Tập bài giảng Luật học so sánh - Trần Vân Long
lượt xem 235
download
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, môn học luật học so sánh ngày càng phát huy vai trò đặc biệt của nó. Hiện nay ở Việt Nam, luật học so sánh đang gây hứng thú rất mạnh cho những người nghiên cứu hay hành nghề luật.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tập bài giảng Luật học so sánh - Trần Vân Long
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LUẬT HỌC SO SÁNH 1. KHÁI NIỆM VỀ LUẬT HỌC SO SÁNH Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, môn học luật học so sánh ngày càng phát huy vai trò đặc biệt của nó. Hiện nay ở Việt Nam, luật học so sánh đang gây hứng thú rất mạnh cho những người nghiên cứu hay hành nghề luật. Vai trò và tầm quan trọng của luật học so sánh được th ể hiện ở việc môn h ọc này được đưa vào giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật mà trước kia nó ch ưa t ừng được quan tâm tới trong quá trình ra đời và phát triển của công tác đào t ạo pháp lý từ khi thống nhất đất nước. Ngày nay hầu hết các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực pháp lý đều chú ý tới phương pháp so sánh pháp luật. Và hầu hết các luật và pháp lệnh đều b ị đòi hỏi tham khảo kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình soạn th ảo và thông qua. Tuy nhiên, sự thống nhất trong nhận thức về một số vấn đề cơ bản c ủa luật so sánh và trong việc giảng dạy luật so sánh vẫn đang còn g ặp nhi ều khó khăn. Cố nhiên, sự phong phú về các quan điểm khoa học có thể là rất c ần thiết, nhưng chúng phải được xây dựng trên một nền tảng nhất định. Về tên gọi môn học, hiện nay có nhiều tên gọi khác nhau nh ư luật so sánh, phương pháp so sánh luật, các hệ thống pháp luật trên thế giới, hay luật đối chiếu… Tuy cách gọi khác nhau nhưng cách hiểu thống nh ất vẫn là: nó không là một ngành luật thực định, chẳng phải luật hình thức hay luật nội dung, cũng không chứa quy phạm điều chỉnh nào. Theo Giáo sư Micheal Bogdan, nhà nghiên cứu hàng đầu về luật học so sánh, trong tác phẩm của mình, đã chỉ rõ nội dung của luật so sánh bao gồm 3 vấn đề: Một là, so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau trên th ế gi ới nh ằm tìm hi ểu các điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Trang 1
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Hai là, từ những tương đồng và khác biệt đã tìm ra, đi đ ến gi ải thích, đánh giá các cách giải quyết khác nhau trong các hệ thống pháp luật khác nhau, phân nhóm các hệ thống pháp luật, tìm ra những cốt lõi, tinh túy của các h ệ th ống pháp luật dị biệt. Ba là, Từ kết quả nghiên cứu của (1) và (2), xử lý các vấn đề phát sinh khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Từ quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm về luật học so sánh như sau: Luật học so sánh là lý luận, hay là môn khoa h ọc trong các ngành khoa h ọc pháp lý. Mục đích của nó là nghiên cứu và so sánh các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau với nhau và với các quy ph ạm c ủa luật quốc tế, làm sáng rõ sự tương đồng và dị biệt, xác đ ịnh khuynh hướng phát triển chung của pháp luật, thực hiện h ội nh ập qu ốc t ế v ề mặt pháp lý. 2. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HỌC SO SÁNH Nói tới luật so sánh, có lẽ chúng ta nên bắt đầu từ một vấn đề lịch s ử khi mà trường phái luật tự nhiên xuất hiện vào khoảng th ế kỷ XVII-XVIII. Ngoài s ự thành công trong việc phân biệt giữa luật tư và luật công, trường phái này còn có một thành công rất đáng kể nữa là thúc đẩy pháp điển hoá. Nhưng không phải ai cũng cho rằng pháp điển hoá là một giá trị. Nó th ường b ị coi là th ủ phạm gây ra sự chia rẽ pháp luật châu Âu có nghĩa là phá v ỡ jus commune. Như thế, trào lưu quốc gia hoá tư tưởng pháp luật đã t ạo ra hoàn c ảnh đ ể lu ật so sánh phát triển vào cuối thế kỷ XIX và trở thành m ột môn khoa h ọc pháp lý quan trọng. Tạm chia ra 2 mốc giai đoạn hình thành và phát triển của luật so sánh như sau: • Giai đoạn trước năm 1869: Luật so sánh vốn không mới mẻ hay hiện đại, mà đã xuất hiện từ trước công nguyên. Lúc đó, các Trang 2 Aristote (384-322BC)
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long nhà nước trên thế giới đã biết nghiên cứu các văn tự Hiến pháp của các nhà nước khác, trên cơ sở đó xây dựng Hiến pháp cho quốc gia mình. Đi ển hình là Aristote (384-322 B.C) đã nghiên cứu 158 bản Hiến pháp của các thành bang Hy Lạp và các dân tộc lạc hậu trong tác phẩm Politique của mình. Từ thế kỷ thứ 1 B.C đến năm 476, Đó là thời kỳ phát triển rực rỡ của La Mã bằng việc bành trướng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh th ổ h ầu nh ư toàn b ộ khu vực Địa Trung Hải. Lần lượt các vùng lãnh thổ như, Hy Lạp (146 B.C), cùng với lãnh thổ Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Palestine và Ai Cập bị sát nhập vào Đế quốc La Mã. Trong thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát tri ển cực thịnh, lãnh thổ rộng lớn, các đô thị của La Mã được xây dựng và để lại cho đến ngày nay, như Londinium, Nguồn gốc cơ bản của luật pháp La Mã có thể chỉ ra luật của 12 chương mục (từ 449 B.C) cho đến nh ững luật l ệ c ủa Hoàng dế Justinian I (khoảng 530). Luật pháp của La Mã như là các luật l ệ c ủa