intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

167
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở kinh tế, là giá đỡ vật chất cho công bằng xã hội; thực hiện công bằng xã hội lại là điều kiện xã hội, động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những nguyên tắc chủ yếu trong tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Lực lượng nòng cốt để thực hiện sự “kết hợp” ấy chính là nhà nước. Muốn thành công, một mặt, chúng ta phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về công bằng xã hội; mặt khác, các chính sách, biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội của nhà nước phải hướng vào sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những chủ trương chủ yếu trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đó không chỉ thể hiện tính định hướng nhân văn, định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phản ánh nhu cầu phát triển xã hội theo mô hình tiến bộ, phù hợp với thiên niên kỷ mới. Tăng trưởng kinh tế là đòi hỏi bức xúc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Nếu không tăng trưởng kinh tế, chúng ta sẽ bị gạt ra ngoài lề của đời sống kinh tế quốc tế, không thể tồn tại được chứ đừng nói đến phát triển, tiến bộ. Nhưng tăng trưởng kinh tế mà dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo một cách quá đáng, dẫn tới sự phân cực, một mặt, sẽ nẩy sinh những mâu thuẫn, xung đột xã hội cản trở sự phát triển kinh tế; mặt khác, sẽ không đảm bảo được sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương “giải quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Thực hiện chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”(1). Sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một yêu
  3. cầu khách quan trong sự phát triển của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra. Ở đây, vai trò của chủ thể, của nhân tố chủ quan, mà trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc “kết hợp”, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong điều kiện hiện nay liệu có chủ quan, duy ý chí hay không? Câu trả lời là không, bởi mấy lẽ sau đây: Một là, thực tiễn phát triển của lịch sử đương đại không phủ nhận, mà ngược lại, ngày càng khẳng định sự cần thiết của “bàn tay hữu hình”của nhà nước. Cũng có người cho rằng, chỉ đứng trên quan điểm mácxít và ở các nước xã hội chủ nghĩa mới khẳng định vai trò của nhà nước trong quản lý, điều tiết nền kinh tế, còn đối với các nước tư bản chủ nghĩa thì ngược lại. Điều đó không hoàn toàn đúng. Lược qua lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh, khi nhà nước còn đứng bên ngoài kinh tế, bảo vệ cho tự do cạnh tranh dưới sự chi phối của thị trường, đã dẫn đến khủng hoảng và tổng khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX. Đó là một trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản cũng đã thấy được sự cần thiết của “bàn tay hữu hình” của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Chủ trương xây dựng “nhà nước phúc lợi” ở các nước tư bản đã chứng tỏ điều đó. Nhờ sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua những cơn khủng hoảng triền miên, thay đổi được bộ mặt của mình và tạo đà cho sự phát triển. Tuy nhiên, do bản chất và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, vào cuối những năm 70, 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của nhà nước theo mô hình “nhà nước phúc lợi” bắt đầu cản trở sự phát triển kinh tế. Chủ nghĩa tư bản rơi vào tình trạng khủng hoảng mới - khủng hoảng về cơ cấu. Trước tình trạng đó, các đảng bảo thủ cầm quyền đề xuất mô hình “chủ nghĩa tự do mới” (bắt đầu từ luận thuyết của Rigân - cựu Tổng thống Mỹ và Thátchơ - cựu Thủ tướng Anh vào những năm 80). Thực chất của chủ nghĩa tự do mới là đề cao thị trường tự do. Những người theo thuyết này cho rằng, mọi quyết sách phải theo mệnh lệnh của thị trường và phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
