ISSN 1859-1779

Y HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên đề Y Tế Công Cộng

45  Kiến thức – thực hành về vệ sinh an toàn thực

TỔNG QUAN

1  Giải trình tự gen thế hệ mới: cuộc cách mạng   trong chẩn đoán và nghiên cứu y sinh học  * Phạm Hùng Vân, Nguyễn Đỗ Phúc

phẩm của người kinh doanh thức ăn đường  phố tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm  tỉnh Ninh Thuận, năm 2011  * Mai Thị Phương Ngọc, Lê Hoàng Ninh

8  Cập nhật khả năng các xét nghiệm sinh học phân

51

tử trong viêm gan siêu vi mạn tính   * Phạm Hùng Vân, Võ Đức Xuyên An

NGHIÊN CỨU Y HỌC

Tỷ lệ tăng huyết áp và những hành vi nguy cơ   của cán bộ ‐ công nhân trung tâm cơ khí toa xe   Tháp Chàm, Tỉnh Ninh Thuận,   * Nguyễn Tôn Kinh Thi, Lê Hoàng Ninh

20  Đặc điểm dịch tễ học của bệnh tay chân miệng   ở 20 tỉnh thành phía Nam Việt Nam giai đoạn  2005 – 2011   * Trần Ngọc Hữu

58  Các yếu tố xã hội ảnh hưởng sức khỏe trẻ em 6‐ 10 tuổi tại thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng  năm 2011  * Lê Hoàng Ninh, Vương Thuận An

26

65  Hành vi phòng ngừa đuối nước của người

Sự lan truyền bệnh tả qua biên giới và các yếu  tố nguy cơ bùng pháp dịch tả ở đồng bằng sông  Cửu Long năm 2010  * Trần Ngọc Hữu

31  Các bệnh truyền nhiễm đang bùng phát  ở khu

chăm sóc trẻ dưới 11 tuổi tại huyện An Phú –  tỉnh An Giang năm 2011  * Nguyễn Ngọc Duy, Lê Hoàng Ninh,   Nguyễn Thị Linh Đơn

73

vực phía Nam từ 2001‐2011  * Trần Ngọc Hữu

38  Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống

Nghiên cứu trường hợp nhiễm ký sinh trùng  sốt rét trên khỉ tại tỉnh Bình Phước  * Lê Thành Đồng, Trịnh Ngọc Hải,   Nguyễn Vân Hồng, Ngô Việt Thành

nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của bà mẹ có con  < 5 tuổi nhập viện tại Khoa Nhi bệnh viện Ninh  Phước, Ninh Thuận  * Nguyễn Thị Thùy Hương, Lê Hoàng Ninh

79  Đặc điểm thành phần loài, phân bố và mức độ  nhạy cảm của véc tơ sốt rét ở một số vùng sinh  cảnh khu vực biên giới Việt Nam ‐ Campuchia * Lê Thành Đồng, Huỳnh Kha Thảo Hiền

(Xem tiếp trang       )

Phụ bản của Tập 16 * Số 3 * 2012  ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH

LỜI

I NÓI ĐẦ

ẦU

Y tế Công

g cộng - Y

học Dự phò

òng ngày cà

àng khẳng đ

định vai trò

ò quan

trọng tron

g sự nghiệp

p bảo vệ và n

nâng cao sứ

ức khỏe con

người Việt

t Nam.

trình nghiên

n cứu khoa

học thuộc l

lĩnh vực Y t

tế Công cộn

ng - Y

Các công

BA

AN BIÊN T

TẬP

hòng không

g chỉ góp ph

hần phòng c

hống dịch b

bệnh mà còn

n giúp

học Dự ph

PG

GS.TS. Lê H

Hoàng Ninh (

(Chủ biên)

giảm thiểu

u các hành v

vi có hại cho

o sức khỏe,

kéo dài tuổ

ổi thọ và nân

ng cao

BS

S. CKII. Lê V

Vinh

dân.

chất lượng

g cuộc sống

cho người

BS

Trọng Thiệ

S. CKII. Vũ

n

Trong nhữ

ững năm gần

n đây, các v

vấn đề liên q

quan tới Y

tế Công cộn

ng - Y

TS

Văn Chính

. BS. Đặng

học Dự ph

hòng đã đượ

ợc chú trọng

g và đầu tư

bởi các việ

ện, các

nghiên cứu

TS

Hồng Lân

. BS. Trịnh

trường đại

i học và các

c đơn vị y t

tế trên cả nư

ước. Nhằm

tạo điều kiệ

ện cho

Đỗ Phúc

. Nguyễn Đ

TS

các nhà kh

hoa học có m

một diễn đà

àn để trao đổ

ổi học thuật

t trong lĩnh

vực Y

S. BS. Phùn

ng Đức Nhậ

ật

Th

tế Công c

ộng - Y học

c Dự phòng

g; đồng thời

i tập hợp và

à công bố c

các kết

S. BS. Nguy

yễn ThúyNg

gọc

Th

ác công trìn

nh nghiên cứ

ứu theo từn

ng giai đoạn

n, cứ hai năm

m một

quả của cá

Ý AN THƯ KÝ

BA

lần, Viện V

Vệ sinh - Y

Y tế Công cộ

ộng thành ph

hố Hồ Chí M

Minh tổ chứ

ức Hội

Th

S. Nguyễn N

Ngọc Duy

nghị Khoa

a học Kỹ th

huật Y tế Cô

ông cộng - Y

Y học Dự p

phòng. “Hội

i nghị

N. Lê Thị Ng

ga

CN

Khoa học

c Kỹ thuật

t Y tế Côn

ng cộng - Y

Y học Dự p

phòng giai

đoạn

CN

N. Lê Thị Ng

gọc Ánh

2010-2012

2” được tổ c

chức vào ng

gày 24/08/2

012, với sự

ủa các

tham gia củ

CN

N. Nguyễn T

Thị Trà My

báo cáo vi

iên đến từ c

các viện, các

c trường đạ

c đơn vị Y t

tế trên

i học và các

cả nước và

à gần 100 b

ài báo cáo c

có chủ đề đa

a dạng, phon

ng phú.

Chúng tôi

i xin chân th

hành cảm ơ

ơn sự động v

viên quý bá

áu, sự hỗ trợ

ợ nhiệt

tình của lã

ãnh đạo Bộ

ộ Y tế, Tổ c

chức Y tế th

hế giới và c

các đơn vị c

có liên

quan. Xin

n chân thành

h cảm ơn s

sự tham gia

a nhiệt tình

của các bá

áo cáo

viên, sự n

nỗ lực làm v

việc hết mì

ình của ban

n biên tập v

và ban thư k

ký hội

nghị trong

g công tác bi

iên soạn cho

o tập san nà

ày. Tất cả nh

hững đóng g

góp và

nỗ lực quý

ý báu này đ

đã làm nên s

sự thành côn

ng tốt đẹp c

của Hội ngh

hị, góp

phần cho s

sự nghiệp ph

hát triển của

a ngành Y t

m. tế Việt Nam

Xin trân tr

rọng giới th

hiệu các báo

o cáo kết qu

uả nghiên cứ

ứu trong Hộ

ội nghị

tới Quý độ

ộc giả.

Viện tr

rưởng

Minh

Viện V

Vệ sinh - Y

tế Công cộ

ng thành p

phố Hồ Chí

PGS.TS. LÊ P

Ê HOÀNG N

NINH

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

GIẢI TRÌNH TỰ GEN THẾ HỆ MỚI: CUỘC CÁCH MẠNG   TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC

NEXT GENERATION SEQUENCING: THE REVOLUTION IN DIAGNOSIS AND

BIO-MEDICAL RESEARCH

Phạm Hùng Vân*, Nguyễn Đỗ Phúc**

TỪ GIẢI TRÌNH TỰ SANGER

kể  cả  phòng  thí  nghiệm  lâm  sàng(5).  Không  chỉ  vậy, ứng dụng của giải trình tự không chỉ trong

Giải  trình  tự  là  tìm  ra  được  thứ  tự  sắp  xếp

Hai giai đoạn của giải trình tự Sanger một

Hình 1:   đoạn gene (DNA) với giai đoạn đầu là giai đoạn phản ứng  giải trình tự và giai đoạn kế là giai đoạn điện di giải trình

của 4 loại nucleotide A, T, C và G  trên  một  đoạn  DNA.  Kỹ  thuật  giải trình tự của Sanger gồm hai  giai  đoạn:  (1)  Giai  đoạn  đầu  gọi  là giai đoạn phản ứng giải trình tự  là  dùng  enzyme  polymerase  để  nhân  bản  đoạn  DNA  muốn  giải  trình tự thành các đoạn cách biệt  nhau chỉ có một nucleotide tận ở  đầu  3’  và  nucleotide  tận  này  có  thể nhận diện được nhờ kỹ thuật  đánh  dấu  huỳnh  quang  trên  chính  nucleotide  tận  đó  hay  đánh dấu huỳnh quang trên mồi;  (2) Giai đoạn kế gọi là giai đoạn  điện di  giải  trình  tự  là  dùng  điện  di độ phân giải cao (điện di bản  gel  polyacrylamide  hay  diện  di  mao  quản)  để  sắp  xếp  các  đoạn  trình tự dài ngắn khác nhau theo  kích  thước  (ngắn  trước,  dài  sau  dù  chỉ  cách  nhau  có  một  nucleotide)  và  chính  nhờ  thứ  tự  này mà biết được thứ tự sắp xếp  các nucleotide của trình tự đoạn  DNA  được  giải  trình  tự  này  (hình  1).  Kể  từ  khi  được  phát  minh bởi F. Sanger vào năm 1977  đến nay(11,12,10), kỹ thuật giải trình tự Sanger đã có  những bước tiến vượt bậc về hóa chất cho phản  ứng giải trình tự và thiết bị cho điện di giải trình  tự do vậy mà kỹ thuật giải trình tự có thể triển  khai được khá dễ dàng tại các phòng thí nghiệm,

nghiên  cứu  mà  cả  trong  chẩn  đoán.  Xin  kể  ra  đây một số các công dụng của giải trình tự(5): (1)  Giải trình tự để biết được trình tự nucleotide của  bất cứ một đoạn DNA nào đó và đây chính là cơ  sở để các nhà khoa học có thể giải trình tự gene  hay bộ gen cho các nghiên cứu có liên quan; (2)

∗ Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh      ** Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  ĐT: 0903698920  Tác giả liên lạc: Ts.Bs.Phạm Hùng Vân

Email: phhvan.nkbiotek@gmail.com

1

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

loại  nucleotide,

trình

Giải trình tự để phát hiện các thay đổi của trình  tự nucleotide của một đoạn DNA và đây là cơ sở  để  phát  hiện  các  đột  biến  gene  (liên  quan  đến  ung  thư,  đến  kháng  thuốc),  các  SNP  (trong  cá  nhân  hóa  các  liệu  pháp  điều  trị),  các  kiểu  gene  (genotype của virus gây bệnh)…; (3) Định danh  vi khuẩn hay vi nấm dựa trên giải trình tự DNA  của gene qui định RNA của ribosome (16S của vi  khuẩn  và  28S  của  vi  nấm)  đặc  biệt  là  các  tác  nhân  khó  định  danh  hay  thất  bại  nuôi  cấy  từ  mẫu  thử;  (4)  Ngoài  ra  công  nghệ  điện  di  độ  phân giải cao đặc biệt là công nghệ điện di mao  quản tự động được sử dụng trong giải trình tự  còn  được  áp  dụng  trong  phân  tích  đoạn  (fragment analysis) tức là phân tích để phân biệt  được  các  đoạn  DNA  có  kích  thước  khác  biệt  nhau chỉ vài nucleotide và áp dụng này được sử  dụng trong xét nghiệm dấu vân tay DNA (DNA  finger  printing)  để  nhận  dạng  cá  nhân  và  mối  quan hệ cá nhân (pháp y), trong chẩn đoán tiền  sanh, trong phát hiện đa dạng loài…

ĐẾN PYROSEQUENCING

ứng (có chứa đoạn DNA muốn giải trình tự, mồi  giải  trình  tự,  và  các  thành  phần  cho  phản  ứng  tổng  hợp  sợi  khuôn);  và  mỗi  khi  dung  dịch  nucleotide cho vào là đúng với nucleotide được  bắt cặp vào sợi khuôn để tổng hợp sợi bổ sung  thì  một  pyrophosphate  (PPi)  sẽ  được  phóng  thích ra để được enzyme sulfurylase tạo ra một  ATP,  ATP  này  sẽ  giúp  hệ  thống  phát  quang  luciferin‐luciferase (cũng được cho vào cùng lúc)  phát  ra  ánh  sáng  do  men  luciferase  oxide  hóa  được luciferin thành oxyluciferin và phát ra ánh  sáng  (hình  2).  Với  sự  ghi  nhận  tín  hiệu  phát  quang  từ  ống  phản  ứng  theo  trình  tự  bổ  sung  dung  dịch  các  thiết  bị  tự  các  pyrosequencing  sẽ  dịch  ra  nucleotide  trên  đoạn  DNA  được  giải  trình  tự.  Do  ATP  được  sử  dụng  để  làm  hệ  thống  luciferin‐luciferase  phát  quang  nên  trong  dung  dịch  dNTP  cho  vào  giếng  phản  ứng,  dATP‐αS  được  sử  dụng  để  thay  thế  dATP  vì  dATP‐αS  không có hoạt tính của ATP. Ngoài ra, để có thể  huỷ được ATP và các nucleotide tự do còn thừa  sau  mỗi  lần  bổ  sung  nucleotide,  men  apyrase

Khác  với  giải  trình  tự  Sanger  là  kỹ  thuật giải trình tự phải có hai giai đoạn  và  giai  đoạn  giải  trình  tự  được  thực  hiện sau phản ứng giải trình tự; Trong  pyrosequencing, giải trình tự được thực  hiện ngay trong giai đoạn tổng hợp sợi  DNA bổ sung cho sợi khuôn được giải  trình tự, nghĩa là tổng hợp sợi DNA bổ  sung  đến  đâu  thì  giải  trình  tự  đến  đó  mà  không  phải  chờ  sau  khi  tổng  hợp  sợi bổ sung rồi mới đem điện di để giải  trình  tự.  Pyrosequencing  được  Pål  Nyrén và Mostafa Ronaghi tại Viện Kỹ  Thuật Hoàng Gia Thuỵ Điển phát minh  năm 1996(4,8,7). Nguyên tắc của kỹ thuật  giải  trình  tự  trong  pyrorequencing  là  ghi nhận tín hiệu  phát  quang  từ  giếng  phản ứng mỗi khi sợi bổ sung dựa trên  sợi khuôn kéo dài được một nucleotide.  Để làm được điều này, dung dịch chứa  các loại nucleotide A, hay T, hay C, hay  G được lập trình để cho vào giếng phản

Hình 2: Nguyên tắc của kỹ thuật pyrosequencing (Hình từ Internet)

2

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

cũng được cho vào giếng phản ứng  sau  khi  tín  hiệu phát quang được ghi nhận.

giải

tự,  do

trình

sequencing) sau này. Với ưu thế thời gian giải  trình  tự  nhanh,  trình  tự  giải  được  rất  chính  xác,  cường  độ  phát  quang  định  lượng  được  nên  dù  trình  tự  giải  đuợc  không  dài  (không  quá 100 bases) nhưng pyrosequencing cũng có  nhiều  ứng  dụng  có  ưu  thế  hơn  kỹ  thuật  giải  trình tự Sanger, đặc biệt là trong phát hiện và  định  lượng  các  đột  biến  là  một  áp  dụng  rất  quan trọng trong chẩn đoán, tiên đoán dự hậu  và chỉ định điều trị đích phân tử ung thư(1,6).

Pyrosequencing  là  một  bước  ngoặc  về  kỹ  thuật trong giải trình tự, cho phép giải trình tự  ngay trong quá trình tổng hợp sợi bổ sung cho  đoạn  DNA  vậy  pyrosequencing  chính  là  công  nghệ  khởi  đầu  cho  kỹ  thuật  giải  trình  tự  bằng  tổng  hợp  (sequencing  by  synthesis,  SBS),  nền  tảng  của  kỹ thuật giải trình tự bộ gene hay còn gọi là kỹ  thuật giải trình tự thế hệ mới (next generation

GCT GG/AT GGC G

GCT GG/AT GGC G

G (50%), A (50%

G (67%), A (33%

Bình thường: GCT GGT GGC G Bình thường: GCT GGT GGC G Đột biến: Đột biến: Kết quả phát hiện: Kết quả phát hiện: Hình  3  : Kết quả phát hiện và định lượng đột biến KRAS với hình bên trái tỷ lệ đột biến codon 12 (GGT  thành GAT) là 50% vì cường độ phát quang của G là gấp 150% so với cường độ phát quang bình thường  còn cường độ phát quang của A tiếp theo đó chỉ đạt 50% bình thường và hình bên phải tỷ lệ đột biến là 33%  vì cường độ phát quang của G là gấp 167% so với cường độ phát quang bình thường còn cường độ phát  quang của A tiếp theo đó chỉ đạt 33% bình thường (Hình từ Internet)

3

cho

Hình

di truyền, và đặc biệt trong vi sinh lâm sàng là  định  danh  các  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  kỹ  thuật  pyrosequencing  là  một  kỹ  thuật  mở  cho  phép  các nhà nghiên cứu có thể thiết kế các qui trình  pyrosequencing cho các mục đích khác nhau tùy  theo các đề án của mình. Chính vừa là kỹ thuật  mở, vừa có sẵn các bộ thuốc thử thương mại, do  vậy  pyrosequencing  là  một  kỹ  thuật  không  thể  thiếu trong các phòng thí nghiệm sinh học phân  tử  vì  vừa  có  thể  sử  dụng  cho  các  dịch  vụ  chẩn  đoán lâm sàng, vừa làm công cụ cho nghiên cứu.

thấy  là  một  ví  dụ  pyrosequencing  có  thể  phát  hiện  các  tỷ  lệ  đột  biến  KRAS  mà  kỹ  thuật  giải  trình  tự  Sanger  không thể làm được vì cường độ huỳnh quang  ghi  nhận  được  trong  Sanger  là  không  định  lượng được. Hiện nay đã có nhiều bộ thuốc thử  đã  được  chấp  nhận  IVD  (In‐Vitro  Diagnosis)  trong  phát  hiện  các  đột  biến  gene  ung  thư  liên  quan đến chỉ định và theo dõi điều trị đích, định  lượng  các  CpG  với  C  bị  gắn  methyl  (Cytosine  methylation)  để  tiên  đoán  ung  thư,    phát  hiện  đột biến gene trong chẩn đoán và sàng lọc bệnh

3

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

Tách rời và tóm bắt các mảnh DNA được giải trình tự lên các giá bám

Dùng PCR với mồi đặc hiệu adapter để khuếch đại các mảnh DNA trên giá bám thành từng clone

Thực hiện giải trình tự bằng tổng hợp (SBS)

Hình 4: Ba giai đoạn của giải trình tự thế hệ mới (1) Tách rời và tóm bắt các mảnh DNA được giải trình tự lên các giá bám; (2) Dùng PCR với mồi đặc hiệu adapter để khuếch đại các mảnh DNA trên giá bám thành từng clone; (iii) Thực hiện giải trình tự bằng tổng hợp

(P.H. Vân vẽ 2012)

4

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

là  nano‐well  và  kích  thước  này  cho  phép  mỗi  nano‐well chỉ chứa được một vi hạt mà thôi.

Giải trình tự  thế hệ  mới  –  một  bước  tiến  nhảy vọt về công nghệ

thuốc

Đây  là  một  cuộc  cách  mạng  về  công  nghệ  giải trình tự vì nếu  giải  trình  tự  Sanger  chỉ  cho  phép  giải  trình  tự  không  quá  1500bps,  hay  pyrosequencing không quá 100bps, thì giải trình  tự  thế  hệ  mới  cho  phép  giải  được  từ  8Gbases  đến  600Gbases,  có  nghĩa  là  cho  phép  giải  trình  tự nguyên bộ gene. Do  vậy  giải  trình  tự  thế  hệ  mới còn được gọi là giải trình tự bộ gene (whole  genome sequencing). Về nguyên tắc hoạt động,  kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới là giải trình tự  bằng  tổng  hợp  (SBS)  bao  gồm  các  giai  đoạn  chính sau đây (hình 4):

.(1)  Tách  rời  và  tóm  bắt  các  mảnh  DNA  được  giải  trình  tự  lên  các  giá  bám:  Trước  hết  DNA  bộ  gene  được  bẻ  gãy  thành  các  mảnh  DNA  ngắn  nhờ siêu âm hay nhờ khí dung, sau đó các mảnh  DNA ngắn này được gắn vào hai đầu các đoạn  trình tự ngắn gọi là adapter (có hai loại: một có  trình tự nhận biết bởi các đoạn dò được gắn trên  các giá bám, một được nhận biết bởi trình tự mồi  PCR). Các mảnh DNA này sẽ được tóm bắt trên  các giá bám là các hạt nano (Roche hay ABI) hay  trên  các  vi  bản  (Illumina)  nhờ  các  đoạn  dò  đặc  hiệu  adapter  đã  gắn  sẵn  trên  các  giá  bám  này.  Phải pha loãng các mảnh DNA đã gắn adapter ở  nồng độ thích hợp để nếu giá bám là các vi hạt  thì đa số sẽ chỉ có một mảnh DNA được tóm bắt  hay nếu giá bám là vi bản thì các mảnh DNA bị  tóm bắt phải cách xa nhau.

(2)  Dùng  PCR  với  mồi  đặc  hiệu  adapter  để  khuếch đại các mảnh DNA trên giá bám thành từng  clone: Nếu giá bám là vi bản thì thuốc thử PCR  được bơm trải lên vi bản và khi thực hiện PCR  sẽ có từng clone sản phẩm khuếch đại được tóm  bắt trên các vị trí tách rời nhau trên vi bản; nếu  giá bám là các vi hạt thì phải nhủ hoá thuốc thử  PCR để đa số các giọt nhủ là chỉ chứa một vi hạt  nhờ vậy mà khi thực hiện PCR mỗi vi hạt sẽ chỉ  có một clone sản phẩm khuếch đại bám lên. Sau  khi  giải  bỏ  dạng  nhủ  dịch,  các  vi  hạt  sẽ  được  bơm vào một bản chip có chứa hàng chục ngàn  đến hàng trăm ngàn giếng kích thước nano gọi

(3)  Thực  hiện  giải  trình  tự  bằng  tổng  hợp:  Nguyên tắc của giai đoạn thực hiện giải trình tự  này cũng gần giống nguyên tắc pyrosequencing,  tuy  nhiên  có  một  số  điểm  khác  biệt,  đó  là:  (i)  Thay vì phải huỷ bỏ các thành phần A T, C, và G  trong  thuốc  thử  đã  cho  vào  giếng  phản  ứng  trước  khi  cho  thử  mới  vào  như  pyrosequencing  thì  trong  giải  trình  tự  thế  hệ  mới, thuốc thử giải trình tự được thổi chảy vào  chip nano‐well hay vi bản theo chương trình và  sau khi ghi nhận được tín hiệu thì thuốc thử cũ  sẽ được thổi chảy ra để thuốc thử mới lại được  bơm  vào.  (ii)  Tín  hiệu  tổng  hợp  được  ghi  nhận  sau mỗi lần bơm thuốc thử vào có thể là tín hiệu  phát  quang  dựa  trên  hệ  thống  luciferin‐ luciferase  (454  của  Roche)(3,13),  tín  hiệu  điện  do  thay  đổi  pH  (Ion‐Tolent  hay  Ion‐Proton  của  ABI)(9),  tín  hiệu  huỳnh  quang  được  đánh  dấu  trên  các  nucleotide  A,  T,  C  hay  G  (Solexa  của  Illumina)(2),  hay  cũng  có  thể  là  tín  hiệu  huỳnh  quang được gắn lên probe (solid của ABI)(14). (iii)  Tổng  hợp  mạch  bổ  sung  dựa  trên  mạch  khuôn  có thể là kéo dài đầu 3’ của mạch bổ sung bằng  các nucleotide (A, T, C hay G) và cứ mỗi khi một  nucleotide  được  kéo  dài  thì  sẽ  có  một  tín  hiệu  phát quang (Roche) hay huỳnh quang (Illumina)  được ghi nhận, hay có thể là kéo dài đầu 3’ của  mạch bổ sung mỗi lần 2 base nhờ sự kéo dài và  nối probe dựa trên sợi khuôn và cứ mỗi khi tổng  hợp  được  2  base  thì  sẽ  có  một  tín  hiệu  huỳnh  quang  được  ghi  nhận  (Solid  của  ABI).  Thứ  tự  của các lần thổi thuốc thử giải trình tự vào chip  nano‐well hay vào vi bản được máy tính ghi lại  đồng thời với thứ tự và cường độ tín hiệu tổng  hợp sợi bổ sung của từng clone DNA bám lên vi  bản  hay  trên  vi  hạt,  nhờ  vậy  mà  sẽ  giải  được  trình tự của các mảnh DNA trên từng clone bám  trên  vi  bản  hay  trên  các  vi  hạt.  Vì  có  đến  hàng  chục ngàn đến hàng trăm ngàn clone nên sẽ có  hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn trình tự sẽ  giải  được  tương  ứng  với  hàng  chục  ngàn  đến  hàng  trăm  ngàn  mảnh  DNA  từ  bộ  gene  sẽ  giải  được. Các trình tự của các mảnh DNA giải được

5

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

sẽ được phần mềm của thiết bị nối lại với nhau  bằng  cách  so  chuỗi  tìm  các  trình  tự  trùng  lặp  nhau ở hai đầu và như vậy là sẽ có kết quả của  trình tự nguyên bộ gene.

hệ mới có thể thực hiện được một cách dễ dàng  với  các  thiết  bị  có  công  suất  nhỏ  khoảng  6  đến  10Gbases  chứ  không  cần  phải  đến  hàng  trăm  Gbases.

Giải  trình  tự  thế  hệ  mới  và  các  ứng  dụng  cách mạng trong chẩn đoán và nghiên cứu

Giải trình tự thế hệ mới thật sự là một cuộc  cách  mạng  trong  công  nghệ  giải  trình  tự  nói  riêng  và  trong  công  nghệ  sinh  học  phân  tử  nói  chung.

Giải trình tự thế hệ mới là một công cụ mạnh  nhất  để  phát  hiện  được  các  tác  nhân  nhiễm  trùng  bí  mật  vì  với  khả  năng  giải  được  hàng  trăm  ngàn  mảnh  DNA  có  trong  mẫu  thử  thì  công nghệ này rất dễ dàng lôi ra ánh sáng bất cứ  một trình tự nucleic acid của bất cứ tác nhân gì  có  mặt  trong  mẫu  thử  lấy  từ  vật  chủ  hay  bệnh  nhân.

Giải  trình  tự  thế  hệ  mới  cũng  là  công  cụ  nhạy cảm nhất để có thể phát hiện các đột biến  cho dù tỷ lệ đột biến hiện diện trong mẫu thử là  rất thấp, chỉ vài đột biến trong cả một quần thể  không đột biến, chính vì vậy giải trình tự thế hệ  mới là một công cụ không thể thiếu được trong  phát hiện và định lượng các đột biến trong ung  thư, trong bệnh di truyền….

Với các tiến bộ về thiết bị và thuốc thử, hiện  nay giải trình tự bộ gene của một cá nhân không  còn là một nghiên cứu chỉ thực hiện được tại các  trung  tâm  giải  trình  tự  lớn  trên  thế  giới  mà  có  thể  được  thực  hiện  tại  các  phòng  thí  nghiệm  trung  bình  có  thiết  bị  giải  trình  tự  thế  hệ  mới  như solid, solexa, ion‐proton, 454…và thời gian  để có kết quả không phải kéo dài đến hàng năm  mà chỉ trong vài ngày, thậm chí chỉ trong 24 giờ  với  giá  thành  không  phải  đến  hàng  triệu  dolla  mà chỉ cần vài ngàn dolla. Đối với giải trình tự  bộ gene vi khuẩn hay virus thì giải trình tự thế

Adapter có barcode

Gắn adapter

Gắn adapter

PCR với mồi gắn barcode ở đầu 5’

Sản phẩm đưa vào SBS đã đánh dấu barcode

Hình 5: Hai cách đánh dấu barcode các mảnh DNA (sản phẩm PCR) trước khi đưa vào SBS (giải trình tự bằng  tổng hợp)(P.H.Vân vẽ 2012)

độ nhạy cao của kỹ thuật. Chính nhờ ứng dụng  này mà trong tương lai các chẩn đoán tiền sanh  phát hiện dị bội trong thai nhi không còn là một  xét nghiệm xâm lấn phải lấy mẫu chọc nước ối

Một ứng dụng đặc biệt nữa của giải trình tự  thế hệ mới, đó là chẩn đoán tiền sanh phát hiện  dị bội của thai nhi bằng phân tích DNA của bào  thai hiện diện trong máu mẹ dựa trên ưu điểm

6

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

2. Mardis  ER

(2008).  ʺNext‐generation  DNA  sequencing

methodsʺ. Annu Rev Genomics Hum Genet 9: 387–402

nữa  mà  chỉ  cần  xét  nghiệm  trên  máu  mẹ  mà  thôi.

