Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt
lượt xem 13
download
Mục đích của luận án là vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt để xác lập cấu trúc ý niệm và miền ý niệm “đồ ăn”, tìm hiểu các miền đích, miền nguồn và hệ thống ánh xạ, cơ chế ánh xạ giữa các miền ý niệm; hệ thống hóa ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; từ đó nghiên cứu đặc trưng tri nhận, bản sắc văn hóa riêng của người Việt qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ BÍCH HỢP ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN “ĐỒ ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số : 62.22.01.02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội - 2015
- CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Hảo Tâm Phản biện 1: GS.TS. Bùi Minh Toán Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Văn Hảo Hội Ngôn ngữ học Việt Nam Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi.............giờ...........phút, ngày........tháng........năm ......... Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Nguyễn Thị Bích Hợp (2013),“Tiểu trường từ vựng tiếng Việt biểu thị cảm giác của con người với món ăn và ý niệm con người (trong tiếng Việt và tiếng Anh)”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư số 3 (23). 2. Nguyễn Thị Bích Hợp (2013), “Ẩn dụ ý niệm “Vật dụng liên quan đến món ăn” trong tiếng Việt” (Kỉ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Đại học Sư phạm 10/2013) 3. Nguyễn Thị Bích Hợp (2015), “Ẩn dụ thực thể có miền đích là ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt theo quan điểm Ngôn ngữ học tri nhận” (Hội thảo Ngữ học toàn quốc, Đại học Sài Gòn 04/2015) 4. Nguyễn Thị Bích Hợp (2015) “Ẩn dụ định hướng ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ số 6 (313).
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… được”. Đó là nhận định của Ăng-ghen trong Điếu văn đọc trước mộ Các-Mác, trong đó “ăn” được xếp vào nhu cầu bản thể đầu tiên của con người. Hơn thế, đồ ăn còn được chú ý đến trên bình diện văn hóa tinh thần. Đỗ Hữu Châu trong [7] đã nêu quan điểm: văn hóa khác nhau thì ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ khác nhau thì ứng xử văn hóa khác nhau và ẩn dụ là một bộ phận của văn hóa. Như vậy, quan điểm nhất quán đã được khẳng định từ lâu là ẩm thực cũng như ngôn ngữ (cụ thể hơn là ẩn dụ) đều có quan hệ mật thiết với văn hóa. Theo quan niệm của Ngôn ngữ học tri nhận thế giới, “đồ ăn” là một trong những miền nguồn cơ bản – được Kovecses xác định là “Cooking and Food” trong [141]. Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt trong sự đối sánh với ngôn ngữ khác sẽ giúp thấy được những tương đồng và khác biệt về văn hóa, tư duy. 1.2. Ngôn ngữ phản ánh hiện qua lăng kính chủ quan, theo quan điểm của khoa học tri nhận: ngôn ngữ là công cụ tri nhận của con người. Trong đó, ẩn dụ là một trong những công cụ tiêu biểu và hiệu quả. Ngôn ngữ học tri nhận quan tâm đến ẩn dụ trong mối tương quan giữa ngôn ngữ - tâm lí, là đối tượng nghiên cứu của khoa học liên ngành. Ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong thơ ca mà còn thể hiện vai trò trong mọi lĩnh vực: đời thường, kinh tế, ngoại giao, quảng cáo, khoa học, điện ảnh, chính trị… Ở Việt Nam, Ngôn ngữ học tri nhận là ngành nghiên cứu còn khá non trẻ song đã đạt được nhiều thành tựu. Có thể nói, Ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ ý niệm nói riêng đang nhận được sự chú ý của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, là một hướng đi nhiều hứa hẹn. 1.3. Mặc dù vậy, trong số các nghiên cứu Ngôn ngữ học tri nhận đã có ở Việt Nam, chưa có công trình độc lập nào tìm hiểu về đối tượng ẩm thực trong ngôn ngữ Việt. Từ những lí do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt . 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt để xác lập cấu trúc ý niệm và miền ý niệm “đồ ăn”, tìm hiểu các miền đích, miền nguồn và hệ thống ánh xạ, cơ chế ánh xạ giữa các miền ý niệm; hệ thống hóa ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; từ đó nghiên cứu đặc trưng tri nhận, bản sắc văn hóa riêng của người Việt qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn. Ngoài ra, luận án cũng lưu ý tới các hiện tượng hoán dụ tri nhận, hòa trộn ý niệm trong mối tương quan với ẩn dụ ý niệm. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- - Hệ thống hóa các vấn đề Ngôn ngữ học tri nhận làm cơ sở lí thuyết trực tiếp cho đề tài. - Tìm hiểu ý niệm “đồ ăn” và miền ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; xây dựng cấu trúc của miền, xác định và phân tích điển dạng thông qua phân tích khối liệu và điều tra xã hội học. - Khảo sát, nghiên cứu các miền ý niệm khác có quan hệ ẩn dụ với miền ý niệm “đồ ăn”, xác lập hệ thống ánh xạ, nhận diện cơ chế ánh xạ và hòa trộn ý niệm giữa các miền. - Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” nổi bật. - Chắt lọc và lí giải những giá trị văn hóa, bản sắc tư duy dân tộc qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”. - So sánh, đối chiếu với tiếng Anh trong các trường hợp cần thiết: giá trị tri nhận tương đương nhưng khác biệt về phương thức; hoặc phương thức tương tự nhưng có ý nghĩa khác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiện cứu của đề tài là toàn bộ nội hàm tri nhận, cấu trúc, đặc trưng, cơ chế hoạt động và các vấn đề liên quan của hệ thống ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là toàn bộ hệ thống ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” tiếng Việt từ truyền thống đến hiện đại, trong mối quan hệ tổng thể từ miền nguồn, miền đích, hệ thống ánh xạ và các giá trị văn hóa, tư duy liên quan. Đề tài chủ yếu tiến hành khảo sát ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” thông qua ngôn ngữ tự nhiên, ca dao, tục ngữ, thành ngữ - nơi lưu giữ quan niệm sống, tri thức văn hóa dân gian của người Việt; ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại, phim ảnh, báo chí đương thời để nhận diện ẩn dụ ý niệm trong truyền thống cũng như trong đời sống hiện nay người Việt. Ngữ liệu tiếng Anh dùng để đối chiếu trong luận án được trích xuất từ kho Ngôn ngữ khối liệu Anh (British National Corpus), một công cụ tra cứu văn bản tại website http://www.natcorp.ox.ac.uk/. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, miêu tả - Thủ pháp thống kê, phân loại - Phương pháp điều tra xã hội học - Phương pháp so sánh 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về lí luận Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần củng cố lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam. Luận án sẽ góp phần chứng minh ẩn dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy. 5.2. Về thực tiễn