Justinian, bởi vì nó là cơ sở lý luận và thực tiễn trong th ời kỳ Đế chế Byzantine và trong lục địa Tây Âu, và được tiếp tục ở các thời kỳ về sau, cho đến t ận thời kỳ thế kỷ 18 của rất nhiều quốc gia. Và cùng với sự bành trướng lãnh th ổ đó, Luật pháp La Mã chiếm giữ vị trí độc tôn, nền tảng của hệ thống Civil law sau này. Luật học so sánh thời kỳ này có dấu hiệu chững lại, do vị thế độc tôn, pháp luật La Mã chỉ có những biến đổi nhất định cho phù hợp v ới t ừng th ời điểm, từng hoàn cảnh, từng phong tục tập quán ở những nơi mà nó gây ảnh hưởng Đến khi đế chế La Mã chính sức sụp đổ cùng với sự suy tàn c ủa tri ều đ ại Byzantine vào năm 1453, người ta lại chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của Luật Giáo hội. Thời kỳ này luật học so sánh như đ ược làm s ống l ại, và ng ười ta đã có những so sánh giữa luật giáo hội và luật La Mã. Luật học so sánh ngày càng được quan tâm hơn, đặc biệt là vào th ế kỷ XVII và XVIII. Tiêu biểu là 2 học giả Monquas (Hà Lan) và Montesquieu (Pháp) đều tiếp cận các quy định của hệ thống pháp luật nước ngoài hay lu ật l ệ qu ốc t ế, để so sánh và đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc gia. Trang 3
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Ở nước Anh, vào thế kỷ XVII, người ta đã so sánh luật giáo hội với thông luật (common law). Ở nước Pháp, các nhà làm luật lại tiến hành so sánh giữa tập quán pháp với hệ thống dân luật của Đức. Đỉnh cao của Luật học so sánh thời kỳ này chính là tác ph ẩm “Tinh th ần pháp luật” của Montesquieu. Montesquieu bỏ ra gần hai mươi năm nghiên cứu và viết cuốn sách này, bao quát các chủ đề về chính trị, luật, xã hội học, nhân loại học, và cung cấp hơn 3.000 trích dẫn. Bằng phương pháp luật h ọc so sánh hiến pháp và pháp luật tiến bộ của các quốc gia khác nhau, trong luận thuyết chính trị của mình, ông đã bênh vực chủ nghĩa hợp hiến và thuyết tam quyền phân lập, bãi bỏ nô lệ, bảo vệ quyền tự do công dân và nhà nước pháp quyền, và ý tưởng rằng các thể chế luật pháp và chính trị phải phản ảnh đặc tính địa lý và xã hội của từng cộng đồng riêng biệt. Học thuyết nhà nước pháp quyền được thừa nhận rộng rãi và có sức lan tỏa mạnh mẽ về sau.Montesquier • Giai đoạn từ năm 1869 trở về sau: Năm 1869 có 2 sự kiện quan trọng: Sự ra đời của tạp chí chuyên ngành đầu tiên của luật học so sánh, đó là Tạp chí Luật so sánh do Hội nghiên cứu Luật so sánh của Pháp xuất bản; Và đây cũng là năm đầu tiên mà môn h ọc lu ật h ọc so sánh được giảng dạy tại các trường đại học Ngày nay các nhà luật học so sánh đều thừa nhận rằng, Hội Luật So sánh Quốc tế được thành lập 1896 là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước khởi đầu cho việc thừa nhận luật so sánh như một bộ môn khoa h ọc pháp lý đ ộc lập. Các dữ kiện trên minh chứng cho việc xem phương pháp so sánh pháp luật là một đặc trưng nổi trội, đồng thời cũng là một đối tượng quan tr ọng của luật so sánh hay cái gọi là "luật học so sánh". Đến th ế kỷ XX, Lu ật so sánh còn mang mục đích tìm kiếm sự hài hòa và thống nhất. Th ể hiện ở ch ỗ: Trang 4
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Qua nghiên cứu Luật so sánh có thể lý giải, giải tỏa s ự d ị bi ệt giữa các h ệ thống pháp luật, tiến tới một hệ thống pháp luật ưu việt. Ở Việt Nam, Luật so sánh đã có những bước phát tri ển ban đ ầu ở mi ền Nam Việt Nam. Những người đã có công truyền bá Luật so sánh ở nước ta đó là Tiến sỹ Ngô Bá Thành và Luật sư Vũ Văn Mẫu. Ti ến s ỹ Ngô Bá Thành đã có nhiều công trình nghiên cứu về Luật so sánh, đặc biệt là cuốn sách “ Một số ứng dụng của Luật so sánh” xuất bản năm 1965. Trong phần đầu của sách, Tiến sỹ Ngô Bá Thành đã làm rõ một số vấn đề cơ bản của luật so sánh nh ư chức năng của luật so sánh, phương pháp tiếp cận của luật so sánh. Từ sau năm 1986, khi chính sách mở cửa và hội nhập được thực thi, việc nghiên cứu pháp luật của các nước và pháp luật quốc tế nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc mở rộng quan hệ hợp tác qu ốc t ế, đ ặc bi ệt là trong lĩnh vực kinh tế- thương mại, đã thúc đẩy sự phát triển của luật so sánh. 3. KHOA HỌC LUẬT SO SÁNH 3.1. Khái niệm: Để nắm bắt được khoa học luật so sánh, vấn đề có ý nghĩa quy ết đ ịnh là c ần phải làm rõ khái niệm luật học so sánh là gì. Trong khoa học pháp lý, t ừ r ất sớm các nhà nghiên cứu đã làm quen với khái niệm so sánh pháp lu ật, ph ương pháp so sánh pháp luật là một trong nh ững phương pháp quan trọng c ủa s ự nhận thức các hiện tượng pháp luật. Khái niệm luật h ọc so sánh bao g ồm: việc nghiên cứu khối lượng các văn bản quy phạm pháp luật, việc s ử dụng phương pháp so sánh trong quá trình tiến hành so sánh các h ệ th ống pháp lu ật. Đánh giá, sử dụng các phương thức phản ánh và tiếp nh ận các y ếu t ố đó trong hệ thống pháp luật quốc gia hay hệ thống pháp luật quốc gia khác, khuynh hướng, quy luật phát triển chung của pháp luật. Từ những phân tích trên có thể khái quát luật học so sánh là t ổng th ể các tri thức về việc nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài. Trang 5
