Phong cách thơ Ngải Thanh
và những ảnh ởng từ phái
tượng trưng
Với ch viết dùng mt lot nhiều câu điệp ng này, đồng thờing là s lặp li một
kiu ýợng (hình ảnh thơ), nhà thơ muốn dựa vào hình thc này đ ch luỹ các ý tượng,
không ngừng làm tăng mc đ tình cm. Theo sự o dàiđứt ni của các dòng thơ, cảm thc
v thời gian và không gian trong thơ đưc tăng thêm. Dung lượng ca c bài thơ vì thế mà
đưc khuếch đại hơn so với cách viết “bình diện. c nhà thơ ca phái ch nghĩa tượng trưng
rt chuyên dùng th pháp này, s vận dụng của Ngải Thanh với th pháp này có th nói là m
ra một khuôn mặt mới, một s xut thn nhập h.
3. V ngôn ng thơ, ng với hình thc th văn xuôi, khu ng hoá cũng là mt đặc
trưng quan trng khác trong thơ tdo Ngải Thanh. Ông nói: “Cái hay cái đp của văn xuôi
trong thơ mà i nói đến chính là cái hay cái đẹp của lời ăn tiếng nói hàng ngày (16).
Ông đặc biệt suy tôn vickhẩu ng h của Đi Vọng Thư, và đưa ra những đánh giá
rt cao. Ông nóikhẩu nghoá là phát minh ca Đới Vng Thư, trong sáng tác ca mình
rng ông chu ảnh hưởng “khẩu ng h của Đới Vọng Thư. Vì có quan h này, vic Ngi
Thanh theo đuổi “v đẹp lời nói hàng ngày không ch là theo đuổi với ý nghĩa thông thường
theo quy luật t nhiên và hợp với qun chúng, mà đồng thi ng là s tương quan mt thiết
thú v của ngh thut ng to ra ngôn ng mi của ch nghĩa tượng tng.
“V đp lời nói hàng ngày ca thơ Ngải Thanh có th thâu tóm vài đặc trưng đáng chú
ý sau: Một là, thanh điệu t nhiên, tc đọc trôi chy, nghe hài hoà. d một đoạn trong
bài Ngn đuc:
Ngọn đèn du t tn đài
phát ng. Ngưi din thuyết đng tn đài
hướng v ngàn vn l tai đọc li tuyên nn.
Ming ông mở to âm thanh t đó ra
Tay ông giơ cao lại nắm thành nm đm
Nm đm của ông đm xung mnh m
Cùng buông ra trong ming hai từ:Đ đo!
Những câu thơ này rt d khiến người ta liên tưởng đến nhng câu trong bài Ký c của
tôi (Ngã đích kýc) ca Đới Vng Thư. T đó có ththấy, Ngải Thanh chunh hưởng kiu
“khẩu ng hoá của Đới Vọng Thư:
Li của là li cổ xưa, ln nói mãi một chuyn như hệt,
Điệu ca là điu hài hoà, luôn hát nhng i hát như hệt,
Đôi khi còn bt chước tiếng i ca cô i tr xinh xắn,
Tiếng ca nó lại không có hơi sc,
Mà vẫn c khép mt là lchảy, khép lại là th dài.
(Đi Vọng Thư, Ngã đích ký c)
Hai là, tạo đi sống mới cho nn ng, tc là “tránh dùng nhng kiểu viết , cố gắng
“sáng to nên những từ ng mới, ngôn ng mi(17). Đc bit là chú trng vic “s dụng ngôn
ng để nắm bt ánh sáng của cái đp, màu sc của cái đẹp, hình th cái đẹp, sự vận động của
cái đẹp(18), khiến cho ngôn ngthơ ông đẹp như bc tranh. Như một đoạn trong bài Lửa
hoang (Dã ho):
Trong đêm đen này rc cháy lên
Trên đnh núi cao cao này
Bàn tay rc ng ca ngưi đưa ra
Vut ve lng ngực rộng lớn ca đêm
Vut ve lng ngực t lnh của trời
T i cao nht ca ni những ánh sáng nhy múa
Làm bay n những vì sao lửa...
Đoạn thơ trên tác gi đãng những từ ng đầyng tạo và mới mẻ, gợi lên những cảm
giác âm thanh, màu sc, hình nh, động c khiến thơ ông như một “bức tranh ca nhng con
ch. Điều này rõ ràng là do ảnh hưởng t việc Ngải Thanh từng theo hc v và niềm đam mê
ngh thuật hội hoạ phái ấn tượng. Ngoài ra, theo đuổi sc thái nn ngng là vấn đ bản
trong ngh thuật thơ ca phái tưng trưng; sc thái ngôn ng thơ Ngải Thanh cũng nên xem là
kết qucủa vic ông đã mnh dn kết hợp nhuần nhuyễn ngh thut thơ của ch nghĩa ợng
trưng.
Ba là, phong cách mc mc, tc là “dùng ngôn ngsáng sủa nht đ biểu hiện những
cái bn chất nhất ca s vật”. Ngải Thanh chuộng v đp mộc mạc, ông cho rằng “ngôn ng
biu hin những tình cm, cảm xúc, tư ởng của bạn một cách đầy đủ và chính xác nht là
ngôn ng hay nhất(19). Phong ch này th hiện rõ nhất trong bài thơ tr tình ngn mang tính
triết lý, như bài Cuc đi thoi với than đá (Môi đích đối thoại), hoá thạch (Ngư h thch),
Cây (Th) Ví d bài y:
Tng cây, từng y
Cây y y kia đng l loi trên mt đất
Gió và không khí
Nói cho cng biết cli
Nhưng dưi lp n đất
R chúng ơn dài
Nơi đáy u chẳng thấy
Chúng kết rchằng chịt cùng nhau
Phong cách mộc mạc, chất phác và chính xác này, một mặt nhờ sự tích luỹ lời nói
thường ngày của con người hiện đại, mặt khác là do quan hệ với phái tượng trưng cho đến
ngôn ngữ thơ phái ý tưng. Bởi vì, giống như nhà thơ phái tượng trưng giai đoạn hậu kỳ
Esenin mà Ngải Thanh đã chu ảnh hưng, thực tế cũng đã hợp lưu với phái ý tượng để
theo đuổi những hình ảnh, ý tưng mới lbt ngờ, mạnh mvà tác phong ngôn ng sáng
rõ, mộc mạc kiểu phù điêu. Ngải Thanh từng chủ trương “dùng ý tượng cảmc để th
tiêu những ẩn dụ mông lung, mù mờ” khiến cho “cuộc sống” chân thực của thơ thật sự
thành “sự ngưng tụ của cái đẹp, một thể chất có độ cứng và sức nặng. Bất kể là mộng hay
ảo tưởng cũng phải là một cá thể” (20), chính là một minh chứng của sự tiếp nhận ảnh
ởng này. Khác với sự theo đuổi ngôn ngữ thơ đại chúng hoá thông tục dễ hiểu vi sự rõ
ràng trong sáng mà nhng nhà thơ bạch thoại thời kỳ đầu chú trọng, ngôn ngữ thơ trong
sáng, mộc mạc này của Ngải Thanh đã đạt được sự hàm súc, có lẽ cũng chính từ sự kết
hợp giữa phong cách thơ phái ý tượng và phái tượng trưng với lời nói của những con
người hiện đại.
4. Ngoài nhng ảnh ởng nghệ thuật từ những nhà thơ của các trường phái khác
nhau, nguyên nhân cơ bản để phong cách thơ Ngải Thanh thật sự trưởng thành và chín
muồi còn ở sự tôi luyện trong khói lửa của cuộc chiến tranh dân tộc. Đặc biệt là sau khi
ông chuyển đến Diên An, là vùng đất thánh cách mạng Tây Bắc, tham dự cuc nói chuyện
đường lối văn nghcủa Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai… tư tưởng tình cảm và ý thơ càng
trở nên sâu sắc, tinh tế hơn. Không nhng thế, thời gian này ông còn tham gia viết những
tác phẩm lý luận thơ. Ông từng tự nói rằng: “Giai đoạn trước cuộc chiến tranh chống Nhật
là giai đoạn cao trong sáng tác của tôi(21). Trong thời gian này, “thơ mới Trung Quốc
cũng ging như các bộ môn văn học Trung Quốc, đã trưởng thành và phồn thịnh một cách
nhanh chóng trên con đường hiện thực chủ nghĩa”(22), “từ cuộc kháng chiến chống Nhật
đến nay, thơ mới Trung Quốc… bất luận nội dung hay hình thức đều hoàn chỉnh và phong
phú hơn những thời kỳ khác gấp bội”(23).
Ông có một đoạn bàn vsự thay đi của thơ mới nhng năm bt đầu cuộc kháng chiến,
tuy là nói chung, nhưngng có th là chân dung t ho v ngh thuật thơ Ngi Thanh đã đt
đến trình độ cao trong khói la của cuc kháng chiến:
“Thơ mới Trung Quc trong bn năm kháng chiến tr li, vì đ biểu hiện trn vẹn s
tráng l của cuc đấu tranh đầy nhân tính, và s hùng tráng đp đ của cuc sống đu tranh, nó
t nhiên phi cởi b cái hình thc mài giũa chi li và s thú v gi to; vt bỏ mọi sự hư cấu và
nhng điều không tưởng, thậm c c nhng nội dung lãng mạnnó rời xa nhng tư tưởng
tình cảm của phái banas gần như bị đông cứng, cả s cách điệu munai cứng nhắc; nó cũng xa
ri sự bay bng và s hào hứng tri suốt ngàn dm (sự hào hng này nảy sinh từ s phóng ng
buông th không tưởng ca ch nghĩa anh hùng cá nn) ca ch nghĩa lãng mn còn sót lại;
nó tuyệt duyên với ch nga tượng trưng, ch nghĩa thn bí, nhng tiếng gào thét tinh thn của
k gần như tâm thần, những lời mê sảng nhợt nhạt, t xét trống rỗng, và lời độc thoại với giọng
run ry; nó cởi btất c những chiếc áo khc màu đen, chiếc áo khoác quan niệm, chiếc áo
che đậy thế giới s vật bằng s thần bí; nó mnh dạn cảm th thế gii, lý giải thế gii một cách
rõ ràng, và phản ánh thế giới thật sáng rõ, chính xác(24).