- Luận án là công trình vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt để phân tích, đánh giá ngữ liệu văn bản học và ngôn ngữ sinh hoạt. Luận án đặt ý niệm “đồ ăn”, ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong mối quan hệ với văn hóa Việt Nam, dùng văn hóa để lí giải các tiên ước tri nhận; ngược lại, thông qua ẩn dụ ý niệm để nhận diện các yếu tố văn hóa. Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể sử dụng như một ví dụ về văn hóa Việt Nam để truyền bá, giới thiệu hoặc ứng dụng vào việc giảng dạy, nghiên cứu về ẩn dụ, văn hóa Việt Nam hoặc giảng dạy tiếng Việt. Tóm lại, luận án là công trình bậc tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” theo quan điểm ngôn ngữ tri nhận. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương: - Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu và cơ sở lí thuyết - Chương 2: Miền ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt - Chương 3: Ánh xạ ẩn dụ, pha trộn miền ý niệm “đồ ăn” với các miền ý niệm khác trong tiếng Việt - Chương 4: Hệ thống ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu 1.1.1. Sơ lược về Ngôn ngữ học tri nhận và nghiên cứu ẩn dụ ý niệm Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự hình thành của Ngôn ngữ học tri nhận những năm 70 của thế kỉ XX. Công trình đầu tiên đánh dấu khuynh hướng này chính là Metaphors We Live By (Chúng ta sống trong ẩn dụ) [149] của G. Lakoff và M. Johnson xuất bản năm 1980. Tác giả khẳng định “Hệ thống ý niệm thông thường của chúng ta, dựa vào đó chúng ta vừa suy nghĩ vừa hành động, chủ yếu có tính ẩn dụ trong bản chất”. Các tác giả như G. Lakoff, M. Johnson, Z. Kovecses, G. Fauconnier, M. Turner, C. Fillmore… đã đưa ra một số lí thuyết, khái niệm mới như nghiệm thân, khung tri nhận, ẩn dụ ý niệm, ánh xạ, miền ý niệm, không gian tinh thần, pha trộn ý niệm… Các ứng dụng thực hành về ẩn dụ ý niệm về các đối tượng tri nhận như cảm xúc [140], không-thời gian [155], tình dục [134]…thu được những kết quả rộng khắp trên các lĩnh vực thi ca [143], [151], giáo dục [127], báo chí [141], điện ảnh, chính trị [137] và đặc biệt là ngôn ngữ thường ngày; trong các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, chẳng hạn như tiếng Ma-rốc [125], tiếng Trung [161]… Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối quan hệ mật thiết giữa ẩn dụ ý niệm và văn hóa, trong sự ràng buộc giữa con người – ngôn ngữ – xã hội,
- coi ẩn dụ ý niệm là cánh cửa tìm hiểu tâm trí, tư duy con người cũng như các đặc trưng xã hội. Ở Việt Nam, Ngôn ngữ học tri nhận chính thức được xướng danh trong Ngôn ngữ học tri nhận nhìn từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt [101] của Lý Toàn Thắng và được định vị bởi nhiều học giả Lý Toàn Thắng; Trần Văn Cơ [12], [15]; Nguyễn Đức Tồn [112]; Nguyễn Thiện Giáp [28]; Nguyễn Văn Hiệp [40]… Ẩn dụ ý niệm trở thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm đặc biệt trong nghiên cứu tri nhận ở Việt Nam. Các công trình đề cập đến đối tượng này chia thành hai hướng: nghiên cứu trọng tâm về ẩn dụ ý niệm như các nghiên cứu của Phan Thế Hưng (2010); Võ Kim Hà (2011); Hà Thanh Hải (2011); Trịnh Thị Thanh Huệ (2012); Trần Thị Phương Lý (2012); Nguyễn Thị Bích Hạnh (2014); Phạm Thị Hương Quỳnh (2015)…; và nghiên cứu về vấn đề tri nhận khác trong đó có một phần nội dung dành cho ẩn dụ ý niệm như luận án của Ly Lan (2012); Nguyễn Ngọc Vũ (2012); Trần Bá Tiến (2013); Vi Trường Phúc (2013); Huỳnh Ngọc Mai Kha (2015); Nguyễn Thu Quỳnh (2015)… Trong khuôn khổ và mục tiêu của luận án, chúng tôi chỉ trình bày dưới đây vấn đề có liên quan trực tiếp nhất tới đề tài, đó là tình hình nghiên cứu ẩm thực trong Ngôn ngữ học tri nhận trong và ngoài nước. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ẩm thực trong Ngôn ngữ học tri nhận 1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Trên thế giới, ngay từ cuốn sách kinh điển đầu tiên [149], G. Lakoff và M. Johnson trong hệ thống các ẩn dụ ý niệm thường gặp đã nhắc đến ẩn dụ: “IDEAS ARE FOOD” (tr.47) Tác giả Kovecses khi nêu những miền nguồn và miền đích phổ biến trong cuốn Metaphor: A Practical Introduction [141] cũng đã liệt kê miền nguồn “Cooking and Food” [tr.20], và nhắc tới các các ẩn dụ ý niệm liên quan. Ngoài ra, các ẩn dụ ý niệm trong tiếng Anh SEX IS EATING [134], THE NEED FOR INFORMATION-IS-HUNGER, THINKING IS EATING [139]; tiếng Ma-rốc: TEMPERAMENT IS FOOD, LEARNING IS EATING, UNDERSTANDING IS TASTING … Trong khả năng bao quát của chúng tôi, ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trên thế giới đã được quan tâm ở mức độ nhất định và gọi tên nhiều ẩn dụ thú vị. 1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Nằm trong xu hướng bắc cầu từ Ngôn ngữ học truyền thống sang Ngôn ngữ học tri nhận, luận văn [100] của Đinh Phương Thảo (2008) sau khi nghiên cứu trường từ vựng thức ăn về hệ thống, cấu trúc, đặc điểm ngữ nghĩa đã dành chương 3 đề cập tới một số ẩn dụ ý niệm liên quan đến thức ăn: THỜI GIAN LÀ THỨC ĂN, CON NGƯỜI LÀ THỨC ĂN. Luận văn [9] của Trần Thị Quế Chi (2011) cũng nhắc tới ẩn dụ ý niệm liên quan đến ăn uống: TÌNH DỤC LÀ ĂN UỐNG.
- Không đi theo lí thuyết tri nhận nhưng luận án [80] của Ngô Minh Nguyệt có thể coi là công trình chuyên sâu nhất về đối tượng nghiên cứu ẩm thực. Tuy nhiên, luận án này quá thiên về tiếng Hán; các tìm tòi và kết luận về tiếng Việt còn ít. 1.1.3. Đánh giá chung Đến nay ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu độc lập nào tập trung tìm hiểu một cách thấu đáo, trọn vẹn về ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn”, những nghiên cứu đã có là nền tảng cơ sở và là sự gợi mở để chúng tôi triển khai đề tài “Ẩn dụ ý niệm miền "đồ ăn" trong tiếng Việt”. 1.2. Cơ sở lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận là một trào lưu nghiên cứu đặt ngôn ngữ trong mối quan hệ với tâm lí. Với sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước, các vấn đề lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận ngày càng được phát triển và phổ biến rộng rãi, nhiều khái niệm của khoa học tri nhận đã trở nên quen thuộc. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ trình bày những vấn đề lí thuyết là cơ sở trực tiếp cho quá trình nghiên cứu, các vấn đề khái quát căn bản, được coi là hệ thống tri thức nền của khoa học tri nhận nói chung, Ngôn ngữ học tri nhận nói riêng sẽ không được đề cập ở đây. 1.2.1. Tính nghiệm thân Nguyên lí cốt lõi của Ngôn ngữ học tri nhận là “Dĩ nhân vi trung”, tính nghiệm thân là giả thuyết được nhiều tác giả quan tâm như Lakoff và Johnson (1980), Margaret Wilson (2002), Tim Rohrer (2007), Lawrence Sapiro (2011). Một cách khái quát, thân thể con người là yếu tố ảnh hưởng đến kinh nghiệm, là cơ sở kích hoạt các ý niệm tạo thành ẩn dụ; mặt khác các kinh nghiệm đã có cũng chi phối cách nhận thức thế giới, chế biến các kinh nghiệm mới của con người. 1.2.2. Ý niệm và ẩn dụ ý niệm 1.2.2.1. Ý niệm Ý niệm (concept) là đơn vị cơ bản của Ngôn ngữ học tri nhận, có đặc trưng miêu tả, đặc trưng tình cảm, ý chí và hình tượng. Hệ thống ý niệm không có ranh giới rõ rệt, cấu trúc ý niệm là cấu trúc trường-chức năng gồm có trung tâm và ngoại vi. Ý nghĩa của ý niệm là tổng hòa hình bóng-hình nền. Có bốn kiểu mô hình tri nhận thường gặp trong quá trình ý niệm hóa: mô hình mệnh đề, mô hình sơ đồ hình ảnh, mô hình ẩn dụ, mô hình hoán dụ. 1.2.2.2. Ẩn dụ ý niệm Ẩn dụ ý niệm là sự ý niệm hóa một miền tinh thần qua một miền tinh thần khác, được gọi là sự ánh xạ (mapping) có hệ thống từ một miền nguồn sang một miền đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận (mô hình ẩn dụ) giúp lĩnh hội miền đích cụ thể, hiệu quả hơn. Ngôn ngữ học tri nhận phân biệt ẩn dụ ý niệm và ẩn dụ ngôn ngữ (chỉ là hình thức của ẩn dụ ý niệm); và coi so sánh là thể yếu của ẩn dụ. Ẩn dụ được phân loại thành: ẩn dụ cấu trúc; ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng. 1.2.3. Miền, miền nguồn, miền đích và ánh xạ
- 1.2.3.1. Miền Miền hay miền ý niệm là bộ tập hợp các ý niệm gần gũi về nội dung tinh thần như các thực thể tri nhận, các thuộc tính, các quan hệ. Mỗi miền ý niệm cũng gồm nhiều nhóm ý niệm thuộc các phạm trù khác nhau và tồn tại các điển dạng. 1.2.3.2. Miền nguồn, miền đích Miền nguồn (source domain) và miền đích (target domain) là thuật ngữ quy chiếu tới các miền ý niệm trong cấu trúc ẩn dụ ý niệm. Miền nguồn thường cụ thể, trực quan, dễ nhận biết; miền đích có xu hướng trừu tượng, khó xác định, mới mẻ với nhận thức hoặc kinh nghiệm. Miền ý niệm có tính độc lập tương đối, còn miền nguồn-đích gắn chặt với ẩn dụ ý niệm. 1.2.3.3. Ánh xạ Ánh xạ (mapping) là sự phóng chiếu giữa những yếu tố của miền nguồn và những yếu tố tương ứng của miền đích. Bản chất của ánh xạ là cố định, đơn tuyến và cục bộ. Cơ chế của ánh xạ là được kích hoạt căn cứ vào cơ thể,kinh nghiệm và tri thức. Thuyết pha trộn ý niệm là một cách nhìn khác hơn về ánh xạ. Đó là sự tích hợp của bốn không gian tinh thần với quan hệ ánh xạ đa chiều. 1.2.4. Điển mẫu Điển mẫu (prototype) là khái niệm gắn với phạm trù tri nhận và sự phạm trù hóa. Đó là thành viên điển hình, ở vị trí trung tâm của phạm trù, đó là thí dụ tốt nhất, nổi bật nhất. 1.2.5. Mô hình tri nhận Mô hình tri nhận (cognitive model) những cách thức chung để ý niệm hóa thế giới khách quan. Có bốn kiểu mô hình tri nhận: - Mô hình mệnh đề. - Mô hình sơ đồ hình ảnh. - Mô hình ẩn dụ. - Mô hình hoán dụ. 1.2.6. Pha trộn ý niệm Pha trộn ý niệm là sự tích hợp của bốn không gian tinh thần (không gian chung, không gian nhập 1 – 2, không gian pha trộn) với quan hệ ánh xạ đa chiều. Trong mô hình pha trộn ý niệm, các yếu tố nhất định được đánh dấu, làm nổi bật, tương tác và tạo thành một cấu trúc ý niệm mới trong không gian pha trộn. Tiểu kết
- Chương 2 MIỀN Ý NIỆM “ĐỒ ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT Dẫn nhập 2.1. Về quan niệm “đồ ăn” Quan niệm về “đồ ăn” trong luận án là: vật do con người tạo ra để đưa vào nuôi sống cơ thể hàng ngày [nói khái quát]. 2.2. Tổ chức của miền ý niệm “đồ ăn” 2.2.1. Ý niệm “đồ ăn” 2.2.1.1. Khái niệm hạt nhân của ý niệm “đồ ăn” Khái niệm “đồ ăn” gồm 17 thành tố cấu tạo thành hai bậc, được hình thành nhờ các kích thích mang tính kinh nghiệm, cụ thể: - Bậc 1: Thực thể đồ ăn, Mùi vị, Tính chất, Hình thức, (Hoạt động) Chế biến, (Hoạt động) Ăn. - Bậc 2: Đồ dùng bày biện, Công thức, Nguyên liệu , Gia vị, Đồ dùng, Trình bày, Vật dụng, Cảm giác, Trạng thái, Sự kiện, Chủ thể. 2.2.1.2. Các giá trị ngoại vi của ý niệm “đồ ăn” Ý niệm có cấu trúc trường-chức năng được tổ chức theo mô hình trung tâm và ngoại vi. Nếu như ở trung tâm là một khái niệm hạt nhân thì ở ngoại vi là một dải các yếu tố văn hóa thống nhất với nhau tạo thành trường giá trị của ý niệm, gồm: Văn hóa dân tộc, Văn hóa nhóm xã hội, Văn hóa cá nhân, Văn hóa vùng, Văn hóa tộc người. 2.2.2. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “đồ ăn”; điển mẫu 2.2.2.1. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “đồ ăn” Trên cơ sở các căn cứ đã phân tích về thành tố của ý niệm “đồ ăn”, chúng tôi tiến hành khảo sát, đối chiếu hai từ điển [85], [121] và hệ thống hóa được 910 đơn vị biểu thị phương diện khác nhau của miền “đồ ăn”; chia thành 5 nhóm: Thực thể, Đặc điểm, Đồ dùng, Hoạt động, Cảm giác, cảm nhận. Giữa chúng cũng có mối liên hệ mật thiết theo kiểu kết chuỗi, do sự kích thích của thành tố trung tâm nhóm này tới thành tố trung tâm của nhóm kia. 2.2.2.2. Điển mẫu Điển dạng là thành viên điển hình một tập hợp, đó là thí dụ tốt nhất. Thông qua khoanh vùng ngữ liệu và điều tra xã hội học, 5 điển dạng của miền ý niệm “đồ ăn” được xác định là: Cơm, Mặn, Bát, Ăn, Đói. 2.2.3. Cấu trúc hình bóng-hình nền của miền ý niệm “đồ ăn” Hình nền rộng nhất, chủ đạo trong sự tạo thành các ý niệm “đồ ăn” chính là nền “đồ ăn”. Các ý niệm tạo hình bóng trên nền này có “món ăn”, các nguyên liệu “lương thực”, “thực phẩm”, “gia vị”. Các vùng nền “tính chất”, “mùi vị”, “đặc điểm” có sự giao thoa với hình nền “đồ ăn”. Hai vùng nối tiếp vào biên giới của nền đồ ăn là “hoạt động với đồ ăn” (cơ sở của ý niệm về “chế biến”, “thưởng thức” đồ ăn) , “vật dụng liên quan đến đồ ăn” (bao gồm các ý niệm về vật dụng “chế biến”, “bày biện”, “thưởng thức”). Cuối cùng là vùng “con người”, là nơi để các ý niệm về “con người”, “cảm giác”, “trạng thái” liên quan đến món ăn đổ bóng lên.
- 2.3. Mô hình tri nhận miền ý niệm “món ăn” 2.3.1. Mô hình mệnh đề Mô hình mệnh đề là cấu trúc tri thức về quan hệ giữa ý niệm với ý niệm, được biểu hiện bằng mệnh đề ngôn ngữ. Một số mô hình mệnh đề tiêu biểu về miền ý niệm “đồ ăn”. (1) Mệnh đề bộc lộ chức năng - Cơm tẻ là mẹ ruột - Quà ngon chả giò, quà no bánh đúc. (2) Mệnh đề khái quát đặc điểm - Đũa tre một chiếc khó cầm/ Nằm đêm nghĩ lại, thương thầm bạn xưa - Vuông bánh chưng tám góc (3) Mệnh đề thể hiện đánh giá - Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê. - Nhất phao câu, nhì đầu cánh (4) Mệnh đề tổng kết kinh nghiệm - Cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ - Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè (5) Mệnh đề thể hiện cách ứng xử - Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau - Nhiều tiền mua thịt, ít tiền mua xương 2.3.2. Mô hình sơ đồ hình ảnh Mô hình sơ đồ hình ảnh là các mô hình cấu trúc hóa kiến thức về không gian, hình dạng hoặc sự dịch chuyển bằng hình ảnh. Ví dụ: mâm món ăn đũa bát người ăn Hình 2.3.2a. Sơ đồ hình ảnh “mâm cơm” 2.3.3. Mô hình ẩn dụ Mô hình ẩn dụ là mô hình ý niệm hóa, giải thích, suy luận về các sự vật trừu tượng thông qua một miền ý niệm khác cụ thể hơn, trực quan hơn, gần gũi hơn. Với miền ý niệm “đồ ăn”, ẩn dụ cũng có vai trò quan trọng như với mọi ý niệm khác.
- 2.3.4. Mô hình hoán dụ Mô hình hoán dụ là mô hình cấu trúc lại trên cơ sở một mô hình khác thuộc cùng một miền ý niệm dựa trên hiệu lực điển dạng của thực thể. Ví dụ: ăn cơm là ăn cơm cùng các loại thức ăn khác, tương tự như nấu cơm, mâm cơm, bữa cơm… Đây là một hoán dụ BỘ PHẬN THAY THẾ CHO CHỈNH THỂ. - Cơm Cơm - Canh (- Canh - Xào Hoán dụ - Xào - Kho - Kho - v.v… - v.v…) (1) Các thành tố của chỉnh thể (2) Bộ phận thay thế cho chỉnh thể Hình 2.3.4a. Mô hình tri nhận hoán dụ “cơm” Tiểu kết
- Chương 3 ÁNH XẠ ẨN DỤ, PHA TRỘN MIỀN Ý NIỆM “ĐỒ ĂN” VỚI CÁC MIỀN Ý NIỆM KHÁC TRONG TIẾNG VIỆT Dẫn nhập 3.1. Sự vận động ý niệm của các điển dạng 3.1.1. Mô hình tỏa tia của “Cơm” 2A – Thức ăn nói chung 3A - Cái thiết yếu 3B – Thù lao, bổng lộc ĐỒ ĂN VẬT CHẤT 2B – (Quả cây) nhỏ/cùi 2 3 3C – Thành quả 9 – Ăn trộm 1 CƠM 3D – Tài sản 8 – (Nhạc cụ) nhỏ 7 – (Mụn) sần GIA ĐÌNH 4A – Lập gia đình 4 6 – Chuyện hàng ngày 4B – Quan hệ vợ chồng 5 – Thuốc phiện Hình 3.1.1. Mô hình tỏa tia 4C – Vợ/chồng của “Cơm” 3.1.2. Mô hình tỏa tia của “Ăn” 3B- Tiêu thụ 3C- Thụ hưởng 2C- Đồ 3A- Thu nạp 3D- Hứng chịu dùng khi ăn 3E- Giành đoạt 2B- Tham gia hoạt động có ăn TIẾP uống 2 NẠP NĂNG 3 NHẬN 3G-Hấp thu, LƯỢNG ngấm 2A- Nhai 4A- Vừa khớp 1 4 Quan hệ 8 4B- Hòa hợp thân xác ĂN HÒA HỢP 7 5A- Làm tiêu hao 5 Tương LAN 5A- Mở rộng đương 6 RA phạm vi Thực hiện Hình 3.1.2. Mô hình tỏa tia của “Ăn”
- 3.1.3. Mô hình tỏa tia của “Mặn” 2A- Nhiều muối 2B- Tham lam vật chất 2 Quan hệ thân 4 CAO HƠN xác BÌNH 1 THƯỜNG 2C- Tình cảm sâu đậm MẶN 2D- Hình thức đẹp 3 Có thịt cá Hình 3.1.3. Mô hình tỏa tia của “Mặn” 3.1.4. Mô hình tỏa tia của “Bát” Lượng 3 (thức ăn.v.v..) Đồ dùng trong bữa ăn 2 1 BÁT 4 VẬT CHẤT 4b- Tiền bạc 4A- Cái ăn, nguồn sống Hình 3.1.4. Mô hình tỏa tia của “Bát” 3.1.5. Mô hình tỏa tia của “Đói” 2A- Thiếu lương thực 2 1 SỰ ĐÓI THIẾU THỐN 2B- Thiếu những thứ thiết yếu Hình 3.1.5. Mô hình tỏa tia của “Đói” Nhận xét: Những đặc điểm các điển mẫu có thể coi là đặc điểm chung của năm nhóm ý niệm trong miền“đồ ăn”, các xu hướng vận động của ý niệm cũng định hướng cho việc nghiên cứu: tìm hiểu các miền nguồn làm cơ sở tri nhận cho các miền đích “đồ ăn” có tính trực quan thấp (“mùi vị” là một ví dụ), tìm hiểu sự ánh xạ từ các miền nguồn “đồ ăn” tới các miền đích đã được khoanh vùng thông qua các nghĩa phái sinh trong các mô hình tỏa tia (tiền bạc, con người…).
- 3.2. Ánh xạ ẩn dụ giữa miền ý niệm “đồ ăn” với các miền ý niệm khác 3.2.1. Miền ý niệm “đồ ăn” là miền đích 3.2.1.1. Ánh xạ từ miền nguồn thực thể tới miền ý niệm “đồ ăn” “Thực thể” là cái có sự tồn tại độc lập, là cái có thật, có thể nhận biết bằng giác quan, là cái tự mình xác định vị thế hoặc hoạt động trong thực tại, không phải phụ thuộc vào cái gì khác. Các đối tượng thuộc miền hoạt động, mùi vị, cảm giác được tạo một hình ảnh tượng trưng trong tâm trí con người, và các đặc điểm khác của thực thể cũng theo đó ánh xạ tới và được biểu hiện cụ thể trong các phát ngôn, giao tiếp. Có một hình dạng giúp cho sự nhận diện đối tượng (thấy ngon, thấy thơm), đo đếm (mùi nặng, vị mạnh)… biến đối tượng vô hình thành hữu hình để chống đỡ (chống đói), thay đổi (xóa đói, khử chua)… Hình dạng này không nhất định là hình tròn, hình vuông, hình hộp hay hình cầu, chỉ cần đó là một “thể” cố định, có khả năng xác định vị trí trong không gian. Sự ánh xạ từ miền nguồn “thực thể”, (kéo theo là miền “vật chứa” và “vật chất”) giúp ý niệm hóa về các “hoạt động”, “mùi vị”, “cảm giác” liên quan tới “đồ ăn”, tạo thành lớp các ẩn dụ bản thể (ẩn dụ thực thể, ẩn dụ vật chất, ẩn dụ vật chứa). 3.2.1.2. Ánh xạ từ miền nguồn không gian tới miền ý niệm “đồ ăn” Đối với miền ý niệm “đồ ăn”, có ba nhóm ý niệm “hành động”, “đặc điểm, tính chất”, “cảm giác, cảm nhận” mang tính trừu tượng có xu hướng trở thành miền đích của các ánh xạ từ miền nguồn “không gian”. Hệ thống ánh xạ này tạo thành ẩn dụ định hướng ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt. Ví dụ: những trải nghiệm phương vị của con người cộng với các yếu tố văn hóa đã được vận dụng để tri nhận về “mùi vị”, như sự gia tăng mùi vị tương ứng với định hướng lên (ngọt lên, mặn lên, đậm lên…) còn sự giảm nhẹ tương ứng với định hướng xuống (nhạt đi, loãng ra); tạo thành ĐẬM (MÙI VỊ) LÀ LÊN, NHẠT (MÙI VỊ) LÀ XUỐNG. 3.2.2. Miền ý niệm “đồ ăn” là miền nguồn 3.2.2.1. Ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” tới miền ý niệm “thời gian” Trong hệ thống ánh xạ từ miền “đồ ăn” đến miền “thời gian” các thành tố được kích hoạt bao gồm các món ăn, sự kiện hoạt động để ý niệm hóa cho các đơn vị và sự tuần hoàn của thời gian. Ví dụ, trong miền nguồn “đồ ăn”, các món ăn phổ biến nổi bật bao gồm có món thường ngày (cơm, quà sáng), các món gắn với mùa (cốm, thịt đông, kem…), các món ăn truyền thống trong các dịp quen thuộc (bánh chưng, bánh trôi – bánh chay, bánh nướng – bánh dẻo…). 3.2.2.2. Ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” tới miền ý niệm “con người” Trong xu hướng nhận thức về “con người”, miền ý niệm “đồ ăn” cũng được huy động hầu hết các tiểu vùng để giúp cấu trúc hóa các ý niệm liên quan: món ăn, gia vị, đặc điểm, hoạt động…: Những ánh xạ này không khó bắt gặp trong ngôn ngữ hàng ngày: lẩu thập cẩm trong đầu, nghiên cứu chay, món ăn tinh thần (món ăn~ tư tưởng,
- sản phẩm tư tưởng); xào ý tưởng, tiêu hóa lí luận (hoạt động ~ tư duy); giả thuyết ngon ăn, bài học khó nhằn (đặc điểm~ tư tưởng); đói chữ, ngán lí thuyết (cảm giác~ sản phẩm tinh thần… 3.2.2.3. Ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” tới các miền đích “tự nhiên, xã hội” Hiện thực tự nhiên và xã hội bao gồm tất cả những yếu tố thực thể và phi thực thể, trực quan và trừu tượng, tồn tại trong thời gian hoặc không gian, hoặc cả không-thời gian… Sự xác lập hệ thống ánh xạ này dựa trên sự tương đồng về hướng của các chiếu xạ từ miền “đồ ăn” tới các ý niệm thuộc miền tự nhiên, xã hội. Chẳng hạn, các sự vật tự nhiên, xã hội đều có thể được nhìn nhận thông qua các thực thể thuộc ý niệm “đồ ăn”: cà bát, mận cơm, quả mâm xôi, bông so đũa, đậu đũa, vùng lòng chảo…/bánh xe, mũ nồi, mâm pháo, đĩa hát… 3.3. Pha trộn miền ý niệm “đồ ăn” với các miền ý niệm khác 3.3.1. Mô hình ẩn dụ ba miền không gian pha trộn Các cấu trúc ý niệm kép thường đem lại một ý niệm hoàn toàn mới, là kiểu “dồn nén” ý niệm trong một không gian tinh thần pha trộn như các ý niệm kép có liên quan tới miền “đồ ăn”. Về mặt ngôn ngữ, các cấu trúc này có thể ở dạng danh từ-danh từ (cơm bụi, da bánh mật), hay danh từ-tính từ (tin sốt dẻo) hay danh từ-động từ (bánh vẽ, đậu lướt ván); hoặc động từ-động từ (ngủ nướng), tính từ-danh từ (đứt bữa), động từ-danh từ (muối mặt)… 3.3.2. Mô hình ẩn dụ bốn miền không gian pha trộn Miền ý niệm “đồ ăn” có sự hoạt động pha trộn ý niệm theo mô hình 4 miền như (nấu cháo điện thoại, chế biến gỗ) hoặc các thành ngữ ẩn dụ (vợ chồng như đũa có đôi; bát đũa xô nhau; rổ rá cạp lại…). 3.3.3. Mô hình ẩn dụ phức hợp Các mô hình pha trộn nhiều khi cũng chỉ tồn tại ở dạng khái quát, các ẩn dụ thực tiễn luôn phong phú, đa dạng hơn nhiều như sự xuất hiện của các mô hình phức hợp liên quan đến ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”: ẩn dụ - hoán dụ, ẩn dụ trùng phức. 3.4. Cơ chế ánh xạ ẩn dụ giữa miền ý niệm “đồ ăn” và các miền ý niệm khác 3.4.1. Cơ chế ánh xạ ẩn dụ dựa trên tri thức Trong miền “đồ ăn” tri thức cung cấp cho con người những hiểu biết về các món ăn, các loại đồ dùng, các kiểu chế biến, các đặc điểm mùi vị, cảm giác… Tri thức về “đồ ăn” cho biết các hệ quả, chức năng…của đồ ăn và các yếu tố liên quan. Ánh xạ ẩn dụ thông thường, trước nhất sẽ được kích hoạt bởi các tri thức, giống như Lakoff nhận xét trong [152]: “Mặc dù phần lớn hệ thống ý niệm của chúng ta là ẩn dụ, một phần đáng kể của nó là phi ẩn dụ. Hiểu biết ẩn dụ được căn cứ vào sự hiểu biết phi ẩn dụ”. 3.4.2. Cơ chế ánh xạ ẩn dụ dựa trên kinh nghiệm Sự tương đồng trong của các kinh nghiệm trong trí não con người như những liên hệ ngầm, khi một ý niệm là đối tượng tri nhận, các thành tố đặc trưng sẽ được huy động, mỗi thành tố đặc trưng sẽ kết nối với những kinh
- nghiệm tương tự ở một miền ý niệm nào đó, nếu kết nối đó được cấu trúc hóa, chúng ta sẽ có một ẩn dụ. Các dạng kinh nghiệm tri nhận bao gồm kinh nghiệm thuộc lĩnh vực vật lí, kinh nghiệm thuộc lĩnh vực tâm lí, kinh nghiệm thuộc lĩnh vực văn hóa. 3.4.2.1. Kinh nghiệm thuộc lĩnh vực vật lí Cơ chế của ánh xạ có thể là kinh nghiệm thuộc lĩnh vực vật lí, biểu hiện của cơ chế này có thể các ánh xạ được kích hoạt dựa trên kiểu dáng, hình dạng, màu sắc, đường nét, kích thước… (nói chung là các thuộc tính có thể tri giác bằng mắt) của các món ăn, đồ dùng; hoặc diễn biến, quá trình, cách thức của các hoạt động trong mối liên hệ với miền “đồ ăn” Ví dụ, trong kinh nghiệm của người Việt bữa ăn có “kích cỡ” nhỏ hơn bữa cỗ, lớn hơn nữa là bữa tiệc. Bởi vậy, khi nói: “Lễ hội pháo hoa là một bữa tiệc màu sắc” có hàm chứa kinh nghiệm vật lí về kích cỡ, được hiểu là sự kiện đó có quy mô lớn, phong phú. 3.4.2.2. Kinh nghiệm thuộc lĩnh vực tâm lí Kinh nghiệm thuộc lĩnh vực tâm lí là những trải nghiệm về tinh thần như cảm giác, ý chí, tình cảm, nhận thức… Cơ chế ánh xạ dựa trên kinh nghiệm tâm lí là những tương ứng giữa miền nguồn với miền đích, kết nối các trải nghiệm tinh thần đó. - Rằng hay thì thật là hay/ Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào - Thuộc như cháo chảy 3.4.2.3. Kinh nghiệm thuộc lĩnh vực văn hóa Văn hóa là thực tiễn được sáng tạo bởi con người, do con người tạo ra và chi phối lối sống, nếp nghĩ của các cộng đồng cùng chia sẻ những giá trị văn hóa. Điều này có quan hệ chặt chẽ với thế giới tinh thần của con người, chẳng hạn người Việt Nam và người Hàn Quốc, Trung Quốc đều có thói quen ăn thịt chó, nhưng chỉ có người Việt mới có quan niệm về “số vận” (đen-đỏ) gắn với món ăn này. Cơ chế ánh xạ dựa trên kinh nghiệm văn hóa được thể hiện rất phong phú, đa dạng. - Ăn trông nồi, ngồi trông hướng - Đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành 3.4.3. Cơ chế ánh xạ ẩn dụ dựa vào cơ thể Với quan niệm “Dĩ nhân vi trung”, con người được lấy làm thước đo thế giới, đương nhiên, cơ chế ánh xạ không thể tách rời yếu tố cơ thể. Đặc điểm cơ thể được sử dụng làm căn cứ ánh xạ bao gồm cả cấu tạo cơ thể và các trải nghiệm sinh lí. Cấu tạo cơ thể người là căn cứ quan trọng cho các ánh xạ không gian. Với người Việt, các định hướng gắn với đặc điểm cơ thể rất rõ: đầu ~ trên, chân ~ dưới… Các ánh xạ được kích thích dựa trên cơ chế này hầu hết là ánh xạ định hướng: “Ăn trên ngồi trốc” hoặc “Lên mâm lên bát”.
- Ánh xạ có sinh lí học dựa trên sự liên hệ giữa những cảm giác sinh lí của cơ thể với đồ ăn và cảm giác sinh lí của cơ thể với các đối tượng khác(Ví dụ: “Đói văn hóa đọc”; “Trái tim đập cồn cào cơn đói”) Tiểu kết
- Chương 4 HỆ THỐNG ẨN DỤ Ý NIỆM “ĐỒ ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT Dẫn nhập 4.1. Phân loại ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt 4.1.1. Ẩn dụ bản thể ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt “Ẩn dụ ý niệm bản thể cho phép người nói hình dung những kinh nghiệm của mình dưới dạng các thực thể, vật chất, và vật chứa nói chung, không cần định rõ thêm loại thực thể, vật chất hay vật chứa”[144; tr.328] 4.1.1.1 Ẩn dụ thực thể ý niệm “đồ ăn” a. HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỒ ĂN LÀ THỰC THỂ Đồ ăn là sản phẩm do con người tạo ra dùng để ăn, hoạt động liên quan đến đồ ăn bao gồm giai đoạn chế biến, giai đoạn thưởng thức. Ẩn dụ thực thể làm nổi bật tính hoàn chỉnh của các hoạt động này như một vật riêng biệt, có thể tương tác với con người trong cả không gian và thời gian. - Nghĩ đến ăn là sợ. - Bây giờ no đủ, người ta coi trọng nhìn, không coi trọng ăn. Thực thể này có thể chiếm chỗ, là tác nhân của những cảm xúc hay tích cực hoặc tiêu cực, có thể định loại hoặc định lượng, có thể tồn tại các phương diện khác nhau để con người suy luận, đánh giá… b. MÙI VỊ CỦA ĐỒ ĂN LÀ THỰC THỂ Mùi vị không phải là một đối tượng có thể nắm bắt dễ dàng, lại mang tính chủ quan tương đối. Bởi vậy ý niệm hóa mùi vị thông qua ẩn dụ thực thể là một cách thức tri nhận đắc dụng. Mùi vị có thể được nhận diện (thấy thơm, nghe mặn mặn…), có hoạt động, có ảnh hưởng trong cuộc sống. - Cay xé lưỡi. - Và người ta cho hồ tiêu vào, để thêm cái cay nóng có mực thước (Thạch Lam) c. CẢM GIÁC VỚI ĐỒ ĂN LÀ THỰC THỂ Cảm giác về đồ ăn mang tính chủ quan, nhờ ẩn dụ thực thể, người Việt có thể tri nhận về cảm giác đó như những vật xác định, sinh động, gần gũi, dễ nhận diện (thấy đói, thấy no, thấy thèm, thấy chán…) và có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống. - Đói cào ruột - Mẹo đánh gục cơn đói khi giảm béo. - Chán ăn kéo dài gây suy nhược cơ thể. * Đáng chú ý, với quan niệm con người cũng là thực thể, ẩn dụ ý niệm thực thể chính là bậc trên của nhân hóa, hay nhân hóa là một tiểu loại tiêu biểu nhất của ẩn dụ thực thể. 4.1.1.2. Ẩn dụ vật chất ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt a. HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN “ĐỒ ĂN” LÀ CHẤT LỎNG
- Hoạt động liên quan đến đồ ăn chỉ tồn tại trên trục thời gian, không thể tri giác bằng mắt, không phải là vật chất. Trong tri nhận của người Việt, ý niệm này đã được bản thể hóa như một dạng chất lỏng: - Các ông cứ chìm trong ăn nhậu chả mấy mà rước bệnh vào thân. - Anh giám đốc mới nổi bắt đầu bị tiệc tùng cuốn đi liên miên. b. MÙI VỊ ĐỒ ĂN LÀ CHẤT LỎNG, CHẤT KHÍ Mùi vị của đồ ăn cũng là một ý niệm trừu tượng, khó nắm bắt mặc dù có thể tri giác bằng giác quan (khứu giác, vị giác). Trong tiếng Việt, bằng ẩn dụ ý niệm, mùi vị được cấu tạo bằng những “chất” nhất định: chất lỏng và chất khí. - Phố gì chỉ mắt liếc ngang/Cũng nghe vị ngọt chứa chan miệng rồi? - Chén vừng vừa rang xong bốc mùi thơm phưng phức c. CẢM GIÁC VỀ ĐỒ ĂN LÀ CHẤT LỎNG Cảm giác về đồ ăn được tri nhận như các thực thể một cách tượng trưng, Các đặc tính của chất lỏng thường được sử dụng để vật chất hóa cảm giác mà không cần có một hình dạng cụ thể như: lan, chìm, đầy… - Cơn đói nhấn chìm cả đầu óc. - […] cái cảm giác đói đã lan ra cả khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. (Đói – Thạch Lam) 4.1.1.3. Ẩn dụ vật chứa ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt Ẩn dụ vật chứa được xem như hệ quả của ẩn dụ thực thể và ẩn dụ vật chất (còn gọi là chất chứa – container substance). Do đó, có thể thấy ẩn dụ này trong ý niệm “đồ ăn” tương ứng với ẩn dụ thực thể và ẩn dụ vật chất, bao gồm ba nhóm: a. HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỒ ĂN LÀ VẬT CHỨA - Trong bữa ăn phải tránh dùng những từ ngữ không tốt lành. - Khi vào bữa, Bác bưng bát cơm trắng, gắp thêm mấy miếng thức ăn ngon để mời cụ cố (Chuyện về những bữa cơm của Bác Hồ) b. CẢM GIÁC VỀ ĐỒ ĂN LÀ VẬT CHỨA - Làm sao để thoát khỏi cơn thèm chua khi thai nghén. - Ở trong sự no đủ, người ta nhìn cuộc sống dễ dàng quá. c. MÙI VỊ CỦA ĐỒ ĂN LÀ VẬT CHỨA - “Người tình” là kỉ niệm về mối tình Chợ Lớn với mùi thức ăn vây quanh. - Một góc Sapa chìm trong mùi đồ nướng. 4.1.2. Ẩn dụ định hướng ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt “Ẩn dụ ý niệm định hướng cho phép người nói xác lập một tập hợp các ý niệm đích mạch lạc bằng một số định hướng không gian cơ bản của con người, chẳng hạn trên-dưới, trong-ngoài, trung tâm-ngoại vi, và tương tự” [144, tr.328] 4.1.2.1. Định hướng lên-xuống a. ĐỒ ĂN ĐƯỢC HÌNH THÀNH LÀ LÊN, ĐỒ ĂN BỊ HỦY HOẠI LÀ XUỐNG Đồ ăn được hình thành đa phần phải thông qua chế biến, bày biện, chế biến xong đồ ăn cần được thưởng thức trong thời hạn nhất định, quá thời hạn đó thì hương vị, giá trị giảm đi, đồ ăn bị biến chất, phân hủy. Hai quá trình này đối
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 306 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 181 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn