intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư

Chia sẻ: Nguyen Triu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:37

281
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư nhằm mục đích là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Tài chính tiền tệ: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG =========000========= TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư Giáo viên hướng dẫn: Ph.D Nguyễn Thị Lan Sinh viên thực hiện – Mã SV - STT : + Đặng Thị Tình – 1211510067 - 121 (40%) + Lê Thị Ngọc Linh – 1211510036 - 75(30%) + Đỗ Thị Mĩ Hạnh – 1211510020 - (30%) Lớp: Anh 2 - Kinh doanh quốc tế, K51 Hà Nội – 30.9.2013
  2. LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, hoạt động của các công ty đa quốc gia ( MNCs - Multinational Corporations hoặc MNEs – Multinational Enterprises) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện đại. Vì vậy, MNCs đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chuyển với chiến lược hết sức phong phú và nhạy bén. Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ thể kinh doanh, thì việc xác định lợi lợi ích ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một l ời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng. Trong xu thế mở rộng cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ - anh - chị - em.., thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng những hấp dẫn về lợi ích kinh tế c ủa chuy ển giá là điều được các nhà quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch đ ịnh chiến lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động cho mình. Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình
  3. trạng cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra chuyển giá còn tạo tiền đề cho các doanh nghiệp nước ngoài từng bước thôn tính các doanh nghiệp trong nước trong liên doanh, liên kết, tăng nhập siêu và tiềm ẩn nhiều bất ổn xã hội. Nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề, chúng em đã lựa chọn và quyết định tìm hiểu, phân tích đề tài “Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia”. Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới
  4. I, Sơ lược về các công ty đa quốc gia: 1, Nguồn gốc ra đời và khái niệm: + Nguồn gốc: Trong quá trình phát triển của lịch sử sự ra đời của các TNC trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa .Đó là sự phát triển cao của chế độ tư bản chủ nghĩa là sự vận động sâu sắc của các quan hệ sản xuất tbcn.Khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng được phát triển.hai nhà nghiên cứu mác và ăngghen khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã dự đoán tích tụ và tập trung cơ bản thông qua hiệp tác giản đơn và công trường thủ công cùng với sự phân công lao động ngày càng hoàn thiện tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớnvà sự cạnh tranh của những xí nghiệp này càng tr ở nên gay gắt .Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ đưa đến kết quả là các xí nghi ệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc bị sát nhập với nhau để trở thành những xí nghiệp lớn hơn .Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.Khởi đầu xí nghiệp ra đời bằng con đương công trường thủ công nhờ s ự kết hợp lao động một khi lao động đã liên kết theo một hình thức nào đó sẽ tạo điều kiện cho việc sáng tạo ra máy mócvà hợp thành hệ thống sản xuất bằng máy móc chế độ xí nghiệp đã có được cơ sở vững chắc về kỹ thuật.Với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội xí nghiệp và nhà máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ chức sự phân công lao động xã hội .nhờ sự phát triểnmạnh mẽ của lực lượng sản xuất chế độ xí nghiệp nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế.Và do vậy phân công lao động và trao đổi quốc tế về nguyên vật liệu bán thành phẩm và sản xuất giữa các nước ngày c14 ng phát triển. + Khái niệm: Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia; có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ
  5. quốc tế khi chúng có những tác động kinh tế lớn đến một vài khu vực cùng với những nguồn lực tài chính dồi dào, phục vụ cho quan hệ công chúng và vận động hành lang chính trị. Công ty đa quốc gia hoạt động và có trụ sở ở nhiều nước khác nhau. (khác với Công ty quốc tế, chỉ là tên gọi chung với những công ty nước ngoài tại 1 quốc gia nào đó). Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa; một dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với quá trình toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu. 2, Quá trình phát triển và bản chất: Tự do cạnh tranh không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy móc và theo đó chế độ xí nghiệp tbcn xuất hiện và ngày càng hoàn thiện.Chế độ xí nghiệp ra đời thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế đã làm cho tích tụ và tập trung tư bản sản xuất tăng lên cao và theo đó các tổ chức đ ộc quy ền b ắt đ ầu xuất hiện.C.MÁC và PH.