3. Margulies M, Egholm M, Altman WE et al. (2005). ʺGenome  in  Open  Microfabricated  High  Density

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

Ngoài ra, một câu hỏi mà nhiều nhà nghiên  cứu đặt ra là liệu SBS có thể giải trình tự các sản  phẩm PCR để phát hiện đột biến hay không vì  liệu SBS có thể phân biệt các trình tự được giải là  của sản phẩm PCR nào? Câu hỏi này thật ra đã  được  kỹ  thuật  barcode  (mã  vạch)  của  SBS  giải  quyết, đó là gắn lên adapter các mã vạch là thứ  tự đã biết của các nucleotide (A, T, C, và G) hay  sử  dụng  các  mồi  có  có  đầu  5’  được  thêm  các  trình tự barcode đã biết của các nucleotide, nhờ  vậy  mà  với  một  hỗn  hợp  của  nhiều  sản  phẩm  PCR  được  giải  trình  tự  bởi  SBS,  nhờ  trình  tự  nucleotide trên barcode, có thể nhận  diện  được  trình  tự  được  giải  là  của  sản  phẩm  PCR  nào  (hình 5).

12.

13.

Sequencing  Picoliter Reactorsʺ. Nature 437 (7057): 376–80.  Nyrén,  P.  (2007).  ʺThe  History  of  Pyrosequencingʺ.  Methods  Mol Biology 373: 1–14.  Phạm Hùng Vân (2009). PCR và real‐time PCR – Những vấn  đề cơ bản và các áp dụng thường gặp. Nhà Xuất Bản Y Học.  Poehlmann,  A.et  al  (2007).  ʺK‐ras  mutation  detection  in  colorectal cancer using the Pyrosequencing technique.ʺPathol  Res Pract.203, 489‐97.  Ronaghi  et  al.;  Karamohamed,  S;  Pettersson,  B;  Uhlén,  M;  Nyrén, P (1996). ʺReal‐time DNA sequencing using detection  of pyrophosphate releaseʺ. Analytical Biochemistry 242 (1): 84–9  Ronaghi  et  al.;  Uhlén,  M;  Nyrén,  P  (1998‐07‐17).  ʺA  sequencing  method  based  on  real‐time  pyrophosphateʺ.  Science 281 (5375): 363.  Rusk, N. (2011). ʺTorrents of sequence.ʺ Nat Meth 8(1): 44‐ 44  Sanger  F  (8  Dec  1980).  Determination  of  nucleotide  sequences in DNA. Nobel lecture.  Sanger  F,  Coulson  AR  (1975).  ʺA  rapid  method  for  determining  sequences  in  DNA  by  primed  synthesis  with  DNA polymeraseʺ. J. Mol. Biol. 94 (3): 441–8.  Sanger  F,  Nicklen  S,  Coulson  AR  (1977).  ʺDNA  sequencing  with  chain‐terminating  inhibitorsʺ.  Proc.  Natl.  Acad.  Sci.  U.S.A. 74 (12): 5463–7.  Schuster SC. (2008).  ʺNext‐generation  sequencing  transforms  todayʹs biologyʺ. Nat. Methods 5 (1): 16–8.

Chính vì có nhiều ứng dụng không chỉ trong  nghiên  cứu  mà  cả  trong  chẩn  đoán  phục  vụ  nhiều  khoa  lâm  sàng  khác  nhau  như  vậy  nên  chúng ta nhất thiết phải trang bị và thuần thục  kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

14. Valouev A, Ichikawa J, Tonthat T et al. (July 2008). ʺA high‐ resolution, nucleosome position map of C. elegans reveals  a lack of universal sequence‐dictated positioningʺ. Genome  Res. 18 (7): 1051–63.

Baysal  BE  et  al  (2004).  Analysis  of  CHEK2  gene  for  ovarian  cancer susceptibility. Gynecol Oncol, Oct 2004; 95(1): 62‐69.

7

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

CẬP NHẬT KHẢ NĂNG CÁC XÉT NGHIỆM SINH HỌC PHÂN TỬ  TRONG VIÊM GAN SIÊU VI MẠN TÍNH

UPDATE THE POSSIBILITIES OF THE MOLECULAR TESTINGS IN CHRONIC VIRAL HEPATITIS

Phạm Hùng Vân*, Võ Đức Xuyên An**

XÉT  NGHIỆM  SINH  HỌC  PHÂN  TỬ  TRONG  VIÊM  GAN  B

Xét nghiệm phát hiện và định lượng HBV‐ DNA

không, tức là người đó có bị viêm gan mạn tính  không? Nếu xác định là bị viêm gan mạn tính thì  phải  được  điều  trị  đặc  hiệu.  Do  vậy,  nếu  một  người bị HBsAg dương tính, chúng ta cần phải  thử  máu  xem  HBV‐DNA  có  bị  dương  tính  không và số lượng bao nhiêu? Đây chính là xét  nghiệm  phát  hiện  và  định  lượng  HBV‐ DNA(22,8,21).  Nếu  HBV‐DNA  dương  tính  với  số  lượng quá 105/ml thì phải tiếp tục xem men gan  (là  thử  nghiệm  ALT  hay  SGPT)  của  họ  có  cao  không? Nếu cao vượt ngưỡng 2 lần bình thường  (ALT  bình  thường  là  19  IU  ở  nữ(29) và  33  IU  ở  nam(29))  thì  được  coi  là  viêm  gan  mạn  tính  và  phải điều trị. Nếu men gan bình thường thì cần  phải  chắc  chắn  là  tế  bào  gan  có  bị  thương  tổn  không thông qua xét nghiệm về hình thái tế bào  gan  như  sinh  thiết  gan  hay  fibroscan.  Nếu  kết  quả  cho  thấy  có  thương  tổn  thì  họ  cũng  phải  được xem là đang bị viêm gan mạn tính và phải  cần điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân dù men gan  bình  thường.  Xét  nghiệm  phát  hiện  và  định  lượng  HBV‐DNA  là  một  loại  xét  nghiệm  sinh  học phân tử, thông thường được thực hiện bằng  kỹ thuật PCR định lượng, được gọi là qPCR hay  real‐time  PCR.  Về  mặt  nguyên  tắc  qPCR  cũng  giống  như  PCR  nhưng  có  thêm  một  tính  năng  nữa  là  có  thể  đếm  được  có  bao  nhiêu  bản  gốc  DNA  trước  khi  được  nhân  bản  nhờ  một  hệ  thống  quang  học  có  khả  năng  phát  hiện  được  phản  ứng  xảy  ra  trong  ống  nghiệm  trong  khi  nhân  bản  xảy  ra.  Do  áp  dụng  được  đặc  điểm  PCR  là  một  kỹ  thuật  mở  hoàn  toàn,  người  làm  xét  nghiệm  có  thể  tự  pha  thuốc  thử  để  làm  xét  nghiệm mà không phải bị lệ thuộc và các kit xét  nghiệm mua từ các hãng nước ngoài rất đắt tiền,

Đa số người bị nhiễm virus viêm gan B thì sẽ  có được đáp ứng miễn dịch bảo vệ, tức là sẽ tạo  được  kháng  thể  chống  HBsAg  (gọi  là  anti‐ HBsAg)  và  tiêu  diệt  được  virus  viêm  gan  B.  Người  đó  khi  thử  máu  sẽ  dương  tính  anti‐ HBsAg. Tuy nhiên có một số người hệ miễn dịch  lại không thể tạo ra được kháng thể bảo vệ này  nên  thử  máu  lúc  nào  cũng  dương  tính  với  HBsAg.  Trong  cơ  thể  của  người  đó  có  một  sự  đấu  tranh  qua  lại  giữa  hệ  miễn  dịch  và  virus.  Nếu  hệ  miễn  dịch  cân  bằng  được  hay  ưu  thế  hơn thì sẽ kiềm hãm không cho virus nhân bản  được  thành  các  virus  hoàn  chỉnh  do  vậy  mà  sẽ  không  có  hay  sẽ  có  rất  ít  virus  hoàn  chỉnh  vào  trong máu. Những trường hợp này được gọi là  người  lành  mang  virus,  nếu  thử  máu  sẽ  thấy  HBsAg dương tính nhưng dấu hiệu cho thấy có  virus hoàn chỉnh là HBV‐DNA, tức là acid nhân  của virus, thường âm tính hay dương tính với số  lượng (số copies) rất thấp (<105/ml). Nhưng nếu  hệ miễn dịch không kiềm hãm được mà để virus  thắng  thế  thì  chúng  sẽ  nhân  bản  được  nhiều  trong  tế  bào  gan  tạo  ra  được  nhiều  virus  hoàn  chỉnh  vào  máu  của  bệnh  nhân  và  lúc  này  thử  máu  sẽ  thấy  HBsAg  dương  tính  đồng  thời  có  virus  hoàn  chỉnh  hiện  diện  trong  máu  với  số  lượng cao phát hiện thông qua xét nghiệm HBV‐ DNA cho kết quả dương tính và số lượng vượt  trên  105  copies/ml.  Trong  trường  hợp  này  cần  phải  xác  định  gan  người  bệnh  có  bị  tổn  hại

**Công ty Nam Khoa  ĐT: 0903698920

Email: phhvan.nkbiotek@gmail.com

* Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Ts.Bs.Phạm Hùng Vân

8

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Ngoài ra xét nghiệm này cũng phải được chỉ  định cứ mỗi 3 tháng trong quá trình điều trị để  đánh  giá  hiệu  quả  điều  trị  và  nguy  cơ  kháng  thuốc của virus trên bệnh nhân. Bất cứ khi nào  kết quả phát hiện và định lượng HBV‐DNA cho  thấy  có  sự  xuất  hiện  trở  lại  HBV‐DNA  trên  ngưỡng phát hiện thì bác sĩ điều trị phải lưu ý vì  đây  chính  là  dấu  hiệu  cho  thấy  virus  đang  kháng thuốc điều trị hay bệnh nhân không tuân  thủ liệu pháp điều trị mà bác sĩ đang chỉ định.

Xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  kháng  thuốc

nên  hiện  có  nhiều  phòng  xét  nghiệm  tại  Việt  Nam thực hiện được xét nghiệm sinh học phân  tử này. Tuy nhiên nếu dựa trên hệ thống mở thì  muốn kết quả xét nghiệm được chính xác, người  làm xét nghiệm phải thực hiện đủ các chứng để  kiểm soát không cho các sơ sót xảy ra trong quá  trình làm xét nghiệm và các chứng này phải hiển  thị  trên  kết  quả  xét  nghiệm(39,41).  Đối  với  xét  nghiệm  qPCR  phát  hiện  và  định  lượng  HBV‐ DNA thì trong kết quả phải hiển thị được đường  biểu  diễn  chuẩn  để  chứng  minh  thao  tác  định  lượng đạt chuẩn thông qua hệ số tương quan (R)  của  các  mẫu  chuẩn  phải  đạt  trên  0.990  và  hiệu  quả  phản  ứng  (E)  phải  đạt  90‐105%    và  đồng  thời  chứng  minh  kết  quả  định  lượng  là  được  tính  toán  từ  kết  quả  của  các  mẫu  chuẩn  được  chạy  song  hành  cùng  với  mẫu  thử  chứ  không  phải  là  được  tính  toán  từ  một  công  thức  có  sẵn(41). Ngoài ra, nếu muốn kết luận một kết quả  âm tính thì trong kết quả định lượng phải hiển  thị được mẫu đó dương tính được với chứng nội  tại  để  đảm  bảo  âm  tính  này  là  âm  tính  thật  sự  chứ không phải âm tính giả vì phản ứng khuếch  đại bị ức chế.

Xét  nghiệm  qPCR  phát  hiện  và  định  lượng  HBV‐DNA còn phải được dùng để theo dõi hiệu  quả điều trị của các thuốc kháng virus mà bác sĩ  chỉ  định  trên  bệnh  nhân.  Nếu  sau  khi  chỉ  định  điều  trị  khoảng  1  –  3  tháng  mà  kết  quả  xét  nghiệm cho thấy lượng virus (được gọi là HBV‐ DNA  copy  hay  IU)  giảm  được  100  lần  (gọi  là  giảm 2 log) thì bác sĩ điều trị có thể đánh giá là  thuốc kháng virus có hiệu quả. Hiện nay có khá  nhiều  thuốc  kháng  virus  dành  cho  viêm  gan  B  mạn tính rất hiệu quả, HBV bị ngăn chận không  cho nhân bản rất nhanh, chính vì vậy HBV‐DNA  biến  mất  khỏi  máu  sớm  hơn  là  HbeAg,  sẽ  biến  mất  khỏi  máu  chậm  hơn.  Chính  vì  vậy  HBV‐ DNA là một dấu ấn rất tốt để theo dõi được đáp  ứng khá sớm của điều trị và hiện nay các nhà y  học trên thế giới và tại Việt Nam đã thống nhất  sử dụng HBV‐DNA làm chỉ số theo dõi đáp ứng  điều trị hơn là HbeAg.

Một  người  đã  bị  xác  định  là  bị  viêm  gan  virus  B  mạn  tính  nếu  không  được  điều  trị  đặc  hiệu thì virus sẽ không bị khống chế mà sẽ liên  tục nhân bản trong tế bào gan  và  sẽ  tàn  phá  tế  bào  gan  với  hậu  quả  sẽ  dẫn  đến  xơ  gan  và  từ  thương tổn xơ gan, bệnh nhân có thể bị đi dần  đến tình trạng xơ gan mất bù rồi chết, hay từ xơ  gan  có  thể  bị  dẫn  đến  ung  thư  gan(48).  Cũng  có  trường hợp bệnh nhân bị ung thư gan mà không  cần  thiết  phải  bị  qua  giai  đoạn  xơ  gan(48),  đây  chính  là  những  trường  hợp  bệnh  nhân  tình  cờ  qua  khám  sức  khoẻ  thấy  bị  khối  u  trong  gan  (qua siêu âm chẩn đoán) rồi sau đó bị xác định là  ung  thư  gan,  xét  nghiệm  máu  cho  thấy  HBV‐ DNA dương tính với số copies cao (>105). Chính  vì vậy mà nếu đã bị chẩn đoán là bị viêm gan B  mạn  tính  (tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  là  HBV‐DNA  trên  105  copies/ml,  ALT  cao  gấp  2  lần  bình  thường hay xét nghiệm sinh thiết hoặc fibroscan  thấy  tổ  chức  gan  bị  tổn  thương)  thì  nhất  thiết  phải được điều trị đặc hiệu để kiềm chế không  cho  virus  nhân  bản  để  gây  tổn  thương  gan.  Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nếu không được  điều trị để khống chế số lượng virus hoàn chỉnh  trong  máu  bệnh  nhân  luôn  dưới  ngưỡng  phát  hiện  thì  nguy  cơ  xơ  gan  hay  ung  thư  gan  ở  những người này sẽ rất cao(22,8,21). Thời gian điều  trị  bằng  thuốc  kháng  virus  có  thể  sẽ  kéo  dài  trong  nhiều  năm  vì  cho  đến  nay  các  nhà  y  học  chỉ đạt đến thành công là khống chế được virus  không  cho  nhân  bản  chứ  rất  hiếm  khi  loại  trừ  được virus(22,8,21) vì chúng tồn tại trong tế bào gan

9

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

ở  dạng  cccDNA  (covalently  closed  circular  DNA) không bị tác động bởi thuốc kháng virus.  Do phải điều trị thuốc kháng virus một thời gian  dài nên virus có cơ hội tiếp xúc với thuốc kháng  virus và như vậy là chúng có cơ hội bị đột biến  để kháng thuốc. Do vậy nếu trong thời gian điều  trị, xét nghiệm theo dõi virus là HBV‐DNA bỗng  nhiên bị trở lại dương tính và lượng HBV‐DNA  bị tăng lên dần thì đây chính là dấu hiệu cho biết  virus có khả năng kháng lại thuốc đang điều trị.  Lúc này cần phải xét nghiệm để phát hiện xem  thuốc  có  bị  virus  đề  kháng  không?.  Hiện  nay  công  ty  Nam  Khoa  đã  phát  triển  được  phương  pháp  giải  trình  tự  một  đoạn  gen  700bases  trên  vùng gene rt của virus để có thể phát hiện được  tất  cả  điểm  đột  biến  giúp  virus  kháng  được  lamivudine,  adefovir,  entecavir  và  tenofovir(2).  Có  thể  ví  kỹ  thuật  này  như  là  kỹ  thuật  làm  kháng  sinh  đồ  dành  cho  HBV,  vượt  trội  hơn  nhiều  kỹ  thuật  khác  chỉ  có  thể  phát  hiện  từng  đột  biến  một  cho  từng  thuốc  kháng  virus  một,  do vậy mà sẽ cung cấp cho bác sĩ nhiều thông tin  hơn để cho quyết định chính xác hơn là liệu có  nên thay đổi thuốc không.

Xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  precore  và  core promoter

phát  hiện  được  nhưng  số  lượng  rất  thấp.  Tuy  nhiên trong bệnh nhân bị viêm gan B mạn tính,  quá trình đấu tranh giữa virus với hệ miễn dịch  của cơ thể cũng đã thúc đẩy virus viêm gan B có  nguy  cơ  tạo  ra  một  đột  biến  tại  vùng  precore  (codon 1896) tạo nên một mã kết thúc trên gene  này hay đột biến tại vùng core promoter (codon  1762 hay 1764) do vậy mà virus không thể tổng  hợp được kháng nguyên HbeAg(17), lúc này virus  được  gọi  là  bị  đột  biến  precore  và/hay  core  promoter. Đột biến precore, và đặc biệt đột biến  core promoter(4,16,18,26,47) có liên hệ rất cao với nguy  cơ ung thư gan trên bệnh nhân viêm gan B mạn  tính,  do  vậy  trên  một  bệnh  nhân  viêm  gan  B  mạn đang được điều trị với thuốc kháng virus,  nếu  kết  quả  xét  nghiệm  cho  thấy  HBeAg  âm  tính, AntiHBeAg dương tính, nhưng HBV‐DNA  lại xuất hiện dương tính, đồng thời men gan trồi  sụt  thất  thường,  thì  đây  chính  là  dấu  hiệu  báo  động nguy cơ virus đột biến precore và/hay core  promoter.  Trong  trường  này,  cho  chỉ  định  xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  precore/core  promoter là rất cần thiết. Xét nghiệm phát hiện  đột  biến  precore/core  promoter  hiện  nay  đã  được  công  ty  Nam  Khoa  thực  hiện  bằng  giải  trình tự với nguyên tắc là dùng PCR khuếch đại  một  đoạn  dài  250  bases  trên  vùng  gene  preC  chứa các vị trí (1762, 1764 và 1896) rồi giải trình  tự trực tiếp để phát hiện xem có đột biến tại vị  trí  này  hay  không(40).  Một  kết  quả  phát  hiện  có  đột biến precore và/hay core promoter trên bệnh  nhân bắt buộc bệnh nhân phải được điều trị suốt  đời hay điều trị cho đến khi HBsAg biến mất.

Xét nghiệm định lượng HBsAg

Thuốc  kháng  virus  không  thể  là  giải  pháp  giúp điều trị khỏi hẳn bệnh trên các bệnh nhân  viêm gan B mạn tính. Do vậy hiện nay các nhà  điều  trị  đang  trông  chờ  liệu  pháp  interferon  vì  đã có nhiều chứng cứ y học cho thấy interferon  phối hợp với thuốc kháng virus có thể giúp loại  trừ  HBV  vĩnh  viễn  ra  khỏi  bệnh  nhân  chứng  minh được qua sự biến mất HBsAg trong máu,  tức là xét nghiệm HBsAg trở nên âm tính trong  quá  trình  điều  trị.  Tuy  nhiên  không  phải  bệnh

Trong  bộ  gen  (DNA)  của  virus  viêm  gan  B  có  một  gene  được  gọi  là  gene  tiền  lõi,  mã  hóa  thông  tin  di  truyền  giúp  virus  sinh  ra  được  kháng nguyên e (HBeAg) và kháng nguyên này  được virus tiết ra ngoài khi nó nhân bản. Do vậy  nếu  trong  máu  bệnh  nhân  có  sự  xuất  hiện  HBeAg thì có nghĩa là có sự nhân bản của virus  trong cơ thể. Nếu bệnh nhân được điều trị bằng  thuốc  kháng  virus  thì  virus  sẽ  bị  chặn  lại  và  không nhân bản được đồng thời hệ thống miễn  dịch nhận diện HBeAg của bệnh nhân có cơ hội  phát triển do vậy mà trong máu bệnh nhân xuất  hiện được kháng thể chống HBeAg (gọi là anti‐ HBeAg). Trường hợp này y học gọi là có chuyển  đổi huyết thanh chứng minh được hệ miễn dịch  thắng  thế  với  các  kết  quả  xét  nghiệm  cho  thấy  HBeAg  trở  nên  âm  tính,  anti‐HBeAg  dương  tính,  và  HBV‐DNA  không  phát  hiện  được  hay

10

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

trong huyết thanh có khả năng trở thành một xét  nghiệm rất cần thiết để đánh giá hiệu quả điều  trị  đặc  hiệu  bằng  thuốc  kháng  virus  và  interferon trên bệnh nhân.

Xét nghiệm xác định kiểu gene HBV

nhân nào được điều trị bằng liệu pháp trên đều  có được kết quả khỏi bệnh. Chính vì vậy phải có  xét nghiệm giúp theo dõi để tiên đoán được hiệu  quả  điều  trị  bằng  interferon.  Xét  nghiệm  phát  hiện  và  định  lượng  HBV‐DNA  không  thể  làm  được điều này vì ngay sau khi điều trị một thời  gian  ngắn  thì  HBV‐DNA  trong  máu  của  bệnh  nhân đã trở nên âm tính. Các nhà nghiên cứu đã  cho  thấy  có  một  sự  liên  hệ  rất  rõ  ràng  giữa  sự  thay  đổi  về  lượng  của  kháng  nguyên  HBsAg  trong máu của bệnh nhân với hiệu quả điều trị  interferon.  Nếu  trong  quá  trình  điều  trị,  lượng  HBsAg trong máu giảm một cách có ý nghĩa sẽ  chứng minh được liệu pháp interferon là có hiệu  quả  trên  bệnh  nhân(10,20).  Chính  nhờ  phát  hiện  này mà một xét nghiệm miễn dịch cổ điển là xét  nghiệm  HBsAg  đã  quay  trở  lại  thành  một  xét  nghiệm không  thể  thiếu  được  nếu  bác  sĩ  muốn  chỉ định điều trị interferon kết hợp thuốc kháng  virus trên  bệnh  nhân  viêm  gan  B  mạn  tính  của  mình. Dù là xét nghiệm cổ điển nhưng do phải  có kết quả định lượng theo IU (đơn vị quốc tế)  nên  chỉ  có  một  vài  hệ  thống  kín  đã  được  chấp  nhận  mới  có  thể  thực  hiện  được  và  đây  cũng  chính  là  lý  do  tại  sao  xét  nghiệm  định  lượng  HBsAg  hiện  nay  còn  khá  đắt  so  với  các  xét  nghiệm miễn dịch thông thường khác như định  tính  HBsAg,  anti‐HBsAg,  HBeAg,  anti‐HBeAg,  anti‐HBcAg…

Xét nghiệm định lượng cccDNA trong sinh  thiết gan hay trong máu

Trước đây các nhà nghiên cứu phải dựa trên  các  dấu  ấn  của  kháng  nguyên  bề  mặt  (HBsAg)  của HBV để phân biệt các nhóm HBV. Ngày nay  nhờ sự hiểu biết cặn kẽ về trình tự của bộ gene  HBV,  các  nhà  nghiên  cứu  đã  phân  ra  được  9  genotype  khác  nhau  (A‐I)(23,24,27,28).  Sự  phân  bố  genotype  là  rất  tùy  thuộc  vào  địa  dư,  ví  dụ  tại  Mỹ genotype chủ yếu là A, C và sau đó là B(23),  còn  tại  Việt  Nam  thì  chủ  yếu  là  C  rồi  đến  B(12,11,37,38,43).  Genotype  của  HBV  liên  quan  khá  nhiều  đến  tiến  triển  bệnh,  đột  biến  và  kháng  thuốc. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy genotype  C có dự hậu kém, đáp ứng kém với thuốc kháng  virus,  nguy  cơ  đột  biến  core  promoter  cao  và  nguy cơ ung thư gan cao hơn genotype B(7). Do ý  nghĩa như vậy nên nhiều nhà lâm sàng cho chỉ  định  xét  nghiệm  xác  định  genotype  HBV.  TS.  Kenji  Abe  của  Viện  Nghiên  Cứu  Bệnh  Nhiễm  Tokyo  đã  phát  triển  một  kỹ  thuật  nested  multiplex PCR để xác định genotype HBV có thể  áp  dụng  tại  các  phòng  thí  nghiệm  có  phương  tiện  PCR(24).  Đối  với  các  phòng  thí  nghiệm  có  phương tiện giải trình tự như phòng thí nghiệm  của công ty Nam Khoa  thì  ngoài  phương  pháp  của Kenji Abe, chúng tôi cũng đã xây dựng xét  nghiệm  vừa  phát  hiện  đột  biến  precore/core  promoter  vừa  xác  định  genotype(40),  hay  xét  nghiệm vừa phát hiện đột biến kháng thuốc vừa  xác  định  genotype  dựa  trên  cơ  sở  giải  trình  tự  phát  hiện  các  đột  biến  muốn  tìm  rồi  sau  đó  so  chuỗi  trên  gene  bank  với  chương  trình  blast  search  để  xác  định  genotype  của  trình  tự  giải  được(2,43). Với giải pháp này thì bác sĩ không cần  cho  chỉ  định  tìm  genotype  nhưng  vẫn  có  được  thông  tin  về  genotype  đi  kèm  với  kết  quả  phát  hiện các đột biến precore/core promoter hay đột  biến kháng thuốc. Ngoài ra, để giúp các phòng  thí nghiệm lâm sàng có phương tiện PCR có khả  năng thực hiện được xét nghiệm định type HBV,

Ngay sau khi HBV‐DNA đi vào nhân tế bào  gan,  cccDNA  được  thành  lập  và  trở  thành  chất  liệu di truyền để từ đó phiên mã thành các gene  điều khiển sự tổng hợp các thành phần cấu trúc  và  chức  năng  của  HBV.  Sự  phát  hiện  và  định  lượng  được  cccDNA  là  rất  có  ý  nghĩa  chứng  minh được hiệu quả điều trị đặc hiệu của thuốc  kháng  virus  hay  của  interferon  là  có  loại  trừ  được virus ra khỏi bệnh nhân hay không(46)]. Về  nguyên tắc thì cccDNA chỉ có thể tìm thấy trong  tế  bào  gan,  tuy  nhiên  cccDNA  vẫn  có  thể  tìm  thấy được trong máu. Xét nghiệm real‐time PCR  định lượng cccDNA(34) trong sinh thiết gan và cả

11

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

được  nguy  cơ  ngoại  nhiễm  vì  không  cần  phải  thực  hiện  nested  PCR.  Hiện  nay  kỹ  thuật  real‐ time multiplex PCR do công ty Nam Khoa phát  triển  đang  được  phổ  biến  rộng  rãi  đến  các  phòng thí nghiệm lâm sàng có thiết bị real‐time  PCR.

công  ty  Nam  Khoa  đã  phát  triển  kỹ  thuật  real‐ time  multiplex  PCR  (không  cần  nested‐PCR)  dựa  trên  các  cặp  mồi  được  thiết  kế  bởi  Kenji  Abe.  Kỹ  thuật  này  đạt  độ  nhạy  tương  đương  nested  multiplex  PCR  của  Kenji  Abe  nhưng  có  ưu điểm hơn là dễ dàng thực hiện, phân tích kết  quả mà không cần phải điện di (hình 1), và tránh

Hình 1: Hình minh họa cách đọc kết quả: Type B khi đỉnh chảy 84oC; Type C khi đỉnh chảy 82oC, âm nghiệm  khi đỉnh chảy 76oC

Xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  mất  đoạn  trên gene PreS2

Xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  trốn  thoát  vaccine của HBV

Một người đã chích ngừa viêm gan B và có  kháng thể bảo vệ (anti‐HBsAg)  vẫn  có  nguy  cơ  nhiễm HBV và dẫn đến viêm gan mạn tính cao  nếu sau khi chủng ngừa họ bị nhiễm bởi chủng  virus  mang  đột  biến  trốn  thoát  vaccine.  Chủng  đột biến trốn thoát vaccine có đột biến tại codon  145  (Gly145Arg/Lys)  và  chính  do  sự  đột  biến  này  mà  virus  đã  thay  đổi  được  tính  kháng  nguyên của epitope “a” để trốn thoát được khả  năng bảo vệ của kháng thể chống HBsAg và nhờ  đó  mà  nhiễm  được  trên  bệnh  nhân  và  gây  bệnh(3,14,13).

