ọ ớ

ế

T ng k t văn h c l p 9 : Ph n truy n

ơ

H  và tên: Đinh Nguy n S n Tùng

Tác giả

Xuất xứ

Thể loại

Ngôi kể

Tóm tắt

Tên tác phẩm

Nhân vật chính

Tình huống truyện

Giá trị nội dung

Giá trị nghệ thuật

Chuyện người con gái Nam Xương

Thể loại: Truyện ngắn Ngôi kể thứ nhất Nhân vật chính :Vũ Nương Tình huống truyện: Khi Trương Sinh nghe lời con nhỏ nghi oan cho Vũ Nương dẫn đến việc Vũ Nương tìm đến cái chết Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình. Nguyễn Dữ(Sống ở thế kỉ XVI). Học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi về ở ẩn. Ông là một người học trò xuát sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đốivới số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng. - Tríc h tron g “Tru yện kì Mạn Lục” (Ghi ché p tản mạn nhữ ng điều kỉ lạ đượ c lưu truy ền). Có ngu

1

ồn gốc từ truy ện dân gian “Vợ chà ng Trư ơng ” - Đượ c viết bằn g chữ Hán , chịu ảnh hưở ng từ truy ện kì Trun g Quố c như ng cũn g khai thác các truy ện cổ dân gian và các

truy ền thuy ết tron g lịch sử, dã sử Việt Na m. - Nhâ n vật chín h thư ờng là nhữ ng ngư ời phụ nữ đức hạn h, kha o khát một cuộ c sốn g yên bình hạn h phú c như

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 3 đó ạ !

ng luôn bị các thế lực tàn bạo và các lễ giáo khắ c nghi ệt xô đẩy vào nhữ ng cản h ngộ éo le, oan khu ất, bất hạn h. Một loại nhâ n vật là nhữ ng ngư ời tri thức tâm huy ết, bất mãn

với thời cuộ c, khô ng chịu trói mìn h tron g vòn g dan h lợi chật hẹp. Chu yện ngư ời con gái Na m Xươ ng là một tron g 20 chu yện của tác phẩ m này

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 5 đó ạ !

Truyện cũ trong phủ Chúa Trịnh (Vũ trung tùy bút) Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động:

Đoạn trích đã phản ánh đời sống xa hoa của phủ chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.

Thể loại:Tùy bút trung đại là một thể văn thuộc loại hình kí, ghi chép những sự việc, con người, phong tục tập quán, những sự kiện cụ thể có thực, qua đó, tác giả bộc lộ những cảm xúc, suy tư và nhận xét, đánh giá của mình. - “Vũ trung tùy bút”( Tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết vào khoảng đầu đời Nguyễn ( đầu thế kỉ XIX). - Gồm 88 mẩu chuyện nhỏ viết theo thể tùy bút. - “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” ghi chép về cuộc sống nơi phủ chúa thời Thịnh Vương Trịnh Sâm. Ngôi kể thứ nhất Nhân vật chính Các vua chúa quan lại thời nhà Lê - Trịnh Tình huống truyện Các chi tiết, sự việc miêu tả về thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và quan lại được đưa ra cụ thể, sinh động, chân thực, khách quan, để tự sự việc lên tiếng nói, đem lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.

Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh, kể về sự ăn chơi xa xỉ của Chúa Trịnh. Chúa cho xây nhiều đền đài cung điện và mỗi tháng Chuá ngự ra Tây Hồ ba, bốn lần và cho nội thị mặc áo giả làm đàn bà buôn bán. Thuyền ghé đi tới đâu thì ghé mua tới đó. Chúa còn cho bọn tay sai đi vơ vét những thứ quý giá của dân gian. Nhà nào có chậu hoa, cây kiểng, chim thú thấy hay đều bị trân dụng. Bọn hoạn quan dựa vào uy quyền của Chúa nhũng nhiễu người dân, làm dân tình than oán khổ sở.

Với thể loại tùy bút, các sự việc được ghi chép theo cảm hứng chủ quan, tản mạn, không gò bó theo hệ thống, kết cấu chặt chẽ, nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, đó là thái độ phê phán thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại hậu cần.

