năm 2015 có quy định thì giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy

định, được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cử, được Tòa án chỉ định (sau

đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân

sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là

người được giám hộ).

Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 đã có một số nội

dung đổi mới so với Bộ luật Dân sự 2005 về chế định giám hộ như sau:Tại Bộ

luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 đều quy định việc giám hộ phải

được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp

luật về hộ tịch. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy

định cụ thể với trường hợp người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký

việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ

Về đối tượng được giám hộ: Ngoài đối tượng là người chưa thành niên

không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng

lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế

quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người

chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu và người mất năng lực hành vi

dân sự như quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung

thêm đối tượng là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trên

thực tế có thể nói, đây là một sự bổ sung có ý nghĩa quan trọng. Những người

có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trên thực tế khi tham gia thực

hiện những quyền và nghĩa vụ, những giao dịch dân sự là khó khăn do nhận

thức, hành vi, vì vậy đòi hỏi cần phải có người giám hộ. Bộ luật Dân sự năm

2015 quy định cụ thể về điều kiện đối với người giám hộ đó là “phải không là

người bị tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con”. Quy định cụ thể về điều

30

kiện của pháp nhân làm người giám hộ tại Điều 50 như có năng lực pháp luật

dân sự phù hợp với việc giám hộ, có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền,

nghĩa vụ của người giám hộ. Ngoài ra Luật Dân sự năm 2015 còn quy định cụ

thể về quyền, nghĩa vụ của người giám sát việt giám hộ.

2.4.1. Thẩm quyền đăng ký giám hộ, chấm dứt giám hộ

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người được giám hộ hoặc

người giám hộ thực hiện đăng ký giám hộ giữa công dân Việt Nam và người

nước ngoài cùng cư trú tại Việt Nam.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký giám hộ thực hiện đăng

ký chấm dứt giám hộ.

2.4.2. Thủ tục đăng ký giám hộ cử

Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai theo mẫu quy định và văn

bản cử người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký

hộ tịch.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định, công chức làm công tác hộ tịch xác minh, nếu thấy đủ điều kiện theo

quy định pháp luật thì ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi đăng ký giám hộ

ký vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

2.4.3. Thủ tục đăng ký giám hộ đương nhiên

Người yêu cầu đăng ký giám hộ nộp tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu

quy định và giấy tờ chứng minh điều kiện giám hộ đương nhiên theo quy định

của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp có nhiều người

cùng đủ điều kiện làm giám hộ đương nhiên thì nộp thêm văn bản thỏa thuận

về việc cử một người làm giám hộ đương nhiên.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định, nếu thấy đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì công chức làm công tác

Hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch,

31

báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

2.4.4. Thủ tục đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ

Thủ tục đăng ký chấm dứt, thay đổi giám hộ giữa công dân Việt Nam

và người nước ngoài được áp dụng theo quy định tại Điều 22 và Điều 23 của

Luật Hộ tịch năm 2014.

Người yêu cầu đăng ký chấm dứt giám hộ nộp tờ khai đăng ký chấm

dứt giám hộ theo mẫu quy định và giấy tờ làm căn cứ chấm dứt giám hộ theo

quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc chấm dứt giám hộ đủ điều kiện theo

quy định của Bộ luật Dân sự,công chức làm công tác hộ tịch ghi việc chấm

dứt giám hộ vào Sổ hộ tịch, cùng người đi đăng ký chấm dứt giám hộ ký vào

Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho

người yêu cầu.

Trường hợp yêu cầu thay đổi người giám hộ theo quy định của Bộ luật

Dân sự và có người khác đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ

tục đăng ký chấm dứt giám hộ trước đó và đăng ký giám hộ mới.

Việc chấm dứt giám hộ chấm dứt được quy định tại Điều 62 của Bộ

Luật Dân sự năm 2015.

2.5. Đăng ký nhận cha, mẹ, con có yếu tố nƣớc ngoài

Xác định cha mẹ con là quyền nhân thân được quy định tại Bộ luật Dân

sự năm 2015, là cơ sở thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên

trong gia đình. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền

đăng ký hộ tịch, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, Nghị định số

123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cho phép kết hợp

thủ tục nhận cha, mẹ, con và đăng ký khai sinh” Khi đăng ký khai sinh cho trẻ

em mà có người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con thì cơ quan đăng ký hộ tịch

32

kết hợp giải quyết thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục nhận cha mẹ con”.

2.5.1. Thẩm quyền đăng ký nhận cha, mẹ, con

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người được nhận là cha, mẹ,

con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người

nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt

Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với

công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với

nhau mà một hoặc cả hai bên thường trú tại Việt Nam.

Ủy ban nhân xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký việc nhận cha,

mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với công dân của

nước láng giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương cấp xã của

Việt Nam, tiếp giáp với xã ở khu vực biên giới của Việt Nam nơi công dân

Việt Nam thường trú (Điều 19 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày

15/11/2015).

2.5.2. Thành phần hồ sơ

Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy

định Giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha con

hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp đăng ký nhận cha, mẹ,

con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước

ngoài với nhau thì người nước ngoài phải nộp thêm bản sao hộ chiếu hoặc

giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để chứng minh về nhân thân.

Theo quy định tại Điều 11 của Thông tư 15/2015/TT-BTP ngày

16/11/2015 có quy định chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con gồm

một trong các giấy tờ, tài liệu như văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám

định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác

nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con. Trường hợp không có văn bản của cơ

33

quan y tế, cơ quan giám định hoặc văn bản khác thì phải có thư từ, phim ảnh,

băng, đĩa, đồ dung, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ

con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai

người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.

2.5.3. Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con

Công dân nộp hồ sơ tại bộ phận “Một Cửa” của UBND cấp quận,

huyện.Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, công

chức làm công tác hộ tịch xác minh, niêm yết việc nhận cha, mẹ, con tại trụ

sở Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thời gian 07 ngày liên tục, đồng thời gửi

văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được nhận

là cha, mẹ, con niêm yết trong thời gian 07 ngày liên tục tại trụ sở Ủy ban

nhân dân cấp xã.

Phòng Tư pháp báo cáo và đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

huyện quyết định việc đăng ký nhận cha, mẹ, con, nếu thấy đủ điều kiện.

Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt; công chức làm

công tác hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng các bên ký vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch

Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho các bên.

Lƣu ý: Đăng ký nhận cha, mẹ con trong một số trường hợp đặc biệt

Trường hợp cha, mẹ của trẻ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng

không đăng ký kết hôn, người mẹ bỏ đi không liên hệ được, người con sống

cùng với người cha thì người cha làm thủ tục nhận con không cần có ý kiến

của người mẹ trong tờ khai đăng ký nhận cha, mẹ, con. Phần khai về người

mẹ được ghi theo giấy chứng sinh và giấy tờ tùy thân của người mẹ, trường

hợp không có giấy chứng sinh, giấy tờ tùy thân của người mẹ thì bỏ trống,

không ghi.

Trường hợp sau khi đăng ký kêt hôn, cha, mẹ thừa nhận con do người

mẹ sinh ra trước thời điểm cha, mẹ đăng ký kết hôn là con chung thì không

34

phải làm thủ tục đăng ký nhận con, người có yêu cầu làm thủ tục bổ sung hộ

tịch để ghi thông tin về người cha trong giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh

của người con; trong hồ sơ bổ sung hộ tịch phải nộp văn bản của cha mẹ thừa

nhận con chung.

Việc xác định cha, mẹ, tại điều 88 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2014 có quy định như sau: Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người

có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng; Con được sinh ra

trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con

của người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân; Con sinh ra trước ngày đăng ký

kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

Điều kiện để đăng ký việc nhận cha mẹ con: việc nhận cha, mẹ con

không có tranh chấp (Lưu ý: Tranh chấp ở đây xác định chỉ trong phạm vi

mỗi quan hệ giữa người nhận với người được nhận là cha, mẹ con)

Ví dụ: Vợ chồng ông Son Bong Hong và bà Phí Thị Thanh kết hôn đã

nhiều năm nhưng chưa có con. Ông Son Bong Hong có quan hệ với cô Thái,

Tháng 1 năm 2016, cô Thái sinh con với ông Song Bong Hong. Khi con đầy

tháng, cả cô Thái và ông Song Bong Hong cùng đến Uỷ ban nhân dân huyện

K, nơi cô Thái cư trú để làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con. Hai người

trình bày nguyện vọng được đăng ký khai sinh cho cháu bé và làm thủ tục cha

nhận con. Biết chuyện này bà Thanh đến Uỷ ban nhân dân huyện K để khiếu

nại. Gặp cán bộ tư pháp huyện K, bà Thanh xuất trình Giấy chứng nhận kết

hôn giữa bà và ông Song Bong Hong và yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện

Kphải giải quyết một trong hai đề nghị của bà như sau:

Thứ nhất, nếu Uỷ ban nhân dân huyện K muốn giải quyết việc ghi tên

ông Song Bong Hong vào phần khai về người cha trong Giấy khai sinh của

cháu bé thì phải ghi tên bà vào phần khai về người mẹ, vì bà và ông Song

35

Bong Hong là vợ chồng hợp pháp.

Thứ hai, nếu Uỷ ban nhân dân huyện K không chấp nhận giải quyết

như trên thì không được ghi tên ông Song Bong Hong vào giấy khai sinh của

cháu bé, vì ông Song Bong Hong không phải là chồng của cô Thái, mà là

chồng hợp pháp của bà Thanh

Ủy ban nhân dân huyện K căn cứ vào quy định của pháp luật trả lời bà

Thanh như sau:Các chủ thể của quan hệ cha nhận con trong vụ việc này là cô

Thái, ông Song Bong Hong và cháu bé. Trong đó cô Thái - với tư cách người

mẹ - là người đại diện cho con để thực hiện việc xác định cha cho con. Chỉ có

ý kiến của cô Thái và ông Song Bong Hong mới có giá trị pháp lý để cơ quan

có thẩm quyền xem xét, giải quyết việc cha nhận con. Bà Thanh - người vợ

hợp pháp của ông Song Bong Hong không có tư cách chủ thể trong quan hệ

cha nhận con này, cả cô Thái và ông Song Bong Hong đều bày tỏ ý chí tự

nguyện và thống nhất công nhận ông Song Bong Hong là cha của cháu bé và

giữa các bên chủ thể trong quan hệ cha nhận con này không phát sinh tranh

chấp. Bà Thanh không phải là chủ thể có tư cách pháp lý tham gia vào quan

hệ cha nhận con, do đó, khiếu nại của bà Thanh không phải là căn cứ phát

sinh tranh chấp trong quan hệ cha nhận con. Như vậy, căn cứ quy định của

Luật hộ tịch thì việc ôngSong Bong Hongnhận con thoả mãn đầy đủ điều kiện

để có thể yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện thụ lý giải quyết việc đăng ký cha

nhận con theo thủ tục đăng ký hộ tịch.

2.6. Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc có

yếu tố nƣớc ngoài

2.6.1. Khái niệm về đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định

lại dân tộc

Thay đổi hộ tịch: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký

thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy

định của pháp luật Dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung

36

khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật.

Tại Điều 27 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì việc thay đổi hộ tịch

được quy định nhưu sau: Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có

thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp sau đây:Thay đổi họ

cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại; Thay đổi họ

cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc họ của

mẹ nuôi theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi;Khi người con nuôi thôi làm con

nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ

của cha đẻ hoặc mẹ đẻ;Thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ

hoặc của con khi xác định cha, mẹ cho con;Thay đổi họ của người bị lưu lạc

đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình; Thay đổi họ theo họ của vợ, họ

của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù

hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc

lấy lại họ trước khi thay đổi; Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi

họ;Việc thay đổi họ cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của

người đó và Việc thay đổi họ của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ cũ.

Việc thay đổi tên được quy định cụ thể tại Điều 28 của Bộ luật Dân sự

năm 2015 như sau: Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó

gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích

hợp pháp của người đó; Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi

tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này

hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt; Theo yêu cầu

của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; Thay đổi tên

của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình; Thay đổi tên

của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để

phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân

hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi; Thay đổi tên của người đã xác định lại giới

37

tính, người đã chuyển đổi giới tính;

Cải chính hộ tịch: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi

những thông tin hộ tịch của cá nhân trong trường hợp có sai sót khi đăng ký

hộ tịch.

Bố sung hộ tịch: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi

những thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký

Xác định lại dân tộc: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký

xác định lại dân tộc của cá nhân theo quy định của bộ luật dân sự. Tại điều 29

của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc

theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc

khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ

đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân

tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì

dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.Trường

hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con

nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo

thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân

tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.Trường hợp trẻ em bị

bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì

được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ

em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời

điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định

lại dân tộc trong trường hợp sau đây:

+ Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp

cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;

+ Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp

38

con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.

2.6.2. Thẩm quyền đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại

dân tộc

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi

cư trú của người nước ngoài có thẩm quyền giải quyết việc cải chính, bổ sung

hộ tịch đối với người nước ngoài đã đăng ký hộ tịch tại cơ quan có thẩm

quyền của Việt Nam.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi người Việt Nam định cư ở nước ngoài

đã đăng ký hộ tịch trước đây có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải

chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc.

2.6.3. Thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính, xác định lại dân tộc.

Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính, xác định lại dân tộc nộp tờ

khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy

định. Nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ sở, phù hợp với quy

định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức làm công tác

Hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ

tịch ký vào sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp

trích lục cho người yêu cầu.

Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến giấy khai sinh,

giấy chứng nhận kết hôn thì công chức làm công tác Hộ tịch ghi nội dung

thay đổi, cải chính hộ tịch vào giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết

hôn.Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá

03 ngày làm việc.

Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi

đăng ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thông báo bằng

văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký

39

hộ tịch trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch.

Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy ban

nhân dân cấp huyệnphải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ

tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.

Trường hợp yêu cầu xác định lại dân tộc thì phải có giấy tờ làm căn cứ

chứng minh theo quy định của pháp luật.

2.6.4. Thủ tục yêu cầu bổ sung thông tin hộ tịch

Người yêu cầu bổ sung hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy

tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định. Nếu thấy yêu cầu bổ sung

hộ tịch là đúng, thì cán bộ làm công tác hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục

tương ứng trong sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu ký tên vào sổ hộ tịch và báo

cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

Trường hợp bổ sung hộ tịch vào giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn thì

công chức Tư pháp - Hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục tương ứng và

đóng dấu vào nội dung bổ sung.

2.7. Ghi vào sổ việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã đƣợc giải quyết tại

cơ quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài

2.7.1. Thẩm quyền ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam

đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam ghi vào

Sổ hộ tịch việc khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha,

mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cá nhân đã đăng ký kết hôn hoặc ghi

chú việc kết hôn trước đây ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn

của cá nhân đã thực hiện ở nước ngoài.

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người có trách nhiệm khai

tử theo quy định ghi vào Sổ hộ tịch việc khai tử đã được giải quyết tại cơ

40

quan có thẩm quyền của nước ngoài.

2.7.2. Thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha, mẹ,

con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử

Người yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; giám hộ; nhận cha,

mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử nộp tờ

khai theo mẫu quy định và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh các

việc này đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho cơ

quan đăng ký hộ tịch.

Sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, công chức làm công tác hộ tịch

kiểm tra, nếu thấy yêu cầu là phù hợp thì ghi vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp

báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu.

2.7.3. Ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải

quyết ở nước ngoài

2.7.3.1. Điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôncủa công dân Việt Nam đã

được giải quyết ở nước ngoài

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước

ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước

ngoài được ghi vào Sổ hộ tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp ứng đủ

điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn

nhân và Gia đình Việt Nam.

Nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc

kết hôn không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm

theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng vào thời điểm yêu cầu

ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc phục hoặc việc ghi chú

kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì việc

kết hôn cũng được ghi vào Sổ hộ tịch.

2.7.3.2. Trình tự, thủ tục ghi chú kết hôn

Hồ sơ ghi chú kết hôn do một trong hai bên kết hôn nộp tại cơ quan có

thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 của Luật Hộ tịch, gồm các

41

giấy tờ sau đây:

a) Tờ khai theo mẫu quy định;

b) Bản sao Giấy tờ chứng nhận việc kết hôn do cơ quan có thẩm quyền

của nước ngoài cấp;

c) Ngoài giấy tờ quy định trên, nếu gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính

thì còn phải nộp bản sao giấy tờ là hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn

cước công dân hoặc giấy tờ khác dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có

thẩm quyền cấp, có giá trị sử dụng của cả hai bên nam, nữ; nếu là công dân

Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước

ngoài thì phải nộp trích lục về việc đã ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn hoặc hủy

việc kết hôn

Thời hạn giải quyết ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn là 05 ngày làm việc,

kể từ ngày Phòng Tư pháp tiếp nhận hồ sơ.

Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 10 ngày

làm việc

2.7.3.3.Từ chối ghi vào sổ việc kết hôn

Yêu cầu ghi vào sổ việc kết hôn bị từ chối nếu thuộc một trong các

trường hợp sau đây:

Việc kết hôn vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và

gia đình.

Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan đại diện

ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự nước ngoài tại Việt Nam.

Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp huyện từ chối ghi vào sổ hộ tịch việc

kết hôn, phòng Tư pháp thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho người yêu cầu.

2.7.4. Ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn đã được giải quyết ở

nước ngoài

2.7.4.1. Điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn

Bản án, quyết định ly hôn, hủy kết hôn, văn bản thỏa thuận ly hôn đã

42

có hiệu lực pháp luật hoặc giấy tờ khác công nhận việc ly hôn do cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài cấp (sau đây gọi là giấy tờ ly hôn) mà không vi

phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì được ghi vào Sổ hộ tịch.

Công dân Việt Nam đã ly hôn, hủy việc kết hôn ở nước ngoài, sau đó về

nước thường trú hoặc làm thủ tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm

quyền của Việt Nam thì phải ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy kết hôn đã được

giải quyết ở nước ngoài (sau đây gọi là ghi chú ly hôn). Trường hợp đã nhiều lần

ly hôn hoặc hủy việc kết hôn thì chỉ làm thủ tục ghi chú ly hôn gần nhất.

Trên cơ sở thông tin chính thức nhận được, Bộ Tư pháp đăng tải trên

Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp danh sách bản án, quyết định ly hôn,

hủy kết hôn của công dân Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài

giải quyết thuộc trường hợp có đơn yêu cầu thi hành tại Việt Nam hoặc có

đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam.

2.7.4.2. Thẩm quyền ghi chú ly hôn

Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký kết hôn hoặc ghi vào Sổ hộ

tịch việc kết hôn trước đây thực hiện ghi chú ly hôn.

Trường hợp việc kết hôn hoặc ghi chú việc kết hôn trước đây thực hiện

tại Sở Tư pháp thì việc ghi chú ly hôn do Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư

trú của công dân Việt Nam thực hiện.

Trường hợp việc kết hôn trước đây được đăng ký tại Ủy ban nhân

dân cấp xã thì việc ghi chú ly hôn do Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trên

thực hiện.

Trường hợp công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam thì việc

ghi chú ly hôn do Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú trước khi xuất cảnh

của công dân Việt Nam thực hiện.

Công dân Việt Nam từ nước ngoài về thường trú tại Việt Nam có yêu

cầu ghi chú ly hôn mà việc kết hôn trước đây được đăng ký tại cơ quan đại

diện hoặc tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì việc ghi chú ly hôn do Ủy

43

ban nhân dân cấp huyện nơi công dân Việt Nam thường trú thực hiện.

Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có yêu cầu ghi chú ly hôn để

kết hôn mới mà việc kết hôn trước đây được đăng ký tại cơ quan đại diện

hoặc tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì việc ghi chú ly hôn do Ủy ban

nhân dân cấp huyện nơi tiếp nhận hồ sơ kết hôn mới thực hiện.

2.7.4.3. Thủ tục ghi chú ly hôn

Hồ sơ ghi chú ly hôn gồm các giấy tờ sau đây:

+ Tờ khai theo mẫu quy định.

+ Bản sao giấy tờ ly hôn đã có hiệu lực pháp luật.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo

quy định, công chức làm công tác hộ tịch của phòng Tư pháp kiểm tra hồ sơ.

Nếu việc ghi chú ly hôn không vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 37 hoặc

không thuộc trường hợp được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư

pháp theo quy định tại Khoản 3 Điều 37 của Nghị định này thì Trưởng phòng

Tư pháp ghi vào sổ và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký cấp

bản chính trích lục hộ tịch cho người yêu cầu.

Trường hợp cần xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 10 ngày

làm việc.

Nếu yêu cầu ghi chú ly hôn vi phạm Luật hôn nhân và Gia định hoặc

thuộc trường hợp được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp

của Nghị định này về việc không công nhận tại Việt Nam thì Trưởng phòng

Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện để từ chối.

Nếu việc kết hôn trước đây được đăng ký tại Ủy ban nhân dân Cấp xã

hoặc Sở Tư pháp thì sau khi ghi chú ly hôn, phòng Tư pháp gửi thông báo

kèm theo bản sao trích lục hộ tịch cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Sở Tư

pháp để ghi chú tiếp vào Sổ hộ tịch; nếu được đăng ký tại cơ quan đại diện

thì gửi Bộ Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện ghi chú tiếp vào Sổ

44

hộ tịch.