  4. Sau gần 10 năm thực hiện luận thuyết đó, một số nước phương Tây đã phải gánh chịu những hậu quả tai hại: nạn đầu cơ tiền tệ; tăng tỉ suất lợi nhuận, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm; cắt xén chi tiêu phúc lợi, nhưng gánh nặng tài chính của nhà nước không giảm; sự phân cực xã hội diễn ra rất nặng nề, sự căng thẳng xã hội trở nên gay gắt… Các nước phương Tây dần dần đã cảnh tỉnh trước chủ nghĩa tự do mới và có sự thay đổi. Họ thấy rằng, nếu phó mặc cho “bàn tay vô hình” của thị trường thì những gì được coi là tốt lành của chủ nghĩa tư bản có thể sẽ tiêu tan. Các nước thuộc thế giới thứ ba cũng nhận thấy là, nếu đem toàn bộ việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu nhập và sự điều tiết của nhà nước giao cho thị trường quản lý, thì chỉ có thể mang lại tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, thất nghiệp và bần cùng. Đặc biệt, khi tiến trình toàn cầu hoá trở nên mạnh mẽ, khi sự hình thành hệ thống kinh tế toàn cầu đang “phá vỡ” những biên giới quốc gia của các nền kinh tế, những tranh luận về nhà nước và khả năng của nó trong việc thực hiện các chức năng của mình đã diễn ra ngày càng sôi nổi. Khi đưa ra thuyết “Toàn cầu hoá quyết định”, chủ nghĩa tự do mới cho rằng, trong tiến trình toàn cầu hoá, nhà nước không có cách gì quyết định vận mệnh của mình. Việc phân bổ tài nguyên, phân phối thu nhập và đề ra các quyết sách chỉ có thể tiến hành theo mệnh lệnh của thị trường; đối mặt với toàn cầu hoá tư bản thì quốc gia, dân tộc có xu hướng tiêu vong, duy nhất còn lại là chủ quyền của thị trường. Có quan điểm lại cho rằng, sự phát triển của toàn cầu hoá đã làm nổi lên vai trò “quản lý toàn cầu”. Bởi lẽ, toàn cầu hoá về kinh tế làm xuất hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia, dân tộc. Thời cơ, thách thức, rủi ro, khủng hoảng, nghèo đói, khủng hoảng sinh thái, ô nhiễm môi trường… đều đã trở thành những vấn đề có tính chất toàn cầu; việc giải quyết chúng đòi hỏi phải có sự nỗ lực toàn cầu, nỗ lực của mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ. Trong khi đó, theo quan điểm này, biện pháp thị trường đã mất linh nghiệm, nhà nước quốc gia đã trở nên bất lực và do đó, cần thiết phải đề cao sự “quản lý toàn cầu”. Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi thị trường quyết định tất cả đã bị thực tiễn đương đại bác bỏ. Còn việc phải có sự quản lý toàn cầu nhằm chế định, duy trì trật tự kinh tế toàn cầu và thúc đẩy nỗ lực chung của mọi quốc gia để giải quyết
  5. các vấn đề toàn cầu là cần thiết. Nhưng từ đó mà coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò của nhà nước quốc gia thì lại là một sai lầm. Quả thực, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ, quyền và hoạt động của nhà nước đang bị hạn chế: khai thác tài nguyên cũng chịu sự ràng buộc quốc tế, thị trường toàn cầu chế ước tính tự chủ về chính sách của chính phủ, tự do hoá đã làm giảm quy mô can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các quá trình kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đang ngày càng tăng lên… Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của nhà nước bị suy giảm. Trên thực tế, nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng, kể cả ở các nước đang phát triển, cũng như các nước phát triển. Cũng phải thừa nhận rằng, toàn cầu hoá đang làm nẩy sinh những vấn đề mới và việc giải quyết chúng sẽ trở nên vô cùng khó khăn nếu không có sự tham gia của nhà nước. Chẳng hạn, vấn đề điều tiết dân cư, ngăn chặn buôn bán các chất ma tuý, tình trạng gia tăng tội phạm… Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đương đại cho rằng, cần phải có nhiều hơn sự quản lý của nhà nước, chứ không phải là ít hơn so với trước kia và nhà nước cần phải có sự cải cách, điều chỉnh cho thích ứng với điều kiện mới. Như vậy, không chỉ quan điểm mácxít mà ngay cả quan điểm của các nhà quản lý học, chính trị học phương Tây và thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ toàn cầu hoá cũng khẳng định vai trò không thể thiếu được của nhà nước trong điều kiện hiện nay, nhất là đối với lĩnh vực kinh tế. Hai là, nhà nước “kết hợp” tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là thực hiện một đòi hỏi khách quan của sự phát triển, tiến bộ trong thời đại hiện nay. Sự gắn bó mật thiết, rằng buộc, quy định lẫn nhau giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội” là biện chứng khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử, nhất là trong thời kỳ hiện đại. Không có “cái kinh tế” tồn tại thuần tuý, tách rời “cái xã hội”. Theo quan điểm mácxít, phát triển kinh tế không có mục đích tự thân, mà suy cho cùng là nhằm mục đích phát triển xã hội, phát triển con người. Vả lại, kinh tế cũng không thể phát triển, càng không thể phát triển bền vững nếu xem nhẹ hay bỏ qua các vấn đề, các khía cạnh xã hội. Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề xã hội phải dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế, phải lấy sự phát triển kinh tế làm giá đỡ. Những giải pháp giải
