
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
279
SỰ BỘC LỘ DẤU ẤN MIỄN DỊCH PD-1
TRONG UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN TIỀN LIỆT
Nguyễn Thị Khuyên1,2, Nguyễn Văn Hưng3,
Nguyễn Cảnh Hiệp4, Tạ Văn Tờ2
TÓM TẮT36
Đặt vấn đề: Những năm gần đây, liệu pháp
ức chế “điểm kiểm soát miễn dịch” (immune
checkpoint)- được phát hiện như một liệu pháp
điều trị bổ trợ cho nghiên cứu lâm sàng trong ung
thư tuyến tiền liệt (UTTTL). PD-1 là một
glycoprotein xuyên màng có chức năng kiểm soát
miễn dịch. Sự phong tỏa PD-1 bằng các kháng
thể đơn dòng có thể làm phục hồi miễn dịch
kháng u một cách hiệu quả. Tại Việt Nam, nhiều
đề tài đã nghiên cứu về dịch tễ học, lâm sàng, mô
bệnh học của UTTTL, tuy nhiên, chưa có nghiên
cứu về sự bộc lộ dấu ấn miễn dịch PD-1 trên các
mảnh sinh thiết kim của UTTTL. Do đó, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: Mô tả tỷ lệ bộc lộ
dấu ấn PD-1 và mối liên quan với nồng độ PSA
huyết thanh và mô bệnh học của ung thư biểu mô
tuyến tiền liệt.
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô
tả cắt ngang ở 60 bệnh nhân được chẩn đoán xác
định là ung thư biểu mô tuyến tiền liệt nguyên
phát trên bệnh phẩm sinh thiết kim.
1Trường Đại Học Y Hà Nội
2Trung tâm Giải phẫu bệnh-Sinh học phân tử,
Bệnh viện K
3Trường Đại Học Phenika
4Khoa Ung bướu, Viện ung thư Dana-Farber-
Trường Đại Học Y Harvard, Hoa Kỳ
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Khuyên
SĐT: 0947987863
Ngày nhận bài: 16/7/2024
Ngày phản biện: 22/7/2024
Ngày chấp nhận đăng: 28/7/2024
Kết quả: Tỷ lệ lympho bào xâm nhập khối u
(TILs - Tumor - infiltrating lymphocytes) là
17,70±18,84%, dao động từ 3,3 đến 35%. Nhóm
lympho bào xâm nhập u từ 10-50% chiếm tỷ lệ
cao nhất (60%). Số lượng lympho bào dương tính
với PD-1 dao động từ 4-85 lympho bào, trung
bình là 25,12±16,59 lympho bào. Mức độ bộc lộ
3+ (>20 lympho bào dương tính) với PD-1 chiếm
tỷ lệ cao nhất là 55%. Mức độ bộc lộ với PD-1
tăng dần theo nồng độ PSA huyết thanh, mối liên
quan giữa mức độ bộc lộ PD-1 và nồng độ PSA
huyết thanh có ý nghĩa thống kê (p=0,046,
Wilcoxon test). Mức độ bộc lộ với PD-1 tăng dần
theo điểm Gleason, tuy nhiên, mối liên quan giữa
mức độ bộc lộ PD-1 với điểm Gleason không có
ý nghĩa thống kê (p=0,26, T test). Mức độ bộc lộ
PD-1 tăng theo tỷ lệ lympho bào xâm nhập khối
u, mối liên quan này có ý nghĩa thống kê
(p<0,001, Phi-Cramer’s V test).
Kết luận: Tất cả các trường hợp đều dương
tính với PD-1. Số lượng lympho bào dương tính
với PD-1 tăng tỷ lệ thuận với TILs. Tìm thấy mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa sự bộc lộ PD-
1 với PSA huyết thanh nhưng không có mối liên
quan với điểm Gleason.
