Ngày nhận bài: 11-02-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 09-04-2025 / Ngày đăng bài: 11-04-2025
*Tác giả liên hệ: Huỳnh Tấn Đạt. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail:
huynhtandat@ump.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 11
ISSN: 1859-1779
Tổng quan
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh;28(4):11-18
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.02
Viêm n mạc hoại tử chi dưới bệnh nhân đái tháo
đường: Tổng quan yn
Huỳnh Tấn Đạt1,*
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Vm cân mạc hoại thay nhiễm trùng mô mềm hoại tử là dạng nhiễm trùng nặng, diễn tiến nhanh thường kèm theo sốc
nhiễm khuẩn, tổn thương đa quan, thưng đoạn chi và tử vong đặc biệt người bị đái to đường nếu kng chẩn đn
sớm điều trị kịp thời. Viêmn mc hoại tử thchẩn đoán chậm trdo dbị lầm với bệnh khác, đặc biệt vm tế
o hay áp xe mô mềm, một số trưng hợp không sốt và không c định đưng vào. Cần nghi ngờ ngay viêm cân mạc
hoại tử khi ghi nhận các dấu hiu p đau mô mềm, bóng nước, ban xut huyết ở vùng da, thể kết hp với du hiệu
tn thân (sốt, nhịp tim nhanh, tụt huyết áp). Chn đoán sớm, can thiệp ngoại khoa khẩn cấp (vừa là phương pháp chẩn
đn giá trị, vừa phương pp điều trị hiệu quả) điều trị kháng sinh phù hợp là những yếu tố quan trọng cải thiện
c kết cc tvong.
T khóa: viêm n mạc hoại tử; nhiễm tng mô mềm hoại t; đái tháo đưng
Abstract
NECROTIZING FASCIITIS OF LOWER LIMBS IN DIABETES: A NARRATIVE
REVIEW OF LITERATURE
Huynh Tan Dat
Necrotizing fasciitis or necrotizing soft tissue infections are generally severe and rapidly progressive. The condition is
accompanied by sepsis, multisystem organ failure that often lead to amputation or death especially in diabetic patients
if not treated promptly. Necrotizing fasciitis can be delayed in diagnosis because it can be easily confused with other
diseases, especially cellulitis or soft tissue abscess, some cases are asymptomatic and the route of entry is unknown.
Necrotizing fasciitis should be immediately considered when signs of soft tissue edema and pain, blisters and purpura
in the skin area are noted, possibly combined with systemic signs (fever, tachycardia, hypotension). Early diagnosis,
and urgent surgical intervention, which are deemed respectively a valuable diagnostic method and an effective
treatment method and appropriate antibiotic treatment are important factors in improving outcomes and mortality.
Keywords: necrotizing fasciitis; necrotizing soft tissue infections; diabetes
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4* 2025
12 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.02
1. ĐT VẤN Đ
Viêm cân mạc hoại tử (VCMHT) là một thể nhiễm trùng
nặng liên quan đến quá trình viêm và nhiễm trùng diễn tiến
nhanh gây hoại tử lan rộng da, mô dưới da cân cơ.
VCMHT thxảy ra c vị trí khác nhau trong thể,
trong đó vị trí thường gặp nhất ở chi dưới chiếm khoảng
2/3 trường hợp, ít hơn thân, bụng và tầng sinh n,
chiếm tỉ lít nhất là đầu và cổ [1]. Điều trị quan trọng nhất
là nhanh chóng cắt lọc ngoại khoa và dùng kháng sinh phổ
rộng phù hợp. Bệnh diễn tiến rất nhanh, chậm trễ trong chẩn
đoán và điều trị thể dẫn đến tổn thương mô mềm lan rộng
nếu xảy chi thểng nguy cơ đoạn chi, nặng hơn có th
gây sốc tổn thương đa quan làm tăng tỉ lệ tử vong. Các
o cáo ghi nhận tỉ lệ đoạn chi do VCMHT thay đổi lớn từ
20,3% đến 57,7% [2-5] và tỉ lệ tử vong từ 14,7% đến 29,0%
[5-7]. Nếu chẩn đn và điều trị trongng 4 ngày khi khởi
phát triệu chứng tỉ lệ tử vong thể giảm còn 12,0% [8].
VCNMT ít gặp, tần suất bệnh thay đổi từ 4,0 đến 15,5
tờng hợp/100.000 dân tần suất tăng theo tuổi [9,10].
Bệnh y thường kèm theo nhiều bệnh nền trong đó đái tháo
đường (ĐTĐ) là bệnh nền thường gặp nhất chiếm từ 44,5%
đến 61,4% [1,2,5,11,12]. Nghiên cứu (NC) của Khamnuan P
tn dân số 1.507 bệnh nhân bị VCMHT cho thấy Đtăng
nguy đoạn chi gấp 3 lần và gấp 4,35 lần trong NC của
Ahn J với dân sNC 674 bệnh nhân VCMHT chi dưới so
với dân số không bị ĐTĐ [3,5,9]. Nhóm ĐTĐ bị viêm cân
mạc hoại tử có tỉ lđoạn chi dưới cao hơn gần gấp đôi so với
nhóm không bị ĐTĐ 70,5% so với 40,4% trong NC của Ahn
J và 35,9% so với 18,4% trong NC của Tan JH [2,5].
VCMHT bệnh nhân ĐTĐ điểm nổi bật hơn so nhóm
không ĐTĐ: thường đa vi trùng, triệu chứng toàn thân tại
chổ ít hơn (ít sốt hơn, ít triệu chứng đau hơn) nên dễ bị chẩn
đoán nhầm (có thlên đến ¾ trường hợp), nhập viện trễ hơn,
dễ bị tổn thương thận n p phần tiên ợng xấu hơn [1,2].
Bệnh nhân bị Đ nhiều yếu tố nguy làm tăng tỉ lệ
đon chi tử vong khi bị VCMHT. Bệnh nhân ĐTĐ đặc
biệt u năm tờng có biến chứng thần kinh ngoại biên làm
giảm cảm giác ở chi ới nên chậm ghi nhận vết thương ở
chân và ít đau ở vết thương nên ít chú ý dẫn đến chậm chẩn
đoán VCMHT. Ngoài ra bệnh nhân ĐTĐ thường bệnh
động mạch chi dưới c mức độ khác nhau kết hợp với tình
trạng tăng đông thường xảy ra bệnh nhân ĐTĐ dẫn đến
giảm ới máu nặng ở chi dưới ặc biệt hẹp mạch mức độ
nặng) m cho mềm tổn thương từ VCMHT diễn tiến
nhanh hơn và hoại tử nặng hơn. Hơn nữa, bệnh nhân ĐTĐ
kiểm soát đường huyết m giảm sức đề kháng dễ dẫn đến
sốc nhiễm khuẩn thường tổn tơng đa quan khi bị
VCMHT nặng trên nền các biến chứng mạn ĐTĐ (tim
mạch, thận) dễ diễn tiến nặng, ng tỉ lệ đoạn chi và tử vong
[3,13-15]. Việt Nam chưa ghi nhậno cáo tỉ lệ VCMHT
chi ới bệnh nhân ĐTĐ, nhưng thực tế lâm sàng thỉnh
thoảng vẫn gặp c trường hp này, chẩn đoán thường nhầm
và chậm trễ tương tự như y n do tỉ lệ loét chân rất thường
gp bệnh nhân ĐTĐ với tỉ lệ hiện hành thlên đến 6,0%
trong dân số chung ĐTĐ, 19-34% trong suốt cuộc đời người
ĐTĐ và 50% dân số loét chân sẽ dẫn đến nhiễm trùng với
biểu hiện viêm mô tế bào, áp xe mô mềm, hoại tử ngón nên
khi xảy ra VCMHT chi dưới dễ chẩn đoán nhầm với các biểu
hiện nhiễm trùng chân thường gặp y [16,17], dẫn đến chẩn
đoán điều trị muộn. Bài tổng quan này nhằm hệ thống lại
c nguyên nhân, chế bệnh sinh, tiếp cận chẩn đoán
điều trị VCMHT chiới ở bệnh nhân ĐTĐ giúp chú ý n
đối với bệnh này, cải thiện trong chẩn đoán sớm và điều trị
tốt hơn trên thực hành lâm sàng.
2. NGUYÊN NHÂN CHẾ
BỆNH SINH
Viêm cân mạc hoại tử có thể xảy ra sau một chấn thương
nặng hoặc sau một vết trầy ớt nhỏ ở da và niêm mạc (vết
ch, trầy sướt, vết côn trùng cắn), dập cơ sau chấn thương,
sau một thủ thuật sản phụ khoa thông thường hoặc sau một
phẫu thuật ngoại khoa. Ngoài ra viêm n mạc hoại tử có th
xảy ra không tìm thấy đường vào, đặc biệt người suy giảm
miễn dịch như bệnh nhân ĐTĐ kiểm soát đường huyết kém,
bệnh nhân xơ ganNC của DeGenova DT trên dân số 92
bệnh nhân bị VCMHTchi dưới (59,8% b Đ) cho thấy
ch 14,5% bệnh nhân ĐTĐ tìm thấy đường vào [11].
Các yếu tố thúc đẩy: yếu tố thúc đẩy quan trọng nhất
ĐTĐ (chiếm tỉ lệ 44,5% - 61,4%) [1,4,10-12]. c yếu tố
khác thể thúc đẩy VCMHT được ghi nhận: béo phì,
nghiện rượu, xơ gan, bệnh thận mạn, ng huyết áp, bệnh
động mạch ngoại biên, suy tim mạn, lupus ban đỏ hệ thống,
c bệnh suy giảm miễn dch [15]. Ngoài ra tuổi càng cao dễ
bị VCMHTtiênợng xấun: bệnh nhân từ 60 tuổi trở
lênng nguy đoạn chi và nguy cơ tử vong một cách có ý
nghĩa so với nhóm tuổi dưới 60 [18].
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
13
Viêm cân mạc hoại tử nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố
nguy thúc đẩy, thể tổn thương nhiều vị trí nhiều
chế bệnh sinh nhưng có điểm chung gây tổn thương mô
lan rộng thường bắt đầu từ lớp hvà cân nông lan theo
chiều rộng sau đó xuống lớp sâu mô cơ.ơngc giữa độc
lực của vi khuẩn (ngoại độ tố exotoxines phóng thích từ vi
khuẩn) phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng qua các
cytokines phóng thích từ bạch cầu đơn nhân, limpho bào giải
tch cho tiến triển sau đó của VCMHT [19,20]. Các enzyme
tạo ra từ c chủng vi khuẩn đầu tiên sẽ phá hủy tất cả lớp
cân và hđặc biệt mô my hoại tử. Trong c lớp
này có chứa ợng lớn mạch máu nhcung cấp cho ng da,
vi khuẩn và độc tố vi khuẩn gây tổn thương c mạch máu
này với biểu hiện huyết khối và thiểu dưỡng. Hậu quả này
nguyên nhân chính gây đau ng tổn thương của VCMHT.
Ngoài ra các tổn thương do vi khuẩn gây ra có thlàm phù
nmềm, nặng thêm tình trạng thiểu ỡng của các động
mạch c nhánh thần kinh liên quany triệu chứng đau
nặng nề hơn. Hơn nữa, tình trạng huyết khối có thể xảy ra
mạch bạch huyết gây viêm và nhiễm trùng hạch bch huyết
ng bị VCMHT. bệnh nhân Đsẵn biến chứng thần
kinh ngoại biên, các thần kinh tổn thương từ VCMHT sẽ ít
triệu chứng hoặc không triệu chứng đau [15]. Ngoài ra,
VCMHT chủ yếu tổn thương ở cân cơ và hạ nhiều hơn
lớp da nông nên nhìn vẻ bình thường nên dễ chẩn đoán
chậm trễ [15].
nh 1. Diễn tiến viêmn mạc hoại tử có đường vào (Nguồn: Stevens DL 2017 [20])
nh 2. Diễn tiến viêmn mạc hoại tử không xác định đưng vào (Nguồn: Stevens DL 2017 [20])
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4* 2025
14 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.02
Diễn tiến của viêmn mạc hoại tqua 2 dạng: đường
vào được c định (qua vết hở da hoặc niêm mạc) với tổn
tơng lan từ ng đến sâu (Hình 1) hoặc không c định
được đường vào (nh 2) với tổn thương sâu lan đến mô
nông cuối cùng biểu hiện trên da với bóng nước ban
xuất huyết.
3. CHẨN ĐOÁN
VCMHT là nhiễm trùng đe dọa tính mạn, diễn tiến nhanh.
VCMHT ở chân nếu chẩn đoán sớm chính xác thể ngăn
nga được đoạn chi.
3.1. Triệu chứng lâmng
VCMHT thường có tam chứng cổ điển: đau tại chổ, sưng
tại chổ ban đỏ. Qua phân tích gộp 9 NC với dân số 1.463
bệnh nhân viêm cân mạc hoại tử [1], các dấu hiệu sớm nhất
sưng tại chỗ thường gặp nhất (80,8% trường hợp), kế đến
đau hoặc nhạy đau (79,0%) và ban đỏ (70,7%). Muộn hơn
sẽ triệu chứng bóng ớc (25,6%), hoại tử da (24,1%)
dấu lép bép (20,3%). Sốt chỉ hiện diện trong 40,0% bệnh
nhân. Dấu hiệu bóng nước liên quan với đoạn chi mức
trung bình (R=0,68). Tác giả Wang YS chia biểu hiện lâm
sàng tại chổ của VCMHT thành 3 giai đoạn [21]. Giai đoạn
1 (giai đoạn sớm): nhạy đau khi sờ ngay cả vùng cạnh tổn
thương, ban đỏ, sưng da ấm. Giai đoạn 2 (giai đoạn trung
gian): tạo bóng nước với thanh dịch bên trong. Giai đoạn 3
(giai đoạn trễ): thể dấu lép bép, mất cảm giác vùng
da, hoại tử da với màu da chuyn sẫm màu, sờ lạnh vùng
da tổn thương.
Tn thực hành lâm sàng không dễ chẩn đoán VCMHT
dựa vào các triệu chứng trên do các triệu chứng và độ nặng
của bệnh thay đổi rất lớn. Một số bệnh nhân không triệu
chứng điển hình, ít triệu chứng đáp ứng viêm tại chổ tn
tn thường xảy ra bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh
nhân ĐTĐ biến chứng thần kinh hoặc sau khi sử dụng
thuốc kháng viêm giảm đau không steroid (tờng bệnh
nhân tự sử dụng khi triệu chứng đau tại chổ). Trên m
sàng thể chia VCMHT làm 2 th: thtối cấp thbán
cấp [15]. Thn cấp có thdiễn tiến qua 2 giai đoạn: giai
đon sớm với biểu hiện tại chổ đau, sưng,m, cứng vùng da,
thể xuất hiện bóng nước sau đó đến giai đoạn trễ hơn với
triệu chứng đau nhiều hơn kèm các triệu chứng toàn thân như
buồn nôn, mệt, chóng mặt, tiêu chảy triệu chứng nhiễm
độc toàn thân (sốt, nhịp tim nhanh, thở nhanh, hạ huyết áp)
tờng diễn tiến sau 2-3 ngày. Thtối cấp diễn tiến rất nhanh,
khi thăm khám ban đầu đã biểu hiện sốc nhiễm trùng,
nhiễm độc và tổn thương đa cơ quan [15].
Có thể dựa vào hướng dẫn của Hội Nhiễm trùng Hoa kỳ
đưa ra 8 đặc điểm quan trọng gp phân biệt VCMHT với
vm mô tế bào hoặc nhiễm trùng mô mềm khác:
1. Đau nhiều không tương xứng với biểu hiện da; 2.
Không đáp ứng với điều trị kháng sinh ban đầu; 3. Cảm giác
cứng như gỗ diện ch ng da bị tổn thương; 4. Nhiễm độc
tn thân thường kèm theo giảm tri giác; 5. Phù lan rộng trên
ng da hồng ban; 6. Dấu p p ới da; 7. Sang thương
bóng nước; 8. Hoại tử da hoặc ban xuất huyết
(ecchymoses) [22]. Tuy nhiên VCMHT đầy đủ các đặc
điểm này thường giai đoạn muộn.
3.2. Chẩn đoán viêmn mạc hoại t
VCMHT có thchẩn đoán bằng các triệu chứng lâm sàng
như đã trình bàytrên. Tuy nhiên chẩn đoán chính xác nhất
là chẩn đoán bằng quan sát khi can thiệp ngoại khoa, đặc
tng bởi cân cơ nông dễ bị tổn thương, dịch tiết màu vàng
nâu (nước rửa chén) đặc biệt không mủ [20]. Những
dấu hiệu nhìn đại thể khác bao gồm huyết khối mạch máu,
không biểu hiện viêm cấp nh của mô, hoại tử u
nâu, phù cân cơ, dịch lỏng màu như nước rửa chén kèm mùi
hôi thối, không co với kích thích [19,23].
Chẩn đoán VCMHT thkhó trong giai đoạn đầu khi
bệnh nhân chdấu hiệu sưng nề vùng da đau nhưng
không sốt, chủ yếu tổn thương lớp n cơ sâu ở dưới,
cần nghi ngờ trên lâm sàng khi sờ trên vùng da tổn thương
bóng ớc không triệu chứng nóng như triệu chứng
điểnnh của viêm mô tế bào hoặc áp xe mô mềm. Phương
pháp chẩn đoán tốt nhất đơn giản là ‘test ngón tay’: vùng
nghi ngờ viêm cân mạc hoại tử sau khi gây tại chổ rạch 1
đường i khoảng 2 cm xuống u cân cơ n dưới, nếu ngón
trỏ bóc ch mô dưới da ra khỏi cân sâu một ch dễ dàng
dọc theo mặt phẳng mô test ơng tính, c này chỉ định
cắt lọc ngoại khoa khẩn cấp [1].
3.3. Cậnm sàng
Trong giai đoạn sớm VCMHT, các xét nghiệm cận lâm
sàng khó giúp chẩn đoán. thghi nhận bạch cầu máu tăng,
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
15
tăng creatinin, tăng CRP. Các xét nghiệm bất thường này
thể hiện diện bệnh nhân có bệnh mạn tính hoặc c bệnh
đồng mắc. Một số trường hợp bị suy giảm miễn dịch hoặc
ng c thuốc c chế miễn thì các chỉ dấu viêm cũng không
tăng. Đến khi giai đoạn muộn có sốc nhiễm trùng, nhiễm độc
và tổn thương đa quan tcác xét nghiệm về nhiễm trùng
và các chỉ dấu tổn thương các quan sbiểu hiện rõ.
Cấy dịch định danh vi khuẩn rất quan trọng giúp phân típ
VCMHT và chọn lựa kháng sinh phù hợp. Tuy nhiên trong
giai đoạn đầu chưa biểu hiện tổn thương ngi da nên lấy
dịch cấy khó thực hiện. thể dùng kim hút dịch ở mô sâu
để nhuộm Gram và cấy vi khuẩn. Khi bóng nước xuất hiện
da thể lấy dịch cấy m vi khuẩn, tuy nhiên kết qu
tờng không chính c do th vi khuẩn thường trú
ngoài da. Tốt nhất là lấy dịch cấy trong c can thiệp ngoại
khoa với dịchsâuhạ bì, cân cơ và cơ giúp xác định
chính xác vi khuẩn gây bệnh. Một số trường hợp định danh
vi khuẩn qua cấy máu.
Chẩn đoán sớm viêm cân mạc hoại tgặp nhiều thách
thức, dễ chẩn đoán nhầm (được chẩn đoán viêm mô tế bào
hoặc áp xe mô mềm hoặc một số biểu hiện sớm bằng triệu
chứng tiêu hóa như tiêu chảy, nôn ói nghĩ do ngđộc thức
ăn) chậm trễ (một số trường hợp không đường vào, tổn
tơng ở mô sâu chưa biểu hiện ngoài da, không sốt, ít đau
nhất là dùng các thuốc giảm đau, kháng viêm không
steroid, ĐTĐ biến chứng thần kinh ngoại biên) [15,19].
Bệnh thường diễn tiến nhanh, khi triệu chứng điển nh
tn da như mô tả ở trên bệnh đã diễn tiến nặng, có thể kèm
với triệu chứng toàn thân n nhịp tim nhanh, tụt huyết áp,
tổn thương đa quan như thận, hội chứng suy hấp cấp
Thang điểm đánh giá nguy viêm cân mạc hoại tử
(LRINEC: The Laboratory Risk Indicator for Necrotizing
Fasciitis) dựa vào các chỉ số t nghiệm c bệnh nhân đến
khám có thgiúp phân tầng nguy cơ khnăng bị viêm cân
mạc hoại tđể có hướng tiếp cận chẩn đoán sớm hơn xử
t nhanh n trong trường hợp nghi ngbệnh [24] (Bảng 1).
Mặc dù thang điểm này thể giúp ích cho chẩn đoán trong
1 strường hợp nhưng quan trọng nhất vẫn các dấu hiệu lâm
sàng tại chổ giúp chẩn đn VCMHT.
Bảng 1. Hệ thống thang điểm đánh giá nguy cơ viêm cân mạc hoại tử (LRINEC). (Nguồn Wong C.H 2004) [24]
Biến số Giá trị Điểm LRINEC Tổng điểm LRINEC Nguy cơ Khảng bviêm cân mạc hoại tử
CRP (mg/L) < 150
> 150
0
4 5 Thấp < 50%
Bạch cầu
(1000/mm3)
< 15
15-25
> 25
0
1
2
6-7 Trung bình 50 - 75%
Hemoglobin (d/dL)
> 13,5
11-13,5
< 11
0
1
2
8 Cao 75%
Sodium (mmol/L) 135
< 135
0
2 Điểm cắt của LRINEC là 6 giá trị tiên đoán ơng 92,0% giá trtiên
đn âm 96,0% cho viêm cân mạc hoại tử.
Bệnh nhân LRINEC 6 n đánh gcẩn thận khng có viêm cân mạc
hoại tử.
Creatinine u
(mg/dL)
1,6
> 1,6
0
2
Glucose máu
(mg/dL)
180
> 180
0
1
3.4. nh ảnh học trong chẩn đoán VCMHT
Theo một số tác giả thể thực hiện một số cận lâm sàng
hổ trợ chẩn đoán: Xquang mềm, CT Scan mềm hay
MRI mô mềm để tìm dấu chứng sưng nề, hoại tử khí trong
mô mềm [19,23,25]. CT scan hoặc MRI mô mềm ththấy
phù ncân , giúp đánh giá mức độ lan rộng của tổn thương
mô. Tuy nhiên c cận lâm sàng này có độ nhạy không cao
vì khó xác định tổn thương trong giai đoạn đầu không
phải tất cả viêm cân mạc hoại tử đều tụ khí trong mềm.
Không có một cậnm sàng đơn lẻ hoặc nhóm cận lâm sàng
nào có thể đủ thay thế quan t trực tiếp lúc can thip ngoại
khoa cho chẩn đoán bệnh nhiễm trùng này [20].