TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 5
KỶ NGUYÊN MỚI: TẦM SOÁT UNG T
BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN BẰNG DẤU ẤN SINH HÓA
PGS.TS.BS Phạm Thị Thu Thủy1*
1Trung Tâm Y Khoa Medic, TP HCM
*Đại học Y Khoa Phan Châu Trinh, Quảng Nam
Tóm tắt:
Ung thư biểu mô tế bào gan đứng hàng thứ sáu trong các ung thư hay gặp trên thế giới và là nguyên nhân thứ gây tử
vong do ung thư. Vì vậy vấn đề chẩn đoán sớm ung thư thật cần thiết giúp cho hiệu quả điều trị tốt nhất và phát hiện sớm
tái phát làm tăng cơ hội sống còn cho bệnh nhân. Các khuyến nghị sàng lọc hiện tại bao gồm siêu âm bụng nửa năm một
lần hoặc không alpha-fetoprotein huyết thanh bệnh nhân gan bệnh nhân bị nhiễm viêm gan B mạn tính.
Tuy nhiên, chiến lược ng lọc này một số thiếu sót, bao gồm độ nhạy trong chẩn đoán ung thư giai đoạn đầu dưới
mức tối ưu, dương tính giả một số trường hợp, kết quả thể khác nhau giữa các bác siêu âm khác nhau. Các dấu ấn
sinh hóa dựa trên xét nghiệm máu dùng trong chẩn đoán bệnh giai đoạn sớm với các chỉ tiêu chính xác đầy đủ thì có thể
vượt qua một số rào cản này để cải thiện khả năng phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu.
Một số dấu ấn sinh hóa đã đang sử dụng để cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân và kết quả điều trị. Một số dấu ấn sinh hóa
đầy hứa hẹn đang chờ khẳng định hiệu quả qua nhiều nghiên cứu. Nhưng để thay thế siêu âm bụng, một dấu ấn sinh hóa
phải thể hiện hiệu quả đầy đủ và vượt qua các rào cản thực tế để đảm bảo áp dụng trong thực hành lâm sàng, điều này rất
quan trọng.
New Era: Screening biomarkers for hepatocellular carcinoma
Abstract:
HCC is ranked as the sixth most common cancer in the world and it is the fourth leading cause of cancer-related deaths.
Therefore, early diagnosis of HCC is essential for the most effective treatments and early detection of recurrence in order
to increase the patients’ chances of survival. Current screening guidelines include semiannual abdominal ultrasound with
or without serum alpha-fetoprotein in patients with cirrhosis and in patients with chronic hepatitis B viral infection.
However, this screening strategy has several shortcomings, including suboptimal sensitivity for diagnosing early-stage
cancers, false positives in some cases, and dissimilar result interpretation from different sonographers. Blood-based
biomarkers with sufficient performance characteristics for diagnosing early-stage disease could overcome some of these
barriers and improve the patients’ chances of early-stage cancer detection.
Several biomarkers are applied to improve patient care and outcomes. Some potential biomarkers are being discovered
and being validated the efficacy through numerous studies. However, in order to replace abdominal ultrasound, it is very
important that a biomarker must prove its adequate efficacy and overcome practical barriers to enhance its clinical
application.
MỞ ĐẦU
Ung thư gan nguyên phát bao gm ung thư biu
tế bào gan (chiếm khong 75-85% trường
hp) và ung thư biểu đường mt trong gan
(Intrahepatic cholangiocarcinoma chiếm 10-
15% trường hp)[1,4].
Ung thư biểu mô tế bào gan (Hay gi là ung thư
gan HCC: Hepatocellular carcinoma) đng
hàng th 6 trong các ung thư hay gặp trên thế
gii và là nguyên nhân th 4 gây t vong do ung
thư trên thế giới trong năm 2018, với khong
841.000 trường hợp ung thư gan mi và 782.000
trường hp t vong mỗi năm do HCC.[2] T l
mc và t vong do HCC nam gii cao gp 2-3
ln so vi n hu hết mi vùng trên thế gii.