Từ khoá: PD-1, Lympho bào xâm nhập u,
ung thư tuyến tiền liệt
SUMMARY
IMMUNOHISTOCHEMISTRY OF
IMMUNE CHECKPOINT MARKER PD-
1 IN PROSTATE CARCINOMA
Background: In recent years, immune
checkpoint inhibitor therapy has emerged as an
adjunctive treatment in clinical research for

HỘI THẢO KHOA HỌC UNG BƯỚU CẦN THƠ LẦN THỨ XIII – BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ CẦN THƠ
280
prostate cancer. Programmed cell death protein 1
(PD-1) is a transmembrane glycoprotein that
plays a pivotal role in immune regulation.
Blocking PD-1 with monoclonal antibodies has
been shown to effectively restore antitumor
immunity. Despite numerous projects in Vietnam
focusing on the epidemiology, clinical aspects,
and histopathology of prostate cancer, there has
been a dearth of research investigating the
expression of the PD-1 immune marker in needle
biopsy specimens. Therefore, we conducted a
study to characterize the expression rate of the
PD-1 marker and its correlation with serum PSA
levels and the histopathology of prostate
carcinoma.
Methods: We conducted a cross-sectional
descriptive study involving 60 patients with a
confirmed diagnosis of primary prostate
carcinoma based on needle biopsy specimens.
Results: The proportion of tumor-infiltrating
lymphocytes (TILs) was 17.70±18.84%, a range
from 3.3 to 35%. The group with TILs ranged
from 10-50%, constituting the highest proportion
(60%). The number of PD-1 positive
lymphocytes ranged from 4 to 85, with an
average of 25.12±16.59 lymphocytes. The
expression level of 3+ (>20 positive
lymphocytes) with PD-1 accounted for the
highest rate at 55%. The level of PD-1
expression gradually increased with serum PSA
level. The relationship between PD-1 expression
level and serum PSA level was statistically
significant (p = 0.046, Wilcoxon test). Similarly,
the level of PD-1 expression increased with the
Gleason score, although the relationship between
PD-1 expression level and Gleason score was not
statistically significant (p = 0.26, T-test).
Furthermore, the level of PD-1 expression
increased with the proportion of TILs, and this
relationship was statistically significant
(p<0.001, Phi-Cramer's V test).
Conclusions: All cases showed positive
expression for PD-1. The number of PD-1-
positive lymphocytes increased proportionally
with TILs. A statistically significant association
was found between PD-1 expression and serum
PSA levels, but no significant association was
observed with the Gleason score.
Keywords: PD-1, Tumor-infiltrating
lymphocytes, prostate cancer
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) là ung
thư phổ biến thứ tư ở cả hai giới và phổ biến
thứ hai ở nam giới. Tỷ lệ mắc UTTTL tăng
dần theo tuổi, hơn 75% các trường hợp được
phát hiện ở 65 tuổi, nhưng do diễn tiến
chậm và liên tục với nhiều mức độ ác tính
khác nhau nên bệnh có tầm ảnh hưởng đến
khoảng tuổi rộng hơn [1].
Trong những năm gần đây, liệu pháp ức
chế “điểm kiểm soát miễn dịch” được phát
hiện như một liệu pháp điều trị bổ trợ cho
nghiên cứu lâm sàng trong UTTTL. PD-1
(Programmed cell death protein 1-Protein
chết theo chương trình-1) là một
glycoprotein xuyên màng có chức năng kiểm
soát miễn dịch. Sự tương tác giữa PD-1 với
các phối tử của nó (PD-ligand 1/2) bộc lộ
trên bề mặt nhiều tế bào, dẫn đến sự bất hoạt
các đáp ứng miễn dịch. Các bằng chứng gần
đây cho thấy việc kích hoạt con đường tín
hiệu PD-1/PD-L1 là một trong các cơ chế
cho phép các khối u né tránh được hệ miễn
dịch của vật chủ. Các liệu pháp nhắm vào
con đường dẫn truyền tín hiệu này làm tăng
khả năng miễn dịch chống u và mang lại
những kết quả đầy hứa hẹn ở các khối u đặc.
Sự phong tỏa PD-1 bằng các kháng thể đơn
dòng có thể làm phục hồi miễn dịch kháng u
một cách hiệu quả. Trong các thử nghiệm
lâm sàng, các chất ức chế PD-1 cho thấy hiệu
quả đáng kể ở các bệnh nhân ung thư giai
đoạn tiến triển với các nguyên nhân khác

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
281
nhau như u hắc tố, ung thư thận, ung thư
phổi, UTTTL…[2], [3].