TS. Kenji Abe đã phát hiện được là trên các  mẫu ung thư gan lấy từ bệnh nhi bị ung thư gan  tại Việt Nam là có tỷ lệ cao phát hiện được HBV‐ DNA,  và  có  đến  36%  là  có  đột  biến  mất  đoạn  trên gene PreS2. Đột biến này đã được xác định  là  có  vai  trò  trong  ung  thư  gan(15)  vì  qua  công  trình  nghiên  cứu  của  các  nhà  khoa  học  tại  Đài  Loan,  nhóm  nghiên  cứu  đã  gây  ung  thư  gan  thực  nghiệm  trên  chuột(33,45).  Với  chứng  cứ  này,  các  nhà  y  học  cũng  phải  quan  tâm  đến  xét  nghiệm  truy  tầm  đột  biến  mất  đoạn  PreS2  trên  các  bệnh  nhân  viêm  gan  B  mạn  tính  để  có  thể  phát hiện được sớm nguy cơ ung thư gan. Công  ty Nam Khoa với sự hợp tác của TS. Kenji Abe  đã xây dựng được thành công kỹ thuật PCR rồi  giải trình tự để phát hiện đột biến gây ung thư  quan  trọng  này  và  sẵn  sàng  hợp  tác  cùng  các  nhà  nghiên  cứu  và  điều  trị  để  có  được  các  nghiên  cứu  rộng  hơn  về  căn  nguyên  ung  thư  gan, hiện được thống kê là ung thư hàng đầu tại  Việt nam.

Với vị trí đột biến đã xác định và với cơ chế  gây bệnh rõ ràng như vậy, chúng tôi cho là các  nhà  điều  trị  cũng  như  nghiên  cứu  phải  quan  tâm  đến  vấn  đề  phát  hiện  đột  biến  trốn  thoát  vaccine  trên  các  bệnh  nhân  tồn  tại  song  song  thanh  vừa  anti‐HBsAg  vừa  trong  huyết  HBsAg, hay trên các bệnh nhân sau khi chủng  ngừa mà tự nhiên lại xuất hiện HBsAg và biến  mất  anti‐HBsAg.  TS.  Kenji  Abe  và  phòng  thí

12

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

nghiệm của công ty Nam Khoa rất sẵn sàng để

hổ trợ các nghiên cứu như vậy.

Hình 2: Bộ gene của HBV và các vùng đích mà dựa vào đó các xét nghiệm sinh học phân tử được triển khai tại  phòng thí nghiệm NK‐BIOTEK

XÉT  NGHIỆM  SINH  HỌC  PHÂN  TỬ  TRONG VIÊM GAN C

Xét nghiệm phát hiện và định lượng HCV‐ RNA

hợp, virus vẫn tồn tại, nhân bản trong tế bào gan  và phóng thích virus vào trong máu. Do vậy để  có  thể  xác  định  một  người  có  đang  bị  nhiễm  HCV hay không, bác sĩ phải cho chỉ định làm xét  nghiệm phát hiện và định lượng HCV‐RNA, tức  là  tìm  và  định  lượng  được  virus  viêm  gan  C  trong  máu.  Nếu  xét  nghiệm  này  cho  kết  quả  HCV‐RNA dương tính thì có nghĩa là trong máu  của  bệnh  nhân  có  hiện  diện  virus  viêm  gan  C,  tức  là  bệnh  nhân  đang  bị  nhiễm  HCV.  Xét  nghiệm  phát  hiện  và  định  lượng  HCV‐RNA  chính là một xét nghiệm sinh học phân tử, thông  thường được thực hiện bằng kỹ thuật real‐time  PCR.  Do  bộ  gene  của  HCV  là  RNA,  do  vậy  để

Một  người  bị  nhiễm  virus  viêm  gan  C  thì  thường  hệ  miễn  dịch  của  người  đó  ít  khi  tạo  được miễn dịch bảo vệ chống được virus, do vậy  sự  xuất  hiện  kháng  thể  đặc  hiệu  HCV  (anti‐ HCV)  không  có  ý  nghĩa  là  cơ  thể  đã  có  được  miễn dịch bảo vệ loại trừ được virus. Chỉ có một  số  ít  may  mắn  sẽ  khỏi  được  nhờ  các  hệ  thống  chống  đỡ  không  đặc  hiệu  khác  của  cơ  thể  loại  trừ  được  virus,  còn  lại  trong  đa  số  các  trường

13

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

được  hiệu  quả  điều  trị  cũng  như  quyết  định  được thời gian điều trị đặc hiệu(25,31).

làm  xét  nghiệm,  RNA  của  virus  sau  khi  tách  chiết được từ máu của bệnh nhân sẽ phải được  phiên  mã  ngược  (reverse  transcription)  thành  DNA bổ sung, gọi là cDNA, trước khi thực hiện  real‐time  PCR  để  phát  hiện  và  định  lượng.  Chính vì vậy xét nghiệm này được gọi một cách  chính  xác  hơn  là  RT‐qPCR  (RT  là  reverse  transcription).  Cũng  giống  như  xét  nghiệm  qPCR phát hiện và định lượng HBV‐DNA, đã có  nhiều phòng xét nghiệm tại Việt Nam thực hiện  được xét nghiệm sinh học phân tử này dựa trên  hệ thống mở của kỹ thuật PCR. Cũng chính vì là  hệ  thống  mở  nên  các  kiểm  soát  về  chất  lượng  phải  được  các  phòng  xét  nghiệm  quan  tâm  để  tránh  các  sai  lầm  trong  quá  trình  làm  xét  nghiệm,  tức  là  phải  luôn  luôn  làm  xét  nghiệm  với  các  chứng  và  chuẩn  để  kiểm  soát  được  các  nguy cơ sơ sót có thể xảy ra trong quá trình làm  xét nghiệm như là chúng tôi đã trình bày trong  xét nghiệm phát hiện và định lượng HBV‐DNA  ở trên(39,41).

Chỉ  cần  1  tháng  sau  khi  được  điều  trị  đặc  hiệu  bằng  liệu  pháp  interferon  phối  hợp  với  ribavirin, bác sĩ nên cho lại chỉ định phát hiện và  định  lượng  HCV‐RNA  để  xác  định  bệnh  nhân  có  đáp  ứng  sớm  với  liệu  pháp  điều  trị  hay  không? Nếu kết quả HCV‐RNA trong máu bệnh  nhân trở nên âm tính chỉ sau 1 tháng điều trị thì  đây là một tín hiệu rất vui cho bệnh nhân, chứng  tỏ bệnh nhân có đáp ứng sớm với điều trị và bác  sĩ  có  thể  rút  ngắn  thời  gian  điều  trị  cho  bệnh  nhân  (có  thể  chỉ  còn  1/2  năm).  Nếu  HCV‐RNA  trong máu bệnh nhân vẫn chưa biến mất thì bác  sĩ  phải  chờ  thêm  2  tháng  nữa  để  làm  lại  xét  nghiệm phát hiện và định lượng HCV‐RNA, và  nếu kết quả định lượng lần này cho thấy lượng  virus không giảm hay giảm ít hơn 100 lần thì bác  sĩ  phải  cân  nhắc  thay  đổi  phương  thức  hay  có  thể phải ngưng điều trị vì bệnh không đáp ứng  với  điều  trị.  Nếu  kết  quả  định  lượng  cho  thấy  lượng virus giảm hơn 100 lần (chuyên môn gọi  là  giảm  hơn  2  log)  thì  bác  sĩ  có  thể  đánh  giá  là  phát đồ điều trị đặc hiệu có hiệu quả và lúc này  sẽ phải quyết định thời gian điều trị là bao lâu.  Quyết  định  này  tuỳ  thuộc  vào  genotype  HCV  mà bệnh nhân bị nhiễm là loại nào (biết được từ  lần  xét  nghiệm  đầu  tiên  trước  khi  quyết  định  điều  trị  cho  bệnh  nhân).  Nếu  không  may  mà  bệnh nhân bị nhiễm HCV genotype 1 thì bác sĩ  sẽ phải điều trị cho bệnh nhân với tổng thời gian  ít nhất 12 tháng. Nếu bệnh nhân bị nhiễm HCV  không  phải  genotype  1,  mà  là  2  hay  6  (tại  Việt  Nam, rất ít khi phát hiện được genotype HCV 3,  4, và 5) thì bác sĩ chỉ cần điều trị cho bệnh nhân  với tổng thời gian 6 tháng.

Một người sau khi nhiễm virus viêm gan C  thì thường không có triệu chứng hay chỉ có một  ít  triệu  chứng  không  đặc  hiệu  và  mơ  hồ.  Tuy  nhiên virus sẽ âm thầm xâm nhập và nhân bản  trong  tế  bào  gan  và  quá  trình  này  diễn  tiến  rất  lâu, có thể trên hàng chục năm, làm tế bào gan bị  tàn  phá  dần  dần,  gây  hậu  quả  viêm  gan  mạn  tính rồi đi đến xơ gan, và có thể từ xơ gan dẫn  đến  ung  thư  gan.  Nguy  cơ  của  người  đang  bị  nhiễm HCV dẫn đến viêm gan mạn tính rồi xơ  gan  và  đến  ung  thư  gan  là  khá  cao  (có  thể  17‐ 20%). Do vậy, khác với nhiễm virus viêm gan B  cần  phải  xác  định  là  đang  bị  viêm  gan  B  mạn  tính  (ALT  tăng  cao  hay  có  bất  thường  tổ  chức  gan phát hiện qua sinh thiết hay fibroscan) mới  cần phải điều trị đặc hiệu; một người bị xác định  là đang nhiễm virus viêm gan C thì nên được chỉ  định điều trị đặc hiệu mà không cần phải có các  dấu  hiệu  chứng  minh  gan  đã  bị  thương  tổn  vì  viêm  gan  mạn  tính.  Tuy  nhiên  trước  khi  được  điều trị, bệnh nhân phải nhất thiết được chỉ định  làm  hai  xét  nghiệm:  định  lượng  HCV‐RNA  và  định  genotype  HCV  để  bác  sĩ  có  thể  theo  dõi

Trước khi quyết định chấm dứt điều trị cho  bệnh  nhân  thì  bác  sĩ  sẽ  phải  chỉ  định  lại  xét  nghiệm phát hiện và định lượng HCV‐RNA để  xem virus có còn trong máu của bệnh nhân hay  không.  Nếu  xét  nghiệm  này  vẫn  cho  kết  quả  dương  tính  thì  bác  sĩ  vẫn  chưa  thể  ngưng  điều  trị  mà  phải  tiếp  tục  thêm  3  tháng  nữa  cho  đến  khi  kết  quả  trở  nên  âm  tính.  Sau  khi  chấm  dứt

14

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

điều trị, bác sĩ cũng phải thường xuyên theo dõi  xem  bệnh  nhân  có  bị  tái  phát  hay  tái  nhiễm  không bằng xét nghiệm phát hiện và định lượng  HCV‐RNA  trong  máu  của  bệnh  nhân  mỗi  3  tháng một lần. Bất cứ lúc nào xét nghiệm trở nên  dương  tính  thì  bác  sĩ  sẽ  phải  xem  như  bệnh  nhân  bị  tái  phát  hay  tái  nhiễm  và  phải  trở  lại  điều trị đặc hiệu như ban đầu.

Xét nghiệm xác định genotype HCV

Bayer  (sau  này  là  của  Siemen)  và  giải  trình  tự  vùng  5’  NC  của  Trugene  (mà  sau  này  là  của  Siemen).  Tại  Việt  Nam,  công  ty  Nam  Khoa  đã  phát  triển  kỹ  thuật  vừa  định  lượng  HCV‐RNA  vừa xác định được genotype của HCV dựa trên  vùng 5’ NC(32,42). Nguyên tắc của kỹ thuật này là  định  lượng  HCV‐RNA  trước  bằng  kỹ  thuật  qPCR  rồi  sau  đó  giải  trình  tự  sản  phẩm  qPCR  này  để  xác  định  genotype  HCV  bằng  cách  so  chuỗi  với  thư  viện  genotype  HCV  của  NCBI.  Nhờ vậy với chỉ định xét nghiệm vừa xác định  genotype  HCV,  vừa  định  lượng  HCV‐RNA  mà  bác sĩ cho trước khi quyết định điều trị đặc hiệu,  bệnh  nhân  chỉ  phải  trả  chi  phí  cho  xét  nghiệm  xác định genotype HCV mà vẫn có được kết quả  định lượng HCV‐RNA. Ngoài kỹ thuật giải trình  tự  và  lai  trên  vạch,  kỹ  thuật  real‐time  PCR  sử  dụng  dò  Taqman  cũng  được  phát  triển  để  xác  định  genotype  HCV  dựa  trên  vùng  5’  NC  và  công ty Nam Khoa cũng là một trong các công ty  phát triển kỹ thuật này.

Genotype  là  các  kiểu  khác  biệt  của  vi  sinh  vật  cùng  loài  dựa  vào  sự  khác  biệt  trình  tự  nucleotide trên bộ gene của vi sinh vật đó. Cho  đến  hiện  nay  y  học  đã  xác  định  là  HCV  có  thể  được  phân  làm  6  genotype  lớn  là  1  đến  6,  tuy  rằng  cũng  có  khuynh  hướng  cho  là  có  đến  11  genotype  HCV.  Trong  từng  genotype,  HCV  lại  được phân thành các dưới type như genotype 1  có các dưới type là 1a, 1b, 1c; genotype 2 có các  dưới  type  là  2a,  2b,  2c...  Xét  nghiệm  xác  định  genotype HCV là một loại xét nghiệm sinh học  phân  tử  và  như  trên  đã  trình  bày,  kết  quả  xác  định  genotype  của  HCV  trên  bệnh  nhân  rất  có  giá  trị  để  giúp  bác  sĩ  tiên  đoán  được  hiệu  quả  điều  trị,  xác  định  được  thời  gian  điều  trị  đặc  hiệu, và liều ribavirin sử dụng cho bệnh nhân.

Hình 3: HCV  tại  Việt  Nam  chủ  yếu  là  thuộc  Genotype  6[46]  và  đây  là  một  chỉ  số

Trước  đây,  genotype  HCV  được  xác  định  dựa vào sự khác biệt về trình tự trên vùng 5’ NC  tức  là  vùng  không  mã  hoá  trên  bộ  gene  của  HCV,  và  cũng  chính  trên  cơ  sở  này  nhiều  kỹ  thuật xét nghiệm xác định genotype HCV đã ra  đời  như  xét  nghiệm  inoLIPA  lai  trên  vạch  của

Tuy  nhiên  gần  đây  các  nhà  nghiên  cứu  đã  chứng  minh  là  xét  nghiệm  xác  định  genotype  HCV dựa trên sự khác biệt trình tự của vùng 5’  NC  là  không  đủ  sức  để  phân  biệt  được  nhiều  subtype của genotype 6 của HCV với genotype  1(5,6),  chính  vì  vậy  sẽ  có  khá  nhiều  trường  hợp  được  xác  định  genotype  1  nhưng  thật  ra  là  genotype 6. Để xác định chính xác genotype của  HCV thì phải dựa trên giải trình tự vùng NS5B  trên bộ gene của HCV(6,19). Trong một công trình  nghiên  cứu  phối  hợp  với  chúng  tôi,  TS.  Kenji  Abe(44)  của  Viện  Nghiên  Cứu  Các  Bệnh  Nhiễm  Trùng  Tokyo  đã  phát  triển  phương  pháp  dùng  PCR  tổ  để  khuếch  đại  một  vùng  đặc  hiệu  trên  vùng  NS5B  và  sau  đó  giải  trình  tự  sản  phẩm  khuếch  đại  để  xác  định  genotype  HCV.  Công  trình nghiên cứu này đã cho phép chúng tôi có  một  nhận  định  mới  về  tỷ  lệ  phân  bố  genotype  HCV trên các mẫu huyết thanh lấy từ người Việt  Nam nhiễm HCV, đó là có trên 60% các trường  hợp  là  thuộc  genotype  6  chứ  không  phải  là  genotype  1  như  nhiều  công  trình  trước  đây  đã  công bố.  Ngoài  ra,  một  nghiên  cứu  so  sánh  kết  quả xác định genotype HCV dựa trên giải trình

15

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

tự vùng 5’ NC với giải trình tự vùng NS5B cũng  đã  được  chúng  tôi  thực  hiện  với  kết  quả  cho  thấy trên 40% các trường hợp genotype 6 bị xác  định là genotype 1 nếu dựa trên trình tự vùng 5’  NC.  Chính  vì  vậy,  hiện  nay  với  sự  đồng  ý  của  TS.  Kenji  Abe,  chúng  tôi  đã  triển  khai  kỹ  thuật  giải  trình  tự  vùng  NS5B  tại  công  ty  Nam  Khoa  để  có  thể  giúp  các  nhà  lâm  sàng  có  thông  tin  chính  xác  hơn  về  genotype  HCV  vì  chắc  chắn  rằng các kỹ thuật dựa trên giải trình tự vùng 5’  NC của Trugene, hay real‐time PCR trên đích 5’  NC  của  HCV  hiện  đang  được  sử  dụng  tại  Việt  Nam là hoàn toàn không chính xác.

biệt SNP của bộ gene người, các nhà nghiên cứu  đã phát hiện được một vài vị trí trên vùng gene  interleukin 28B (IL28B)  là  có  liên  quan  đến  khả  năng thành công hay nguy cơ tái phát trên bệnh  nhân nhiễm HCV được điều trị interferon(9,30,35,36).  Có  3  SNP  của  IL28B  đã  được  xác  định,  đó  là  SNP (A) rs12979860, SNP (B) rs8099917, và SNP  (C)  rs12980275.  SNP  (A)  chính  là  công  tắc  interferon:  kiểu  gene  C/C    là  công  tắc  bật  (switch‐on)  và  C/T  là  công  tắc  tắt  (switch‐off).  Switch‐on cho phép tiên đoán hiệu quả điều trị  thành công interferon cao (trên 80%) với ít nguy  cơ  tái  phát  và  tiến  triển  mạn  tính  hơn  so  với  switch‐off  tiên  đoán  hiệu  quả  điều  trị  thấp  với  nguy cơ tái phát và tiến triển mạn tính cao. Tại  công ty Nam Khoa, chúng tôi đang làm nghiên  cứu  xác  định  công  tắc  interferon  trên  các  bệnh  nhân nhiễm HCV bằng kỹ thuật giải trình tự, kết  quả  cho  thấy  có  khoảng  20%  bệnh  nhân  là  interferon  swith‐off.  Kết  quả  nghiên  cứu  cũng  cho thấy trên các mẫu mà chúng tôi nghiên cứu  (trên 100 mẫu) thì ba SNP này là có liên quan với  nhau  do  vậy  chỉ  cần  làm  xét  nghiệm  xác  định  SNP  (A)  là  đủ  chứ  không  cần  phải  xác  định  thêm SNP (B) và SNP (C) nữa.

Hình 4: Đa số SNP(A) của IL28B là thuộc kiểu  switch‐on, từ 22‐26% là kiểu switch‐off (dữ liệu từ  NK‐ BIOTEK)

Hiện nay trên thế giới các nghiên cứu về đáp  ứng  điều  trị  interferon  trên  genotype  6  là  còn  khá ít. Việt Nam là quốc gia mà nhiễm HCV chủ  yếu lại là genotype 6, do vậy đây là một hướng  rất mở để các nhà nghiên cứu có thể có được các  nghiên cứu mang tâm quốc tế về đề tài này.

Xét  nghiệm  xác  định  công  tắc  interferon  (interferon switch)

Điều  trị  bệnh  nhân  nhiễm  HCV  với  liệu  pháp Interferon không phải lúc nào cũng có kết  quả  thành  công:  bệnh  nhân  khỏi  bệnh  hoàn  toàn. Do vậy các nhà điều trị rất quan tâm là làm  sao  tiên  đoán  được  hiệu  quả  điều  trị  interferon  trên  bệnh  nhân.  Trước  đây  một  số  nhà  nghiên  cứu cho là có thể do HCV bị đột biến trong quá  trình điều trị nên đã kháng được interferon. Tuy  nhiên  hiện  nay,  qua  một  số  công  trình  nghiên  cứu rất công phu so sánh và đánh giá các khác

Xét  nghiệm  xác  định  công  tắc  interferon  là  rất có ý nghĩa vì kết quả xét nghiệm có thể giúp  bác sĩ tư vấn khả năng thành công của liệu pháp  interferon  trên  bệnh  nhân.  Ngoài  ra  trên  các  bệnh nhân đã điều trị với kết quả HCV‐RNA đã  âm tính mà bác sĩ chưa làm xét nghiệm xác định  genotype của HCV trên bệnh nhân, bác sĩ có thể  cho chỉ định xác định công tắc interferon để có  thể quyết định được thời gian điều trị cũng như  tiên  đoán  hiệu  quả  điều  trị  thay  thế  cho  xét  nghiệm xác định genotype HCV lúc này không  thể  thực  hiện  được  vì  HCV‐RNA  đã  biến  mất  trên bệnh nhân rồi. Chính vì khả năng hữu dụng  cao của xét nghiệm này nên chúng tôi đã nghiên  cứu  áp  dụng  thành  kỹ  thuật  real‐time  PCR  sử  dụng dò taqman xác định công tắc interferon với  mong  muốn  xét  nghiệm  này  được  đưa  ra  sử  dụng rộng rãi trên nhiều phòng thí nghiệm lâm  sàng có phương tiện PCR. Nghiên cứu mối liên  hệ giữa SNP(A) của IL28B với đáp ứng điều trị

16

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

chúng  ta  với  đa  số  bệnh  nhân  nhiễm  HCV  là  genotype 6, do vậy mà nghiên cứu theo hướng  này rất là cần thiết.

interferon  cũng  là  một  hướng  nghiên  cứu  nên  làm vì hiện nay chỉ có các nghiên cứu trên HCV  genotype 1, chưa có trên genotype 6. Việt Nam

Hình 5: Bộ gene của HCV và các vùng đích mà dựa vào đó các xét nghiệm sinh học phân tử được triển khai tại  phòng thí nghiệm NK‐BIOTEK

Xét  nghiệm  phát  hiện  đột  biến  core  trên  HCV

mà  các  nhà  điều  trị  hay  nghiên  cứu  nên  quan  tâm, đó là tìm hiểu mối liên quan giữa đột biến  precore,  công  tắc  interferon  và  genotype  của  HCV  đối  với  đáp  ứng  điều  trị  interferon  phối  hợp  với  thuốc  kháng  virus.  Phòng  thí  nghiệm  NK‐Biotek hiện đã có đủ phương tiện để có thể  cùng phối hợp nghiên cứu trên lĩnh vực mới, thú  vị và cũng đầy thách thức này.

Ngoài  công  tắc  interferon,  đã  có  ghi  nhận  đột  biến  thay  thế  aminoacid  (aa)  70  và  91  trên  vùng core của HCV thuộc genotype 1b cũng có  liên  quan  đến  sự  đáp  ứng  thành  công  với  liệu  pháp interferon phối hợp với ribavirin(1). Các ghi  nhận  này  cũng  mở  ra  một  hướng  tiếp  cận  mới

17

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng Quan

3.

KẾT LUẬN

4.

5.

6.

Việt Nam là một trong các quốc gia có tỷ lệ  nhiễm  viêm  gan  B  cao  nhất  thế  giới,  đối  với  viêm  gan  C  thì  Việt  Nam  bị  xếp  vào  nhóm  các  quốc gia có tỷ lệ nhiễm trong dân số đứng hạng  nhì.  Có  lẽ  chính  vì  như  vậy  mà  tại  Việt  Nam  hiện  nay,  ung  thư  gan  được  xếp  vào  đầu  danh  sách ung thư, cao hơn cả ung thư phổi.

7.

8.

9.

Carman WF (1997). The clinical significance of surface antigen  variants of hepatitis B virus, J. Viral. Hepat., 4 (Suppl. 1), 11.   Chan HLY, Hussain M, Lok ASF (1999). Different hepatitis B  virus genotypes are associated with different mutations in the  core  promoter  and  precore  regions  during  hepatitis  B  e  antigen seroconversion. Hepatology ;29:976–984.  Chen Z., and Weck KE  (2002). Hepatitis C virus genotyping:  interrogation of the 5_ untranslated region cannot accurately  distinguish genotypes 1a and 1b. J. Clin. Microbiol. 40:3127– 3134.  Chinchai  T,  Labout  J,  Noppornpanth  S,  Theamboonlers  A,  Haagmans  BL,  Osterhaus  AD,  and  Poovorawan  Y  (2003).  Comparative study of different methods to genotype hepatitis  C virus type 6 variants. J. Virol. Methods 109:195–201.   Chun‐Jen  L;  Jia‐Horng  K;  Ding‐Shinn  C  (2005).  Therapeutic  Implications  of  Hepatitis  B  Virus  Genotypes.  Liver  International ;25(6):1097‐1107.  EASL Consensus Conference on Hepatitis B (2003). J Hepatol;  39: S3‐25  Ge D, Fellay J, Thompson AJ, et al (2009). Genetic variation in  IL28B predicts hepatitis C treatment‐induced viral clearance.  Nature ;461:399‐401.

10. Hui  M,  Rui‐feng  Y  and  Wei  L  (2010).  Quantitative  serum  HBsAg and HBeAg are strong predictors of sustained HBeAg  seroconversion  to  pegylated  interferon  alfa‐2b  in  HBeAg‐ Journal  of  Gastroenterology  and  positive  patients.  Hepatology 25; 1498–1506

11. Huy  TT,  and  Abe  K  (2004).  Molecular  epidemiology  of  hepatitis B and C virus infections in Asia, Pediatr. Int., 46, 223,  2004.

12. Huy  TT,  Ngoc  TT,  and  Abe  K.(2008).  New  complex  recombinant  genotype  of  hepatitis  B  virus  identified  in  Vietnam, J. Virol., 82, 5657.

13. Kalinina  T,  et  al.  (2003).  Deficiency  in  virion  secretion  and  decreased  stability  of  the  hepatitis  B  virus  immune  escape  mutant G145R, Hepatology, 38, 1274.

14. Kalinina T, et al. (2003). Selection of a secretion‐incompetent  mutant  in  the  serum  of  a  patient  with  severe  hepatitis  B,  Gastroenterology, 125, 1077.

15. Kenji  A,  et  al  (1997).  Pre‐S2  deletion  mutants  of  hepatitis  B  virus could have an important role in hepatocarcinogenesis in  Asian  children.  Cancer  Sci.  December  2009;  vol.  100;  no.  12:  2249–2254

16. Kidd‐Ljunggren  K,  Oberg  M,  Kidd  AH.  Hepatitis  B  virus  X  gene  1751  to  1764  mutations:  implications  for  HBeAg  status  and disease. J Gen Virol ;78:1469–1478.