  6. quyết các vấn đề xã hội xuất phát từ mong muốn, khát vọng chủ quan thuần tuý thì chỉ là những ý định tốt đẹp, không có tính khả thi, hoặc sẽ làm mất động lực phát triển kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Như vậy, theo biện chứng của sự phát triển lịch sử, “cái kinh tế” là một thực thể kinh tế - xã hội và “cái xã hội” cũng phải là thực thể xã hội - kinh tế. Lịch sử phát triển đương đại chứng tỏ tính đúng đắn, khoa học của quan điểm mácxít đó. Chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh để cho thị trường chi phối, thao túng, nhà nước đứng bên ngoài kinh tế và ít chú ý đến các vấn đề xã hội. Điều này đã làm xuất hiện những xung đột gay gắt trong xã hội, cản trở sự phát triển kinh tế, đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng và tổng khủng hoảng. Trước những hậu hoạ đó, các nhà kinh tế học tư sản đã ý thức được vấn đề và dần dần thấy được vai trò của “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Ở đây phải nói tới sự đóng góp của J.M.Keynes. Trong luận thuyết của mình, Keynes coi sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng là nguyên nhân chính của sản xuất thừa. Do đó, theo ông, để đạt được sự cân đối giữa cung và cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần phải có các biện pháp can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội. Theo luận thuyết này, chủ nghĩa tư bản sau Chiến tranh thế giới thứ II đã tiến hành xây dựng mô hình “nhà nước phúc lợi”. Với mô hình đó, ở các nước phương Tây, ngân sách của nhà nước cấp cho các mục tiêu xã hội (chi cho giáo dục, y tế, đảm bảo xã hội, ưu tiên cho những đối tượng dễ bị tổn thương…) có xu hướng gia tăng. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động vì các quyền và lợi ích của mình đã không còn mang tính chất quyết liệt như trước. Chủ nghĩa tư bản phần nào đã làm dịu được những xung đột xã hội, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của “nhà nước phúc lợi” theo kiểu cũ đó đã bắt đầu đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng mới: khủng hoảng về cơ cấu và nền kinh tế rơi vào sự suy thoái. Để khắc phục tình trạng đó, họ lại truyền bá và vận dụng luận thuyết về chủ nghĩa tự do mới, nhấn mạnh sự tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến các vấn đề xã hội. Sau gần một thập kỷ thực hiện luận thuyết đó, sự phân cực xã hội trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, xung đột xã hội ngày càng gay gắt dẫn đến cản trở sự phát triển của kinh tế. Chủ nghĩa tư bản lại rơi
  7. vào vũng lầy mới do không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội. Nhiều nước tư bản đã thấy được tác hại của luận thuyết này và họ tiếp tục thực hiện mô hình “nhà nước phúc lợi” nhưng có sự cải biến, hiện đại hoá nó. Đối với các nước chủ trương phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội càng trở nên cần thiết hơn. Đó là một yêu cầu khách quan, không chỉ để tăng trưởng kinh tế, mà còn đảm bảo cho mục tiêu chính trị đã lựa chọn. Thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc của Trung Quốc là một minh chứng cho sự cần thiết phải “kết hợp” này. Sau một thời gian dài phát triển đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, từ cuối thập niên 70, Trung Quốc quyết định thực hiện cải cách quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, mở cửa ra bên ngoài. Trong những năm đầu của công cuộc cải cách, Trung Quốc thực hiện chính sách tập trung cao cho tăng trưởng kinh tế với quan điểm cho rằng, chỉ cần tăng trưởng kinh tế là có thể giải quyết được mọi vấn đề. Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển với tốc độ cao nhất, nhì thế giới. Tuy nhiên, do tập trung cao độ cho sự tăng trưởng kinh tế, hàng loạt vấn đề xã hội đã không được quan tâm. Hậu quả là phần lớn người lao động ít được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, hệ thống chăm sóc sức khoẻ và y tế cộng đồng ở vào tình trạng đáng lo ngại, hầu hết số người nghèo không có khả năng chi trả các dịch vụ y tế; đầu tư cho giáo dục thấp (2% GDP) làm cho hàng chục triệu trẻ em không thể tiếp tục đi học vì những khó khăn về kinh tế, nguồn nhân lực bị giảm sút, tình trạng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư quá lớn đe doạ sự ổn định và phát triển, nạn thất nghiệp có xu hướng tăng cao. Tình hình xã hội trở nên căng thẳng, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và đe doạ sự phát triển kinh tế bền vững. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ý thức được những khiếm khuyết trong chủ trương của mình và bắt đầu thi hành những giải pháp cần thiết để đảm bảo công bằng xã hội. Nghị quyết Trung ương 3 khoá XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng, phải coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự tiến bộ; xuất phát từ lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân để xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