ĂNGGHEN cũng đã khẳng định rằng độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó.Một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tập trung tư bản đó là tín dụng .C.MÁC đã nói:là cơ sở chủ yếu của việc chuy ển hoá dần dần những xí nghiệp tư nhân tbcn thành những công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa chế độ tín dụng đồng thời cũng là một phương tiện để mở rộng dần các xí nghiệp h ợp tác tới một phạm vi toàn quốc ít nhiều rộng lớn.Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan xen nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế.Cùng với sự phát triển quan hệ quốc tế làm cho các công ty tư bản liên minh với nhau sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị trường thế giới đã hình thành nên các công ty đ ộc quy ền quốc tế .Khi nghiên cứu sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc quyền quốc tế xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụvà tập trung sản xuất.Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng
  6. của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia.Một đi ểm đáng chú ý trong tiến trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia là s ự phát tri ển mạnh mẽ của nền kinh tế mỹ từ nửa sau của thế kỷ XIX và càng ngày càng trở thành một trung tâm sức mạnh kinh tế của thế giới.Cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công thương hiện đại chế độ xí nghiệp của mỹ cũng đã được mở rộng sang tây âu và nhật bản.Khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đ ại vượt quá biên giới quốc gia thì tnc hình thành.TNC là một cơ cấu kinh doanh quốc t ế dựa trên sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong một cơ cấu công ty đ ơn nhất nhằm chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối ưu để thu lợi nhuận độ quyền cao.TNC được hình thành trực tiếp trên cơ sở xí nghiệp công thương hiện đại,khi các xí nghiệp công thương hiện đại hưng thịnh chúng đã bắt đầu ngay vào việc đầu tư ra nước ngoài để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất và tìm mua nguyên liệu.Từ thập kỷ 60 lại đây dưới tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ tnc đã phát triển nhanh chóng.TNC đã điều chỉnh các hoạt động kinh doanh xây dựng hệ thống phân công quốc tế kết hợp liên kết theo chiều ngang và dọc trong nội bộ công tycơ cấu tổ chức toàn cầu của tnc tương ứng ra đời .Từ những điều nêu trên ta có 3 giai đoạn quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các công ty công ty cổ ph ần các công ty kinh doanh trong ngành công thương ...Một là quá trình tích tụ và tập trung s ản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều công ty và người ta cũng gọi đó là những tập đoàn với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con.Chúng còn đ ược gọi là các công ty nhỏ và vừa chúng phụ thuộc về tài chính kỹ thuật vào công ty mẹ.Ở một số nước tư bản chủ nghĩa số xí nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến70_80% tổng số các xí nghiệp.sự thâu tóm các xí nghiệp nhỏ và vừa thực hiện kiểm soát tài chính kỹ thuật đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi.Nhưng về mặt tổ chức sản xuất hình thức này tỏ tính hiệu quả cao giảm được chi phí sản xuất tận dụng được mọi khả năng nguyên liệu phát huy tính năng động sáng tạo do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.Hai là quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
  7. quyền .Độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.Hoạt động R&D cũng như chuyển giao công nghệ là thế mạnh của công ty xuyên quốc gia cùng với mạng lưới thị trường rộng khắp thế giới.ba là quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh đưa đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông công nghiệp nông thương nghiệp.quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệpcùng với sự tác động cảu cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đưa đến hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng lên và giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công nông nghiệp đẩy mạng xu hướng giảm tỷ tr ọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân.điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã có tác động trở l ại thúc đ ẩy nông nghiệp phát triển.và để toàn bộ nền kinh tế có thể phát triển mạnh trong cạnh tranh nền nông nghiệp cũng phải có khả năng cạnh tranh cao.qua những nhận xét trên cho thấy rằng quá trình tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến sự hình thành các công ty xuyên quốc gia + Bản chất: Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản đã dẫn đến sự biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là các quan hệ sở hữu.khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới cần phải đi từ những vấn đề này.Vì đấy là bản chất đặc trưng của công ty xuyên quốc gia Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phát triển có thể quan sát thấy nền sản xuất tbcn có sự phát triển. 3, Đặc điểm hoạt động: Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới đ ều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau. Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy các công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.