Tại Việt Nam, nhiều đề tài đã nghiên cứu
về dịch tễ học, lâm sàng, mô bệnh học của
UTTTL, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu về sự
bộc lộ dấu ấn miễn dịch PD-1 trên các mảnh
bệnh phẩm sinh thiết kim của mô tuyến tiền
liệt. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
nhằm: Mô tả tỷ lệ bộc lộ dấu ấn PD-1 và
mối liên quan với nồng độ PSA huyết thanh
và mô bệnh học của ung thư biểu mô tuyến
tiền liệt.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu ở 60 bệnh nhân được chẩn
đoán là ung thư biểu mô tuyến tiền liệt
(UTBMTTL) nguyên phát trên bệnh phẩm
sinh thiết kim tại Bệnh Viện Việt Đức từ
tháng 01/2017 đến tháng 06/2018.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Sinh thiết kim tuyến tiền liệt được chẩn
đoán là UTBMTTL nguyên phát.
- Có ít nhất 06 lõi sinh thiết.
- Có mô tả chi tiết số lượng mẫu sinh
thiết và vị trí của từng mẫu.
- Được xét nghiệm nồng độ PSA trong
huyết thanh.
- Còn tiêu bản lưu trữ, đảm bảo chất
lượng để chẩn đoán.
- Còn khối nến có đủ bệnh phẩm để cắt
nhuộm chẩn đoán mô bệnh học và hoá mô
miễn dịch.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Các trường hợp UTBMTTL thứ phát và
tái phát.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu. Cỡ
mẫu nghiên cứu được chọn theo phương
pháp lấy mẫu toàn bộ, chọn mẫu có chủ đích.
Chỉ số nghiên cứu
Đặc điểm chung: Tuổi, nồng độ PSA
huyết thanh (ng/ml), trọng lượng tuyến tiền
liệt qua siêu âm (gram).
Đặc điểm mô bệnh học của UTBMTTL
theo WHO 2016: Típ mô bệnh học, phân
nhóm theo điểm Gleason, tình trạng xâm
nhập, lympho bào xâm nhập khối u (TILs).
Sự bộc lộ dấu ấn miễn dịch PD-1 và các
mối liên quan với chỉ số PSA huyết thanh và
mô bệnh học của UTBM tuyến tiền liệt.
Đánh giá sự bộc lộ PD-1: PD-1 được bộc
lộ trên màng bào tương của lympho bào. Số
lượng lympho bào trong mô đệm, cạnh các
tuyến của UTBMTTL dương tính với PD-1
được đếm ở vật kính 40. Với mỗi trường
hợp, 5 vùng dương tính với PD-1 nhiều nhất
được chọn để phân tích. Số lượng lympho
bào dương tính với PD-1 là giá trị trung bình
trên 5 vi trường. Sự bộc lộ PD-1 được phân
nhóm như sau [4]: Âm tính; Dương tính 1+:
1-10 lympho bào dương tính; Dương tính 2+:
11-20 lympho bào dương tính; Dương tính
3+: >20 lympho bào dương tính.
Đánh giá lympho bào xâm nhập khối u
(Tumor infiltrating lymphocytes-TILs): bằng
phương pháp bán định lượng trên tiêu bản
nhuộm HE thông thường, quan sát ở độ
phóng đại 200-400 của kính hiển vi quang
học và tính tỷ lệ phần trăm (%) trung bình ở
các vùng lympho bào xâm nhập vào mô đệm
u [5].
Xử lý số liệu: Các số liệu và kết quả
được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS
20.0. Một số biểu đồ được vẽ bằng phần
mềm R phiên bản 4.3.1 với gói vẽ biểu đồ
ggplot2 và ggpubr, và sử dụng Wilcoxon
test.

