Phân tích nhân vật "Khách"
trong Bạch Đằng giang phú
“Khách có k” trong “Bạch Đng giang phú” là nhân vt tr tình không ai khác mà chính
là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú c, nhân vt “khách” không my xa l. “Ngc
tnh liên phú” (bài phú Sen giếng ngc) ca Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật
“khách”: … “Khách có kẻ: nơi nhà cao ta ghế, trưa mùa hạ nng nng. Ao trong ngm
làn nước biếc, Nhc ph vnh khúc Phù Dung”. “Khách” đây là Mạc Đĩnh Chi biểu l
tmlòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão ca k sĩ ở đời.
Ta đã tng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ ni tiếng đời Trn, tính tình cương trực, tâm
hồn phóng khoáng. Chín câu đu cho thy “khách” là mt tao nhân với rượu túi thơ “chơi
vơi” theo cánh buồm, làm bn với gió trăng qua mọi min sông bin. Sng hết mình vi
thiên nhiên, du ngạon thăm thú mọi cảnh đp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”,
ngày thì: “Sm gõ thuyn ch Nguyên Tương; Chiu lần thăm chừ Vũ Huyệt”,...
Khách đã đi nhiu và biết nhiu. Các danh lam thng cảnh như Nguyên Tương, Cu
Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… đu trên đất nước Trung Hoa mênh mông,
đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một tính, mt tâm hn: yêu thiên nhiên tha
thiết, ly vic du ngon làm nim lc thú đời, t hào v thói “giang hca mình:
“Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết”.
Các địa danh xa l không chcảnh đẹp mà còn gi ra mt không gian bao la, ch
những người mang hoài bão “tráng chí bốn phương” mới có th “giương buồm…lướt
bể” đi tới. Đầm Vân Mng là mt thng cnh tiêu biu cho mi thng cnh. Thế
“Khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều ln đã từng thưởng ngon bao
cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vn còn “tha thiết” vi bốn phương trời.
“Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong d cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Phần đầu bài phú nói lên ct cách k sĩ: chan hoà vi thiên nhiên, ly ch “nhàn” làm
trng, gián tiếp ph định li danh tầm thường.
“Qua cửa Đại Than… đến sông Bạch Đằng”
Đoạn văn tiếp theo nói lên nim vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đng.
Trương Hán Siêu đã theo cái chí ca người xưa “học T Trương” đi về phía Đông Bắc
“buông chèo” cho tha chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã T
Trường thì trước tiên phi học cái chơi của T Trường”. T Trường là Tư Mã Thiên, tác
gi b “S ký” bt hủ,nhà văn, nhà s học tài ba đời Hán. Con người y vẫn được xem
là nhà du lch có mt kng hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh bum thơ lần theo
sông núi:
“Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều,
Đến sông Bạch Đằng, bng bnh mái chèo”
“Bát ngát sóng kình muôn dm”
Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng ca T Quốc Đại Vit. Sông rng và dài, cun cun
nhp nhô sóng biếc.Cuối thu ( ba thu ) nước tri mt mu xanh bao la “Bát ngát sóng
kình muôn dm - Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước tri: mt sc- Phong cnh ba thu”.
Câu văn tả rhực mượn mt hình nh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu
thu cộng trường thiên nht sc” ( Sông thu cùng vi tri xa mt màu ). T con sóng
Bạch Đằng, vua Trn Minh Tông (1288-1356) viết : “Thung lung nut thu triu, cun
làn sóng bc… Trông thấy nước dòng sông ri bóng mt tri bui chiều đỏ i- Lm
tưởng rg máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang –Dch nghĩa ) Cảnh núi non,
b bãi được miêu tả, đã tái hin cnh chiến trường rùng rn mt thi:
“ B lau san sát
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy
đầy xương khô
Bp lau, bến lách gi t không khí hoang vu. hiu ht. Núi gò, b bãi trập trùng như gươm
giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét v hoành tráng y, mt thế k sau c
Trai cũng viết: “Ngc cht kình băm non lởm chm – Giáo chìm gươm gãy bãi dăng
dăng” ( “Cửa Bin Bạch Đằng”).