
Thưviện Đềthi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Cảm nhận của anh chị về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Văn mẫu 10
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 1
Có thể nói rằng với bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn.
Chữ “nhàn” của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện được thái độ sống, một
triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng rất. Với bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc
gói gọn trong chữ “nhàn” lúc này đây dường như cũng đã được phân chia bố cục
chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dàu ai vui thú nào
Người đọc có thể thấy được ngay hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ
“một” được lặp lại ba lần ở trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật
quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” và đây chính là những vật
dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông cứ vô cùng chân chất vừa mang
bóng dáng của một tao nhân mặc khách vậy. Không cần nói nhiều mà chỉ cần vậy
thôi là chúng ta cũng hoàn toàn có thể cảm nhận được đây chính là cuộc sống nhàn
nhã của nhân vật trữ tình. Khi được kết hợp với điệp ngữ sử dụng đó là từ “một” là
từ láy “thơ thẩn” tất cả miêu tả được trạng thái của tác giả. Chính với dáng người
ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên
không vướng bận chút bụi trần.
Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời,
và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống
thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã ại toát lên
được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thứ điền viên của một lão
nông.
Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và
triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Không khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể
hiện đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn quê thật thanh bình vô cùng ăn nhà và vô lo
vô nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người luôn luôn hòa nhập cùng với

Thưviện Đềthi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “Chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến
nơi quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải
chăng tác giả “dại” cho nên ông mới tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm
đến chốn quan trường. Thế nhưng thực chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có
nghĩa là khôn, và từ “khôn” có nghĩa là dại. Người đọc có thể nhận thấy được chính
lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy
những tham lam, dục vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, và ta như cảm nhận
thấy được như thế liệu có sung sướng? Người đọc có thể nhận thấy được chính với
phép đối hai câu thơ thực mang nghĩ mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu
vào tham vọng, chính vào vòng danh lợi. Còn đối với tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
ông dường như cũng đã phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm,
khí chất thanh cao trong sạch. Bài thơ “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao,
tránh xa vòng danh lợi.
Không những tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng luôn luôn chọn cuộc sống thanh cao,
tránh xa tham vọng, tác giả cũng lại còn hòa nhập với thiên nhiên. Khi đọc đến hai
câu luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vô cùng bình dị của nhân
vật trữ tình.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Chắc chẳng ai ai cũng sẽ biết măng, tre, trúc, giá được xem chính là đồ ăn dân dã từ
thiên nhiên rất dễ tìm thấy. Những món ăn này dường như cũng đã gắn liền với cuộc
sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Người ta cũng thấy được đây là
những món ăn quen thuộc trong đời sống. Còn với câu thơ:
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu thơ như đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi
trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa
mình với thôn quê thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh
đạm, một cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa
nào thức đấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng
mấy ai có được. Người đọc có thể nhận thấy được với chính cảnh sinh hoạt đời
thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng thời là của con

Thưviện Đềthi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
người. Chắc hẳn rằng hắn như phải sống hết mình, sống hòa hợp với thiên nhiên
mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.
Người đọc có thể nhận thấy được cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường ở
những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao
đẹp nhất qua hai câu thơ:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú
quý công danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi
lại mất nhử một giấc mơ mà thôi. Và thông qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng
chính là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong thời đại
mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức
nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm
thước đo cho mọi giá trị khác.
Tóm lại bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng chính là một tâm
hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, tác giả như phủ nhận danh lợi. Bài
thơ “Nhàn” cũng mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ
mai sau nữa.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 2
Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá
trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ
đương thời:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Thưviện Đềthi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao”
Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những
công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão
nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho.
Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như
một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm
vui vì được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải
mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng
định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn
không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà
mình thấy thích thú, tự do tự tại
Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là
sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ
ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh
đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn
quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm
tránh xa thói đời ô tạp, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn.
Bẳng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khôn”, còn “khôn” nhưng thực chất lại
là “dại”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người,
thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún
nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:
“Dụng chi tắc hành
Xa chi tắc tàng”
Dng thì sẽ ắt nên công,
Nếu mà t khưc, hư không chng cn⺁
Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục,
không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi:

Thưviện Đềthi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm.
Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ.
Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo : Không làm gì can
thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối
sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng
không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải
cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà
thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng
gượng.
Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà
thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:
“Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công
danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, không có giá
trị đích thực, không có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi
thường phú quý, đứng cao hơn phú quý và không làm nô lệ cho nó. Với cái nhìn
như thế, tác giả đã hoàn toàn quay lưng vào công danh, lấy nhàn làm chân lí sống.
Vần thơ của cụ Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi
lộc trước mắt.
Tóm lại, “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi
lộc tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời
đại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó không phải là một giải pháp tốt để có thể
cải tạo và thay đổi xã hội.
Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 3
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế
độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông
vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