intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách giáo khoa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

5
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giúp HS biết đọc hiểu các kiểu loại văn bản dựa trên những kiến thức, trải nghiệm, khả năng suy luận, tư duy độc lập của bản thân. Qua các ngữ liệu chọn lọc, HS đọc và lĩnh hội được những hiểu biết cơ bản, có khả năng tìm tòi khám phá để củng cố, mở rộng vốn sống và tri thức văn hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách giáo khoa

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC GIANG TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG -------***------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA Nhóm tác giả: 1. Phạm Thị Thanh Bình - Tổ trưởng CM 2. Nguyễn Thị Minh Duyên - Tổ phó CM Tổ: Ngữ văn Năm học: 2023 - 2024 Bắc Giang, tháng 3 năm 2024
  2. MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Tên sáng kiến 1 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 1 3. Các thông tin cần bảo mật 1 4. Mô tả giải pháp cũ thường làm 1 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến 4 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến 6 7. Nội dung 6 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến 6 7.1.1. Định hướng, sàng lọc văn bản ngoài chương trình, SGK phù hợp 7 7.1.2. Hướng dẫn HS cách thức tìm hiểu văn bản ngoài chương trình theo đặc 13 trưng thể loại 7.1.3. Hướng dẫn HS tìm kiếm, khai thác tư liệu phục vụ việc tìm hiểu văn bản 25 ngoài chương trình 7.1.4. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức báo cáo và đánh giá sản phẩm tự 29 nghiên cứu của HS 7.1.5. Hướng dẫn HS vận dụng tri thức về các văn bản ngoài chương trình, 30 SGK vào thực tiễn học tập và thi cử 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến 32 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến 33 ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT CỦA NHÀ TRƯỜNG 37 PHỤ LỤC 38-85 2
  3. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách giáo khoa 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 4 năm 2023 3. Các thông tin cần bảo mật: Không 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm Thực tiễn cho thấy: Việc hướng dẫn học sinh (HS) tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình (chương trình năm 2006 quy định cụ thể về văn bản được giảng dạy, trong một bộ sách giáo khoa duy nhất và thống nhất trên toàn quốc) hầu như không được quan tâm. Đến năm học 2023-2024, khi chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã được triển khai đến lớp 11 ở cấp THPT, thì việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài các bộ sách giáo khoa (SGK) hiện hành vẫn là một mục tiêu xa vời với đa số GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sau: - Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2006 chú trọng bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học; chỉ có một bộ SGK duy nhất trên phạm vi cả nước. Do đó đa số GV xem SGK là “pháp lệnh”, nội dung SGK được coi là nguồn kiến thức duy nhất để dạy học và kiểm tra, đánh giá. Áp lực thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục tạo nên thói quen tập trung vào mục tiêu tìm hiểu các văn bản trong SGK với cả người dạy và người học. - Thực tiễn thi cử môn Ngữ văn trong hầu hết các kì thi như: Tuyển sinh vào lớp 10, Tốt nghiệp THPT; học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia… đều lấy ngữ liệu ra đề phần nghị luận văn học là văn bản/ tác phẩm trong SGK. Với một số kì thi học sinh giỏi (HSG), nếu có yêu cầu trải nghiệm thì cơ bản vẫn cho HS lựa chọn và phân tích một hoặc một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn của lớp học, cấp học phù hợp. Điều này tạo nên tâm lý thực dụng với cả đội ngũ làm công tác quản lý và giảng dạy ở môn Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Việc tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK vì thế không trở thành mục tiêu dạy và học của GV, HS. 3