HỘI THẢO KHOA HỌC UNG BƯỚU CẦN THƠ LẦN THỨ XIII – BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ CẦN THƠ
282
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học của bệnh nhân
Đặc điểm
Trung bình (XSD)
n (%)
Tuổi trung bình (năm)
70,356,68
PSA huyết thanh (ng/ml)
78,66108,58
Trọng lượng
(gram)
50
38,6021,39
49 (81,7)
>50
11 (18,3)
Típ mô bệnh
học
UTBM tuyến nang
52 (86,7)
UTBM tuyến nang biến thể giống tế bào nhẫn
2 (3,3)
UTBM tuyến nang biến thể tuyến bọt bào
6 (10)
Xâm nhập
Thần kinh
25 (41,7)
Mạch máu
4 (6,7)
Vỏ xơ tuyến tiền liệt
15 (25)
Trực tràng
1 (1,7)
Điểm
Gleason
6
5 (8,3)
7
15 (25)
8
19 (31,7)
9
20 (33,3)
10
1 (1,7)
TILs (%)
<10
17,7018,84
16 (26,7)
10-50
36 (60)
50
8 (13,3)
Nhận xét: Tuổi trung bình của bệnh nhân
là 70,356,68, tuổi cao nhất là 83, tuổi thấp
nhất là 56. Nồng độ PSA huyết thanh trung
bình là 78,66108,58 ng/ml, trung vị là 47,56
ng/ml (khoảng dao động từ 8,28 đến 714
ng/ml). Trọng lượng tuyến tiền liệt qua siêu
âm trung bình là 38,60±21,39 gram. Đa số
các bệnh nhân có trọng lượng tuyến tiền liệt
qua siêu âm ≤50 gram, chiếm 81,7%. Đa số
các trường hợp là UTBM tuyến nang thông
thường, chiếm tới 86,7%. Chỉ có 02 trường
hợp UTBM tuyến nang giống tế bào nhẫn,
chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,3%. Có 28/60 trường
hợp có xâm lấn, xâm lấn quanh thần kinh
chiếm tỷ lệ cao nhất với 25 trường hợp
(41,7%), xâm lấn trực tràng chiếm tỷ lệ thấp
nhất với 01 trường hợp (1,7%). Điểm
Gleason thuộc nhóm độ V (Gleason 9-10
điểm) chiếm tỷ lệ cao nhất với 21 trường hợp
(35%); nhóm độ I (Gleason 3+3=6 điểm) có
05 trường hợp, chiếm tỷ lệ thấp nhất là 8,3%.
Tỷ lệ lympho bào xâm nhập khối u (TILs)
theo các mẫu có giá trị trung bình là
17,70±18,84%, trung vị là 10%, dao động từ
3,3 đến 35%. Nhóm lympho bào xâm nhập u
từ 10-50% chiếm tỷ lệ cao nhất (60%).
Nhóm lympho bào xâm nhập u >50% chiếm
tỷ lệ thấp nhất (13,3%).
3.2. Tỷ lệ bộc lộ PD-1 của UTBM tuyến
của tuyến tiền liệt

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 542 - THÁNG 9 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
283
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bộc lộ PD-1 trong UTBM tuyến của tuyến tiền liệt
Nhận xét: Số lượng lympho bào dương
tính với PD-1 dao động từ 4-85 lympho bào,
trung bình là 25,12±16,59 lympho bào, trung
vị là 22 lympho bào. Mức độ bộc lộ 3+ (>20
lympho bào dương tính) với PD-1 chiếm tỷ
lệ cao nhất là 55%. Giá trị trung vị chia mức
độ bộc lộ PD-1 thành 2 nhóm: (1) Thấp ≤ 22,
(2) Cao >22, lần lượt chiếm tỷ lệ là 51,7% và
48,3%.
3.3. Mối liên quan giữa sự bộc lộ PD-1
với nồng độ PSA huyết thanh và mô bệnh
học của UTBM tuyến tiền liệt
Mối liên quan giữa sự bộc lộ PD-1 và
nồng độ PSA huyết thanh
Biểu đồ 2. Đối chiếu sự bộc lộ PD-1 và nồng độ PSA huyết thanh
Nhận xét: Mức độ bộc lộ với PD-1 tăng dần theo nồng độ PSA, mối liên quan giữa mức
độ bộc lộ PD-1 và nồng độ PSA có ý nghĩa thống kê (p=0,046, Wilcoxon test).