17. Kramvis  A,  and  Kew  MC  (1999).  The  core  promoter  of

Viêm  gan  B  mạn  và  nhiễm  viêm  gan  C  không phải là các bệnh lý không thể trị được, đó  là các bệnh lý không chỉ điều trị được mà còn có  thể trị khỏi được. Tuy nhiên để có thể cho được  chỉ  định  điều  trị  cũng  như  theo  dõi  được  hiệu  quả điều trị thì các nhà điều trị cần phải có các  thông  tin  cần  thiết  đến  từ  các  xét  nghiệm  sinh  học  phân  tử.  Với  sự  tiến  bộ  về  kỹ  thuật  cũng  như sự hiểu biết cặn kẽ về bộ gene của HBV và  HCV, các xét nghiệm sinh học phân tử để phục  vụ cho mục đích chẩn đoán và theo dõi hiệu quả  điều trị viêm gan B mạn tính và nhiễm HCV là  không có gì khó khăn tại Việt Nam. Có thể nói  chúng ta đã có những phòng thí nghiệm có khả  năng lột trần toàn bộ các bí ẩn của bộ gene HBV  và HCV trên bệnh nhân. Bài viết này nhằm mục  đích giúp các nhà nghiên cứu và điều trị rõ hơn  về các khả năng này để không chỉ tận dụng mà  còn mở ra được các hợp tác nghiên cứu sâu và  có  trình  độ  tương  đương  quốc  tế  về  HBV  và  HCV tại Việt Nam. Cơ sở để chúng tôi nói vậy vì  hiện nay chúng ta đang có được một sự hợp tác  rất  chặt  chẽ  và  bình  đẳng  với  một  chuyên  gia  hàng đầu trong lĩnh vực này, đó là TS. Kenji Abe  của  Viện  Nghiên  Cứu  Bệnh  Nhiễm  Trùng  tại  Tokyo.

hepatitis B virus, J. Viral Hepat ; 6; 415,

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

18. Kurosaki  M,  Enomoto  N,  Asahina  Y,  Sakuma  I,  Ikeda  T,  Tozuka S, et al (1996). Mutations in the core promoter region  of hepatitis B virus in patients with chronic hepatitis B. J Med  Virol 49:115–123.

2.

19. Laperche S, Lefrère JJ et al (2005). Comparison of Hepatitis C  Virus NS5b and 5’ Noncoding Gene Sequencing Methods in a  Multicenter  Study.  Journal  of  Clinical  Microbiology,  43(2);  733‐739

Akuta N, Suzuki F, et  al  (2010).  Amino  Acid  Substitution  in  Hepatitis  C  Virus  Core  Region  and  Genetic  Variation  Near  the Interleukin 28B Gene Predict Viral Response to Telaprevir  with Peginterferon and Ribavirin. HEPATOLOGY  Vol. 52(2):  421‐429  An  VDX,  Van  PH.  et  al  (2010).  Direct  sequencing  the  polymerase  gene  amplified  from  the  HBV  genome  isolated  from  patients’  sera  to  detect  the  mutations  causing  the  resistance to lamivudine, adefovir, and entecavir. Proceeding  of the 2nd National Conference in Medical Molecular Biology.  (Ha Noi, 18‐19 Sep 2010). Pp 198‐199

20. Lau GK, Marcellin P, Brunetto MR et al. (2008).On‐treatment  HBsAg  decline  during  peginterferon  alfa‐2a  (40  KD)  _  lamivudine  in  patients  with  HBeAg‐positive  CHB  as  a  potential  predictor  of  durable  off‐treatment  response.  Hepatology  48: 714A (AASLD 2008).

18

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Tổng Quan

ribavirin therapy for chronic hepatitis C. Nat Genet 41:1105‐ 1109.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  21. Leung  N  (2002).Treatment  of  chronic  hepatitis  B:  case  selection  and  duration  of  therapy.  J  Gastroenterol  Hepatol  17(4): 409‐14.

36. Thomas DL, Thio CL, et al (2009). Genetic variation in IL28B  and  spontaneous  clearance  of  hepatitis  C  virus.  Nature  461:798‐801.

22. Lok  ASF  and  McMahon  BJ  (2007).  AASLD  PRACTICE  GUIDELINES ‐ Chronic Hepatitis B. Hepatology; 45 (2): 507‐ 539

37. Thuy  TT  et  al.(2005).  Distribution  of  genotype/subtype  and  mutational  spectra  of  the  surface  gene  of  hepatitis  B  virus  circulating in Hanoi, Vietnam, J. Med. Virol., 76, 161.

38. Tran  HT.,  et  al.(2003).  Prevalence  of  hepatitis  virus  types  B  through E and genotypic distribution of HBV and HCV in Ho  Chi Minh City, Vietnam, Hepatol. Res., 26, 275.

39. Van PH (2009). PCR and real‐time PCR – the basic items and

the common application. The Medicine Publisher.

23. Magnius LO, and Norder H. (1995). Subtypes, genotypes and  molecular  epidemiology  of  the  hepatitis  B  virus  as  reflected  by sequence variability of the S‐gene, Intervirology, 38, 24.  24. Naito  H,  Hayashi  S.,  and  Abe  K.  (2001).  Rapid  and  specific  genotyping system for hepatitis B virus corresponding to six  major genotypes by PCR using type‐specific primers, J. Clin.  Microbiol., 39, 362.

40. Van  PH.  Application  of  the  sequencing  technology  to  diagnostic.  Hochiminh  City  Medicine.  (2009).  2:  Supplement  13,  1‐8

25. National  Institute  of  Health  Consensus  (2002).  Development  Conference Statement: Management of Hepatitis C: 2002 June  10‐12. Final Statement Revisions made September 12.

26. Okamoto  H,  Tsuda  F,  et  al  (1994).  Hepatitis  B  virus  with  mutations  in  the  core  promoter  for  an  e  antigen‐negative  phenotype  in  carriers  with  antibody  to  e  antigen.  J  Virol  68:8102–8110.

41. Van  PH  (2008).  Identification  of  the  control  points  and  the  quality  standards  required  in  the  diagnostic  kit  and  in  a  PCR/qPCR  testing.  Proceeding  of  the  4th  National  Scientific  Conference  on  Biochemistry  and  Molecular  Biology  for  Agriculture,  Biology,  Medicine  and  Food  Industry.  October  15‐17, 2008. Pp 4‐8

27. Okamoto  H.,  et  al.(1988),  Typing  hepatitis  B  virus  by  homology  in  nucleotide  sequence:  Comparison  of  surface  antigen subtypes, J. Gen. Virol., 69, 2575.

28. Olinger  CM,  et  al.(2008).  Possible  new  hepatitis  B  virus

genotype, Southeast Asia, Emerg. Infect. Dis., 14, 1777.

29. Prati  D  et  al  (2002).  Updated  Definitions  of  Healthy  Ranges  for  Serum  Alanine  Aminotransferase  Levels.  Annals  of  Internal Medicine. 137(1):1‐10

42. Van PH., Dien BV. et al (2007). Genotyping of HCV by direct  sequencing  the  PCR  product  coming  from  the  RT  realtime  PCR using primers and taqman probe specific to the 5’NC of  the virus. Hochiminh City Medicine.  11: Supplement 3,  87‐95  43. Van  PH;  An  VDX.  Sequencing  the  rt  gene  of  HBV  for  genotyping  and  detecting  YMDD  mutations  that  help  HBV  resistant to lamivudine. Hochiminh City Medicine. (2007). 11:  Supplement 3, 38‐46

31.

44. Van  PH,  Kenji  A  et  al.  Very  high  prevalence  of  Hepatitis  C  virus genotype 6Variants in Southern Viet Nam: Large – Scale  Survey based on Sequence Determination. Jpn. J. Infect. Dis.:  64, 537‐539, 2011

32.

45. Wang HC, Huang WY , Lai MD, Su IJ : Hepatitis B Virus pre‐ S  mutants,  ER  stress,  and  hepatocarcinogenesis  (Review).  Cancer Science. 97: 683‐688, 2006

33.

46. Wursthorn  K,  Lutgehetmann  M,  et  al  (2006).  Peginterferon  Alpha‐2b Plus Adefovir Induce Strong cccDNA Decline and  HBsAg  Reduction  in  Patients  With  Chronic  Hepatitis  B.  HEPATOLOGY 2006, Vol. 44, No. 3,675‐684

30. Rauch  A,  Kutalik  Z,  Descombes  P,  et  al  (2010).  Genetic  variation in IL28B is associated with chronic hepatitis C and  treatment  failure:  a  genome‐wide  association  study.  Gastroenterology 138:1338‐1345.  Sherman  M,  Shafran  S  (2007).  Management  of  Chronic  Hepatitis  C:  Consensus  Guidline.  Can  J  Gastroenterol    21  (Suppl C): 25C‐34C  Son  NT.,  Van  PH  (2009).  Phylogenetic  analysis  the  5’‐ noncoding  sequence  of  the  hepatitis  C  virus  detected  from  patient  infected  with  HCV.  Journal  of  108  Clinical  Medicine  and Pharmacy  4: Special issue, 77‐82  Su  IJ,  et  al(2008).,  Ground  glass  hepatocytes  contain  pre‐S  mutants  and  represent  preneoplastic  lesions  in  chronic  hepatitis  B  virus.  J  Gastroenterol  Hepatol  2008,  23:1169‐ 1174

47. Xu Z, Ren X, et al. Association of hepatitis B virus mutations  in  basal  core  promoter  and  precore  regions  with  severity  of  liver  disease:  an  investigation  of  793  Chinese  patients  with  mild and severe chronic hepatitis B and acute‐on‐chronic liver  failure. J Gastroenterol. 2011 Mar;46(3):391‐400

48. Zuckerman JN (2010). Hepatitis virus. Infectious diseases. 3rd

edition: 1539‐1549

34. Takkenberg  RB.,  Zaaijer  HL  et  al  (2009).  Validation  of  a  Sensitive  and  Specific  Real‐Time  PCR  for  Detection  and  Quantitation of Hepatitis B Virus Covalently Closed Circular  DNA  in  Plasma  of  Chronic  Hepatitis  B  Patients.  Journal  of  Medical Virology  81:988–995

35. Tanaka Y, Nishida N, et al (2009). Genome‐wide association  of  IL28B  with  response  to  pegylated  interferon‐alpha  and

19

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC CỦA BỆNH TAY CHÂN MIỆNG   Ở 20 TỈNH THÀNH PHÍA NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 ‐ 2011

Trần Ngọc Hữu*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Năm 2011, bệnh tay chân miệng có sự gia tăng đột biến về ca mắc và tử vong ở khu vực phía

Nam.

Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm dịch tễ học của bệnh tay chân miệng ở khu vực phía Nam từ 2005 ‐ 2011.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu dựa trên các báo cáo định kỳ của Viện Pasteur TPHCM từ 2005 ‐  2011,  phiếu  điều  tra  ca  bệnh,  kết  quả  xét  nghiệm  RT‐PCR  và  phân  lập  virút  đường  ruột  của  Viện  Pasteur  TPHCM.

Kết quả: Kết quả khảo sát cho thấy năm 2011 có sự gia tăng bất thường của bệnh tay chân miệng ở khu vực  phía Nam với số ca mắc gấp 6 lần, số ca tử vong gấp 6 ‐ 24 lần so với giai đoạn 2008 ‐ 2010. Tỉ lệ chết/mắc là  0,2%. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhớm trẻ dưới 3 tuổi (chiếm 80%). Trước đây bệnh tay chân miệng có hai đỉnh  dịch trong năm. Năm 2011 dịch chỉ có 1 đỉnh vào tháng 9‐10. Thành phố HCM dẫn đầu về số ca mắc, chết tuyệt  đối. Tuy nhiên, tính trên 100.000 dân, Thành phố HCM đứng hàng thứ 14. Năm tỉnh có số ca mắc/100.000 cao  là Bà Rịa‐Vũng Tàu, Đồng Tháp, Đồng Nai, Bình Dương, Bến Tre. Có sự gia tăng số ca nhiễm EV 71 đồng thời  với sự gia tăng số ca mắc bệnh ở khu vực phía Nam.

Kết  luận: Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm đang bùng phát ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực

phía Nam…

Từ khóa: tay chân miệng, sự phân bố theo năm, mùa, tuổi, phái, tác nhân

ABSTRACT

EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF HAND FOOT MOUTH DISEASE IN 20 SOUTHERN  PROVINCES OF VIETNAM, PERIOD 2005‐2011

Tran Ngoc Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 20 ‐ 25

Background: In 2011, there was a sharp increase in Hand‐foot‐mouth disease morbidity and mortality in

Southern part of Vietnam.

Objectives: To describe epidemiological characteristics of the disease in the period of 2005‐2011.   Methods: Analyzing data from periodical reports of Pasteur Institute in HCMC in the period of 2005‐2011,

a case investigation form, RT‐PCR test and virus isolation from enterovirus lab of Pasteur Institute HCMC.

Result: The results showed that, in southern provinces, cases increased 6 times and deaths increased 6‐24  times in 2011 compared with the period of 2008‐2010. Case fatality rate was 0.2%. The highest percentage of the  disease  was  in  the  group  of  children  under  3  years  old  (80%).  Before  2011,  there  had  been  two  peaks  of  the  pandemic each year. In 2011, there was only one peak in September and October ‐ in rainy season. HCMC rank  the first in cases and deaths but rank the 14th in morbidity  per  100,.000  population.  Five  provinces  had  high  percentages of cases per 100,000 were Ba Ria – Vung Tau, Dong Thap, Dong Nai, Binh Dương and Ben Tre.  There were the increases in the number of EV71 infected cases and the number of hand foot mouth disease infected  cases concurrently.

* Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ts. Trần Ngọc Hữu  ĐT: 0913700496

Email: t.n.huu.vt@gmail.com

19

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Conclusion: Hand foot mouth disease, a communicable disease, has been outbroken in Vietnam, especially in

the South of Vietnam…

Keywords: hand‐foot‐mouth disease, distribution by year, month, age, gender, pathogenic agent

ĐẶT VẤN ĐỀ

169. Khu vực phía Nam chiếm 60% số ca mắc và  85,8% số ca tử vong tay chân miệng của cả nước.

Sự phân bố theo năm

Bệnh tay chân miệng được mô tả lần đầu tiên  tại Mỹ vào năm 1974(2). Ở khu vực Châu Á‐Thái  Bình  Dương,  nhiều  vụ  dịch  tay  chân  miệng  lớn  đã được báo cáo ở nhiều quốc gia như Úc, Trung  quốc,  Nhật  bản,  Malaysia,  Mongolia,  Hàn  quốc,  Singapore, và Việt Nam. Năm 2009, Trung quốc  lục địa đã báo cáo có 1.255.525 ca mắc, trong đó  có 13.810 ca nặng, và 353 ca tử vong(4).

Trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2007  số  ca  mắc  bệnh  tay  chân  miệng  dưới  3.000  ca.  Năm  2008,  khi  bệnh  tay  chân  miệng  được  đưa  vào danh sách bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải  khai báo, số ca mắc tăng lên hơn 3 lần so với giai  đoạn 2006‐2007. Năm 2011, số ca mắc gấp 6 lần,  số ca tử vong gấp 6 ‐ 24 lần so với giai đoạn 2008  ‐ 2010. Tỉ lệ chết/mắc năm 2005 là 2,95%. Trong  giai  đoạn  2008  –  2011  tỉ  lệ  này  dao  động  trong  khoảng 0,06 – 0,23.

Bảng 1: Tình hình bệnh tay chân miệng tại KVPN từ  2005 – 2011

CFR Năm Mắc Chết

2005* 441 13 2.95

2006* 2.284 13 0.57

Bệnh tay chân miệng được ghi nhận lần đầu  tiên tại Việt Nam vào năm 2003. Năm 2008, Bộ Y  tế  chính  thức  đưa  bệnh  tay  chân  miệng  vào  nhóm các bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải khai  báo. Do mới được quan tâm từ vài năm gần đây  nên  những  thông  tin  cơ  bản  về  bệnh  tay  chân  miệng ở  Việt  Nam  chưa  được  đầy  đủ.  Mục  đích  của nghiên cứu này nhằm mô tả những đặc điểm  dịch  tễ  học  của  bệnh  tay  chân  miệng  ở  khu  vực  phía Nam dựa trên những số liệu thu thập được  từ năm 2005 đến 2011.

2007* 2.988 14 0.47

2008 10.958 25 0,23

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2009 10.640 23 0,22

2010 10.128 6 0,06

(*) Ghi chú: từ trước năm 2008, số liệu thu thập chủ yếu  từ BV NĐ1‐NĐ2

2011 67.396 145 0.20

Sự phân bố theo tháng

Số liệu được thu thập  và  phân  tích  dựa  trên  các  báo  cáo  bệnh  truyền  nhiễm  hàng  tháng  của  Viện Pasteur TPHCM từ năm 2005, báo cáo tuần  bệnh tay chân miệng từ năm 2008, phiếu điều tra  ca bệnh, kết quả xét nghiệm RT‐PCR và phân lập  virút  của  Labo  vi  rút  đường  ruột,  Viện  Pasteur  TPHCM.

KẾT QUẢ

Trong  giai  đoạn  2008  ‐  2010,  bệnh  tay  chân  miệng  xuất  hiện  quanh  năm  với  2  đỉnh  dịch.  Đỉnh  thứ  nhất  trong  khoảng  từ  tháng  5‐6,  đỉnh  thứ  hai  trong  khoảng  từ  tháng  9‐11.  Năm  2011  dịch chỉ có 1 đỉnh vào tháng 9‐10.

Theo  thống  kê  của  Cục  Y  tế  dự  phòng,  năm  2011,  cả  nước  ghi  nhận  112.370  trường  hợp  mắc  tay chân miệng tại 63 tỉnh thành. Số ca tử vong là

20

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Hình 1: Diễn tiến dịch TCM theo tháng tại KVPN năm 2011

Sự phân bố theo địa phương

HCM đứng hàng thứ 14 (140,1). Năm tỉnh có số  ca  mắc/100.000  cao  là  Bà  Rịa‐Vũng  Tàu  (331,5),  Đồng  Tháp  (318,3),  Đồng  Nai  (316,0),  Bình  Dương (276,3), và Bến Tre (240,0).

Thành  phố  HCM  dẫn  đầu  về  số  ca  mắc  (9.462) và chết (30) tuyệt đối, tiếp theo là các tỉnh  Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre, và Bà Rịa‐Vũng  Tàu. Tuy nhiên, tính trên 100.000 dân, thành phố

Hình 2: Tình hình dịch TMC phân bố theo địa phương tại KVPN năm 2010

22

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Sự phân bố theo tuổi và giới

2005,  các  tỉ  lệ  này  lần  lượt  là  77,1  và  40,6.  Nam  giới chiếm 57,6% số ca mắc.

Năm  2011,  nhóm  dưới  3  tuổi  chiếm  80%,  trong đó cao nhất là nhóm 1 tuổi (34,7%).  Năm

Hình 3: Phân bố ca mắc TCM theo tuổi và giới, KVPN, năm 2011

Tác nhân gây bệnh

nghiệm  dương  tính  với  các  loại  EV  là  1.922  ca  (84,97%),  trong  đó  EV71  là  1.380  ca  (60,01%).  Tổng số các ca tử vong bệnh tay chân miệng có  kết quả xét nghiệm dương tính với các loại EV là  93 ca (96,77%), trong đó EV71 là 76 ca (81,72%).

Có  sự  lưu  hành  của  cả  EV71  và  các  loại  EV  khác  tại  KVPN.  Tuy  nhiên  sự  gia  tăng  số  ca  nhiễm  EV71  diễn  ra  cùng  thời  điểm  với  sự  gia  tăng mạnh số ca mắc tay chân miệng tại KVPN.  Trong  năm  2011,  tổng  số  ca  có  kết  quả  xét

Hình 4: Sự lưu hành các chủng vi rút gây bệnh tay chân miệng tại KVPN năm 2011

23

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Sự phân bố theo địa phương

Phân độ lâm sàng

Không  giống  như  các  bệnh  truyền  nhiễm  khác, bệnh tay chân miệng là loại bệnh cấp tính  nặng,  diễn  tiến  rất  nhanh.  Kết  quả  phân  tích  1.289  ca  mắc  tại  TPHCM  có  đủ  thông  tin  về  phân độ lâm sàng cho thấy độ 1 (chỉ loét miệng  và/hoặc tổn thương da): 23,8%; độ 2 (biến chứng  thần  kinh/tim  mạch  mức  độ  trung  bình:  75,4%;  độ 3 (biến chứng nặng về thần kinh, hô hấp, tim  mạch): 0,3%; độ 4 (biến chứng rất nặng về thần  kinh, hô hấp, tim mạch): 0,5%.

Khu vực phía Nam chiếm 82,4% số ca mắc và  87,8% số ca tử vong của cả nước. Chưa có những  nghiên  cứu  để  giải  thích  cho  sự  khác  biệt  theo  vùng miền. Ở khu vực phía Nam thì TPHCM và  các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Bà  Rịa ‐ Vũng Tàu, và Long An chiếm hơn 60% ca  mắc  và  81,5%  ca  tử  vong  của  toàn  khu  vực.  Sự  quan tâm và năng lực chẩn đoán điều trị của các  bệnh  viện  nhi  của  TPHCM  có  thể  là  lý  do  giải  thích cho số ca mắc và chết cao của TPHCM và  vùng lân cận.

BÀN LUẬN

Sự phân bố theo lứa tuổi và phái

Sự phân bố theo năm

Từ năm 2008‐2010, số ca mắc tay chân miệng  hàng năm tăng hơn 3 lần so với giai đoạn 2006‐ 2007. Sự gia tăng này là do đầu năm 2008 Bộ Y tế  đã  quyết  định  đưa  bệnh  tay  chân  miệng  vào  danh sách các bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải  khai  báo.  Số  liệu  về  bệnh  tay  chân  miệng  trước  đó  (2005‐2007)  do  chương  trình  hợp  tác  nghiên  cứu giữa Viện Pasteur TPHCM và bệnh viện Nhi  đồng 1 của TPHCM.

Số  ca  mắc  tay  chân  miệng  ở  trẻ  dưới  5  tuổi  chiếm  94,85%,  tập  trung  ở  nhóm  1‐3  tuổi  (80,88%).  Số  liệu  này  cũng  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  ở  nước  ngoài(5,1).  Một  điều  tra  huyết  thanh học ở Singapore trên đối tượng trẻ em 12  tuổi trở xuống cho thấy tỉ lệ có kháng thể kháng  EV71 ở máu cuống rốn là 44%. Không có trẻ em  nào trên 1 tháng tuổi còn kháng thể kháng EV71  dù là con của các bà mẹ đã có kháng thể kháng  EV71.  Tỉ  lệ  có  kháng  thể  kháng  EV71  ở  nhóm  tuổi 1‐23 tháng là 0,8%; nhóm tuổi 2‐4 tuổi tăng  khoảng  12%  cho  mỗi  năm  tuổi;  nhóm  tuổi  từ  5  tuổi  trở  lên  là  50%.  Một  nghiên  cứu  cắt  ngang  thực hiện ở Đài Loan cũng cho kết quả tương tự(4).

Về  tính  chu  kỳ  của  bệnh  tay  chân  miệng,  ở  các  quốc  gia  Châu  Á‐Thái  Bình  Dương,  mỗi  2‐4  năm  lại  bộc  phát  dịch  lớn(2).  Ở  Việt  Nam,  do  số  liệu  chỉ  mới  được  thu  thập  có  hệ  thống  từ  năm  2008  nên  chưa  thể  kết  luận  về  tính  chu  kỳ  của  bệnh. Tuy nhiên năm 2011 ghi nhận sự gia tăng  bất thường của bệnh với số ca mắc đã gần 6 lần,  số ca tử vong gấp 6 ‐ 24 lần so với giai đoạn 2008  ‐ 2010.

Sự phân bố theo tháng

Khảo sát của Phan Văn Tú năm 2005(3) không  ghi nhận sự khác biệt giữa nam và nữ, tuy nhiên  số liệu năm 2011 cho thấy tỉ suất mắc của nam/nữ  1,4:1  tương  tự  như  nghiên  cứu  của  Kow‐tong  Chen(1)  về  đặc  điểm  dịch  tễ  học  bệnh  tay  chân  miệng ở Đài Loan từ năm 1998‐2005. Chưa có giải  thích nào được đưa ra về sự khác biệt này.

Tác nhân gây bệnh

Tài  liệu  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  khu  vực  Châu Á‐Tây Thái Bình Dương (WPRO) ghi nhận  bệnh  lưu  hành  quanh  năm  nhưng  mùa  mưa  có  nhiều vụ dịch tay chân miệng hơn(2). Ở Việt Nam,  dựa trên số liệu khảo sát năm 2005, bác sĩ Phan  Văn Tú và cộng sự(3) ghi nhận có 2 đỉnh dịch, một  đỉnh dịch nhỏ từ tháng 3‐5 và một đỉnh cao hơn  từ tháng 9‐12. Tuy nhiên năm 2011 dịch bộc phát  mạnh vào mùa mưa và lên đến đỉnh tháng 9‐10,  phù hợp với nhận định của WPRO.

Tài  liệu  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  khu  vực  Châu  Á‐Tây  Thái  Bình  Dương  (WPRO)(4)  ghi  nhận thứ type C2 gây dịch lớn ở Đài Loan  năm  1998  với  1,5  triệu  ca  mắc  và  78  ca  tử  vong;  thứ  type C4 gây dịch lớn ở Trung Quốc năm 2009 với  1,1  triệu  ca  mắc  và  353  ca  tử  vong.  Ở  khu  vực  phía Nam, trước năm 2011 thứ type C5 chiếm đa  số;  năm  2011  thứ  type  C4  chiếm  đa  số  với  86%,

24

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

thứ 14. Năm tỉnh có số ca mắc/100.000 cao là Bà  Rịa‐Vũng  Tàu,  Đồng  Tháp,  Đồng  Nai,  Bình  Dương, và Bến Tre.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  và  số  ca  mắc  cũng  tăng  cao.  Đó  là  những  ghi  nhận ban đầu về sự thay đổi tác nhân gây bệnh  và  mức  độ  lan  truyền  bệnh.  Tuy  nhiên  chưa  có  bằng chứng đầy đủ về sự khác biệt độc lực của các  thứ type gây bệnh(4).

Nhóm dưới 3 tuổi  chiếm  80%,  trong  đó  cao  nhất là nhóm 1 tuổi (34,7%). Năm 2005, các tỉ lệ  này lần lượt là 77,1; 40,6. Tỉ suất nam:nữ là 1,4:1.

KẾT LUẬN

Bệnh  tay  chân  miệng  là  bệnh  truyền  nhiễm

đang bùng phát ở Việt Nam.

Có sự lưu hành của cả EV71 và các loại EV  khác  tại  KVPN.  Tuy  nhiên  sự  gia  tăng  số  ca  nhiễm  EV71  diễn  ra  cùng  thời  điểm  với  sự  gia  tăng mạnh số ca mắc tay chân miệng tại KVPN.

2.

Khu vực phía Nam chiếm 60% số ca mắc và  85,8%  số  ca  tử  vong  của  bệnh  tay  chân  miệng  trong cả nước. Năm 2011, bệnh có sự gia tăng bất  thường ở khu vực phía Nam với số ca mắc gấp 6  lần,  và  số  ca  tử  vong  gấp  6  ‐  24  lần  so  với  giai  đoạn 2008 ‐ 2010. Tỉ lệ chết/mắc là 0,2%.

3.

Trước  đây  bệnh  tay  chân  miệng  xuất  hiện  quanh năm nhưng có hai đỉnh: Đỉnh thứ nhất xảy  ra  trong  khoảng  từ  tháng  5‐6,  và  đỉnh  thứ  hai  trong khoảng từ tháng 9‐11. Năm 2011, bệnh chỉ  có 1 đỉnh vào tháng 9‐10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Kow‐Tong  C  et  al.  Human  Enterovirus  71  Disease:  Clinical  Features,  Epidemiology,  Virology,  and  Management.  The  Open Epidemiology Journal, 2008, 1, 10‐16  Schmidt  NJ,  Lennette  EH,  Ho  HH.  An  apparently  new  enterovirus isolated from patients with disease of the central  nervous  system.  Journal  of  Infectious  Diseases,  1974,  Mar,129(3):304–309.  Tu  PV,  et  al.  Epidemiologic  and  virologic  investigation  of  hand,  foot,  and  mouth  disease  southern  Vietnam,  2005.  Emerging Infectious Diseases, 2007, Nov, 13(11):1733–1741.  4. WHO  (2011).  A  Guide  to  clinical  management  and  public  health response for hand, foot and mouth disease (HFMD).  5. WPRO.  Risk  assessment  of  EV71  for  the  Western  Pacific

region.  http://www.wpro.who.int/sites/crs/data/RAEV71inWPR.html .