  8. Để đảm bảo cho sự phát triển của đất nước, từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã tích cực thực hiện những biện pháp nhằm giảm bớt những mâu thuẫn gay gắt giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: chuyển chính sách ưu tiên cao độ cho tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên cho đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính phủ chuyển trọng tâm từ phát triển kinh tế, sang giải quyết các vấn đề xã hội như: khắc phục tình trạng nghèo đói, sự tụt hậu về y tế, giáo dục, nạn thất nghiệp… Ngân sách nhà nước tăng cho các dịch vụ công cộng, cho hệ thống an sinh xã hội. Chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn… được triển khai rộng khắp. Như vậy, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là biện chứng khách quan của sự phát triển xã hội trong thời kỳ hiện đại; hơn nữa, là sự phát triển xã hội theo hướng nhân văn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, như thực tế đã chỉ ra, điều đó không được thực hiện một cách tự động, mà phải có sự tác động chủ động của kiến thức thượng tầng chính trị, trước hết là nhà nước. Nhà nước là công cụ chủ yếu thực hiện sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo bản chất của minh, là nhà nước có khả năng tốt nhất thực hiện sự kết hợp đó. Ở Việt Nam, một trong những nội dung xuyên suốt trong đường lối đổi mới của Đảng ta là kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”(2). Việc thực hiện nhiệm vụ đó, như Đảng ta đã chỉ rõ, phải theo tinh thần xã hội hoá, động viên toàn dân, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và cộng đồng quốc tế cùng tham gia, trong đó nhà nước đóng vai trò nòng cốt. Để không rơi vào ảo tưởng, chủ quan duy ý chí khi giải quyết các vấn đề xã hội như trước đây, các chủ trương, chính sách, biện pháp… của nhà nước phải đáp ứng hai yêu cầu chủ yếu sau: 1. Phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về công bằng xã hội. Công bằng xã hội là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ từ bao đời nay. Trong thực tế lịch sử nhân loại, công bằng xã hội biểu hiện như một xu hướng, một quá trình lịch sử phát triển tiến bộ. Công bằng xã hội là một phạm trù mang tính
  9. lịch sử, nó không chỉ phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, mà còn dựa trên những tiền đề hiện thực, như thực lực kinh tế, mức độ phát triển kinh tế… mà xã hội đã đạt được. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự công bằng xã hội mà con người đạt được trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định là những nấc thang để tiến dần tới bình đẳng xã hội. Bình đẳng xã hội hoàn toàn chỉ đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản – xã hội có đủ điều kiện để thực hiện nguyên tắc phân phối: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Do vậy, công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay không phải là được hiểu theo nghĩa bình đẳng lý tưởng, bình đẳng xã hội một cách hoàn toàn, cũng không phải theo nghĩa giản đơn, ấu trĩ như trước đây là cào bằng, bình quân, làm cho mọi người trở nên ngang bằng nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Công bằng xã hội trong bất kỳ thời đại nào cũng đều là động lực thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ, bao giờ cũng là mục tiêu đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ, nhưng nó chỉ thực thi và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khi phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại, của đất nước. Hiện nay, nước ta đang ở trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Quan niệm về công bằng xã hội, cũng như những chủ trương, chính sách, biện pháp… của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải phù hợp với cơ sở kinh tế và định hướng chính trị đó. Mặc dù không phải là duy nhất, song cần phải thấy rằng, công bằng trong phân phối là cốt lõi của công bằng xã hội. Nhấn mạnh nội dung này, Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: chúng ta cần “thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”(3) nhằm “tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội”(4). Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng, phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay và do đó, mọi chính sách, biện pháp thực hiện đều phải dựa trên nguyên tắc đó mới có tính khả thi, đảm bảo đúng định hướng và kích thích được sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội.
