Ngày nhận bài: 21-03-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 18-04-2025 / Ngày đăng bài: 22-04-2025
*Tác giả liên hệ: Phan Thị Xinh. Bệnh viện Truyền máu Huyết học, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail: bsphanthixinh@ump.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 1
ISSN: 1859-1779
Tổng quan
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh;28(5):01-07
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.05.01
Vai tcủa giải trình tthế hệ mới trong đánh g bệnh
tồnu ti thiểu bệnh nhân bạch cầu cấp dòng tủy
Võ Thị Thanh Trúc1, Châu Thúy Hà1, Phan ThXinh1,2,*
1Bệnh viện Truyền máu Huyết học, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Bạch cầu cấp dòng tuỷ (AML) là bệnh lý huyết hc ác tính đặc trưng bởi sng sinh bất thưng của bạch cầu trong tuỷ
ơng và ức chế ssản xuất các dòng tế bào máu bình thường. Bệnh sự đa dạng sinh học cao cả vmặt m ng lẫn
q trình phát triển bệnh. Do đó, việc c định chính xác các đặc điểm miễn dịch và phân tlà vô ng quan trng để định
hưng lâm ng cho ngưi bệnh. Gần đây, có nhiều bằng chứng cho thấy vai t quan trọng ca dliệu vdi truyền và đt
biến trong AML, dn đến việc cập nhật ln tc các phân loại ca T chc Y tế Thế giới (WHO) và các khuyến nghtừ Mạng
lưới Bạch cầu châu Âu (ELN). Để chẩn đn và theo dõi AML, cần kết hp giữa dấu ấn miễn dịch và sinh học pn t. Vic
theo i tồn lưu tối thiểu (MRD) g trtn ợng mạnh mtrong AML. Tuy nhiên, sđa dạng của c đặc điểm phân tử
và hình thái tếo của AMLng tạo ra thách thức lớn trong việc thực hiện c xét nghiệm. Bàio y nhằm mang đến
i nhìn tổng quan v MRD cũng như vai trò của giải trình tự thế hmới (NGS) nhằm chẩn đn theo i MRD trong bối
cảnhc hướng dẫn mới vchn đoán và tiên lượng.
T khoá: bch cầu cấp ng tu; AML; NGS; MRD
Abstract
THE ROLE OF NEXT-GENERATION SEQUENCING IN ASSESSMENT OF
MINIMAL RESIDUAL DISEASE IN ACUTE MYELOID LEUKEMIA
Vo Thi Thanh Truc, Chau Thuy Ha, Phan Thi Xinh
Acute myeloid leukemia (AML) is a malignant hematologic disorder characterized by the abnormal proliferation of
leukocytes in the bone marrow, which inhibits the production of normal blood cell lineages. The disease exhibits
significant biological heterogeneity in both clinical presentation and disease progression. Therefore, accurately
identifying immunophenotypic and molecular characteristics is crucial for guiding clinical management. Recently,
increasing evidence has highlighted the critical role of genetic and mutational data in AML, leading to continuous
updates in the World Health Organization (WHO) classification systems and recommendations from the European
Leukemia Net (ELN). The diagnosis and monitoring of AML require a combination of immunophenotypic markers and
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 5* 2025
2 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.05.01
molecular biology techniques. Minimal residual disease (MRD) monitoring provides strong prognostic value in AML.
However, the diversity of molecular features and cellular morphology in AML poses significant challenges in the
implementation of these tests. This article aimed to provide an overview of MRD and the role of next-generation
sequencing (NGS) in diagnosing and monitoring MRD within the context of the latest guidelines on AML diagnosis and
prognosis.
Keywords: acute myeloid leukemia; AML; NGS; MRD
1. ĐT VẤN Đ
Bạch cầu cấp dòng tuỷ (AML: Acute myeloid leukemia)
là bệnh huyết học ác tính đặc trưng bởi sự tăng sinh bất
tờng của bạch cầu ác tính trong tuỷ xương làm ức chế sự
sản xuất các dòng tế bào máu nh thường. Bệnh sự đa
dạng sinh học cao cvmặt lâm sàng lẫn quá trình phát triển
bệnh. Bệnh có t lệ tử vong kcao với tỷ lệ sống 5 năm
31,9% dù các tiến bộ vmặt chẩn đoán, theo dõi và điều tr
đã đang phát triển nhanh chóng [1]. Hằng m, n 300
tờng hợp AML mới được chẩn đoán tại bệnh viện Truyền
máu Huyết học cho thấy bệnh chiếm một tỷ lkhông nhỏ
cần được theo dõi điều trị (số liệu nội bộ). Những năm gần
đây, nhiều tiến bộ trong việc giải bản chất các đột biến
gen di truyền của AML ngày càng được hiểu sâu.