2.8. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài

Luật Nuôi con nuôi đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp

thứ VII, ngày 17 tháng 6 năm 2010. Luật gồm 5 chương, 52 điều quy định chi

tiết về nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trách

nhiệm của các cơ quan nhà nước về nuôi con nuôi. So với các quy định của

pháp luật hiện hành, thì Luật nuôi con nuôi có những điểm mới cơ bản bảo

đảm thực hiện tốt nhất quyền trẻ em như sau: Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã

xác định rõ nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi. Đó là, khi giải quyết

việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi

trường gia đình gốc và việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện,

bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã xác định điều kiện của người được nhận làm

con nuôi trong nước và nước ngoài là như nhau, đồng thời nâng độ tuổi của

trẻ em được cho làm con nuôi từ 15 tuổi (theo pháp luật hiện hành) đến dưới

16 tuổi (Điều 8). Đặc biệt, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng có thể

được cho làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế, cô, cậu dì, chú bác ruột, điểm

nổi bật của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là đổi mới cách thức giới thiệu trẻ

em làm con nuôi người nước ngoài. Thực tế hiện nay, việc giới thiệu trẻ em

làm con nuôi là do các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em thực hiện, nay Luật Nuôi con

nuôi (Điều 36) quy định việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài

thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp, Luật quy định rõ ràng, minh bạch các điều

kiện cấp phép hoạt động cho các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam….

Có thể nói lần đầu tiên, pháp luật nước ta đã điều chỉnh thống nhất vấn đề

nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một

luật, trong đó có biện pháp bảo đảm tăng cường giải quyết cho trẻ em làm con

45

nuôi trong nước, việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ là biện pháp

thay thế cuối cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thu

xếp được cho trẻ em làm con nuôi trong nước. Đồng thời, Luật Nuôi con nuôi

đã kế thừa và phát triển các quy định về nuôi con nuôi còn phù hợp của Bộ

Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, các văn bản pháp luật khác đã qua

thực tế kiểm nghiệm, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, khả thi của các quy

định pháp luật về nuôi con nuôi trong mối tương quan hài hòa với phong tục,

tập quán tốt đẹp của dân tộc, pháp luật và thông lệ quốc tế.

2.8.1. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở

nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam

nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở

nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:

+ Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;

+ Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;

+ Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;

+ Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo

khác làm con nuôi

+ Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời

gian ít nhất là 01 năm.

Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài

làm con nuôi.

Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam

2.8.2. Điều kiện và hồ sơ đối với người nhận con nuôi

2.8.2.1. Điều kiện của người nhận con nuôi

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở

46

nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện sau

đây: Có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường

trú và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có

điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con nuôi; Có tư cách đạo đức tốt.

Đối với công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải

có đủ các điều kiện theo quy định trên và pháp luật của nước nơi người được

nhận làm con nuôi thường trú.

Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của

chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì

không áp dụng quy định hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện về sức

khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.

Những người sau đây không được nhận con nuôi: Đang bị hạn chế một

số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết

định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Đang chấp hành

hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ

ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ,

ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán,

đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

2.8.2.2. Hồ sơ của người nhận con nuôi.

Hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài

thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy

tờ, tài liệu sau đây:

a) Đơn xin nhận con nuôi;

b) Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;

c) Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam;

47

d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình;

đ) Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe;

e) Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản;

g) Phiếu lý lịch tư pháp

h) Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;

i) Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh đối với

trường hợp nhận con nuôi đích danh

Các giấy tờ, tài liệu quy định tại điểm b, c, d, đ, e, g và h do cơ quan

có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc

xác nhận.

Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02 bộ và nộp cho Bộ Tư

pháp thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước nơi người

nhận con nuôi thường trú; trường hượp nhận con nuôi đích danh quy định của

Luật này thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp.

2.8.3. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài

Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài gồm có:

a) Các giấy tờ, tài liệu như: Giấy khai sinh; Giấy khám sức khỏe do cơ

quan y tế cấp huyện trở lên cấp; Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không

quá 06 tháng; Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã

nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha

đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã

chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của

người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu

làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha

đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân

sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực

hành vi dân sự;Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.

Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới thiệu làm

con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới

48

thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.

b) Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em;

c) Tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong

nước cho trẻ em theo quy định của Luật nhưng không thành.

Hồ sơ được lập thành 03 bộ và nộp cho Sở Tư pháp nơi người được

giới thiệu làm con nuôi thường trú.

2.8.4. Thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

2.8.4.1. Trình tự giới thiệu trẻ em làm con nuôi

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận

con nuôi, Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi trên cơ sở bảo

đảm việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được thực hiện vì

lợi ích của trẻ em, có tính đến lợi ích của người nhận con nuôi trên cơ sở bảo

đảm những yêu cầu cơ bản đặc điểm, sở thích, thói quen đang lưu ý của trẻ

em, khả năng hòa nhập và phát triển của trẻ em, điều kiện kinh tế, môi trường

gia đình, xã hội và nguyện vọng của người nhận con nuôi và báo cáo Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở

Tư pháp trình, nếu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý thì thông báo cho Sở Tư

pháp để làm thủ tục chuyển hồ sơ cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý

thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Trước khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước

ngoài, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ

với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu

việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư

pháp để chấm dứt việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới

thiệu trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc giới thiệu trẻ em làm con

nuôi, nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện được

làm con nuôi nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước

49

nơi người nhận con nuôi thường trú.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có

thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú thông báo về sự

đồng ý của người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ

em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con

nuôi, Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp.

Người nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ,

người giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo

giới thiệu trẻ em làm con nuôi, trừ trường hợp nhận con nuôi đích danh

Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ em được giới thiệu

làm con nuôi mà không có lý do chính đáng thì việc giải quyết hồ sơ xin nhận

con nuôi của người đó chấm dứt

2.8.4.2. Yêu cầu về giới thiệu trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài

Căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương, Sở Tư pháp trình Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh ban hành quy chế phối hợp liên ngành để tham mưu, tư vấn

trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài bảo đảm chặt chẽ,

khách quan, phù hợp với nhu cầu và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Sau khi giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Sở Tư pháp báo cáo Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh cho ý kiến. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý

việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thì trong thời hạn không quá 5 ngày làm

việc kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý, Sở Tư pháp chuyển cho

Cục Con nuôi 01 bộ hồ sơ của trẻ em kèm theo văn bản đồng ý của Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh. Trường hợp không đồng ý với việc giới thiệu của Sở Tư

pháp, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông báo rõ lý do bằng văn bản để Sở Tư

pháp tiến hành giới thiệu lại. Sau 03 tháng kể từ ngày Ủy ban nhân dân tỉnh

không đồng ý mà Sở Tư pháp không giới thiệu được thì Sở Tư pháp phải gửi

trả lại hồ sơ của người nhận con nuôi cho Cục Con nuôi kèm theo văn bản

50

nêu rõ lý do.

Trong khi kiểm tra kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi theo quy định

tại Khoản 2 Điều 28 và khoản 2 Điều 36 của Luật nuôi con nuôi, Cục Con

nuôi có thể lấy ý kiến của chuyên gia tâm lý, y tế, gia đình, xã hội. Nếu trẻ em

có đủ điều kiện để cho làm con nuôi ở nước ngoài, việc giải quyết cho trẻ em

làm con nuôi bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và đáp ứng lợi ích tốt

nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi thông báo bằng văn bản cho người nhận

con nuôi, cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của nước ngoài hữu quan

kèm theo báo cáo đánh giá về trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi ở nước

ngoài và văn bản lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của

trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; trường

hợp trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì phải có văn bản lấy ý kiến của

Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi. Trường hợp trẻ

em không đủ điều kiện để cho làm con nuôi, việc giải quyết cho trẻ em làm

con nuôi không bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và không đáp ứng lợi

ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi thông báo cho Sở Tư pháp.”

2.8.4.3. Quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài và việc tổ chức giao

nhận con nuôi

Sau khi nhận được thông báo của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp trình Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình,

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Ngay sau khi có quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận con nuôi

đến Việt Nam để nhận con nuôi. Người nhận con nuôi phải có mặt ở Việt

Nam để trực tiếp nhận con nuôi trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được

thông báo của Sở Tư pháp; trường hợp vợ chồng xin nhận con nuôi mà một

51

trong hai người vì lý do khách quan không thể có mặt tại lễ giao nhận con

nuôi thì phải có ủy quyền cho người kia; trường hợp có lý do chính đáng thì

thời hạn trên có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Hết thời hạn nêu trên,

nếu người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh hủy quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về

đăng ký hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự

có mặt của đại diện Sở Tư pháp, trẻ em được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi,

đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở

nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em đối với trẻ em được

xin nhận làm con nuôi từ gia đình.

Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc

điểm chỉ của các bên và đại diện Sở Tư pháp.

Sau khi giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi Bộ Tư

pháp quyết định cho trẻ em là con nuôi nước ngoài của Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh, biên bản giao nhận con nuôi, đồng thời gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi

thường trú của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài.

Bộ Tư pháp gửi quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài cho Bộ

Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về

việc trẻ em nhận làm con nuôi để thực hiện biện pháp bảo hộ trẻ em trong

trường hợp cần thiết.

2.9. Giải quyết xung đột pháp luật và áp dụng pháp luật nƣớc ngoài

trong đăng ký hộ tich có yếu tố nƣớc ngoài

2.9.1. Khái niệm về xung đột pháp luật trong đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài

Một một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của

mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vậy

52

nếu các quốc gia chưa ký kết với nhau điều ước quốc tế về nguyên tắc áp

dụng pháp luật thì có thể phát sinh hiện tượng là cùng một quan hệ pháp lý sẽ

có hai hay nhiều hệ thống pháp luật tham gia điều chỉnh, hiện tượng trên được

gọi là xung đột pháp luật.

Ví dụ: Chị Nguyễn Văn A có quốc tịch Việt Nam kết hôn với anh Song

Joong Han có quốc tịch Hàn Quốc. Sự kiện kết hôn trên có thể sẽ có ít nhất

hai hệ thống pháp luật đều có thể được áp dụng điều chỉnh là hệ thống pháp

luật của nước Viêt Nam và hệ thống pháp luật của nước Hàn Quốc.

Theo định nghĩa trong giáo trình Tư pháp Quốc tế của Trường Đại học

Quốc Gia Hà Nội- Khoa Luật [trang 93] có ghi “Xung đột pháp luật là hiện

tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh một

quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể và giữa các hệ thống pháp luật này có sự

khác biệt về các quy định khi giải quyết vấn đề này”. Vậy xung đột trong

đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được hiểu là hiện tượng hai hay nhiều

hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể tham gia điều chỉnh mỗi quan về hộ

tịch có yếu tố nước ngoài và giữa các hệ thống pháp luật các nước có sự khác

biệt về các quy định khi giải quyết vấn đề này. Do vây, vấn đề đặt ra là, cần

phải áp dụng hệ thống pháp luật nước nào để điều chỉnh các quan hệ pháp luật

hộ tịch có yếu tố nước ngoài.

Vậy để giải quyết về vấn đề xung đột pháp luật thường được giải quyết

bằng hai phương pháp chủ yếu: áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất

(phương pháp thực chất) và áp dụng các quy phạm pháp luật xung đột

(phương pháp xung đột). Hai phương pháp cósự kết hợp hài hoà, cũng như sự

tác động hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm bảo đảm một trật tự pháp lý dân sự

quốc tế.

Phương pháp thực chất là phương pháp dùng quy phạm thực chất trực

tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ trong

53

đó có quy pham pháp luật thực chất thống nhất là quy phạm được các bên

thống nhất quy định trong các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, ví dụ như:

Công ước La Haye 1993 được thông qua ngày 29/05/1993 về bảo vệ trẻ em và

hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước có hiệu lực từ ngày 01/5/1995. Quy

phạm thức chất thông thường được quy định trong các văn bản quy phạm

pháp luật quốc gia như (Bộ luật Dân sư năm 2015, Luật Hôn nhân gia đình

năm 2014, Luật Hộ tịch).

Ví dụ: Tại khoản 2 Điều 126 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

có quy định “Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt

Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định

của Luật này về điều kiện kết hôn”.

Phương pháp xung đột được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ

thống các quy phạm xung đột của quốc gia (kể cả các quy phạm xung đột

trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên). Điều này có nghĩa

là cơ quan có thẩm quyển giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay

nước kia có liên đới tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ

giữa các bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật nước

nào được áp dụng để giải quyết phải dựa trên cơ sở quy định của các quy

phạm xung đột.Vậy quy phạm pháp luật xung đột là quy phạm pháp luật

không quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ

mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của nước nào nhằm điều chỉnh quan hệ

pháp luật đó.

Ví dụ: Một cô gái Pháp kết hôn với một nam thanh niên Việt Nam tại

Việt Nam mà không có sự đồng ý chấp thuận của bố mẹ cô ta ở Pháp. Tương

tự như vậy, cô gái Pháp kết hôn với một nam thanh niên Nga tại Nga cũng

không có sự chấp thuận của bố mẹ cô ta ở Pháp. Để giải quyết vấn đề này cần

xem xét luật pháp Việt Nam và luật liên bang Nga về kết hôn của công dân

54

của họ với người nước ngoài. Luật pháp của mỗi nước đều có các quy phạm

xung đột riêng của mình. Ớ Việt Nam để giải quyết điều kiện kết hôn giữa

công dân Việt Nam với công dân nước ngoài thì mỗi bên tuân theo luật nước

mình về điều kiện kết hôn (Tại khoản 1, Điều 126 của Luật hôn nhân và gia

đình 2014 của Việt Nam có quy định “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt

Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình

về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có

thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy

định của Luật này về điều kiện kết hôn”. Như vậy công dân Việt Nam xét

theo luật Việt Nam về điều kiện kết hôn. Còn công dân Pháp xét theo luật

Pháp về điều kiện kết hôn mà theo luật dân sự của Pháp về điều kiện kết hôn

thì quy định một điều kiện là cần có sự đồng ý của cha mẹ. Do thiếu điều kiện

này nên việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với cô gái Pháp không

thể tiến hành được. Còn ở Liên bang Nga việc xét điều kiện kết hôn giữa công

dân Nga với công dân nước ngoài tại Nga được giải quyết theo luật của Liên

bang Nga. Do đó cả công dân Nga và Pháp đều xét theo luật pháp của Nga và

trong luật của Nga thì điều kiện kết hôn lại không cần phải có sự đồng ý của

cha mẹ. Cho nên việc tiến hành kết hôn giữa công dân Nga và Pháp trên lãnh

thổ của Liên bang Nga được đăng ký và tiến hành thuận tiện. Như vậy, cùng

là một quan hệ kết hôn với công dân nước ngoài thì ở Việt Nam giải quyết

khác ở nước Nga do ở hai nước có hai quy phạm xung đột về điều kiện kết

hôn quy định khác nhau. Quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết quan

hệ pháp luật nó chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà

ở đó có các quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các

bên trong quan hệ.

Vậy xung đột pháp luật trong đăng ký hộ tích có yếu tố nước ngoài là

hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia

55

vào điều chỉnh một quan hệ hộ tịch có yếu tố nước ngoài mà nội dung điều

chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật sự khác nhau. Vì vây làm nảy sinh yêu

cầu về chọn luật áp dụng nếu trong trường hợp không có quy phạm thực chất

thống nhất.

2.9.2. Xác định pháp luật áp dụng trong đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Để giải quyết một vụ việc của Tư pháp Quốc tế nói chung và đăng ký

hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói riêng rất phức tạp và khó khăn bởi có yếu tố

nước ngoài dẫn đến sẽ có hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác

nhau cùng tham gia điều chỉnh. Vì vậy Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra

nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng đối với nhóm quan hệ này tại điều 664.

Theo đó đối vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được giải quyết trước cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam, luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ

đó sẽ được xác định theo quy định của điều ước quốc tế mà nước CHXNCN

Việt Nam là thành viên hoặc theo sự lựa chọn của các bên trong trường hợp

các bên được quyền lựa chọn luật áp dụng. Nếu không có quy phạm thực chất

và quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế điều chỉnh, để lựa chọn luật áp

dụng đối với quan hệ dân sự có yếu nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của

Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống quy phạm xung đột trong nước. Trong trường

hợp không xác định được pháp luật áp dung theo quy định của Điều ước quốc

tế, pháp luật quốc gia và sự chọn pháp luật áp dụng của các bên thì theo

Khoản 3, Điều 664 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Pháp luật áp dụng là pháp

luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài đó”.

-Áp dụng pháp luật theo quy định của điều ước quốc tế: Trước hết các

cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các điều ước quốc tế có liên quan mà

Việt Nam là thành viên, để lựa chọn quy phạm thực chất thống nhất. Nếu có

sự khác nhau giữa quy định trong điều ước quốc tế và Bộ luật Dân sự năm

56

2015, Luật Hộ tịch, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì điều ước quốc tế

sẽ được áp dụng. Ví dụ: Điều 24 của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt

Nam – Liên Bang Nga có quy định “Hình thức kết hôn tuân theo pháp luật

của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”. Vậytheo quy trên thì khi công dân Việt

Nam và công dân của Liên Bang Nga đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm

quyền tại Việt Nam thì hình thức kết hôn tuân theo pháp luật Việt Nam.

Trường hợp điều ước quốc tế không có quy phạm thực chất thì quy

phạm xung đột thống nhất sẽ được điều chỉnh “Trường hợp điều ước quốc tế

mà Cộng hòa xã hội chủ ngh a Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có

quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ

dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên” theo

quy định tạiKhoản 2 Điều 664 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Áp dụng pháp luật theo quy định của pháp luật quốc gia: Nếu không

có quy phạm thực chất và quy phạm trong điều ước quốc tế điều chỉnh hoặc

điều ước quốc tế không điều chỉnh mối quan hệ đó thì pháp luật quốc gia sẽ

được áp dụng, Ví dụ: Thủ tục đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài không

có điều ước quốc tế nào điều chỉnh vẫn đề này, vậy khi công dân tiến hành

thủ tục đăng ký khaisinh có yếu tố nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền tại

Việt Nam thì Luật Việt Nam sẽ được áp dụng.

Quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế và trong các văn bản pháp

luật của Việt Nam có thể dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật

nước ngoài.Nếu các quy phạm này dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam theo

quy định tại Khoản 2, Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Trường hợp dẫn

chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền,

ngh a vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng”.Nếu quy phạm

xung đột trong pháp luật quốc gia dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước

ngoài thì quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự sẽ

57

được áp dụng theo pháp luật nước ngoài và còn dẫn chiếu đến pháp luật của

nước thứ ba quy định tại Khoản 3, Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015

“Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp

luật nước thứ ba về quyền, ngh a vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự

được áp dụng”.

- Áp dụng luật của nước có mỗi liên hệ gắn bó nhất: theo Khoản 3,

Điều 664 của Bộ luật Dân sự năm 2015 “Trường hợp không xác định được

pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp

luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ

dân sự có yếu tố nước ngoài đó”. Vậy để xác định thế nào là luật của nước có

“mối liên hệ gắn bó nhất” thật sự rất khó khăn bởi Bộ luật không đưa lời giải

thích, tại nhiều nước trên thế giới nguyên tắc trên cũng được ghi nhận trong

Luật của các nước như Nhật Bản, Trung Quốc.Tuy nhiên, các nước cũng

không giải thích thế nào pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất. Theo

Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về những nội dung cơ bản của phần thứ năm

“Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” có đưa ra sự

luận giải về bản chất, các hệ thuộc luật được dẫn chiếu đến trong các quy

phạm xung đột là hệ thuộc luật có quan hệ gắn bó nhất đối với quan hệ dân sự

có yếu tố nước ngoài đó và thường đã được chỉ rõ (ví dụ: theo hệ thuộc quốc

tịch, nơi thường trú… tùy theo từng quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ

thể). Tuy nhiên, do quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài rất đa dạng nên trong

nhiều trường hợp pháp luật chưa quy định hết được các hệ thuộc luật áp dụng.

Cách quy định này sẽ đảm bảo độ mềm dẻo cần thiết để cơ quan xét xử có thể

xử lý linh hoạt các vụ việc phát sinh trên thực tế, tránh tình trạng áp dụng trực

tiếp pháp luật Việt Nam mà không có căn cứ như hiện nay, đồng thời cũng thể

hiện sự hội nhập của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài. Đây cũng là cách tiếp cận được nhiều nước sử dụng khi xây dựng các

quy phạm xung đột của nước mình và cũng được sử dụng trong một số điều

58

ước quốc tế có quy định về xung đột pháp luật.

2.9.3. Giải quyết xung đột pháp luật trong một số quan hệ hộ tịch có yếu tố

nước ngoài

2.9.3.1. Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài

Trong thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp luật của các

nước có quy định rất khác nhau về khái niêm, nguyên tắc, điều kiện kết hôn

và nghi thức kết hôn.