  10. 2. Giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội phải hướng vào sự phát triển kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế. Kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không có “cơ chế tự điều tiết” và giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, nó còn làm nẩy sinh những vấn đề xã hội bức xúc, mà nếu thiếu sự can thiệp tích cực của nhà nước thì không thể giải quyết được. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước chỉ là tích cực, có hiệu quả khi dựa trên thực lực của nền kinh tế và tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian vừa qua, ngoài mặt tích cực, đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đòi hỏi nhà nước phải can thiệp, giải quyết. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới hai vấn đề xã hội nổi bật liên quan trực tiếp tới sự phát triển kinh tế. Trước hết, đó là vấn đề phân hoá giàu nghèo. Trong điều kiện nước ta hiện nay, sự phân hoá giàu nghèo do phát triển kinh tế thị trường là điều không tránh khỏi. Song, tình trạng phân hóa giàu nghèo ở mức độ nào đó cũng biểu hiện sự công bằng xã hội đang được thiết lập lại. Chính vì vậy, một mặt, nhà nước phải chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo, phải bảo vệ và khuyến khích nhân dân làm giàu một cách hợp pháp; mặt khác, phải tiến hành một loạt các chủ trương, chính sách, biện pháp để xoá đói giảm nghèo và kiềm chế sự phân hoá giàu nghèo không để gia tăng đến mức quá đáng, đến mức phân cực. Tuy nhiên, các chính sách xoá đói giảm nghèo không nên hiểu như là những chính sách nhân đạo thuần tuý nhằm mục đích cứu trợ cho người nghèo, mà phải tạo động lực cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, phải làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cải cách nền hành chính quốc gia, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý và điều tiết của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Hai là, vấn đề cơ hội tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, nếu phần lớn người dân không có cơ hội tham gia và do đó, không được hưởng lợi (sinh lợi bằng lao động của mình chứ không phải chỉ thuần tuý bằng sự phân phối lại, phúc lợi xã hội) từ quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ làm nẩy sinh những bức xúc, căng thẳng gây mất ổn định xã hội; đồng thời, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực con người, cản trở sự phát triển theo hướng bền vững của
  11. nền kinh tế. Kinh tế thị trường tự nó không thể giải quyết được vấn đề này, mà cần phải có “bàn tay hữu hình” của nhà nước. Nhiều nước phát triển theo mô hình “nhà nước phúc lợi” coi mục tiêu cuối cùng của nhà nước là sự bình đẳng về các khả năng, chứ không phải là sự bình đẳng về kết quả. Trong những năm gần đây, ở nước ta cũng xuất hiện một số ý kiến kiến giải vấn đề công bằng xã hội theo hướng công bằng về cơ hội. Nên nhớ rằng, giao những quyền ngang nhau cho những người thực ra là không ngang nhau chỉ là bình đẳng hình thức, còn thực tế là bất bình đẳng. Điều đó lý giải tại sao quan điểm mácxít lại coi vấn đề phân phối như nội dung cốt lõi trong công bằng xã hội. Để tạo cơ hội cho phần lớn nhân dân tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải thực hiện công bằng xã hội ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất không phải là cào bằng, bình quân, mà phải lấy hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội làm căn cứ. Hiệu quả xã hội không chỉ được hiểu theo nghĩa mang tính chất “xã hội thuần tuý”, mà bao chứa trong nó hiệu quả kinh tế. Nhà nước cần tạo cơ hội cho mọi người, mọi vùng, miền có thể tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, cần đầu tư mạnh cho giáo dục, y tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là ở những vùng, miền có nhiều khó khăn, ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Kết hợp một cách hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo nên động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Sự “kết hợp” này được thực hiện bởi nhân tố chủ quan, trong đó nhà nước đóng vai trò chủ yếu. Trọng trách ấy đã, đang đặt ra cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.r (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 33. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr 88.
