Sự sinh sản của
thực vật bậc cao
(nẩy mầm)
Sự nẩy mm của hạt phấn
+ Sự nẩy mầm của hạt phấn Ht kín
- Ống phấn đi vào num nhụy và đi vào
khoảng không gian giữa các tế bào của
nuốm nhụy chứa đầy kng khí (các đầu
nhụy khô của cây bông /họ Malvaceae)
hay tiết ra các chất lỏng (chất lỏng có dầu
ở cà chua họ Cà). Sự tiến triển của ng
phấn tiếp tục đi theo kênh vòi nhụy
thường chứa dịch tiết hay choán đầy các
sợi phát ra bởi vỏ noãn trong của noãn.
Nếu như vòi nhụy đặc, ống phấn mở rộng
ra các khoảng không gian giữa các tế bào
của chúng hay kéo dài trong mô dẫn
được cấu tạo bởi các tế bào nhỏ, không
có kẻ ngách, với các vách tương đối mềm
và thường hoá nhầy. Một mô như thế ít
cứng, nhiều chất nhầy, hướng dẫn ống
phấn và cung cấp chất dinh dưỡng cho nó
(đường). Đi vào khoang bầu, ống phấn
này tiếp tục đi đến noãn, thông thường
nhất đi theo dãy các tế bào lấm tấm nhú
kéo dài theo kênh ng nhụy hay mô dẫn.
Trong thực tế, nhiều hạt nảy mm cùng
một lúc trên mỗi nuốm nhụy, đó là một
khối ống phấn mà nó đi qua giữa nhụy.
Khoảng cách đường đi của ng phấn dĩ
nhiên là rất khác nhau từ loài này đến
loài khác, nhưng tốc độ tăng trưởng của
ống phấn luôn luôn tương đi lớn. Trung
bình từ 2,5 - 7,5mm/ giờ, khác nhau tuỳ
theo nhiệt độ. Ở loài Datura stramonium
( h Cà), chẳng hạn, tốc độ 1,3mm/ gi
với 110C ; 5,9mm/giờ với 330C. Cũng
như đối với Thông, có lúc sự kéo dài ca
ống phấn tạm ngừng đến nỗi sự phát triển
của thể giao tử đực lâu kết thúc. Do đó,
đôi khi kéo dài thời gian tương đi dài
giữa sự thụ phấn và th tinh, từ 12 - 14
tháng một số cây Sồi / họ Sồi rừng.
Giao t
+ Giao tử đực
Giao tử đực của thực vật Hạt trần, thực
vật Dây gắm đặc biệt là Hạt kín hoàn
toàn không có bộ máy vận động, chúng
thuộc dạng neoteni, và thường nằm trong
ống phấn bao xung quanh chúng cho đến
khi thụ tinh. Vì vậy, chúng bảo lưu tính
độc lập đối với môi trường ngoài. Đặc
tính tiến hoá này, cũng được biết trong
nhóm Nm. Trong thực tế, các giao tử
đực của lớp Nấm tảo không bao giờ giải
phóng giao tử ra môi trường ngoài,
nhưng phát ra ống giao hợp, dẫn các
nhân sinh sản, xuyên qua vách phòng
giao tử cái, đi đến các noãn cầu.
Ngoài ra, sự tồn tại của các ống phấn
(hay ống giao hợp) thể hiện sự tiến b
nào đó cho tính hiệu quả của các giao tử,
mà chúng không có nguy b mất mát.
Ngược lại, sự phát tán các giao tử bơi ra
môi trường ngoài đưa đến sự hoang phí
lớn vật chất sng, bởi vì rt ít trong
chúng đi đến các túi noãn và bảo đảm th
tinh mặc dù có tính hướng hoá ca
chúng. Ống phấn bao gồm ba vùng:
- vùng ngọn chứa tế bào chất đậm đặc và
các bào quan của tế bào với hai nhân
giao tử. Nếu hạt phấn có hai giao tử đực
tức là tế bào sinh tinh đã phân bào
nguyên nhiễm khi hạt phấn nẩy mầm.
Ngoài ra có nhân sinh dưỡng nhiều thuỳ,