Trong đó về điều kiện kết hôn pháp luật các nước có quy định về vấn

đề này như sau: Theo quy định của Bộ luật Dân sự pháp nam là 18, nữ là 15;

Nhật Bản, tuổi kết hôn đối với Nam là 18, nữ là 16. Trong khi đó theo pháp

luật Việt Nam thì nữ từ đủ 18 tuổi, nam từ đủ 20 tuổi. Để giải quyết xung đột

pháp luật về điều kiện kết hôn đa số pháp luật các nước áp dụng hệ thuộc luật

nhân thân của chủ thể song có nước áp dụng luật quốc tịch, có nước áp dụng

nguyên tắc luật nơi cứ trú của đương sự để giải quyết xung đột pháp luật về

điều kiện kết hôn. Cụ thể: Pháp: Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước mà

đương sự mang quốc tịch quyết định. Tuy nhiên, khi tiến hành kết hôn ở Pháp

ngoài việc tuân thủ luật quốc tịch nước mà họ mang quốc tịch, người

nước ngoài còn phải tuân thủ một số điều kiện do pháp luật Pháp quy định:

tuổi kết hôn, sự đồng ý của cha mẹ, của người giám hộ nếu người kết hôn

chưa đến tuổi thành niên…

Để giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước

ngoài trong đó có các Điều ước quốc tế đa phương cần kể đến là Công ước La

haye 1902 về giải quyết xung đột pháp luật liên quan tới hôn nhân. Để giải

quyết xung đột pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

thì Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật có các quy phạm xác định

điều kiện kết hôn, ghi thức kết hôn và ký kết với các nước các Hiệp đinh

tương trợ tư pháp.

Về điều kiện kết hôn, theo Điều 126 Luật hôn nhân và gia đình 2014

59

“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên

phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn

được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người

nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn”

Nếu người đó có hai hay nhiều quốc tịch quốc tịch nước ngoài thì giấy

tờ xác định điều kiện kết hôn của họ sẽ theo pháp luật của nước mà người đó

mang quốc tịch đồng thời vào thời điểm đăng ký kết hôn nếu người đó không

thường trú tại một trong nước mà người đó có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ

quan có thẩm quyền của nước mà người đó mang hộ chiếu cấp.

Đối với người không quốc tịch muốn kết hôn với công dân Việt Nam

và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì giấy tờ sử

dụng trong giấy kết hôn là giấy là tờ do cơ quan có thẩm quyền nơi người đó

thường trú cấp. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giấy tờ sử

dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của

nước nơi người đó định cư hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại

nước đó cấp.

Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước

cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật

hôn nhân gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn.

Trong các Hiệp định trương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết với nước

ngoài, nguyên tắc cơ bản là áp dụng Luật quốc tịch của các bên đương sự để

điều chỉnh các vấn đề về điều kiện kết hôn.

Về nghi thức kết hôn: Ở Việt Nam công nhận việc kết hôn khi có đăng

ký kết hôn tại các cơ quan có thẩm quyền và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Đó

là nghi thức dân sự được áp dụng và chấp nhận có hiệu lực về việc đăng ký

kết hôn tại Việt Nam. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam

với các nước ngoài ghi nhận nguyên tắc chung là nghi thức kết hôn được xác

60

định theo pháp luật của nước kí kết nơi tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, cũng có

những bổ sung, chẳng hạn, khoản 1 Điều 18 Hiêp định giữa Việt Nam- Séc

quy định: Việc kết hôn giữa công dân hai nước kí kết với nhau nhất thiết phải

theo hình thức nhà nước mới có giá trị; hồ sơ, trình tự, thủ tục thời hạn giải

quyết tại điều 37, 38 Luật hộ tịch và từ điều 30 đến điều 33, Điều 18 (nếu ở

vùng biên giới) Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 về quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

2.9.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố

nước ngoài

Vấn đề nuôi con nuôi pháp luật của các nước có những quy định khác

nhau như độ tuổi được nhận làm con nuôi, thủ tục nhận nuôi con nuôi, quyền

và nghĩa vụ của người nhận nuôi con nuôi…Ví dụ: Độ tuổi người nhận nuôi,

hầu hết các nước đều quy định tuổi tối thiểu khác nhau: Hàn quốc phải là

người thành niên; Trung Quốc từ 30 tuổi trở lên; Thuỵ Điển, Elsalvado, Phần

Lan từ 25 tuổi trở lên; Pháp 30 tuổi. Sự khác nhau đó đã làm phát sinh những

xung đột pháp luật trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài. Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, đa số các nước áp

dụng nguyên tắc Luật nhân thân của người nuôi hoặc của con nuôi như Trung

Quốc điều kiện và hình thức nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của

nước mà người nhận nuôi và con nuôi có nơi thường trú, tại Khoản 1, Điều 57

Luật Tư pháp quốc tế Ba Lan năm 2011 thì vấn đề nuôi con nuôi giải quyết

theo Luật của nước mà người nuôi mang quốc tịch.

Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đang thực

hiện theo quy định trong điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên đó là

công ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các

nước; Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước như Hiệp định

song phương với Cộng hoà Pháp (1/2/2000) được xây dựng trên Công ước

61

Lahaye năm 1993.

Hiện nay, quan hệ nuôi con nuôi được điều chỉnh trọng Luật nuôi con

nuôi 2010 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/012011) và Nghị định số

19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật nuôi con nuôi và một số văn bản hướng dẫn thi hành.Những

quy định về nuôi con nuôi của Việt Nam phù hợp với các quy định của nhiều

nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Pháp luât Việt Nam cũng thừa nhận và áp dụng hệ thuộc Luật nhân

thân như một hệ thuộc cơ bản để giải quyết xung đột pháp luật trong giải

quyết xung đột pháp luật trong các quan hệ về nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài như xung đột về điều kiện nuôi con nuôi, về hệ quả pháp lý của việc

nuôi con nuôi…

+ Đối với điều kiện người xin nhân con nuôi: Pháp luật Việt Nam đã

kết hợp giữa nguyên tắc Luật nơi thường trú và Luật Việt Nam để điều chỉnh

điều kiện của người nhận nuôi tại Điều 29 Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã

quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường

trú ở nước ngoài nhận người ViệtNam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện

theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại

Điều 14 của Luật này”. Tuy nhiên trong một số Hiệp định tương trợ tư pháp

giữa Việt Nam với các nước (Nga, Séc, xlôvakia, Bungari, Cu ba..) áp dụng

hệ thuộc Luật quốc tịch của người xin nhận con nuôi để xác đinh điều kiện

nuôi con nuôi đối với người đó. Nhưng trong pháp luật Việt Nam, hệ thuộc

nhân thân của người xin con nuôi vẫn là hệ thuộc cơ bản thống nhất áp dụng

để xác định điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đối với người xin

nhận con nuôi.

+ Điều kiện đối với trẻ em được cho làm con nuôi: Tại Điều 4 của công

ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước

62

có quy định điều kiện để trẻ em được cho làm con nuôi do cơ quan có thẩm

quyền của nước gốc quy định, xác nhận và hầu hết các hiệp định hợp tác về

nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước đều thống nhất áp dụng pháp luật

của nước gốc (nước mà trẻ em có quốc tịch và thường trú) để xác định điều

kiện trẻ em được cho làm con nuôi.

+ Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi: Hầu hết đa số các nước đều

áp dụng hệ thuộc “nơi thực hiện việc nuôi con nuôi” (nơi xảy ra hành vi pháp

lý), trong các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước

cũng áp dụng hệ thuộc này để xác định pháp luật áp dụng đối với hệ quả pháp

lý của việc nuôi con nuôi. Theo Điểm c, Khoản 1, Điều 26 công ước La Haye

1993 có quy định nếu việc nuôi con nuôi làm chấm dứt quan hệ pháp lí giữa

cha mẹ đẻ với trẻ em, nếu việc nuôi con nuôi đó có hệ quả như vậy tại nước kí

kết nơi thực hiện việc nuôi con nuôi (nước nhận). Như vậy, Công ước Lahaye

1993 cũng không bắt buộc việc nuôi con nuôi làm chấm dứt quan hệ pháp lí

giữa cha mẹ đẻ với trẻ em. Việc nuôi con nuôi chỉ làm chấm dứt quan hệ đó

nếu việc nuôi con nuôi đó có hệ quả như vậy tại nước kí kết nơi thực hiện

việc nuôi con nuôi (nước nhận). Tại Luật nuôi con nuôi 2010 không có quy

định về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mà chỉ

quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi trong nước tại Điều 24 Luật

nuôi con nuôi theo đó cha mẹ đẻ không có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi

dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí, định

đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi (trừ trường hợp giữa cha

mẹ đẻ và cha me nuôi có quy định khác, tức là trẻ em Việt Nam không có

quan hệ pháp lí với cha mẹ đẻ).

Xung đột pháp luật trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

thường được các nước giải quyết bằng phương pháp xung đột pháp luật, nó là

63

giải pháp hữu hiệu được các quốc gia thừa nhận.

CHƢƠNG 3

TRẠNG THỰC THI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VIÊT NAM VỀ VIỆCĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

3.1.Thực trạng đăng ký hộ tịch có yếu tố tịch nƣớc ngoài tại Việt Nam

3.1.1. Những thành tựu đạt được khi thực hiện quy định mới về đăng ký hộ tịch

Luật Hộ tịch năm 2014 được Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 8) thông

qua ngày 20/11/2014. Đây là lần đầu tiên có văn bản Luật quy định riêng về

lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau nhiều năm thực hiện các văn bản dưới

luật. Luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá, “cách mạng” về thẩm

quyền đăng ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách mạnh

thủ tục hành chính. Để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Bộ Tư pháp đã

ban hành Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Nhằm bảo đảm hệ thống văn

bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch được

đồng bộ, thống nhất.

Luật có nhiều quy định nhằm hạn chế sai sót, vi phạm có thể xảy ra

trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch như: quy định mỗi sự kiện hộ tịch

chỉ được đăng ký tại một cơ quan hộ tịch, bỏ thẩm quyền đăng ký hộ tịch của

UBND cấp tỉnh để tập trung cho công tác quản lý Nhà nước ở địa phương, bổ

sung quy định cấm can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký hộ tịch, quy

định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch; bổ sung

những hành vi bị nghiêm cấm và xử lý vi phạm trong đăng ký và quản lý hộ

tịch, đặc biệt là nghiêm cấm người có thẩm quyền quyết định đăng ký hộ tịch

64

thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho bản thân hoặc người thân thích; quy định

Giấy tờ hộ tịch được cấp cho trường hợp đăng ký hộ tịch vi phạm quy định

của Luật không có giá trị và phải thu hồi, huỷ bỏ ...

Qua gần 04 năm triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản quy

định chi tiết thi hành, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt được những

kết quả quan trọng như: Quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để

lưu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (song song với cơ sở dữ liệu giấy), đồng

thời kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư từ đó thông tin hộ tịch của

người dân sẽ được quản lý tập trung, thống nhất; Đây cũng đồng thời là cơ sở

để tra cứu, xác minh thông tin hộ tịch của cá nhân, cấp trích lục về hộ tịch,

đảm bảo quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự của người dân, là căn cứ

xác định trách nhiệm của cán bộ Tư pháp hộ tịch khi có sự việc phát sinh. Do

đó, đây được coi là thông tin đầu vào quan trọng của một số cơ sở dữ liệu

chuyên ngành khác có liên quan (như cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp, quốc

tịch…). Cơ quan soạn thảo luật cũng khẳng định, khi dữ liệu hộ tịch điện tử đi

vào vận hành, nhiều nội dung thông tin hộ tịch còn có thể phục vụ trực tiếp

cho công tác tổng điều tra dân số, đảm bảo tiết kiệm đáng kể về chi phí cho

công tác điều tra.Nó là tiền đề quan trọng trong việc triển khai hệ thống đăng

ký và quản lý hộ tịch trên toàn quốc, đồng thời tiến tới cắt giảm nhiều loại

giấy tờ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân khi tham gia thực hiện các thủ

tục hành chính.

Bên cạnh đó đã triển khai thí điểm phần mềm đăng ký khai sinh

(ĐKKS) điện tử có kết nối với hệ thống cấp số định danh cá nhân cho trẻ em

ngay khi được đăng ký khai sinh.Mã số định danh cấp cho mỗi công dân Việt

Nam từ khi đăng ký khai sinh và gắn với họ đến suốt đời, không trùng lặp ở

người khác.Việc sử dụng công cụ số định danh cá nhân và Cơ sở dữ liệu quốc

gia về dân cư vào quản lý dân cư cũng sẽ là nền tảng để phát triển và sử dụng

65

thẻ công dân điện tử (hoặc phương tiện điện tử), mở rộng các ứng dụng để

tích hợp thông tin của nhiều ngành trên một thẻ (hoặc phương tiện điện tử),

giúp giảm tải được khối lượng hồ sơ, giấy tờ hiện đang lưu trữ tại cơ quan

hành chính nhà nước.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin với phần mềm đăng ký khai sinh

điện tử giúp cho thủ tục đăng ký khai sinh của công dân đơn giản, nhanh

chóng hơn và còn hỗ trợ nhiều tiện ích giúp cán bộ hộ tịch quản lý cơ sở dữ

liệu đăng ký khai sinh tập trung, thống nhất, đồng bộ và có thể xử lý công

việc dễ dàng, thuận tiện; tiêu biểu cho việc ứng dụng công nghệ trong đăng ký

và quản lý hộ tịch phải kể đến thành phố Hà Nội. Hiện naytrên địa bàn Hà

Nội 100% đơn vị cấp xã, cấp huyện đã triển khai áp dụng phần mềm đăng ký

khai sinh có kết nối cấp mã số định danh cá nhân. Việc này không những đảm

bảo thi hành một cách đồng bộ Luật Hộ tịch và Luật Căn cước công dân mà

còn giúp các cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch, đăng ký khai sinh có thể theo

dõi được toàn bộ quá trình thực thi của các cơ quan trực tiếp thực hiện. Ngoài

ra, có thể tra cứu chéo, không để xảy ra trường hợp một công dân được đăng

ký khai sinh tại nhiều nơi. Cùng với đó, từ ngày 01/8/2018, thành phố Hà Nội

đã triển khai thực hiện dịch vụ công mức độ 4 đối với thủ tục cấp trích lục bản

sao hộ tịch tại 17 đơn vị quận, huyện, thành phố Hà Nội đang từng bước số

hóa toàn bộ sổ hộ tịch với dữ liệu của hơn 7,3 triệu người dân. Hiện ba đơn vị

đã số hóa sổ hộ tịch gồm các quận: Hai Bà Trưng, Nam Từ Liêm và Long

Biên, các đơn vị còn lại đang tiến hành rà soát để chuẩn bị sổ hóa. Việc khai

thác, sử dụng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch đã mang lại những hiệu quả

thiết thực, giảm chi phí đi lại của người dân khi thực hiện các thủ tục trong

lĩnh vực Hộ tịch.

Một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Hộ tịch năm 2014

là việc thay đổi về thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Theo đó, thẩm quyền về hộ

66

tịch của Sở Tư pháp trước đây sẽ được chuyển sang cho Ủy ban nhân dân cấp

huyện. Cụ thể, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài gồm khai sinh; kết hôn; khai tử; thay đổi, cải chính hộ tịch,

bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc và ghi sổ hộ tịch các nội dung hộ tịch của

Công dân Việt nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền ở nước

ngoài. Việc chuyển thẩm quyền về hộ tịch cho Ủy ban nhân dân cấp huyện sẽ

giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, đồng thời giảm sức ép về thủ

tục hành chính hộ tịch trên cơ quan cấp tỉnh để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tập

trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương.

Thẩm quyền lãnh thổ về đăng ký hộ tịch cũng có sự thay đổi theo

hướng linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân hơn. Theo đó, cá nhân

có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm

trú hoặc nơi đang sinh sống chứ không nhất thiết phải xét theo thứ tự ưu tiên

nơi đăng ký thường trú như trước đây. Trường hợp cá nhân không đăng ký tại

nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã đã

đăng ký hộ tịch cho cá nhân có trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch

đến Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện mà cá nhân đó thường trú. Hoặc như về

thẩm quyền đăng ký khai sinh, Luật mới cho phép Ủy ban nhân dân nơi cư trú

của người cha hoặc người mẹ đều thực hiện đăng ký khai sinh được thay cho

quy định như trước đây về việc ưu tiên cho Ủy ban nhân dân nơi cư trú của

người mẹ, nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ thì Ủy ban nhân

dân nơi cư trú của người cha mới được thực hiện. Điều này không chỉ tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho người dân khi tiến hành đăng ký thủ tục về hộ tịch mà

còn thể hiện tính chất công bằng nhất định trong quá trình cải cách tư pháp.

Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch và đội ngũ công chức làm

công tác hộ tịch từ Trung ương đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, có kế

hoạch đào tạo bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn luật, công chức làm công tác

hộ tịch được bồi dưỡng, cấp chứng chỉ theo chương trình bồi dưỡng chính

67

thức đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt.

Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch được cải cách mạnh mẽ, đơn giản hóa

và cắt giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho

người dân như: Việc rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính về

hộ tịch cũng được xem là điểm tích cực của Luật hộ tịch mới. Nguyên tắc

quan trọng trong đăng ký hộ tịch được Luật mới ghi nhận là “đối với những

việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn giải quyết thì được giải

quyết ngay trong ngày”, trường hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà không giải

quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo.

Ví dụ: Việc đăng ký kết hôn trước đây theo Nghị định số 24/2013/NĐ-

CP và Thông tư số 22/2013/TT-BTP ngày 31/12/2013 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP. Có quy

định thời gian giải quyết hồ sơ không quá 25 ngày, kể từ ngày Sở Tư pháp

nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí. Trường hợp Sở Tư pháp yêu cầu cơ quan công

an xác minh theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 của Nghị định này thì thời

hạn được kéo dài không quá 10 ngày làm việc. Trong khi đó theo quy định

của Luật Hộ tịch và Điều 31 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP thời gian đăng

ký kết hôn rút ngắn xuống còn “10 ngày làm việc”. Đây là một bước quan

trọng trong công tác cải cách thủ tục hành chính.

Ngoài ra việc quy định giảm thiểu những giấy tờ, tài liệu, thủ tục hành

chính không cần thiết cũng tạo thuận tiện cho công dân trong giải quyết các

thủ tục hành chính Ví dụ: Trong thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

trước đó Nghị định 158/2005/NĐ-CP có quy định về thủ tục phỏng vấn,

nhưng Luật Hộ tịch bỏ thủ tục phỏng vẫn không cần thiết mà thay vào đó là

việc cơ quan đăng ký hộ tịch phải tiến hành thủ tục xác minh, biện pháp

phỏng vấn được coi là rào cản pháp lý để đảm bảo hôn nhân lành mạnh, kiểm

tra các bên có thật sự hiểu nhau không. Tuy nhiên quá trình kiểm khai cho

68

thấy biện pháp này chưa mang lại hiệu quả thiết thực còn mang tính hình thức

và nảy sinh tình trạng tiêu cực vì vậy việc bỏ thủ tục “phỏng vấn” trong đăng

ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được coi là bước cải cách mạnh mẽ, đảm bảo

quyền con người trong việc thực hiện quyền kết hôn.

Theo đó, trừ giấy khai sinh và giấy đăng ký kết hôn là cá nhân được

cấp bản chính thì khi thực hiện việc đăng ký, điều chỉnh các sự kiện hộ tịch,

các sự kiện hộ tịch đó sẽ được ghi vào sổ hộ tịch và cá nhân chỉ được cấp

trích lục sổ hộ tịch. Mọi thông tin dữ liệu về hộ tịch của công dân sẽ được lưu

giữ đầy đủ nhất trong sổ hộ tịch và cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có

quyền yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ

tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký. Điều này không chỉ giảm

thiểu được thủ tục hành chính trong việc cấp các văn bản gốc, chi phí cấp bản

gốc mà còn tạo thuận lợi nhanh chóng cho công dân khi có nhu cầu cần các

thông tin hộ tịch.

Việc cải tiến phương thức nộp hồ sơ để người dân lựa chọn - nộp trực

tiếp, gửi qua bưu chính hoặc qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến khi điều

kiện cho phép; giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch, khi

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được hoàn

thành và liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch qua hệ

thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ đảm bảo việc nhanh chóng, gọn nhẹ và

giảm thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện thủ tục hành chính về hộ tịch.

Luật hộ tịch mới cũng quy định việc miễn phí đăng ký hộ tịch cho một

số đối tượng như người thuộc gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo,

người khuyết tật

Bên cạnh việc ban hành Luật Hộ tịch thì việc ban hành Luật nuôi con

nuôi còn thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế của Việt Nam đã đưa ra

khi tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em, bảo đảm việc nuôi con nuôi

69

được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, hài

hòa với tinh thần Công ước Lahaye ngày 29-5-1993 về bảo vệ trẻ em và hợp

tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam sẽ tham gia. Chính vì

vậy, việc ban hành một đạo luật riêng về nuôi con nuôi nhằm tạo khung khổ

pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài để thu hút sự quan tâm,

giúp đỡ và trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và

nuôi dưỡng trẻ em, bảo đảm quyền của trẻ em là hết sức cần thiết.