  8. 4, Mục đích phát triển: +Thứ nhất, đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tìêm năng tại chỗ. +Thứ hai, đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao. +Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất. Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất. Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích của MNC. Hoạt động của các MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những vấn đề như thị trường đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh toán… có những rủi ro nhất định. Rủi ro thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm sau: - Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác… - Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế ,khủng hoảng nợ… II, Chiến lược thâm nhập của các công ti ĐQG vào các nước đang phát triển: 1, Chiến lược quốc tế ( The international Strategy): Sản phẩm được sản xuất tại thị trường nội địa và bán ra thị trường các quốc gia khác với sự điều chỉnh tối thiểu theo yêu cầu của địa phương. Từng SBU có quyền chủ động áp dụng chiến lược này. Chiến lược này ít chịu sức ép giảm chi phí và sức ép của yêu cầu đ ịa ph ương (vì hoạt động sản xuất chủ yếu diễn ra trong nước). Nhưng nó nhạy cảm cao đối với các
  9. rủi ro về tỷ giá và rủi ro về chính trị Đặc trưng: - Khai thác lợi thế so sánh, vị trí trong nước để biến thành lợi thế cạnh tranh - Đi vào những thị trường thiếu kĩ năng của MNC. Giá trị được tạo ra bằng sự chuyển đưa những cốt lõi cạnh tranh từ chính quốc ra nước ngoài – nơi mà đ ối thủ cạnh tranh không có khả năng phát triển, đáp ứng, duy trì - Thường theo một kiểu mẫu giống nhau khi mở rộng thị trường nước ngoài - Tập trung hóa những chức năng phát triển sản phẩm như R&D tại chính quốc, sản xuất sản phẩm theo chuwnr mực nhu cầu thị trường nội địa. - Thiết lập các bộ phận sản xuất, marketing tại những khu vực, quốc gia trọng yếu, nơi họ kinh doanh quốc tế - Trụ sở chính kiểm soát chặt chẽ những chiến lược mark và sản phẩm, sự thích ứng địa phương thực hiện giới hạn. - Hoạt động quốc tế xếp thứ 2 sau thị trường tại chính quốc Hạn chế: có thể bỏ sót cơ hội tại thị trường địa phương 2, Chiến lược xuyên quốc gia ( The Transnational Strategy ) Là chiến lược mà MNC tìm cách đạt hiệu quả toàn cầu và đáp ứng đ ịa phương, có chia sẻ sứ mệnh chung của MNC nhưng có những hoạt động thay đổi theo yêu cầu của địa phương ( chuẩn hóa nơi có thể , thích ứng nơi bắt buộc ) Chọn được một địa điểm tối ưu không thể đảm bảo chắc rằng chất lượng và chi phí cho các yếu tố đầu vào ở đó cũng sẽ tối ưu. Chuyển giao kinh nghiệm có thể là một nguồn lực cốt lõi của lợi thế cạnh tranh, nhưng kinh nghiệm không thể tự đ ộng đ ược chuyển giao. Đặc trưng: - Lợi thế cạnh tranh có thể phát triển ở bất kì đơn vị hoạt động nào của MNC - Cố gắng đạt chi phí thấp dựa trên kinh tế vùng ,tính kinh tế của quy mô, học tập
  10. hiệu quả cũng như tạo sản phẩm khác biệt cho khách hang ở những khu vực khác nhau, khuyến khích mở cửa ở những nơi phát triển kĩ năng hoạt động trong hoạt động toàn cầu - Dòng sản phẩm và kĩ năng có thể chuyển đưa giữa các đơn vị trong MNC, tập trung thúc đẩy phát triển các kĩ năng tại các cơ sở học tập toàn cầu - Giá trị tạo ra bằng sự đổi mới củng cố và trao đổi ý tưởng ,sản phẩm và quy trình Hạn chế : - Thực hiện chiến lược này có nhiều khó khăn vì đáp ứng địa phương làm tăng chi phí. - Cần tránh 2 khuynh hướng: tập trung hoạt động của công ty quá lớn vào một vị trí trung tâm, hoặc vì muốn tăng mức độ thích nghi theo địa phương mà phân tán hoạt động của công ty trên quá nhiều địa điểm khác nhau. 3, Chiến lược toàn cầu ( The Global Strategy): MNC mở rộng thị trường nước ngoài dựa trên sự chuẩn hóa và chi phí có tính c ạnh tranh; giá trị được tạo ra dựa trên việc thiết kế sản phẩm cho thị trường toàn c ầu và sản xuất, marketing hiệu quả nhất. Quy mô sản xuất, phân phối sản phẩm được nâng cao, thuận l ợi cho vi ệc đ ầu t ư phát triển và giảm chi phí rất tích cực; nhưng khó đáp ứng nhu cầu địa phương. Đặc trưng: - Liên kết SBU ở nhiều nước để chia sẻ nguồn tài nguyên giá rẻ, nhấn mạnh đến vấn đề đảm bảo qui mô lợi suất kinh tế. - Chuẩn hóa sản phẩm toàn cầu để tối đa lợi nhuận vì khai thác tính quy mô, h ọc tập kinh tế vùng (vị trí chiến lược). - Không cố gắng đáp ứng địa phương. - Thích hợp cho sản phẩm công nghiệp.
