
TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 5
KỶ NGUYÊN MỚI: TẦM SOÁT UNG THƯ
BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN BẰNG DẤU ẤN SINH HÓA
PGS.TS.BS Phạm Thị Thu Thủy1*
1Trung Tâm Y Khoa Medic, TP HCM
*Đại học Y Khoa Phan Châu Trinh, Quảng Nam
Tóm tắt:
Ung thư biểu mô tế bào gan đứng hàng thứ sáu trong các ung thư hay gặp trên thế giới và là nguyên nhân thứ tư gây tử
vong do ung thư. Vì vậy vấn đề chẩn đoán sớm ung thư thật cần thiết giúp cho hiệu quả điều trị tốt nhất và phát hiện sớm
tái phát làm tăng cơ hội sống còn cho bệnh nhân. Các khuyến nghị sàng lọc hiện tại bao gồm siêu âm bụng nửa năm một
lần có hoặc không có alpha-fetoprotein huyết thanh ở bệnh nhân xơ gan và bệnh nhân bị nhiễm viêm gan B mạn tính.
Tuy nhiên, chiến lược sàng lọc này có một số thiếu sót, bao gồm độ nhạy trong chẩn đoán ung thư giai đoạn đầu dưới
mức tối ưu, dương tính giả một số trường hợp, kết quả có thể khác nhau giữa các bác sĩ siêu âm khác nhau. Các dấu ấn
sinh hóa dựa trên xét nghiệm máu dùng trong chẩn đoán bệnh giai đoạn sớm với các chỉ tiêu chính xác đầy đủ thì có thể
vượt qua một số rào cản này để cải thiện khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu.
Một số dấu ấn sinh hóa đã đang sử dụng để cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân và kết quả điều trị. Một số dấu ấn sinh hóa
đầy hứa hẹn đang chờ khẳng định hiệu quả qua nhiều nghiên cứu. Nhưng để thay thế siêu âm bụng, một dấu ấn sinh hóa
phải thể hiện hiệu quả đầy đủ và vượt qua các rào cản thực tế để đảm bảo áp dụng trong thực hành lâm sàng, điều này rất
quan trọng.
New Era: Screening biomarkers for hepatocellular carcinoma
Abstract:
HCC is ranked as the sixth most common cancer in the world and it is the fourth leading cause of cancer-related deaths.
Therefore, early diagnosis of HCC is essential for the most effective treatments and early detection of recurrence in order
to increase the patients’ chances of survival. Current screening guidelines include semiannual abdominal ultrasound with
or without serum alpha-fetoprotein in patients with cirrhosis and in patients with chronic hepatitis B viral infection.
However, this screening strategy has several shortcomings, including suboptimal sensitivity for diagnosing early-stage
cancers, false positives in some cases, and dissimilar result interpretation from different sonographers. Blood-based
biomarkers with sufficient performance characteristics for diagnosing early-stage disease could overcome some of these
barriers and improve the patients’ chances of early-stage cancer detection.
Several biomarkers are applied to improve patient care and outcomes. Some potential biomarkers are being discovered
and being validated the efficacy through numerous studies. However, in order to replace abdominal ultrasound, it is very
important that a biomarker must prove its adequate efficacy and overcome practical barriers to enhance its clinical
application.
MỞ ĐẦU
Ung thư gan nguyên phát bao gồm ung thư biểu
mô tế bào gan (chiếm khoảng 75-85% trường
hợp) và ung thư biểu mô đường mật trong gan
(Intrahepatic cholangiocarcinoma – chiếm 10-
15% trường hợp)[1,4].
Ung thư biểu mô tế bào gan (Hay gọi là ung thư
gan – HCC: Hepatocellular carcinoma) đứng
hàng thứ 6 trong các ung thư hay gặp trên thế
giới và là nguyên nhân thứ 4 gây tử vong do ung
thư trên thế giới trong năm 2018, với khoảng
841.000 trường hợp ung thư gan mới và 782.000
trường hợp tử vong mỗi năm do HCC.[2] Tỉ lệ
mắc và tử vong do HCC ở nam giới cao gấp 2-3
lần so với nữ ở hầu hết mọi vùng trên thế giới.
Tuy nhiên, ung thư gan lại là ung thư đứng hàng
đầu trong các ung thư mới mắc ở cả 2 giới tại
Việt Nam năm 2018 theo Globocan [2], có 25.335
trường hợp (15,4%); Tỉ lệ ung thư gan mới ở
nam là 21,5% và ở nữ là 7,8% [7]. Do đó để kiểm
soát tốt ung thư gan như giảm tỉ lệ bệnh nhân
HCC, chẩn đoán và điều trị HCC kịp thời thì
chúng ta phải kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ
của HCC, quan tâm đến HCC và tầm soát chẩn
đoán HCC càng sớm càng tốt để đạt được kết
quả điều trị HCC tốt nhất.
Trong khi tỷ lệ tử vong đối với hầu hết các bệnh
ung thư đang giảm, HCC vẫn là một trong những
nguyên nhân gây tử vong liên quan đến ung thư
tăng nhanh nhất trên toàn thế giới.[3,4] Tỷ lệ tử
vong cao ở bệnh nhân mắc HCC là do một số
yếu tố bao gồm chiến lược phát hiện sớm không
phù hợp, thiếu phương pháp điều trị khỏi bệnh
đối với những người được phát hiện ngoài giai
đoạn đầu, áp dụng các liệu pháp điều trị không
nhất quán trong thực hành lâm sàng và nguy cơ
tử vong cạnh tranh do bệnh gan kèm theo. Giai
đoạn khối u khi chẩn đoán có liên quan đến việc
tiếp nhận điều trị khỏi bệnh và tỷ lệ sống sót
chung, bao gồm tỷ lệ sống sót sau 5 năm dưới
5% ở bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở giai đoạn
tiến triển so với >70% đối với những người mắc
HCC giai đoạn đầu.[5] Các khuyến nghị hiện tại
đối với sàng lọc HCC, được xác nhận bởi các
hướng dẫn của tổ chức chuyên ngành, bao gồm