Năm 2011, Thành phố HCM dẫn đầu về số ca  mắc, chết tuyệt đối. Tiếp theo là Đồng Nai, Đồng  Tháp, Bến Tre, Bà Rịa‐Vũng Tàu. Tuy nhiên, tính  trên  100.000  dân,  thành  phố  HCM  đứng  hàng

25

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

SỰ LAN TRUYỀN BỆNH TẢ QUA BIÊN GIỚI VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ  BÙNG PHÁP DỊCH TẢ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2010

Trần Ngọc Hữu*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đầu năm 2010, nhiều bệnh nhân tả từ Campuchia đến các bệnh viện của Việt Nam để được

điều trị.

Mục tiêu: Mục đích của khảo sát này nhằm mô tả diễn tiến của sự lan truyền bệnh tả qua biên giới và các

yếu tố nguy cơ bùng phát dịch tả ở đồng bằng sông Cửu Long.

Phương pháp nghiên cứu: Sự lan truyền bệnh tả biên giới được mô tả qua việc phân tích hàng loạt ca bệnh  tả năm 2010. Các yếu tố nguy cơ được phân tích dựa trên nghiên cứu bệnh chứng. 150 mẫu nước sông, 40 mẫu  nước sinh hoạt, 24 mẫu nước thải, 12 mẫu nước uống, 41 mẫu thực phẩm được xét nghiệm để phát hiện sự hiện  diện của vi khuẩn tả trong môi trường nước và thực phẩm

Kết quả: Kết quả cho thấy những bằng chứng về sự xâm nhập của dịch tả qua biên giới bao gồm: mối liên  hệ về thời gian (các tỉnh của Campuchia giáp ranh với An Giang đã bộc phát dịch tả từ cuối tháng 12/2009),  bệnh nhân tả từ Campuchia đến điều trị tại bệnh viện huyện An Phú từ 2 tuần trước khi xuất hiện bệnh nhân tả  người Việt Nam đầu tiên.

Kết luận: Có sự hiện diện của vi khuẩn tả ở môi trường nước sông, nước sinh hoạt, nước thải, thực phẩm

tươi sống. Có mối liên hệ giữa thói quen ăn uống, tiếp xúc bệnh nhân và mắc bệnh tả.

Từ khóa: bệnh tả, sự lan truyền, yếu tố nguy cơ.

ABSTRACT

CHOLERA TRANSMISSION THROUGH BORDER AND RISK FACTORS FOR CHOLERA  OUTBREAK IN MEKONG DELTA RIVER IN 2010

Tran Ngoc Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 26 ‐ 30

Background: In January 2010, many Kampuchean cholera patients came to Vietnam hospitals to be treated.

Objectives: This study aims at describing the transmission through border Viet Nam‐ Kampuchea and risk

factors for cholera outbreak in Mekong delta region.

Methods: The transmission through border was showed through describing case series of cholera in 2010.  Risk factors were detected through a case‐control study. Water samples from rivers (150), running water (40),  waste water (12), food (41) were analyzed to detect the presence of V.cholerae.

Result:  The  result  showed  proofs  of  cholera  transmission  through  border:  temporal  relationship  (Kampuchean provinces bodering with An Giang occurred cholera since December 2009), Kampuchean cholera  patients came to An Phu district hospital to get treatment 2 weeks before the first Vietnamese cholera case.

Conclusion: V.cholerae was detected in river water, running water, waste water, fresh food. There has been

relationship between eating habit, patient contact and getting cholera.

Keywords: cholera, transmission, risk factors

* Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ts. Trần Ngọc Hữu  ĐT: 0913700496

Email: t.n.huu.vt@gmail.com

26

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự lan truyền bệnh tả biên giới  được  mô  tả  qua  việc  phân  tích  hàng  loạt  ca  bệnh  tả  năm  2010  và  báo  cáo  về  dịch  tả  ở  Campuchuia  năm  2009‐2010 của Bộ Y tế Campuchia.

Các yếu tố nguy cơ được phân tích dựa trên  nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp (60 ca bệnh, 240  ca chứng; bắt cặp theo tuổi và giới). Sự hiện diện  của vi khuẩn tả trong môi trường được đánh giá  qua  xét  nghiệm  vi  sinh,  sinh  học  phân  tử  150  mẫu nước sông, 40 mẫu nước sinh hoạt, 24 mẫu  nước  thải,  12  mẫu  nước  uống,  41  mẫu  thực  phẩm.

KẾT QUẢ

Tình  hình  bệnh  tả  ở  khu  vực  phía  Nam  từ

năm 1994 đến 2010

Tả  là  bệnh  dịch  lưu  hành  rộng  rãi  ở  miền  Nam từ trước 1975 và kéo dài đến cuối thập niên  90 của thế kỷ 20. Những năm đầu thập niên của  thế kỷ 21, bệnh tả có xu hướng giảm dần và đến  năm 2005 không còn ghi nhận ca nào. Vào cuối  năm  2007  dịch  bùng  phát  ở  19  tỉnh  thành  phía  Bắc  với  hàng  nghìn  ca  mắc.  Năm  2008,  Thành  phố Hồ Chí Minh ghi nhận 2 ca tả xâm nhập từ  miền Bắc. Các biện pháp chống chống dịch khẩn  cấp được triển khai đã giúp ngăn chận sự lây lan  ra cộng đồng. Tuy nhiên năm 2009 bệnh tả được  ghi nhận ở nhiều tỉnh của Campuchia trong đó  có  những  tỉnh  giáp  ranh  với  Việt  Nam.  Nhiều  bệnh  nhân  tả  từ  Campuchia  đến  các  bệnh  viện  của Việt Nam để được điều trị tạo ra nguy cơ lây  lan  dịch  tả  cho  khu  vực  phía  Nam.  Trong  điều  kiện vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh môi  trường chưa đảm bảo, khả năng lây lan dịch tả  là rất lớn.

Mục đích của khảo sát này nhằm mô tả diễn  tiến của sự lan truyền  bệnh  tả  qua  biên  giới  và  các  yếu  tố  nguy  cơ  bùng  phát  dịch  tả  ở  đồng  bằng sông Cưu Long.

Mắc chết 94 588 4 95 1328 4 96 149 0 97 7 0 98 13 1 99 216 0 00 0 0 09 10 0 158 0 0 02 177 0 04 46 1 03 27 0 06 0 0 05 0 0 08 2 0 07 0 0

Sự lan truyền tả qua biên giới(5)

Năm 1995 có một đợt dịch tả lớn xảy ra ở 11  tỉnh  thành  của  khu  vực  phía  Nam  với  1.328  ca  mắc,  4  ca  tử  vong.  Từ  năm  1996  bệnh  có  xu  hướng  giảm  dần.  Giai  đoạn  từ  1996  đến  2004  bệnh  xuất  hiện  rải  rác.  Năm  2005  đến  2007  không còn ghi nhận ca nào. Năm 2008 có 2 ca tả  xâm  nhập  từ  miền  Bắc  nhưng  đã  được  ngăn  chặn  kịp  thời  không  để  lây  lan  ra  cộng  đồng.  Năm 2010 có 158 ca tả, không có tử vong(4).   Năm 01 15 0 tỉnh  giáp  ranh  với  huyện  An  Phú  của  tỉnh  An  Giang  là  Takeo  và  Kandal  và  phát  hiện  tổng  cộng 12 ca dương tính với vi khuẩn tả (Takeo: 2;  Kandal: 10).

Theo  báo  cáo  của  Bộ  Y  tế  Campuchia,  năm  2010,  37  huyện  của  Campuchia  có  dịch  tả.  Các  tỉnh của Campuchia giáp ranh với An Giang đã  bộc phát dịch tả từ cuối tháng 12/2009.

Ngày 30/1/2010 xuất hiện bệnh tả người Việt  Nam  đầu  tiên  ở  huyện  An  Phú.  Trong  vòng  2  tuần  (30/1/2010  –  16/2/2010)  có  5  bệnh  nhân  người Việt Nam cư trú ở 4 xã, thị trấn của huyện  An  Phú  (giáp  ranh  với  Campuchia),  tỉnh  An  Giang  được  xác  nhận  dương  tính  với  vi  khuẩn  tả.

Ngày  15/1/2010  một  bệnh  nhân  là  người  Campuchia  đến  Bệnh  viện  huyện  An  Phú  tỉnh  An  Giang  điều  trị.  Kết  quả  xét  nghiệm  dương  tính  với  vi  khuẩn  tả.  Trong  3  tháng  đầu  năm  2010  Bệnh  viện  An  phú  tiếp  tục  nhận  điều  trị  bệnh nhân tiêu chảy người Campuchia đến từ 2

27

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Hình 1. Số ca mắc bệnh tả huyện An Phú, phân bố theo thời gian

Bản đồ hành chính tỉnh An Giang

Sự  hiện  diện  của  vi  khuẩn  tả  trong  môi  trường(3)

Từ 3/3/2010 bệnh tả bắt đầu lan truyền đến 6  tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long & 3 tỉnh  miền Đông Nam Bộ, theo thứ tự: Thành phố Hồ  Chí Minh (từ 3/3/2010), Tây Ninh (30/4), Bến Tre  (9/5/2010),  Tiền  Giang  (11/6/2010,),  Bạc  Liêu  (1/7/2010),  Cần  Thơ  3/7,  Cà  Mau  (13/7/2010),  Long An (16/7/2010), Đồng Nai (11/9/2010).

Kết  quả  xét  nghiệm  các  mẫu  nước  sông,  nước  sinh  hoạt,  nước  uống,  nước  thải,  thực  phẩm  tươi  sống  do  Viện  Pasteur  TPHCM  tiến  hành lấy mẫu ở các ổ dịch thuộc tỉnh An Giang  và  Bến  Tre  đã  phát  hiện  sự  hiện  diện  của  vi  khuẩn tả trong nước sông, nước sinh hoạt, nước  thải,  thực  phẩm  ở  các  mức  độ  khác  nhau  tuỳ  theo phương pháp xét nghiệm, loại mẫu thử.

28

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

tháng 1/2010

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Kết quả xét  nghiệm  môi  trường  nước  và  thực

Số mẫu XN Nuôi cấy +

1 (1,6%) 0 0 0 0 61 2 5 56 3 PCR* + 4 (6,5%) 0 0 5 (0,9%) 0

phẩm tươi sống ở An Giang  Loại mẫu Nước sông Nước sinh hoạt Nước uống Mồi tôm Thực phẩm

Kết quả xét  nghiệm  môi  trường  nước  và  thực

Nói chung, khả năng lan truyền bệnh tả qua  biên  giới  Việt  Nam  –  Campuchia  ở  vùng  đồng  bằng sông Cửu Long là rất cao do sự kết nối tự  nhiên  của  hệ  thống  sông  rạch  thuộc  phụ  lưu  sông  Mekong,  sự  đi  lại  dễ  dàng  qua  cửa  khẩu  biên giới của người dân ở các huyện vùng biên  giới, thói quen của người dân Campuchia vùng  biên  giới  thường  đến  các  bệnh  viện  huyện  của  Việt Nam để khám chữa bệnh.

3 (2%) PCR* + 13 (8,67%)

Sự  thiếu  chia  sẻ  kịp  thời  thông  tin  về  bệnh  dịch giữa các tỉnh giáp biên giới khiến việc cảnh  báo dịch sớm khó thực hiện.

1 (2,5%) 40 1 (2,5%)

phẩm tươi sống ở Bến Tre  Loại mẫu Số mẫu XN Nuôi cấy + Nước sông 150 Nước sinh hoạt Nước thải Nước uống Thực phẩm

* Kỹ thuật PCR phát hiện cả vi khuẩn sống lẫn vi khuẩn  chết nên có giá trị cảnh báo

Một khi dịch tả đã xâm nhập thì do các điều  kiện thuận lợi về tự nhiên (sông rạch chằng chịt),  tập  quán  (cầu  trên  sông,  dùng  nước  sông  rạch  trong sinh hoạt)… nên dễ bộc phát dịch kéo dài  ở đồng bằng sông Cửu Long.

2 (8,33%) 0 1 (2,4%) 24 12 41 0 0 1 (2,4%)

Yếu tố nguy cơ mắc tả(2)

Nghiên cứu bệnh chứng trên 60 ca bệnh và,  240 ca chứng do Viện Pasteur TPHCM tiến hành  tại các ổ dịch ở Bến Tre đã cho thấy mối liên hệ  giữa thói quen ăn uống, tiếp xúc bệnh nhân và  mắc bệnh tả.

TPHCM  là  đầu  mối  giao  lưu  của  cả  nước  nên không loại trừ nguồn gốc bệnh tả xâm nhập  từ Campuchia qua các tỉnh đồng bằng sông Cửu  Long.  Các  trường  hợp  tả  ở  quận  7  đều  xảy  ra  trên cộng đồng cư dân sống trên sông nước, đa  phần đến từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Sự  hiện  diện  của  vi  khuẩn  tả  trong  môi  trường và các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tả

OR 6,6 2,7 14,2 P-value 0,00001 0,009 0,02

2,9 0,03

2,9 0,001 Yếu tố nguy cơ Tiếp xúc với bệnh nhân tiêu chảy Uống nước trà đá Uống nước đá ngoài đường Uống nước sông không xử lý bằng Chloramin B Dùng nước sông không xử lý bằng Chloramin B để chế biến thức ăn

BÀN LUẬN

Các  yếu  tố  ảnh  hưởng  đến  sự  lan  truyền  bệnh tả qua biên giới

Có  thể  xác  định  ổ  dịch  tả  ở  huyện  An  Phú  tỉnh An Giang có nguồn gốc từ Campuchia dựa  trên các yếu tố sau:

Sự  phát  hiện  vi  khuẩn  tả  trong  nước  sông,  nước sinh hoạt, nước thải, thực phẩm tươi sống  cho thấy cần nhanh chóng cải thiện vệ sinh môi  trường  (xóa  cầu  trên  sông),  mở  rộng  hệ  thống  cung cấp nước sạch, đầu tư cho việc xử lý chất  thải ở bệnh viện, kiểm tra an toàn vệ sinh thực  phẩm,  đặc  biệt  là  đối  với  thức  ăn  đường  phố.  Việc tổ chức tốt khu cách ly trong bệnh viện và  có những qui định về việc thăm nuôi ở khu vực  cách  ly  có  thể  hạn  chế  sự  lây  lan  do  tiếp  xúc  bệnh nhân(1,6).

Có  mối  liên  hệ  về  thời  gian:  các  tỉnh  của  Campuchia giáp ranh với An Giang đã bộc phát  dịch tả từ cuối tháng 12/2009.

Sự giao lưu thường xuyên qua biên giới.

Kết quả khảo sát về các yếu tố nguy cơ mắc  bệnh  tả  cho  thấy  cần  tăng  cường  truyền  thông  về  thay  đổi  hành  vi  liên  quan  đến  ăn  uống  và  chăm sóc bệnh nhân (ăn chín uống chín, rửa tay  bằng xà phòng). Những thay đổi hành vi này có  thể  phòng  được  nhiều  bệnh  nhiễm  khác  hiện

Việc  tiếp  nhận  bệnh  nhân  tả  từ  Campuchia  đến điều trị tại bệnh viện huyện An Phú từ giữa

29

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  đang bộc phát mạnh như tay  chân  miệng,  cúm  gia cầm…

KẾT LUẬN

Cải  thiện  vệ  sinh  môi  trường  (xoá  cầu  trên  sông);  Mở  rộng  hệ  thống  cung  cấp  nước  sạch;  Đầu  tư  cho  việc  xử  lý  chất  thải  ở  bệnh  viện  huyện.

Tăng  cường  kiểm  tra  an  toàn  vệ  sinh  thực

phẩm.

Phối hợp phòng chống dịch tả giữa Bộ Y tế  Việt Nam và Campuchia; Khảo sát về mặt sinh  học phân tử để  tìm mối liên hệ giữa các  chủng  V.cholerae được phát hiện ở các tỉnh thành phía  Nam, phía Bắc và ở Campuchia.

Ổ dịch tả đầu tiên ở khu vực phía Nam năm  2010  xuất  hiện  ở  một  huyện  giáp  biên  giới  với  Campuchia.  Những  bằng  chứng  về  sự  xâm  nhập của dịch tả qua biên giới bao gồm: mối liên  hệ  về  thời  gian  (các  tỉnh  của  Campuchia  giáp  ranh  với  An  Giang  đã  bộc  phát  dịch  tả  từ  cuối  tháng 12/2009), bệnh nhân tả từ Campuchia đến  điều  trị  tại  bệnh  viện  huyện  An  Phú  từ  2  tuần  trước  khi  xuất  hiện  bệnh  nhân  tả  người  Việt  Nam đầu tiên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Cục  Y  tế  dự  phòng  (2009).  Cẩm  nang  phòng  chống  bệnh

truyền nhiễm. Hà Nội: nxb Y học, 2009: 67‐82.

2. Viện  Pasteur  TPHCM  (2010).  Kết  quả  điều  tra  nguy  cơ  mắc

bệnh tả ở tỉnh Bến Tre năm 2010

3. Viện Pasteur TPHCM (2010). Kết quả xét nghiệm vi khuẩn tả

Có  sự  hiện  diện  của  vi  khuẩn  tả  ở  môi  trường  nước  sông,  nước  sinh  hoạt,  nước  thải,  thực phẩm tươi sống.

2010

4. Viện Pasteur TPHCM (2010). Thống kê 24 BTN từ 1994 đến

2010

5. Viện  Pasteur  TPHCM  (2010).  Tổng  kết  hoạt  động  phòng

chống dịch năm 2010

Các yếu tố nguy cơ cho phát triển của dịch tả  bao  gồm  tình  trạng  dịch  tả  chưa  ổn  định  ở  Campuchia  và  khu  vực  phía  Bắc,  điều  kiện  vệ  sinh  an  toàn  thực  phẩm  và  vệ  sinh  môi  trường  chưa đảm bảo.

6. WHO/CDS/CPE/ZFK/2004.4. Cholera outbreak: Assessing the  outbreak  response  and  improving  preparedness.  Geneva  2004: 18‐22, 44‐53.

KIẾN NGHỊ

Tăng cường giám sát tại cửa khẩu, các trạm  y  tế  dọc  biên  giới.  Trao  đổi  thông  tin  giữa  các  tỉnh biên giới của Việt Nam và Campuchia.

30

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM ĐANG BÙNG PHÁT   Ở KHU VỰC PHÍA NAM TỪ 2001‐2011

Trần Ngọc Hữu*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Ở 20 tỉnh thành phía Nam, những bệnh nhiễm đang bùng phát được quan tâm nhiều trong 10

năm đầu của thế kỷ 21 là tay chân miệng, sốt xuất huyết, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1 đại dịch 2009, tả.

Mục tiêu: Thống kê các bệnh nhiễm đang bùng phát ở khu vực phía Nam từ năm 2001‐20011.

Phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp các báo cáo bệnh nhiễm của Viện Pasteur TPHCM từ 2001‐ 2011,  các báo cáo điều tra ổ dịch, giám sát điểm để phân tích đặc điểm về dịch tễ học, vi sinh học của những bệnh  nhiễm đang bùng phát chủ yếu ở khu vực phía Nam.

Kết quả: Kết quả cho thấy bệnh tay chân miệng mới được ghi nhận từ năm 2003 nhưng hiện là bệnh có số  ca mắc, chết nằm trong danh sách 5 bệnh truyền nhiễm có số ca mắc, chết cao nhất. Năm 2011, số ca mắc chết  vì tay chân miệng có sự gia tăng đột biến so với giai đoạn 2008‐2010 (mắc tăng hơn 6 lần, chết tăng gấp 6‐24  lần). Năm 2011 cũng ghi nhận có sự chuyển đổi thứ týp gây dịch của EV71 từ C5 sang C4.

Kết luận: Bệnh sốt xuất huyết vẫn là bệnh có số ca mắc và chết cao. Có sự thay đổi về phân bố theo tuổi và  địa phương. Năm 2011, Sốt xuất huyết người lớn chiếm tỉ lệ 41% (26% vào năm 2001). Các tỉnh miền Đông  Nam  Bộ  chiếm  47,3%  số  ca  mắc  (20,4%  vào  năm  2001).  Bệnh  cúm  A/H5N1  có  số  mắc  thấp  nhưng  tỉ  lệ  chết/mắc rất cao (87‐100%). Bệnh cúm A/H1N1 đại dịch 2009 bộc phát mạnh ở năm đầu tiên và hiện nay đang  lưu hành như một dạng cúm mùa. Bệnh tả có số mắc và chết giảm mạnh so với những năm 90 của thế kỷ 20.  Tuy nhiên nhiều tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nguy cơ bùng phát tả.

Từ khoá: tay chân miệng, sốt xuất huyết, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1 đại dịch 2009, tả.

ABSTRACT

EMERGING INFECTIOUS DISEASES IN THE SOUTH OF VIETNAM, PERIOD 2001 ‐ 2011

Tran Ngoc Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 31 ‐ 37

Background: In 20 southern provinces, leading Emerging infectious diseases (EIDs) in period 2001‐2011  are  Hand‐foot‐mouth  diseases  (HFMD),  Dengue,  Influenza  A/H5N1,  influenza  A/H1N1  pandemic  2009,  Cholera.

Objectives: synthesized data on emerging infectious diseases in southern Vietnam from 2001 to 2011.

Methods:  The  authors  synthesized  scientific  data  of  Pasteur  Institute  in  HCMC,  period  2001‐2011,  including  notifiable  infectious  disease  reports,  epidemic  investigation  reports,  sentinel  surveillance  to  identify  epidemiolgical, microbiological characteristics of EIDs in the South of VN.

Result: The results showed that HFMD, recorded since 2003, now become the five leading causes of cases  and deaths among 26 notifiable infectious diseases. In 2011, there was an suddenly increasing as compared with  2008‐2010 (cases increased 6 times; deaths increased 6‐24 times). There has been a change of subtype of EV71  from C5 to C4.

Conclusion: Dengue fever has been still high morbidity and mortality. There have changes in age and place  distribution. In 2011, Dengue fever in adult group was 41% (26% in 2001), in eastern provinces was 47,3%

* Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ts. Trần Ngọc Hữu  ĐT: 0913700496

Email: t.n.huu.vt@gmail.com

31

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  (20,4%  in  2001).  Influenza  A/H5N1  had  low  morbidity  but  case  fatality  rate  was  very  high  (87%‐100%).  Influenza  A/H1N1  pandemic  2009  had  big  outbreak  in  2009,  now  become  seasonal  influenza.  Cholera  deeply  reduced  as  compared  with  years  of  20th  century.  However  many  provinces  in  Mekong  delta  has  still  risk  of  epidemic outbreak.

Keywords:  hand‐foot‐mouth  disease,  Dengue  fever,  H5N1  influenza,  H1N1  influenza  pandemic  2009,

cholera.   ĐẶT VẤN ĐỀ

vực phía Nam (BV Nhiệt đới TPHCM, bệnh viện  Nhi đồng 1, BV Cái Bè tỉnh Tiền Giang) để phân  tích  đặc  điểm  về  dịch  tễ  học,  vi  sinh  học  của  những  bệnh  nhiễm  đang  bùng  phát  chủ  yếu  ở  khu vực phía Nam.

KẾT QUẢ

Bệnh truyền nhiễm đang bùng phát là bệnh  truyền nhiễm mới xuất hiện trong một quần thể  hoặc  là  bệnh  đã  biết  trước  đây  nhưng  gia  tăng  nhanh  chóng  về  số  ca  mắc  mới  hoặc  xuất  hiện  khu vực mới(1).

Bệnh tay chân miệng

Nguyên  nhân  của  sự  bùng  phát  có  thể  liên  quan đến sự biến đổi của vi sinh vật hiện hữu,  sự tái tổ hợp gien của các chủng virus khác nhau  (Virus  cúm  A/H1N1  đại  dịch  2009),  hoặc  do  virus  lan  đến  vùng  mới,  quần  thể  mới  (West  Nile virus), tái bùng phát do kháng thuốc (Lao).  Sự biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sự phát triển  của trung gian truyền bệnh. Di biến động dân cư  và sự hình thành các khu ổ chuột bên cạnh các  khu đô thị mới do hậu quả của phát triển kinh tế  xã hội không kèm theo qui hoạch tốt(2).

Hiện nay các chuyên gia y học đang lo lắng  về khả năng kết hợp giữa virus cúm A/H5N1 có  độc lực cao với virus cúm A/H1N1 đại dịch 2009  có khả năng lan truyền nhanh chóng. Nếu điều  này xảy ra thì thực sự là thảm họa cho nhân loại.

Ở  Việt  Nam,  ca  tay  chân  miệng  đầu  tiên  được phát hiện tại khu vực phía Nam vào năm  2003.  Năm  2005  bắt  đầu  có  những  số  liệu  đầu  tiên về bệnh tay chân miệng từ kết quả hợp tác  nghiên  cứu  giữa  Viện  Pasteur  THCM  với  Bệnh  viện Nhi đồng 1 và Bệnh viện Nhi đồng 2 (mắc:  441; chết: 13). Năm 2006‐2007 số ca mắc tay chân  miệng  được  ghi  nhận  ngày  càng  nhiều.  Năm  2008 Bộ Y tế đưa bệnh tay chân miệng vào danh  sách các bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải khai  báo  và  số  ca  mắc,  chết  do  tay  chân  miệng  tăng  nhanh.  Năm  2011,  số  ca  mắc  chết  vì  tay  chân  miệng  có  sự  gia  tăng  đột  biến  so  với  giai  đoạn  2008‐2010 (mắc tăng hơn 6 lần, chết tăng gấp 6‐ 24 lần). Tỉ lệ chết/mắc dao động từ 0,57% ‐ 2,95%  trong giai đoạn 2005 – 2007 và từ 0,06% ‐ 0,23%  trong giai đoạn 2008 – 2011(3).

Bảng 1: Số ca Mắc & chết do tay chân miệng, giai  đoạn 2005 ‐ 2011

Chết Chết/mắc (%) Năm Mắc

2005 441 13 2,95

Ở  20  tỉnh  thành  phía  Nam,  những  bệnh  nhiễm  đang  bùng  phát  được  quan  tâm  nhiều  trong  10  năm  đầu  của  thế  kỷ  21  bao  gồm  tay  chân miệng, sốt xuất huyết, cúm A/H5N1, cúm  A/H1N1 đại dịch 2009, tả. Ngoại trừ bệnh tả, các  bệnh  còn  lại  có  đặc  điểm  chung  là  bệnh  do  vi  rút, chưa có thuốc đặc trị, chưa có vắc xin phòng  ngừa, công tác phòng ngừa gặp nhiều khó khăn.

2006 2,284 13 0,57

2007 2,988 14 0,47

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2008 2009 2010 10,958 10,640 10,128 25 23 6 0,2 3 0,22 0,06

Về sự phân bố theo giới, năm 2011, phái nam  chiếm 57,57% số ca mắc và 67,59% số ca chết. Tỉ

Tác giả đã tổng hợp các dữ liệu khoa học của  Viện Pasteur TPHCM giai đoạn 2001‐ 2011, bao  gồm  các  báo  cáo  bệnh  nhiễm  định  kỳ;  các  báo  cáo  điều  tra  ổ  dịch  tay  chân  miệng,  sốt  xuất  huyết,  cúm  A/H5N1,  cúm  A/H1N1  đại  dịch  2009, tả; giám sát trọng điểm hội chứng cúm khu

2011 67,396 145 0,22

32

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  suất chết/mắc (CRF) của nam giới cũng cao hơn  nữ giới (0,26% và 0,17%).

đoạn  2009  –  2010,  tỉ  lệ  dương  tính  với  EV71  lần  lượt là 38% và 14,7%.

Trẻ < 3 tuổi chiếm 87,41% ca mắc và 84,83%  ca chết. Nếu tính trẻ < 5 tuổi thì con số lần lượt là  95,78% ca mắc và 97,03% ca chết.

Thứ týp của EV71 lưu hành tại khu vực phía  Nam  là  C4  (94,3%  ca)  và  C5  (5,7%).  Trong  giai  đoạn  2007‐2010  chỉ  phát  hiện  thứ  týp  C5,  giai  đoạn  2005‐2006,  thứ  týp  C5  chiếm  từ  94,7%  ‐  93,9%(6).  Sốt xuất huyết(7)

Những năm trước đây, bệnh tay chân miệng  xuất hiện quanh năm với 2 đỉnh, một đỉnh nhỏ  vào  tháng  3  ‐  5  và  một  đỉnh  lớn  vào  tháng  9  –  12(4). Tuy nhiên năm 2011 bệnh có xu hướng tăng  từ tháng 4 và lên đến đỉnh vào tháng 10 sau đó  giảm dần(5).