  11. - Mục tiêu chiến lược là theo đuổi chiến lược chi phí thấp trên phạm vi toàn c ầu để hỗ trợ “ chiến lược giá công kích ” (aggressive pricing) trên thế giới. - Phân tán vài hoạt động chủ yếu và hỗ trợ như sản xuất ,marketing ,R&D ở vài vị trí thuận lợi nhất trên phạm vi toàn cầu (outsource). - Quyết định tập trung hóa tại trụ sở chính. Hạn chế: Không phù hợp tại những thị trường cần sự thích ứng cao. 4, Chiến lược đa nội địa (The multi-domestic Strategy): Những quyết định chiến lược và hoạt động phân chia theo đơn vị kinh doanh từng quốc gia. Chiến lược này có cơ hội khách hàng hóa cao nhưng hạn chế khai thác quy mô kinh tế, học tập và phối hợp thông tin Đặc trưng: - Tập trung sự cạnh tranh tại từng thị trường - Thu lợi bằng việc khách hàng hóa sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị hiếu của những thị trường quốc gia khác nhau, dẫn đến gia tăng giá trị sản phẩm tại thi trường quốc gia địa phương và đẩy giá sản phẩm lên cao - Mức độ phân quyền cho địa phương cao (gần gũi về vị trí và văn hóa ) - Giá trị được tạo ra bằng việc giao quyền cho nhà QT địa phương để thích ứng với môi trường kinh tế luật pháp văn hóa địa phương - Thích hợp khi có nhiều chi nhánh tại các quốc gia và áp lực giảm chi phí không lớn - Thích hợp cho sản phẩm tiêu dùng Hạn chế: chi phí cao 5, Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia tại Việt Nam: - Hình thức liên doanh chiếm ưu thế lớn trong những năm đầu: Ở Việt Nam, những năm đầu mở cửa và hợp tác với nước ngoài (tính từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 12/1987), việc thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình th ức
  12. liên doanh có nhiều nổi trội so với hình thức đầu tư khác. Phía Việt Nam có thể góp vốn bằng quyền sử ụng đất; hoạt động theo nguyên tắc nhất trí H ội đồng quản trị , nên các thành viên phía Việt Nam và đối tác có quyền ngang nhau. Qua đó, nhà kinh doanh Việt Nam có cơ h ội để học hỏi trực tiế p các nhà đầu tư nước ngoài; được tham gia vào hoạch định chính sách, tổ ch ức, ki ểm soát hoạ t đ ộng kinh doanh, rủi ro đ ược phân chia về hai bên…nên hình thức này trở thành hình th ức thu hút các công ty ĐQG ch ủ y ếu. - Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến, thay cho hình thức liên doanh Xu hướng này là các chi nhánh TNCs khi đầu tư vào Vi ệ t Nam mu ốn tự quản lý, quyết định chiến lược kinh doanh, chủ động hơn trong việc lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, trong việc tổ chức kinh doanh và tiếp cận thị trường. Hơn nữa, khi Vi ệ t Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài s ửa đ ổi (năm 1996), chính sách đối x ử bình đẳng gi ữa doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã khiến cho các doanh nghiệp nước ngoài không còn cố bám vào các doanh nghi ệp trong nước để tìm kiếm các chính sách ưu đãi. III, Tổng quan về chuyển giá: 1, Khái niệm: Có quan điểm cho rằng, chuyển giá chỉ là hành vi liên quan đến các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Theo đó, chuyển giá được hiểu là “việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu”. Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI), mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau. Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tài sản trong quan hệ giữa các bên