  12. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 88. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.104. VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NGUYỄN MINH PHƯƠNG (*) Xã hội dân sự là một vấn đề mới, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý luận. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích vai trò quan trọng của xã hội dân sự. Chức năng của xã hội dân sự, như tác giả khẳng định, bao gồm: thứ nhất, là cầu nối các cá nhân với nhà nước; thứ hai, tham gia hoạch định và phối hợp với nhà nước thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức nhà nước; thứ tư, góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất và luận giải một số phương hướng, biện pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay. 1- Nhận thức về vai trò của xã hội dân sự hiện nay Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội dân sự được giới nghiên cứu lý luận quan tâm, chú ý. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, xã hội dân sự là một trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là “một đỉnh của tam giác” phát triển xã hội. Theo đó, kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, nhà nước pháp quyền là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển và xã hội dân sự đảm bảo cho sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội. Nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của xã hội dân sự hiện vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi nhất của nó chính là hệ thống các tổ chức xã hội của công dân được gắn kết bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị hoặc truyền thống chung để tiến hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với nhà nước, bổ sung cho những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân
  13. bằng và phát triển bền vững của xã hội. Xã hội dân sự là một khu vực “phi nhà nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ,… thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề nghiệp, từ thiện, nhân đạo… nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể. Trong lịch sử, các hình thức liên hiệp đã xuất hiện từ xa xưa, thậm chí còn có trước khi xuất hiện nhà nước. Nhưng phải đến thời đại tư bản chủ nghĩa, khi mối quan hệ giữa các cộng đồng đó được xác lập trên cơ sở chính trị - pháp lý nhất định, lúc đó xã hội dân sự mới thực sự ra đời. Ngày nay, kinh tế thị trường đã tỏ rõ ưu thế và trở thành khuynh hướng chủ đạo trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Mặc dầu vậy, nền kinh tế thị trường không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội. Do bản chất của nó, kinh tế thị trường có những nhược điểm và giới hạn nhất định, nhất là trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sống. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế đó, cần phải có sự tham gia phối hợp của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Nhà nước pháp quyền trong xu thế phát triển ngày càng có tính phổ biến của nền chính trị hiện đại đã thể hiện những ưu thế, tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dân chủ hóa xã hội. Nhưng, nhà nước cũng không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề của sự phát triển xã hội. Bản thân nhà nước pháp quyền cũng gặp phải những giới hạn và thách thức nhất định, như nguồn lực cần thiết để tổ chức và vận hành khá lớn, phải có những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và việc xây dựng nhà nước đó là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Mâu thuẫn giữa tính bắt buộc, quy chuẩn có giới hạn của pháp luật và sự phong phú, sinh động, đa dạng của nhu cầu mọi mặt của cá nhân cũng như của xã hội bắt đầu xuất hiện. Pháp luật là tối thượng, nhưng trong không ít trường hợp, khi đã nắm được quyền lực công, các tổ chức và cá nhân được trao quyền trở nên quan liêu, tha hóa, tự đặt mình lên trên xã hội. Thậm chí, những người cai trị "bảo đảm quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm"(1). Trong tình huống này,
  14. tính tối thượng của pháp luật có thể lại là mối nguy hiểm cho xã hội. Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên là các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy cống hiến hay có tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng không thể dự kiến trước được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà các công dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay thế của các tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, cũng như cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng tiền của riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng sự, vừa là những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công. Hơn nữa, trong điều kiện ngày nay, do nhu cầu cá nhân tăng lên, sự liên kết giữa các cá nhân và cộng đồng trở nên đa dạng hơn, phạm vi hoạt động của xã hội ngày càng phát triển phong phú và mở rộng. Nhà nước không thể và không nên trực tiếp đáp ứng tất cả nhu cầu đó, mà cần phải chuyển giao dần một phần công việc này cho các tổ chức thuộc khu vực xã hội dân sự. Trên thực tế, nhiều việc giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp quản lý lại có hiệu quả hơn vì tính chất linh hoạt, năng động, sát thực tế công việc và đảm bảo tính khách quan hơn, ví dụ như chức năng tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp… Những giới hạn của nhà nước nêu trên chỉ có thể được khắc phục một cách hiệu quả khi xây dựng và phát triển xã hội dân sự, tức là phát huy vai trò của xã hội dân sự, huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và cộng đồng vào công việc xã hội, mà tựa hồ như đã trao cho nhà nước và được coi là chức năng cơ bản, cơ sở của sự thống trị chính trị của nhà nước. Chức năng của xã hội dân sự bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham gia hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà nước trong hoạch định, thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý; thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách cũng như việc thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát và giám sát phẩm chất, hành vi của đội ngũ công chức nhằm góp phần chống quan
  15. liêu, tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nhà nước; thứ tư, phát huy các nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người và của toàn xã hội. Cả bốn chức năng trên đều quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc xem nhẹ một trong các chức năng đó biểu hiện sự nhận thức không đúng về vai trò, chức năng của xã hội dân sự và ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của xã hội. Mục tiêu của xã hội dân sự hiện đại là phát triển và hoàn thiện con người, coi đó là điều kiện để phát triển cộng đồng, xã hội và nhân loại. Sự phát triển của xã hội dân sự hướng tới những giá trị tiến bộ chung của nhân loại; đồng thời, phụ thuộc vào tính giai đoạn, đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước cũng như hình thức, kiểu nhà nước và hệ thống chính trị của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, xã hội dân sự là một khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán. Mặt khác, bản thân xã hội dân sự cũng có những giới hạn và gặp phải một số thách thức nhất định, đó là khi các hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng chỉ chăm lo đến lợi ích cục bộ của mình mà không quan tâm đến lợi ích toàn xã hội. Khi đó, tính tự chủ, tự nguyện và tự quản của xã hội dân sự sẽ có nguy cơ tạo ra các “lệ” riêng, cản trở việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, hạn chế sự phát triển chung của xã hội. Vì vậy, các thể chế của xã hội dân sự cần phải được quản lý và định hướng bằng pháp luật của nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hoà của toàn xã hội. Nói cách khác, điều kiện để hình thành một xã hội dân sự lành mạnh là phải có một nhà nước pháp quyền vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả để xây dựng khung pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, bảo vệ và trợ giúp cho xã hội dân sự, phục vụ xã hội dân sự. 2- Vai trò của xã hội dân sự và phương hướng thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam Ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân được tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ chức cuộc
  16. sống. Nhờ đó, khu vực xã hội dân sự ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân có điều kiện được thoả mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ. Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị quyết số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo…”(2). Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình rất đa dạng, phong phú. Tính đến tháng 6 – 2005, đã có 320 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, hơn 2.150 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi hoạt động tại các quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Đồng thời, hiện có khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 350 tổ chức có chương trình, dự án đối tác với Việt Nam. Nhiều tổ chức đang đề nghị Chính phủ Việt Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng dự án…
  17. Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính truyền thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay còn gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu lạc bộ. Tuỳ tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức, bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, thành viên, các tổ chức này đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều phương diện: - Các tổ chức có tính chất chính trị - xã hội đã tập hợp, giáo dục và phản ánh yêu cầu, nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân, thực sự là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước; tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, giám sát đối với các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; tư vấn và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Trong điều kiện hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo và đóng vai trò hạt nhân, dễ xảy ra nguy cơ đội ngũ cầm quyền sẽ xa dân, quan liêu, lạm quyền… Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội là những thể chế thích hợp để vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa tránh được mọi nguy cơ nói trên, tức là thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó, các tổ chức chính trị – xã hội không chỉ có chức năng tập hợp, động viên quần chúng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, mà còn có chức năng thực hành dân chủ, giám sát, phản biện xã hội nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo và điều hành đất nước tránh được những sai lầm, khuyết điểm do tình trạng quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên. - Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm mục đích phối hợp sức mạnh sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tư vấn thẩm định, phản biện xã hội đối với các chính sách, công trình kinh tế của nhà nước, bảo vệ hàng hoá, chất lượng sản phẩm; tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường, bảo vệ người tiêu dùng, thương lượng giải quyết các tranh chấp thương mại. Vụ kiện áp đặt Luật chống bán phá giá cá Basa và