Tuy nhiên, ung thư gan lại là ung thư đứng hàng
đầu trong các ung thư mới mc c 2 gii ti
Việt Nam m 2018 theo Globocan [2], có 25.335
trường hp (15,4%); T l ung thư gan mới
nam là 21,5% và n là 7,8% [7]. Do đó để kim
soát tốt ung thư gan như giảm t l bnh nhân
HCC, chẩn đoán và điều tr HCC kp thi thì
chúng ta phi kim soát tt các yếu t nguy
của HCC, quan tâm đến HCC và tm soát chn
đoán HCC càng sm càng tốt để đạt được kết
qu điều tr HCC tt nht.
Trong khi tỷ lệ tử vong đối với hầu hết các bệnh
ung thư đang giảm, HCC vẫn một trong những
nguyên nhân gây tử vong liên quan đến ung thư
tăng nhanh nhất trên toàn thế giới.[3,4] Tỷ lệ tử
vong cao bệnh nhân mắc HCC do một số
yếu tố bao gồm chiến lược phát hiện sớm không
phù hợp, thiếu phương pháp điều trị khỏi bệnh
đối với những người được phát hiện ngoài giai
đoạn đầu, áp dụng các liệu pháp điều trị không
nhất quán trong thực hành lâm sàng nguy cơ
tử vong cạnh tranh do bệnh gan kèm theo. Giai
đoạn khối u khi chẩn đoán có liên quan đến việc
tiếp nhận điều trị khỏi bệnh t lệ sống sót
chung, bao gồm t lệ sống sót sau 5 năm dưới
5% bệnh nhân mắc bệnh ung thư giai đoạn
tiến triển so với >70% đối với những người mắc
HCC giai đoạn đầu.[5] Các khuyến nghị hiện tại
đối với sàng lọc HCC, được xác nhận bởi các
hướng dẫn của tổ chức chuyên ngành, bao gồm
TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 6
siêu âm bụng nửa năm một lần, hoặc không
alpha-fetoprotein huyết thanh (AFP), những
bệnh nhân bị gan bệnh nhân bị nhiễm vi-
rút viêm gan B mạn tính.[6,7] Sàng lọc HCC được
hỗ trợ bởi giới hạn dữ liệu thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên từ châu Á những bệnh nhân bị
nhiễm vi-rút viêm gan B mạn tính nhiều
nghiên cứu đoàn hệ những bệnh nhân bị xơ
gan.[8,9] Những nghiên cứu này luôn chứng minh
rằng sàng lọc có liên quan đáng kể đến việc phát
hiện HCC sớm, tăng khả năng điều trị khỏi bệnh
và cải thiện khả năng sống sót.[9]
HẠN CHẾ TẦM SOÁT UNG THƯ GAN BẰNG SIÊU ÂM
Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu đoàn hệ
đã báo cáo độ nhạy của siêu âm trong phát hiện
HCC giai đoạn đầu chỉ là 45%, con số này tăng
lên 63% khi bổ sung AFP.[10] Mặc dù chiến lược
dựa trên siêu âm đã có hiệu quả ở một số sở,
dụ ở Nhật Bản, các nguồn lực y tế công cộng
quan trọng của quốc gia đã được yêu cầu để thúc
đẩy việc sàng lọc HCC.[11,12] Hơn nữa, các xét
nghiệm siêu âm thường được thực hiện và được
các bác chun khoa gan giải thích theo thời
gian thực, tối ưu hóa chất lượng xét nghiệm và
được kết hợp với việc sử dụng rộng rãi một số
dấu ấn sinh học, chẳng hạn như PIVKA-II, AFP,
đoạn AFP phản ứng agglutinin Lens culinaris
(AFP-L3).[12]
Hiệu quả của sàng lọc dựa trên siêu âm nhiều