  13. liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các bên. Các bên liên kết ở đây có thể là các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia, các công ty hoặc đ ơn v ị thành viên trong một tổng công ty hoặc các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt thân nhân với nhau. Hành vi đó có đối tượng tác động là giá cả và được thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế về mua bán hàng hoá, tài sản, cung cấp dịch vụ. Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao. 2, Động cơ thực hiện chuyển giá: Động cơ của hành vi chuyển giá chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xét trên phương diện tổng thể. Việc xác định giá giao dịch giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Đầu tiên phải kể đến sự khác biệt về thuế suất doanh nghiệp. Khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc gia có sự khác biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các công ty đa quốc gia (MNC) sẽ tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa khoản thuế mà MNC này phải nộp cũng như là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của MNC. Khi có chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các MNC thường sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa và định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao. Chẳng hạn như, công ty B và C đều là công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp hơn giá thị tr ường giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của C tăng lên t ương ứng.
  14. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B và phải chịu thuế suất 25%. Do đó, nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C được lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã giảm đi. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và như vậy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công. Động cơ tiếp theo chính là kỳ vọng về sự biến đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với mục đích là bảo toàn và phát triển nguồn vốn đầu tư ban đ ầu, các MNC sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa là số vốn đầu tư ban đ ầu của họ đ ược bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra khỏi một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ bị yếu đi nghĩa là vốn đầu tư ban đầu của họ bị giảm đi. Chẳng hạn một MNC đang định đầu từ vào sản xuất tại Việt Nam với số vốn ban đầu bỏ ra là 100 triệu USD với tỷ giá USD/VND là 20.000 tại thời điểm đầu tư, như vậy tổng vốn đầu tư tương đương là 2.000 tỷ đồng. Thời hạn đầu tư của dự án là 10 năm và giả sử cuối thời hạn đầu tư, MNC rút vốn đầu tư trong t ình trạng là hòa vốn kinh doanh. Xảy ra 3 trường hợp đối với lợi nhuận mà MNC thu được từ Việt Nam do chênh lệch tỷ giá: • Tỷ giá của USD/VND vẫn giữ nguyên là 20.000: như vậy với tình trạng hòa vốn thì vốn vẫn bảo tồn là 2.000 tỷ đồng, MNC rút vốn ra khỏi Việt Nam là 100 triệu USD. Do đó lợi nhuận mang lại do chênh lệch tỷ giá là 0%. • Việt Nam Đồng tăng giá 10% so với USD, tức lú c này tỷ giá USD/VND giảm và 2.000 tỷ VND quy đổi thành 110 triệu USD. Như vậy lúc này MNC thu được do chênh lệch tỷ giá bằng đúng 10% do Đồng Việt Nam tăng giá. • Trường hợp ngược lại là Đồng Việt Nam giảm giá 10% tức l à tỷ giá USD/VND tăng lên làm cho 2.000 tỷ VND lúc này chỉ đổi được 91 triệu USD. Như vậy vốn đầu tư của MNC rút ra khỏi Việt Nam bị giảm xuống. Lúc n ày lỗ do chênh lệch tỷ giá cùng bằng đúng tỷ lệ giảm giá của Đồng Việt Nam là 10%. Dựa trên các dự báo về tình hình tỷ giá mà các MNC có thể thực hiện các khoản
  15. thanh toán nội bộ sớm hơn hay muộn hơn nhằm giảm rủi ro về tỷ giá. Các khoản công nợ có thể được thanh toán sớm hơn nếu các dự báo cho rằng đồng tiền của quốc gia mà MNC có công ty con sẽ bị mất giá. Và ngược lại các khoản thanh toán sẽ bị trì hoãn nếu dự báo cho rằng đồng tiền của quốc gia đó có xu hướng mạnh lên. Do tình hình lạm phát của các quốc gia khác nhau, nếu q uốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao tức đồng tiền nước đó bị mất giá. Do đó MNC sẽ tiến hành hoạt động chuyển giá nhằm bảo toàn lượng vốn đầu tư và lợi nhuận. Chi phí cơ hội cũng là một trong các động lực để các MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Các MNC nhận ra rằng các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể chuy ển về nước sau khi kết thúc năm tài chính và sau khi được kiểm tra của cơ quan thuế v à chịu sự kiểm soát ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy, các cơ hội đầu tư có thể sẽ bị bỏ lỡ. Do đó các MNC sẽ tiến hành thủ thuật chuyển giá nhằm thu hồi nhanh vốn đầu tư và bắt lấy cơ hội đầu tư khác. Trong các hoạt động li ên doanh liên kết với các đối tác trong nước thì các MNC sẽ định giá thật cao các yếu tố đầu vào mua từ công ty mẹ nhằm tăng cường tỷ lệ góp vốn và nắm quyền quản lý. Ngoài ra, các MNC có thể cấu kết với các công ty nước ngoài khác làm lũng đoạn thị trường trong nước. Ngoài ra, yếu tố tình hình kinh tế-chính trị của quốc gia mà MNC có chi nhánh hay công ty con. Các chính sách kinh tế thay đổi ảnh hưởng đến quyền lợi của các công ty con của MNC thì MNC sẽ thực hiện các hành vi chuyển giá nhằm chống lại các tác động. Hoặc nếu tình hình chính trị bất ổn, để giảm rủi ro và bảo tồn vốn kinh doanh bằng cách chuyển giá thì MNC muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Ngoài ra hoạt động chuyển giá cũng nhằm làm giảm các khoản lãi từ đó giảm áp lực đòi tăng lương của lực lượng lao động, cũng như giảm sự chú ý của các cơ quan thuế của nước sở tại. Bên cạnh đó những động cơ bên ngoài đó, chuyển giá còn được thực hiện do một số động cơ bên trong. Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc hay tại các công ty thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ. Lý do dẫn đến sự thua lỗ có thể là do sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Để tạo ra một bức tranh t ài chính
  16. tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông v à các bên hữu quan khác thì chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ tr ên. Chuyển giá giúp cho các MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm giảm các khoản thuế phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm pháp luật của các quốc gia. Các MNC khi thâm nhập vào một thị trường mới thì điều quan trọng trong giai đoạn này là phải chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị phần nhằm xây dựng nền móng ban đầu cho hoạt động kinh doanh sau này. Vì vậy mà các MNC trong giai đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm l àm cho giai đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài. Trong các mối liên kết kinh doanh hay hợp tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào tiềm lực tài chính hùng hậu của mình mà thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp để làm cho hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản lý và kiểm soát công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và chuyển quyền sở hữu công ty. Tình trạng này thường xảy ra phổ biến tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi m à trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi đánh bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì MNC sẽ chiếm lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước đây đã bỏ ra. Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá tr ình kêu gọi đầu tư của nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà MNC xem công ty con đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả MNC v à thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư. Ngoài ra chuyển giá còn được thực hiện do việc chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược… nhằm giảm các rủi ro khi giao dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp được các MNC lựa chọn. 3, Tác động của chuyển giá: Đối với bản thân các MNC: Chuyển giá giúp cho MNC dễ dàng thực hiện kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình về lợi nhuận và thuế. Dựa vào lợi thế về tiềm lực tài chính, những ưu đãi mà các quốc gia đặc cách cho các MNC khi kêu gọi thu hút đầu tư như thuế suất, hạn