Trong  giai  đoạn  2001‐2007,  ở  VN,  sốt  xuất  huyết đứng hàng thứ 5 về số ca mắc và hàng thứ  nhất về số ca chết trong số 26 bệnh nhiễm phải  khai  báo.  Khoảng  85%  ca  sốt  xuất  huyết  xuất  hiện ở KVPN. Trung bình 10 năm lại xuất hiện  cao điểm dịch

Về đặc điểm vi sinh học(6), trong năm 2011, tỉ  lệ dương tính với các loại EV là 84,97%, trong đó  EV71  là  60,01%,  EV  khác  là  23,96%.  Trong  giai

Soá ca maéc x 1000

25

20

15

10

5

0

123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112123456789101112 2002

1997

2003

2000

1999

1998

2008

2007

2005

2006

2001

2004

1996

Bốn týp huyết thanh của vi rút Dengue đều  hiện  diện  ở  khu  vực  phía  Nam  và  luân  phiên  chiếm ưu thế. D3 chiếm ưu thế trong giai đoạn  1997‐1998,  sau  đó  là  D4  (2001),  D2  (2003‐2006),  D1 (2007‐2011).

Nhóm trên 15 tuổi chiếm 26% – 32% ca mắc  sốt  xuất  huyết  trong  giai  đoạn  2001‐2003.  Tỉ  lệ  này là 35% ‐ 41% trong giai đoạn 2009‐2011. Sự  phân  bố  theo  vùng  cũng  có  sự  thay  đổi.  Năm  2001, 7 tỉnh miền Đông Nam Bộ chiếm 20,4% số  ca  mắc  sốt  xuất  huyết.  Năm  2001  tỉ  lệ  này  là  47,3%.

33

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Cúm A/H5N1

Địa phương

Ca  cúm  A/H5N1  trên  người  được  ghi  nhận  đầu tiên tại khu vực phía Nam vào năm 2004. Số  ca mắc không nhiều, rác rác ở nhiều tỉnh nhưng  tỉ lệ chết mắc rất cao (71% ‐ 100%)(3).  2004

2009 2005

2010 M C M C M C M C 3 1 1 1 TP HCM

Lâm Đồng 4 3

Đồng Nai 2 1

1

1

Tất cả ca mắc đều là trẻ em hoặc thanh niên.  Nhóm trẻ 0‐15 tuổi chiếm 41,6% số ca mắc, lứa  tuổi  16  –  35  chiếm  58,2%.  Các  yếu  tố  nguy  cơ  mắc  cúm  A/H5N1  bao  gồm  tiếp  xúc  gia  cầm  bệnh  hoặc  chết  (OR=3,39;  CI  =  0,97‐11,87),  giết  mỗ gia cầm bệnh hoặc chết (OR=2,29; CI = 0,24 ‐  19,56),  ôm  gà  đá  (OR=7,45;  CI  =  0,49  –  218),  có  người nhà làm gà bệnh hoặc chết (OR=5,2; CI =  1,22 ‐ 22,7), ăn thịt gà bệnh hoặc chết (OR=4,28;  CI  =  1,06  ‐  17,45).  Không  phát  hiện  mẫu  xét  nghiệm  huyết  thanh  hoặc  ngoáy  họng  dương  tính  với  vi  rút  cúm  A/H5N1  ở  người  tiếp  xúc,  nhân viên y tế có điều trị bệnh nhân.

Tây Ninh 2 2

Sóc Trăng 1 1

1

1

Hậu Giang 1 1

Các  ca  cúm  A/H5N1  phát  hiện  ở  khu  vực  phía  Nam  đều  thuộc  clade  1.  Chưa  ghi  nhận  clade 2.3.4 như ở khu vực phía Bắc.

Bình Phước 1 1

1

1

Đồng Tháp 3 3

Cúm A/H1N1 đại dịch 2009(8)

1

1

Tiền Giang 1 1

Trà Vinh 3 3

Long An 1 1

Bạc Liêu 1 1

Bến Tre 1 1

Bình Dương 1 1

14 10 13 13

1

1

Cúm  A/H1N1  đại  dịch  2009  bắt  đầu  xâm  nhập  vào  Việt  Nam  ngày  30/5/2009.  Từ  16/7/2009 bắt đầu ghi nhận những ổ dịch trong  cộng  đồng.  Dịch  lên  đến  đỉnh  trong  tháng  9/2009, sau đó giảm dần. Tổng số ca xét nghiệm  +/tử  vong  năm  2009‐2011  lần  lượt  là  7.279/24;  44/2; 427/11.

Tổng 2 2

34

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Diễn tiến cúm A/H1N1 đại dịch 2009 trong năm 2009

H1N1/2009 trên thế giới. Tuy nhiên vẫn có một  số khác biệt: Protein H1, ngoài các đột biến quan  trọng  D225G,  E227,  cùng  với  vùng  hành  lang  lysine K133, K145, K156, và K222, còn xuất hiện  thêm  một  số  các  đột  biến  khác  trong  vùng  gắn  kết  thụ  thể  như  L194I,  I219V,  Q226R.  Về  tính  kháng  thuốc,  các  chủng  này  vẫn  nhạy  cảm  với  nhóm thuốc ức chế hoạt tính Neuraminidase.

Tả

Bệnh cúm A/H1N1 đại dịch 2009 thường xảy  ra ở trẻ 6 – 15 tuổi (49,5%) và thanh thiếu niên từ  16  –  25  (34,9%).  Tỉ  suất  nam:nữ  là  1,2:1.  Người  sống  ở  thành  thị  có  tỉ  lệ  mắc  cúm  A/H1N1  đại  dịch  2009  nhiều  hơn  người  sống  ở  nông  thôn  (64,2% so với 35,8%). Bệnh chỉ bùng phát mạnh  trong 2 tháng 8 – 9/2009. Từ năm 2010 đến nay  cúm  A/H1N1  đại  dịch  2009  đã  trở  thành  một  dạng  của  cúm  mùa  thay  thế  cho  cúm  A/H1N1  trước  đây,  với  số  ca  dương  tính  dưới  500  ca/năm.

Tỉ  suất  tấn  công  cao  nhất  là  ở  buổi  tiệc  gia  đình  (80,6),  tiếp  đến  là  doanh  trại  quân  đội  (25%), trường có học sinh nội trú (7,1%), trường  không có học sinh nội trú (1,11% ‐ 3,13%). Trong  trường học, lớp có học sinh nội trú tỉ lệ mắc lên  đến 41,1%.

Năm 1995 có một đợt dịch tả lớn xảy ra ở 11  tỉnh  thành  của  khu  vực  phía  Nam  với  1.328  ca  mắc,  4  ca  tử  vong.  Từ  năm  1996  bệnh  có  xu  hướng  giảm  dần.  Giai  đoạn  từ  1996  đến  2004  bệnh  xuất  hiện  rải  rác.  Năm  2005  đến  2007  không còn ghi nhận ca nào. Năm 2008 có 2 ca tả  xâm  nhập  từ  miền  Bắc  nhưng  đã  được  ngăn  chặn  kịp  thời  không  để  lây  lan  ra  cộng  đồng.  Năm  2010  tỉnh  An  Giang  xuất  hiện  ca  bệnh  tả  đầu  tiên  có  liên  quan  đến  bệnh  dịch  tả  từ  Campuchia. Sau đó bệnh tả lan ra 10 tỉnh thành  với 158 ca mắc, không có tử vong(3).

Về  đặc  điểm  sinh  học  phân  tử,  các  chủng  cúm  đại  dịch  H1N1/2009  khu  vực  phía  Nam  tương đồng cao về trình tự nucleotide cũng như  trình  tự  axít  amin  so  với  các  chủng  đại  dịch

35

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Bảng 2: Bệnh tả ở Khu vực phía nam từ năm 1995 ‐ 2011

Năm

Mắc chết 11 2 0 95 1328 4 96 149 0 97 7 0 98 13 1 99 216 0 00 0 0 01 15 0 02 177 0 06 0 0 08 2 0 09 0 0 05 0 0 03 27 0 04 46 1 10 180 0

Trong  vụ  dịch  tả  năm  2010,  bệnh  tả  xảy  ở  mọi  lứa  tuổi,  trong  đó  nhóm  tuổi  0‐15  chiếm  20,2%;  nhóm  tuổi  16‐60  chiếm  63%;  nhóm  >  60  chiếm 16,4%. Nam chiếm tỉ lệ 42,6%; nữ 57,4%.  Bệnh  xảy  ra  ở  7/13  tỉnh  thuộc  đồng  bằng  sông  Cửu  Long  và  3/tỉnh  miền  Đông  Nam  Bộ.  Bến  Tre và An Giang là 2 tỉnh có số mắc cao nhất (70  và 25). TPHCM đứng thứ ba với 14 ca mắc(9).

Sự chuyển đổi týp huyết thanh ưu thế cũng  có liên quan đến sự bộc phát dịch lớn. D3 và D1  chiếm  ưu  thế  trong  những  năm  xảy  ra  vụ  dịch  lớn  (1997‐1998  và  2007‐2008).  Tuy  nhiên  sự  bộc  phát dịch có thể còn liên quan đến các yếu tố về  khí  tượng  thuỷ  văn,  mật  độ  vec  tơ  truyền  bệnh…

V. cholarae Ogawa là chủng được phát hiện ở  bệnh nhân tả. Vi khuẩn tả cũng được tìm thấy ở  các mẫu nước sông, nước sinh hoạt, thực phẩm  tươi sống (tỉ lệ từ 2%‐2,5%), nước thải (8,3%)(10).

07 0 0 những khu nhà trọ ổ chuột tạo điều kiện cho sự  lan  truyền  dịch.  Sự  gia  tăng  tỉ  lệ  mắc  sốt  xuất  huyết ở nhóm tuổi trên 15 cũng có thể liên quan  yếu tố này.

Cúm A/H5N1

BÀN LUẬN

Bệnh tay chân miệng

Bệnh  chưa  có  khả  năng  lây  trực  tiếp  từ  người  sang  người.  Các  bằng  chứng  bao  gồm:  bệnh chỉ xuất hiện rải rác ở những người có tiếp  xúc với gia cầm bệnh hoặc chết, không phát hiện  mẫu  xét  nghiệm  huyết  thanh  hoặc  ngoáy  họng  dương tính với vi rút cúm A/H5N1 ở người tiếp  xúc, nhân viên y tế có điều trị bệnh nhân.

Bệnh  tay  chân  miệng  xảy  ra  chủ  yếu  ở  lứa  tuổi  nhà  trẻ  mẫu  giáo  do  trẻ  nhỏ  chưa  có  đủ  kháng  thể  kháng  EV71.  Một  nghiên  cứu  ở  Singapore(11) cho thấy tỉ lệ kháng thể kháng EV71  ở nhóm tuổi 1‐23 tháng tuổi là 0,8%. Ở nhóm 2‐4  tuổi  tỉ  lệ  này  tăng  khoảng  12%  cho  mỗi  năm.  Nhóm từ 5 tuổi trở lên có kháng thể kháng EV71  trên 50%.

Các khảo sát về sinh học phân tử cho thấy ở  khu vực phía Nam chưa có sự biến đổi chủng vi  rút cúm A/H5N1. Tuy nhiên với những công bố  về  khả  năng  tạo  vi  rút  cúm  A/H5N1  trong  phòng  thí  nghiệm,  sự  lưu  hành  dịch  cúm  gia  cầm ở Việt Nam thì việc theo dõi sự biến đổi của  vi rút cúm A/H5N1 là rất cần thiết.

Cúm A/H1N1 đại dịch 2009

Sự chuyển đổi thứ týp gây dịch của EV71 từ  C5 sang C4 trùng hợp với sự gia tăng mạnh của  các  ca  mắc  chết  do  tay  chân  miệng  trong  năm  2011,  tuy  nhiên  theo  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  thì  chưa có đủ bằng chứng đầy đủ về sự khác biệt  độc lực của các thứ týp gây bệnh(11).

Sốt xuất huyết

Sự  gia  tăng  sốt  xuất  huyết  người  lớn  cho  thấy đối tượng được tập huấn về chẩn đoán và  điều  trị  sốt  xuất  huyết  cần  mở  rộng,  không  chỉ  giới hạn cho bác sĩ và điều dưỡng khoa nhi.

Không  đầy  2  tháng  rưỡi  (18/3/2009  –  30/5/2009) kể từ khi công bố ca cúm A/H1N1 đại  dịch  2009  đầu  tiên  trên  thế  giới,  bệnh  đã  xâm  nhập  vào  Việt  Nam  cho  thấy  sự  lan  truyền  nhanh chóng của đại dịch thông qua các phương  tiện giao thông  hiện  đại.  Các  địa  phương  có  số  ca mắc cao như TP. HCM, Lâm Đồng, Tây Ninh  là những nơi có cửa khẩu, địa điểm du lịch, khu  công nghiệp.

Trong năm đầu tiên xuất hiện cúm A/H1N1  đại  dịch  2009,  bệnh  xuất  hiện  chủ  yếu  ở  nhóm

Sự gia tăng ca sốt xuất huyết ở các tỉnh miền  Đông  Nam  Bộ  có  thể  có  liên  quan  đến  sự  phát  triển  các  cụm  công  nghiệp  ở  khu  vực  này  thu  hút một lượng lớn người nhập cư đến  từ  vùng  dịch  lưu  hành  nặng  và  nhẹ  và  sự  phát  triển

36

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thanh thiếu niên vì đây là nhóm tuổi có sự giao  lưu lớn qua học hành, du lịch, làm việc. Sự phân  bố theo lứa tuổi trong năm 2011 là phù hợp với  sự  phân  bố  theo  lứa  tuổi  của  cúm  mùa  (tập  trung ở lứa tuổi <15).

Mặc dù các chủng cúm đại dịch H1N1/2009  khu  vực  phía  Nam  vẫn  nhạy  cảm  với  nhóm  thuốc  ức  chế  hoạt  tính  Neuraminidase  nhưng  khả năng biến đổi của virút cúm là  rất  lớn  nên  cần thiết phải theo dõi sự biến đổi gien của vi rút  cúm.

trong  khi  những  hiểu  biết  về  đặc  điểm  dịch  tễ  học,  lâm  sàng,  vi  sinh  miễn  dịch  về  bệnh  tay  chân miệng còn rất hạn chế. Bệnh sốt xuất huyết  vẫn có số ca mắc và chết  rất  cao  dù  có  sự  tăng  giảm  theo  chu  kỳ.  Biện  pháp  kiểm  soát  vec  tơ  chưa có tính bền vững. Phun thuốc diện rộng có  tác dụng hạ đỉnh dịch nhưng không có tác dụng  lâu  dài.  Bệnh  cúm  A/H1N1  tuy  có  số  ca  mắc  thấp nhưng tỉ lệ chết/mắc rất cao. Cúm A/H1N1  đại  dịch  2009  hiện  là  một  dạng  của  cúm  mùa  nhưng đã có bằng chứng về khả năng tái tổ hợp  với các chủng vi rút cúm khác.

Tả

2.

3.

4.

5.

6.

Do tình hình cung cấp nước sạch đã được cải  thiện  nên  dịch  tả  khó  bùng  phát  mạnh  như  những năm của thế kỷ 20. Tuy nhiên dịch tả có  khả năng lan truyền qua biên giới nên việc chia  sẻ  thông  tin  dịch  bệnh  giữa  các  tỉnh  có  chung  đường biên giới là rất cần thiết. Do địa bàn sông  rạch chằng chịt kèm theo tập quán sử dụng cầu  tiêu trên sông còn tồn tại ở một vùng nông thôn  và  ngoại  thành  nên  các  tỉnh  đồng  bằng  sông  Cửu Long vẫn còn nguy cơ xảy ra dịch tả. Việc  phát  hiện  vi  khuẩn  tả  ở  các  mẫu  nước  sông,  nước sinh hoạt, thực phẩm tươi sống, nước thải  cho  thấy  sự  cần  thiết  cải  thiện  an  toàn  vệ  sinh  thực phẩm và cung cấp nước sạch.  KẾT LUẬN

7. 8.

9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Morse  SS  (1996).  Factors  in  the  Emergence  of  Infectious  Diseases. Emerging Infectious Diseases, 1996;1(1): 7‐15.  Taylor  L   et  al. (2001). Risk  factors  for  human  disease  emergence Philosophical Transactions of the Royal Society B,  356(1411):983‐9  Trân Ngọc Hữu và cộng sự (2012). Đặc điểm dịch tễ học của  dịch  cúm  A/H1N1đại  dịch  2009  tại  các  tỉnh  khu  vực  phía  Nam,  giai  đoạn  2009‐2011.  Tổng  hội  y  học  Việt  Nam,  Tập  XXII, số 2 (129) 2012. Tr.5‐9.  Trân  Ngọc  Hữu  và  cộng  sự  (2012)  Những  biến  đổi  về  đặc  điểm  dịch  tễ  học,  vi  rút  học  và  vector  truyền  bệnh  sốt  xuất  huyết ở khu vực phía Nam, giai đoạn 2001‐2011. Tổng hội y  học Việt Nam, Tập XXII, số 2 (128) 2012. Tr.163‐169.  Tu PV et al. (2007). Epidemiology and virologic investigation  of  hand  foot  mouth  disease,  southern  Vietnam,  2005.  Emerging infectious disease, 2007, Nov, 13(11):1733‐1741.  Viện Pasteur TPHCM (2011). Danh sách bệnh nhân tay chân  miệng năm 2011.  Viện Pasteur TPHCM (2010). Danh sách BN tả KVPN 2010  Viện  Pasteur  TPHCM  (2011).  Kết  quả  xét  nghiệm  bệnh  tay  chân miệng năm 2011  Viện Pasteur TPHCM (2010).. Kết quả xét nghiệm vi khuẩn tả  2010

10. Viện Pasteur TPHCM (2011). Thống kê 24 BTN từ 2001‐2011  11. WHO  (2011).  A  Guide  to  clinical  management  and  public  health  response  for  hand,  foot  and  mouth  disease  (HFMD).  WHO 2011:10‐11; 28‐29.

Trong  số  5  bệnh  nhiễm  đang  bùng  phát  ở  khu vực phía Nam, chỉ có bệnh tả là do vi khuẩn  gây  bệnh,  đã  có  vắc  xin  phòng  ngừa  và  kháng  sinh  điều  trị  đặc  hiệu.  Các  bệnh  còn  lại  có  tác  nhân  là  vi  rút,  chưa  có  vắc  xin  phòng  ngừa  và  thuốc  điều  trị  đặc  hiệu.  Bệnh  tay  chân  miệng  đang nổi lên hàng đầu với số ca mắc và chết cao

37

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH   VỀ PHÒNG CHỐNG NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH   CỦA BÀ MẸ CÓ CON < 5 TUỔI NHẬP VIỆN TẠI KHOA NHI   BỆNH VIỆN NINH PHƯỚC, NINH THUẬN

Nguyễn Thị Thùy Hương*, Lê Hoàng Ninh**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh ở  trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt là trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, trong đó chủ yếu do viêm phổi, tập trung ở các nước đang  phát triển. NKHHCT cũng là bệnh thường gặp nhất ở các phòng khám nhi và khoa Nhi của các bệnh viện.

Mục  tiêu: Xác định tỉ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện tại khoa Nhi Bệnh viện Ninh Phước, Ninh  Thuận có kiến thức, thái độ, thực hành đúng về phòng chống NKHHCT và mối liên quan giữa kiến thức, thái  độ và thực hành đúng với các đặc điểm dân số xã hội của mẹ và mối liên quan giữa kiến thức đúng và thực hành  đúng.

Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 219 bà mẹ có con nhập viện tại khoa Nhi

Bệnh viện Ninh Phước vì NKHHCT từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2012

Kết  quả:  Nghiên  cứu  cho  thấy  kiến  thức  đúng  về  phòng  chống  NKHHCT  là  65,3%,  thái  độ  đúng  là  96,35%, thực hành đúng là 44,3%. Nguồn thông tin bà mẹ tiếp cận nhiều nhất là truyền hình (79,45%), nguồn  thông tin được tin cậy nhất là cán bộ Y tế (68,04%). Bà mẹ có kiến thức đúng có khả năng thực hành đúng gấp  1,71 lần bà mẹ có kiến thức không đúng.

Kết  luận: Có kế hoạch giáo dục sức khỏe phù hợp cho các bà mẹ có con nhập viện tại khoa Nhi về phòng

chống NKHHCT cũng như công tác truyền thông giáo dục trong cộng đồng.

Từ khoá: Bà mẹcó con dưới 5 tuổi, kiến thức, thái độ, thực hành, phòng chống NKHHCT

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE ABOUT ACUTE RESPIRATORY INFECTION  PREVENTION OF MOTHERS WHO HAVE CHILDREN UNDER FIVE YEARS OLD ADMITTED AT  PEDIATRICS OF NINH PHUOC HOSPITAL, NINH THUAN PROVINCE

Nguyen Thi Thuy Huong, Le Hoang Ninh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 38 ‐ 44

Background:  Acute respiratory infection (ARI) is one of the major causes of illness in children under five  years  old,  especially  in  infants  under  one  year  old,  which  is  mainly  due  to  pneumonia,  concentrated  in  the  developing countries. ARI is also the most common infection at pediatric clinics and at the pediatrics of hospitals.

Objective: To determine the rate of mothers having children under 5 years old hospitalized at Pediatrics of  Ninh  Phuoc  Hospital,  Ninh  Thuan  have  right  knowledge,  attitude  and  practice  about  prevention  of  acute  respiratory  infections  and  the  relationships  between  right  knowledge,  attitude  and  practice  with  social  demographic characteristics of the mothers and between right knowledge and right practice.

* Trung tâm y tế huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận  ** Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thùy Hương

ĐT: 0919301156

Email: huongttytnp@gmail.com

38

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Methods: Cross‐sectional study described above 219  mothers  of  under  5  year‐old  children  hospitalized  at

Pediatrics of Ninh Phuoc Hospital by ARI from March to May, 2012

Results: The study showed that right knowledge about prevention ARI was 65.3%, the right attitude was  96.35%, and right practice was 44.3%. Source of information approached at most 79.45% was television; trusted  source  of  information  was  health  workers  (68.04%).  The  mothers  of  right  knowledge  being  able  to  practice  correctly were 1.71 times higher than the mothers of wrong knowledge.

Conclusion: Plan an appropriate health education for mothers having children hospitalized in the pediatrics

about ARI prevention as well as for communities.

Key  words:  Mothers  having  children  under  5  years  old,  knowledge,  attitude,  practice,  acute  respiratory

infections prevention.  ĐẶT VẤN ĐỀ

phổi/NKHHCT  là  63,8%.  Tại  Khoa  Nhi  TTYT  Ninh Phước (còn gọi Bệnh viện Ninh Phước), qua  số  liệu  thống  kê  3  năm  lại  đây  cho  thấy  tỉ  lệ  NKHHCT  ở  trẻ  em  dưới  5  tuổi  nhập  viện  vì  NKHHCT  khá  cao  từ  41‐53%  và  tỉ  lệ  viêm  phổi/NKHHCT khoảng 45‐46%.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  tỉ  lệ  các  bà  mẹ  có  con  dưới  5  tuổi  nhập  viện  tại  khoa  Nhi  Bệnh  viện  Ninh  Phước,  Ninh Thuận có kiến thức đúng, thái độ đúng, và  thực hành đúng về phòng chống NKHHCT

Xác định các mối liên quan giữa kiến thức và  thực hành với các đặc điểm dân số xã hội của mẹ.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

Đối tượng nghiên cứu

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là  bệnh lý phổ biến ở trẻ em và gây tỉ lệ tử vong cao  nhất so với các bệnh khác. Theo Tổ chức Y tế Thế  giới  (WHO),  hàng  năm  có  khoảng  4  triệu  người  trên thế giới chết vì bệnh hô hấp cấp với 90% do  nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới. Tỷ lệ tử  vong  đặc biệt cao ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, trẻ em và người  già,  và  chủ  yếu  ở  các  nước  thu  nhập  thấp(6).  NKHHCT  cũng  là  một  trong  những  nguyên  nhân  thường  gặp  nhất  trong  khám  hoặc  nằm  điều trị tại các cơ sở y tế, đặc biệt là trong chăm  sóc nhi. Đây là nhóm bệnh có tỷ lệ mắc cao, tần  suất mắc nhiều lần trong năm (thường từ 4‐6 lần  trong  năm).  Bệnh  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  và  tính mạng của trẻ nên nó ảnh hưởng không nhỏ  đến  ngày  công  lao  động  của  bố  mẹ,  làm  tăng  gánh nặng cho gia đình và xã hội (1)

Các bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện vào  khoa  Nhi  Bệnh  viện  Ninh  Phước,  tỉnh  Ninh  Thuận vì NKHHCT trong thời gian từ tháng 3‐5  năm 2012.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả

Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu

Ở Việt Nam, các bệnh NKHHCT nằm trong  10 bệnh có tỷ mắc cao nhất và trong 10 bệnh có tỷ  lệ  tử  vong  cao  nhất  toàn  quốc(2).  Tỉ  lệ  trẻ  bị  NKHHCT đến khám tại Khoa Hô hấp Bệnh viện  Nhi TW năm 2010 chiếm 55,97% tổng số trẻ đến  khám  bệnh  nói  chung(3).  Tỉ  lệ  NKHHCT  trong  cộng  đồng  ở  huyện  Chợ  Mới,  tỉnh  Bắc  Kạn  là  40,46%(4).

Lấy mẫu là tất cả các bà mẹ có con dưới 5 tuổi  nhập viện tại khoa Nhi đủ tiêu chuẩn và liên tục  từ  tháng  03  ‐  5/2012.  Trong  thời  gian  điều  tra,  tổng số mẫu thu thập được là 219.

Tiêu chí chọn mẫu

Định nghĩa NKHHCT

Tại tỉnh Ninh Thuận, chưa có nghiên cứu nào  về phòng chống NKHHCT ở trẻ em triển khai tại  cộng đồng cũng như tại bệnh viện, trong khi đó tỉ  lệ trẻ em dưới 5 tuổi nhập viện vì NKHHCT khá  cao so với các bệnh khác. Theo thống kê của Sở Y  tế tỉnh Ninh Thuận, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi nhập  viện  vì  NKHHCT  là  30,2%  và  tỉ  lệ  viêm

NKHHCT bao gồm các nhiễm trùng ở bất kỳ  vị  trí  nào  trên  đường  hô  hấp,  bao  gồm  mũi,  tai,  họng, thanh quản, khí quản, phế  quản,  tiểu  phế

39

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc điểm

Nghiên cứu Y học  quản,  phổi.  Thời  gian  bị  bệnh  không  quá  30  ngày, ngoại trừ viêm tai giữa cấp là 14 ngày(1).

Dấu hiệu trẻ bị NKHHCT

Qua nghiên cứu 219 bà mẹ có con dưới 5 tuổi

về phòng chống NKHHCT, cho thấy:

Thường  có  1  trong  các  triệu  chứng  sau:  ho,  sốt, khó thở, đau họng, chảy nước mũi, chảy mủ  tai(1).  Trong  đó  triệu  chứng  ho  thường  hay  gặp  nhất.

Kinh tế >2 con Nghèo Không nghèo Tần số 66 44 175 Tỉ lệ % 30 20,1 79,9

Tiêu chí chọn vào

Bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện vào khoa

Nhi BV Ninh Phước vì NKHHCT.

Đồng ý tham gia nghiên cứu

Tiêu chí loại ra

Bị câm, điếc hoặc mắc các bệnh tâm thần.

Các bà mẹ có con từ 5 tuổi trở lên nhập viện  và  bà  mẹ  có  con  dưới  5  tuổi  nhập  viện  không  phải vì NKHHCT.

Các  bà  mẹ  không  đồng  ý  tham  gia  nghiên

Các bà mẹ chủ yếu ở lứa tuổi từ 25‐34 tuổi,  cao nhất là nhóm tuổi 25‐ 29, chiếm 33,3%. Nghề  nông chiếm đa số 76,3%, điều này phù hợp với  tình hình kinh tế‐xã hội của huyện Ninh Phước,  một huyện nông nghiệp trọng điểm của tỉnh, đa  số  người  dân  sống  bằng  nghề  nông.  Phần  lớn  các  bà  mẹ  có  trình  độ  học  vấn  ở  các  lớp  cấp  II  chiếm tỉ lệ 42,5%. Tỉ lệ bà mẹ có học vấn trên cấp  III là thấp nhất 5,9% và tỉ lệ mù chữ 7,3%. Điều  này  cho  thấy  bà  mẹ  có  trình  độ  thấp  còn  cao,  chắc  chắn  sẽ  ảnh  hưởng  đến  việc  tiếp  thu  các  nguồn thông tin về bệnh, chăm sóc sức khỏe và  phòng bệnh cho trẻ. Các bà mẹ thuộc hộ nghèo  20,1%, không nghèo gần bằng 80%.

cứu.