  18. cá da trơn, bán tôm vào thị trường Hoa Kỳ… của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) là ví dụ điển hình. Đồng thời, nhiều tổ chức này đã bước đầu đảm nhiệm tương đối có hiệu quả việc cung ứng một số dịch vụ công phục vụ xã hội, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước. - Các hội, tổ chức phi chính phủ đã góp phần khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; vận động hội viên tích cực tham gia vào nhiệm vụ xây dựng xã hội, phát triển kinh tế; phát huy tính năng động, tính tích cực xã hội của mỗi công dân; góp phần cùng Nhà nước giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội do chiến tranh, do nền kinh tế chậm phát triển cũng như do sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị trường gây nên. - Mặt khác, các tổ chức đó còn góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu, như bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, giảm nhẹ hậu quả do thiên tai… Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng như người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và tác dụng của khu vực xã hội dân sự trong đời sống xã hội; có biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các đoàn thể nhân dân, các hội; chậm ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý hội cho phù hợp với tình hình mới. Mặt khác, bản thân các đoàn thể nhân dân, các hội chưa phát huy đầy đủ chức năng đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân và hội viên của mình. Một số tổ chức đoàn thể nhân dân, hội còn mang tính hình thức, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội viên, hoặc có biểu hiện trông chờ vào sự tài trợ của nhà nước; “hành chính hoá” về mặt tổ chức và hoạt động. Do đó, khả năng thu hút quần chúng của các tổ chức này còn hạn chế; việc tham gia cung cấp dịch vụ công chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích, thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần. Để có thể thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự ở nước ta hiện nay, trước hết cần nhận thức đúng về vai trò, vị trí của của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
  19. Bối cảnh và xu thế phát triển mới của đất nước đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò, chức năng chủ yếu của mình là định hướng và tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi cho người dân được phát huy mọi khả năng và nguồn lực để phát triển sản xuất, làm giàu cho bản thân và đất nước; đồng thời, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Điều đó đặt ra đòi hỏi cấp bách là phải mở rộng và đa đạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư, các hội trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham gia các hoạt động quản lý sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, hội viên. Mục tiêu cơ bản của các đoàn thể nhân dân, cộng đồng dân cư, các hội là đáp ứng nhu cầu chính đáng và hợp pháp của thành viên, hội viên; đồng thời, phải lấy hiệu quả xã hội và nâng cao dân trí làm thước đo sự phát triển và đóng góp của mình cho đất nước. - Nâng cao vai trò của các hội, tổ chức phi chính phủ trên các mặt: tham gia quản lý nhà nước, tư vấn, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; tư vấn, phản biện đối với các lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp; khai thác các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; phục vụ lợi ích của các thành viên, hội viên; cung ứng một số dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, vệ sinh môi trường…; góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai; mở rộng các hoạt động đối ngoại nhân dân. - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của khu vực xã hội dân sự. Trước hết là khẩn trương ban hành Luật Hội và các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật để tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, có hiệu lực cao về quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ; đồng thời, tạo thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đó. - Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, xác định rõ những loại việc Nhà nước cần phải làm và chuyển giao cho khu vực xã hội dân sự những loại việc mà Nhà nước không nhất thiết phải đảm nhiệm. Đồng thời, hỗ trợ các nguồn lực và tạo điều kiện cho các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp các
  20. dịch vụ công cần thiết cho xã hội. - Thực hiện nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự quản, tự trang trải về tài chính của các hội, tổ chức phi chính phủ trong khuôn khổ pháp luật. Tạo môi trường và khung pháp lý phù hợp để thúc đẩy các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, các hội đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng “nhà nước hoá”, “hành chính hoá”, hoạt động không đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức và xa rời đoàn viên, hội viên; đảm bảo chế độ công khai, minh bạch các hoạt động và chi tiêu tài chính của các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ. /. (*) Tiến sĩ triết học, Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ. (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.254. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.130 – 131. LIÊN HỆ MẬT THIẾT VỚI QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CỘI NGUỒN SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG TA ĐOÀN VĂN KHÁI (*) Quan tâm xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng Cộng sản với nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Để nâng cao sức mạnh và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam cần: luôn chăm lo đầy đủ đến lợi ích, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là cơ sở tạo nên sức mạnh để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức; lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin - lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản thế giới - khẳng định rằng, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng Đảng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2