quốc gia khác trên toàn thế giới là không đầy đủ
vì ba lý do chính:
Đầu tiên, sự khác biệt đáng kể về cách thực
hiện siêu âm, dao động từ 21% đến 89% trong
các nghiên cứu, do cả hai yếu tố bệnh nhân
bác sĩ.[10] Siêu âm có những hạn chế về hình ảnh
từ trung bình đến nặng khoảng 20% bệnh nhân,
với tỷ lệ hình ảnh dưới mức tối ưu tăng lên
những người béo phì và những người có nguyên
nhân bệnh gan không do vi-rút hoặc tăng kết cấu
phản âm gan.[11] Trong một nghiên cứu bao gồm
941 những người bị xơ gan, hình ảnh không đầy
đủ một phần ba số người bị gan mất
chỉ số khối thể >35[13] Hình ảnh kém làm
giảm đáng kể độ nhạy trong phát hiện HCC giai
đoạn đầu[13]. Xem xét dịch tễ học xơ gan đang
thay đổi, với t lệ ngày càng tăng những người
bị gan không do virus, những hạn chế như
vậy thể sẽ ngày càng trở thành vấn đề trong
thực hành lâm sàng[13] . Hình ảnh dựa trên siêu
âm và hiệu suất xét nghiệm khác nhau. Siêu âm
yêu cầu chụp các cửa sổ cụ thể để hình dung đầy
đủ toàn bộ gan, điều này một phần phụ thuộc vào
kinh nghiệm của người thực hiện siêu âm[13] .
Thứ hai, sàng lọc dựa trên siêu âm liên quan
đến những tác hại tiềm ẩn do kết quả dương tính
giả hoặc không xác định có thể dẫn đến hình ảnh
cắt ngang bằng CT hoặc MRI, sinh thiết gan qua
da căng thẳng tâm lý.[13] Trong một nghiên
cứu bao gồm 999 người bị gan, lên đến 25%
những người được kiểm tra bằng siêu âm có kết
quả dương tính giả trong khoảng thời gian trung
bình 1,5 năm.[13] Tương tự, trong một nhóm
thuần tập khác gồm 680 người bị xơ gan, 27,5%
bị tổn hại liên quan đến kiểm tra trong khoảng
thời gian 3 năm.[13] Cho đến nay , hầu hết các
nghiên cứu đều cho rằng tác hại về thể chất của
việc sàng lọc HCC đều mức độ nghiêm trọng
nhẹ, mặc vẫn cần những nghiên cứu lớn
hơn với thời gian theo dõi lâu hơn.[13] Hơn nữa,
hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào tác hại
về thể chất, không dữ liệu về tác hại tiềm ẩn
về tâm hoặc tài chính.[9,13] Trong khi những
tổn hại về tâm lý vẫn chưa được tả chính
thức, thì sự lo lắng lo lắng do kết quả dương
tính giả gây ra thể thấy trong các mô hình
sàng lọc ung thư khác.[13]
Thứ ba, sàng lọc siêu âm bị tuân thủ kém. Một
phân tích tổng hợp cho thấy tỷ lệ trung bình được
công bố v việc tuân thủ siêu âm sàng lọc
những người nguy 24%.[13] một số
rào cản của bệnh nhân nhà cung cấp đối với
việc hoàn thành siêu âm. Từ góc độ bệnh nhân,
có những lỗ hổng kiến thức về nguy cơ HCC và
do đạt được siêu âm.[13] Ngoài ra, các rào cản
bao gồm nhu cầu hẹn khám X-quang riêng biệt,
chi phí thời gian đi lại thể duy nhất đối
với siêu âm và góp phần làm giảm tuân thủ, đặc
biệt trong bối cảnh thử nghiệm nửa năm theo
chiều dọc.[13] Rào cản của nhà cung cấp bao gồm
việc thiếu kiến thức cập nhật về các khuyến nghị