  4. - Ở một số GV say mê nghề nghiệp, có vốn hiểu biết phong phú và quan điểm giáo dục hiện đại có xu hướng giới thiệu, mở mang tri thức về các văn bản ngoài SGK cho HS trong các giờ dạy của mình. Song việc làm này cơ bản chỉ là một thao tác so sánh, liên hệ; một hoạt động mở rộng hoặc “trữ tình ngoại đề” trong giờ học. Hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK không được xác định trong nhóm các mục tiêu của bài học; phương pháp chủ yếu là truyền thụ một chiều; nội dung phần nhiều phụ thuộc vào vốn hiểu biết của GV và mang tính tự phát, ngẫu hứng. Do đó, tác dụng của hoạt động này không cao, chỉ gây được hứng thú tức thì cho HS mà không trở thành động lực, không hình thành kĩ năng cho HS. - Thói quen học tập thụ động, lệ thuộc vào lời giảng của GV, lệ thuộc vào văn mẫu của nhiều HS cũng dẫn đến hiện tượng: Các em không tự tin và không có nhu cầu tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản ngoài SGK. Tâm lý thờ ơ, thực dụng này cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc GV không có động cơ nghiên cứu, tìm hiểu các biện pháp để hướng dẫn HS cách khai thác, vận dụng kiến thức từ các văn bản ngoài SGK. Với các nguyên nhân và biểu hiện như trên, có thể thấy: Việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK hiện chưa được quan tâm; nếu có thực hiện thì mang tính tự phát, chỉ là một thao tác nhỏ trong giờ dạy của số ít GV, mang tính áp đặt, không hướng tới mục tiêu phát triển năng lực (NL) cho người học… 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến - Thứ nhất: Việc đổi mới chương trình, SGK ở bộ môn Ngữ văn đã và đang được thực hiện. Đến năm học 2023-2024, việc đổi mới chương trình, SGK đã được thực hiện với cấp THPT, ở khối lớp 11. Theo đó: nếu chương trình Ngữ văn trước đây được xây dựng theo trục lịch sử và thể loại văn học, thì chương trình Ngữ văn 2018 lấy các kĩ năng giao tiếp như đọc- viết- nói- nghe làm trục chính, xuyên suốt các cấp học, lớp học. Trong số các kĩ năng đó, thì kĩ năng đọc đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu phát triển NL đọc ở cấp THPT của CT Ngữ Văn 2018 là giúp HS biết đọc hiểu các kiểu loại văn bản dựa trên những kiến thức, trải nghiệm, khả năng suy luận, tư duy độc lập của bản thân. Qua các ngữ liệu chọn lọc, HS đọc và lĩnh hội được những hiểu biết cơ bản, có khả năng tìm tòi khám phá để củng cố, mở rộng vốn sống và tri thức văn hóa. - Thứ hai: Sự khác biệt lớn giữa Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Chương trình giáo dục phổ thông 2006 ở môn Ngữ văn là ngữ liệu dạy học. Thay vì chỉ có một bộ SGK duy nhất như chương trình 2006, thì để thực hiện chương trình môn học hiện nay có 4
  5. nhiều bộ SGK - là các học liệu có sự kiểm duyệt của Bộ GD&ĐT cho phép sử dụng trên cả nước. Các ngữ liệu trong các bộ SGK đều được biên soạn nhằm thực hiện mục tiêu trọng tâm là chuyển giáo dục từ chú trọng truyền thụ kiến thức sang dạy học hình thành, phát triển toàn diện phẩm chất và NL cho HS. Vì thế việc tìm hiểu văn bản không nặng về đào sâu, nghiên cứu, áp đặt cách hiểu mà chủ yếu là định hướng phương pháp tìm hiểu, kĩ năng để khám phá văn bản. Hơn thế, việc sắp xếp chủ đề bài học và lựa chọn ngữ liệu sử dụng trong các bộ SGK đều mang tính mở; SGK không phải là “pháp lệnh” mà chỉ là học liệu tham khảo quan trọng, GV có thể tham khảo nhiều SGK, thậm chí có thể biên soạn tư liệu dạy học theo ý mình để triển khai thực hiện hiệu quả mục tiêu dạy học. Sự đổi mới này tất yếu dẫn đến yêu cầu GV cần chú trọng nhiều hơn đến các biện pháp tổ chức cho HS tìm hiểu, khám phá tác phẩm văn học; nhất là giúp HS có thể tự tìm hiểu các văn bản ngoài SGK. - Thứ ba: Ngày 28/11/2023 Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 4068/QĐ- BGDĐT về phương án tổ chức kỳ thi và xét công nhận tốt nghiệp THPT từ năm 2025. Theo đó, môn Ngữ văn được tổ chức thi theo hình thức tự luận trên giấy. Các lưu ý về ngữ liệu sử dụng trong đề bài là: (1) Ngữ liệu ngoài sách giáo khoa; (2) Thuộc một trong ba loại văn bản: văn học, nghị luận, thông tin. Sự thay đổi về định hướng thi cử như trên chắc chắn sẽ tác động toàn diện đến tâm lý học tập và định hướng ôn luyện của HS ở môn Ngữ văn. Hơn hết, người GV cần quan tâm đến việc trang bị kĩ năng đọc văn bản ngoài chương trình, SGK, hình thành cho HS NL tự đọc, tự chiếm lĩnh các văn bản ở các kiểu/ dạng khác nhau như văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin. Và bản thân người học cũng cần một sự chuyển mình: thay vì lệ thuộc vào lời giảng của thầy cô, chỉ chăm chăm học các văn bản trong SGK; người học cần tự trang bị kĩ năng đọc văn bản ngoài chương trình để đáp ứng mục tiêu học tập. - Thứ tư: Với trường THPT Chuyên, ngoài yêu cầu giảng dạy HS theo chương trình THPT, người GV còn có nhiệm vụ bồi dưỡng HSG, học sinh năng khiếu. Ở mục tiêu thứ hai này, GV cần có biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng viết của HS, sao cho bài văn của các em không chỉ đúng mà còn hay, không chỉ hợp lý mà còn thấm thía, thuyết phục, sâu sắc. Đó là lý do, GV cần đầu tư mở rộng tri thức ngữ văn, nâng cao NL tự tiếp cận với các tác phẩm văn học trong và ngoài nước cho HS. Đặc biệt, kĩ năng vận dụng hiểu biết về 5
  6. các tác phẩm ngoài SGK chính là khâu then chốt để GV bồi dưỡng đội tuyển rèn luyện cho HS, nhằm tạo điểm nhấn và độ linh hoạt, bao phủ rộng cho bài viết của các em. Bên cạnh đó, việc hình thành kĩ năng đọc tác phẩm ngoài SGK còn là con đường rèn luyện NL tư duy sáng tạo hiệu quả cho HSG. Các em sẽ có cơ hội làm giàu vốn sống, có khả năng bao quát các hiện tượng văn học, đánh giá được các hiện tượng văn học ấy trên cơ sở so sánh, tổng hợp phong phú… Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn và kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng đọc - viết, vận dụng tri thức từ các tác phẩm văn học ngoài chương trình, SGK cho HS; chúng tôi xây dựng thành sáng kiến này với mong muốn đóng góp cho ngành giáo dục, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Ngữ văn. Đây cũng là quá trình nghiên cứu để phục vụ trực tiếp cho hoạt động giảng dạy thực tiễn của chúng tôi tại trường THPT Chuyên Bắc Giang. 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến Thực hiện giải pháp, chúng tôi hướng đến các mục tiêu: - Đề xuất các biện pháp hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản ngoài SGK. - Quy trình hóa các thao tác thực hiện từng biện pháp để phổ biến kinh nghiệm cho các đồng nghiệp cùng thực hiện. - Thực nghiệm, phân tích số liệu để đưa ra đánh giá về tính hiệu quả, khả thi của giải pháp. - Giới thiệu một số sản phẩm học tập của HS liên quan đến vấn đề được trình bày trong sáng kiến; là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho GV và HS. Giải pháp giúp HS tạo được môi trường, động lực để phát triển NL tự học, chủ động khai thác thông tin, nâng cao hứng thú và chất lượng học tập môn Ngữ văn. Đồng thời giải pháp cũng giúp cho GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn có định hướng trong việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK một cách hiệu quả; qua đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của chương trình giáo dục phổ thông 2018. 7. Nội dung 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến Giải pháp chúng tôi đưa ra là những giải pháp mới nhằm đa dạng hóa các biện pháp hướng dẫn HS thực hiện hiệu quả việc tìm hiểu, khám phá các văn bản ngoài chương trình, ngoài các bộ SGK Ngữ văn cấp THPT. 6
  7. 7.1.1. Định hướng, sàng lọc văn bản ngoài chương trình, SGK phù hợp * Nội dung Để việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, ngoài SGK đạt hiệu quả; tránh quá tải, lãng phí thời gian, gây áp lực không mong muốn với cả GV và HS... chúng tôi xác định đầu tiên phải xuất phát từ những căn cứ cụ thể trong việc sàng lọc, lựa chọn các văn bản phù hợp. Đây là định hướng quan trọng để GV trả lời các câu hỏi: Hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản nào? Tại sao lại là văn bản đó chứ không phải văn bản khác? Tìm hiểu văn bản đó để làm gì? * Các bước tiến hành giải pháp - Bước 1. Xác định hệ thống tiêu dùng để chí lựa chọn các văn bản ngoài SGK phù hợp với mục tiêu dạy học. Để thực hiện thao tác này, nhóm tác giả giải pháp đã nghiên cứu kĩ chương trình giáo dục phổ thông 2018 nói chung và chương trình môn Ngữ văn, cấp THPT nói riêng để xác định các mục tiêu về NL cần trang bị cho HS. Chúng tôi nhận thấy: Chương trình không quy định chi tiết nội dung dạy học, trừ một số văn bản bắt buộc. Do đó để thực hiện hiệu quả chương trình cần căn cứ vào những yêu cầu cần đạt về NL: đọc, viết, nói và nghe. Từ các mục tiêu, yêu cầu này; chúng tôi tiến hành khảo sát các bộ SGK hiện được cho phép sử dụng trên cả nước để tìm hiểu ý đồ thực hiện chương trình của các tác giả viết sách. VD: Để thực hiện mục tiêu về kiến thức chủ đề truyện (chương trình Ngữ văn lớp 10) tập trung vào các yếu tố: câu chuyện, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện... các bộ SGK lựa chọn giới thiệu các văn bản khác nhau. Với bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, các tác giả lựa chọn: Tản Viên từ Phán sự lục (Nguyễn Dữ), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân). Trong khi đó bộ sách Chân trời sáng tạo, các tác giả lựa chọn: Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Giang (Bảo Ninh). Còn các tác giải sách Cánh diều, lại lựa chọn văn bản: Kiêu binh nổi loạn (Ngô Gia Văn Phái), Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh). Bằng biện pháp khảo sát nghiêm túc và kĩ lưỡng các văn bản được lựa chọn trong các bộ SGK hiện hành, thực hiện chương trình Ngữ văn THPT 2018 (Phụ lục 3), chúng tôi hình thành nhóm các tiêu chí để lựa chọn văn bản ngoài chương trình, ngoài SGK khi hướng dẫn HS tìm hiểu. Cụ thể là: (1) Tính tương ứng về thể loại, giai đoạn, trào lưu, đề tài, khuynh hướng sáng tác với các văn bản được lựa chọn trong các bộ SGK. Đây là tiêu chí hướng tới mục tiêu 7
  8. giúp HS có cơ hội rèn kĩ năng khi đọc các văn bản tương tự; cũng là căn cứ để các văn bản được lựa chọn tập trung, không gây cảm giác quá tải, bề bộn với người học. (2) Tính chính xác, khoa học về nội dung và hình thức. Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo rõ ràng về nguồn dẫn, không trích dẫn sai lệnh về nội dung, không cẩu thả trong khâu in ấn, trình bày... Đảm bảo thể hiện đúng ý tưởng của tác giả, không vi phạm về vấn đề bản quyền, tác quyền. (3) Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo tính thẩm mỹ, tính giáo dục cao cả về tư tưởng cho người học. Đó là các văn bản phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không vi phạm đạo đức, pháp luật; không có các yếu tố nhạy cảm về chính trị, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc... (4) Tính phù hợp: Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo phù hợp với mức độ nhận thức, tầm đón nhận của HS ở cấp THPT. - Bước 2. Khuyến khích HS lựa chọn, giới thiệu các văn bản ngoài chương trình, ngoài SGK phù hợp với các tiêu chí đã xác định (ở bước 1) Ở mỗi giai đoạn học tập, bám sát chương trình môn học từng lớp; GV khuyến khích HS lựa chọn và giới thiệu các văn bản phù hợp với tiêu chí đã sàng lọc. Việc làm này sẽ tạo cho HS sự hào hứng, nâng cao ý thức trách nhiệm của HS với việc học tập. Có thể sử dụng các ứng dụng như padlet, google form hoặc khảo sát ý kiến trên nhóm Zalo, Messenger để thu thập thông tin về các văn bản mà HS mong muốn được tìm hiểu. Với HS có những hạn chế nhất định về nhận thức hoặc ít hứng thú với hoạt động tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK thì GV chủ động giới thiệu một số văn bản tiêu biểu ở các giai đoạn, thời kì văn học, khuynh hướng sáng tác… để các em có định hướng khi lựa chọn văn bản. Dưới đây là một số minh chứng cho thao tác mà nhóm tác giả đã thực hiện: - Tập hợp các văn bản thơ ngoài SGK theo đề xuất của HS: https://s.net.vn/gNrj - Hình ảnh trang Padlet khảo sát ý kiến của HS về truyện ngắn ngoài SGK: 8
  9. - Bước 3. Tập hợp, sàng lọc, hệ thống thành ngân hàng văn bản ngoài chương trình, SGK để định hướng HS tìm hiểu theo lộ trình phù hợp Trên cơ sở các văn bản ngoài chương trình mà HS đã giới thiệu, GV tổ chức thảo luận để sàng lọc ra những văn bản phù hợp nhất. Bên cạnh đó, GV cũng có thể gợi mở, giới thiệu thêm các văn bản khác mà HS chưa biết tới để kích thích sự tò mò, hứng thú, khao khát tìm 9
  10. hiểu của HS. Sau khi hệ thống, sàng lọc các văn bản; GV và HS cùng thực hiện việc sưu tầm, đóng góp vào ngân hàng văn bản ngoài chương trình, ngoài các bộ SGK. Có thể lưu tại nhóm học tập riêng của lớp, hoặc mã hóa thành mã QR gửi tới HS để các em chủ động đọc và tìm hiểu văn bản theo định hướng của GV (sẽ được trình bày ở các biện pháp sau). * Kết quả thực hiện giải pháp Nhóm tác giả sáng kiến đã xây dựng bảng tiêu chí lựa chọn, sàng lọc các văn bản ngoài chương trình, SGK và chuyển giao cho các lớp, phổ biến tới từng HS mà nhóm tác giả giảng dạy trong năm học 2023-2024. Từ đó giúp HS các lớp chủ động và có kĩ năng trong việc lựa chọn các văn bản ngoài chương trình để tìm hiểu. Các em có khả năng nhận diện, loại trừ những văn bản không phù hợp (vi phạm các tiêu chí đã xác định như: thiếu tính thẩm mỹ, thiếu tính giáo dục, vượt quá tầm nhận thức của HS THPT hoặc có vấn đề về vấn đề bản quyền…) Trong thời gian triển khai giải pháp, chúng tôi đã tổ chức được 4 buổi thảo luận tại các lớp: Văn K32, Trung K32, Anh K32, Pháp K32 (trường THPT Chuyên Bắc Giang) để rà soát, định hướng, tập hợp thành ngân hàng văn bản ngoài chương trình phù hợp với mục tiêu dạy học. Dưới đây là một số hình ảnh về các buổi thảo luận mà chúng tôi đã tổ chức tại các lớp trong thời gian thực hiện giải pháp. Ảnh 1. HS lớp 11 chuyên Văn thảo luận về các văn bản ngoài chương trình. 10
  11. Ảnh 2. HS lớp 11 chuyên Pháp thảo luận về các văn bản ngoài chương trình. Ảnh 3. HS lớp 11 chuyên Anh thảo luận về các văn bản ngoài chương trình. Từ các buổi thảo luận, HS tại các lớp đã hiểu rõ hơn về quy trình lựa chọn các văn bản ngoài chương trình, SGK; có kĩ năng tìm nguồn tư liệu, đóng góp tư liệu, cùng hình thành thư viện ngữ liệu để sử dụng lâu dài và hiệu quả. Chúng tôi đã tập hợp từ HS, duyệt nguồn tư liệu đảm bảo các tiêu chí, mã hóa thành QR code và gửi tới HS làm tư liệu học tập. Thư viện ngữ liệu ngoài chương trình, SGK giúp người dùng có thể sử dụng thuận tiện, dễ dàng và hoàn toàn miễn phí. 11
  12. 12
  13. 7.1.2. Hướng dẫn HS cách tìm hiểu văn bản ngoài chương trình theo đặc trưng thể loại * Nội dung Đọc hiểu văn bản văn học không thể không quan tâm đến đặc điểm thể loại của tác phẩm. Bởi thể loại chính là một cơ sở tạo nên tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm, quy định cách tổ chức, liên kết các yếu tố nội dung và hình thức. Vì thế, tri thức về thể loại văn học, kĩ năng đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại là những yếu tố rất quan trọng cần phải đạt được trong hoạt động dạy và học văn ở trường THPT. Từ 2006 và đặc biệt là 2018 vẫn dạy theo thể loại và kiểu văn bản nhưng là đọc hiểu văn bản. Sự khác nhau căn bản của cách dạy theo lối giảng văn, bình văn so với đọc hiểu văn bản là: dạy theo lối giảng văn là thầy cô giảng cho HS nghe về cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo hiểu biết và cảm nhận của người dạy; còn đọc hiểu là GV tổ chức các hoạt động để học sinh tự tìm ra cái hay, cái đẹp của văn bản, tác phẩm theo cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm… của các em. Tức là chú ý kết quả tiếp nhận của từng người đọc; cá thể hóa và đa dạng hóa cách hiểu một văn bản theo yêu cầu của lý thuyết tiếp nhận và dạy học hiện đại. Dạy học ngữ văn theo thể loại và kiểu văn bản là yêu cầu tất yếu gắn với đặc trưng môn học. Chương trình 2018 chỉ khác là yêu cầu GV chú ý dạy cách đọc để hình thành và phát triển cho HS NL đọc, trang bị cho các em công cụ để tiếp tục đọc và học suốt đời. Việc giảng dạy môn Ngữ văn theo chương trình GDPT 2018 nhấn mạnh vào rèn luyện NL tự học, tự cập nhật tri thức, kĩ năng và phát triển “NL văn học và NL ngôn ngữ” của HS. “NL văn học được coi là biểu hiện cụ thể của NL thẩm mĩ, thống nhất với NL thẩm mĩ”, còn “NL ngôn ngữ được hình thành và phát triển thông qua các kĩ năng Đọc, Viết, Nói và Nghe. Trong đó đọc chú trọng đến yêu cầu đọc theo đặc trưng thể loại văn bản và viết quan tâm đến yêu cầu viết theo kiểu văn bản…” [1]. Như vậy kĩ năng đọc theo đặc trưng thể loại văn bản là một trong những yếu tố cốt lõi mà GV cần chú trọng rèn giũa và trau dồi cho HS trong quá trình dạy văn. Theo mục đích giao tiếp chủ yếu, hệ thống các văn bản trong Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018 được chia ra làm 3 loại: văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin. Với văn bản văn học, HS đã được tiếp cận khá quen thuộc và nhuần nhuyễn trong chương trình từ cấp Tiểu học đến Trung học cơ sở nhưng với văn bản nghị luận và văn bản thông tin, đặc biệt là văn bản thông tin, HS chưa được đi sâu khai thác đặc trưng thể loại. Trong sáng kiến, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại: (1) Nhận diện đặc điểm kiểu loại, thể loại của văn bản; (2) Hướng dẫn 13
  14. học sinh khám phá văn bản theo đặc trưng thể loại. Với tư cách là môn học công cụ, môn Ngữ văn phải hướng tới mục tiêu hình thành cho HS phương pháp đọc hiểu các kiểu, loại văn bản, nhất là các văn bản nghị luận, văn bản thông tin. Khi đã nắm được đặc trưng riêng của từng kiểu, loại văn bản, thì người học có thể dễ dàng tiếp nhận được các văn bản cùng thể loại ở ngoài chương trình, SGK. * Các bước tiến hành giải pháp Bước 1. Nhận diện đặc điểm kiểu loại, thể loại văn bản - Văn bản văn học Thể loại - hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học Khái niệm - Trong mỗi thể loại có sự thống nhất, quy định lẫn nhau giữa các yếu tố đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng và hình thức nhân vật, hình thức kết cấu, hình thức lời văn. - Nói đến thể loại là nói đến: + Một nguyên tắc tổ chức tác phẩm. + Một phương thức thể hiện thực tại. + Một loại hình giao tiếp thẩm mỹ. Nguyên - Với tư cách là một phương thức thể hiện thực tại, mỗi thể loại là kết quả nhân của một phương thức chiếm lĩnh thực tại khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mỹ khác nhau, mang những khả năng khác nhau trong việc biểu hiện thực tại. - Với tư cách là một loại hình giao tiếp thẩm mỹ, mỗi thể loại văn học là một kênh giao tiếp riêng với bạn đọc, đòi hỏi ngôn ngữ riêng, nguyên tắc riêng, phương thức và kinh nghiệm riêng. Biểu hiện - Sự lặp đi lặp lại có quy luật các yếu tố của tác phẩm (tiêu chí phân loại) - Sự độc đáo trong việc vận dụng thể loại của tác giả. Tính chất của thể loại Tính thời đại, lịch sử Biểu hiện Ví dụ - Sự hình thành và phát triển thể loại văn học cũng là sự Sự phát triển của lịch sử hình thành và phát triển của văn học qua các giai đoạn. văn học Trung quốc là sự tiếp nối của các thể loại. 14
  15. Khởi Xác định bằng: đầu - Nhu cầu xã hội - Nhu cầu sinh hoạt văn hóa - Trải nghiệm thực tiễn của nghệ sĩ Phát Hình thành thể loại cụ thể, đáp ứng nhu cầu triển thời đại, ứng dụng vào đời sống. Kết Không còn đáp ứng được nhu cầu thời đại, hoặc thúc biến mất vào thể loại khác hoặc chấm dứt sự tồn tại. - Mỗi thể loại sẽ có thể đậm nét đặc trưng của thời đại (cách - Các thể loại VHTĐ phải thể hiện hiện thực, cách diễn đạt, phụ thuộc vào ý thức hệ đáp ứng đặc trưng: Tính và thị hiếu người đọc). sùng cổ, tính phi ngã, sử dụng điển tích, điển cố. Tính dân tộc Nội dung - Thể hiện tâm lý, tình cảm, truyền thống dân tộc. Hình thức - Cách sử dụng ngôn ngữ được dân tộc đó ưa chuộng. Tính quy luật loại hình Nguyên nhân Biểu hiện Thể loại có - Tính hữu hạn của ngôn ngữ - Thể hiện một giới hạn tiếp xúc đời tính chất ổn - Tính hữu hạn của phương thức sống, một góc nhìn, một cách tiếp định, truyền chiếm lĩnh hiện thực (nghe kể cận, một trường quan sát, một quan thống chuyện, tự mình chứng kiến, tự niệm với hiện thực. mình bộc bạch cảm xúc…) - Một quy luật tổ chức tác phẩm. - Tính hữu hạn của các phạm trù - Thể loại văn học có bản chất siêu thẩm mỹ (cái bi, cái hài, cái cao cá tính: tồn tại tương đối ổn định với cả…) tác phẩm; khẳng định vai trò của các yếu tố ổn định trong lịch sử văn học; phản ánh phương diện hữu hạn của một ý thức nghệ thuật. 15
  16. Thể loại có - Quy luật phát triển theo hình - Biến đổi những đặc trưng về hình tính chất biến xoắn ốc của vật chất. thức và nội dung của thể loại để phù đổi - Nhu cầu xã hội luôn thay đổi đòi hợp với nội dung tư tưởng của người hỏi thể loại phải thay đổi để phục nghệ sĩ, với yêu cầu của thời đại. vụ thời đại mới. - Bản chất của hoạt động sáng tác là quá trình sáng tạo có tính cá thể. Nhà văn luôn tìm tòi, đổi mới, thể hiện dấu ấn cá nhân trong việc vận dụng thể loại. Ý nghĩa của các thể loại với văn học Với quá trình - Khơi nguồn cảm hứng (Viết cái gì? Viết như thế nào?) sáng tác - Gắn liền với nhà văn thành “tư duy thể loại”: + Mỗi nhà văn có một thể mạnh thể loại khác nhau. + Có sự vận dụng và biến đổi các thể loại Với quá trình - Khi đọc phải tuân theo quy luật thể loại phê bình, - Hiểu biết thể loại cung cấp chìa khóa để khám phá chiều sâu tác phẩm thưởng thức - Quyết định năng lực bình, cảm thụ (Người quá quen với đọc thơ cổ điển sẽ gặp khó khăn khi tiếp nhận thơ siêu thực…) -Mỗi bạn đọc có một sở trường trong việc đọc từng thể loại. Các truyền thống phân loại thể loại Tiêu chí phân loại Các thể loại cụ thể Phương Yêu cầu miêu tả tính - Tự sự: tái hiện hiện thực bằng cách miêu tả sự Tây cách và thể hiện kiện (chia mình của nhà văn - Trữ tình: trực tiếp bày tỏ cảm xúc ba) - Kịch: tái hiện hiện thực qua xung đột kịch Phương thức sáng - Tự sự: qua lời nói của tác giả tạo hình tượng nghệ - Trữ tình: qua lời nhân vật trữ tình thuật - Kịch: qua lời nói và hành động kịch Chú trọng yếu tố chủ thể và đặc trưng nội dung, bỏ qua hình thức. 16
  17. Phương - Tiêu chí truyền thống Trung Thơ: Bao gồm thơ tự sự và thơ trữ tình. Đông Quốc: chủ yếu qua các yếu tố Tiểu thuyết: Tất cả tác phẩm tự sự. (chia bên ngoài như hình thức thể văn, Kịch: Nghệ thuật sân khấu bốn) công dụng. Văn xuôi: Các thể loại còn lại. - Kết hợp với các tiêu chí phương Tây Cách - Tuân theo cách chia của Thơ: (Như trên) chia 4 + phương Đông, tách riêng thể kí Tiểu thuyết: (Như trên) 1 ra vì tính phi hư cấu của nó. Kịch: (Như trên) Văn xuôi: (Như trên) Kí: Tác phẩm tự sự ghi chép sự thật. Việc phân chia thể loại có tính chất tương đối vì: - Thể loại luôn biến đổi theo tiến trình phát triển của xã hội và lịch sử văn học. - Tiêu chí phân loại rất đa dạng - Sự tồn tại của các tác phẩm trung gian (truyện ngắn trữ tình hóa; truyện ngắn tiểu thuyết hóa; thơ tự sự…) khiến việc phân loại không thể tuyệt đối chính xác. - Văn bản nghị luận Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận phải xem văn bản ấy có luận điểm như thế nào, luận điểm ấy có được xây dựng trên cơ sở lí lẽ, dẫn chứng xác đáng hay không? Sức thuyết phục vào tư duy, lí trí, tình cảm ra sao? Qua đó thể hiện được quan điểm, tư tưởng và thái độ đánh giá của tác giả như thế nào? Khi đã nắm vững được đặc trưng thể loại văn bản nghị luận sẽ tạo hiệu quả trong việc chiếm lĩnh, khai thác các văn bản thuộc dạng thức nghị luận. Trong giờ đọc hiểu văn bản nghị luận, người GV phải cho HS nắm vững đặc trưng chính đối tượng mình tìm hiểu. Cụ thể, cho HS trả lời câu hỏi: Em hãy nêu rõ đặc trưng cơ bản của một văn bản nghị luận? Sau khi HS trả lời, GV khái quát lại cách thức chung khi tìm hiểu một văn bản nghị luận: Xác định hệ thống luận điểm của văn bản; luận điểm đó được triển khai qua các luận cứ, luận chứng; nhận xét đặc sắc nghệ thuật của văn bản nghị luận: hệ thống lập luận, ngôn ngữ, lí lẽ, cú pháp, từ ngữ; sức tác động và thuyết phục của văn bản đối với người đọc qua đó thấy rõ thái độ, tư tưởng của tác giả. Văn bản thông tin 17
  18. VBTT là loại văn bản chủ yếu được sử dụng để cung cấp thông tin về con người, sự vật, hiện tượng hoặc hướng dẫn thực hiện hoạt động dựa trên các số liệu, sự kiện khách quan và kiến thức khoa học. VBTT có sự phổ biến rộng rãi trong xã hội và thường xuất hiện dưới dạng bài báo, tạp chí, từ điển, sách giáo khoa, sách về danh nhân, hướng dẫn du lịch, sách về sử dụng thuốc và nấu ăn, cũng như trong báo cáo, biên bản, pa nô và áp phích. Văn bản này thường được trình bày thông qua kênh chữ, kết hợp với các phương tiện khác như hình ảnh và âm thanh. Nó thường được thiết kế như là văn bản đa phương tiện, tận dụng nhiều loại phương tiện để truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả. Việc giảng dạy VBTT, GV cần chú ý giúp HS nhận biết đặc điểm hình thức của VBTT và vai trò của chúng trong truyền đạt thông tin là quan trọng. Các yếu tố hình thức như nhan đề, sapo, đề mục, chữ in đậm, kí hiệu, sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh đều là những phần quan trọng. Cụ thể: (1) Mục đích của VBTT: Hướng dẫn HS hiểu rõ mục đích của VBTT, tức là thông tin cụ thể mà VBTT muốn truyền đạt; (2) Thông tin chính của VBTT: Tập trung giúp HS xác định những thông tin chính, những điểm quan trọng mà VBTT muốn trình bày; (3) Nhận biết yếu tố hình thức và tác dụng của chúng: Dạy HS nhận biết và hiểu tác dụng của các yếu tố hình thức như nhan đề, sapo, chữ in đậm, hình ảnh, sơ đồ, và làm thế nào chúng hỗ trợ việc truyền đạt thông tin. Bước 2. Hướng dẫn học sinh khai thác văn bản theo đặc trưng thể loại Văn bản văn học Thứ nhất, HS phải nắm được các bước đọc hiểu khái quát một văn bản văn học Bước Đối tượng đọc hiểu Mục tiêu - kết quả đọc hiểu 1 Đọc - hiểu ngôn từ Hiểu được các từ khó, từ lạ, các điển cố, các phép tu từ, hình ảnh… (đối với thơ). Đối với tác phẩm truyện phải nắm được cốt truyện và các chi tiết từ mở đầu đến kết thúc. Khi đọc văn bản cần hiểu được các diễn đạt, nắm bắt mạch văn xuyên suốt từ câu trước đến câu sau, từ ý này chuyển sang ý khác, đặc biệt phát hiện ra mạch ngầm - mạch hàm ẩn, từ đó mới phát hiện ra chất văn. Bởi thế, cần đọc kĩ 18
  19. mới phát hiện ra những đặc điểm khác thường, thú vị. 2 Đọc - hiểu hình tượng Hình tượng trong văn bản văn học hàm chứa nghệ thuật nhiều ý nghĩa. Đọc - hiểu hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học đòi hỏi người đọc phải biết tưởng tượng, biết “cụ thể hóa” các tình cảnh để hiểu những điều mà ngôn từ chỉ có thể biểu đạt khái quát. Đọc - hiểu hình tượng nghệ thuật còn đòi hỏi phát hiện ra những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đó và hiểu được sự lôgic bên trong của chúng. 3 Đọc - hiểu tư tưởng, Phải phát hiện được tư tưởng, tình cảm của nhà tình cảm của tác giả văn ẩn chứa trong văn bản. Tuy nhiên tư tưởng, trong văn bản văn học tình cảm của tác giả trong văn bản văn học thường không trực tiếp nói ra bằng lời. Chúng thường được thể hiện ở giữa lời, ngoài lời, vì thế người ta đọc - hiểu tư tưởng tác phẩm bằng cách kết hợp ngôn từ và phương thức biểu hiện hình tượng. 4 Đọc - hiểu và thưởng Thưởng thức văn học là trạng thái tinh thần vừa thức văn học bừng sáng với sự phát hiện chân lí đời sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của nhà văn, vừa hưởng thụ ấn tượng sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Khi đó người đọc mới đạt đến tầm cao của hưởng thụ nghệ thuật. Thứ hai, HS nắm được cách đọc hiểu cụ thể từng thể loại văn bản có trong chương trình Ngữ văn 2018 Thể loại thơ trữ tình - Đọc hiểu ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu + Trước hết, cần đặc biệt coi trọng thao tác đọc văn bản để cảm nhận giọng điệu, cảm hứng, nội dung bao trùm. 19
  20. + Song song với việc đọc hiểu văn bản là giải mã các từ ngữ mới lạ, độc đáo, những cách diễn đạt khác thường, những yếu tố ngôn ngữ được lặp đi lặp lại, các biện pháp tu từ... để nắm bắt được mạch ngầm văn bản. - Đọc hiểu mạch vận động của hình tượng thơ, cấu tứ thơ Hình tượng trong thơ luôn vận động. Cấu tứ là một phương diện nghệ thuật đặc trưng và quan trọng của thơ trữ tình và người khám phá không thể bỏ qua. Một bài thơ hay sẽ khép tứ trọn vẹn, hợp lí và toát lên những ý nghĩa sâu sắc. - Đọc hiểu cảm xúc thơ, tư tưởng thơ Cảm xúc là một đặc trưng quan trọng của thơ trữ tình. Cảm xúc phải được ý thức, khái quát, truyền tải tư tưởng của người nghệ sĩ. Tư tưởng thơ nâng cao giá trị bài thơ, góp phần tạo nên sức sống lâu bền. Thể loại truyện ngắn - Đọc hiểu trọn vẹn văn bản Trước tiên cần đọc trọn vẹn truyện ngắn, không phải một lúc có thể đọc truyện đã hiểu được ngay. Nhiều truyện tuy ngắn nhưng phải đọc thật chậm để hiểu rõ ý nghĩa nội dung, nhưng trong nhiều trường hợp phải đọc lướt thật nhanh. - Đọc hiểu cốt truyện Để nắm được nội dung thì sau khi đọc trọn vẹn tác phẩm, phải tái hiện được cốt truyện. Cốt truyện phân loại theo những cách khác nhau: cốt truyện sự kiện - cốt truyện tâm lí; đan cài - song song - truyện lồng trong truyện… Việc đọc hiểu không ngừng lại ở việc nhận dạng cốt truyện thuộc loại nào mà phải nhận ra sự sáng tạo độc đáo, hấp dẫn của cốt truyện trong phản ánh đời sống và thể hiện nhân vật. - Đọc hiểu kết cấu, bố cục “Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng” (Taffy E. Raphael - Efrieda H. Hiebert). Nếu bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, là mối quan hệ bề mặt của văn bản nghệ thuật thì kết cấu là tổ chức bên trong tác phẩm, bao gồm hệ thống nhân vật, tổ chức không gian, thời gian, điểm nhìn trần thuật… - Đọc hiểu nhân vật Thực chất của việc đọc hiểu nhân vật chính là phân tích nhân vật. Phân tích nhân vật là khâu quan trọng trong đọc hiểu truyện ngắn. Nhân vật là phương tiện để nhà văn gửi 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2