  17. ngạch, lĩnh vực đầu tư… thì các MNC có thể thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu việc thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với quốc gia mà mình đặt trụ sở, trong trường hợp các quốc gia này có chính sách tiền tệ thắt chặt. Chuyển giá giúp MNC không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh và đầu tư, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường nội địa, đánh bật và thâu tóm các công ty nhỏ lẻ trong nước. Thông qua việc bán các tài sản, thiết bị lỗi thời với giá cao thì một mặt giúp các công ty tại chính quốc thay đổi được công nghệ với chi phí thấp, mặt khác lại giúp thu hồi vốn đầu tư nhanh tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chuyển giá còn giúp các MNC tránh được các rủi ro trong hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm vì các ho ạt động này thường tốn nhiều chi phí và khả năng thành công không cao. MNC sẽ giảm được một số các rủi ro về tỷ giá, rủi ro về thị trường tiêu thụ sản phẩm, rủi ro về tính ổn định của nhà cung cấp nguyên vật liệu và chất lượng nguyên vật liệu và một số rủi ro khác. Tuy nhiên, các MNC có nguy cơ phải gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của quốc gia sở tại và các quốc gia có liên quan nếu việc chuyển giá bị phát hiện. Các MNC sẽ bị phạt một số tiền rất lớn, có khả năng bị rút giấy phép kinh doanh và chấm dứt mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tại quốc gia đó. Bên cạnh đó uy tín của các MNC trên thương trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và là tâm điểm chú ý của các cơ quan thuế của các quốc gia khác mà MNC có trụ sở. Đối với các quốc gia liên quan: Các MNC với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận có thể thực hiện mọi phương thức chuyển giá và gây ra hậu quả nghiêm trọng và lâu dài đối với nền kinh tế của không chỉ các quốc gia tiếp nhận đầu tư mà còn cả với các quốc gia xuất khẩu đầu tư, tùy thuộc vào chênh lệch thuế suất giữa hai quốc gia. Đầu tiên, chuyển giá làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác động hiển nhiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước. Ví dụ như ở Vi ệt Nam, năm 2009 có tới 56% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt đ ộng kinh doanh kê khai lỗ. Tất nhiên, có thể có trường hợp lỗ thật và số lỗ này có th ể có nhi ều nguyên nhân, nhưng không thể loại trừ khả năng chuyển giá, bởi vì, nếu đó là lỗ thực
  18. sự thì không thể có chuyện các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục gia tăng đầu tư vào Việt Nam. Và thực tế cũng cho thấy trong rất nhiều trường hợp, các nhà đ ầu tư nước ngoài đã xác định giá chuyển giao khác xa giá thị trường. Kết quả giám định của công ty giám định quốc tế Thụy Sĩ (SGS) cho thấy: “Liên doanh Khách sạn Thăng Long (TP Hồ Chí Minh) - giá trị thiết bị khai báo 496.906 USD, giá trị thẩm định khai khống là 190.006 USD, chiếm tỷ lệ 40,43%. Trung tâm quốc tế dịch vụ văn phòng (Hà Nội) - giá trị thiết bị khai báo là 1.288.170 USD, giá trị thẩm định khai khống là 260.000 USD, tỷ lệ 21,16%”. Và hậu quả là tạo ra sự phản ánh sai lệch hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức tranh kinh tế không trung thực. Trong trường hơp quốc gia tiếp nhận đầu tư có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn nên trở thành người được hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá của các MNC. Vì vậy mà các quốc gia này cố ý làm lơ để các MNC tha hồ thực hiện hành vi chuyển giá và các quốc gia này không sẵn lòng hợp tác với chính quốc đ ể ngăn ch ặn hành vi chuyển giá. Về lâu dài, khi mà có sự chuyển biến của môi trường kinh doanh quốc tế thì các quốc gia này từng được xem là “thiên đường về thuế” sẽ đến lượt gánh chịu những hậu quả do việc thả lỏng và thờ ơ trong công tác quản lý trước đây gây ra. Lúc này các quốc gia này sẽ phải đương đầu với khó khăn về tài chính do các nguồn thu không bền vững đã phản ánh không chính xác sức mạnh của nền kinh tế và kh ủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra. Ngoài