sàng lọc thời gian hạn chế phòng khám để
thực hiện sàng lọc.[13]
Những hạn chế của chiến lược sàng lọc dựa trên
siêu âm để phát hiện HCC sớm là rất đa dạng và
do đó cần các xét nghiệm nhạy cảm hơn để
vượt qua các rào cản tuân thủ điều trị hiện tại
này. Khi khơi gợi sở thích của bệnh nhân về các
phương thức sàng lọc, bệnh nhân thực sự thích
các xét nghiệm thuận tiện chính xác hơn so
với tiêu chuẩn sàng lọc dựa trên siêu âm chăm
sóc hiện tại.[13] Hứa hẹn về các dấu ấn sinh học
dựa trên máu sẽ trở thành tiêu chuẩn chăm sóc
TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 7
mới cho sàng lọc HCC đã tồn tại trong nhiều
năm; tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa xác nhận một
dấu ấn sinh học có đủ khả năng để thay thế siêu
âm. Hiện một số đoàn hệ xác nhận sẵn đ
thử nghiệm dấu ấn sinh học, bên cạnh các thiết
kế xác nhận dấu ấn sinh học mới thể cho phép
áp dụng nhanh hơn chiến lược dựa trên dấu ấn
sinh học để phát hiện HCC sớm. đây, chúng
tôi sẽ xem xét những phát triển gần đây trong
việc xác nhận dấu ấn sinh học đối với HCC
những thách thức cũng như cơ hội vượt ra ngoài
chiến lược dựa trên siêu âm để sàng lọc HCC.
DẤU ẤN SINH HÓA HIỆN TẠI CHO CHẨN ĐOÁN HCC
1. AFP
AFP dấu ấn sinh học duy nhất được sử dụng
rộng rãi để phát hiện HCC và theo dõi bệnh; tuy
nhiên, AFP không được coi là có đầy đủ các đặc
điểm hoạt động như một xét nghiệm độc lập để
sàng lọc. Một phân tích tổng hợp cho thấy AFP
có thể tăng độ nhạy để phát hiện HCC giai đoạn
đầu khi được sử dụng kết hợp với siêu âm bụng
(63% so với 45% chỉ với siêu âm), một nghiên
cứu hình cho thấy siêu âm kết hợp với AFP
là chiến lược sàng lọc hiệu quả nhất về chi phí ở
phần lớn các mô phỏng.[10] ng AFP có thể xảy
ra trong các điều kiện khác, điều này có thể dẫn
đến kết quả dương tính giả, đặc biệt những
bệnh nhân bị nhiễm viêm gan C B mạn tính
đang hoạt động.[13] Các nghiên cứu đoàn hệ đã
công bố ước tính rằng, ngưỡng truyền thống
của 20 ng/ml, AFP nhiều độ nhạy để
phát hiện HCC giai đoạn đầu, từ 39-64%, với độ
đặc hiệu từ 76–97%.[13] Dữ liệu gần đây cho thấy
mức AFP quan sát được trong thực tế giảm
song song với việc tăng cường sử dụng điều trị
bằng thuốc kháng vi-rút, cho thấy ngưỡng tối ưu
của AFP để sàng lọc hiện ththấp hơn.[13]
Ngoài các đánh giá một ngưỡng, sự thay đổi giá
trị AFP qua các phép đo nối tiếp đã được chứng
minh là vượt trội so với AFP đơn lẻ và cơ sở để
phát hiện HCC giai đoạn đầu.[13] Hơn nữa, AFP
delta đã được tích hợp vào thuật toán sàng lọc
phát hiện sớm ung thư biểu tế bào gan
(HES).[13] Nhìn chung, AFP có thể có vai trò kết
hợp với các xét nghiệm khác để phát hiện sớm
HCC; tuy nhiên, không đủ như một thử
nghiệm độc lập để sàng lọc.
2. AFP L3
AFP-L3, hay AFP phản ứng agglutinin của Lens
culinaris, là một glycoform fucosyl hóa của AFP
đã được đề xuất như một dấu ấn sinh học để phát
hiện HCC sớm.[13] AFP-L3 đã thể hiện một loạt
độ nhạy để phát hiện giai đoạn sớm HCC trong
y văn (49–60%), tùy thuộc vào đặc điểm của
đoàn hệ.[13] Dữ liệu gần đây từ một đoàn hệ nhỏ
giai đoạn III (n = 397) ở Hoa K cho thấy AFP-
L3, mức giới hạn 11,9%, độ nhạy 46,2%,
trong vòng 6 tháng trước khi chẩn đoán HCC. [13]
Trong một nghiên cứu thuần tập giai đoạn III
riêng biệt gồm 534 bệnh nhân Hoa Kỳ, AFP-
L3 ngưỡng 8,3% đã độ nhạy 40% đối với
HCC giai đoạn đầu.[13] Những dữ liệu y cho
thấy AFP-L3 không đủ để làm dấu ấn sinh học
cho HCC, nhưng đã được tích hợp vào các
bảng dấu ấn sinh học khác và do đó có thể đóng
một vai trò trong một chiến lược dựa trên bảng
đánh dấu sinh học để sàng lọc.
3. DCP
Des-gamma carboxyprothrombin (DCP) một
dấu ấn sinh học huyết thanh khác đã trải qua quá
trình xác nhận giai đoạn II và đầu giai đoạn III.
4. Dấu ấn HBcrAg
Dấu ấn sinh học mới, nhiều tính năng độc
đáo: tiên đoán đáp ứng điều trị, kh năng dự
đoán HCC nhiều ứng dụng trong quản viêm
gan B mạn. HBcrAg chứa ba sản phẩm được mã
hóa bởi gen preore/core. HBeAg một peptide
tuần hoàn nguồn gốc tprotein trước khi phân
giải protein được tiết ra từ tế bào gan. HBcAg
một thành phần của virion tạo thành
nucleocapsid bao quanh DNA của virus. p22cr
một tiền protein 22 kDa có trong hạt tử Dane
rỗng âm tính với HBV DNA. Tất cả ba protein
đều có chung một chuỗi 149 axit amin. HBcAg,
p22cr và HBeAg đều có thể được đo là HBcrAg
bằng xét nghiệm huyết thanh học.
Rất khó tiên đoán HCC xảy rabệnh nhân đang
điều trị thuốc kháng siêu vi B uống (NA). Nồng
độ cao HBV DNA yếu tố nguy xơ gan,
HCC. HBV DNA âm tính giảm nguy HCC
nhưng điều này không hoàn toàn đúng. Nhiều
dấu ấn liên quan phát triển HCC bệnh nhân
CHB bao gồm HbcrAg.[16]
HBcrAg thì chính xác hơn HBV DNA trong tiên
đoán HCC đối với bệnh nhân viêm gan B mạn
(CHB) chưa từng điều trị. Trong quá trình theo
dõi bệnh nhân CHB không điều trị, đột biến
core promoter với HBcrAg>2,9 log có khả năng
xảy ra HCC. Trong một nghiên cứu khác người
ta thấy rằng, HBcrAg là yếu tố độc lập tiên đoán
HCC bệnh nhân lượng virus trung bình
TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 8
(2.00019.999 IU/mL), khi HBcrAg 4 log cho
thấy nguy cơ cao HCC.
Đối với bệnh nhân điều trị NA, mặc HBV
DNA âm tính nhưng HCC vẫn xảy ra. Khả năng
ung thư xảy ra sau 3 năm 13,6%,5 năm
17,7% khi HBcrAg > 3,4 log thời điểm HBV
DNA âm tính. Khả năng ung thư xảy ra sau 3
năm là 0%, 5 năm 2,4 % khi HBcrAg <3,4 log
thời điểm HBV DNA âm tính. Sau điều trị
HBcrAg>3,9log tiên đoán nguy HCC với tỉ
số chênh 5,95. Để tìm hiểu hiệu quả lâu dài của
điều trị NA, người ta đã so sánh bệnh nhân CHB
điều trị NA không điều trị, người ta thấy
rằng HBcrAg ban đầu cao đột biến BCP dễ
tiến triển ung thư điều trị hay không.
Nghiên cứu mới đây cho thấy rằng kết hợp
HBsAg định lượng HBcrAg dấu ấn hiệu
quả đánh giá HCC xảy ra bệnh nhân CHB.
Người ta thấy rằng bệnh nhân HBeAg âm tính,
HCC hay xảy ra bệnh nhân HBsAg thấp
HBcrAg cao mặc dù điều trị NA.[16,17]
Mức độ HBcrAg trước phẫu thuật dấu ấn
giá trị để theo dõi tái phát HCC, nhiều nghiên
cứu đã xác nhận điều y. Trong một nghiên cứu
55 bệnh nhân HBcrAg > 4,8log lúc chẩn đoán
HCC tỉ số rủi ro 8,89 trong tiên đoán tái
HCC sau 2 năm. Cuối cùng tỉ lệ sống còn trong
nhóm HBcrAg cao lại thấp hơn nhóm HBcrAg
thấp.[16,17]
5. Dấu ấn M2BPGi
Năm 2013 M2BPGi được giới thiệu như dấu ấn
sinh hóa đánh giá hóa gan. Gan xơ hóa làm
thay đổi chuỗi đường M2BP, sau khi gắn kết
glycosylation tạo thành M2BPGi, mức độ
M2BPGi y tương quan đáng kể với sự tiến
triển của xơ hóa gan [16,17] .
Ngoài ra, nồng độ M2BPGi có thể tiên lượng về
nguy phát triển HCC CHB, viêm gan C mạn
(CHC) hoặc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.
Hơn nữa, bệnh nhân CHC đáp ứng virus kéo
dài sau điều trị DAA, M2BPGi yếu tố tiên
lượng cho sự phát triển của HCC những bệnh
nhân không tiền sử HCC trước đó. Mức
M2BPGi dự đoán sự phát triển HCC bệnh nhân
CHB. Ngoài ra, M2BPGi hiệu quả hơn AFP để
dự đoán sự xuất hiện của HCC và một yếu tố
dự đoán độc lập của HCC. Jun cộng sự đã
nghiên cứu 947 bệnh nhân nhiễm HBV hoặc
HCV đơn thuần không HCC thời điểm
ban đầu. M2BPGi giá trị cao hơn đáng kể
những bệnh nhân bị xơ gan (2,67 so với 0,80; P
<0,001) những người phát triển HCC (3,22 so
với 1,16; P <0,001). M2BPGi vượt trội so với
AFP cho bệnh nhân CHB (0,84 so với 0,75; p =
0,02)[11].
những bệnh nhân CHB được điều trị NA, mức
M2BPGi trước khi điều tr48 tuần sau khi bắt
đầu điều trị NA một chỉ số tiên đoán sự xuất
hiện của HCC. những bệnh nhân HBV
DNA không phát hiện được trong khi điều trị
NA, mức M2BPGi trước điều trị cao hơn có liên
quan đến tăng nguy cơ phát triển HCC. Ở những
bệnh nhân bị HCC liên quan đến HBV, mức độ
M2BPGi yếu tố tiên đoán độc lập bệnh nhân
CHB HCC tái phát sau điều trị phẫu thuật.
(Bảng 1)[16].
Bảng 1: ng dụng lâm sàng M2BPGi cho bệnh nhân viêm gan B mạn
Loại bệnh
Dấu hiệu
Lượng M2BPGi
Gan xơ hóa
CHB ≥ F2
≥ 1.06
HCC xuất hiện hay
tái phát
CHB nguy cơ cao HCC
≥ 1.8 cho BN xơ gan và không xơ
gan
HBeAg (-) nguy cơ thấp HCC
≤0.68
Phát triển HCC ở CHB có xơ gan đang trị NA
M2BPGi based score ≥ 652,5 ban
đầu
Phát triển HCC ở CHB đang trị NA
≥ 1,215 tuần 48
Phát triển HCC ở CHB
≥ 0,69 ban đầu
M2BPGi based core= 8* tuổi + 7* M2BPGi ban đầu+ 10*BMI
XU HƯỚNG TƯƠNG LAI CÁC DẤU ẤN SINH A TRONG TẦM SOÁT CHẨN ĐOÁN
HCC
1. AKR1B10 (aldo-keto reductase family 1
member B10): Độ nhy và độ đặc hiu là 81%
và 60,9% vi giá tr ngưỡng 1,51 ng/mL. Khi kết
hp AKR1B10 và AFP giúp nâng cao có ý nghĩa
độ nhy và độ đặc hiu chẩn đoán HCC [15,16]
2. AXL: Là 1 th th ca tyrosine kinase gp
trong các trường hợp ung thư, bao gồm HCC.
AXL có th phát hiện HCC giai đoạn rt sm vi
độ nhy và độ chuyên bit là 76,9% và 69,2%
[17].
TỔNG QUAN Y KHOA
Số 9 (Tháng 5/2024) GẶP GỠ Y KHOA ǀ 9
3. Thioredoxin: Có th phát hiện HCC giai đoạn
sm với độ nhy và độ đặc hiu 70% và 89%;
khi kết hp với AFP tăng lên là 83% và 94% [17]
4. GP 73: Cu to 400 amino acid. Mt s
nghiên cu cho thấy tăng GP 73 tăng trong HCC.
GP 73 giúp chẩn đoán HCC với độ nhy và độ
đặc hiu là 75% và 97%, cao hơn so với AFP [17]
5. GPC3: Cu to gồm 580 amino acid, được mã
hóa bi gen GPC3 trên nhim sc th X. Trong
1 phân tích gp t 19 nghiên cu cho thy độ
nhy và độ đặc hiu ca GPC3 là 55% và 84%.
Đặc biệt độ đặc hiu của GPC3 cao hơn ý
nghĩa khi truy tìm HCC sm[17].
6. Các RNAs không m hóa (non-coding
RNAs: miRNA and long non-coded RNA;
lncRNA) tăng ý nghĩa trong HCC, đặc bit do
nguyên nhân là viêm gan siêu vi C[12]
7. Các DNA khi u vng (Circulating tumor
DNA-ctDNA) và các RNA không mã hóa (non-
coding RNAs -ncRNAs) ni lên như 1 dấu n
sinh hc giúp cho chẩn đoán HCC giai đoạn
sm và đáng tin cậy hơn[11,12]. Vi các cell-free
DNA (cfDNA) kết hp vi AFP và tui bnh
nhân giúp cho chẩn đoán HCC với độ nhy 87%
và độ đặc hiu 100%[17]
8. Dickkopf-1 (DKK-1)
DKK-1 là một glycoprotein chất bài tiết đối
kháng của Wnt/beta-catenin.
Mặc dù chức năng chi tiết của nó vẫn chưa được
hiểu rõ, nhưng sự gia tăng biểu hiện DKK-1 xảy
ra trong nhiều loại ung thư, bao gồm cả đa u tủy,
ung thư tuyến tiền liệt HCC[16,17].
9. Các kháng thể IgG lưu hành
Trong các nghiên cứu gần đây, Wang và cộng sự
đã phát hiện ra rằng các kháng thể IgG trong
huyết thanh chống lại các kháng nguyên peptit
tuyến tính có nguồn gốc từ protein p16, tiểu đơn
vị α của thụ thể interleukin 2 (còn gọi là CD25)
yếu tố phiên forkhead/winghelix P3
(FOXP3) đã bị thay đổi đáng kể trong bệnh nhân
HCC. Do đó, kháng thể IgG lưu hành đối với các
phân tử đích này có thể là giá trị chẩn đoán hoặc
tiên lượng cho các khối u đặc. Mức huyết thanh
của kháng th IgG đối với p16a, CD25a
FOXP3 bệnh nhân HCC cao hơn đáng kể so
với đối tượng chứng[16,17].
10. Methyl hóa DNA/DNA không có tế bào
Quá trình methyl a DNA là một bước đầu tiên
trong quá trình tạo ung thư gan và đã được coi
một dấu hiệu lưu hành tiềm năng để phát hiện
sớm HCC.[13] Cho đến nay, đã dữ liệu hạn
chế ngoài giai đoạn II để hỗ trợ sử dụng lâm sàng
quá trình methyl hóa DNA, mặc một số
bảng methyl hóa khác nhau hiện đang được điều
tra. Một thuật toán được gọi xét nghiệm máu
HCC đa mục tiêu, bao gồm ba dấu hiệu đã
methyl hóa, kết hợp với AFP giới tính, cho
thấy độ nhạy 82% đối với HCC giai đoạn đầu
với độ đặc hiệu là 87% và AUROC là 0,91 trong
một nghiên cứu kiểm soát trường hợp kiểm
chứng giai đoạn II.[13] Mặc những kết quả
ban đầu này đầy hứa hẹn, bảng điểm này vẫn
đang được xác nhận triển vọng lớn hơn khi so
sánh trực tiếp với siêu âm hoặc không
AFP. Một xét nghiệm DNA không tế bào đa
phân tích khác cho HCC cho thấy khả năng phát
hiện ở giai đoạn đầu của 76% trường hợp, với độ
đặc hiệu 91% trong nghiên cứu pha II, bao
gồm 122 người mắc HCC 125 người mắc
bệnh gan mãn tính.[13] Thử nghiệm y đang
được xác nhận thêm trong một nhóm thuần tập
giai đoạn II lớn hơn. Cuối cùng, một số công ty
(ví dụ: GRAIL, Freenome) đang triển khai các
nghiên cứu để kiểm tra tiện ích của các nền tảng
phát hiện đa ung thư, bao gồm cả ung thư gan,
dựa trên DNA không có tế bào.
11. EVS
Một hình thức sinh thiết lỏng khác bao gồm phân
tích các túi ngoại bào (EV), các cấu trúc kèm
theo được bài tiết bởi các tế bào thể được
phát hiện trong huyết tương. Chúng có thể chứa
các tín hiệu sinh hóa khác nhau, bao gồm cả vật
liệu di truyền đã được nghiên cứu như một
dấu ấn sinh học đphát hiện sớm HCC. Để cải
thiện quá trình thanh lọc EV, nhiều nhóm khác
nhau đã phát triển chip phát hiện EV với các xét
nghiệm ái lực miễn dịch để phân lập hiệu quả.
Trong một nghiên cứu, so sánh huyết tương từ
36 người mắc HCC giai đoạn đầu với 26 người
đối chứng bị xơ gan, chip EV có độ nhạy 94,4%
độ đặc hiệu 88,5%.[13] Những nền tảng này
các nền tảng dựa trên EV khác đang được xác
nhận trên quy mô lớn hơn.
12. Thuật toán
Do tính không đồng nhất của HCC, các dấu ấn
sinh học kết hợp bao gồm các yếu tố nguy cơ cụ
thể của bệnh nhân, chẳng hạn như giới tính
tuổi tác, đã được khám phá.
a. Điểm số GALAD
Điểm số GALAD (giới tính, tuổi tác, AFP-L3,
AFP, DCP) bao gồm một bảng các dấu hiệu dựa
trên huyết thanh (AFP, AFP-L3 DCP), kết
hợp với các yếu tố nhân khẩu học (giới nh