Xử lý dữ kiện

Nhập dữ liệu bằng chương trình EpiData 3.01

Tỉ lệ %

Tỉ lệ % Kiến thức đúng Tần số 179 81,74 Tần số 195 89,04 Biết CS trẻ bị

Bảng 2: Kiến thức của bà mẹ về phòng chống  NKHHCT  Kiến thức đúng Biết DH NKHHCT

Phân tích dữ kiện: bằng phần mềm Stata 11.  Thống kê mô tả: Tần số và phần trăm Thống kê phân tích: Phép kiểm chi bình

NKHHCT 177 80,22 Biết làm sạch

82 37,44

phương, PR

mũi 150 68,49 Biết làm khô tai 79 36,07

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Biết DH cần đem đi khám Biết DH bệnh trở nặng

Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu

Kiến  thức  đúng  khi  bà  mẹ  trả  lời  đúng  ≥  5

trong 7 kiến thức trên.

143 65,3 Biết các BPPN 197 89,95 KT đúng chung về PC NKHHCT Đặc điểm

Nhóm tuổi

Nghề nghiệp

Học vấn

Hôn nhân

Các kiến thức đạt tỉ lệ khá cao, trong đó kiến  thức  về  các  BPPN  đạt  tỉ  lệ  cao  nhất,  gần  90%.  Riêng KT biết làm sạch mũi và làm khô tai có tỉ lệ  thấp  (37,44%  và  36,07%),  đây  là  điều  cần  lưu  ý  trong việc tuyên truyền giáo dục các bà mẹ cách  chăm sóc trẻ. Kiến thức đúng chung là 65,3%, cao  hơn  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Trần  Thảo  Uyên  54,2%(5). Nghiên cứu của chúng tôi tại bệnh viện  nên dù sao các bà mẹ cũng đã được NVYT hướng  dẫn  cách  chăm  sóc  con  qua  thăm  bệnh  hàng  ngày nên kiến thức đúng cao hơn nghiên cứu của  Nguyễn Trần Thảo Uyên tại cộng đồng.

Tần số 32 73 69 45 20 167 20 12 16 78 93 19 13 217 2 153 Tỉ lệ % 14,6 33,3 31,5 20,6 9,1 76,3 9,1 5,5 7,3 35,6 42,5 8,7 5,9 99,1 0,9 70 Số con <25 25-29 30-34 ≥35 CNV Nông dân Nội trợ Khác Mù chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Trên cấp 3 Có gia đình Độc thân Con

40

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 3: Thái độ bà mẹ về phòng chống NKHHCT  Tỉ lệ %

Thái độ đúng Tần số Thực hành đúng TH đúng chung Tần sô Tỉ lệ % 44,29 97 169 77,17 Trẻ nhỏ hay mắc bệnh NKHHCT

Thực  hành  đúng khi trả lời đúng ≥ 8 trong

12 thực hành trên.

214 97,72

211 96,35

189 86,3

197 89,95

214 97,72

203 92,69 Chọn nơi khám khi ho nhiều, sốt, thở khò khè Thực hiện các BPPN NKHHCT là cần thiết Cho trẻ ăn đủ DD khi trẻ mắc bệnh NKHHCT Cho trẻ uống nhiều nước hơn khi trẻ sốt hoặc ho HD của NVYT về cách CS trẻ tại BV là cần thiết Se mũi bằng giấy thấm sâu kèn

211 96,35 TĐ đúng chung về PC NKHHCT

Thái  độ  đúng  khi  bà  mẹ  trả  lời  đồng  ý  ≥  5

câu trong 7 câu trên.

Thực hành đúng đạt tỉ lệ rất cao như cho trẻ  ăn  uống  sau  mỗi  lần  bệnh  96,8%,  cho  trẻ  tiêm  chủng  đúng  qui  định  96,35%,  chọn  nơi  khám  bệnh đầu tiên 95,89% và chăm sóc trẻ khi sốt cao  95,89%.  Theo  Mai  Anh  Tuấn,  nhóm  trẻ  không  được  tiêm  phòng  đầy  đủ  có  nguy  cơ  mắc  NKHHCT cao gấp 7,92 lần so với nhóm chứng(4).  Thực  hành  đạt  tỉ  lệ  thấp  như  thực  hành  khi  có  dấu hiệu cần mang trẻ đi tái khám 18,72%, trong  khi đó tỉ lệ bà mẹ biết dấu hiệu cần đem trẻ đi  khám cao 80,22%. Điều này cho thấy bà mẹ biết  nhưng  chưa  chắc  đã  thực  hiện  tốt,  CBYT  cần  tăng  cường  tuyên  truyền  và  hướng  dẫn  bà  mẹ  cách đánh giá đúng các dấu hiệu cần đem trẻ đi  tái khám khi đang điều trị ngoại trú. Tỉ lệ thực  hành làm sạch mũi 6,85% và làm sạch tai 4,11%,  rất thấp, thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Trần  Thảo  Uyên.  Đây  cũng  là  điểm  cần  tăng  cường  tuyên truyền giáo dục các bà mẹ trong chăm sóc  trẻ  để  thay  đổi  hành  vi.  Chính  vì  những  thực  hành có tỉ lệ thấp như đã nêu trên nên tỉ lệ thực  hành  đúng  chung  là  44,29%,  thấp  hơn  NC  của  Nguyễn Trần Thảo Uyên.

Hầu  hết  các  thái  độ  đều  đạt  tỉ  lệ  đúng  cao.  Thái độ có tỉ lệ đúng cao nhất là chọn nơi khám  khi trẻ ho, sốt, thở khò khè và chấp nhận hướng  dẫn của NVYT về chăm sóc trẻ, đạt 97,7%. Tỉ lệ  thái  độ  chấp  nhận  việc  trẻ  nhỏ  hay  mắc  bệnh  NKHHCT thấp nhất 77,2%. Thái độ đúng chung  đạt  96,35%,  tương  đương  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn Trần Thảo Uyên 91,6%(5). Thái độ đúng  về  phòng  chống  NKHHCT  cao,  nghĩa  là  có  sự  đồng  thuận  cao  của  các  bà  mẹ,  tạo  điều  kiện  thuận  lợi  cho  việc  tuyên  truyền  giáo  dục  sức  khỏe sau này, hy vọng từ đó sẽ chuyển đổi được  hành vi của họ.

Tỉ lệ %

Bảng 5: Nguồn thông tin bà mẹ tiếp cận   Nguồn thông tin

Tần số Tần số Tỉ lệ % Nguồn thông tin đáng tin cậy nhất

Bảng 4: Thực hành của bà mẹ về phòng chống  NKHHCT

33

24 3 64 0 1,37 29,22 0 Truyền thanh 15,07 Truyền thanh Truyền hình 174 79,45 Truyền hình 10,96 Báo chí/sách Báo chí/sách vở vở Cán bộ y tế 164 74,89 Cán bộ y tế 83 37,9 149 68,04 1,37 3 Người thân/bạn bè Người thân/bạn bè

Tần sô Tỉ lệ % 95,89 95,89 85,84 41,55 6,85 4,11 44,75 96,35 49,32 96,8 84,47 210 210 188 91 15 9 98 211 108 212 185

Các  bà  mẹ  tiếp  cận  nguồn  thông  tin  nhiều  nhất là truyền hình 79,45%, kế đó là CBYT chiếm  74,89%.  Tuy  nhiên,  các  bà  mẹ  tin  cậy  nhất  vào  những  gì  cán  bộ  y  tế  tư  vấn  hoặc  hướng  dẫn,  chiếm  68,04%.  Như  vậy,  cần  trang  bị  kiến  thức  đầy  đủ  cho  NVYT  tại  BV  cũng  như  tại  cộng  đồng  và  tăng  cường  tham  vấn  cho  các  bà  mẹ

41 18,72 Thực hành đúng Chọn nơi đến khám đầu tiên Chăm sóc trẻ khi sốt cao Cho trẻ uống nước khi sốt hoặc ho Cho trẻ ăn/bú khi bị NKHHCT Làm sạch mũi Làm sạch mủ tai Hút thuốc lá Cho trẻ tiêm chủng đúng quy định Cho trẻ ăn uống sau mỗi lần bệnh Giữ ấm cho trẻ khi thời tiết lạnh Thực hành đúng khi trẻ chơi nơi nhiều bụi, khói Khi có dấu hiệu cần mang trẻ đi tái khám

41

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

trở xuống(5). Đây là điều cần lưu ý trong công tác  GDSK về phòng chống NKHHCT ở trẻ em cho  các bà mẹ.

Nghiên cứu Y học  cách  nhận  biết  các  dấu  hiệu  bệnh  giúp  bác  sỹ  trong điều trị tốt hơn và cách chăm sóc trẻ khi bị  bệnh chứ không phải chỉ khám và ra y lệnh điều  trị hoặc kê đơn thuốc.

Không có mối liên quan giữa kiến thức đúng  của  các  bà  mẹ  với  nhóm  tuổi,  số  con  và  hoàn  cảnh kinh tế (p > 0,05).

Bảng 6: Mối liên quan giữa kiến thức đúng chung về  phòng chống NKHHCT với các đặc tính của mẫu  nghiên cứu   Đặc điểm

KTĐC về PC NKHHCT P PR

Bảng 7: Mối liên quan giữa thái độ đúng chung về  phòng chống NKHHCT với các đặc tính của mẫu  nghiên cứu

Đúng (n,%) Không (n,%) Đặc điểm P TĐĐC về PC NKHHCT PR ≥ 30 tuổi 70 (61,4) 44 (38,6) 0,21 < 30 tuổi 73 (69,52) 32 (30,48) Nhóm tuổi

104 (62,28) 63 (37,73) ≥ 30 tuổi Không (n,%) 4 (3,51) Nông dân < 0,001

Nhóm tuổi 0,9 < 30 tuổi 4 (3,81) Khác 21 (65,63) 11(34,37) 0,03 1,00 (0,95– 1,06) Nghề nghiệp Nông dân 5 (2,99) Đúng (n,%) 110 (96,49) 101 (96,19) 162 (97,01) 0,026 18 (90) 2 (10) 0,88 (0,73- 1,07) 0,69 (0,57- 0,83) 0,73 (0,54- 0,97)

Khác 3 (9,37) 92 (73,6) 33 (26,4) 0,003 Nghề nghiệp 29 (90,63) 0,08 Công nhân viên Cấp II trở lên 0.97 (0,94- 0,99) 0,91 (0,81- 1,01) Học vấn 20 (100) 0 51(54,26) 43 (45,74) 1,36 (1,1- 1,68)

120 (96) 5 (4) Cấp I trở xuống Ít con 106 (69,28) 47 (30,72) 0,06 Công nhân viên Cấp II trở lên 0,75 Học vấn Số con 3 (3,19) 0,99 (0,94– 1,04) 37 (56,06) 29 (43,94) 1,24 (0,97- 1,57)

Cấp I trở xuống Ít con 5 (3,27) 117 (66,86) 58 (33,14) 0,33 91 (96,81) 148 (96,73) 0,64 Nhiều con Không nghèo Số con Hoàn cảnh kinh tế 1,01 (0,95– 1,08) Nhiều con 3 (4,55) 1,13 (0,87- 1,48) Nghèo 26(59,09) 18 (40,91)

Kiến  thức  đúng  chung  có  mối  liên  quan  mang ý nghĩa thống kê với nghề nghiệp và trình  độ học vấn của mẹ. Bà mẹ làm nghề nông có tỉ lệ  thức  đúng  chung  về  phòng  chống  kiến  NKHHCT  kém  hơn  bà  mẹ  CNV  (p<  0,001).  Tương tự, bà mẹ làm nghề khác có tỉ lệ kiến thức  đúng kém hơn bà mẹ CNV (p = 0,03).

Bà  mẹ  có  học  vấn  từ  cấp  II  trở  lên  có  tỉ  lệ  kiến thức đúng cao hơn bà mẹ có học vấn từ cấp  I trở xuống (p= 0,003). Rõ ràng rằng, bà mẹ CNV  và  có  trình  độ  học  vấn  càng  cao  thì  kiến  thức  đúng  càng  cao.  Điều  này  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Trần  Thảo  Uyên,  bà  mẹ  có  trình  độ  học  vấn  cấp  III  trở  lên  có  kiến  thức  đúng cao hơn bà mẹ có trình độ học vấn cấp II

Có  mối  liên  quan  mang  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  thái  độ  đúng  chung  về  phòng  chống  NKHHCT với nghề nghiệp. Bà mẹ làm nông có  thái  độ  đúng  chung  kém  hơn  bà  mẹ  CNV  (p=0,026).  Thái  độ  đúng  chung  không  có  mối  liên quan nào với các đặc tính khác của mẹ, do  hầu hết các bà mẹ đều có thái độ đúng rất cao.  Như  vậy,  nông  dân  là  đối  tượng  cần  phải  tác  động  mạnh  trong  công  tác  TT‐GDSK,  giúp  họ  hiểu  và  chấp  nhận  cách  chăm  sóc  và  phòng  chống NKHHCT ở trẻ em.

6 (3,43) 63 (95,45) 169 (96,57) Không nghèo 0,72 Hoàn cảnh kinh tế Nghèo 2 (4,55) 1,01 (0,94- 1,08) 42 (95,45)

42

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 8: Mối liên quan giữa thực hành đúng chung  về phòng chống NKHHCT với các đặc tính của mẫu  nghiên cứu

Đặc điểm p THĐC về PC NKHHCT PR

Đúng (n,%) Không (n,%) ≥ 30 tuổi 51 (44,74) 63 (55,26) 0,89 1,02 (0,76– 1,37) Nhóm tuổi < 30 tuổi 46 (43,81) 59 (56,19)

tương tự kết quả của Nguyễn Trần Thảo Uyên(5).  Theo  Mai  Anh  Tuấn,  bà  mẹ  có  hiểu  biết  chung  về  NKHHCT  kém  thì  con  họ  có  nguy  cơ  mắc  NKHHCT cao gấp 1,54 lần so với bà mẹ có kiến  thức  trung  bình(4).  Vì  vậy,  chúng  ta  cần  TT‐  GDSK  cho  bà  mẹ  cách  phòng  chống  NKHHCT  cho  trẻ  <5  tuổi,  giúp  họ  thấy  được  mối  đe  dọa  tính mạng trẻ ; từ đó, có thái độ tốt, chấp nhận  một cách tự nguyện việc chuyển đổi hành vi tốt  về phòng chống NKHHCT, góp phần làm giảm  tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong trẻ em.

Nông dân 71 (42,51) 96 (57,49) 0,25 0,77 (0,50- 1,19) Khác 15 (46,88) 17 (53,13) 0,56 0,85 (0,49- Nghề nghiệp

KẾT LUẬN

1,47) 9 (45) 11 (55)

58 (46,4) 67 (53,6) 0,47 1,12 (0,82–

Học vấn 39 (41,49) 55 (58,51) 1,52)

Công nhân viên Cấp II trở lên Cấp I trở xuống Ít con 66 (43,14) 87 (56,86) 0,6 0,92 (0,67–

Tỉ  lệ  bà  mẹ  có  kiến  thức  đúng  về  phòng  chống NKHHCT là 65,3%, trong đó nhóm các bà  mẹ  là  cán  bộ  công  nhân  viên  và  các  bà  mẹ  có  trình  độ  học  vấn  từ  cấp  2  trở  lên  có  kiến  thức  đúng cao hơn các nhóm còn lại (p < 0,05).

Số con 1,26) Nhiều con 31 (46,97) 35 (53,03)

82 (46,86) 93 (53,14) 0,13 1,37 (0,89–

Hoàn cảnh kinh tế 2,13) Không nghèo Nghèo 15 (34,09) 29 (65,91)

Tỉ lệ bà mẹ có thái độ đúng về phòng chống  NKHHCT là 96,35%,  trong  đó  bà  mẹ  làm  nông  có thái độ đúng chung kém hơn bà mẹ là công  nhân viên(p = 0,026).

Tỉ  lệ  bà  mẹ  có  thực  hành  đúng  về  phòng  chống  NKHHCT  là  44,29%,  không  có  mối  liên  quan  giữa  thực  hành  đúng  chung  với  các  đặc  tính của mẹ.

Bà  mẹ  có  kiến  thức  đúng  có  khả  năng  thực  hành  đúng  cao  hơn  bà  mẹ  có  kiến  thức  không  đúng (p = 0,002).

KIẾN NGHỊ

Tỉ lệ thực hành đúng chung là 44,29%. Thực  hành  đúng  chung  không  có  mối  liên  quan  nào  với các đặc tính của mẹ. Nhìn vào bảng trên, ta  thấy tỉ lệ thực hành chung giữa đúng và không  đúng  tương  đương  nhau  (xấp  xỉ  50%)  ở  tất  cả  các đặc tính của mẹ, nghĩa là chúng ta cần phải  có  kế  hoạch  TT‐GDSK  cho  mọi  đối  tượng  về  NKHHCT  thường  xuyên  và  rộng  rãi,  không  những  tại  bệnh  viện  mà  cả  trong  cộng  đồng  vì  có một số lượng lớn trên dưới 50% bà mẹ thực  hành không đúng.

Khoa Nhi cần có kế hoạch cụ thể về việc giáo  dục sức khỏe cho các bà mẹ có con nhập viện về  phòng  chống  NKHHCT  cho  trẻ  em  <  5  tuổi.  Phương  thức  truyền  thông  phải  đa  dạng,  phù  hợp với từng đối tượng.

PR (95% CI) p

Bảng 9: Mối liên quan giữa kiến thức đúng chung và  thực hành đúng chung  Kiến thức đúng chung

TTYT Ninh Phước cần kiện toàn mạng lưới y  tế từ huyện đến xã, đến y tế thôn bản về phòng  chống NKHHCT.

0,002 1,71 (1,17 – 2,49) Thực hành đúng chung Đúng (%) Không (%) 74 (51,75) 69 (48,25) Đúng Không 23 (30,26) 53 (69,74)

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

Bộ Y tế (1994) Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em, Hà Nội,  tr.57.  Bộ  Y  tế  (2011)  Tóm  tắt  số  liệu  thống  kê  y  tế  2006  ‐  2010.  Hà  Nội.

Có  mối  liên  quan  mang  ý  nghĩa  thống  kê  giữa kiến thức đúng chung và thực hành đúng  chung.  Bà  mẹ  có  kiến  thức  đúng  có  khả  năng  thực hành đúng gấp 1,71 lần bà mẹ có kiến thức  không đúng (p = 0,002). Kết quả nghiên cứu này

43

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

3. Đào Minh Tuấn (2010) ʺNghiên cứu thực trạng khám và điều  trị NKHHC tại khoa hô hấp Bệnh viện Nhi Trung Ương trong  năm 2010ʺ. Y học thực hành, Bộ Y tế.

5. Nguyễn Trần Thảo Uyên (2006) ʺKiến thức thái độ thực hành  về phòng bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp của bà mẹ có con dưới  5  tuổi  tại  xã  Phước  Hòa,  huyện  Phú  Giáo,  Bình  Dương  năm  2006ʺ. Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, Đại học Y  dược TP. Hồ Chí Minh.

4. Mai Anh Tuấn (2008) ʺThực trạng và một số yếu tố nguy cơ về  nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của trẻ dưới 5 tuổi tại một số xã  miền núi tỉnh Bắc Kanʺ. Luận văn Thạc sỹ y khoa, Đại học Y  dược TP.HCM.

6. WHO (2007) Phòng chống và kiểm soát bệnh hô hấp cấp dễ  thành dịch và đại dịch trong chăm sóc sức khỏe‐ Hướng dẫn  tạm thời của WHO, tr.12.

44

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KIẾN THỨC – THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM   CỦA NGƯỜI KINH DOANH THỨC ĂN ĐƯỜNG PHỐ TẠI THÀNH PHỐ  PHAN RANG – THÁP CHÀM TỈNH NINH THUẬN, NĂM 2011

Mai Thị Phương Ngọc* Lê Hoàng Ninh**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Thức ăn đường phố (TAĐP) phong phú, đa dạng, rẻ tiền và thuận tiện cho người tiêu dùng.  Tuy nhiên, TAĐP rất dễ bị ô nhiễm gây ngộ độc thực phẩm cũng như các bệnh truyền qua thực phẩm. Người  kinh doanh TAĐP thiếu kiến thức và thực hành về VSATTP trong kinh doanh chế biến thực phẩm sẽ là mối  nguy cho sức khỏe cộng đồng.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người kinh doanh thức ăn đường phố có kiến thức và thực hành đúng về VSATTP  tại các cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố tại Thành phố Phan Rang ‐ Tháp Chàm tỉnh Ninh Thuận, năm 2011  và các yếu tố liên quan.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trong thời gian từ tháng 11 ‐ 12  năm 2011 tại 06 phường của Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. 290 người kinh doanh  thức ăn đường phố trong thời gian tháng 11 – 12 năm 2011 được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi và quan sát trực  tiếp.

Kết quả: Tỷ lệ người kinh doanh thức ăn đường phố có kiến thức đúng chung về vệ sinh an toàn thực phẩm  là 34,5%; có thực hành đúng chung về vệ sinh an toàn thực phẩm là 31,0%. Nghiên cứu cho thấy người có kiến  thức đúng có thực hành đúng cao gấp 3,28 lần người có kiến thức không đúng; người có trình độ học vấn càng  cao thì tỷ lệ thực hành đúng càng cao.

Kết luận: Tỷ lệ người kinh doanh dịch vụ thức ăn đường phố có kiến thức đúng chung và thực hành đúng  chung rất thấp. Nghiên cứu cho thấy cần phải tăng cường công tác tập huấn cho cơ sở kinh doanh dịch vụ thức  ăn đường phố; tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh dịch vụ thức ăn đường phố để họ thực hiện  tốt các quy định về VSATTP thức ăn đường phố.

Từ khóa: Kiến thức, thực hành, thức ăn đường phố, người kinh doanh, vệ sinh an toàn thực phẩm.

ABSTRACT

KNOWLEDGE ‐ PRACTICE ABOUT HYGIENE AND FOOD SAFETY OF STREET FOOD  BUSINESSPERSONS IN PHAN RANG ‐ THAP CHAM CITY, NINH THUAN PROVINCE, 2011

Mai Thi Phuong Ngoc, Le Hoang Ninh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 45 ‐ 50

Background: Street foods are abundant, diversified, cheap and convenient for consumers. However, street  foods are very easily contaminated and cause food poisoning and food borne diseases. Street food businesspersons  lacking the knowledge and practice of hygiene and food safety in food processing and business will be a threat to  public health.

Objective:  Determine  the  percentage  of  direct  food  processers  having  right  knowledge  and  practice  of  hygiene and food safety at the street food shops in Phan Rang ‐ Thap Cham City of Ninh Thuan province, in  2011 and associated factors.

45

* Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Ninh Thuận  ** Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Mai Thị Phương Ngọc      ĐT: 0918881166   Email: ngoctpdd@yahoo.com  Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Methods: A Cross‐sectional descriptive study was conducted from November to December in 2011 at six  wards of the Phan Rang ‐ Thap Cham city in Ninh Thuan Province. 290 persons including food processer and  street food businesspersons, were interviewed by questionnaire and directly observed.

Results:  The  percentage  of  street  food  businesspersons  having  generally  correct  knowledge  and  practice  about  hygiene  and  food  safety  was  34.5%  and  31.0%  respectively.  People  of  right  knowledge  having  right  practice were 3.28 times higher than those of wrong knowledge.

Conclusion: The rates of street food businesspersons of the generally right knowledge and generally right  practice were very low. Therefore, strengthening the training for street food businesspersons; and the inspection  and supervision of the street food shops in order to guide them to practice more properly regulations of food safety  for street food.

Keywords: Knowledge, attitude, street food, businesspersons, hygiene and food safety.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rang  –  Tháp  Chàm  nói  riêng  và  tỉnh  Ninh  Thuận nói chung. Đó chính là lý do cần thiết để  thực hiện nghiên cứu này.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  tỷ  lệ  người  trực  tiếp  chế  biến  thực  phẩm  tại  các  cơ  sở  kinh  doanh  TAĐP  có  kiến  thức đúng về VSATTP

Xác  định  tỷ  lệ  người  trực  tiếp  chế  biến  thực  phẩm tại các cơ sở kinh doanh TAĐP thực hành  đúng về VSATTP

Mối liên quan giữa các đặc tính như tuổi, giới,  trình  độ  văn  hóa  và  thực  hành  về  VSATTP  của  người kinh doanh TAĐP

Xác định mối liên quan giữa kiến thức đúng  và thực hành đúng của người kinh doanh TAĐP  về VSATTP.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thức  ăn  đường  phố  (TAĐP)  rất  thuận  tiện  cho người tiêu dùng, do sự phong phú đa dạng,  giá  rẻ,  thích  hợp  cho  quảng  đại  quần  chúng.  Cùng  với  quá  trình  đô  thị  hóa,  các  loại  thực  phẩm  chế  biến  sẵn  ngày  càng  nhiều,  đặc  biệt  là  dịch vụ TAĐP cũng phát triển rất nhanh chóng,  tạo ra công ăn việc làm, thu nhập cho hàng ngàn  lao động(3). Tuy nhiên, TAĐP cũng ảnh hưởng rất  nhiều tới cảnh quan môi trường và văn minh đô  thị. Đặc biệt, TAĐP rất dễ bị ô nhiễm(2,5,1,4) gây ngộ  độc  thực  phẩm  cũng  như  các  bệnh  truyền  qua  thực phẩm. Tình trạng ô nhiễm TAĐP là do thiếu  hạ  tầng  cơ  sở,  các  dịch  vụ  vệ  sinh  môi  trường  như: cung cấp nước sạch, xử lý rác, chất thải, thiết  bị bảo quản thực phẩm… không đảm bảo, và do  kiến thức, thực hành của người kinh doanh dịch  vụ TAĐP còn hạn chế.

Đối tượng nghiên cứu

Người trực tiếp chế biến, kinh doanh thức ăn  đường phố cố định đang hoạt động tại 6 phường  của  Thành  phố  Phan  Rang  –  Tháp  Chàm,  tỉnh  Ninh Thuận năm 2011.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả

Mẫu nghiên cứu

Để  triển  khai  mô  hình  đảm  bảo  vệ  sinh  an  toàn TAĐP, làm tốt công tác chăm sóc và bảo vệ  sức khỏe nhân dân và triển khai thực hiện công  tác vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đạt kết  quả cần phải có những số liệu điều tra ban đầu về  thực  trạng  tình  hình  VSATTP,  kiến  thức,  thực  hành  về  VSATTP  của  người  kinh  doanh  TAĐP  Do đó, việc khảo sát điều tra kiến thức, thực hành  về  VSATTP  của  người  kinh  doanh  TAĐP  là  cần  thiết  cho  ngành  y  tế  để  làm  cơ  sở  triển  khai  những biện pháp quản lý và nâng cao chất lượng  VSATTP trong thời gian tới, góp phần bảo vệ sức  khỏe  của  người  dân,  đẩy  mạnh  công  cuộc  hiện  đại  hóa,  công  nghiệp  hóa  của  thành  phố  Phan

290  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  thuộc  6  phường  của  Thành  phố  Phan  Rang  – Tháp  Chàm.  Để  thuận  tiện  cho  việc  quản  lý  VSATTP chúng tôi tiến hành nghiên cứu toàn bộ  mẫu  của  6  phường  được  chọn  của  Thành  phố

46

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Phan  Rang  Tháp  Chàm  năm  2011  theo  danh  sách quản lý.

Phương pháp nghiên cứu

Điều  tra  qua  bảng  câu  hỏi  và  quan  sát  trực  tiếp. Tập huấn điều tra viên mẫu phiếu điều tra  và thống nhất các nội dung quan sát để đánh giá  kiến thức thực hành của các đối tượng.

Phân tích số liệu

kinh doanh kém có thể do không được tập huấn  kiến thức về VSATTP hoặc do các buổi tập huấn,  tuyên  truyền  kiến  thức  về  VSATTP  đã  không  mang  lại  hiệu  quả  như  mong  đợi,  nội  dung  tập  huấn, tuyên truyền chưa phù hợp, chưa đem lại  lợi  ích  cho  cơ  sở,  chưa  thực  sự  hấp  dẫn  người  nghe.  Điều  này  đặt  ra  cho  nhà  quản  lý  có  cần  phải  tổ  chức  tập  huấn  thường  xuyên,  trong  tập  huấn  chú  ý  đến  phương  pháp  truyền  thông  cụ  thể,  sinh  động  nhằm  cập  nhật  kịp  thời  các  quy  định về VSATTP cho những người chế biến thực  phẩm một cách đầy đủ hơn.