3.1.2. Khó khăn, vướng mắc trong việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Mặc dù Luật Hộ tịch đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng đồng bộ,

thống nhất trên cả nước và thực tế đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng

thực tiễn giải quyết cho thấy, các việc hộ tịch luôn phát sinh hết sức đa dạng,

phức tạp, nhiều trường hợp tuy là các sự kiện hộ tịch thường xuyên xảy ra

như việc sinh, việc xác nhận tình trạng hôn nhân, việc tử, việc thay đổi họ,

tên… nhưng lại có nhiều tình tiết phức tạp mà Luật Hộ tịch và các văn bản

quy định chi tiết thi hành chưa dự liệu được như sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền đăng ký hộ tịch

Luật Hộ tịch chưa quy định cụ thể như thế nào là “định cư ở nước

ngoài” nên đã gây khó khăn trong việc phân định thẩm quyền giữa UBND cấp

xã và cấp huyện. Cụ thể, Luật Hộ tịch quy định về thẩm quyền đăng ký kết

hôn của UBND huyện như sau: “Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của

công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với

người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân

Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước

ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài

với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài” và theo Khoản 3 Điều 3

Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định "Người Việt Nam định cư ở

nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống

70

lâu dài ở nước ngoài".Vậy thế nào là “sinh sống lâu dài ở nước ngoài”, hiện

nay Luật Quốc tịch, và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa hướng dẫn cụ

thể vấn đề này.

Ví dụ: Nguyễn Văn A đi lao động tại nước Đức từ 2013 và được nước

Đức cấp thẻ cư trú và có giấy tờ nhà đất ở bên nước Đức. Nhưng hiện tại anh

A vẫn có tên trong hộ khẩu gia đình. Đầu năm 2018 anh Nguyễn Văn A đến

UBND xã K đăng ký kết hôn, bởi vì anh Nguyễn Văn A không khai báo việc

anh đi lao động tại Đức và UBND xã K đã đăng ký kết hôn cho anh Nguyễn

Văn A và chị Phùng Thị Kim. Nhưng khi anh Nguyễn Văn A muốn làm thủ

tục bảo lãnh cho vợ sang Đức nhưng Đại sứ quán của Đức tại Việt Nam đã từ

chối yêu cầu của anh với lý do anh là “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”

vì vậy việc anh UBND xã K đăng ký cho anh Nguyễn Văn A và chị Phùng

Thị Kim là trái thẩm quyền. Thủ tục đăng ký kết hôn của anh Nguyễn Văn A

và chị Phùng Thị Kim phải được đăng ký tại UBND cấp huyện. Vậy việc

Luật Hộ tịch chưa đưa ra quy định cụ thể về việc một người công dân Việt

Nam và người gốc Việt Nam sinh sống bao nhiêu thời gian ở nước ngoàithì

được coi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc tiêu chí nào thể hiện

người đó là người Việt Nam định cư ở nước ngoài dẫn đến gây khó khăn

trong việc phân định thẩm quyền giữa UBND cấp xã và cấp huyện.

Thứ hai, về đăng ký khai sinh

Luật Hộ tịch không quy định công dân được cấp lại bản chính giấy khai

sinh. Qua thực tế, quy định này gây khó khăn cho công dân, bởi vì, một số cơ

quan, đơn vị vẫn yêu cầu có bản chính để đối chiếu. Mặt khác tâm lý của

người dân luôn muốn có bản chính giấy khai sinh, do đó nhu cầu cấp lại bản

chính giấy khai sinh của người dân là rất cần thiết.Đề nghị nên sửa đổi Luật

Hộ tịch cho phép UBND cấp huyện được cấp lại bản chính giấy khai sinh có

yếu tố nước ngoài như quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP trước đây.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BTP về

71

việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có cha hoặc mẹ là

công dân Việt Nam hoặc cha và mẹ đều là công dân Việt Nam, chưa được

đăng ký khai sinh ở nước ngoài, về cư trú tại Việt Nam thì phải nộp các giấy

tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam (như: Hộ chiếu, giấy

tờ có giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý

xuất, nhập cảnh và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về

việc trẻ em đang cư trú tại Việt Nam). Tuy nhiên, có một số trường hợp trẻ

em sinh ra ở nước ngoài tại các nước láng giềng khi đưa con về cư trú tại Việt

Nam thường không thực hiện các nguyên tắc, thủ tục theo quy định về xuất

nhập cảnh để xin hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế mà đưa con về

cư trú tại Việt Nam theo đường dân sinh, do đó khi đăng ký khai sinh cho con

không có các giấy tờ chứng minh trẻ em đã nhập cảnh vào Việt Nam, vì vậy

không có căn cứ để tiến hành thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ.

Về việc đặt tên, khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định

việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp

pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân

sự. Tên của công dân Viêt Nam phải bằng tiếng việt hoặc tiếng dân tộc khác

của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.

Như vậy, trường hợp trẻ em có một bên cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam,

bên còn lại là người nước ngoài, nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch

Việt Nam cho con thì khi đăng ký khai sinh, tên của trẻ cũng phải là tên gọi

Việt Nam nên các trường hợp đặt tên theo tiếng nước ngoài như: Nguyễn

MiKe, Trần John, Lê Maika... là trái nguyên tắc đặt tên nêu trên. Tuy nhiên,

việc xác định thế nào là tên bằng “Tiếng Việt” hoặc tiếng dân tộc khác của Việt

Nam thì chưa có quy định hướng dẫn trong văn bản quy phạm pháp luật, gây

khó khăn cho cả công chức làm công tác hộ tịch và người dân. Bên cạnh những

vướng mắc mà cơ quan đăng ký hộ tịch gặp phải khi giải quyết yêu cầu.

Đăng ký khai sinh cho trẻ em có yếu tố nước ngoài, thì việc xác định

72

thông tin khi thực hiện việc đăng ký khai sinh cho người đã có hồ sơ giấy tờ

cá nhân, đăng ký lại khai sinh (trong trường hợp không còn bản sao giấy khai

sinh được cấp hợp lệ trước đây) cũng gặp không ít khó khăn; việc đăng ký

khai sinh trường hợp này hoàn toàn dựa trên cơ sở hồ sơ, giấy tờ, tài liệu có

các thông tin liên quan đến nội dung khai sinh do người có yêu cầu đăng khai

sinh cung cấp. Nếu như các giấy tờ mà người yêu cầu đăng ký lại khai sinh

xuất trình có nội dung thống nhất về họ, chữ đệm, tên, ngày, tháng, năm sinh,

dân tộc, quốc tịch… thì việc đăng ký lại khai sinh được giải quyết nhanh gọn,

chính xác. Tuy nhiên, nhiều trường hợp hồ sơ, giấy tờ có thông tin khác nhau;

trường hợp người yêu cầu xuất trình được giấy khai sinh được cấp từ thời kỳ

Pháp thuộc hoặc thời kỳ chính quyền ngụy Sài Gòn nhưng nội dung khai sinh

không đầy đủ; trường hợp người yêu cầu đăng ký khai sinh là công dân Việt

Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài hoặc công dân Việt Nam đã thôi quốc

tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước ngoài, đã được thay đổi chữ đệm, tên…

thì nhiều công chức làm công tác hộ tịch cho rằng chưa có quy định nguyên

tắc giải quyết nên lúng túng trong việc xác định nội dung đăng ký khai sinh,

ảnh hưởng đến thời gian giải quyết thủ tục hành chính.

Luật Quốc tịch chưa có quy định về hình thức có quốc tịch Việt Nam

đối với trường hợp trẻ em có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam, được sinh

ra ở nước ngoài đã có quốc tịch nước ngoài theo nơi sinh. Theo quy định tại

Điều 15 Luật Quốc tịch quy định: “Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha

mẹ là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việ Nam”. Tuy nhiên, việc trẻ em

có quốc tịch Việt Nam thông qua hình thức nào thì pháp luật chưa có quy

định cụ thể, dẫn đến cơ quan đăng ký hộ tịch còn lúng túng khi giải quyết yêu

cầu của công dân.

Ví dụ: Đối với trường hợp trẻ em sinh ra tại Hoa Kỳ (quốc gia xác định

nơi sinh theo nguyên tắc lãnh thổ), có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam khi

đứa trẻ được sinh ra tại Hoa Kỳ, cơ quan có thẩm quyền của Hoa kỳ đã cấp

73

cho trẻ giấy khai sinh mang quốc tịch Hoa Kỳ. Trong khi đó, theo Luật Quốc

tịch Việt Nam áp dụng nguyên tắc xác định quốc tịch Việt Nam theo huyết

thống. Vì vậy, cha mẹ trẻ đã đến cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu đăng ký

khai sinh cho trẻ trong đó ghi quốc tịch của trẻ em là quốc tịch Việt Nam

theo cha mẹ, việc có quốc tịch Hoa Kỳ (theo nơi sinh) không làm mất đi

quyền có quốc tịch Việt Nam của trẻ. Tuy nhiên, do pháp luật quốc tịch, hộ

tịch chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp này nên trong thực tế, cán bộ

Tư pháp- Hộ tịch khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký khai sinh còn rất lúng túng, việc

giải quyết còn chưa được thống nhất, một số cán bộ Tư pháp- Hộ tich tiến

hành đăng ký khai sinh cho trẻ và ghi quốc tịch Việt Nam, một số trường hợp

lại tiến hành thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh của trẻ, mục quốc tịch

ghi quốc tịch Việt Nam, một số trường hợp từ chối đăng ký khai sinh vì công

dân đã được đăng ký khai sinh tại Hoa Kỳ theo quy định công dân chỉ được

đăng ký khai sinh một lần và chỉ được lựa chọn “một quốc tịch”.Hiện tại chưa

văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề trên.

Thứ ba, về đăng ký khai sinh kết hợp nhận cha mẹ con

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền đăng ký

hộ tịch, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, Nghị định số

123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cho phép kết

hợp thủ tục nhận cha, mẹ, con và đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, hiện tại có

tình trạng nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nhưng cuộc

sống chung không hạnh phúc nên bỏ về Việt Nam, cũng có trường hợp không

được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho phép sang nước ngoài định cư

nên hôn nhân không duy trì được, thực tế quan hệ vợ chồng đã chấm dứt

nhưng chưa làm thủ tục ly hôn mà đã lại có quan hệ chung sống với người

đàn ông khác và sinh con. Do con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân vẫn còn tồn

tại, nên theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, phải được xác định là

74

con chung của hai vợ chồng (mặc dù người chồng không phải là người cha

trên thực tế của đứa trẻ, người mẹ có yêu cầu đăng ký việc nhận cha (người

cha trên thực tế) của trẻ em kết hợp với thủ tục đăng ký khai sinh để khai sinh

theo đúng thông tin về cha mẹ hoặc đăng ký khai sinh theo diện con chưa xác

định được cha thì cơ quan đăng ký hộ tịch không giải quyết được. Do khoản 2

Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp cha, mẹ

không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”;

khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định: “Người không

được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó

là con mình”, nên yêu cầu xác định cha cho con của người mẹ trong trường

hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân, không thuộc thẩm

quyền của cơ quan đăng ký hộ tịch. Nhưng thực tế, đa phần người dân phản

ánh Tòa án có thẩm quyền không thụ lý giải quyết hoặc có tiếp nhận nhưng

sau đó đình chỉ việc giải quyết vì cho rằng không có “tranh chấp”, dẫn đến

việc trẻ em không được đăng ký khai sinh kịp thời hoặc đăng ký khai sinh

nhưng với thông tin về người cha không đúng thực tế, vì vậy, cần thiết phải

có quy định hướng dẫn xác định thẩm quyền giải quyết để bảo đảm quyền lợi

của trẻ em.

Thứ 4, Xác định tình trạng hôn nhân để đăng ký kết hôn, cấp giấy xác

nhận tình trạng hôn nhân

Theo quy định, trong giai đoạn chuyển tiếp (khi cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân cư và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc chưa được vận hành

thống nhất trên toàn quốc) thì khi cá nhân làm thủ tục đăng ký kết hôn tại nơi

không thường trú hoặc thực hiện nhiều giao dịch dân sự, thủ tục hành chính,

công dân Việt Nam đều phải nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Tuy

nhiên, trường hợp công dân Việt Nam đã từng có thời gian cư trú tại nước

ngoài nay về Việt Nam thường trú mà có yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng

75

hôn nhân thì hầu hết các trường hợp này không có được giấy tờ chứng minh

tình trạng hôn nhân thời gian cư trú ở nước ngoài (giấy xác nhận tình trạng

hôn nhân của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự Việt Nam

ở nước ngoài (cơ quan đại diện) hoặc giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân

do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp). Trường hợp này, Cục Lãnh

sự - Bộ Ngoại giao không thể hỗ trợ xác minh/xác nhận mà đều yêu cầu họ

liên hệ với cơ quan đại diện để được cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân,

nhưng do họ đã về nước thường trú nên không thể xuất cảnh ra nước ngoài để

liên hệ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận, do đó không thể

chứng minh tình trạng hôn nhân trong thời gian cư trú ở nước ngoài, Ủy ban

nhân dân cấp huyện nơi thường trú hiện tại thường lúng túng trong việc giải

quyết yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, thường phải vận dụng

quy định tại Điều 4 Thông tư số 15/2015/TT-BTP cho phép người yêu cầu lập

văn bản cam đoan về việc không có giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân

trong thời gian cư trú ở nước ngoài, tự chịu trách nhiệm về tình trạng hôn

nhân của mình và hệ quả pháp lý. Vậy hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn

việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đối với đối tượng có thời gian cư

trú nhiều nước khác nhau dẫn đến khó khăn trong thực hiện thủ tục hành

chính, đặc biệt là thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài vì thành phần

hồ sơ yêu cầu phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thường phức tạp bởi liên

quan tới nhiều nước với nhiều biểu mẫu, quy định khác nhau, có nơi thì mẫu

là giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, nơi là mẫu là giấy xác nhận tình trạng

độc thân, như Trung Quốc và Mỹ là bản tuyên thể độc thân… khiến cán bộ

tiếp nhận hồ sơ gặp nhiều lúng túng. Mặc dù Bộ Tư pháp đã ban hành công

văn hướng dẫn các loại giấy tờ xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng cũng chỉ

có biểu mẫu phô tô của một số nước trong đó những nước chỉ ghi tiêu đề của

giấy chứ cơ quan đại diện không cung cấp đầy đủ biểu mẫu gây khó khăn cho

76

cán bộ tư pháp trong quá trình giải quyết.

Mặc khác, việc bỏ thủ tục phỏng vấn trong đăng ký kết hôn có yếu tố

nước ngoài, dù tạo thuận lợi cho người dân, rút ngắn thời gian giải quyết đăng ký

kết hôn nhưng cũng gia tăng gánh nặng và trách nhiệm cho cán bộ tư pháp trong

khâu xác nhận, thẩm định hồ sơ, đặc biệt là khâu xác minh mục đích kết hôn.

Thứ năm, về việc đăng ký khai tử

Tại khoản 1 Điều 34 Luật hộ tịch “Người có trách nhiệm đi đăng ký

khai tử nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế

giấy báo tử cho cơ quan đăng ký khai tử”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì Bộ Y tế hướng dẫn các cơ sở y tế thực hiện

việc cấp giấy chứng sinh, giấy báo tử, tuy nhiên hiện tại chưa có văn bản quy

định cụ thể về mẫu giấy báo tử nên gây lúng túng cho UBND các cấp trong

việc thực hiện đăng ký khai tử.

Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành chưa có văn bản

hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử trong

trường hợp trẻ em sinh ra sống trong 24 giờ rồi chết, gây khó khăn cho cán bộ

hộ tịch.

Thứ sáu, về việc đăng ký giám hộ

Đăng ký giám hộ có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo hộ quyền

lợi của các đối tượng được giám hộ. Tuy nhiên, việc đăng ký giám hộ hiện

nay hầu như chưa được quan tâm. Ở các tỉnh trên cả nước tỉ lệ giám hộ nói

chung và giám hộ có yếu tố nước ngoài nói riêng gần như không có. Điều đó

là do khâu tuyên truyền về hình thức giám hộ chưa được thực hiện tốt, bản

thân người dân cũng chưa có sự hiểu biết về nội dung như tầm quan trọng của

việc giám hộ.

Hiện tại, Luật Hộ tịch chỉ quy định thủ tục đăng ký giám hộ bao gồm:

Đăng ký giám hộ đương nhiên, đăng ký giám hộ cử, đăng ký chấm dứt giám

77

hộ và đăng ký thay đổi giám hộ. Tuy nhên, yêu cầu giám sát việc giám hộ

theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Dân Sự năm 2015 thì Luật Hộ tịch và các

văn bản quy định chi tiết thi hành do ban hành trước nên chưa có quy định cụ

thể về thủ tục này. Hiện tại, một số địa bàn đang phát sinh không ít trường

hợp yêu cầu phải đăng ký giám sát việc giám hộ đang gây lúng túng cho cơ

quan đăng ký hộ tịch do không có biểu mẫu và hướng dẫn cách thực hiện.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 49 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy

định điều kiện của cá nhân làm người giám hộ “Không phải là người đang bị

truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án

tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, tài sản của người khác”. Nhưng trong Mục 3 Đăng ký giám hộ của

Luật Hộ tịch năm 2014 không quy định trong thành phần hồ sơ đăng ký giám

hộ giấy tờ thể hiện người giám hộ không phải là người đang bị truy cứu trách

nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong

các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của

người khác. Vậy khi thực hiện đăng ký giám hộ theo Luật hộ tịch năm 2014

sẽ không đảm bảo theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ bảy, về đăng ký nhận cha, mẹ, con

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy

định về chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con gồm một trong các giấy

tờ, tài liệu sau: “Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan

khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha

con, quan hệ mẹ con. Trường hợp không có văn bản của cơ quan y thì phải có

thư từ, phim ảnh, băng, đ a, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ

cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là

con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm

chứng”. Thực tế có trường hợp vì khó khăn về kinh tế, cá nhân có yêu cầu

78

không thể liên hệ cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm

quyền để xác nhận quan hệ cha con, mẹ con hoặc họ cũng không còn người

thân thích để làm chứng. Do đó, quá trình tiếp nhận, giải quyết yêu cầu trong

trường hợp này, cơ quan đăng ký hộ tịch yêu cầu công dân cung cấp chứng cứ

theo quy định nêu trên, tuy nhiên cơ quan đăng ký gặp lúng túng khi xác định

giá trị của thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng chứng minh mối

quan hệ cha con, mẹ con hoặc trường hợp công dân không thể cung cấp được

chứng cứ này.

Thứ tám, Ghi vào sổ hộ tịch các việc ly hôn đã được giải quyết tại cơ

quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì:

“Công dân Việt Nam đã ly hôn, hủy việc kết hôn ở nước ngoài, sau đó về

nước thường trú hoặc làm thủ tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm

quyền của Việt Nam thì phải ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn

đã được giải quyết ở nước ngoài. Trường hợp đã nhiều lần ly hôn hoặc hủy

việc kết hôn trái pháp luật thì chỉ làm thủ tục ghi chú ly hôn gần nhất”. Như

vậy, đối tượng thực hiện việc ghi chú ly hôn theo quy định của Nghị định số

123/2015/NĐ-CP chỉ là công dân Việt Nam về nước thường trú hoặc làm thủ

tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Tuy nhiên,

qua gần 04 năm triển khai, có nhiều trường hợp như người nước ngoài, người

Việt Nam đã được thôi quốc tịch Việt Nam kết hôn với công dân Việt Nam

sau đó ly hôn tại nước ngoài; công dân Việt Nam trước đây kết hôn tại cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam, sau đó ly hôn tại cơ quan có thẩm quyền

của nước ngoài, vẫn cư trú ở nước ngoài nhưng có yêu cầu được ghi chú ly

hôn (được cơ quan có thẩm quyền Việt Nam ghi nhận). Những trường hợp

này không thuộc đối tượng ghi chú ly hôn, nên cơ quan đăng ký hộ tịch đã từ

chối giải quyết, nhưng người dân không đồng tình và cho rằng cơ quan nhà

79

nước cần giải quyết để ghi nhận các sự kiện hộ tịch của công dân Việt Nam.

Thứ chín, về xác minh trong đăng ký hộ tịch

Theo quy định của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì

hầu hết các sự kiện hộ tịch đều quy định trường hợp hồ sơ không rõ ràng thì

công chức tư pháp - hộ tịch tham mưu cho UBND các cấp thực hiện xác

minh. Tuy nhiên, hiện tại Luật Hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP và các

văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác minh

ở các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài như thế nào vì trong thực tế xảy ra

rất nhiều trường hợp đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cần được xác minh.

Thứ mười, về đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Với mong muốn tạo thuận lợi và đơn giản trong việc tìm kiếm gia đình

thay thế cho trẻ em thì tại Điều 11 Nghị định 19/2011/NĐ-CP nêu rằng cơ sở

trợ giúp xã hội được cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài là cơ sở được

UBND cấp tỉnh chỉ định. Đây là quy định được ban hành nhằm tạo điều kiện

quản lý tốt hơn việc giải quyết cho trẻ làm con nuôi nước ngoài, phòng tránh

hiện tượng lợi dụng cho trẻ làm con nuôi nước ngoài để trục lợi.Tuy nhiên,

việc thực hiện quy định lại gây khó khăn cho công tác giải quyết nuôi con

nuôi vì tạo ra sự phân biệt giữa cơ sở trợ giúp xã hội được chỉ định và không

được chỉ định. Nhiều cơ sở trợ giúp xã hội không được chỉ định nên không

thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước ở cấp tỉnh và trên toàn quốc

theo Điều 15 của Luật nuôi con nuôi có quy định trường hợp trẻ em không

được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân

liên quan có trách nhiệm tìm gia đình thay thế co trẻ em đó. Hệ quả là những

trẻ em sống ở các cơ sở trợ giúp đó không có cơ hội được nhận làm con nuôi.