2. DẤU N PHÂN TTRONG BỆNH
AML VÀ TỒNU TỐI THIỂU
Tại thời điểm chẩn đoán, việc phân loại đánh giá nguy
cho bệnh AML được thực hiện nhvào t nghiệm tế bào
học tuỷ xương, kiểu hình miễn dịch và c đột biến di truyền
học phân tử. Từ đó, c dấu ấn di truyền tế bào này giúp phân
loại bệnh theo các nhóm nguy cơ tiên lượng riêng biệt giúp
địnhớng điều trị ntiên ợng tốt, tiênợng trung bình
và tiên lượng xấu theo Bảng 1 [2]. Các phân loại gần đây của
Tổ chức Y tế Thế gii (WHO: World Health Organization)
và Phân nhóm đồng thuận quốc tế (ICC: International
Consensus Classification) cũng đã ch hp các đột biến di
truyền o trong chẩn đoán, tiên ợng điều trị [3,4].
Chính vậy, việc kết hợp của c xét nghiệm vdấu ấn miễn
dịch và di truyền học vô cùng cần thiết trong chẩn đoán
theo dõi AML.
Mặc đa số người bệnh AML có thể đạt lui bệnh hoàn
tn (CR: complete remission) về mặt tế bào sau htrị liệu
tấn công thì gần một nửa số tờng hợp xuất hiện tái phát sau
đó với tiênợng khá xấu. Tỷ lệ tái pt cao này ngụ ý rằng
sự tồn tại ở mức độ thấp của các quần thể bạch cầu ác tính
n lại sau điều trị, mà không được phát hiện bởi c phương
pháp theo dõinh thái học thông thường nhưt nghiệm tế
o học tuỷ xương.
Bảng 1. Phân nhóm nguy bệnh AML theo di truyền
Nm nguy
Bất thưng di truyền
Tiên lượng
tốt
t(8;21)(q22;q22.1) RUNX1::RUNX1T1
inv(16)(p13.1q22) hoặc t(16;16)(p13.1;q22)
CBFB::MYH11
Đt biến NPM1 kng kèm với FLT3-ITD
Đt biến CEBPA bZIP bo tồn khung đọc
Tiên lượng
trung bình
Đt biến NPM1 kèm FLT3-ITD
Wild-type NPM1 m với FLT3-ITD
t(19;11)(p21.3;q23.3) MLLT3::KMT2A
c đột biến không đưc phân loại nguy
thấp hay cao
Tiên lượng
xấu
t(6;9)(p23;q34.1), DEK::NUP214
t(v;11q23.3); tái sắp xếp KMT2A
t(9;22)(q34.1;q11.2), BCR::ABL1
inv(3)(q21.3q26.2) hoặc t(3;3)(q21.3;q26.2);
GATA2, MECOM (EVI1)
t(3q26.2;v)/ tái sắp xếp MECOM(EVI1)
5 hoặc del(5q); −7;17/bất tờng(17p)
Karyotype phức tạp, monosomal karyotype
Đt biến ASXL1, BCOR, EZH2, RUNX1, SF3B1,
SRSF2, STAG2, U2AF1, hoặc ZRSR2
Đt biến TP53
Tớc đây, phân tích sau điều trị thường được thực hiện
theo hình thái học, trong đó CR được định nghĩa là có ít hơn
5% tế bào non ác tính (blast) n lại trong tủy xương. Tuy
nhiên, các tế bào bạch cầu ung ttồn tạiới ngưỡngnh
ti này không bị ảnh hưởng bởia trị liệu có khả năng
tái xuất hiện gây tái phát bệnh. Việc phát hiện sớm c quần
thể tế o nhcòn tồn tại y khả năng hướng dẫn nhà
lâm sàng trong việc quyết định thay đổi phương pháp điều
trị ngăn ngừa bệnh nhân tái phát. Phát hiện bệnh tồn u
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 5 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.05.01 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
3
tối thiểu (MRD: Measurable residual disease) cho phép đánh
g nguy cơ tái phát với độ nhạy cao đáp ứng của từng
bệnh nhân đối với điều trị.