ra, chuyển giá còn tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. Thông qua hoạt động chuyển giá nhằm xâm chiếm thị phần khi mới tham gia vào thị trường, các MNC sẽ tiến hành các chiêu thức quảng cáo và khuyến mãi quá mức, và hậu quả là lũng đoạn thị trường. Các doanh nghiệp trong nước không đủ tiềm lực tài chính để cạnh tranh vì vậy mà dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải chuyển sang kinh doanh trong các ngành khác. Các MNC sẽ dần trở nên độc quyền và thao túng thị trường trong nước, kiểm soát giá cả và mất dần tính tự do cạnh tranh của thị trường tự do. Chính phủ của quốc gia này sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô và không
  19. thể thúc đẩy ngành sản xuất trong nước phát triển. IV, Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia trên thế giới: 1, Chuyển giá thông qua tài sản hữu hình: Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất đ ịnh) thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình (bao gồm: chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó, nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy, có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị) , tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà c ửa, vật ki ến trúc, máy móc, thiết bị... Chuyển giá thông qua tài sản hữu hình là thủ đoạn chuyển giá chính của các công ty đa quốc gia trên thế giới bằng cách định giá thật cao các tài sản cố đ ịnh chuy ển giao cho các thành viên hoặc công ty con ở các quốc gia có thuế suất cao. Giá chuyển giao này thường cao gấp nhiều lần giá trị thực của nó, vì vậy mà công ty có thể chuyển một phần thu nhập ra nước ngoài. Vì vậy mà thu nhập chịu thuế sẽ giảm. Khi thực hiện hành vi này, các công ty đa quốc gia một mặt tiết kiệm được chi phí thanh toán các tài sản cố định lỗi thời, một mặt lại chuyển được thu nhập về quốc gia có thuế suất thấp, từ đó tối đa hóa lợi nhuận của công ty mẹ. Nhiều người sẽ lầm tưởng, nếu như một phần thu nhập được công ty con chuyển ra nước ngoài cho công ty mẹ thì công ty mẹ vẫn phải nộp thuế cho nước c ủa công ty mẹ, như vậy thì có khác gì đâu. Trên thực tế, thuế thu nhập doanh nghiệp đánh cả vào thu nhập ở trong lẫn ngoài nước, cho nên nếu lợi nhuận của công ty mẹ phát sinh ở nước ngoài thì vẫn phải đóng thuế. Tuy nhiên các nước có thỏa thuận với nhau về thuế suất mà doanh nghiệp phải nộp.Giả sử nước A thu thuế thu nhập là 28% doanh thu sau khi trừ đi các khoản khác, mức thuế của nước B là 25%. Ở nước A có công ty X, công ty X mở công ty con tại nước B. Vậy số thuế mà công ty con phải nộp cho nước B là 25%, lợi nhuận sau đó chuyển về công ty mẹ ở nước A phải chịu 3% thuế (28-25=3). Trường hợp ngược lại, nước ở công ty con có mức thuế cao hơn mức thuế ở công ty
  20. mẹ thì lợi nhuận chuyển về được miễn thuế do đã đóng thuế ở nước công ty con rồi. Với ví dụ trên thì nghĩa là nếu nước A có mức thuế 25%, nước B có mức thuế 28%, công ty con đóng 28% xong chuyển lợi nhuận về công ty mẹ thì công ty mẹ ko phải đóng thuế (25-28= -3%, ko tính thuế). Lợi dụng đặc điểm trên, các công ty đa quốc gia thường để cho công ty con của mình ở các quốc gia có thuế thu nhập doanh nghiêp cao chịu lỗ (thường là lỗ rất nhiều) để không phải chịu thuế. 2, Chuyển giá thông qua các tài sản vô hình Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đ ặc tính c ủa tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác đ ịnh vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đ ến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola. Chuyển giá thông qua tài sản vô hình là thủ đoạn chuyển giá thông qua việc mua lại các tài sản cố định vô hình hay chi trả các chi phí bản quyền, chi phí xây d ựng thương hiệu, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩmvới giá thật cao. Các công ty mẹ sẽ đặt các phòng nghiên cứu ở các quốc gia có thuế suất cao, tất cả các chi phí nghiên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1