
Tác phẩm Kịch của NguyễnĐình Thi
Trong quá trình sáng tác của một nhà văn việc vận dụng thểloại văn học
tùy thuộc vào tài năng và nội lực sáng tạo của người viết và một phầnở điều kiện
khách quan. Có người trong suốt cuộcđời viết chỉviết một loại nhưthơvới TốHữu,
Huy Cận, TếHanh, nghiên cứu, phê bình vớiĐặng Thai Mai, Hoài Thanh, VũNgọc
Phan... NguyễnĐình Thi là người viết nhiều loại: nhạc, thơ, tiểu thuyết, lý luận phê
bình và kịch và ởthểloại nào cũng có thành tựu cao. Không phải ngẫu hứng hoặc
chạy theo thểnghiệm mà là nhu cầu nội tại của sáng tạo, của một nhà văn có nhiều
tài năng. Không thểcó sựsắp xếp trên những chặng đường dài, thờiđiểm nào cho
thơ, thờiđiểm nào cho kịch... Đến với nhạc, với thơtrong tuổi trẻnhiều mơ ước là
điều quen thuộc và hợp lý của nhiều người viết. Thơlà thểloạiđược xem là ưu trội
trong suốt nhiều thời kỳtừNgười chiến sĩ(1956), Bài ca Hắc Hải(1959), Dòng sông
trong xanh (1974), Tia nắng (1983), Trong cát bụi(1992) đếnSóng reo (2002),
NguyễnĐình Thi xem “làm thơlà tựlấy mình ra làm cây đàn”. Cây đàn thơcủa
NguyễnĐình Thi đã đóng góp cho thơca thời kỳhiệnđại nhiều bài thơhay giá trị.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa nhập vớiđời sống chiến trường với tư
cách là nhà văn chiến sĩ, người chiến binh, và chúng ta đã có một NguyễnĐình Thi
của văn xuôi. Và nhưmột sắp xếp có tính tiềnđịnh chăng, NguyễnĐình Thi đã dành
phần lớn thời gian khi tuổiđã cao cho kịch. Nói nhưHuy Cận là phảiởtuổi năm
mươi NguyễnĐình Thi mới sáng tạođược những vởkịch giàu trải nghiệmđến như
thế, Kịch NguyễnĐình Thi nhưmang ý nghĩađúc kết vềhai bình diện, những suy
nghĩcủa người viết qua nhiều chặng đường và bình diệnđúc kết những điển hình
không trải ra ởbềrộng mà lắng đọng ởchiều sâu, ởnhững xung đột bi kịch của nhiều
sốphận, nhiều cảnh đời qua nhiều thời kỳlịch sử, xưa cũng nhưnay: Kịch là phần
đóng góp nổi bật của NguyễnĐình Thi.
NguyễnĐình Thi đến với kịch sớm, từvởCon nai đen (1961). Nhưng rồi có thể
duyên đầu không suôn sẻnên phải mười lăm năm sau ông mới trởlại vớiHoa và
Ngần(1975).Hoa và Ngầnkhông có những xung đột kịch căng thẳng mà là chuyệnđời

thường, gần gũi của hậu phương trong những năm chống Mỹ. NguyễnĐình Thi chú ý
đến những cảnh ngộbình dịcủa từng sốphận luôn đổi thay trước thời cuộc và người
phụnữphải chịuđựng nhiềuđau khổ, thiệt thòi. Hoa và Ngầnchú ý đến cảhai bình
diện củađời sống trong chiến tranh, phẩm chất anh hùng của các nhân vậtđược biểu
hiện qua chuyệnđời thường và một mặt là những nỗlực vượt lên thửthách trong chiến
tranh. Hoa và Ngầnmang dáng dấp của một chuyện kểbằng sân khấu. Một chuỗi
những sựkiện lần lượt diễn ra tiếp nối nhau đan xen với hoạtđộng của các nhân vật.
Phía sau các tình huống là những suy nghĩvà tình cảm nhân ái của tác giả.Hoa và
Ngầnchưa gây ấn tượng đặc biệt vềkịch của NguyễnĐình Thi. Từnhững năm 80 trở
đi khi tác giảsắp bước vào tuổi 50, tuổi chín của sức sáng tạo, NguyễnĐình Thi đã
viết dồn dập tám vởkịch tiếp theo trong khoảng năm năm: Giấc mơ(1983), Rừng
trúc (1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Ngườiđàn bà hóa đá(1980), Cái bóng
trên tường (1983), Trương Chi (1983), Hòn Cuội(1983-1986). Năm, sáu năm viết tám
vởkịch, nhiều vởcó giá trịvà gây ấn tượng sâu sắc. Vềphía chủquan người viếtđã
tích tụlắng sâu suy nghĩvà giải tỏa qua trang viết. Vềphía khách quan đây là thời
điểm thuận lợi của thời kỳ đổi mới. Trong các sáng tác trên có thểRừng trúc (1979)
vàNguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) đến sớm nên không tránh khỏi sựáp đặt nặng nề
và đánh giá không sát đúng với giá trịcủa tác phẩm. Không khí của thời kỳtiềnđổi
mớiđã tạođiều kiện thuận lợi cho tác giảphát huy sức sáng tạo. Chiến tranh đã kết
thúc, đất nước thống nhất. Nhiều vấnđề xã hộiđượcđặt ra, phong phú, phức tạp. Ở
thờiđiểm này cũng được mùa kịch với nhiều tác phẩm có giá trịcủa thời kỳ đổi mới
nhưNhân danh công lý của Doãn Hoàng Giang, Tôi và chúng ta của Lưu Quang
Vũ,Mùa hè ởbiểncủa Xuân Trình. NguyễnĐình Thi tập trung vào đề tài lịch sửmà
ông luôn trân trọng và muốnđược thểhiện qua sáng tác. Ngay từthời kỳtiền khởi
nghĩa NguyễnĐình Thi đã viếtSức sống của dân tộc Việt Nam trong ca dao và cổ
tích (1944) và trong bài hát Người Hà Nộicũng chứađựng cảm hứng lịch sửsâu sắc.
Nhưng rồi cũng phải chờ đợi vào một thời gian thích hợpđể có thểviết vềlịch sử.
Trởlại với vởkịch Con nai đen (1961) tác phẩm gây nhiều dưluận và có những
ý kiến khắt khe với tác phẩm vềchính trị.Con nai đen ra đời trong thờiđiểm không
thuận lợi khi cuộcđấu tranh chống Nhân văn giai phẩm vừa kết thúc, không khí văn
chương còn nặng nề, chưa tạođược sựtin cậy với giới lãnh đạo. Thời kỳnày người ta
thường nhắcđến vụviệc “bốn con” trong bốn tác phẩmCon nai đen của NguyễnĐình
Thi, Con chó xấu xí của Kim Lân, Cuộc phiêu lưu của Văn ngan tướng công của Vũ

Tú Nam và Chuyện cái xóm tha hương ởcửa rừng suối Cát và con hùm bồcôi của nhà
văn Nguyên Hồng. Bốn con vật này đều không bình thường và bịnghi kỵlà những
hình tượng bóng gió nói xấu cán bộcủaĐảng. Viết vềchuyện cỏcây, loài vật hay là
chuyện lịch sử đều phải xem xét cẩn thận tránh tình trạng liên tưởng có tính chất biểu
tượng hai mặt. Một cán bộlãnh đạo trong một bài viếtđã chỉra “chủ đề tưtưởng sáng
rõ một biểu hiện của tính Đảng”. Chủ đề tưtưởng sáng rõ chắc chắn là một nguyên tắc
cần thiết cho tác phẩm nghệthuật. Tuy nhiên đó là điều kiện cần nhưng chưađủ và có
thểchưa phải là chủyếuđể tác phẩm có tính Đảng. Vấnđề quan trọng là nội dung tư
tưởng phải thểhiệnđược tầm cao, tính chiếnđấu và sức hấp dẫn của tưtưởng của
Đảng. Một mặt trong văn học thường có những khoảng mờtạo thêm những liên tưởng
cần thiếtởngườiđọc, tác phẩm do đó thêm phong phú. Con nai đen cũng nhưcác con
vật trong các tác phẩm kểtrên đều bịnghi oan là biểu tượng hai mặt. Sựthực không
phải thếvà một thời gian sau cũng được hiểuđúng và giải oan.
Con nai đen của NguyễnĐình Thi được ghi chú: Kịch thần thoại phỏng theo một
truyện cổnước Ý. NguyễnĐình Thi tâm sự“Con nai đen vốn tên là Vua nai của Ý. Con
nai đen của tôi có những điểm khác. Tôi đã cùng Phạm Văn Khoa xem vởkịch rối
vềCon nai đen (có pho tượng biết cười, có chuyện hồn, xác. Tôi thêm ông lão hát rong
và một sốnhân vật, ông lão hát rong trong nguyên bản là phù thủy. Cũng trong nguyên
bảnđoạn pho tượng biết nói rất giỏi. Cô gái trách ông vua “Anh thấu hiểu lẽ đời sao anh
lại bày trò thế!”. Câu này là hơn tác phẩm của mình. So sánh thật giả đã phát hiện
nguyên hình cái xấu. Đây là cuộcđấu tranh phức tạp giữa thiện và ác”(1).
So sánh giữaVua hươucủa Carlo Gozzi và Con nai đen của NguyễnĐình Thi,
nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cưghi nhận những sáng tạo của NguyễnĐình Thi. Vua
hươucó nhiều yếu tốhài, Con nai đen trang nghiêm và theo đuổi mục tiêu nghệthuật
khác “Xét vềtổng thểCon nai đen của NguyễnĐình Thi có thể đượcđịnh nghĩa như
kịch trữtình anh hùng vềbản chất loại hình khác xa truyện cổtích cho sân khấu của
Gozzi đã làm nguyên mẫu cho nó” và chỗmạnh của ngòi bút NguyễnĐình Thi là
“chất trữtình bao trùm và thẩm thấu tất cảcảm hứng sửthi anh hùng gắn chặt vớiđề
tài yêu nước và chiếnđấu bảo vệ đất nước, sựtôn vinh lãng mạn tình yêu nam nữ, sự
khẳng định quan hệthân thiếtđồng chất giữa con người với thiên nhiên, cảm hứng về
dân tộc nhưmột giá trịtối cao và bất tửvà chỉ ở đây, con người mới tìm thấy ý nghĩa
cho cuộc sống của mình”(2).

NguyễnĐình Thi vốn là nhà triết học. Mặc dù viết tiểu thuyết, làm thơnhưng ở
ông trong tưduy nghệthuật vẫn nhạy cảm với các vấnđề xã hội và đạo lý có ý nghĩa
triết học. NguyễnĐình Thi qua Con nai đen đã đề xuất cuộcđấu tranh không thu hẹp
trong phạm vi quan hệcủa một sốcá nhân cho dù là có quyền lực của một triềuđình.
Theo tác giảcho biếtCon nai đen đề cập cuộcđấu tranh giữa cái thiện và ác, chính
trực và gian tà. Cuộcđấu tranh không diễn ra đơn giản, thuận chiều mà lẫn lộn phức
tạp. Cái ác đội lốt cái thiện, kẻchính trực khoác bộmặt gian tà. NguyễnĐình Thi vẫn
tiếp tục sửdụng những yếu tốpháp thuật trong Vua nai để tạo những đổi thay cho các
nhân vật. Khi cái ác mang lốt cái thiện thì mọi việc trởnên lẫn lộn, gây đau khổmất
mát cho các nhân vật lương thiện. NguyễnĐình Thi đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của nhân dân nhưhòn đá thửvàng để phân biệtđúng sai. Đó là Ông lão hát rong, Con
nai đen,QuếNga và một bên kia là Quận công và con gái với những âm mưuđộc ác.
Chính tên Quận công miệng hát những câu quái gở“Mèo mẹ ăn thịt mèo con, ông già
thèm bếgái non - Con chó đi hai chân chổng ngược. Này cô nàng ta bắt cô nàng” đã
tạo nên nhiềuđau khổcho mọi người. Nhà vua đã bịhồn Quận công nhập vào và biến
thành một nhà vua độc ác, xa nhân dân; và chính nhân dân đã giúp nhà vua tỉnh ngộ.
Chuyện xảy ra khi nhà vua vừa hoàn thành nhiệm vụcứu nước, được tôn vinh. Nhưng
rồi trong hoàn cảnh mới nhà vua đã biến chất do xa rời nhân dân và bịkẻxấu chi phối
lợi dụng. Vởkịch Con nai đen đã tạo nên những liên hệgiữa nghệthuật và cuộc sống
nhất là trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc; nhiều người có
quyền lực dễbiến chất trong cảnh sống giàu có phồn vinh. Vởkịch bịquy kết là biểu
tượng hai mặt và quá trình diễn biếnđổi thay của các nhân vật quá phức tạp. Thực ra
tất cả đều có trong nguyên mẫu. Quyền nghĩlà của ngườiđọc nhưng mọi liên tưởng
phải hợp lý, suy diễn phải có căn cứ. Tính biểu tượng nhiều mặt vẫn là hiện tượng bình
thường và quen thuộc trong văn học. Nó có thểtạo nên sựmởrộng phong phú hơn
trong tiếp nhận và tất nhiên là mọi dụng ý xấu và lộliễuđều không thuộc vềnhững tác
phẩm văn học chân chính.
Trởvềvới nguồnđề tài lịch sửcủa dân tộc sau gần hai thập kỷvà tác giả đã có
những thành công rấtđáng ghi nhận. Trên dòng lịch sửcủa mộtđất nước kiên cường
có hàng ngàn năm lịch sửvẻvang chống ngoại xâm, NguyễnĐình Thi đã chọn những
thờiđiểmđặc biệt, những nhân vật kiệt xuất, những tình huống giàu ý nghĩa xã hộiđể
viếtNguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc... Hoàn cảnh và nhân vật lịch sử đều cụthể

gần gũi cầnđược nghiên cứu sâu sắc. NguyễnĐình Thi qua Nguyễn Trãi đã đặt vấnđề
vịtrí, tài năng và sốphận của người trí thức dưới chế độ phong kiến. Nguyễn Trãi nhà
thơlớn của dân tộcđã được Hộiđồng Hòa bình thếgiới tôn vinh là danh nhân văn hóa
thếgiới. Nữnhà văn Pháp Yveline Feray trong cuốn tiểu thuyếtVạn xuân (Dix mille
printemps) với hàng ngàn trang sách đã ca ngợi Nguyễn Trãi, nhân vật kiệt xuất của
mọi thờiđại.
NguyễnĐình Thi đã miêu tả được một Nguyễn Trãi người trí thức lớn của thời
cuộc, tâm huyết và tài năng đã vượt qua những khó khăn của một hoàn cảnh đầy thử
thách. Đối thoại và xung đột kịch có thuận lợiđể tái hiện tính cách nhân vật chân thực.
Khi tác phẩmđược trình diễn trên sân khấu của Nhà hát lớn Hà Nội cũng chỉdiễn
được 9 đêm rồi bị đình chỉ. Cũng lại luậnđiểm phê phán là tác phẩm có tính chất biểu
tượng hai mặt. Một cán bộtrong Ban tuyên huấn TW nhắc lại ý kiến của NguyễnĐình
Thi vềvởkịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan:
“Dưluận nói tôi viết vởNguyễn Trãi định ám chỉmộtđồng chí nào là không
đúng. Suy nghĩvà nguyện vọng của tôi là được viết những điều mình thấy là nên viết.
Trong phê bình của trên vềvởNguyễn Trãi tôi xin phép không tiếp nhậnđiều phê bình
là tác phẩm có biểu tượng hai mặt vì tôi không có ý nghĩ đó”(3).Nguyễn Trãi ở Đông
Quan là một vởkịch lịch sửcó giá trị. Cũng trên dòng vậnđộng của lịch sửvà theo sự
chọn lọc của NguyễnĐình Thi tác giảchọn không khí triều chính buổi suy tàn của nhà
Lý và lập quốc của nhà Trần dưới bàn tay của thái sưTrần Thủ Độ. Rõ ràng thờiđiểm
này triềuđình nơi tập trung quyền lực có nhiều chuyện phức tạp xáo trộn kỷcương,
đạođức, việc tranh chấp quyền lực của một vương triều vốn không mới lạnhưng
chẳng tình huống nào giống tình huống nào. Các nhân vật Trần Thủ Độ, Thiên Cực,
Chiêu Thánh, Trần Thái Tông... mỗi ngườiđều có cá tính và bản lĩnh riêng đều muốn
làm theo ý mình nhưng rồi cũng bịguồng máy chính trịchi phối phải làm những việc
khác với chính mình. Rừng trúc có sự đan xen lẫn lộn giữa nhiều yếu tốchính trị,đạo
đức, quyền lực, tín ngưỡng tác động lẫn nhau và đầu mối quan trọng nhất vẫn là chính
trị.Đối với mỗi nhân vật, phần tích cực và tiêu cực cũng không dễphân tích. Điều
đáng quý là dù ởhoàn cảnh nào hiển danh hay bất hạnh cũng luôn nghĩ đến quyền lợi
quốc gia. NguyễnĐình Thi chú ý đến nhân tốquan trọng này để điều hành cho các
nhân vật hoạtđộng. NguyễnĐình Thi luôn chú trọng đến bản chất người của các nhân
vậtởmôi trường quyền quý. Họcũng suy nghĩ, xúc cảm, vui buồn, đau đớn nhưcon