Hiện nay, việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài vẫn do

các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em thực hiện. Nhưng các cơ sở này vừa tiếp nhận trẻ

em vào nuôi dưỡng, vừa tiếp nhận các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá

80

nhân nước ngoài và trực tiếp giới thiệu trẻ em làm con nuôi, đã dẫn đến tiêu

cực, thỏa thuận ngầm trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, trái với pháp

luật và thông lệ quốc tế.

3.1.3. Hoạt động đăng ký hộ tịch tại một số địa phương trên cả nước

Qua gần 04 năm thực hiện Luật hộ tịch đã đạt được một số kết quả

bước đầu quan trọng, công tác đăng ký, quản lý hộ tịch từng bước ổn định và

đi vào nề nếp, cơ sở vật chất từng bước được cải thiện. Các cơ quan thực hiện

việc đăng ký hộ tịch đã ý thức được trách nhiệm của mình, người dân đã nhận

thức được tầm quan trọng của giấy tờ hộ tịch nên không tùy tiện sữa chữa,

thêm, bớt và tự giác thực hiện đi đăng ký các sự kiện hộ tịch theo đúng thời

gian quy định của pháp luật, hạn chế tình trạng “sinh không khai, tử không

báo” như trước đây.

Đối với công chức tư pháp hộ tịch đã xác định được tầm quan trọng của

công tác này nên đã tuân thủ trình tự, thủ tục của Luật hộ tịch năm 2014 và

các văn bản hướng dẫn thi hành; tham gia đầy đủ các lớp đào tạo nghiệp vụ,

luôn nghiên cứu tìm tòi, học hỏi, nâng cao khả năng, trình độ, nghiệp vụ nên

công tác giải quyết nhanh chóng, chính xác, theo đúng quy định của pháp luật

góp phần làm giảm đáng kể các vụ việc khiếu nại, tố cáo về hộ tịch.

Thực tế đăng ký hộ tịch trong năm 2017 cả nước cho thấy, số lượng

khai sinh mới có xu hướng tăng, đặc biệt là khai sinh lại tăng rất lớn và trong

khi tổng số đăng ký kết hôn giảm thì đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

tiếp tục tăng khá nhiều so với các năm trước, cụ thể: Cả nước đã thực hiện

đăng ký khai sinh mới cho 1.953.345 trường hợp (tăng gần 3,9% so với năm

2016), đăng ký khai sinh lại cho 791.287 trường hợp (tăng tới 40,24%)

và 4.955 trường hợp khai sinh có yếu tố nước ngoài; khai tử cho tổng

số 551.465 trường hợp (giảm 2,8%); đăng ký kết hôn cho tổng số 731.883 cặp

(giảm 3,5%), trong đó có 18.718 trường hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nước

ngoài (tăng 15,85%). Số lượng đăng ký kết hôn tăng bởi vì xu thế phát triển

81

và hội nhập toàn cầu.

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã từng bước hoàn thiện và triển khai mở

rộng phạm vi áp dụng phần mềm đăng ký khai sinh - kết nối cấp mã số định

danh cá nhân cho trẻ em. Tính đến hết năm 2017 đã mở rộng triển khai phần

mềm đăng ký khai sinh tại 17 tỉnh/thành phố, phần mềm đăng ký hộ tịch

(phiên bản đầy đủ) tại 15 tỉnh/thành phố. Riêng năm 2017, hệ thống phần

mềm đã ghi nhận 646.582 trường hợp đăng ký khai sinh (trong đó

có 468.534 trường hợp đăng ký khai sinh lần đầu cho trẻ dưới 14 tuổi là công

dân Việt Nam được cấp số định danh cá nhân), 129.125 trường hợp đăng ký

kết hôn, 290.507 trường hợp cấp giấy xác nhận tình trạng hôn

nhân, 104.806 trường hợp đăng ký khai tử).

Trong công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thì công tác đăng

ký nuôi con nuôi luôn được Bộ Tư pháp quan tâm: Bộ Tư pháp đã xây dựng,

trình Thủ tướng Chính phủ Chỉ thị về tăng cường công tác nuôi con nuôi

trong tình hình mới; nghiên cứu định hướng phát triển công tác nuôi con nuôi

giai đoạn 2018-2025; chú trọng theo dõi tình hình phát triển của trẻ em Việt

Nam được cho làm con nuôi nước ngoài. Các Bộ, ngành liên quan và các địa

phương quan tâm thực hiện Luật nuôi con nuôi và Công ước LaHaye năm

1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Một số địa

phương đã mạnh dạn trong việc chỉ định cơ sở nuôi dưỡng ngoài công lập

được giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài (thành phố Hồ Chí Minh,

Bình Dương, Khánh Hòa, Bình Thuận).Trong năm 2017 đã đăng ký được 510

trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (giảm 43 trường hợp so với

năm 2016).

Bên cạnh những mặt đạt được thì công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài trên cả nước còn gặp một số thách thức như sau:

Đối với số lượng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài có số lượng

82

tăng. Bên cạnh những tác động tích cực đến xã hội thì nó cũng nảy sinh

những nỗi lo trong đó nguy hiểm nhất chính là việc những cô gái kết hôn với

người nước ngoài qua môi giới hôn nhân lại trở thành nạn nhân của tội phạm

mua bán người. hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng,

mặc dù tổng hồ sơ đăng ký kết hôn giảm, theo số liệu thống kê năm 2017 cả

nước có 18.718 trường hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài (tăng

15,85%) so với năm 2016, trong đó tập trung đông kết hôn với công dân nước

Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài Loan), Nhật Bản, Mỹ, và các quốc gia châu âu,

chủ yếu là kết hôn với công dân Hàn Quốc và Trung Quốc (Đài Loan), do ở

các nước này đang bị mất cân bằng về giới, nhất là ở các vùng nông thôn do

khó khăn về kinh tế và chi phí kết hôn rất tốn kém nên khó có khả năng kết

hôn ở trong nước buộc họ phải tìm vợ ở nước ngoài trong đó có Việt Nam.

Mặt khác, luật pháp một số nước quy định thủ tục kết hôn đơn giản và cho

phép công ty môi giới hôn nhân quốc tế hoạt động, trong khi đó tại Việt Nam

không cho phép hoạt động môi giới hôn nhân, dẫn tới tình trạng để đáp ứng

giữa cung và cầu, các tổ chức môi giới hôn nhân của nước ngoài vào Việt

Nam núp dưới danh nghĩa hợp tác, ký kết làm ăn kinh tế, du lịch… sau đó,

móc nối với một số đối tượng người Việt Nam để thiết lập nên những tổ chức,

đường dây môi giới hôn nhân bất hợp pháp.

Mặc khác xu hướng kết hôn xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay có

chiều hướng tăng cả về số lượng và đa dạng hơn về tính chất. Hiện nay chưa

có số liệu thống kê đầy đủ về số lượng người kết hôn xuyên biên giới, nhưng

theo ước tính, hiện có khoảng trên 50 nghìn phụ nữ Việt Nam kết hôn với

người Trung Quốc, khoảng hơn 2 nghìn người Việt Nam kết hôn với người

Lào. Hiện tượng kết hôn xuyên biên giới vốn đã có trong lịch sử với đặc điểm

của các thôn bản biên giới liền kề nhau, nhưng trở thành một trào lưu khá phổ

biến từ những năm 1980 đến 2005 ở cả 3 vùng biên giới Việt Nam - Trung

83

Quốc, Việt Nam - Lào và Việt Nam - Camphuchia. Các tộc người có nhiều

người kết hôn xuyên biên giới phải kể đến như: Tày, Nùng, Hmông, Hà Nhì,

Lô Lô, Thái, Khơ mú, Giẻ-Triêng, Brâu, Cơ ho,…các cuộc kết hôn xuyên

biên giới cũng đang tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội, trước hết là những rủi ro đối

với bản thân những người phụ nữ kết hôn với người nước ngoài không thực

hiện được các thủ tục kết hôn theo quy định của pháp luật nước sở tại. Bên

cạnh trào lưu đi lấy chồng ở các nước láng giềng, nhiều trường hợp phụ nữ đã

bị các đối tượng tội phạm lừa bán, ép gả hay buôn bán người qua biên giới.

Do vậy, hôn nhân xuyên biên giới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề trong quản

lý đường biên giới và sự ổn định trong phát triển kinh tế-xã hội của các địa

phương khu vực biên giới.

Đối với công tác nuôi con nuôi nước ngoài vẫn còn hiện tượng làm sai

lệch hồ sơ để nhận tiền tài trợ, hỗ trợ của tổ chức nước ngoài: Hoạt động cho

trẻ em làm con nuôi nước ngoài là hoạt động dễ bị những người có thẩm

quyền lạm dụng để kiếm lợi bất chính cho nên những trường hợp như thế này

không phải ít. Điển hình như vụ án làm xôn xao dư luận về việc làm khống

hồ sơ trẻ bị bỏ rơi để giới thiệu cho làm con nuôi nước ngoài của hai trung

tâm nuôi dưỡng bảo trợ xã hội huyện Trực Ninh và huyện Ý Yên tỉnh Nam

Định. Theo cáo trạng của Viện Kiểm Sát tỉnh Nam định cáo buộc, từ năm

2005 đến tháng 7/2008, các bị cáo thuộc 2 trung tâm trên đã có hành vi thông

đồng với một số trạm trưởng và nhân viên các trạm y tế xã trên địa bàn tỉnh

Nam định để thu gom trẻ em, lập 226 hồ sơ giả về các trường hợp trẻ em bị

bỏ rơi rồi làm thủ tục cho trẻ làm con nuôi nước ngoài để nhận tiền tài trợ, hỗ

84

trợ của các tổ chức cá nhân người nước ngoài.

Biểu số 1: Số liệu đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn

trong cả nƣớc từ năm 2014-2017

(bao gồm cả đăng ký mới, đăng ký lại và các trường hợp có yếu tố nước ngoài)

2014 Năm 2017 2016

2015 Khai sinh 2,474,377 2,490,094 2,449,135 2,749,587 551,467 Khai tử 731,883 Kết hôn 512,489 567,403 758,364 775,093 502,035 807,545

3.1.3.1 Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội

Quá trình triển khai thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đặc

biệt là hộ tịch có yếu tố nước ngoài, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội với vai trò

là cơ quan tham mưu giúp UBND thành phố quản lý nhà nước về Hộ tịch đã

chủ động tổ chức nhiều hội nghị quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Luật hộ

tịch, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật cư trú…liên quan đển công tác hộ tịch

cho cán bộ công chức Tư pháp- Hộ tịch tại cấp xã, phường, thị trấn; công

chức tiếp nhận hồ sơ hộ tịch cấp huyện; biên soạn và phát hành tài liệu để

hướng dẫn cơ sở và luôn quan tâm chú trọng công tác hướng dẫn nghiệp vụ

hộ tịch theo đề nghị của UBND cấp huyện, xã và chỉ đạo phòng Tư pháp khi

tham mưu giải quyết hồ sơ đăng ký hộ tịch nếu có vướng mắc để đản bảo hồ

sơ của công dân được giải quyết đúng hạn theo quy định.

Để đẩy mạnh công tác đăng ký hộ tịch nói chung và đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài nói riêng. UBND thành phố đã ban hành Quyết định số

1878/QĐ-UBND ngày 17/4/2018 về việc thành lập tổ chỉ đạo thực hiện

chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về đăng ký và thống kê hộ

tịch giai đoạn 2017-2024. Trong năm 2018, UBND thành phố đã giao Sở Tư

pháp phối hợp với các cơ quan truyền thông, Báo Hà Nội mới, Báo pháp luật

Xã hội… thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài tuyên truyền, phổ

biến về ý nghĩa, vai trò của Luật hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Hoạt động đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên địa bàn thành phố

Hà Nội như sau: trong năm 2016 đã giải quyết 305 trường hợp đăng ký khai

85

sinh nước ngoài, 29 trường hợp khai tử có yếu tố nước ngoài và 406 trường

hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài.Trong năm 2018, việc khai sinh, khai tử, kết

hôn trên địa bàn thành phố được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của

pháp luật, trình tự đã giải quyết 287 trường hợp đăng ký khai sinh nước ngoài,

57 trường hợp khai tử có yếu tố nước ngoài và 512 trường hợp kết hôn có yếu

tố nước ngoài.

Biểu 2: Số liệu đăng ký khai sinh, khai tử có yếu tố nƣớc ngoài năm 2016

trên địa bàn thành phố Hà Nội

KHAI SINH

KHAI TỬ

Người nước ngoài

T

Con có cha và mẹ là người nước ngoài

Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

Con có cha hoặc mẹ là người nước ngoài còn người kia là công dân Việt Nam

Tổng số

Tổng số

Chia ra

Tổng số 229

Chia ra Nam Nữ 118 111

Chia ra Nam Nữ 04 223

Tổng số 22

Tổng số 227

Tổng số 2276

Nam 1137

229

2

Chia ra Nam Nữ Nữ 0 1139 3305 Biểu 3: Số liệu đăng ký khai sinh, khai tử có yếu tố nƣớc ngoài triên địa

bàn thành phố Hà Nội năm 2018

KHAI SINH

KHAI TỬ

Người nước ngoài

Con có cha và mẹ là người nước ngoài

Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

Con có cha hoặc mẹ là người nước ngoài còn người kia là công dân Việt Nam

Tổng số

Tổng số

Chia ra

287

Tổng số 42

Chia ra Nam Nữ 20 22

Tổng số 245

Nam 133

57

Tổng số 54

Chia ra Nam Nữ 11 43

Tổng số 3

Chia ra Nam Nữ 0

3

Nữ 112 Biểu 4: Số liệu đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trên địa bàn

thành phố Hà Nội năm 2016

Số lƣợng kết hôn chia theo đối tƣợng kết hôn (cặp)

Số ngƣời kết hôn chia theo quốc gia/ vùng lãnh thổ của công dân nƣớc ngoài mang quốc tịch/ cƣ trú (ngƣời)

Số ngƣời kết hôn chia theo giới tính công dân việt Nam cƣ trú trong nƣớc (ngƣời)

Mỹ Canada

Nam Nữ

Tổng số

Tổng số

Hàn Quốc

TTổ ng số

Trung Quốc (Đại lục)

Trung Quốc ( Đài Loan)

Quốc gia vùng lãnh thổ khác

Người nước ngoài với người nước ngoài

Công dân VN định cư ở nước ngoài với nhau

Công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với người nước ngoài

Công dân VN cư trú ở trong nước với công dân VN định cư ở nước ngoài 92

406

311

1

2

347

33

17

10

65

47

175

403

87

316

86

Biểu 5: Số liệu đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài năm 2018

trên địa bàn thành phố Hà Nội

Số lƣợng kết hôn chia theo đối tƣợng kết hôn (cặp)

Số ngƣời kết hôn chia theo quốc gia/ vùng lãnh thổ của công dân nƣớc ngoài mang quốc tịch/ cƣ trú (ngƣời)

Số ngƣời kết hôn chia theo giới tính công dân việt Nam cƣ trú trong nƣớc (ngƣời)

Mỹ

Canada

Nam

Nữ

Tổng số

Hàn Quốc

TTổn g số

Tổng số

Trung Quốc (Đại lục)

Trung Quốc ( Đài Loan)

Quốc gia vùng lãnh thổ khác

Người nước ngoài với người nước ngoài

Công dân VN định cư ở nước ngoài với nhau

Công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với người nước ngoài

CCôn g dân VN cư trú ở trong nước với công dân VN định cư ở nước ngoài 72

436

0

4

478

43

16

17

84

101

217

508

75

433

512

Qua phân tích số liệu trên cho thấy thủ tục đăng ký khai sinh có yếu tố

nước ngoài có xu hướng giảm từ 305 trường hợp năm 2016 đến năm 2018 là

287 trường hợp nhưng số liệu đăng ký khai tử và kết hôn có yếu tố nước

ngoài có xu hướng tăng. Trong đó số lượng người Việt Nam đăng ký kết hôn

với người nước ngoài chủ yếu là công dân Hàn Quốc từ 47 trường hợp tăng

lên 101 trường hợp. Một trong những điểm nổi bật trong quá trình triển khai

Luật Hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội là đã chú trọng ứng dụng công

nghệ thông tin trong đăng ký, quản lý hộ tịch. Theo Sở Tư pháp Hà Nội, đến

nay, 100% đơn vị cấp xã, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội đã triển khai

áp dụng phần mềm đăng ký khai sinh và cấp mã số danh cho công dân đảm

bảo việc thi hành đồng bộ Luật Hộ tịch và Luật Căn cước công dân. Bên cạnh

đó, việc khai thác, sử dụng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch đã mang lại

những hiệu quả thiết thực, cụ thể trong công tác cải cách hành chính như:

Giảm thao tác, rút ngắn thời gian tra cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho công

chức trong thực thi nhiệm vụ. Đồng thời giảm chi phí đi lại của người dân khi

87

thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch.Nhằm đẩy mạnh ứng

dụng công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực hộ tịch,

UBND thành phố đã xây dựng và đưa vào áp dụng hệ thống một cửa điện tử

dùng chung, trong đó có các thủ tục hành chính về hộ tịch được áp dụng tại 3

cấp của thành phố; Thành phố chỉ đạo Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, xã tiếp

tục mở rộng các dịch vụ công mức độ 3, 4 trong lĩnh vực hộ tịch; Triển khai

dịch vụ công mức độ 4 về cấp bản sao trích lục hộ tịch tại 17 quận, huyện.

Theo đó công dân có thể nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng Internet và nhận kết

quả qua dịch vụ bưu chính theo địa chỉ cung cấp, không phải đến cơ quan nhà

nước để thực hiện, tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại.

Bên cạnh những mặt đạt được trong công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội gặp một số khó khăn như: Một số

các quy định của pháp luật về hộ tịch về xử phạt trong lĩnh vực này còn chưa

rõ ràng, không phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho cán bộ giải quyết thủ

tục hành chính về hộ tịch tại các địa phương. Việc đầu tư cơ sở, vật chất phục

vụ công tác hộ tịch tại các địa phương chưa được chú trọng nên việc bảo

quản, lưu trữ sổ sách hộ tịch, chứng thực còn nhiều bất cập.

Đối với công tác nuôi con nuôi: UBND thành phố đã ban hành văn ban

quán triệt thực hiện chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 19/01/2018 của Thủ tướng

chính phủ về tăng cường công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong tình hình

mới trên địa bàn thành phố. Trong những năm qua, việc giải quyết cho - nhận

nuôi con nuôi được thực hiện nghiêm túc, trong năm 2018 toàn thành phố Hà

Nội đã giải quyết được 39 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Có thể thấy việc thực hiện đăng ký hột tịch trên địa bàn thành phố Hà

Nội trong những năm qua đã có nhiều bước tiến vượt bậc đặc biệt là công tác

đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài từng bước đi vào nề nếp hơn và chuyên

nghiệp hơn, đội ngũ làm công tác hộ tịch từ cấp huyện, cấp xã được củng cố

88

kiện toàn, cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh. Dữ liệu hộ tịch được

lưu giữ lâu dài để sử dụng, số liệu thống kê chính xác hơn, ứng dụng công

nghệ thông tin được áp dụng trong việc lưu trữ thông tin được các địa phương

chú trọng; Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường xuyên nhằm

phát hiện, trao đổi rút kinh nghiệm, hạn chế sai sót trong quá trình giải quyết

hồ sơ từng bước nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hộ tịch

3.1.3.2. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Căn cứ báo cáo sơ kết 3 năm triển khai thực hiện Luật Hộ tịch trên địa

bàn tỉnh Bình Dương cho thấy sau khi Luật hộ tịch được ban hành, UBND

tỉnh đã tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến Luật Hộ tịch và các văn bản

hướng dẫn liên quan đến công tác đăng ký hộ tịch đến cán bộ chủ chốt của

các cơ quan, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, báo cáo viên

pháp luật, công chức làm công tác hộ tịch ở phòng Tư pháp cấp huyện, công

chức Tư pháp- Hộ tịch cấp xã (trong đó có 9/9 huyện, thị xã, thành phố đã tổ

chức hội nghị triển khai về Luật hộ tịch).

Ngoài ra UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện cơ sở dữ

liệu hộ tịch điện tử trên địa bàn tỉnh Bình Dương, kể từ ngày 01/6/2017, tất cả

cơ quan đăng ký hộ tịch của Bình Dương đều triển khai thực hiện đăng ký và

quản lý hộ tịch phần mềm dùng chung của Bộ Tư pháp. Kể từ năm 2018,

Bình Dương cũng triển khai việc đăng ký hộ tịch trực tuyền với thủ tục đăng

ký hộ tịch đơn giản. Sau khi ứng dụng phần mềm hộ tịch đã tạo điều kiện

thuận tiện cho người dân khi đi đăng ký hộ tịch và cũng giảm rất nhiều thời

gian cho công chức Tư pháp- Hộ tịch trong việc báo cáo số liệu định kỳ, in bản

chính và trích lục hộ tịch...Vì thế kết quả đăng ký hộ tịch đã đạt kết quả cao và

89

đáp ứng nhu cầu giải quyết thủ tục hành chính của người dân trên địa bàn.

Biểu số 6: Số liệu đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn có yếu tố nƣớc

ngoại trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng từ 01/01/2016- 30/6/2018)

KHAI SINH

KHAI TỬ

Người nước ngoài

Con có cha và mẹ là người nước ngoài

Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

Tổng số

Tổng số

Tổng số 39

Chia ra Nam Nữ 22 17

Con có cha hoặc mẹ là người nước ngoài còn người kia là công dân Việt Nam Chia ra Nam Nữ 130 123

Tổng số 253

Tổng số 34

Chia ra Nam Nữ 29

5

Tổng số 12

Chia ra Nam Nữ 8

4

46

292 Biểu số 7: Số liệu đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trên địa bàn Tỉnh

Bình Dƣơng từ 01/01/2016- 30/6/2018)

Số lƣợng kết hôn chia theo đối tƣợng kết hôn (cặp)

Số ngƣời kết hôn chia theo quốc gia/ vùng lãnh thổ của công dân nƣớc ngoài mang quốc tịch/ cƣ trú (ngƣời)

Số ngƣời kết hôn chia theo giới tính công ân việt Nam cƣ trú trong nƣớc (ngƣời)

Mỹ

Canada

Nam

Nữ

Tổng số

Tổng số

Hàn Quốc

Tổng số

Trung Quốc (Đại lục)

Trung Quốc ( Đài Loan)

Quốc gia vùng lãnh thổ khác

Công dân VN định cư ở nước ngoài với nhau

Người nước ngoài với người nước ngoài

Công dân VN cư trú ở trong nước với công dân VN định cư ở nước ngoài

3

4

5

8

9

10

11

12

Công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với người nước ngoài 2 395

139

0

7

6 449

7 207

18

22

79

48

75

13 509

14 76

15 433

1 541

Hoạt động đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình

Dương từ ngày 01/01/2016 đến 30/6/2018 như sau: giải quyết 292 trường hợp

đăng ký khai sinh nước ngoài, 46 trường hợp khai tử có yếu tố nước ngoài và

541 trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài (trong đó công dân Việt Nam

kết hôn nhiều với công dân mỹ là 207 trường hợp và công dân Trung Quốc

(Đài Loan) là 79 trường hợp.

Việc triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi

hành, công tác đăng ký hộ tịch nói chung và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước

ngoài nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã đạt được những kết quả như:

90

tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cá nhân khi thực hiện việc đăng ký hộ tịch, cá

nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phụ

thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú như trước đây, đội ngũ công chức

làm công tác hộ tịch được củng cố, kiện toàn, công chức làm công tác hộ tịch

thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ; việc triển khai áp dụng phần mềm

đăng ký và quản lý hộ tịch dung chung của Bộ Tư pháp đã giúp cho cán bộ

Tư pháp thuận lợi hơn trong xử lý công việc; việc báo cáo, thống kê được

nhanh chóng và chính xác hơn. Bên cạnh những mặt thuận lợi thì biên chế

công chức làm công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại một số địa phương

trên địa bàn Tỉnh bố trí chưa tương xứng với số lượng công việc. Ngoài việc

thực hiện tham mưu đăng ký công tác hộ tịch cán bộ cấp huyện phải đảm

nhiệm rất nhều công việc khác dẫn đến chưa có sự chuyên môn hóa trong

công việc. Tại một số địa phương cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công

tác quản lý hộ tịch chưa đảm bảo như: Kho lưu trữ (chưa bố trí riêng) máy

tính, máy in đã cũ và cấu hình máy thấp dẫn đến khó khăn trong việc thực

hiện áp dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong đăng ký

hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài

3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài

Trước đó, liên quan đến việc điều chỉnh đăng ký hộ tịch có yếu tố nước

ngoài còn phân tán tại nhiều văn bản khác nhau để đảm bảo tính đồng bộ,

thống nhất, Luật Hộ tịch ra đời đã trở thành cơ sở pháp lý thống nhất các quy

định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình triển

khai Luật Hộ tịch thì một số khái niệm, quy định còn chưa được thống nhất

trong các văn bản Luật dẫn đến việc áp dụng chưa có sự thống nhất do đó cần

phải có điều chỉnh cho phù hợp giữa các văn bản Luật.

Ví dụ: Khái niệm “Yếu tố nước ngoài”tại khoản 2 Điều 663 BLDS

91

2015 có quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ có ít nhất

một trong cá bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Vậy theo quy

định trên thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi tham gia vào quan hệ

dân sự tại Việt Nam với công dân, pháp nhân Việt Nam thì quan hệ đó không

được coi là yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên việc loại bỏ nhóm chủ thể này dẫn

đến sự khác biệt giữa quy định của Luật Dân sự năm 2015 với một số văn bản

Luật khác của Việt Nam. Chẳng hạn, theo khoản 25, Điều 3 Luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2014 có quy định “ Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là

người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Trong đó tại điều

37 của Luật Hộ tịch có quy định “ Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của

công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với

người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân

Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước

ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài

với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài”. Theo quy định trên thì

“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” trong Luật Hộ tich và Luật Hôn

nhân và gia đình là chủ thể trong mối quan hệ có yếu tố nước ngoài. Do đó,

cần có sự điều chỉnh để đảm bảo sự thống nhất trong việc xác định “Yếu tố

nước ngoài” giữa các văn bản Luật Việt Nam. Theo quy định của Luật Quốc

tịch thì người “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là công dân

Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.

Theo quan điểm nếu người đó thôi quốc tịch Việt Nam thì có yếu tố nước

ngoài, vẫn giữ quốc tịch Việt Nam thì vẫn là người Việt Nam nên không có

yếu tố nước ngoài.Vậy nên sửa đổi Luật Hộ tịch và Luật Hôn nhân và Gia

đình cho phù hợp hợp với Bộ Luật Dân Sự năm 2015.

Cần hoàn thiện pháp luật Việt Nam phù hợp với Điều ước Quốc tế mà

92

Việt Nam là thành viên. Ví dụ: trong Luật nuôi con nuôi năm 2010 không có

quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy

nhiên theo quy định tại Điều 24 của Luật nuôi con nuôi thì cha mẹ đẻ không

có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp

luật…có nghĩa là con nuôi trong pháp luật Việt Nam không có quan hệ với

cha mẹ đẻ. Đây là điểm cơ bản giữa quy định của Luật pháp luật Việt Nam

với Công ước La Haye 1993, theo đó tại quy đinh tại Điểm c Khoản 1 Điều

26 có quy định “ Việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ

em và cha mẹ đẻ nếu việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tại Nước ký kết

nơi thực hiện việc nuôi con nuôi đó”. Như vậy theo công ước La Haye 1993

cũng không bắt buộc việc nuôi con nuôi làm chấm dứt quan hệ pháp lí giữa

cha mẹ đẻ với trẻ em và việc nuôi con nuôi chỉ làm chấm dứt quan hệ đó nếu

việc nuôi con nuôi đó có hệ quả như vậy tại nước kí kết nơi thực hiện việc

nuôi con nuôi (nước nhận). Qua phân tích trên cần phải bổ sung quy định

pháp luật về vấn đề hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài phù hợp với quy định của công ước La Haye 1993.

Tại Khoản 3, Điều 10 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 về

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi có quy định

“Trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự đồng ý của

con nuôi từ 9 tuổi trở lên thay đổi phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh

và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã

đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi

Giấy kha khai sinh cũ, tại cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh của Sổ đăng

ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi”. Tuy nhiên tại Điều 24 của Bộ của

Nghị định 123/2015/NĐ-CP có quy định “Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã

được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng

01 năm 2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì

93

được đăng ký lại”. Do đó, việc thu hồi hủy bỏ để đăng ký lại nhằm mục đích

thay đổi phần khai về cha, mẹ ruột sang cha, mẹ nuôi là không thể thực hiện

được theo luật Hộ tịch (vì sổ, giấy khai sinh vẫn còn). Tại Khoản 2, Điều 26

của Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về phạm vi thay đổi có quy định “Thay

đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau khi được

nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi” .Vậy theo quy định

của Luật Hộ tịch sẽ tiến hành thay đổi thông tin cha, mẹ trong nội dung giấy

khai sinh. Vì vậy cần điều chỉnh Luật Nuôi con nuôi cho phù hợp với Luật Hộ

tịch năm 2014.

Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn thủ tục phỏng vấn đối với một số

trường hợp cụ thể như: Chênh lệch độ tuổi quá lớn; đương sự kết hôn quá

nhiều lần, khoảng cách từ khi ly hôn đến khi kết hôn quá ngắn để phòng ngừa

việc đương sự lợi dụng việc kết hôn để đi nước ngoài hoặc mục đích khác.

3.2.2. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Tư

pháp- Hộ tịch

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Cán bộ là gốc

của công việc", "Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong".Tại Nghị quyết số 08/-

NQ/NQ/TW ngày 02.02.2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm

tư pháp trong thời gian tới đã xác định xây dựng độingũ cán bộ tư pháp trong

sạch, vững mạnh. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02.6.2005 của Bộ

Chính trị cũng xác định phương hướng cải cách tư pháp tới năm 2020 là "xây

dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư

pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất

đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với

từng loại cán bộ".

Nhân lực luôn là vấn đề được quan tâm trong việc thúc đẩy hiệu quả

công tác trong từng lĩnh vực trong đó có lĩnh vực Tư pháp. Thực tiễn cho

94

thấy, các sự kiện hộ tịch có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, tính chất đa

dạng và phức tạp hơn, trong khi đây là nhiệm vụ mới của UBND cấp huyện,

do đó việc thiếu kinh nghiệm trong quá trình tham mưu thực hiện đang là khó

khăn không thể tránh khỏi. Bên cạnh việc giúp UBND thực hiện việc quản lý

và đăng ký hộ tịch ở địa phương, cán bộ làm công tác Tư pháp còn phải đảm

nhiệm rất nhiều công việc Tư pháp khác như tuyên truyền pháp luật, hòa giải

viên….Trong khi đó công tác hộ tịch đòi hỏi có sự ổn định chuyên môn cao

nên cần phải có cán bộ chuyên trách về hộ tịch. Cùng chia sẻ này, đại diện

UBND tỉnh Bình Dương cũng cho rằng, thực tế địa phương cán bộ làm công

tác hộ tịch còn mỏng, có đến 30% cán bộ chưa tốt nghiệp Trung cấp Luật

hoặc đại học Luật. Việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm

quyền của Phòng tư pháp cấp huyện là một nhiệm vụ mới và phức tạp, do đó

khi triển khai Luật Hộ tịch thì sẽ có nhiều khó khăn, lúng túng cho cán bộ của

Phòng tư pháp cấp huyện. Mặt khác tại UBND cấp huyện hiện không có công

chức chuyên trách về hộ tịch mà công tác hộ tịch do công chức của phòng Tư

pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện kiêm nhiệm. Biên chế bình quân hiện

nay của các phòng Tư pháp (ngoại trừ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có

từ 3- 4 công chức. Bên cạnh những chuyển biến tích cực về trình độ, kiến

thức và năng lực thì đội ngũ cán bộ Tư pháp- Hộ tịch tại cơ sở còn nhiều mặt

hạn chế; tỷ lệ cán bộ chưa đạt chuẩn về chuyên môn còn cao, công tác lãnh

đạo, quản lý của cán bộ đang dựa vào các đợt tập huấn ngắn ngày và kinh

nghiệm là chủ yếu, nên công tác quản lý điều hành thiếu bài bản, thiếu khoa

học, hiệu lực, hiệu quả hoạt động không cao.

Nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Tư

pháp làm công tác đăng ký hộ tịch nói chung và công tác đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài nói riêng trong thời gian tới cần phải thực hiện các giải

pháp sau:

Tiếp cục củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác Hộ

95

tịch đủ về số lượng và tiều chuẩn nghiệp vụ tạo bước chuyển biến mạnh mẽ

về tổ chức, cán bộ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng

lực, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị, tư

tưởng, thái độ phục vụ nhân dân, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và phải tại

điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền của mình nói chung và

trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch nói riêng.

Đổi mới cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác

hộ tịch theo hướng chuyển từ bồi dưỡng kiến thức sang phát triển năng

lực. Đây không đơn thuần là sự thay đổi phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức, mà là sự thay đổi trong cách tiếp cận, trong tư duy về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức. Để phát triển năng lực cho đội ngũ cán bộ, công

chức, vấn đề căn bản là phải để cán bộ, công chức tham gia tích cực, chủ

động vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Theo đó, cán bộ, công chức phải chủ

động tiếp thu kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm và vận dụng có hiệu quả các kiến

thức, kinh nghiệm vào thực thi công vụ. Việc thiết kế chương trình đào tạo,

bồi dưỡng công chức Tư pháp cần tập trung vào những định hướng lớn, như

định hướng hành động, định hướng thực thi công vụ, định hướng nhận diện và

giải quyết công việc thực tế. Đưa ra những vấn đề khó khăn, vướng mặc trong

giải quyết hồ sơ thủ tục của công dân, cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tìm ra

biện pháp giải quyết tối ưu vấn đề đang được đặt ra.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác đăng ký, quản lý hộ

tịch. Cần chú trọng công tác tuyển dụng cán bộ, từng bước bố trí, sắp xếp để

tiến tới 100 % công chức Tư pháp- Hộ tịch đạt chuẩn theo quy định của Luật

Hộ tịch và có trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc và được thường

xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ trong suốt quá trình thực thi nhiệm vụ để đáp ứng

cho triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác đăng ký, quản lý

Hộ tịch.Bên cạnh đó đổi mới nội dung thi tuyển ngoài hiểu biết pháp luật nói

chung, cần coi trọng kiểm tra, sát hạch về kỹ năng xử lý tình huống. Việc

96

tuyển dụng phải đảm bảo bình đẳng, khách quan, công khai và minh bạch

Ngoài ra, UBND cấp huyện cần bố trí 01 cán bộ chuyên trách có kinh

nghiệm, đủ tiêu chuẩn theo quy định, được đào tạo bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ làm công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài để đảm bảo hồ

sơ hộ tịch có yếu tố nước ngoài được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, đúng

theo quy định pháp luật tránh xảy ra sai sót, có thể phát sinh những phiền hà

cho người dân.

Để công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài đi vào nề nếp nên bổ

sung những quy định cụ thể về trách nhiệm, chế tài xử lý đối với công chức tư

pháp-hộ tịch có sai phạm; quy định trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp tỉnh,

huyện, xã trong việc bố trí cán bộ công chức tư pháp - hộ tịch không đúng yêu

cầu hoặc để xảy ra sai phạm trên địa bàn do buông lỏng quản lý. Việc kiện

toàn tổ chức, cán bộ và nâng cấp cơ sở vất chật của tư pháp cấp huyện để

nhận chuyển giao các nhiệm vụ đăng ký hộ tịch từ cấp tỉnh, bao gồm cả đăng

ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cũng cần được triển khai đồng bộ, khẩn

trương để đảm bảo tính thông suốt, thống nhất và hiệu quả của cả hệ thống

đăng ký, quản lý hộ tịch.

3.2.3. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch có yếu

tố nước ngoài

Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền đã góp phần quan trọng

trong việc nâng cao nhận thức của người dân về chủ trương đường lối, chính

sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần vào công cuộc đổi mới

đất nước ta

Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng cần tập trung vào các nội

dung sau:

Chú trọng đổi mới về nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp

97

luật, khắc phục những tồn tại, hạn chế công tác này trong những năm qua. Về

nội dung tuyên truyền cần phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật

và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân, với lứa tuổi, từng đối tượng đặc

thù với tình hình thực tiễn của địa phương. Về hình thức cần tiếp tục các hình

thức tuyên truyền đã thực hiện có hiệu quả trong những năm qua như tọa đàm,

buổi nói chuyện, các buổi trợ giúp pháp lý, qua hệ thống loa truyền thanh cơ

sở, tờ rơi, tờ gấp….Ngoài ra cần lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật tại các buổi sinh hoạt cộng đồng. Đối với hình thức giáo dục

pháp luật hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cần thành lập các câu lạc bộ trợ

giúp pháp lý tại các khu dân cư tại các xã, phường, thị trấn và phát huy

phương châm mỗi người dân là một tuyên truyền viên pháp luật tại cộng đồng

dân cư.

Tăng cường đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì đây là cách nhanh nhất,

ít tốn kém nhưng hiệu quả lại rất cao.Có thể mở chuyên mục hỏi đáp pháp

luật trên cổng thông tin điện tử của huyện, để mọi vướng mắc của người dân

về thủ tục hành chính, pháp luật được tư vấn và giải đáp nhanh nhất.

Phải tăng cường xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp

luật vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, có phẩm chất chính trị tốt, trình

độ chuyên môn vững vàng, có kỹ năng truyền đạt, am hiểu pháp luật và kiến

thức xã hội, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới. Phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo của Hội đồng phối hợp phổ biến

giáo dục pháp luật cấp huyện trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện, bảo

đảm những nội dung đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được truyền tải

đến người dân.

Tiếp tục xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật một cách hiệu

quả với việc xây dựng Tủ sách pháp luật tại nhà văn hòa của cụm dân cư gồm

98

các tài liệu, đề cương giới thiệu các luật, pháp lệnh, sách, tài liệu hỏi đáp,

bình luận, hướng dẫn pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật….liên tục cập

nhật các đầu văn bản mới để người dân dễ tìm hiểu các văn bản pháp luật

mới. Bên cạnh đó đầu tư máy tính có kết nối Internet tại thư viện, tủ sách

pháp luật của xã, phường, thị trấn để thuận cho việc tra cứu văn bản Luật, các

văn bản hướng dẫn Trung ương, các Bộ, Ngành và Thành phố. Tiến hành

hoàn thiện sơ sở dữ liệu phổ biến, giáo dục pháp luật, tủ sách pháp luật điện

tử quốc gia, các sản phẩm có nội dung số hóa, các phần mềm phổ biến, giáo

dục pháp luật; gia tăng sự tương tác, trao đổi, chia sẻ thông tin đa chiều giữa

cơ quan nhà nước với người dân.

Công tác phổ biến giáo dục pháp luật bước đầu có sự đổi mới, nhất là

việc ứng dụng công nghệ thông tin trong truyền tải pháp luật đến người

dân.Thúc tiến các biện pháp để đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định số

47/QĐ-TTg ngày 26/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án

“Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật giai đoạn 1919-2021” với mục tiêu tăng cường ứng dụng công nghệ

thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu xây

dựng Chính phủ điện tử nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình

thức, nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp, ứng yêu

cầu phát triển của xã hội góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện trong ý

thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của cán bộ và Nhân dân.

Đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động giáo dục

pháp luật. Bên cạnh đó nên tiến hành xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật, khuyến khích và có chính sách để các tổ chức, cá nhân tham gia

đóng góp vào công tác này, giảm gánh nặng của Nhà nước.

Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và Luật hộ tịch nói riêng, góp

99

phần tích cực đưa pháp luật vào cuộc sống và cũng là cơ sở để người dân có

thể tham gia tích cực vào hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật và thực thi

pháp luật.

3.2.4. Bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho công tác

đăng ký hộ tịch và tăng cường công nghệ thông tin trong công tác đăng ký

hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Luật hộ tịch năm 2014 đã có những quy định mới về cơ sở dữ liệu hộ

tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đây là một bước đột phá của Luật Hộ tịch

để hướng đến Chính phủ điện tử. Theo đó, Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản

quốc gia, lưu giữ toàn bộ thông tin hộ tịch của mọi cá nhân đã đăng ký, làm cơ

sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, phục vụ yêu cầu tra cứu thông

tin, quản lý, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cơ sở

dữ liệu hộ tịch bao gồm Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được lập để lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra

cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; được kết

nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cư.Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột

phá về thể chế của công tác hộ tịch. Là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ

thống đăng ký và quản lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

Triển khai và thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng “Cơ sở dữ liệu hộ

tịch điện tử toàn quốc”. Các địa phương cần quan tâm bố trí cơ sở vật chất,

nguồn lực tạo mọi điều kiện cần thiết để việc triển khai, ứng dụng, quản lý

đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về dữ liệu hộ tịch. Nhằm cung cấp

thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và

cơ sở dữ liệu chuyên nghành có liên quan.

Triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng cung cấp các

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, thực hiện chuẩn hóa quy trình tiếp nhận,

100

giải quyết các yêu cầu của người dân về đăng ký hộ tịch. Đặc biệt là đẩy

mạnh việc giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến trong đăng ký, quản lý hộ

tịch nói chung và đăng ký, quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói riêng (đẩy

mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức đột 4: Theo quy

định tại Điểm c, d Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày

13/6/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên

trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của Nhà nước). Khi sử

dụng dịch vụ công trực tuyến sẽ giúp người dân được thụ hưởng dịch vụ

thuận lợi, tiết kiệm chi phí cũng như thời gian đăng ký, mặt khác còn tránh

được nạn nhũng nhiễu, quan liêu, gây phiền hà từ những cán bộ, công chức ở

cơ quan hành chính nhà nước.

Đẩy mạnh tiến hành triển khai thực hiện cơ chế một cửa liên thông điện

tử trong công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên cả nước. Cơ chế

“Một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính là phương thức phối

hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả

kết quả giải quyết một thủ tục hành chính hoặc một nhóm thủ tục hành chính

có liên quan với nhau, theo dõi, giám sát, đánh giá và áp dụng quy trình điện

tử trong giải quyết các thủ tục hành chính giữa các cơ quan thông qua bộ phận

“Một cửa”.Hiện tại trên địa bàn thành phố Hà Nội đang thực hiện cơ chế

“Một cửa liên thông” của 02 thủ tục trong lĩnh vự Tư pháp đó là thủ tục khai

sinh- đăng ký thường trú - cấp thẻ bảo hiểm cho trẻ dưới 6 tuổi và thủ tục

đăng ký khai tử - xóa đăng ký thường trú. Đã được nhân dân đảnh giá là hoạt

động hiệu quả và sự hài lòng của người dân về thủ tục liên thông là rất cao.

Để xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được hiểu quả

cần xây dựng văn bản pháp luật quy định về quá trình vận hành, khai thác,

quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, xây dựng phần mềm đăng ký hộ tịch

phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công tác đăng ký hộ tịch, đổi mới trang thiết

101

bị để việc ứng dụng công nghệ thông tin được hiệu quả…

Có thể nói sau khi Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được hoàn thành và

đưa vào sử dụng thống nhất trong cả nước thì các thủ tục hành chính, đặc biệt

là thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch sẽ được đơn giản hóa về

thành phần hồ sơ, rút gọn về trình tự, thời gian giải quyết và chi phí thực hiện

thủ tục hành chính sẽ giảm. Bên cạnh đó nó sẽ giúp giảm chi phí cho tổng

điều tra dân số, đảm bảo tiết kiệm, tránh lãng phí nguồn lực cả về nhân lực và

tài chính.

Để đảm bảo việc triển khai thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh

vực hộ tịch có yếu tố nước ngoài được chính xác, nhanh chóng, thuận tiện cần

trang bị đầy đủ phương tiện làm việc (máy tính), tủ hồ sơ, sổ hộ tịch, bố trí

địa điểm tiếp dân…Cần đảm bảo công chức Tư pháp- Hộ tịch được trang bị

máy tính có kết nối Internet để thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trực

tuyến. Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thủ tục hành chính phảm đảm bảo

trang thiết bị tốt thiểu, bao gồm: máy vi tính cho mỗi vị trí tiếp nhận và trả hồ

sơ giải quyết, máy photocopy, máy fax, máy in, máy scan, điện thoại cố định,

hòm thư, sổ góp ý và các trang thiết bị cần thiết để đáp ứng nhu cầu làm việc

và yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai thực hiện giải quyết

thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hộ tịch trong đó đặc biệt hồ sơ đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài.

3.2.5. Hoàn thiện các điều ước quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài về

đăng ký hộ tịch

Trong thủ tục đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm bảo vệ

hơn nữa quyền và lợi ích của trẻ em cũng như để đảm bảo cho Công ước

LaHaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước được

thực hiện một cách nghiêm túc thì cần có quy định thêm về thời gian thử

thách của việc nuôi con nuôi và biện pháp xử lý trong việc nuôi con nuôi bị

huỷ và đặc biệt là giải pháp hồi hương cho trẻ em như là giải pháp cuối cùng

102

nếu như lợi ích của trẻ đòi hỏi như vậy.

Để giải quyết pháp luật áp dụng với quan hệ giám hộ có yếu tố nước

ngoài theo quy định tại Điều 682 của Bộ luật Dân sư năm 2015 có quy định

“Giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi người được giám hộ cư

trú”. Vậy pháp luật nơi người được giám hộ cư trú là pháp luật áp dụng đối

với quan hệ giám hộ. Nhưng trong một số Hiệp định tương trợ tư pháp mà

Việt Nam đã ký với cá nước thì chủ yếu áp dụng hệ thuộc luật nơi người được

giám hộ là công dân như tại khoản 4 Điều 32 Hiệp định tương trợ tư pháp

Việt Nam- Lào quy định “Ngh a vụ của người giám hộ trẻ em và người mất

năng lực hành vi dân sự tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà người giám

hộ là công dân”các quy định tương tự như vậy cũng có thể được nhìn thấy

trong Hiệp định tương trợ tư pháp giũa Việt Nam- Mông Cổ (điều 30);Việt

Nam- Liên Bang Nga (Điều 31); Việt Nam- Bungary (Điều 26)….Như vậy có

thể thấy quy định của Điều 682 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có khác so với

quy định trong một số Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký với

các nước. Nhưng khi cân nhắc lợi ích thì việc áp dụng hệ thuộc luật nơi cư trú

của người được giám hộ hợp lý hơn so với áp dụng hệ thuộc luật Quốc tịch

bởi mục đích của việc giám hộ là chăm sóc, bảo vệ cho người được giám hộ

và việc chăm sóc, bảo vệ đó phần lớn đều diễn ra tại nước nơi người giám hộ

cư trú và hệ thuộc luật nước nơi người được giám hộ cư trú cũng phù hợp với

quy định trong một số điều ước quốc tế như Công ước Lahaye năm 1961 về

thẩm quyền và luật áp dụng trong bảo vệ người vị thành niên. Vậy nên áp

dụng hệ thuộc luật nơi cư trú của người được giám hộ trong các Hiệp định

tương trợ tư pháp ký giữa Việt Nam với các nước phù hợp hơn.

Để công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài hoạt động có hiệu

quả cần đẩy mạnh việc ký kiết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực

dân sự, hôn nhân gia đình giữa Việt Nam với các nước.Bên cạnh đó có các

103

biện pháp tổ chức thực hiện hiệu quả các Hiệp định tương trợ tư pháp Việt

Nam đã ký kết với các nước như các cơ quanTrung ương thường xuyên cập

nhật thông tin, hướng dẫn rà soát, đôn đốc các cơ quan tư pháp trong nước

thực hiện tốt các yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài, thực thi nghiêm

túc các điều ước quốc tế đã ký kết. Đồng thời, các cơ quan trung ương của

Việt Nam cũng chủ động liên hệ, trao đổi với các cơ quan của các nước đối

tác để tham vấn về việc thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp của hai bên.

Tổ chức các hội nghị với sự tham gia của phía các cơ quan thực hiện tương

trợ tư pháp của Việt Nam với nước ngoài nhằm mục đích tăng cường đối

thoại và trao đổi thông tin liên quan đến tương trợ tư pháp để nâng cao hiệu

104

quả thực hiện Điều ước quốc tế.

KẾT LUẬN

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi

vào sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân của

cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân. Các sự kiện hộ tịch cơ bản của mỗi cá nhân được đăng ký và quản lý

trong sổ hộ tịch bao gồm: khai sinh, kết hôn, khai tử, nuôi con nuôi, giám hộ,

thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính v.v. .

Nội dung của Luận văn đã đi vào phân tích một cách toàn diện các quy định

về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam với những đặc điểm

như sau:

Một là: Luận văn chỉ ra được vai trò quan trọng của đăng ký hộ tịch nói

chung và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói riêng. Đăng ký và quản lý

hộ tịch có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý dân cư và quản

lý các mặt kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh đồng thời tạo cơ sở pháp lý

để Nhà nước công nhận và bảo hộ các quyền nhân thân phi tài sản và quyền

quyền nhân thân gắn liền với tài sản của cá nhân. Đặc biệt là trong xu thế hội

nhập sâu rộng việc thực hiện tốt công tác này nó giúp bảo đảm quyền lợi cho

người dân trong nước cũng như bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân

nước ngoài với công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.

Hai là: Pháp luật Việt Nam cơ bản đã tạo nền tảng, khung pháp lý điều

chỉnh vấn đề hộ tịch có yếu tố nước ngoài như Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn

nhân và gia đình, Luật Nuôi con nuôi và đặc biệt là Luật Hộ tịch tuy nhiên các

văn bản điều chỉnh về vấn đề hộ tịch có yếu tố nước ngoài vẫn còn bộ lộ thiếu

sót trong luận văn đã chỉ ra như một số khái niệm, quy định còn chưa được

thống nhất trong các văn bản Luật…

Ba là: Việc thực thi các văn bản Luật do cơ quan nhà nước ban hành và

105

các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong lĩnh vực Hộ tịch có yếu

tố nước ngoài đã được tác giả tập trung khảo cứu tại một số địa bàn như thành

phố Hà Nội, tỉnh Bình Dương. Qua khảo cứu cho thấy các địa phương đã

nghiêm túc thực hiện đúng quy định của Luật Hộ tịch, các văn bản Luật có

liên quan và chấp hành điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy

nhiên khi triển khai Luật Hộ tịch tại địa bàn thành phố Hà Nội và tỉnh Bình

Dương còn gặp một số khó khăn về việc đảm bảo đội ngũ cán bộ làm công tác

đăng ký hộ tịch có yếu tổ nước ngoài đủ về số lượng và tiêu chuẩn nghiệp vụ

theo quy định của Luật.Ngoài ra cơ sở vật chất, hàng tầng tại một số địa

phương còn thiếu và lạc hậu dẫn đến việc triển khai thực hiện Cơ sở dữ liệu

hộ tịch điển tử còn gặp khó khăn.

Bốn là: Từ những nghiên cứu đánh giá và hoàn thiện pháp luật hiện

hành về Hộ tịch có yếu tố nước ngoài, thực trạng thực thi. Luận văn đã đưa ra

những kiến nghị để nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong đăng ký hộ

tịch có yếu tố nước ngoài như giải pháp về hoàn thiện quy định của pháp luật

về đăng ký hộ tịch có yếu tố có yếu tố nước ngoài, việc xây dựng và nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Tư pháp- Hộ tịch, bổ sung và trang bị cơ

sở vật chất về máy móc, trụ sở để đảm việc cho việc thi hành pháp luật. Ngoài

ra việc đẩy mạnh tăng cường công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch có

yếu tố nước ngoài phải được chú trọng vì nó giúp rút gọn về trình tự, thời gian

giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực Hộ tịch có yếu tố nước

ngoài. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao hiệu

lực, hiệu quả của công tác thực hiện pháp luật về Hộ tịch có yếu tố nước ngoài

và góp phần bảo đảm sự kiện hộ tịch của công dân được đăng ký kịp thời, đầy

106

đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng việt

1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thượng, Nxb,

Khoa học xã hội.

2. Hoàng Anh (2011), Các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước

ngoài theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Luật Quốc Tế.

3. Bộ Tư pháp (2015), Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (2017), Quyết định 2605/QĐ-BTP ngày 20/12/2017 về

việc quyết định ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu của Bộ Tư pháp giai đoạn

2018-2020.

6. Bộ Tư pháp, Chuyên đề 6 (2015), Những nội dung cơ bản của phần thứ

năm “pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài- Dự thảo

Bộ luật Dân sự (sửa đổi).

7. Bộ Tưpháp (2014), Báo cáo chuyên đề:Tình hình triển khai thi hành

Luật Hộ tịch, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo chuyên đề: Kết quả triển khai Luật Hộ tịch

6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2016, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo công tác tư pháp năm 2017 và phương

hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018, Hà Nội.

10. Chính phủ (1998), Nghị đinh 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của

Chính phủ về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

11. Chính phủ (2005), Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của

107

Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, Hà Nội.

12. Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Hà Nội.

13. Chính phủ (2018), Báo cáo hoạt động tương trợ tư pháp năm 2018,

Hà Nội.

14. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2015), Nội dung cơ bản của đề án

cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, Hà Nội.

15. Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2019), Công văn số 480/HTQTCT-

HT ngày 13/8/2019 về Danh mục Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân,

Hà Nội.

16. Cục pháp chế và cải cách hành chính tư pháp (2015), Vấn đề cấp số

định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh trong nghị định quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật căn cước công dân, Bộ Công

an, Hà Nội.

17. Nguyễn Hồng Hạnh (2016), Thực hiện pháp luật về hồ tịch của UBND

phường- Qua thực tế quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ

luật học, Luật Hiến pháp- Luật Hành chính.

18. Trần Thị Lệ Hoa (2013), “Thực trạng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ

tịch và yêu cầu chuẩn hóa”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên đề pháp

luật về hộ tịch năm 2013), Bộ Tư pháp.

19. Lê Thị Hiền (2012), Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại

Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài, Luận văn thạc

sĩ, Luật Quốc tế, Hà Nội.

20. Dương Bảo Khang (2018), Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực khai sinh,

từ thực tiễn Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nắng, Luận văn thạc sĩ luật học,

Luật Hiến pháp- Luật Hành chính.

21. Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Tư pháp Quốc tế,

108

PGS.Nguyễn Bá Diễn (chủ biên), Nxb Đại họ Quốc gia Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán- Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.

23. Nguyễn Lân (1989), Từ điển từ và ngữ Hàn Việt, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

24. Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ và tài liệu Dân luật và

Hiến luật, Tủ sách Đại học Sài Gòn.

25. TS. Trần Minh Ngọc (chủ biên) 2018, Pháp luật áp dụng đối với quan

hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015.

26. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

27. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

28. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội.

29. Quốc hội (1995), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Hà Nội

31. Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh (2017). Báo cáo tổng kết công tác

tư pháp năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018,

Hồ Chí Minh.

32. Phan Văn Thiết (1958), Hộ tịch chí nam, Tủ sách phổ thông, in lần thứ

nhất, Sài Gòn.

33. Hoàng Như Thái (2012), Vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và

người nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, so sánh với pháp luật một số nước

trên thế giới, Luận văn thạc sĩ, Luật Quốc tế.

34. Nguyễn Văn Tuấn (2015), Giáo dục pháp luật công chức Tư pháp Hộ

tịch, Qua thực tiễn Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật- Đại học Quốc Gia

Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Tư pháp Quốc tế, NXB

Tư pháp Hà Nội, Hà Nội.

36. Vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Cục hộ tịch, quốc tịch (2014), Đề

109

cương giới thiệu Luật hộ tịch, Bộ Tư pháp.

37. Vụ phổ biến giáo dục pháp luật(2010), Cục con nuôi, Đề cương giới

thiệu luật nuôi con nuôi, Bộ Tư pháp.

38. Viện nghiên cứu lập pháp (2013), Thông tin chuyên đề: Một số vấn đề

lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch, Trung tâm thông tin khoa học, Ủy ban

thường vụ quốc hội,

39. Vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp(2013), phổ biến pháp luật

và nghiệp vụ pháp luật về hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.

40. UBND tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai luật

Hộ tịch trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Bình Dương.

41. UBND thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo số 232/BC-UBND ngày

07/12/2016 của UBND thành phố Hà Nội về Tổng kết công tác Tư pháp năm

2016 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2017, Hà Nội.

42. UBND thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo số 342/BC-UBND ngày

13/12/2018 của UBND thành phố Hà Nội về Tổng kết công tác Tư pháp năm

2018 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019, Hà Nội.

43. UBND huyện Hoài Đức (2018), Báo cáo số 312/BC-UBND ngày

17/8/2018 của UBND huyện Hoài Đức về sơ kết 3 năm triển khai luật Hộ

tịch, Hoài Đức.

44. UBND huyện Kim Bảng (2018), Báo cáo số 248/BC-UBND ngày

03/8/2018 của UBND huyện Kim Bảng về sơ kết 3 năm triển khai luật Hộ

tịch, Hà Nam.

45. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin

II. Các website

46. http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-kho-khan-vuong-mac-

trong-viec-dang-ky-ho-tich-va-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-thuc-thi-

57328.htm

47. http://tuphaptamky.gov.vn/2014/news/Nghiep-vu-ho-tich/Mot-so-kho-

khan-vuong-mac-trong-thuc-tien-thi-hanh-Luat-Ho-tich-o-cac-dia-phuong-

110

3487.html

48. https://luatduonggia.vn/xung-dot-phap-luat-la-hien-tuong-dac-thu-cua-

tu-phap-quoc-te/

49. https://lanhsuvietnam.gov.vn/Lists/BaiViet/Bài%20viết/DispForm.aspx

?List=dc7c7d75-6a32-4215-afeb-47d4bee70eee&ID=414

http://vbpl.vn/Pages/danh-sach-dieu-uoc.aspx?DULinhVuc=9 50.

https://stp.binhduong.gov.vn/hanhchinhtuphap/Lists/HoTich/DispForm. 51.

aspx?ID=68

52. https://www.nhandan.com.vn/hanoi/chuyen-quan-ly/item/38076002-

tao-thuan-loi-cho-nguoi-dan-khi-lam-thu-tuc-ho-tich.html

53. http://baophapluat.vn/thoi-su/ha-noi-day-manh-ung-dung-cong-nghe-

thong-tin-trong-cong-tac-ho-tich-414712.html

54. https://hanoi.gov.vn/huong_toi_dai_hoi_dang//hn/FJNMlsYREDd4/3/2

818252/13/so-ket-3-nam-thi-hanh-luat-ho-tich-tren-ia-ban-thanh-pho-ha-

111

noi.html;jsessionid=KV-\HGMNHZif31kxzzqlPx2jR.app2.

PHỤ LỤC

PHỤC LỤC I

Danh mục giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân

(Kèm theo Công văn số 480/HTQTCT- HT ngày 13/8/2019của Cục Hộ tịch,

quốc tịch, chứng thực)

TT QUỐC GIA GIẤY TỜ CHỨNG MINH TÌNH TRẠNG

GHI CHÚ

D

A

B

Có mẫu kèm theo

1.

Liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen

2. Cộng hòa Áo

CQĐD không cung cấp mẫu

Có mẫu kèm theo

3.

Australia

4.

Ấn Độ

CQĐD không cung cấp mẫu

5.

Argentina

CQĐD không cung cấp mẫu

6. Vương quốc Bỉ

Có mẫu kèm theo

7.

Ba Lan

Có mẫu kèm theo

HÔN NHÂN C Bản tuyên thệ/ Bản khai về tình trạng hôn nhân (Được chứng thực bởi Đại sứ quán hoặc Tổng lãnh sự quán Anh tại Việt Nam hoặc Công chứng viên tại Anh, cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân và việc đương sự đủ điều kiện kết hôn) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kết hôn (Ehefähigkeitszeugnis) (Do cơ quan đăng ký hộ tịch tại Áo cấp) Giấy xác nhận không cản trở hôn nhân (Do Bộ Ngoại giao và thương mại/Đại sứ quán/Tổng Lãnh sự quán Úc cấp cho công dân Úc hoặc người nước ngoài cư trú tại Úc) Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân (Do Tòa án cấp quận của Ấn Độ cấp, trường hợp công dân Ấn Độ cư trú ở nước ngoài thì cơ quan đại diện ngoại giao của Ấn Độ sẽ cấp giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân trên cơ sở Bản tuyên thệ độc thân của công dân Ấn Độ đã được cơ quan tòa án cấp quận ở Ấn Độ xác nhận) Giấy tờ có thông tin về tình trạng hôn nhân (Do Đại sứ quán/Lãnh sự quán của Argentinacấp) Giấy chứng nhận không cản trở hôn nhân (Do Đại sứ quán Vương quốc Bỉ tại Việt Nam chứng nhận không có gì cản trở về mặt pháp luật theo luật pháp Bỉ đối với việc kết hôn của công dân Bỉ) Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân (Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do Thủ trưởng cơ quan dân sự tại Ba Lan cấp. Côngdân có thể nhận được cả Giấy xác nhận đủ điều kiện kết hôn do Thủ trưởng cơ quan dân sự/cơ quan lãnh sự của Ba Lan cấp)

8.

Belarut

Giấy chứng nhận về tình trạng hôn nhân (Do cơ quan đăng ký hộ tịch/Phòng Lãnh sự - Đại sứ quán CH Belarut cấp)

- Có mẫu kèm theo; - ĐượcmiễnHPH/CNL S

9.

Braxin

CQĐD không cung cấp mẫu

10.

Canada

CQĐD không cung cấp mẫu

11.

Colombia

Có mẫu kèm theo

12.

Cuba

-CQĐD không cung cấp mẫu; - Miễn HPH/CNLS

13. CHLB Đức

Có mẫu kèm theo

Giấy khai sinh (được cấp không quá 6 tháng)/Giấy đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận ly hôn/Giấy chứng tử/Thông cáo về tình trạng kết hôn2/Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân do phòng đăng ký nơi người yêu cầu đăng ký khaisinh cấp (Thông thường công dân Braxin sẽ nộp Giấy khai sinh có nội dung về tình trạng hôn nhân hoặc Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân do Đại sứ quán/Lãnh sự quán/Cơ quan ngoại giao của Braxin cấp) Bản tuyên thệ về tình trạng hôn nhân (Tuyên thệ tại Đại sứ quán/Tổng lãnh sự quán Canada tại Việt Nam/Phòng công chứng ở Canada) Giấy chứng nhận kết hôn (Do văn phòng đăng ký dân sự/cơ quan đại diện ngoại giao của Colombia cấp) Giấy chứng minh tình trạng hôn nhân (Giấy chứng nhận độc thân/giấy chứng nhận hôn nhân/Giấy chứng tử/Giấy chứng nhận ly hôn) (Do cơ quan đăng ký hộ tịch thuộc Bộ Tư phápcấp) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kết hôn (Do cơ quan chức năng nơi đăng ký cư trú của công dân Đức cấp cho công dân Đức, kể cả trường hợp công dân Đức thường trú ở nước khác).

14

Đan Mạch Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân

Có mẫu kèm theo

15.

Hàn Quốc

Có mẫu kèm theo

16.

Hoa Kỳ

CQĐD không cung cấp mẫu

17.

Hy Lạp

CQĐD không cung cấp mẫu

18.

Indonexia

Có mẫu kèm theo

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Do cơ quan tư pháp địa phương của Hàn Quốc cấp. Trường hợp công dân Hàn Quốc cư trú tại nước ngoài thì do Đại sứ quán/Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc cấp) Bản tuyên thệ về việc đủ điều kiện kết hôn (Được công chứng bởi viên chức lãnh sự Giấy xác nhận/chứng nhận tình trạng gia đình (Pistopiitiko Ekogeniakis Katastasis) (Do cơ quan có thẩm quyền của thành phố/đô thị, cơ quan đại diện ngoại giao/lãnh sự của Hy Lạpcấp) Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân (Do cơ quan địa phương của Indonexia cấp.

19.

Italia

Có mẫu kèm theo

20.

Lào

- CQĐD không cung cấp mẫu; - Miễn HPH/CNLS

21. Liên bang Nga

Có mẫu kèm theo

22. Malaysia

CQĐD không cung cấp mẫu

23. Myanmar

CQĐD không cung cấp mẫu

Trường hợp công dân Indonexia cư trú ở nước ngoài thì giấy này được chứng nhận bởi Đại sứ quán/Tổng lãnh sự quán/Lãnh sự quán) Giấy chứng nhận độc thân/tình trạng hôn nhân + Giấy chứng nhận không cản trở hôn nhân (Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân nơi công dân Italia cư trú tại Italia cấp/cơ quan đại diện ngoại giao tại nước ngoài nơi công dân Italia tạm trú hoặc thường trú cấp; Giấy chứng nhận không cản trở hôn nhân do Đại sứ quán Italia tại Hà Nội cấp) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Do cơ quan tư pháp (Sở Tư pháp) cấp, sau đó Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán/Tổng Lãnh sự quán Lào sẽ chứng nhận) Văn bản đăng ký tình trạng dân sự (Do cơ quan đăng ký về tình trạng dân sự cấp; Cơ quan đại diện ngoại giao của Nga có thể cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện kết hôn hoặc chứng thực chữ ký của công dân trong đơn về việc không cản trở kết hôn) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Do Phòng đăng ký kết hôn và ly hôn- Cục đăng ký quốc gia- Bộ Nội vụ Malaysia cấp cho người không phải tín đồ Hồi giáo Ban tuyên thệ/cam đoan/ Giấy chứng nhận về việc đang sinh sống cùng cha mẹ, được cha mẹ bảo hộ/giám hộ

Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân

Có mẫu kèm theo

24.

Có mẫu kèm theo

Cộng hòa Nam Phi 25. Nhật Bản

Có mẫu kèm theo

26. Oman

Có mẫu kèm theo

27. Panama

28. Cộng hòa Pháp

- CQĐD khôngcung cấp mẫu; - Miễn HPH/CNLS

Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân (Giấy chứng nhận độc thân của Nhật Bản) (Do Thủ trưởng của thành phố, quận, xã, thôn nơi có hộ khẩu; Thủ trưởng Sở Tư pháp hoặc Sở Tư pháp địa phương, Công sứ hoặc Lãnh sự cấp) Bản tuyên thệ về tình trạng hôn nhân (Do Vụ Công chứng - Bộ Tư pháp/Đại sứ quán Oman tại Việt Nam chứng nhận) Giấy chứng minh tình trạng hôn nhân (Do Cục Hộ tịch quốc gia Tòa án bầu cử Panamacấp) Giấy chứng nhận khả năng kết hôn + Giấy chứng nhận độc thân (Do Đại sứ quán/Lãnh sự quán Pháp tại Việt Nam cấp cho công dân Pháp, thông tin về tình trạng hôn nhân và việc đủ điều kiện kết hôn)

29. Phần Lan

CQĐD không cung cấp mẫu

30. Philipines

Có mẫu kèm theo

31. Peru

CQĐD không cung cấp mẫu

32. Rumani

Có mẫu kèm theo

33. Singapore

Có mẫu kèm theo

34. Sudan

35. Saudi Arabia (Ả rập Saudi)

CQĐD không cung cấp mẫu CQĐD không cung cấp mẫu

36. CH Séc

Có mẫu kèm theo

Giấy xác nhận không cản trở hôn nhân (Do cơ quan đăng ký tại địa phương cấp; trường hợp công dân Phần Lan cư trú ở nước ngoài thì phải nộp giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài cấp) Giấy xác nhận đủ điều kiện kết hôn + Giấy xác nhận độc thân Giấy chứng nhận chưa đăng ký kết hôn (Do Cục đăng ký quốc gia về nhân thân và tình trạng hôn nhân cấp. Trường hợp công dân Peru cư trú tại nước ngoài thì có thể nộp Bản tuyên thệ độc thân tại Đại sứ quán/Tổng Lãnh sự quán) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và Bản tuyên thệ độc thân (Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan đăng ký hộ tịch cấp; Bản tuyên thệ độc thân trước viên chức lãnh sự của Đại sứ quán Rumani tại Hà Nội) Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân (thông qua kết quả tìm kiếm) (Do cơ quan đăng ký kết hôn hoặc cơ quan đăng ký kết hôn hồi giáo cấp) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Do cơ quan Tư pháp/Đại sứ quán cấp) Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân/ được phép kết hôn (Do cơ quan có thẩm quyền của Ả rập Saudi hoặc Đại sứ quán Ả rập Saudi cấp/ chứng nhận Giấy xác nhận không cản trở hôn nhân (Do phòng đăng ký của văn phòng thành phố tại thị trấn/ thành phố nơi thường trú cuối cùng của người nộp đơn ở CH Séc; đối với công dân Séc cư trú ở nước ngoài do Phòng đăng ký của Văn phòng Praha 1 cấp)

37. Tây Ban Nha Giấy chứng nhận còn sống và tình trạng hôn

Có mẫu kèm theo

38. Thái Lan

CQĐD không cung cấp mẫu

39. Thổ Nhĩ Kỳ

Có mẫu kèm theo

nhân + Tuyên thệ về tình trạng hôn nhân (Do cơ quan đăng ký hộ tịch cấp quận/cơ quan đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha cấp) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Do Văn phòng Tư pháp các huyện thuộc Bộ Nội vụ Thái Lan cấp) Giấy tờ (giấy khai sinh) có thông tin về tình trạnghôn nhân (Do Tổng cục/Cục dân số và các vấn đề công dân thuộc Bộ Nội vụ cung cấp. Sau đó, Đại sứ

quán (tại bất kỳ quốc gia nào) trên cơ sở thông tin đó sẽ cấp giấy tờ chứng nhận)

40. Thụy Sĩ

CQĐD không cung cấp mẫu

Có mẫu kèm theo

41. Trung Quốc (Đài Loan)

42. Thụy điển

CQĐD không cung cấp mẫu

Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân (Do văn phòng hộ tịch nơi cư trú của công dân Thụy Sĩ cư trú tại Thụy Sĩ cấp; văn phòng hộ tịch nơi đăng ký gốc cấp cho công dân Thụy Sĩ cư trú ở nước ngoài) Giấy chứng nhận/ Tuyên thệ độc thân+ Công hàm giới thiệu kết hôn Giấy chứng nhận độc thân do Tòa án địa phương huyện, thành phố cấp; Công hàm giới thiệu kết hôn do Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội/TP Hồ Chí Minh cấp) Giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân/được phépkết hôn4 (Do cơ quan có thuế, Đại sứ quán, Lãnh sự quán và Bộ ngoại giao Thụy Điển có thẩm quyền cấp Giấy phép kết hôn))

* Lưu ý: Mẫu giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của một số quốc gia

được đăng tải và cập nhật trên Cổng thông tin điện tử của Cục Hộ tịch, quốc

tịch, chứng thực tại địa chỉ http://qtht.moj.gov.vn/Pages/trang-chu.

PHỤC LỤC II

Danh sách các nƣớc và loại giấy tờ, tài liệu đƣợc miễn hợp pháp hóa lãnh

sự, chứng nhận lãnh sự

Cập nhật tháng 6/2019)

CQTƯ: Cơ quan Trung ương

HĐTTTP: Hiệp định tương trợ tư pháp HĐLS: Hiệp định lãnh sự TTTP: Tương trợ tư pháp; CQĐD: Cơ quan đại diện

VQKTVH: Văn phòng Kinh tế - Văn hoá HPH: Hợp pháp CNLS:Chứng nhận lãnh sự

Các chữ viết tắt:

----------------------------

STT Tên nƣớc Loại giấy tờ

Cơ quan cấp

Cơ sở miễn HPH/CNLS

Các cơ quan có thẩm quyền của hai Bên

Điều 10 HĐTTTP về hình sự ngày 14/4/2010

1.1. Các giấy tờ, tài liệu dùng trong mục đích TTTP về hình sự

1

Cộng hòa An-giê-ri Dân chủ và Nhân dân

Các cơ quan có thẩm quyền

Điều 5 HĐTTTP trong lĩnh vực dân sự và thương mại năm 2010

1.2. Các giấy tờ dân sự, thương mại có chữ ký và con dấu chính thức của CQ có thẩm quyền cấp

Hƣớng dẫn áp dụng Chỉ miễn HPH/CNLS giấy tờ dùng cho mục đích TTTP và chuyển qua các CQTƯ theo Hiệp định Chỉ miễn HPH/CNLS giấy tờ dùng cho mục đích TTTP và chuyển qua các CQTƯ theo Hiệp định

Các cơ quan có thẩm quyền của hai Bên

Điều 14 và 15 HĐTTTP năm 1993

Chỉ miễn HPH/CNLS giấy tờ dùng cho mục đích TTTP theo Hiệp định

2

Cộng hòa Ba Lan

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 34 HĐLS năm 1979

Được miễn HPH/CNLS

Điều 12 HĐTTTP năm 1986

Được miễn HPH/CNLS

3

Cộng hòa Bun-ga-ri

2.1. Các loại giấy tờ lao động (Điều 1.3), dân sự, gia đình, hình sự được cơ quan có thẩm quyền lập, chứng thực 2.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 3.1. Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự 3.2. Các giấy tờ

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên CQĐD của nước

Điều 33 HĐLS năm Được miễn

này tại nước kia

1979

HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Điều 11 HĐTTTP năm 2000

Được miễn HPH/CNLS

4

Cộng hòa Bê-la-rút

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 13 HĐLS năm 2008

Được miễn HPH/CNLS

5

Được miễn HPH

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Cam-pu-chia

Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

Vƣơng quốc Cam- pu-chia

6

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Điều 14 HĐTTTP về dân sự năm 2011

Cộng hòa Ca-dắc- xtan

Chỉ áp dụng đối với giấy tờ, tài liệu chuyển giao qua kênh liên lạc theo quy định của Hiệp định

Điều 13 HĐTTTP năm 1988

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

7

Cộng hòa Cu-ba

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 12 HĐLS năm 1981

Được miễn HPH/CNLS

8

Các cơ quan có thẩm quyền của hai Bên

Trung Quốc (Đài Loan)

Điều 15 Thỏa thuận giữa hai VPKTVH về TTTP trong lĩnh vực dân sự

Chỉ miễn HPH/CNLS giấy tờ dùng cho mục đích TTTP theo Thỏa thuận

thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 4.1. Các loại giấy tờ dân sự (thương mại), gia đình, lao động, hình sự 4.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Giấy tờ sử dụng để đăng ký khai sinh, giải quyết các việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định tại khu vực biên giới Bản án, quyết định của Tòa án, hoặc trích lục bản án, quyết định của Tòa án hoặc các tài liệu cần thiết khác có liên quan đến hộ tịch của công dân Bên ký kết 7.1. Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự, lao động 7.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Các loại giấy tờ dân sự, thương mại, hôn nhân, gia đình và lao động (Điều 1.2) có chữ ký và con dấu chính thức của CQ có thẩm quyền cấp

9

Cơ quan có thẩm

Điều 4 Hiệp định

Được miễn HPH

Vƣơng Giấy tờ dùng vào

quyền của hai Bên hợp tác về nuôi con

quốc Đan Mạch

10

Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam

Được miễn HPH (áp dụng đối với giấy tờ của Việt Nam)

Vƣơng quốc Hà Lan

nuôi năm 2003 CH số HANOI/2015-236 ngày 10/12/2015 (ĐSQ Hà Lan tại Hà Nội)

Các cơ quan có thẩm quyền của hai Bên

Điều 6 HĐTTTP về dân sự năm 2018

11

Chỉ miễn HPH/CNLS giấy tờ được chuyển giao qua các kênh liên lạc theo theo quy định của Hiệp định

Cộng hòa Hung-ga-ri

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 33 HĐLS năm 1979

Được miễn HPH/CNLS

12

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 40 HĐLS năm 1990

Được miễn HPH/CNLS

Cộng hòa I-rắc

13

Cơ quan có thẩm quyền của hai nước

Được miễn HPH/CNLS

Cộng hòa I-ta-li-a

Điều 4 HĐ hợp tác về nuôi con nuôi năm 2003

Điều 12 HĐTTTP năm 1988

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 36 HĐLS năm 1985

Được miễn HPH/CNLS

14

CHDCND Lào

Được miễn HPH

Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Lào tại khu vực biên giới

15 Mông Cổ

việc cho nhận nuôi con nuôi Giấy tờ, tài liệu của Việt Nam đã được chứng nhận lãnh sự tại Bộ Ngoại giao Việt Nam 11.1. Các giấy tờ công do cơ quan của một Bên ký kết ban hành hoặc giấy tờ tư có công chứng/chứng thực như chứng nhận đăng ký, chữ ký hoặc nhận dạng 11.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Giấy tờ dùng vào việc cho nhận nuôi con nuôi 14.1. Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự 14.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 14.3. Giấy tờ sử dụng để đăng ký khai sinh, giải quyết các việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định tại khu vực biên giới 15.1. Các loại giấy tờ dân sự, hôn nhân

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của

Điều 8 HĐTTTP năm 2000

Được miễn HPH/CNLS

hai Bên

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 31 HĐLS năm 1979

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan Tư pháp của hai Bên (**)

Được miễn HPH/CNLS

Điều 15 HĐTTTP và PL về các vấn đề dân sự và hình sự năm 1998

16

Liên bang Nga

CQĐD của nước này tại nước kia

Được miễn HPH/CNLS

Điều 29 HĐLS năm 1978 (ký với Liên Xô)

gia đình, hình sự 15.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 16.1. Các loại giấy tờ do cơ quan tư pháp lập hoặc chứng thực (gồm cả bản dịch, trích lục đã được chứng thực) 16.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự

17.1. Các loại giấy tờ hộ tịch

Áp dụng nguyên tắc có đi có lại

Được miễn HPH/CNLS

17 Nhật Bản

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên Cơ quan có thẩm quyền lập và chuyển qua các CQTƯ

Điều 17 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi - Điều 26 HĐTTTP về các vấn đề dân sự năm 1999

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

- Công hàm trao đổi giữa CLS và ĐSQ Pháp tại HN năm 2011

18

Cộng hòa Pháp

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan có thẩm quyền lập và chuyển qua các CQTƯ

Điều 17 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 35.3 HĐLS ngày 21/12/1981

Được miễn HPH (phải được CNLS nếu phía Bên kia yêu cầu)

19 Ru-ma-ni

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 22 HĐLS năm 1995

Được miễn HPH/CNLS

20

Được miễn HPH/CNLS

Cộng hòa Séc

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

Điều 13 HĐTTTP năm 1982 (ký với Tiệp Khắc)

17.2. Giấy tờ dùng cho việc nhận nuôi con nuôi 18.1. Bản án, quyết định công nhận/thi hành án dân sự, các giấy tờ hộ tịch, giấy tờ dân sự dùng cho việc kết hôn, nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ, con 18.2. Giấy tờ dùng cho việc nhận nuôi con nuôi 18.3. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 20.1. Các loại giấy tờ dân sự (bao gồm các việc về gia đình và lao động) và hình sự

CQĐD của nước này tại nước kia

Được miễn HPH/CNLS

Điều 40 HĐLS năm 1980 (ký với Tiệp Khắc)

20.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự

21

Các giấy tờ, tài liệu về hình sự

Điều 21 HĐ TTTP về hình sự năm 2015

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

Vƣơng quốc Tây Ban Nha

Được miễn HPH/CNLS khi chuyển giao thông qua các Cơ quan trung ương

22

Được miễn HPH

Cơ quan có thẩm quyền của hai Bên

Liên bang Thụy Sỹ

Giấy tờ dùng vào việc cho nhận nuôi con nuôi

Điều 4 HĐ hợp tác về nuôi con nuôi năm 2005

Điều 29 HĐTTTP năm 1998

Miễn HPH/CNLS giấy tờ dùng cho mục đích TTTP theo HĐTTTP năm 1998

23.1. Các loại giấy tờ dân sự (thương mại, hôn nhân gia đình và lao động) và hình sự

Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên lập hoặc xác nhận, ký và đóng dấu chính thức

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 45 HĐLS năm 1998

Được miễn HPH/CNLS

23

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (**)

Được miễn HPH

Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Trung Quốc tại khu vực biên gưới

Điều 12 HĐTTTP năm 2000

Được miễn HPH/CNLS

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

24 U-crai-na

CQĐD của nước này tại nước kia

Điều 42 HĐLS năm 1994

Được miễn HPH/CNLS

25

Được miễn HPH/CNLS

Cộng hòa Xlô-va-ki-a

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

Điều 13 HĐTTTP năm 1982 (ký với Tiệp Khắc)

23.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 23.3. Giấy tờ sử dụng để đăng ký khai sinh, giải quyết các việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định tại khu vực biên giới 24.1. Các giấy tờ dân sự (thương mại, hôn nhân gia đình, lao động) và hình sự 24.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự 25.1. Các loại giấy tờ dân sự (bao gồm các việc về gia đình và lao động) và hình sự

CQĐD của nước này tại nước kia

Được miễn HPH/CNLS

Điều 40 HĐLS năm 1980 (ký với Tiệp Khắc)

26

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai Bên

Cộng hòa In-đô-nê- xi-a

Chỉ áp dụng đối với giấy tờ, hồ sơ được chuyển giao theo Hiệp định

Điều 19 HĐTTTP về hình sự ký ngày 07/6/2013, có hiệu lực từ ngày 22/1/2016

25.2. Các giấy tờ thuộc thẩm quyền của viên chức lãnh sự Các tài liệu, hồ sơ dùng trong mục đích TTTP về hình sự, trừ trường hợp đặc biệt khi Bên được yêu cầu đề nghị rằng các hồ sơ hoặc tài liệu phải được chứng thực

Ghi chú:

- Theo quy định tại Điều 9.4 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2011

của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự, giấy tờ, tài liệu

mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải

HPH, CNLS phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc

của nước ngoài thì cũng được miễn HPH, CNLS.

- Việc thực hiện theo các Hiệp định nêu trên không ảnh hướng đến việc HPH,

CNLS giấy tờ theo yêu cầu của công dân tại các cơ quan có thẩm quyền của

Việt Nam nhằm tạo thuận lợi cho công dân theo quy định tại Điều 10.2

Thông tư 01/2012/TT-BNG ngày 20/3/2012 của Bộ Ngoại giao Hướng dẫn

thực hiện một số quy định của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày

5/12/2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự.

- (*) Liên bang Nga: Cơ quan Tư pháp là các Tòa án, Viện kiểm sát và các

cơ quan khác có thẩm quyền về các vấn đề dân sự và hình sự (Văn phòng

công chứng, Công ty luật) theo pháp luật của nước nơi cơ quan này có trụ sở.

- (**) Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Đối với giấy tờ như bằng cấp,

chứng chỉ, lý lịch tư pháp (xác nhận không tiền án, tiền sự) và các giấy tờ liên

quan khác do cơ quan công chứng của Trung Quốc hoặc cơ quan có thẩm

quyền khác (bao gồm Hồng Kông, Ma Cao) chứng nhận, sau đó được Vụ

Lãnh sự Bộ Ngoại giao Trung Quốc (hoặc cơ quan ngoại vụ địa phương

Trung Quốc được ủy quyền) chứng thực thì phải HPH tại CQĐD Việt Nam

tại Trung Quốc (Căn cứ theo nội dung công hàm trao đổi giữa Cục Lãnh sự

và ĐSQ Trung Quốc tại Việt Nam).

PHỤC LỤC III

Số liệu đăng ký hộ tịch tại một số quận, huyện trên địa bàn cả nƣớc

Biểu số 1: Số liệu đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Hoài Đức, TP Hà Nội

(Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2018)

Ghi vào sổ việc hộ tịch đã đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài

Năm

Khai sinh

Khai tử

Kết hôn

Nhận cha mẹ con

Khai sinh

Kết hôn

Nuôi con nuôi

Các thay đổi hộ tịch khác

13 8 9 20

6 3 10 19

0 0 3 3

1 1 2 4

1 0 0 1

0 2 1 3

0 0 0 0

0 1 0 1

Ly hôn/ hủy việc kết hôn 1 0 0 1

2016 2017 2018 Tổng Biểu số 2: Số liệu đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam

(Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/6/2018)

Ghi vào sổ việc hộ tịch đã đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nƣớc ngoài

Năm Khai sinh Khai tử Kết hôn

Nhận cha mẹ con Khai sinh Kết hôn Nuôi con nuôi

Ly hôn/ hủy việc kết hôn 0 0 0 0 Các thay đổi hộ tịch khác 0 0 0 0 2016 2017 2018 Tổng 3 2 1 6 0 0 0 0 7 19 4 30 0 1 0 1 0 0 1 1 0 0 0 0 1 1 0 2