MRD được định nga là sự tồn tại của một sốợng nh
tế bào ác tính sau khi điều trị ban đầu, không thphát hiện
bằng các phương pháp sàng lọc tng thường, nhưng th
đo được bằng c công nghệ tinh vi hơn. Các tế bào còn lại
này thường không có dấu hiệu hay triệu chứng lâmng của
bệnh, nhưng khi được phát hiện, chúng có thể được s dụng
như một chsdự đoán hoặc tiên lượng [5].
Từ đó, vai tcủa việc theo i MRD sau điều trị đã được
chứng minh là một dấu ấn sinh học giúp tiên lượng sống còn
v lâu dài cũng như giúp dự đoán sớm tái phát cho người
bệnh AML. Nhiều nghiên cứu về AML đã cho thấy tầm quan
trọng của đánh giá MRD khi MRD và i phát mối
tương quan chặt chẽ ng như ý nghĩa của việc đánh giá
MRD sau giai đoạn tấn công.
3. LỰA CHỌN DẤU N PHÂN TỬ
THEOI MRD
Các dấu ấn để theo dõi MRD được xem tốt khi nó đặc
hiệu với bệnh, ổn định theo thi gian, liên quan đến tái phát
và gp địnhớng điều tr. Khác biệt với bệnh lý bạch cầu
mạn dòng tuỷ chỉ một dấu ấn phân tử BCR/ABL để
theo dõi MRD, AML cho đến nay được xác định thể xảy
ran 40 đột biến (6).
Mặc dù tất cả các biến thy bệnh hoặc thể gây bệnh
được xác định trong bệnh AML thể được cân nhắc là
những dấu ấn trong đánh giá MRD, biểu diễn Bảng 2, tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại c giới hạn trong việc lựa chọn các
đột biến y. Đầu tiên, c đột biến dòng mầm hoặc nghi ng
ng mầm cần được loại ra khỏi panel theo dõi khi tần
suất xuất hiện hơn 30% như ANKRD26, CEBPA, DDX41,
ETC6, GATA2, RUNX1 TP53. Ngoài ra, trong c đột
biến soma mắc phải, việc quan trọng là cần phân bit dòng
tế bào nào dòng ung thư với c c tế bào thuộc ng tiền
ung thư của quá trình tạo u đơn dòng (CH: Clonal
hematopoiesis). Trong quá trình tạo máu đơn dòng tiềm năng
không xác định (CHIP: Clonal hematopoiesis of
indeterminate potential), các đột biến gọi chung DTA
(DNMT3A, TET2 và ASXL1) thường tồn tại lâu dài sau khi
đạt CR và không liên quan đến nguy i phát vậy
được loại khỏi c đột biến theo i MRD. Tương tự, c
gen đột biến liên quan đến CH không phải DTA (SRF2,
IDH1, IDH2) cũng đã được nhiều nghiên cứu chứng minh
không liên quan đến i phát. Ngược lại, c đột biến như
NPM1, FLT3, RUNX1 RAS được xem các dấu ấn
MRD tốt việc phát hiện các đột biến này khi người bệnh
đạt CR giúp tiênợng nguy cơ cao tái phát khi vẫn còn tồn
lưu của tế bào ác tính. Tuy nhiên, c đột biến của con đường
tín hiệu kinase (FLT3, RAS, KIT) không phải lúc o cũng
ln quan đến tái phát vì vậy các đột biến y được khuyến
o n kết hợp với c dấu ấn khác. Chính vì sự phức tạp
trong lựa chọn các marker này, việc lựa chọn xét nghiệm có
thể đánh giá nhiều gen cùng lúc như giải trình tự thế hệ mới
(NGS: next-generation sequencing) là một trong những giải
pháp mang tính chiến ợc.
Bảng 2. Ý nga củac dấu ấn phân tử AML
Gen Chẩn
đn
Tiên
lượng
Điều
tr
FLT3 Kng
IDH1, IDH2 Kng Kng
NPM1, ASXL1, BCOR,
EZH2, SF3B1, SRSF2,
STAG2, U2AF1, ZRSR2
Không
CEBPA, DDX41, TP53,
RUNX1* Không
BCORL1, BRAF, CBL,
CSF3R, DNMT3A,
JAK2,KIT, KRAS, NRAS,
NF1, PHF6, PPM1D,
PTPN11, RAD21, SETBP1,
TET2, WT1
Kng Không
ETV6, GATA2* Kng Không
Thợp gen Chẩn
đn
Tiên
lượng
Điều
tr
PML::RARA, BCR::ABL1,
X::RARA
CBFB::MYH11,
RUNX1:RUNX1T1, KMT2Ar,
DEK::NUP214, MECOMr,
NUP98r, KAT6A::CREBBP,
RBM15::MRTFA
Không
* Không sử dụng làm dấu ấn theo dõi MRD khi nghi ngờ là đột biến dòng
mầm (tần suất allele biến thể cao hơn 30%)
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 5* 2025
4 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.05.01
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP THEO I
MRD
Cho đến hiện tại, không một phương pháp riêng lẻ nào
ng để đánh giá MRD trong bệnh AML. Việc đánh g
MRD dựa o nhiều phương pháp bổ sung cho nhau, mỗi
phương pháp những ưu điểm và nhược điểm riêng. Các
phương pháp này bao gồm kỹ thuật đếm tế bào dòng chảy
(FC: flow cytometry) dựa trên kiểu hình miễn dịch, ng như
c kỹ thuật phân tích di truyền phân tử sử dụng PCR định
lượng (qPCR: quantitative polymerase chain reaction),
gần đây NGS hoặc PCR kỹ thuật số (dPCR: digital
polymerase chain reaction) (Hình 1).
Trong hai phương pháp được công nhận ứng dụng
nhiều hiện nay, qPCR nhược điểm là dựa vào việc hoặc
không của các bản sao tổ hợp gen do đó cháp dụng được
trong một nửa strường hợp AML. Kỹ thuật đếm tế bào
ng chảy thì phụ thuộc nhiềuo chất lượng mẫu, trình đ
chuyên n của người đọc kết quả và thường bgiới hạn bởi
slượng màu huỳnh quang được sử dụng trong panel xét
nghiệm (thường là 8 đến 12 u đối với hầu hết các trung
tâm). vậy, nhiều phương pháp xét nghiệm khác đã và đang
được nghn cứu nhằm tối ưua việc phát hiện MRD, bao
gồm cả vic cải tiến hai kỹ thuật trên. Hiện tại, các kỹ thuật
phân tử như NGS và dPCR là một trong những đột phá đầy
hứa hẹn trong tương lai đang được nghiên cứu.
5. Vai trò của NGS trong đánh giá
MRD
Mặc c t nghiệm dựa trên qPCR /dPCR độ nhạy
cao trong việc phát hiện MRD của AML mang các đột biến
tờng gặp các tổ hợp gen đặc hiệu với độ nhạy dao động
t10–4 đến 10–5 trong hầu hết c trường hợp (và thể
đến gần 10–6) [7], nhưng khả năng ứng dụng của chúng bị
hạn chế đối với chmột số nhóm AML nhất định do thiếu
c dấu ấn phân tử đặc hiệu cho các trường hợp AML còn lại
(Hình 1). Song, NGS cho phép phát hiện đồng thời nhiều đột
biến gen khác nhau đặc hiệu theo từng bệnh nhân ch
trong một t nghiệm. Phát hiện MRD mức độ phân tử
bằng NGS cho phép đánh g toàn diện có độ nhạy ơng
đối cao về đáp ứng điều tr của từng bệnh nhân, từ đó cung
cấp thông tin tiên lượng và dự o quan trọng tiềm năng
bệnh nhân AML. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để
đánh giá hiệu qucủa việc phát hiện MRD mức độ phân
ttrong AML người trưởng thành bằng phương pháp NGS
(Bng 3).
nh 1.c phương pháp đánh giá MRD hiện nay [2]
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 5 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.05.01 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
5
Bảng 3.c nghiên cứu đánh giá MRD trong AML
Tác gi Năm Tiếp cn Cỡ
mẫu
Đ phủ
trung bình
Ngưỡng
MRD (tn
suất alen)
Đt biến dùng
theoi MRD Kết luận
Tsai CH
(8) 2021
Giải tnh tmục tu:
54 gen liên quan
bệnh bạch cầu cấp
dòng tủy lúc chẩn
đn, CR, sau điều
trcủng cố
335 10.550× 0,3%
42 đột biến
không phải DTA
(ngoại trừ gen
CEBPA và FLT3-
ITD)
Khảo t tồn lưu đột
biến kng phải DTA
sau điu trị củng cố
giá trị tiênợngn
sau tấn công
Kim HJ
(9) 2021
Giải tnh tdựa trên
Amplicon 67 gen lúc
chẩn đoán, trước
sau gp tếo gốc
132 2.40 0,1%
Tất cảc đt
biến trong
panel, đột biến
DTA CHIP
trước gp
Tồn lưu dai dẳng đột
biến DTA CHIP tớc
gp liên quan tăng
nguy tái phát sau
gp
Cappelli
LV (10) 2021
Giải tnh tmục tu
63 gen liên quan
bệnh lý ác nh huyết
học lúc chẩn đn, lui
bệnh, tái phát
150 10 1%
Ngi đột biến DTA,
đột biếnc gen
SRSF2, IDH1,
IDH2 không mang ý
nga tiên lượng xấu
người bệnh bạch cầu
cấp dòng tủy có đột
biến gen NPM1
Patkar N
(11) 2021
Giải tnh t34 gen
với custom NGS panel
bao gồm UMI-based
ECS
201 14.728× 0,05%
NPM1, FLT3,
NRAS, KIT,
IDH1/2, WT1,
RUNX1, GATA2,
U2AF1, PHF6
Kết qu MRD bằng
NGS tương quan với kỹ
thuật đếm tế bào dòng
chảy
Li Y (12) 2023 Giải trình t42 gen 128 0,4%
42 đột biến tớc
sau điều trị.
c đột biến
được xét là MRD
đtheo dõi là
c đột biến Tier
I Tier II (y
bệnh và có th
gây bệnh)
Stồn tại dai dẳng của
MRD sau điều trị, đưc
c định bằng ng
một t nghiệm NGS
được sử dụng tại thời
đim chẩn đn, là một
biomarker nhạy hơn đ
pt hiện MRD so với
c phương pháp
không dựa trên phân t
truyền thống giá
trtn lượng đi với
nguy tái phát t
vong
Theo dõi MRD mức độ phân t trong bệnh nhân AML
gần đây đã trở n quan trọng hơn. Do kỹ thuật phân tđược
sdụng phbiến nhất qPCR chỉ có khả năng áp dụng cho
một snhóm nhbệnh nhân AML nên nhu cầu sử dụng NGS
để theo dõi MRD rất cấp thiết. Mặc vẫn đang trong quá
tnh phát triển nhưng NGS-MRD dường như mang lại giá
trị bổ sung rõ rệt cho việc giám sát MRD ở mức độ phân tử.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phương pháp này tháp
dụng cho hầu hết bệnh nhân AML, dự đoán nguy cơ tái phát
sau điều trị, xác định tiênợng cá nhân hóa, htrợ xác định
chiến lược điều trị củng cố sau khi hoàn thành liệu pháp
chuẩn, và theo dõi hiệu quả điều trị. Trong nghiên cứu của
Li Y đã sử dụng NGS với panel 42 gen để đánh giá MRD
tớc sau điều trị của bệnh nhân AML [12]. Bệnh nhân
đạt CR-MRD dương nh thời gian sống toàn bộ ngắn hơn
rệt so với nhóm MRD âm tính (16,8 tháng so với trung vị
chưa đạt).
Hiện tại, phương pháp đếm tế o dòng chảy vẫn lựa
chọn hàng đầu để đánh giá MRD. Tuy nhiên, c xét nghiệm
đếm tế bào ng chảy hay phân tích di truyền phân tử đều
c nguyên lý và giới hạn riêng. Vì vậy, việc kết hợp nhiều
phương pháp trong đánh giá MRD đã và đang được áp dụng
trong nhiều nghiên cứu. Trong nghiên cứu của Patkar N, 201
bệnh nhân AML được đánh giá MRD bởi cả hai phương
pháp FC NGS sau điều trị tấn công và tăng cường [11].
Việc phát hiện MRD bằng NGS tương đương với FC ở hơn