Phạm Đình Hổ(1768- 1839) - Tên chữ là Tùng Niên và Bỉnh Trức,hiệu Đông Dã Tiều tục gọi là Chiêu Hổ -Xuất thân trong dòng dõi thế gia, làm quan đến chức Tuần phủ Sơn Tây dưới triều Lê Cảnh Hưng -Sinh vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. dưới triều Tây Sơn, ông lánh về quê sống đời hàn nho. Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng với ông ra làm quan, dù có nhiều lần từ chức nhưng lại bị triệu ra - Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, ngôn luận và văn học (Tất cả đều viết bằng chữ Hán) - Di sản văn chương của ông tương đối giá trị. Về văn có hai tập “Vũ trung tùy bút” và “Tang thương ngẫu lục”. Về thơ có “Đông Dã học ngôn thi tập” và “Tùng cúc liên mai tứ hữu”

Xuấ t xứ Là 1 tron g 88 mẩu chu yện của “Vũ trun g tùy bút”. Kể lại việc chú a TRị nh Sâm ham mê tuần du triền miê n, hết ngự li cun g Tây Hồ lại đến các li cun g Tử Trầ m, Dũn g Thú

y. Biết tính vua, bọn hoạ n qua n thừa gió bẻ măn g gây ra khô ng biết bao tai họa cho dân lành

Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ mười bốn - trích)

Thể loại “Chí” là thể văn ghi chép sự vật, sự việc Nhân vật chính Người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, quân tướng nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống Ngôi kể: Thứ ba Tình huống truyện: - Vua Quang Trung làm lễ tố cáo trời đất lên ngôi hoàng đế - Vua Quang Trung mở cuộc tuyển binh sĩ ở Nghệ An, doanh trấn - Vua Quang Trung mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng chạp

.- Tron g văn học Việt Na m thời trun g đại, "Ho àng lê nhất thốn g chí" - Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội. - Hai tác giả chính: +Ngô Thì Chí (1753- 1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Tống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.Dâng “Trung hưng sách” bàn kế - Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long giận lắm liền họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Tướng sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người.Nguyễn Huệ cho đắp đàn trên núi tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân hạ lệnh xuất quân. -Đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển thêm hơn 1 vạn lính mở cuộc duyệt binh.Đến Tam Điệp mở tiệc khao quân, chia quân sĩ làm 5 đạo. Đúng tối 30 tết lập tức lên đường. -Trên đường tiến quân ra Bắc, Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng - Cách trần thuật đặc sắc. - Ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian. - Miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính,từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân ( một bên thì xộc xệch, trễ nải, nhát gan; một bên thì xông xáo dũng

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 7 đó ạ !

nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

những toán quân Thanh do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy rơi xuống nước nhiều không kể xiết. Vua tôi Lê Chiêu Thống dìu dắt nhau chạy trốn sang đất Bắc.

mãnh, nghiêm minh). - Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, có tài dụng binh như thần, là người có tổ chức và là linh hồn của những chiến công vĩ đại. - Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê,nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ khôi phục nhà Lê.Sau đó, được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trên đường đi, ông bị bệnh mất tại Bắc Ninh.Nhiều tài liệu nói, ông viết 7 hồi đầu của tác phẩm. +Ngô Thì Du (1772- 1840) anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí,học giỏi nhưng không đỗ đạt. Dưới triều Tây Sơn, ông sống ẩn ở Hà Nam.Thời nhà Nguyễn ông làm quan đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả của 7 hồi tiếp theo. - Ba hồi cuối có thể do 1 người khác viết đầu thời Nguyễn.

là một tác phẩ m văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt đượ c nhữ ng thàn h côn g xuất sắc cả về nội dun g cũn g như ngh ệ thuậ t. - Với nội dun g viết về nhữ ng sự

kiện lịch sử diễn ra tron g kho ảng ba mư ơi năm cuối thế kỉ XVII I - đầu thế kỉ XIX ( cu ối Lê đầu Ngu yễn) ,tác phẩ m chịu ảnh hưở ng lối viết tiểu thuy ết chư ơng hồi của Trun g

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 9 đó ạ !

Quố c cũn g như qua n niệ m văn sử bất phâ n - nét đặc thù của văn học trun g đại Việt Na m. - Nếu xét về tính châ n thực lịch sử, tác phẩ m có thể đượ c xếp vào loại kí sự

lịch sử. Như ng xét về hình thức kết cấu, ngh ệ thuậ t khắ c họa nhâ n vật, các h miê u tả, tự sự... thì tác phẩ m lại man g đậm chất tiểu thuy ết. Có lẽ vì thế mà "Ho àng Lê nhất

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 11 đó ạ !

thốn g chí" đượ c xếp vào loại tiểu thuy ết lịch sử. - Tác phẩ m gồm có tất cả 17 hồi, trên đây trích phầ n lớn hồi thứ mư ời bốn, viết về sự kiện vua Qua ng Trun g đại phá quâ n Tha

nh.

Những đứa trẻ (Trích “Những ngày thơ ấu)

Thể loại Hồi kí (Gồm 13 chương) Nhân vật chính Chú bé Aliôsa Pêskôp Ngôi kể Ngôi kể thứ nhất Tình huống truyện

Gorky thể hiện tài năng vượt trội với tài kể chuyện giàu hình ảnh, đan xen chuyện đời thường và truyện cổ tích

Đoạn trích ca ngợi tình bạn trong sáng, thân thiết, nảy nở, vượt qua mọi rào cản trong xã hội thời thơ ấu của tác giả . Giọng văn tâm tình, truyền cảm

Sau một tuần, ba anh em nhà hàng xóm lại ra sân chơi và gọi nhân vật “tôi” chơi cùng Trong câu chuyện với nhau nhân vật “tôi” hỏi về mẹ chúng,thấy chúng buồn, nhân vật “tôi” an ủi bằng cách sôi nổi kể những câu chuyện cổ tích của bà. Bỗng bố của ba người bạn hàng xóm xuất hiện, cấm không cho nhân vật “tôi” tiếp tục chơi với con ông. Nhưng bọn trẻ vẫn chơi với nhau, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui buồn. Đoạn trích kết hợp phương thức tự sự, biểu cảm, miêu tả, đan xen yếu tố cổ tích và đời thường

Maksim Gorky (1868- 1936) tên thật là Aleksey Maksimovich Peshkov(Алексей Максимович Пешков) là nhà văn lớn người Nga. Là người đặt nền móng cho văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu thế kỉ XX của đất nước này. Maksim Gorky có tuổi thơ cay đắng, lên ba tuổi mất bố, mẹ đi lấy chồng khác, ông phải ở với bà ngoại. Bút danh “Gorky” trong tiếng Nga có nghĩa là cay đắng Ông bất đầu cuộc đời sáng tác nghệ thuật với tư cách nhà thơ nhưng nhanh chóng nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết chuyện ngắn. Truyện ngắn của ông đậm nét Tác phẩ m gồm 13 chư ơng kể lại quã ng đời của Aliô sa Pês kôp từ khi bố mất, cùn g mẹ đến ở nhà

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 13 đó ạ !

sự phát triển của nhà văn từ chất trữ tình – lãng mạng đến chỗ kết hợp hài hòa yếu tố lãng mạn với yếu tố hiện thực. Ngoài ra còn cho thấy được sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước.

ông bà ngo ại tron g 6- 7 năm rồi mẹ lấy chồ ng mới và sau đó ốm rồi qua đời. Ông ngo ại đuổi Alio sa vào đời kiế m sốn g

Làng

Thể loại: Truyện ngắn Nhân vật chính: Ông Hai Ngôi kể: Ngôi thứ ba Tình huồng truyện: Khi ông Hai nghe tin không hay về Làng Chợ Dầu của mình

Truyện thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.

-Tác giả sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách. -Xây dựng cốt truyện tâm lí ( đó là chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật). -Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc,tinh tế. -Ngôn ngữ đặc sắc,sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

Qua nhân vật ông Hai, người đọc càng thấm thía hơn tình yêu làng, yêu nước mộc mạc, chân thành mà vô cùng sấu nặng, cao quý trong những con người nông dân lao động bình thường Ông Hai là người làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến chống Pháp, ông phải đưa gia đình đi tản cư. Ở đây, lúc nào ông cũng nhớ làng và luôn dõi theo tin tức cách mạng.Khi nghe tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc, ông vô cùng đau khổ, cảm thấy xấu hổ, nhục nhã. Ông không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe đồn về làng ông theo giặc. Nỗi lòng buồn khổ đó càng tăng lên khi có tin người ta không cho những người làng ông ở nhờ vì là làng Việt gian. Ông không biết bày tỏ với ai,không dám đi ra ngoài. Thế là ông đành nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi buồn, cho nhẹ bớt những đau khổ tinh thần. Khi nhận tin cải chính, vẻ mặt ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Ông chia quà cho các con, và tất bật báo tin cho mọi người rằng nhà ông bị Tây đốt, làng ông không phải là làng Việt gian. Ông thêm yêu và tự hào về cái làng của mình.

Kim Lân (1920-2007) -Tên khai sinh Nguyễn Văn Tài (1920-2007),quê Từ Sơn - Bắc Ninh. - Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. - Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê, qua đó góp phần biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân. - Sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn và vẫn viết về làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc -Ngoài hoạt động sáng tác, nhà văn Kim Lân còn tham gia sân khấu và điện ảnh,ông kịch, đóng phim. ( Tiêu biểu là vai Lão Hạc trong bộ phim “Làng Vũ Đại ngày ấy”) - Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông mất năm 2007, sau một thời gian dài Đượ c viết tron g thời kỉ đầu của cuộ c khá ng chiế n chố ng Phá p và đăn g lần đầu trên tạp chí văn ngh ệ 194 8. Văn bản chu yện khi đưa vào SG K có lược bỏ phầ n đầu (giới

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 15 đó ạ !

chống chọi với căn bệnh hen suyễn. - Các tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt,Con chó xấu xí, Làng,…

thiệ u về hoà n cản h phải rời làng lên nơi tản cư của ông Hai và tính thíc h kho e làng của ông)

Lặng lẽ Sa Pa

Thể loại: Truyện ngắn Ngôi kể: Ngôi thứ ba qua góc nhìn của nhân vật ông họa sĩ Nhân vật chính: Anh thanh niên Tình huống chuyện: Là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh thanh niên, ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ

Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam. - Ông viết văn từ thời kháng chiến chống Pháp, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. - Ông thường viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60-70 thế kỉ XX. - Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm,thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ - “Lặn g lẽ Sa Pa” đượ c sán g tác năm 197 0, tron g chu yến đi thực tế Trên chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già,bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Bác lái xe đã giới thiệu cho ông họa sĩ và cô kĩ sư làm quen với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút, anh thanh niên tặng hoa cho cô gái, pha trà và trò chuyện với mọi người về cuộc sống và công việc của anh. Ông họa sĩ muốn được vẽ chân dung anh. Anh thanh niên từ chối và giới thiệu với ông những người khác mà anh cho là xứng đáng hơn anh. Những con người tình cờ gặp nhau bỗng trở nên thân thiết. Khi chia tay, ông họa sĩ hứa sẽ quay trở lại, Khắc họa thành công hình ảnh những conngười lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khítượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của conngười lao động và ý nghĩa của những công - Cốt truyện đơn giản, xoay quanh một tình huống đó là cócuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già,cô kĩ sư trẻ và một anh thanh niên làmcông tác khí tượng. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong chốc lát nhưng đã để lại mộtấn tượng gợi nhiều suy nghĩ và dẫn chúng ta tới những nhân vật mới: kĩ sư vườnrau, nhà nghiên cứu sét. - Xây dựng nhân

việc thầm lặng.

cô kĩ sư thấy xúc động, yên tâm hơn về quyết định lên Lào Cai công tác, còn anh thanh niên tặng mọi người một làn trứng.

tình. - Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. - Nguyễn Thành Long ngoài viết văn còn viết báo, làm xuất bản, dịch một số tác phẩm nổi tiếng của văn học nước ngoài. - Các tác phẩm tiêu biểu: Giữa trong xanh, Li Sơn mùa tỏi, Bát cơm cụ Hồ, Gió bấc gió nồm, Chuyện nhà chuyện xưởng,Trong gió bão

vật chân dung, nhân vật được ghi lại đượcđánh giá qua những cảm nhận trực tiếp nhưng không hề nhạt nhòa bởi được khắchọa qua nhiều điểm nhìn và miêu tả tinh tế - Chất thơ của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng phụ trợ đắc lực cho bàica, ca ngợi con người bình dị mà cao quý: trong tình huống trữ tình, trong bứctranh thiên nhiên, trong lời đối thoại, nhưng quan trọng nhất đó là những ýnghĩ, cảm xúc của người trong cuộc và vẻ đẹp rất đỗi nên thơ, nên hoa, nên nhạccủa lối sống mà nhân vật chính gợi ra.

của tác giả ở Lào Cai. Đây là một truy ện ngắ n tiêu biểu ở đề tài viết về cuộ c sốn g mới hòa bình , xây dựn g chủ nghĩ a xã hội ở miề n Bắc. - In tron g tập “Giữ a tron g

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 17 đó ạ !

xan h” (197 2) của Ngu yễn Thà nh Lon g.

Chiếc lược ngà

Thể loại: Truyện ngắn Nhân vật chính: Ông sáu Ngôi kể: Ngôi thứ nhất qua lời kể của Bác Ba (Bạn ông Sáu) Tình huống chuyện: + Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám nám xa cách, nhưng thật trớ trêu bé Thu không nhận cha. Và cũng thật bất ngờ khi em nhận cha thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. + Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả nỗi nhớ, tình yêu thương đứa con bé bỏng vào việc làm một chiếc lược ngà, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con. ->Tạo tình huống như vậy, Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh eo le, vừa là lời lên án tố cáo chiến tranh đã gây ra cho bao gia đình Việt

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến.Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến khi Thu nhận ra cha,tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho con gái.

-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. -Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

- Truy ện ngắ n “Chi ếc lược ngà” đượ c viết năm 196 6– khi tác giả hoạt độn g ở chiế n trườ ng Na m Bộ nhữ Nguyễn Quang Sáng (1932-2014) quê ở huyện Chợ Mới,tỉnh An Giang. - Trong kháng chiến chống Pháp,ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. - Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn.. - Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. - Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. - Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí - Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ,bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan. - Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất

- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. là đối với nhân vật bé Thu. - Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

ng năm khá ng chiế n chố ng Mĩ và đượ c đưa vào tập truy ện cùn g tên. - Văn bản tron g sác h giáo kho a là đoạ n trích phầ n giữa của truy ện.

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 19 đó ạ !

Cố Hương

Thể loại:Truyện ngắn (Mang đậm chất hồi kí) Nhân vật chính: Lỗ Tấn Ngôi kể: Ngôi thứ nhất (Nhân vật xưng tôi) Tình huống chuyện:

Sau 20 năm đi xa, nhân vật “tôi” phải vượt qua 2000 dặm về thăm quê lần cuối cũng đang độ giữa đông. Về quê “tôi” thấy làng mình bỗng trở nên xơ xác hoang vắng khác xa rất nhiều. Gặp lại mọi người giờ đây cũng khác. Thím Hai Dương – nàng Tây thi đậu phụ đã trở thành người đàn bà tham lam tìm mọi cách vơ vét của cải. Nhuận Thổ - người bạn cũ khỏe mạnh cường tráng thời thơ ấu vui vẻ tinh nghịch giờ đã trở thành mụ mẫn, đần độn, sống chịu đựng trong cảnh khốn cùng. Rời quê ra đi trong tâm trạng buồn, nhân vật tôi suy nghĩ, hi vọng về thế hệ con cháu mình, về con đường đi của nông dân toàn xã hội để đất nước Trung Hoa phong kiến vươn lên Thông qua việc thuật lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi” trước sự thay đổi của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ - ng bạn thân thiết thời ấu thơ, Lỗ Tấn đã phê phán xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến, đặt ra vấn đề con đường đi của nông dân và toàn xã hội để mọi người suy ngẫm

-Miêu tả hiện thực trên nền tâm trạng thông qua nghệ thuật so sánh, tương phản. Tất cả các vấn đề cốt truyện, kết cấu, nhân vật, không gian, thời gian đều quy về đặc điểm tiêu biểu này -Cốt truyện đơn giản nhưng gửi gắm đầy ý nghĩa triết lí. Tác giả sử dụng khóe léo hai biện pháp nghệ thuật chính “hồi ức” và “đối chiếu” để làm nổi bật sự thay đổi ở nhân vật Nhuận Thổ - Nghệ thuật miêu ta tâm lí nhân vật dộc đáo

Lỗ Tấn ?? (1881- 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, sinh ra ở huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn rất phong phú, thể hiện một cách nhất quán mục đích sáng tác của nhà văn. Tác phẩm của ông giàu giá trị hiện thực và tính chiến đấu. Giọng văn của ông bề ngoài lạnh lùng, điềm tĩnh nhưng bên trong sục sôi nhiệt huyết yêu nước và tinh thần đấu tranh. Tác phẩm của ông bao gồm: 17 tập tạp văn, 2 tập truyện ngắn là “Gào thét” và “Bàng hoàng”, tiểu thuyết “A,Q chính diện”. Năm 1981, toàn thế giới kỉ niệm 100 năm ngoài sinh Lỗ Tấn như một danh nhân văn hóa nhân loại

Cố Hươ ng là một tron g nhữ ng truy ện ngắ n tiêu biểu nhất của tập truy ện “Gà o thét” (192 3), thuộ c thể loại truy ện ngắ n man g đậm chất hôi kí như ng có nhiề u chi tiết hư cấu

thê m

Bến Quê (đoạn trích)

Truyện thành công nổi bật ở sự miêu tả tâm lí tinh tế, nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng, cách xây dựng tình huống, trần thuật tâm trạng của nhân vật Truyện ngắn “Bến quê” chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời

Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Nghệ An, là một nhà văn mặc áo lính (gia nhập quân đội 1954) Tài năng của ông được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với các tiểu thuyết Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972). Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học

Thể loại: Truyện ngắn Nhân vật chính:Nhĩ Ngôi kể:Ngôi kể thứ ba Tình huống truyện: -Nhĩ là một người đã từng đi nhiều nơi, đến cuối đời mắc bệnh hiểm nghèo nằm liệt một chỗ, mọi di chuyển sinh hoạt của anh đều phải nhờ người khác => Cả đời anh không nhận ra bai bồi bên kia sông đẹp như vậy. Đến lúc này muốn đặt chân tới thì không thực hiện được nữa. Cũng chính ngày cuối đời ấy, anh nhận ra Liên – vợ anh cả đời vất vả yêu thương anh, muốn bù đắp cho vợ thì đã quá muộn - Khi không tự mình thức hiện được, Nhĩ đã nhờ con sang bên kia bờ sông. Đứa con trai ấy giống tính cách anh nên đã dễ dàng sa vào đám cờ thế, bỏ lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày  Tác giả đã thể hiện những chiêm nghiệm- triết lí về cuộc đời: -

-

Trong cuộc sống, đôi khi người ta thường xem nhẹ bơ qua những thứ giản dị nhất Chỉ tới khi con người từng trải hoàn cảnh éo le. Người ta mới nhận ra được giá trị thiết thực của những điều hết sức bình dị gần gũi đó. Nhưng đến khi nhận ra được thì lực bất tòng tâm

Truy ện ngắ n “Bế n Quê ” in tron g tập truy ện ngắ n cùn g tên của Ngu yễn Min h Châ u, xuất bản Nhĩ - nhân vật chính của truyện - từng đi khắp nơi trên trái đất, cuối đời bị lâm bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự chuyển dịch lấy vài mươi phân trên chiếc phản gỗ kê bên cửa sổ. Nhưng chính lúc này, Nhĩ phát hiện ra bãi bồi bên kia sông của quê hương mình thật đẹp, thật quyến rũ. Và cũng phải đến lúc này, Nhĩ mới cảm nhận được hết sự tần tảo vất vả, tình yêu thương và đức hi sinh thầm lặng của vợ mình là chị Liên. Trong lòng anh bỗng trào dâng một khao khát: được đặt chân một lần lên cái bờ bãi bên kia sông. Anh nhờ cậu con trai thực hiện giùm mình ước mơ ấy . Đứa con không hiểu ý bố nên nhận lời một cách miễn cưỡng. Trên đường đi, cậu ta lại sa vào đám chơi phá cờ trên hè phố và để lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ tình huống này, Nhĩ chiêm nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 21 đó ạ !

năm 198 5

người :"Con người ta trên đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo chùng chình trong cuộc sống.." Cuối truyện, khi thấy con đó ngang chạm mũi vào bờ bên này, Nhĩ thu hết tàn lực cuối cùng của mình để đu mình nhô ra ngoài cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc ra khoát khoát y như đang khẩn thiết thúc giục .

Những ngôi sao xa xôi

Thể loại: Truyện ngắn Nhân vật chính: Ba cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn (Phương Định, Nho và chị Thao) Ngôi kể: Theo ngôi thứ nhất (Phương Định) - Tác dụng: + Tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện thực khốc liệt Tình huống truyện:

- Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí. - Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữtình. - Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiếntrường.

Làm nổi bật tâm hồn trong sáng,mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưngrất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đườngTrường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trongthời kì kháng chiến chống Mĩ

Lê Minh Khuê (1949:hiện 66 tuổi) quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnhThanh Hóa. - Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phongvà bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70. - Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên về truyện ngắn. - Trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đầu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. - Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyểnbiến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. "Những ngôi sao xa xôi" kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổtrinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn những năm chốngMỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá đểsan lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Côngviệc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫnkhông mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơmộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lầnphá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát khao. - Truy ện "Nh ững ngôi sao xa xôi" ở tron g số nhữ ng tác phẩ m đầu tay của Lê Min h Khu ê,vi ết năm 197 1,

lúc cuộ c khá ng chiế n chố ng Mĩ của dân tộc đan g diễn ra các liệt. Văn bản đưa vào sác h giáo kho a có lược bớt một số đoạ n. - Truy ện ngắ n đượ c đưa vào tuyể n tập

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 23 đó ạ !

“Ng hệ thuậ t truy ện ngắ n thế giới” xuất bản ở Mĩ.

Robinson ngoài đảo hoang (The life and strange surprizing adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner) Thể loại: Tự truyện Nhân vật chính:Robinson Crusoe Ngôi kể:Thứ nhất Tình huống truyện: Robinson bị lạc vào một hòn đảo hoang vu

Qua bức chân dung tự họa và giọng kể của Robinson, ta hình dung được cuộc sống vô cùng khó khăn và cả tinh thần lạc quan của nhân vật bất chấp mọi gian khổ khi chỉ có một mình nơi đảo hoang vùng xích đạo trên mười năm ròng rã

Daniel Defoe (1660- 1731) nhà văn người Anh sinh ra tại London. Ông đã tham gia tích cực các hoạt động chính trị của thời đại mình, đồng thời dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu. Ông đã viết hàng trăm tác phẩm châm biến phê phán những điều sai trái trong xã hội, đề xuất nhiều dự án cải cách tiến bộ. Tài năng của ông thực sự nở rộ vào năm 60 tuổi với một số tiểu thuyết nổi tiếng và trong đó có “Robinson Crusoe” - Cách kể chuyện tự sự kết hợp với miêu tả . - Viết dưới hình thức tự thuật với ngôi kể thứ nhất chân thực. - Giọng kể nhẹ nhàng, hài hước, dí dỏm . - Vẽ được chân dung kì dị của vị "Chúa đảo". - Gợi hiện thực cuộc sống khó khăn gian khổ . - Bộc lộ được sự lạc quan , nghị lực sống mạnh mẽ của Robinson

Robinson là người ưa hoạt động và ham thích phiêu lưu, say sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp sóng to gió lớn và những nỗi hiểm nguy. vào ngày 1 tháng 9 năm 1659 Robinson nghe bạn bè rủ rê xuống chiếc tàu có trọng tải 120 tấn, có 6 khẩu đại bác và 14 người, đi châu Phi trong một chuyến buôn bán đổi chác lớn. Không may, chuyến đi được chuẩn bị kỹ càng này lại kết thúc trong bi thảm do tàu bị đắm. Xác tàu dạt vào gần bờ một đảo hoang và chỉ một mình Robinson sống sót.Tại đây, Robinson vớt vát từ xác tàu đắm gạo, lúa mạch, thịt dê, đường, súng, búa rìu v.v. để bắt đầu cuộc sống cô độc. Robinson dựng lều, săn bắn kiếm ăn, rồi dần dần trồng lúa mạch và ngô, nuôi được dê lấy thịt, làm những nồi đất để đựng nước, hạ được cây cổ thụ để đục thành một chiếc thuyền độc mộc.Qua thời gian sống ở đảo hoang (28 năm), nhiều chuyện “Ro bins on Cru soe” là cuố n tự truy ện mà nhâ n vật Robi nso n tự kể về mìn h. Đó là một chà ng than h nhiê

xảy ra với Robinson, quang trọng nhất là gặp Friday và 2 người Tây Ban Nha. Robinson đã trở về với thế giới loài người. Sau khoảng nhiều thời gian khá dài, Robinson học cách thân thiện trở lại với thế giới ấy. Robinson lấy vợ và có ba đứa con, chấm dứt khao khát phiêu lưu kỳ thú và gian truân, Robinson an phận với cuộc sống bình thường không chút âu lo đến cuối đời.

n ưa hoạt độn g và ham thíc h phiê u lưu, say mê với nhữ ng miề n đất lạ, bất chấ p són g gió hiể m ngu y. Sau nhiề u chu yến đi biển khô ng thàn h, chà ng vẫn khô ng hề

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 25 đó ạ !

nao nún g và tiếp tục đi chu yến khá c. Lần này, tàu gặp bão bị đắm . Trên tàu chỉ còn một mìn h Robi nso n sốn g sót dạt vào đảo hoa ng. Đó là ngà y 30/9 /196 9, Robi nso n đã 55 tuổi

mới đượ c cứu thoá t trở về Anh

Bố của Xi-mông (Simon’s dad)

Thể loại: Truyện ngắn Nhân vật chính: Simon Ngôi kể:Thứ ba Tình huống truyện: Cuộc gặp gỡ của Simon với bác thợ rèn Philip

Henri René Albert Guy de Maupassant (5.8.1850-6.7.1893) Nhà văn người Pháp, trong khoảng 10 năm cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ: Trên 300 truyện ngắn, 6 tiểu thuyết, và một số tác phẩm thuộc những thể loại khác

Qua câu chuyện, các nhân vật Xi- mông, Bờ- Lăng-Sốp và bác thợ rèn Philips. Tác phẩm ngợi ca tấm lòng nhân ái của con người, nhắc nhở chúng ta về lòng yêu thương sự vị tha đối với những người kém may mắn, chịu nhiều bất hạnh

Maupassant tiếp tục truyền thống hiện thực trong văn học Pháp thế kỉ XĨ. Ông nâng nghệ thuật truyện ngắn lên trình độ cao, nội dung cô đọng, sâu sắc, hình thức giản dị, trong sáng + Nét đặc sắc của truyện ngắn là tác giả đã thấu hiểu sâu sắc tâm lí trẻ em, sự ngây thơ, hồn nhiên và dễ bị tổn thương của tâm hồn con trẻ + Diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian mà vẫn duy trì được hứng thú , Xi-mông từ tuyệt vọng đến hi vọng và tin tưởng, Phi-líp đến an ủi cậu bé, rồi nhận đùa làm bố, từ ông bố danh nghĩa đến ông bố chính thức. + Câu chuyện có hậu mà không dễ dãi, giản đơn.

-In tron g “Tuy ển tập truy ện ngắ n Phá p thế kỉ XIX” - Đoạ n trích nằm ở phầ n giữa truy ện Xi-mông là một đứa trẻ không có bố. Mẹ em bị một gã "Sở khanh" lừa dối mà sinh ra em. Lần đầu tiên (lúc này Xi-mông độ bảy tám tuổi) đến trường, em bị đám học trò chế giễu, bắt nạt vì không có bố. Em đau khổ, buồn bực ra bờ sông định tìm đến cái chết cho xong. Nhưng may mắn, em gặp bác thợ rèn Phi-líp. Bác an ủi và hứa "Người ta sẽ cho cháu …một ông bố", rồi dắt tay đưa Xi- mông về nhà. Gặp mẹ, Xi-mông lại oà khóc :"Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con…đánh con…tại con không có bố". Chứng kiến cảnh đó, bác Phi-líp rất xúc động. Bác nhận (đùa) sẽ làm bố của Xi- mông. Nghe bác Phi-líp nói thế, Xi-mông hết cả buồn. Em im lặng một giây để ghi nhớ cái tên bố em -"Phi-líp" vào lòng. Ngày hôm sau Xi mông đến trường, bọn trẻ lại xúm lại trêu đùa đầy

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 27 đó ạ !

ác ý. Nhưng em đã dõng dạc tuyên bố một cách cứng cỏi và ngây thơ "Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp". Mặc dù các bạn vẫn chưa tin nhưng em tin tưởng sắt đá vào lời nói của mình và sẵn sàng đương đầu với moị sự chế giễu

Con chó Bấc (Trích tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” ) Thể loại: Tiểu thuyết (7 chương) Nhân vật chính: con chó Bấc Ngôi kể:Thứ ba Tình huống truyện:

Đoạn trich bộc lộ những nhận xét tinh tế của tác giả về con chó Bấc đồng thời đi sâu vào “tâm hồn” con chó Bấc

Bấc là một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thooc-tơn là người đã có lòng nhân từ đối với nó, và nó đã được cảm hoá. Về sau, khi Thooc-tơn chết, nó hoàn toàn dứt bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con sói hoang. - Jack London (1876- 1916). - Người Mĩ, trải qua cuộc đời vất vả và sớm tiếp cận với tư tưởng CNXH. - Các tác phẩm tiêu biểu: Tiếng gọi nơi hoang dã (1903), tiểu thuyết tự thuật Mactin Eđen (1909), Gấu biển (1904), Nanh trắng (1906)…

Con chó Bấc” trích từ tiểu thuy ết “Tiế ng gọi nơi hoa ng dã”.

Trong cuộc sống có nhiều sự tranh đua khốc liệt, con người và loài vật đôi khi phải đấu tranh để vươn lên kiếm tìm sự sống. Tác giả là người có trái tim nhân hậu, chan chứa tình yêu thương vì thế ông muốn mọi người hãy biết trân trọng nâng niu những gì mình - Không sử dụng nhân hóa một cách triệt để. Chỉ qua lời kể cũng bộc lộ “tâm hồn” con chó Bấc - Nhà văn dứng ngoài quan sát miêu tả chứ không nhập thân vào nhân vật, đóng vai nhân vật - Truyện vẫn rất sinh động, chân thật, nhờ tài năng quan sát, vốn hiểu biết và tình cảm của tác giả với loại vật - Với nghệ thuật nhân hóa và trí tưởng tượng quan sát tinh tế của nhà văn, người đọc thấy tác giả phải là người yêu thương loại vật lắm thì mới khắc họa thành công hình ảnh con chó Bấc tới vậy

có được, hay rời xa những cạm bẫy vật chất bình thường mà vươn tới cuộc sống tràn đầy niềm vui và hạnh phúc

Cô Hạnh ơi! Đây là trang số 29 đó ạ !