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Trong quá trình nghiên cứu về luật học so sánh cần phải phân biệt thuật ngữ luật học so sánh trên 3 nghĩa: là một khoa h ọc, là m ột ph ương pháp và là m ột môn học. • Với tư cách là một phương pháp nghiên cứu khoa học, so sánh pháp luật là một trong những phương pháp quan trọng của việc nghiên cứu các hiện tượng pháp lý. Thông qua việc sử dụng phương pháp so sánh pháp luật mà chúng ta có khả năng làm sáng tỏ cái chung nh ất, cái đ ặc thù và cái đơn nhất của các hệ thống pháp luật. • Với tư cách là một ngành khoa học, luật học so sánh là tổng thể nh ững tri thức khoa học về các hệ thống pháp luật hiện hành được thể hi ện trong các công trình ngiên cứu khoa học của các học giả. • Với tư cách là một môn học, luật học so sánh là đối tượng giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật, dưới các mức độ khác nhau, cụ th ể có th ể ở dạng nhập môn luật học so sánh và cũng có thể ở dưới dạng một lĩnh vực cụ thể như luật hành chính so sánh, luật thương mại so sánh, luật hình sự so sánh... Việc luật học so sánh có phải là một ngành khoa học hay không đã gây ra nhiều sự tranh cãi, tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy, ngày nay có nh ững lĩnh vực, có những vấn đề, có những hệ thống pháp luật sẽ không thể được nghiên cứu có kết quả nếu không tiếp cận dưới góc độ so sánh pháp lu ật, ch ẳng h ạn như việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới; việc nghiên cứu những cơ sở xã hội, kinh tế, chính trị và truyền thống của sự ra đời và nội dung của các chế định pháp luật tương ứng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau; việc nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của nước ngoài.... Tất cả điều đó nói lên rằng, luật học so sánh có nh ững đ ặc điểm, dấu hiệu riêng của một môn khoa học, nó có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của riêng mình. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh: Trang 6
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh là nghiên cứu pháp luật nước ngoài, trên cơ sở đối chiếu các hệ thống pháp luật với nhau và với hệ th ống pháp luật quốc gia, cụ thể: • Những vấn đề phương pháp luận của việc so sánh trong pháp luật (lý luận về phương pháp so sánh pháp luật); • Nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới; • So sánh các nguồn pháp luật của các hệ thống pháp luật trên thế giới; • So sánh các chức năng và một số loại nghiên cứu pháp lu ật so sánh khác được định hướng về mặt xã hội học; • Nghiên cứu so sánh pháp luật về mặt lịch sử. Với đối tượng nghiên cứu bao gồm những vấn đề khái quát đã đưa ra ở trên cho thấy luật học so sánh là một khoa học. Khoa học luật so sánh được th ể hiện trên 2 phương diện, cụ thể: Thứ nhất, khoa học luật so sánh gắn liền việc sử dụng phương pháp so sánh trong nghiên cứu các chế định pháp luật và các vấn đề cụ thể của đất nước mà người nghiên cứu thuộc về đất nước đó. Trong trường hợp này, vấn đề pháp luật cụ thể được nghiên cứu trên cơ sở so sánh pháp luật rộng lớn hơn hoặc hẹp hơn. Thông thường việc so sánh này thường được tiến hành ở tầm vỹ mô, trong phạm vi của một lĩnh vực pháp luật cụ thể. Thứ hai, thể hiện với tư cách là việc nghiên cứu mang tính tự trị, đ ộc l ập pháp luật nước ngoài ở mức độ các hệ thống pháp luật nói chung, ở mức độ các ngành pháp luật cụ thể và các chế định pháp luật cơ bản, việc nghiên cứu ở góc độ này cho phép xác định khuynh hướng phát triển của pháp luật. Với đối tượng nghiên cứu rộng, luật học so sánh cung cấp cho người nghiên cứu những kết quả khoa học của riêng nó trên cả hai mặt: nh ận th ức - lý lu ận và ứng dụng - thực tiễn. Nó vừa là việc áp dụng ph ương pháp so sánh v ới t ư cách là phương thức khoa học riêng, đặc thù của việc nghiên cứu, vừa là Trang 7
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long khuynh hướng của các nghiên cứu về pháp luật nói chung. Ở bình diện là khuynh hướng nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh là: 1. Những vấn đề phương pháp luận của nghiên cứu so sánh pháp luật (ở đây lý luận về phương pháp so sánh chiếm vị trí đặc biệt); 2. Việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật cơ bản hiện nay trên th ế giới; 3. Việc khái quát hóa và hệ thống hóa các kết quả của nh ững nghiên cứu so sánh pháp luật cụ thể; 4. Việc soạn thảo các quy tắc phương pháp cụ thể và các quá trình c ủa nghiên cứu so sánh pháp luật; 5. Việc nghiên cứu so sánh pháp luật về mặt lịch sử; 6. Việc nghiên cứu so sánh những vấn đề pháp lý quốc tế hiện nay. 3.3. Phương pháp nghiên cứu của luật học so sánh Trong khoa học luật so sánh, phương pháp so sánh pháp luật là một trong những phương pháp quan trọng nhất. Nhờ vào việc áp dụng phương pháp so sánh pháp luật mà chúng ta có khả năng làm sáng tỏ được cái chung, cái đ ặc thù và cái đơn nhất trong các hệ thống pháp luật hiện nay. Tính chất và các đặc điểm của phương pháp so sánh pháp lu ật đ ược làm sáng tỏ khi vận dụng phương pháp giải thích trên hai phương diện: Thứ nhất, Mối tương quan của nó với các phương pháp khoa học khác. Thứ hai, vị trí và ý nghĩa của nó trong hệ thống các phương pháp riêng c ủa khoa học pháp lý. Như vậy phương pháp so sánh pháp luật không thể tiến hành một cách riêng rẽ mà phải kết hợp với các phương pháp khoa h ọc chung. Tuy nhiên, trong luật học so sánh phương pháp so sánh được phản ánh rõ nét qua s ự bi ểu hi ện cụ thể: 1, xác định một cách rõ ràng xu hướng chung của việc nghiên cứu pháp luật. 2, bảo đảm sự tác động lẫn nhau một cách đúng đ ắn c ủa các ph ương Trang 8
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long pháp khoa học chung và của các phương pháp khoa học riêng trong quá trình ngiên cứu khoa học. 3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luật học so sánh a. So sánh theo thời gian và không gian Pháp luật luôn tồn tại trong một khoảng thời gian và không gian nh ất đ ịnh, không có pháp luật trừu tượng, nó có quá khứ, hiện tại và tương lai. Đối tượng của sự so sánh có thể là hệ thống pháp luật v ới các b ộ ph ận c ấu thành của nó đã tồn tại trong lịch sử (so sánh theo thời gian), có thể so sánh pháp luật của các quốc gia trong cùng một hệ thống pháp luật (so sánh theo không gian). b. So sánh bên trong và so sánh bên ngoài So sánh pháp luật có thể được tiến hành trên các mức độ: • So sánh bên trong: là sự so sánh bên trong một quốc gia (đơn nh ất hoặc liên bang). Sự so sánh này cho phép đưa ra đặc điểm chung c ủa m ột h ệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định. So sánh bên trong có th ể tiến hành ở cả hai phương diện thời gian và không gian. • So sánh bên ngoài: là sự so sánh bao quát nhiều hệ th ống pháp lu ật khác nhau. Sự so sánh này có thể tiến hành ở việc so sánh pháp luật c ủa qu ốc gia mình với pháp luật của các quốc gia khác và có th ể tiến hành ở t ất cả các cấp độ như: hệ thống pháp luật, ngành luật, ch ế định pháp lu ật, quy phạm pháp luật... So sánh bên ngoài cũng có thể được tiến hành giữa hệ thống pháp luật thuộc một vùng địa lý nhất định hoặc ngay c ả hệ thống pháp luật của liên minh và tổ chức quốc tế khác nhau. c. So sánh vi mô và so sánh vĩ mô So sánh vi mô là sự so sánh được tiến hành ở mức độ các quy phạm và các chế định pháp luật. So sánh vĩ mô là sự so sánh được tiến hành ở mức độ các h ệ thống pháp lu ật nói chung. Sự so sánh vĩ mô lớn nhất là sự so sánh ở mức độ th ế gi ới đ ược gọi là sự so sánh tổng hợp và toàn cầu. Tuy vậy, sự so sánh toàn c ầu không Trang 9
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long thể bao quát hết được, mà chỉ thể hiện với tư cách sự so sánh đại di ện. V ề mặt thực tế, không thể so sánh ở góc độ tổng thể, bởi lẽ có gần hai trăm hệ thống pháp luật quốc gia đang tồn tại trên thế giới hiện nay. Để kh ắc ph ục điều này, sự so sánh toàn cầu được tiến hành trên cơ sở so sánh các h ệ th ống cơ bản hiện nay. Sự so sánh này cho phép làm rõ vị trí, mối quan h ệ l ẫn nhau của các hệ thống pháp luật cơ bản hiện nay. Sự so sánh này có th ể đ ược th ực hiện cả ở mức độ các hệ thống pháp luật nói chung, các ngành luật cơ bản, pháp luật vùng. 3.3.2. Những mức độ so sánh khác nhau So sánh quy phạm: đây là mức độ so sánh thấp nhất. Ở mức độ này sự so sánh thường là so sánh các yếu tố kỹ thuật pháp lý, sự trình bày gi ống nhau c ủa các quy phạm được so sánh. Mức độ trung gian: là sự so sánh các chế định pháp luật và các ngành lu ật. Ở mức độ này sự so sánh giản đơn nhất là sự so sánh về mặt th ể ch ế, quy đ ịnh pháp luật. Tuy vậy, việc nghiên cứu các chế định pháp luật vẫn ph ải đ ược b ổ sung bằng việc nghiên cứu các nhân tố xã hội gắn liền với h ệ th ống pháp lu ật nói chung. Không phải mọi sự vật, hiện tượng đếu có thể đem so sánh mà đ ể việc so sánh có kết quả, hai đối tượng so sánh cần có m ột đi ểm chung. Đi ểm chung này là tiêu chí cần có không chỉ trong so sánh pháp lu ật mà trong b ất c ứ loại hình so sánh nào. Đôi khi tính so sánh của một hiện tượng pháp lý rất dễ nhận dạng thông qua ngôn ngữ, tên gọi, hình thức biểu hiện. Đôi khi tính so sánh của các hi ện tượng pháp lý rất khó được phát hiện vì nó không biểu hiện ra bên ngoài mà xét về nội dung quy định của pháp luật. Và cũng có trường h ợp đôi khi hình thức biểu hiện ra bên ngoài là giống nhau nhưng không chắc chắn rằng hiện tượng pháp lý để có tính so sánh. Ví dụ: Khi một vấn đề có tính so sánh thì mới so sánh được. Người ta muốn so sánh lời văn của quy định trong pháp luật Trang 10
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Đức về hôn nhân với quy định dăng kí bất động sản của Th ụy Đi ển. Hai quy định này có thể so sánh cấu trúc của chúng có những điểm chung, cách phân chia đoạn trong luật của Thủy Điển và của Đức. Mặt khác, so sánh chẳng có ý nghĩa gì nếu ta so sánh nội dung của hai quy phạm pháp luật này, bởi vì ch ỉ cần xem qua ta có thể nhận thấy nội dung của chúng là hoàn toàn khác nhau. So sánh các hệ thống pháp luật: đây là mức độ so sánh cao nhất, được tiến hành ở việc so sánh các hệ thống pháp luật ở dạng chỉnh thể của chúng với việc cân nhắc quá trình hình thành và hoạt động của các hệ thống pháp luật đó, các nguyên tắc cơ bản, các nguồn và cơ sở xã hội của chúng. 3.3.3. Sự so sánh quy phạm và so sánh chức năng Các nghiên cứu so sánh pháp luật có thể được tiến hành bằng hai phương thức: phương thức quy phạm và phương thức chức năng. Trong sự so sánh quy phạm pháp luật được khởi đầu là các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật giống nhau. Trong quá trình tiến hành so sánh quy phạm pháp luật cần chú ý là nó có th ể dẫn tới hai kết luận cơ bản sau: thứ nhất, các thuật ngữ pháp lý có sự thống nhất về bên ngoài không phải bao giờ cũng có cùng một nghĩa ở các h ệ th ống pháp luật khác nhau. Thứ hai, cùng các quy phạm, chế định pháp luật như nhau có thể thực hiện những chức năng khác nhau. Có khi pháp lu ật n ước ngoài điều chỉnh các quan hệ xã hội đó ở trong lĩnh vực pháp luật khác hoặc bằng cả những biện pháp không mang tính chất pháp lý. Sự so sánh chức năng: đây là sự so sánh được tiếp cận các v ấn đ ề xã h ội nh ất định và sau đó mới đưa ra những quy phạm hoặc ch ế định pháp luật đ ược sử dụng để giải quyết những vấn đề đó. Trong sự so sánh này vấn đề th ực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật được chú trọng và như vậy việc so sánh ở đây đã đi từ sự kiện xã hội đến sự điều chỉnh pháp luật. Trang 11
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Trong so sánh chức năng các chế định và quy phạm pháp luật được coi là những cái ngang hàng, nếu chúng giải quyết những vấn đề xã hội gi ống nhau, dù rằng ngay cả những khi chúng hoàn toàn trái ngược nhau. Trong so sánh chức năng dưới xu hướng xã hội học cần chú ý tới hai đi ểm hạn chế cơ bản: Thứ nhất, pháp luật có thể bị “mở rộng ra” trong môi trường xã hội rộng lớn, bởi vì trong so sánh chức năng cần cân nhắc vai trò của các y ếu t ố: kinh t ế, xã hội, văn hóa, các hình thức tổ chức chính trị, các cơ cấu dân tộc, các nhân tố địa lý và khí hậu...trong sự phát triển của pháp luật. Thứ hai, Việc áp dụng nó đòi hỏi nhà luật học so sánh phải có khối kiến thức nền tảng rộng lớn trên các lĩnh vực khoa học khác. Điều kiện kinh tế: Một trong những điều kiện ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành, phát triển của các quy phạm pháp luật. Các n ước có h ệ th ống kinh tế khác nhau thì có các quy định khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế nhưng nếu các quốc gia có hệ thống kinh tế giống nhau nhưng trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì hệ thông pháp luật có sự khác biệt. Điều kiện tự nhiên: Ta có thể lấy ví dụ, pháp luật Việt Nam hiện t ại và trước đây có quy định là miễn giảm thuế cho những vùng thiên tai, dịch họa, tức là do tác động của điều kiện tự nhiên. Điều kiện xã hội: Bối cảnh đặc trưng xã hội giống nhau thì hệ thống pháp luật cũng có nét tương đồng. Ví dụ: Hiến pháp 1946 có nh ững nét riêng bi ệt do bối cảnh xã hội lúc đó quyết định. Yếu tố lịch sử: Lịch sử phát triển của đất nước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành của hệ thống pháp luật. Đây là yếu tố quan trọng để quá trình hình thành những nét tương đồng và khác biệt. Ví dụ: pháp luật Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Pháp, biểu th ị mối quan h ệ là Vi ệt Nam đã từng là thuộc địa của Pháp. Trang 12
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Yếu tố địa lý: như đất đai, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên…đều có ảnh hưởng đáng kể đế hệ thống pháp luật nước đó. Ví dụ, Tiêu chuẩn xây dựng công trình kiến trúc ở Nhật Bản là khác so với Việt Nam chúng ta. Do Nh ật Bản là đất nước thường xuyên xảy ra động đất nên các tiêu chuẩn ph ải cao hơn và chặt chẽ hơn. Thời hạn thuê đất canh tác tối đa theo pháp lu ật Đ ảo quốc Fiji tại vùng Nam Thái Bình Dương là 75 năm không ph ải là con số tùy tiện mà là có nguyên nhân từ thực tiễn: 75 năm là số tuổi thọ trung bình của cây dừa (để cho người thuê trồng được hưởng những thành quả) Yếu tố lý trí, ý thức chủ quan của con người : Những quy định xác định con trong giá thú hay con ngoài giá thú trong Luật hôn nhân gia đình ở các n ước là do các nhà làm luật áp đặt ý chí chủ quan của mình. Yếu tố ngẫu nhiên: Sở thích mang tính cá nhân của những con người vĩ đại có quyền lực to lớn trong một quốc gia cũng có thể ảnh h ưởng ít nhi ều t ới h ệ thống pháp luật của quốc gia đó. Người ta nói rằng hoàn cảnh gia đình c ủa Napoleon là nguyên nhân ra đời của một số quy định về gia đình c ủa Pháp khi Bộ luật Dân sự của Pháp được thông qua dưới thời của Napoleon trị vì. Một số đạo luật mang dấu ấn của lạm phát hoặc thông qua vào thời điểm siêu lạm phát, suy thoái, mặc dù người ta có dự định ban hành chúng m ột cách t ạm th ời tình thế như vậy. Yếu tố xét về mặt ý thức hệ: Nếu được xây dựng trên cùng một nền tảng tư tưởng thì hệ thống pháp luật có nhiều nét tương đồng như Hệ thông pháp luật các quốc gia XHCN. Những khác biệt nh ỏ trong h ệ t ư t ưởng cũng có th ể ảnh hưởng tới hệ thống pháp luật. Ví dụ: Hệ thống pháp luật Th ụy Sỹ và Th ụy Điển có nhiều điểm tương đồng nhưng lại không có cùng quan điểm về vấn đề sự cần thiết của công bằng xã hội và trách nhiệm của nhà nước đối với phúc lợi của từng thành viên trong xã hội và đi ều này được th ể hi ện trong chính sách phúc lợi xã hội và các chính sách về thuế. Yếu tố khác cũng ảnh hưởng ít nhiều đến các hệ thống pháp luật nh ư H ệ thống chính trị, tôn giáo, dân số học. Trang 13
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long 4. LUẬT HỌC SO SÁNH VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT N ƯỚC NGOÀI Nguồn thông tin về hệ thống pháp luật nước ngoài: Rõ ràng điều kiện tiên quyết cơ bản để nghiên cứu pháp luật nước ngoài là kh ả năng có được nh ững thông tin chính thức, cập nhật các nguồn thông tin đáng tin cậy. Ngày nay, cùng với sự lan tỏa của internet và các công cụ tìm kiếm, người nghiên cứu không còn vất vả lắm để tìm cách tiếp cận các thông tin pháp luật nước ngoài. Vấn đề quan trọng là, các nguồn thông tin có được kiểm ch ứng hay không? Người nghiên cứu cần phải chắc chắn rằng có được các nguồn thông tin chính thức như các đạo luật, quy định, báo cáo, án lệ … của đất nước có hệ thống pháp luật cần nghiên cứu. Đôi khi việc sử dụng các nguồn thông tin thứ cấp như sách giáo khoa, các sách tham khảo, các bài báo trong các tạp chí… lại có những ưu thế nhất định khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Vì chúng có tính đáng tin cậy và đều đã được cô đọng và phân loại. Giải thích và sử dụng các nguồn luật nước ngoài : Có một thực tế là các luật sư Anh, Mỹ khi nghiên cứu pháp luật châu Âu lục địa, tiếp cận đến các văn bản pháp luật nhưng vẫn hoài nghi nó chưa được khẳng định xử lý bởi các cơ quan Tòa án tối cao, để được coi là có hiệu lực một cách đáng tin c ậy. Ngược lại, đối với các luật sư từ các nước châu âu lục đ ịa khi nghiên c ứu h ệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì chỉ tiếp cận đến các văn b ản pháp lu ật (đ ạo luật) mà không bận tâm đến những án lệ. Ví dụ: Luật sư Anh khi nghiên c ứu luật Thụy Điển có thể có nguy cơ xem nhẹ tầm quan trọng của các dự th ảo luật và luật sư Thụy Điển khi nghiên luật của Anh quốc cũng có nguy c ơ ph ải sai lầm theo hướng ngược lại. Việc quá đề cao đến án lệ hoặc văn b ản pháp luật của các nhà luật học châu âu lục địa hay Anh – Mỹ khi tiếp cận đ ến h ệ thống pháp luật của nhau là sai lầm thường thấy. Vì l ẽ, sự th ật là trong c ả hai hệ thống pháp luật (cilil law hay common law), các lu ật thành văn và các phán quyết của Tòa án đều là các nguồn luật cho dù vị trí của chúng có khác nhau. Trang 14
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Về vấn đề giải thích luật: Các nguồn luật nước ngoài nên được giải thích như chúng được giải thích tại các nước đã sản sinh ra các nguồn luật ấy. N ếu muốn hiểu một cách chính xác ý nghĩa của đạo luật hay phán quyết của Tòa án nước ngoài thì không thể giải thích các đạo luật hoặc phán quy ết đó theo tinh thần của hệ thống pháp luật của nước mình. Đối với h ệ th ống pháp lu ật Anh – Mỹ có xu hướng giải thích các hệ thống pháp lu ật căn c ứ vào tinh th ần của lời văn, còn đối với hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa t ập trung vào tinh thần của các quy định pháp luật. Nghiên cứu luật nước ngoài đặt trong mối quan hệ tổng thể: Chú ý đến cấu trúc hệ thống pháp luật: Có thể cách phân chia h ệ thống c ủa h ệ th ống pháp luật nước ngoài hoàn toàn khác với cách phân chia hệ th ống pháp luật nước của người nghiên cứu. Chẳng hạn, pháp luật của Liên xô và cách đây không lâu, cả pháp luật của Anh trong chừng mực nào đó cũng không có s ự phân chia thành luật công và luật tư. Mặt khác, hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa lại không có cách phân chia mà luật của Anh có, như phân chia thành "luật" và "luật công bình". Một yếu tố khác không nên bỏ qua đó là các nhà làm luật n ước ngoài th ậm chí ở một đất nước có các ngành luật tương tự như đất nước của người nghiên cứu có thể sẽ chọn phương pháp khác để đạt được mục đích tương tự và điều đó có nghĩa là các quy định pháp luật có liên quan s ẽ nằm ở một b ộ ph ận khác trong hệ thống pháp luật. Ví dụ: Nếu luật gia Th ụy Điển quan tâm t ới các quy định của pháp luật về trợ cấp xã hội cho gia đình đông con ở Pháp anh ta không nên tự giới hạn việc nghiên cứu trong các quy định của luật về an sinh xã hội như ở Thụy Điển (trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp nhà…), bởi vì ở Pháp chính phủ sẽ chia sẻ phần lớn sự trợ giúp tài chính với các gia đình đông con không thông qua hình thức trợ cấp xã hội mà thông qua các quy định của luật thuế dưới hình thức giảm một mức thuế đáng kể cho các gia đình nêu trên, trong khi ở Thụy Điển lại không sử dụng biện pháp này. Có thể kh ẳng đ ịnh ta không nên "cắt rời" một chi tiết trong hệ thống pháp luật nước ngoài và ch ỉ Trang 15
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long nghiên cứu chi tiết đó mà không tính đến mối quan hệ của chi tiết đó tới các phần còn lại của hệ thống pháp luật. Bối cảnh xã hội và mục tiêu của các quy định pháp lu ật : Hệ thống pháp luật là hiện tượng xã hội và chỉ thể hiện bình diện nhất định của xã h ội. Vì vậy, không thể tách rời hệ thống pháp luật và các hệ thống xã h ội khác mà cần phải có sự quan tâm đến mục tiêu của các quy đ ịnh trong bối c ảnh xã h ội đó. Ví dụ: Giả sử nhà nước ban hành đạo luật yêu cầu các cơ quan thuê m ướn nhân công phải có nghĩa vụ chi trả học phí h ọc ngôn ng ữ cho công nhân n ước ngoài mới được tuyển dụng. Xét trên bề mặt, dường như đạo luật này có l ợi cho dân nhập cư nhưng thực ra ý đinh và tác dụng của nó l ại h ạn ch ế nh ập cư bằng cách không khuyến khích các cơ quan sử dụng lao động thuê mướn người nhập cư, và bằng cách đó giảm tỉ lệ thất nghiệp của người lao động trong nước. Như vậy, những luật gia nước ngoài thiếu hiểu biết v ề b ối c ảnh của nước này (hiện trạng nền kinh tế, mức độ thất nghiệp, chính sánh nhập cư) dễ có cái nhìn sai lầm về mục đích thực sự của quy định pháp luật nêu trên cũng như tác động thực tế của nó. Không phải hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở giống nhau thì thường tương tự nhau. Các quy định và thiết chế pháp luật giống nhau hoặc t ương đồng có th ể có những vai trò khác nhau trong các xã hội khác nhau. Ví dụ: Các nước XHCN trước đây ở Đông âu có đạo luật về bảo vệ nhãn mác thương m ại rất phát triển, rất chi tiết cho dù nó không có mục đích thực ti ễn vì ở các n ước khi đó không có thị trường cạnh tranh. Tuy vậy, các nước XHCN này do phải tuân thủ các công ước quốc tế mà họ tham gia nhằm bảo vệ nhãn mác th ương m ại của chính mình trên thị trường thế giới thì đã ban hành pháp lu ật v ề nhãn mác thương mại. Khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài thì chúng ta ph ải nghiên c ứu các hi ện tượng văn hóa, lịch sử, đạo đức… Vì tri thức về các lĩnh vực khác nhau của xã hội có hệ thống pháp luật cần nghiên cứu có giá trị không ch ỉ khi chúng ta muốn xem xét chức năng của một số quy phạm pháp luật mà ngay cả khi ta muốn tìm hiểu cách thức xã hội đó giải quyết những v ấn đ ề ch ưa đ ược pháp Trang 16
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long luật điều chỉnh. Ví dụ: Tới ngày 1/1/1993, ở Thụy Điển, quan hệ pháp lu ật giữa những người tổ chức du lịch và khách hàng không có quy định pháp luật nào điều chỉnh nhưng trên thực tế các tờ quảng cáo hoặc trong các băn bản hợp đồng thì các tổ chức đều viện dẫn đến "các quy định chung về du lịch" do tổ chức thương mại của các nhà tổ chức du lịch phối hợp với tổ chức thanh tra khách hàng ban hành. Vấn đề dịch thuật ngữ: Khi dịch thuật ngữ thì phải dựa trên quan điểm pháp luật của nước sở tại. Đôi khi sẽ cảm thấy khó khăn khi t ừ ng ữ thì gi ống nhau nhưng cách hiểu thì khác nhau và đôi khi từ ngữ sử dụng trong nhi ều h ệ th ống pháp luật là khác nhau nhưng cách hiểu là giống nhau. Ví dụ: “h ội th ẩm nhân dân” và “bồi thẩm đoàn” hay “tổng công ty” và “Tập đoàn công ty. Xác định phạm vi pháp luật hiện hành: Đối với một số hệ thống pháp luật thế giới thì pháp luật không dừng lại văn bản mà còn th ể hiện ở phong tục, tập quán, tôn giáo… Một hiện tượng thường xảy ra đối với hầu h ết các hệ thống pháp luật là một số quy định pháp luật sẽ trở thành lỗi th ời, nghĩa là cho dù các quy định ấy có thể về mặt chính thức vẫn còn hiệu lực nhưng trên thực tế người ta đã không còn áp dụng chúng nữa. Một s ố quy định ở các h ệ th ống pháp luật dù có ý nghĩa trên giấy tờ còn khả năng thi hành của nó thì không có. Hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới luôn luôn có đi ểm t ương đ ồng Điều đó nói lên rằng trong lòng xã hội sự khác biệt của pháp lu ật không ph ải cách xa nhau mà có nhiều điểm tương đồng, tương tự nhau. 5. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬT HỌC SO SÁNH Từ rất sớm trong khoa học pháp lý đã sử dụng luật h ọc so sánh v ới t ư cách là một trong những công cụ, phương tiện để đạt được các mục đích của mình. Thông qua luật học so sánh các quá trình các hiện tượng pháp lu ật đã đ ược nhận thức một cách sâu sắc hơn. Với ý nghiã đó có th ể khái quát các mục đích của luật học so sánh bao gồm: 5.1. Mục đích nhận thức: Trang 17
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Trong nghiên cứu luật học so sánh bao giờ cũng hướng đến việc nghiên cứu một cách sâu sắc và có quy mô các hiện tượng pháp luật. Vi ệc nghiên c ứu, đánh giá các hiện tượng pháp luật bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ với sự bên trong của quốc gia. Điều này sẽ các đầy đủ hơn, chính xác hơn nếu các nguyên nhân chung và đặc thù của các hiện tượng pháp luật, các tình huống pháp luật nhất thời và ổn định ở các quốc gia khác và s ự ảnh h ưởng của chúng cũng được xem xét; các nhân tố dẫn đến s ự thay đổi c ủa pháp lu ật nước ngoài, làm cơ sở cho việc soạn thảo những văn bản quy ph ạm pháp lu ật mới và thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành; các điều kiện thúc đẩy, kìm hãm hoặc cản trở việc thực hiện pháp luật đ ược nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống. Việc so sánh nghiên cứu trình độ ý thức pháp luật giữa các quốc gia giúp cho người nghiên cứu nhận thức một cách sâu sắc hơn về cơ chế của hành vi pháp luật của công dân trong giai đoạn nghiên cứu và trong tương lai khi các văn bản quy phạm pháp luật mới, đặc biệt là các luật được ban hành và có hi ệu lực. Tương tự như vậy, việc so sánh các cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật, bao gồm thẩm quyền xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định như thế nào trong h ệ thống pháp lu ật hiện hành; trên thực tế các cơ quan này thực hiện thẩm quy ền c ủa mình ở mức độ nào; hoạt động của các cơ quan tư pháp, của các cơ quan tr ợ giúp pháp lý, hỗ trợ tư pháp. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu thi ếu c ơ ch ế b ảo đảm cho việc thực hiện pháp luật thì pháp lu ật s ẽ khó đi vào đ ời s ống. Chính vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm pháp lý của các nước sẽ góp ph ần hình thành những cơ chế bảo đảm pháp luật thích hợp cho nước mình, tránh đ ược nh ững hạn chế mà các nước đi trước đã gặp phải. Để đạt được mục đích nhận thức, luật học so sánh phải khắc phục các mâu thuẫn, các khó khăn, sai lầm. Ở đây điều này bao gồm cả tính phức tạp, tính năng động của “vật chất pháp luật” được nghiên cứu, so sánh, sự không đầy Trang 18
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long đủ, tính trung thực của thông tin... Đặc biệt, cần phải tránh những thiên kiến chủ quan từ phía người so sánh. 5.2. Mục đích thông tin: Mục đích thông tin là mục đích phái sinh từ mục đích nh ận th ức, mục đích này làm phương tiện cho việc thực hiện mục đích nhận thức. Để đạt được mục đích thông tin, luật học so sánh cần áp dụng một loạt các phương tiện: Soạn thảo các tài liệu tra cứu về s ự phát tri ển c ủa pháp lu ật nước ngoài, các thông tin tổng quan về pháp luật nước ngoài... các tài liệu này cần được chuẩn bị theo các dấu hiệu đất nước học, theo các lĩnh v ực pháp luật cụ thể làm dễ dàng cho sự so sánh để tiếp nh ận các giá tr ị c ủa pháp lu ật mà người nghiên cứu hướng tới. 5.3. Mục đích phân tích: Trong các mục đích của luật so sánh, đây được coi là mục đích trọng tâm. Luật học so sánh với mong muốn phát hiện, làm rõ các căn nguyên, nguồn gốc các hiện tượng pháp luật trong các hệ thống pháp luật nước ngoài và các xu hướng phát triển của pháp luật nước ngoài, để đạt được mục tiêu này các hiện tượng pháp luật cần phải được nhận thức thấu đáo trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Việc thực hiện mục đích phân tích gắn liền với quá trình th ực hiện m ục đích nhận thức và mục đích thông tin, bởi trên thực tế chỉ có th ể phân tích khi có đầy đủ thông tin cần thiết và nhận thức chính xác, khách quan, đ ầy đ ủ v ề những thông tin đó. Việc thực hiện mục đích phân tích dường như nằm trong quá tình đạt được mục đích nhận thức với việc sử dụng các kết qu ả c ủa vi ệc thực hiện mục đích thông tin. 5.4. Mục đích liên kết: Mục đích này được xác định bởi chủ trương của quốc gia hoặc của các quốc gia, của các tổ chức liên quốc gia hướng đến việc làm hài hòa và xích l ại g ần nhau hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia. Trang 19
- Tập bài giảng: Luật học so sánh ThS. Trần Vân Long Trong trường hợp này, việc thừa nhận các lợi ích chung của các quốc gia trong sự điều chỉnh phối hợp, việc tìm kiếm và xác định các khách thể của sự đi ều chỉnh đó, việc làm rõ những khác biệt trong các văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia và các phương tiện có th ể để kh ắc phục nh ững khác bi ệt đó trở thành tiêu chuẩn của sự so sánh và đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia. Muốn vậy, cần phải đảm bảo môi trường, bầu không khí chính trị và tâm lý - xã hội thuận lợi cho các cuộc đàm phán, thảo luận, cho sự đạt được các thỏa thuận. 5.5. Mục đích phê phán: Mục đích phê phán của luật học so sánh là mục đích đối l ập đ ược quy ết đ ịnh bởi các nhân tố chủ quan và khách quan. Ví dụ từ những năm 20 cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, trong luật học so sánh c ủa các n ước xã h ội ch ủ nghĩa, mục đích so sánh phê phán được đặt lên hàng đ ầu khi nghiên c ứu so sánh hệ thống pháp luật tư bản chủ nghĩa. 5.6. Mục đích tuyên truyền: Có thể nói mục đích tuyên truyền là mục đích “phúc đáp” của các mục đích trên. Trong thực tiễn, từng quốc gia đều quan tâm đến việc bảo vệ h ệ thống pháp luật của mình và tuyên truyền các giá trị, thành tựu của h ệ th ống pháp luật quốc gia ra bên ngoài. Để đạt được mục đích này, các c ơ quan nhà n ước, tổ chức khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền bao giờ cũng đề cao nhiều hơn về ý nghĩa của các mặt c ụ th ể trong h ệ thống pháp luật của quốc gia mình. Việc sử dụng các kết quả quá trình liên kết trong các lĩnh vực của đ ời s ống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đang trở thành xu th ế chung và càng ngày càng trở nên chiếm ưu thế. Trong điều kiện như vậy, luật học so sánh càng khẳng định vị trí của mình, đồng thời phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Ứng dụng của khoa học luật so sánh trong khoa học pháp lý là rất lớn, bao trùm các lĩnh vực sau: - Sử dụng kết quả nghiên cứu vào quá trình xây dựng pháp luật; Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tập bài giảng Khoa học quản lý đại cương
192 p | 1211 | 211
-
Giáo trình - Luật đầu tư và xây dựng part 1
21 p | 430 | 151
-
Bài giảng Khoa học Quản lý đại cương - ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐH Quốc gia Hà Nội
187 p | 677 | 151
-
Bài giảng Pháp luật đại cương - Bài 3: Luật dân sự
15 p | 1131 | 142
-
Bài giảng Luật Hình sự Việt Nam: Chương 20 - ThS. Trần Đức Thìn
49 p | 168 | 38
-
Bài giảng Luật hình sự: Bài 4 - Nguyễn Đình Sơn
26 p | 183 | 33
-
Tập bài giảng Kỹ năng tranh tụng trong vụ án hành chính
172 p | 62 | 32
-
Bài giảng Luật Hình sự: Bài 5 - ThS. Vũ Thị Thúy
14 p | 160 | 28
-
Bài giảng Luật học đại cương: Chương 2 - ThS. Trần Vân Long
40 p | 109 | 14
-
Bài giảng Luật kinh doanh: Bài 9 - ThS. Nguyễn Quốc Sỹ
8 p | 118 | 10
-
Bài giảng Một số vấn đề pháp luật
5 p | 97 | 9
-
Bài giảng Luật tố tụng Hình sự 1: Bài 5 - ThS. Trần Thị Liên
25 p | 52 | 8
-
Tập bài giảng Nghiệp vụ lý lịch Tư pháp: Phần 1
186 p | 61 | 7
-
Bài giảng Pháp luật đại cương: Bài 0 - ThS. Ngô Minh Tín
11 p | 63 | 6
-
Bài giảng Luật thương mại quốc tế: Chương 3 - Nguyễn Minh Nhật
34 p | 32 | 6
-
Bài giảng Chương II: Luật quản lý thuế (24tr)
24 p | 92 | 5
-
Bài giảng Luật tố tụng Hình sự: Bài 5 - ThS. Trần Thị Liên
25 p | 42 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn