Về lối thơ trong bài "Hoàng
hạc lâu" của Thôi Hiệu
Lâu nay bài thơ Hng Hc lâu ca Thôi Hiệu, đời Đưng (Trung Quc) đã được
chọn vào chương tnh môn Văn trường phthông. Nguyên tác viết bằng chữ Hán, phiên
âm n sau:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hc kh, (u 1)
Th địa không dư Hoàng Hạcu. (u 2)
Hoàng hc nhất khứ bất phục phản, (câu 3)
Bạch n thiên ti không du du. (u 4)
Tình xuyên lch lịch Hánơng thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ ơng quan xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Người biên soạn sách Ng Văn 10, Tập một (NXB Giáo dc, 2003) nhận đnh, Hoàng
Hc lâu “là bài thơ Đường luật, đồng thời lại thy trong bài những chỗ phá cách, từ đó đ
ra câu hỏi: Hoàng Hc lâu được xem là mt trong vài bài thơ Đường luật hay nhất đời
Đường. Tại sao bốn u thơ đầu lại có nhiều ch không đúng luật?”. Trước u hỏi này, học
sinh phi giải thích mấy hiện tượng:
1. Chữ cuối câu 1 phải gieo vần, ở đây lại không gieo vn.
2. Hai câu thơ đầu theo Đưng luật không cần đối ngẫu, ở đây lại đối ngẫu, mặc dầu
đối ngẫu có chỗ không chỉnh.
3. Thơ bát Đường luật kiêng lp ch (trùng tự), trtrường hợp lặp trong câu,
đây chữ hoàng hc được dùng đến ba lần, chữ kh được dùng hai ln.
4. S dng Bằng - Trắc trong cả bốnu đều những chỗ không đúng luật:
u 1: Ch thứ hai và ch th, theo luật phải ngược thanh;đây li cùng thanh
(nhân - tha). Như vậy là thất đốiBằng - Trắc trong câu. Thất có nghĩa: không hợpch
lut.
u 2: Ch thứ 4 của câu 2 và câu 1 cùng thanh (- thừa). Như vy là thất
đối trong cặp câu 1-2.
u 3: Ch thứ đáng lẽ phi ngược thanh với chữ thứ hai, ở đây li cùng thanh
(kh - hạc). Như vậy là tht đối trong câu. Cũng chữ thứ tư trong câu 3, theo luật phải là
tiếng thanh bằng để “niêmvới chữ thứ tư câu 2. đây hai chữ này lại ngược thanh (kh -
), n vậy là thất niêm. Mt khác, ba chữ cuối câu đều là tiếng thanh trắc (bt - phc -
phản), không hợp cách luật về ba chữ cuối của câu thơ thất ngôn luật. Theo Đường luật,
nếu chữ thứ bảy trong câu thơ tht ngôn là tiếng thanh trắc, thì ba ch cuối câu phi dng
là BBT hoặc BTT, tức là ít nht cũng phi một chữ là tiếng thanh bng.
u thơ tht ngôn luật có trường hợp ba chữ cuối đều là tiếng thanh trắc như câu 5
bài D bạc thuỷ thôn (Đêm đậu thuyền ở xóm sông) của Lục Du:
Nhất thân báo quốc hữu vạn t
(Một thân mong đền ơn ớc dù muôn lần chết cũng cam)
nhưng với điều kiện chữ thứ hai là tiếng thanh bng, chữ thứ năm và ch thứ sáu
(hữu, vạn) coiảo” và phải được “cứu” ởu thứ 6:
Song mấnớng nhân tái thanh
(Hai món tóc mai ng vcon ni không thể xanh li)
Chữ thứ năm đáng lẽ là thanh trc, chuyển thành tiếng thanh bằng (vô) để “cứu
hai ch vạn, tử đáng lẽ phi là tiếng thanh bằng. Câu 3 bài Hoàng Hạc lâu do chữ thứ
hai đã là tiếng thanh trắc, nên “vô khả cứu”. Rõ ràng Thôi Hiu đã cố tình viết một câu
thơ, trong đó u chữ lin nhau đều là tiếng thanh trắc.
u 4: Ch thứ đáng lẽ phi ngược thanh với chữ thứ câu 3, ở đây lại cùng
thanh (tải - kh), tc là tht đối. Mặt khác ba chữ cuối câu đều là tiếng thanh bằng (không -
du - du), gọi là “tam bình điệu”, càng không hợpch dùng Bằng - Trc ở ba chữ cuối câu
thơ thất ngôn luật. Nếu chữ thứ bảycâu thất ngôn luật là tiếng thanh bằng, thì ba ch cuối
u phi dạng là TBB hoc TTB, tức là ít nhất cũng phải một ch là tiếng thanh trắc.
Tht ra nếu coi Hoàng Hạc lâu “là bài thơ Đường luật”, thì các hiện tượng 1, 2, 3
cũng không phi là “những chỗ không đúng luật”.
Hiệnng 1: Thơ bát Đưng luật thường có năm vần chân, nhưng cũng có bài
chỉ có bốn vần, tức là chcuối câu 1 không gieo vần và vn được coi là hp lut. Như
bài Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc (Được tin quan quân lấy li HàNam, Hà Bắc) của
Đỗ Phủ:
u 1. Kiếm ngoại hốt truyn thu Kế Bắc,
u 2. Sơ văn thế lệ mãn y thường.
(Kiếm ngoại được tin thu Kế Bắc,
Thot nghe ớc mắt ứa hai hàng).
(Doãn Kế Thiện dịch)
Hoặc bài Lý Đam Nguyên Tích (Gi cho Lý Đam Nguyênch) ca Vi Ứng Vật:
u 1. Khứ niên hoa phùng quân biệt,
u 2. Kim nhật hoa gian hựu nhất niên.
(Năm ngoái trong hoa va từ biệt,
Hôm nay hoa nở hết một năm).
(Trần Trọng Kim dịch)
Hiệnng 2: Thơ bát Đưng luật, hai cặp câu giữa bài thường đối ngẫu. Đó là
chính l. Nhưng cũng có bài đối ngẫu được dùng ở hai câu cuối, như trưng hợp bài Văn
quan quân thu Hà Nam, Bắc ca Đỗ Phủ:
u 7. Tức tòng Ba Giáp xuyên Vu Giáp,
u 8. TiệnTương Dương hướng Lạc Dương.
(Ngay t Ba Giáp qua Vu Giáp,
Ri xuống ơngơng tới Lạc Dương).
(Doãn Kế Thiện dịch)
Li khi đối ngẫu được dùng ở hai câu mở bài, như Vịnh hoài cch (Vịnh nhớ cổ
ch) ca Đỗ Phủ:
u 1: Chi li đông bắc phong trần tế,
u 2: Phiêu bt tây nam thiên địa gian.
(Chia tan đông bắc cơn g bụi,
Phiêu bạt tây nam cõi đất trời)
Hiệnng 3: Thơ Đưng luật thưng tránh lặp chữ. Tuy nhiên đối với một số thi
đời Đường, tránh lặp chữ là thuc v xảo, chứ không phải để tránh phm luật. Vì thế thơ
Đường luật một số bài, khi cn tác giả vn không tránh lp ch. Thí d bài Đam
Nguyên Tích ca Vi Ứng Vật đã dẫn ở trên, ch Hoa đã trong câu 1, đến câu 2 li được
dùng. Hoặc bài Thính bách thit điểu (Nghe chim hót trăm giọng) của Vương Duy:
ch Môn (= cửa) được dùng ở câu 1, ch Thiên (= ngn) dùng ở câu 6, đến câu 7 lại thấy
xuất hiện hai chữ Thiên Môn (= nghìn ca).
Tóm li từ hiệnng1, 2, 3 người ta không thấy những chỗkhông đúng luật”.
Nhưng hiệnng thứ thì khác. Cả bốn câu thơ đầu đều có những chỗ viết không theo
lut Bng Trắc, lut trọng yếu của thơ Đường lut. Chỉ với bốn câu đã có:
- 1 lần thất niêm;
- 2 lần thất đối trong câu;
- 2 lần thất đối trong cặp câu 1 2 và cp câu 3 4;
- Hai câu thất ngôn ba chữ cuối câu đu là những tiếng cùng thanh TTT hoặc
BBB.
Trong thực tế sáng tác thơ luật ở đời Đường người ta thể tìm thấy những trường
hợp thất niêm trong thơ Vương Duy, Đỗ Phủ... nhưng dn chứng về thất thất đối thì cực
hiếm. Riêng hiện tưng ba chữ cuối câu đều là tiếng thanh bằng, tìm cũng không thấy xuất
hiện ở bài thơ thất ngôn Đường luật nào. Trong khi đó thơ cổ thể thì đó lại là hin tượng
phbiến. Những điều nêu trên chứng tỏ bốn u phần trên của bài thơ không phải là nhng
u thơ Đưng luật. Tác giả đã viết các câu này bằng thơ cổ thể.
u thất ngôn Đường luật bốn dạng chính:
BB TT BBT (1)
TT BB TTB (2)