
vietnam medical journal n02 - MARCH - 2020
134
vô cảm tốt cho các bệnh nhân trong mổ lấy thai.
Kết quả này của chúng tôi không phù hợp với kết
quả của Gautier (sử dụng liều 12 mg ropivacain
để gây tê tủy sống đạt chất lượng vô cảm tốt
tương đương bupivacain liều 8mg hoặc
levobupivacain liều 8mg), có thể do tác giả này
phối hợp với 2,5 mcg sufentanil trong khi nghiên
cứu của chúng tôi sử dụng 30 mcg fentanyl [2].
*Mức độ hài lòng của bệnh nhân và
phẫu thuật viên: Theo kết quả ở bảng 3.4,
mức độ hài lòng của bệnh nhân được chia thành
3 mức độ: Rất hài lòng, hài lòng và không hài
lòng. Tỷ lệ rất hài lòng ở nhóm bupivacain và
levobupivacain đều cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm ropivacain (p < 0,05). Điều này là
do các bệnh nhân ở nhóm ropivacain còn có cảm
giác tức bụng khi phẫu thuật viên kéo cơ thành
bụng trong thì mở bụng và ấn đáy tử cung ở thì
lấy thai.
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy, tỷ lệ phẫu thuật
viên rất hài lòng ở nhóm bupivacain và
levobupivacain đều cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm ropivacain (p < 0,05). Điều này chủ
yếu do nhóm ropivacain có thời gian chờ tác
dụng kéo dài hơn và mức độ mềm cơ kém hơn
so với hai thuốc kia, do đó, không tạo điều kiện
thuận lợi cho phẫu thuật viên khi lấy thai.
V. KẾT LUẬN
Gây tê tủy sống để mổ lấy thai có phối hợp
fentanyl 30 mcg bằng bupivacain liều 8 mg có
hiệu quả vô cảm tương đương với levobupivacain
liều 8 mg nhưng tốt hơn ropivacain liều 12 mg:
Thời gian khởi phát ức chế cảm giác đau đến
T10 và T6 của bupivacain tương đương
levobupivacain nhưng ngắn hơn ropivacain; thời
gian kéo dài ức chế cảm giác đau đến T10 của
bupivacain dài hơn levobupivacain và ropivacain;
chất lượng vô cảm tốt của bupivacain tương
đương levobupivacain nhưng cao hơn ropivacain;
tỷ lệ bệnh nhân và phẫu thuật viên rất hài lòng
của bupivacain cũng tương đương
levobupivacain nhưng cao hơn ropivacain.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc San (2014), So sánh gây tê tủy sống
bằng levobupivacain kết hợp fentanyl với
bupivacain kết hợp fentanyl trong phẫu thuật lấy
thai. Luận văn thạc sỹ y học, chuyên ngành Gây
mê hồi sức, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Gautier P., De kock M et al (2003),
Comparison of the effects of intrathecal
ropivacaine, levobupivacaine, and bupivacaine for
Caesarean section. Br J Anaesth, 91(5):p.684-9.
3. Guler G., Cakir G et al (2012), A comparison of
spinal anesthesia with Levobupivacaine and
hyperbaric Bupivacaine for Cesarean section: A
Randomized Trial. Open Journal of Anesthesiology
02(03): p.84-89.
4. Luck J.F., Fettes P.D. et al (2008), Spinal
anaesthesia for elective surgery: A comparison of
hyperbaric solutions of racemic bupivacaine,
levobupivacaine, and ropivacaine. Br J Anaesth,
101(5):p.705-10.
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT THÙY PHỔI NẠO VÉT HẠCH ĐIỀU TRỊ UNG
THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NH GIAI ĐOẠN I-II TẠI BỆNH VIỆN K
Nguyễn Khắc Kiểm*
TÓM TẮT36
Phẫu thuật nội soi lồng ngực với xu thế xâm nhập
tối thiểu, ít xâm lấn, hậu phẫu nhẹ nhàng, bệnh nhân
phục hồi nhanh, giảm đau và đạt tính thẩm mỹ
cao…Đã và đang trở thành xu thế phát triển mới. Qua
nghiên cứu 196 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi
cắt thùy phổi nạo vét hạch tại Bệnh viện K chúng tôi
thấy: chủ yếu các khối u đk 2 - 3 cm chiếm 37,2%, từ
3-4 cm 22,5%; các khối u sớm T1ab đường kính ≤ 2
cm chiếm tỷ lệ thấp 6,1% và 14,8%. PTNS 189 bệnh
*Bệnh viện K
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Khắc Kiểm
Email: Nguyenkhackiemtho@gmail.com
Ngày nhận bài: 9.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 28.2.2020
Ngày duyệt bài: 10.3.2020
nhân (96,4%) là VATS, có 7 bệnh nhân (3,6%) PTNS
chuyển mổ mở. Tổng số hạch nạo vét được là 1837
chiếc, bệnh nhân ít hạch nhất là 4 hạch và nhiều nhất
là 18 hạch. Trong các nhóm hạch N1 (+) chiếm
29,8%, hạch N2 (+) chiếm 7,4%. Các hạch có đk ≤ 5
mm tỷ lệ (+) thấp chỉ 6,8%, hạch lớn đk 10-15mm tỷ
lệ (+) cao 38,5%. Thời gian sống thêm toàn bộ 3 năm
cho giai đoạn I là 95,8%; giai đoạn II là 73,8%; sang
giai đoạn IIIA tỷ lệ này giảm còn 41,6%. Thời gain
sống thêm cũng phụ thuộc nhiều vào di căn hạch, ở
gđ chưa di căn hạch N0 sống 3 năm đạt 89%, khi di
căn hạch N1-2 tiên lượng xấu, sống 3 năm còn 62,2%.
SUMMARY
THORACOSCOPIC LOBECTOMY SURGERY
WITH LYMPH NODE DREDGING FOR THE
TREATMENT OF STAGE I-II NON SMALL
CELL LUNG CANCER IN THE K HOSPITAL