Phân tích số liệu bằng phần mềm EPIDATA  3.1,  số  liệu  sau  khi  nhập  sẽ  chuyển  sang  phần  mềm STATA 11.0 để phân tích.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu (n=290)

Đặc tính Tuổi

Tần số 90 Tỷ lệ 31,0 Giới

Thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm  Bảng 3: Thực hành tốt chung về vệ sinh an toàn thực  phẩm của người kinh doanh thức ăn đường phố tại  thành phố Phan Rang (n=290) Thực hành TH tốt chung về vệ sinh an toàn thực phẩm

Tiêu chuẩn đánh giá thực hành chung đúng:  Thực hành chung đúng về VSATTP là khi trả lời  đúng ≥ 7 trong 11 biến số thực hành.

Trình độ học vấn

Tuổi trung bình là 44,7 ± 9,97.

Qua kết quả khảo sát 290 người kinh doanh  cho  thấy  độ  tuổi  dưới  55  tuổi  chiếm  tỷ  lệ  là  82,4%, từ 55 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ là 17,6% và  nữ  chiếm  92,4%  so  với  nam  là  7,6%.  Hầu  hết  người  chế  biến  thực  phẩm  có  trình  độ  văn  hóa  từ cấp II trở xuống chiếm 79,6%, trình độ cấp III  chiếm 18,3%, và đặc biệt có 2,1% người mù chữ.

Nhận  xét:  Tỷ  lệ  các  đối  tượng  thực  hành  chung  đúng  về  VSATTP  đạt  thấp  31,0%.  Điều  này đặt ra cho các nhà quản lý cần phải quan tâm  đến công tác tập huấn kiến thức về VSATTP cho  những  người  trực  tiếp  tham  gia  chế  biến,  bảo  quản,  kinh  doanh  TAĐP  về  các  mối  nguy,  cách  xử  lý  đảm  bảo  yêu  cầu  vệ  sinh  an  toàncần  tăng  cường công tác kiểm tra giám sát về VSATTP để  cơ  sở  thực  hành  tốt  đảm  bảo  ATVSTP  nhằm  phòng ngừa các vụ dịch ngộ độc thực phẩm xảy  ra.

< 55 tuổi ≥ 55 tuổi Nam Nữ Mù chữ Cấp I Cấp II Cấp III Tần số 239 51 22 268 6 88 143 53 Tỷ lệ 82,4 17,6 7,6 92,4 2,1 30,3 49,3 18,3

Kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm  Bảng 2: Kiến thức đúng chung về vệ sinh an toàn  thực phẩm của người kinh doanh thức ăn đường phố  tại thành phố Phan Rang (n=290)

Tần số 100 Tỷ lệ 34,5

Mối  liên  quan  giữa  thực  hành  và  đặc  tính  mẫu  Bảng 4: Mối liên quan giữa đặc tính mẫu và thực  hành về sử dụng nguồn nước (n=290)

Kiến thức KT đúng chung về vệ sinh an toàn thực phẩm

Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức chung đúng:  Kiến thức chung đúng về VSATTP là khi trả lời  đúng ≥ 14 trong 20 biến số kiến thức.

TH về sử dụng nguồn nước p PR Đặc tính mẫu KTC 95% Tốt (n,%)

Tuổi Không tốt (n,%)

Nhận xét: Đối tượng có kiến thức đúng chung  về  vệ  sinh  an  toàn  thực  phẩm  chiếm  tỷ  lệ  thấp  34,5%.  Điều  này  cho  thấy  kiến  thức  của  người

1.00 – 1.03 < 55 tuổi 235 (98,3) 4 (1,7) 0,352 1,02 ≥ 55 tuổi 51 (100,0) 0 (0,0) Giới

47

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TH về sử dụng nguồn nước p PR Đặc tính mẫu KTC 95% Tốt (n,%) Không tốt (n,%)

21 (95,5) 1 (4,5) 0,185 0,97 0.88 – 1.06 265 (98,9) 3 (1,1)

vụ, nhưng có mối liên quan có với trình độ học  vấn.  Người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  II  có  thực  hành  tốt  về  điều  kiện  người  làm  dịch  vụ  thấp  hơn với người có trình độ văn hóa cấp III là 0,61  lần (KTC 95%=0.40 – 0.93), người có trình độ văn  hóa cấp I có thực hành tốt về người làm dịch vụ  thấp  hơn  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  là  0,52 lần (KTC 95%=0.31 – 0.87). Sự khác biệt này  có ý nghĩa thống kê với p=0,023.

Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ Cấp I 5 (83,3) 1 (16,7) 0,006 85 (96,6) 3 (3,4) 1 1,16

Cấp II 0 (0,0) 1,20

Cấp III 143 (100,0) 53 (100,0) 0 (0,0) 0.81- 1.66 1.12 – 1.29 1,20 1.12 – 1.29

Bảng 6: Mối liên quan giữa đặc tính mẫu và thực  hành về bàn, giá chế biến và bày bán thực phẩm  (n=290)

p PR Đặc tính mẫu KTC 95%

Thực hành về bàn, giá chế biến và bày bán thực phẩm Tốt (n, %) Không tốt

Tuổi

(n,%)

< 55 tuổi 229 (95,8) 10 (4,2) 0,100 0,94 ≥ 55 tuổi 46 (90,2)

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các  nhóm tuổi, giới với thực hành về sử dụng nguồn  nước, nhưng có mối liên quan với trình độ học  vấn. Người có trình độ học vấn cấp II, cấp III có  thực  hành  tốt  về  sử  dụng  nguồn  nước  cao  hơn  người mù chữ là 1,2 lần (KTC 95%=1.12 – 1.29).  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p=0,006.

0.86 – 1.03 5 (9,8)

Tuy  vậy  người  có  trình  độ  học  vấn  cấp  I  không có mối liên quan có ý nghĩa thông kê với  người  mù  chữ  mặc  dù  p  <  0,05  vì  KTC  95%  =  0.81‐ 1.66 có chứa 1

1 (4,5) 0,999 1,01 21 (95,5) 0.92 – 1.11 254 (94,8) 14 (5,2)

Giới Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ 5 (83,3)

1 (16,7) 0,044 0,94

Cấp I

1,08 84 (95,5) 4 (4,5)

Bảng 5: Mối liên quan giữa đặc tính mẫu và thực  hành về người làm dịch vụ (n=290)  p

Cấp II 139 (97,2)

Cấp III 47 (88,7)

Tuổi

1,10 4 (2,8) Đặc tính mẫu PR KTC 95% Thực hành về người làm dịch vụ Tốt (n, %) Không tốt 1 0.68 – 1.29 0.98 – 1.18 1.02 – 1.18 6 (11,3)

(n,%) < 55 tuổi 61 (25,5) 178 (74,5) 0,390 1,23 0.78 – 1.95 ≥ 55 tuổi 16 (31,4) 35 (68,6)

9 (40,9) 13 (59,1) 0,113 1,61 0.94 – 2.77 68 (25,4) 200 (74,6)

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các  nhóm  tuổi,  giới  với  thực  hành  về  bàn,  giá  chế  biến và bày bán thực phẩm, nhưng có mối liên  quan  với  trình  độ  học  vấn.  Người  có  trình  độ  văn hóa cấp II có thực hành tốt về bàn, giá chế  biến và bày bán thực phẩm cao hơn với người có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  là  1,10  lần  (KTC  95%=1.02  –  1.18).  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống kê với p=0,044.

Giới Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ Cấp I

0 (0,0) 6 (100,0) 0,023 NA NA 19 (21,6) 69 (78,4)

Cấp II

36 (25,2) 107 (74,8)

Cấp III

Tuy  vậy  người  có  trình  độ  học  vấn  cấp  I  không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  mặc  dù  p  <  0,05 vì KTC 95% = 0,98 ‐ 1,18 có chứa 1 và người  mù  chữ  không  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thông  kê  với  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các  nhóm tuổi, giới với thực hành về người làm dịch

22 (41,5) 31 (58,5) 0,52 0.31 – 0.87 0,61 0.40 – 0.93 1

48

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

p PR Đặc tính mẫu KTC 95% Thực hành về việc thu đổ rác

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  mặc dù p < 0,05 vì KTC 95% = 0.68 – 1.29 có chứa  1

Tốt (n,%) Không tốt (n,%) p

Bảng 7: Mối liên quan giữa đặc tính mẫu và thực  hành về sử dụng thùng đựng rác (n = 290)  PR TH về sử dụng thùng đựng rác

Đặc tính mẫu KTC 95% 5 (22,7) 17 (77,3) 0,127 1,96 0.85 – 4.54 31 (11,6) 237 (88,4)

6 (100,0) 0,015 NA NA Tuổi Tốt (n, %) Giới Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ Cấp I 0 (0,0) 9 (10,2) 79 (89,8)

Cấp II 13 (9,1) 130 (90,9) Không tốt (n,%) < 55 tuổi 126 (52,7) 113 (47,3) 0,294 1,15 0.90 – 1.48 ≥ 55 tuổi 31 (60,8) 20 (39,2)

Cấp III 14 (26,4) 39 (73,6) 0,39 0.18 – 0.83 0,34 0.17 – 0.68 1 0,352 1,19 0.85 – 1.67 14 (63,6) 8 (36,4) 143 (53,4) 125 (46,6)

Giới Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ 2 (33,3) 4 (66,7)

Cấp I 36 (40,9) 52 (59,1)

Cấp II 77 (53,9) 66 (46,1)

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các  nhóm tuổi, giới với thực hành về việc thu đổ rác,  nhưng  có  mối  liên  quan  với  trình  độ  học  vấn.  Người có trình độ văn hóa  cấp  II  có  thực  hành  tốt  về  việc  thu  đổ  rác  thấp  hơn  với  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  là  0,34  lần  (KTC  95%=0.17 – 0.68), người có trình độ văn hóa cấp I  có  thực  hành  tốt  về  việc  thu  đổ  rác  thấp  hơn  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  là  0,39  lần  (KTC  95%=0.18  –  0.83).  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê với p=0,015.

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa các  nhóm tuổi, giới với thực hành về sử dụng thùng  đựng  rác,  nhưng  có  mối  liên  quan  với  trình  độ  học vấn.

Cấp III 42 (79,3) 11 (20,7) 0,001 0,42 0.13 – 1.32 0,52 0.39 – 0.69 0,68 0.55 – 0.83 1

Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành  Bảng 9: Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành  về vệ sinh an toàn thực phẩm (n=290)

p PR KTC 95% Kiến thức chung

Tốt

Không tốt 33 (17,4) 157 (82,6)

Người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  II  có  thực  hành  tốt  về  sử  dụng  thùng  đựng  thấp  hơn  với  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  III  là  0,68  lần  (KTC  95%=0.55  –  0.83),  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp  I  có  thực  hành  tốt  về  sử  dụng  thùng  đựng  rác  thấp  hơn  người  có  trình  độ  văn  hóa  cấp III là 0,52 lần (KTC 95%=0.39 – 0.69). Sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,001.

Tuy  vậy  người  mù  chữ  không  có  mối  liên  quan có ý nghĩa thống kê với người có trình độ  văn  hóa  cấp  III  mặc  dù  p  <  0,001  vì  KTC  95%=0,13 ‐ 1,32 có chứa 1.

Thực hành chung Không tốt (n,%) Tốt (n, %) 57 (57,0) 43 (43,0) 0,001 3,28 2.30 – 4.68

Bảng 8: Mối liên quan giữa đặc tính mẫu và thực  hành về việc thu đổ rác (n=290)

Nhận  xét:  Có  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  chung tốt và thực hành chung tốt về vệ sinh an  toàn  thực  phẩm:  Người  có  kiến  thức  chung  tốt  thực  hành  chung  tốt  hơn  người  có  kiến  thức  chung  không  tốt  là  3,28  lần  (KTC  95%=2.30  –  4.68).  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  =  0,001.

p PR

KẾT LUẬN

Đặc tính mẫu Thực hành về việc thu đổ rác KTC 95%

Tỷ lệ người kinh doanh TAĐP có kiến thức  đúng chung đúng và thực hành chung đúng về  VSATTP Thấp

Tốt (n,%) Tuổi

Không tốt (n,%) < 55 tuổi 28 (11,7) 211 (88,3) 0,435 1,34 0.65 – 2.77 ≥ 55 tuổi 8 (15,7) 43 (84,3)

49

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

đựng chất thải; cần trang bị đồ bảo hộ lao động  trong khi chế biến, kinh doanh..

Có mối liên quan giữa trình độ học vấn với  thực  hành  đúng  về  sử  dụng  nguồn  nước;  về  điều  kiện  người  làm  dịch  vụ;  về  bàn,  giá  chế  biến  và  bày  bán  thực  phẩm;  về  sử  dụng  thùng  đựng rác (p<0,05).

Tăng cường công tác truyền thông trực tiếp  đến các nhóm đối tượng tiêu dùng, truyền thông  trên các phương tiện thông tin đại chúng về thực  trạng TAĐP..

Không  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  thực  hành  đúng  về  VSATTP  với  các  nhóm  tuổi  và  giới.

KHUYẾN NGHỊ

2.

3.

Các ngành, các cấp đặc biệt là những người  làm công tác quản lý về VSATTP cần tăng cường  công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở  kinh  doanh  dịch  vụ  TAĐP  để  họ  thực  hiện  tốt  các quy định về VSATTP TAĐP.

4.

5.

Tăng  cường  công  tác  tập  huấn  cho  cơ  sở  kinh  doanh  dịch  vụ  TAĐP  vì  tỷ  lệ  người  kinh  doanh  TAĐPcó  kiến  thức  chung  về  VSATTP  thấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Hà Thị Anh Đào, Vi Văn Sơn, Nguyễn Minh Trường (2008)  Thực trạng vệ sinh cơ sở dịch vụ thức ăn đường phố khu vực  chợ đồng Xuân và Thanh Xuân Bắc ‐ Hà nội. Kỷ yếu hội nghị  khoa học VSATTP lần thứ 5‐2009, NXB Hà Nội, tr.191‐96.  Phan  Thị  An,  và  cs  (2004)  Khảo  sát  tình  hình  ô  nhiễm  vi  khuẩn của một số loại thức ăn đường phố tại thành phố Đà  Lạt. Kỷ yếu hội nghị khoa học VSATTP lần thứ 3‐2005, NXB  Y học, Hà Nội, tr.325‐329.  Trần Đáng (2005) Kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm thức  ăn đường phố, NXB Thanh Niên, Hà Nội, tr.9‐40.  Trần  Huy  Quang,  và  cs  (2005)  Khảo  sát  tình  hình  ô  nhiễm  thức ăn đường phố và yếu tố liên quan tại thành phố Thanh  Hóa. Kỷ yếu hội nghị khoa học VSATTP lần thứ 3‐2005, NXB  Y học, Hà Nội, tr.197‐203.  Trần  Văn  Chí  (2004)  Khảo  sát  ban  đầu  dịch  vụ  thực  phẩm  thức  ăn  đường  phố  có  địa  điểm  cố  định  trên  địa  bàn  tỉnh  Quảng Trị, NXB Y học, Hà Nội, tr.368‐376.

Các  cơ  sở  kinh  doanh  TAĐP  cần  đầu  tư  trang thiết bị như: bàn bày bán thức ăn, dụng cụ

50

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TỶ LỆ TĂNG HUYẾT ÁP VÀ NHỮNG HÀNH VI NGUY CƠ   CỦA CÁN BỘ ‐ CÔNG NHÂN TRUNG TÂM CƠ KHÍ TOA XE   THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

Nguyễn Tôn Kinh Thi*, Lê Hoàng Ninh**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ tim mạch rất phổ biến và cũng là nguyên nhân hàng  đầu gây tử vong và mắc bệnh trên toàn cầu. Tỷ lệ người THA ở Việt Nam gần đây có xu hướng tăng nhanh. Ở  Việt Nam, phòng chống bệnh THA đã được chính phủ đưa vào chương trình mục tiêu quốc gia. Tuy nhiên, tình  hình THA trong ngành giao thông vẫn chưa được khảo sát, đánh giá.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc THA của cán bộ ‐ công nhân viên Trung tâm Cơ khí Toa xe (TTCKTX)  Tháp Chàm, mối liên quan giữa THA với các đặc trưng và các hành vi nguy cơ; xác định tỷ lệ những người biết  mình THA và được điều trị THA ở cán bộ ‐ công nhân viên TTCKTX Tháp Chàm hiện mắc THA.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả toàn bộ mẫu là CB‐CNV đang làm việc, công tác tại TTCKTX

Tháp Chàm trong năm 2011.

Kết quả: Tỷ lệ THA chung của CB‐CNV TTCKTX Tháp Chàm là 32,0%, trong đó nam chiếm tỷ lệ 37,7%  cao hơn nữ có tỷ lệ là 15,4%. Tỷ lệ THA tăng cao ở nam giới, người béo phì và uống rượu. Ở những CB‐CNV  TTCKTX Tháp Chàm bị THA, các hành vi nguy cơ có tỷ lệ khá cao, tỷ lệ CB‐CNV biết bị THA và điều trị THA  là 44,8%.

Kết luận: Cần tăng cường công tác truyền thông dưới nhiều hình thức nhằm trao đổi, cung cấp kiến thức

và giúp nâng cao nhận thức của CB‐CNV trong ngành về dự phòng và kiểm soát bệnh THA.

Từ khóa: Tăng huyết áp, Hành vi nguy cơ, CB‐CNV, TTCKTX Tháp Chàm,

ABSTRACT

PREVALENCE OF HYPERTENSION AND BEHAVIOURAL RISK FACTORS   OF PERSONNEL OF THAPCHAM RAILROAD WAGON MECHANICAL CENTER

Nguyen Ton Kinh Thi, Lê Hoàng Ninh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 51 ‐ 57

Background: Hypertension (HT) is a common risk factor for cardiovascular disease and also the top‐ranking  cause  of  global  deaths  and  diseases.  Recently,  the  prevalence  of  HT  in  Vietnam  tended  to  increase  rapidly.  In  Vietnam, the National Targeted Programme for Hypertension Prevention and Control has been approved by the  Prime  Minister.  However,  hypertensive  situation  of  the  transport  employees  has  not  been  investigated  and  evaluated.

Objectives:  To  identify  the  prevalence  of  hypertension  in  personnel  of  Thap  Cham  Railroad  Wagon  Mechanic Center, and the relationships between the HT and behavioral risk factors; To identify the prevalence of  hypertensives who know themselves and treated hypertension among personnel of Thap Cham Railroad Wagon  Mechanic Center.

* Bệnh viện GTVT Tháp Chàm, Ninh Thuận  ** Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tôn Kinh Thi         ĐT: 0909965565      Email: bs.kinhthi@gmail.com

51

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Method: Cross‐sectional description, sampling the entire of 153 personnel of Thap Cham Railroad Wagon

Mechanic Center in 2011.

Results: The overall prevalence of HT in personnel of Thap Cham Railroad Wagon Mechanic Center was  32.0% (37.7% in men and 15.41% in women). The rate of HT increased in men, and in personnel who were  obesity  and  alcohol  abuse.  The  risk  behaviors  in  hypertensives  make  up  a  high  rate,  the  proportions  of  hypertensives aware, treated and controlled were low (44.8%).

Conclusion:  Need  to  increase  communication  in  various  forms  to  provide  knowledge  and  help  raise  the

awareness of personnel in HT prevention and control.

Keywords:  Hypertension;  Behavioral  risk  factors  ;  Personnel;  Thap  Cham  Railroad  Wagon  Mechanical

center;

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  tỷ  lệ  hiện  mắc  THA  của  cán  bộ  ‐  công nhân viên (CB‐CNV) TTCKTX Tháp Chàm.

Xác định mối liên quan giữa THA và các đặc  trưng:  giới  tính,  nhóm  tuổi,  nghề  nghiệp,  học  vấn, béo phì

Xác  định  mối  liên  quan  giữa  THA  và  các  hành vi nguy cơ: ăn mặn, hoạt động TDTT, hút  thuốc lá, uống rượu, bia, uống cà phê.

Xác định tỷ lệ những người biết mình THA  và được điều trị THA ở CB‐CNV TTCKTX Tháp  Chàm hiện mắc THA.

Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ tim  mạch rất phổ biến và cũng là nguyên nhân hàng  đầu  gây  tử  vong  và  mắc  bệnh  trên  toàn  cầu(14).  Một nghiên cứu quan sát bệnh nhân nhập viện  do  Hội  chứng  động  mạch  vành  cấp  trong  năm  2008‐2009 ở Việt Nam cho thấy yếu tố nguy cơ  tim mạch của THA chiếm đến 65%(7). THA ảnh  hưởng  đến  các  nước  trên  tất  cả  các  nhóm  thu  nhập cao, trung bình và thấp(13). Chi phí điều trị  THA hàng năm cho mỗi người THA tại Hoa Kỳ  là 1.598 USD. Chi phí tăng gấp đôi nếu điều trị  để giảm các yếu tố nguy cơ(1).

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Sử  dụng  thiết  kế  mô  tả  cắt  ngang  toàn  bộ

mẫu.

Đối tượng nghiên cứu

Dân số chọn mẫu

Tất  cả  CB‐CNV  TTCKTX  Tháp  Chàm  năm

2011

Tiêu chí đưa vào

CB‐CNV TTCKTX Tháp Chàm đồng ý tham  gia nghiên cứu (điền và cung cấp thông tin vào  bộ câu hỏi).

Tiêu chí loại ra

CB‐CNV  TTCKTX  Tháp  Chàm  không  đồng  ý tham gia nghiên cứu, hoặc khi nằm trong diện  phải đo huyết áp (HA) lại thì không thực hiện.

Từ năm 1960 đến năm 1992, tỷ lệ người THA  ở  Việt  Nam  đã  tăng  lên  hơn  11  lần.  Theo  một  điều tra của Viện Tim mạch Việt Nam tiến hành  ở người lớn từ 25 tuổi trở lên tại 8 tỉnh và thành  phố  của  Việt  Nam  năm  2008  thì  tỷ  lệ  THA  đã  tăng  lên  đến  25,1%(8). Phòng  chống  bệnh  THA  đã được Chính phủ Việt Nam đưa vào chương  trình  mục  tiêu  quốc  gia  và  đã  được  triển  khai  trên  63  tỉnh/thành  về  mô  hình  dự  phòng  và  quản  lý  bệnh  THA  tại  cộng  đồng.  Năm  2006,  trong  một  nghiên  cứu  để  xây  dựng  tiêu  chuẩn  sức khỏe nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ  chạy tàu có ghi nhận tỷ lệ THA là 19,9%. Từ đó  đến nay chưa có báo cáo nào về tỷ lệ THA của  các đơn vị trong ngành đường sắt. Đề tài này là  bước đầu thực hiện công việc này trên một đơn  vị  thuộc  ngành  đường  sắt  và  do  Bệnh  viện  GTVT Tháp Chàm quản lý ‐ đó là Trung tâm Cơ  khí Toa xe (TTCKTX) Tháp Chàm.

52

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc tính Tần số Tỷ lệ %

Phương pháp thu thập dữ liệu

CB‐CNV được phát bộ câu hỏi tự điền. Khi  khám sức khỏe, cộng tác viên đo, ghi nhận phần  số  liệu  và  trực  tiếp  điền  vào  giấy,  đồng  thời  kiểm tra, phỏng vấn hoàn thiện theo bộ câu hỏi.

78 51,0

Huyết  áp  được  đo  ở  cả  hai  tay  theo  “Quy  trình  đo  huyết  áp  đúng”  ban  hành  kèm  theo  Quyết  định  số  3192/QĐ‐BYT  ngày  31  tháng  8  năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

nặng Công nhân lao động tiếng ồn CN khác Kinh Không Kết hôn 10 148 143 141 6,5 96,7 93,4 92,2 Dân tộc Tôn giáo Hôn nhân

Một số định nghĩa dùng trong nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu gồm có 153 người, trong đó  74,5% là nam giới. Độ tuổi phổ biến là 25‐54 tuổi  và  chủ  yếu  đã  kết  hôn  (92,2%).  Hầu  hết  là  dân  tộc  Kinh  và  không  Tôn  giáo.  Đa  số  có  trình  độ  cấp  3  (97,6%).  Nhóm  quản  lý  và  văn  phòng  chiếm 19,6%, còn lại đa số là công nhân làm việc  trong môi trường nặng nhọc và tiếng ồn (73,9%).  Mẫu có đặc điểm chung của các đơn vị lao động  nặng. Kết quả có tính ứng dụng cao cho các đơn  vị,  doanh  nghiệp  quản  lý  số  đông  người  lao  động, nhất là lao động nặng.

Tỷ  lệ  hiện  mắc  THA  và  sự  phân  bố  theo  các đặc trưng

Tăng huyết áp khi một trong hai tay có chỉ số  HA  tâm  thu  ≥  140mmHg  và/hoặc  HA  tâm  trương ≥ 90mmHg. Ăn mặn là khi đối tượng có  ăn  mặn  hơn  trong  gia  đình/bạn  bè  và/hoặc  thường thêm nước mắm/nước chấm khi ăn. BMI  Theo  khuyến  nghị  của  Tổ  chức  y  tế  thế  giới,  ở  Châu Á, BMI ≥ 25kg/m2 được coi là béo phì(12), (13).  Chỉ số phân độ BMI không phân biệt giữa nam  và nữ. Hút thuốc tính trong 6 tháng trở lại. Uống  rượu, bia tính trong vòng 12 tháng qua.

Xử lý và phân tích dữ liệu

Nhập liệu bằng Epidata 3.1, xử lý bằng Stata

11.1.

Dùng  phương  pháp  thống  kê  mô  tả  để  ghi  nhận các tần suất, tỷ lệ phần trăm. Mức độ kết  hợp được ước lượng với tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Hình 1: Tỷ lệ hiện mắc THA của CB‐CNV TTCKTX  Tháp Chàm

Bảng 2: Mối liên quan giữa THA và các đặc trưng  về dân số, xã hội

THA Đặc trưng p Tỷ lệ % THA

Những  đặc  tính  chung  của  đối  tượng  nghiên cứu   Bảng 1: Các đặc điểm về dân số xã hội của đối tượng  nghiên cứu (n = 153)  Đặc tính

Có Không PR (KTC 95%) Giới tính < 0,01 2,5 (1,1-5,3) Nhóm tuổi Nam Nữ 18-34 71 33 22 37,7 15,4 24,1 43 6 7 Giới tính Nhóm tuổi 12 0,427 35-44 24 33,3

30 0,341 58 34,1 1,38 (0,6-3,1) 1,41 (0,7-2,9) Học vấn 11 Nhóm nghề 19 36,7

0,224 9 0,68 (0,4-1,3) 45-60 Quản lý và Văn phòng Công nhân lao động nặng 26 25,7 Nhóm nghề nghiệp Nam Nữ 18 – 25 tuổi 25 – 34 tuổi 34 – 44 tuổi 45 – 54 tuổi 54 – 60 tuổi Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Quản lý và Văn phòng Công nhân lao động Tần số Tỷ lệ % 74,5 25,5 3,9 15,1 23,5 56,2 1,3 1,3 9,2 79,6 19,6 22,9 114 39 6 23 36 86 2 2 14 121 30 35

53

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

THA Đặc trưng p Tỷ lệ % THA Có Không PR (KTC 95%)

Tỷ lệ THA tăng dần theo nhóm tuổi như các  nghiên cứu khác, nhưng nhóm tuổi 25‐44 có tỷ lệ  THA khá cao là ≥ 30%, gấp hơn 3 lần so với các  nghiên  cứu  của  Viện  Dinh  dưỡng  Quốc  gia  (2006)(12), gấp 5 lần với nghiên cứu tại Tp Hồ Chí  Minh (2005)(10) và Hoa kỳ(3).

0,833 25 0,91 (0,4-2,1)

Công nhân lao động tiếng ồn CN khác 4 Cấp 1 & 2 7 53 6 9 32,1 40,0 43,8 0,345

36 0,645 Cấp 3 85 29,8

6 0,849 0,70 0,87 (0,5-1,6) 1,09 (0,5-2,7)

Nhóm học vấn cấp 3 có tỷ lệ THA thấp nhất  là 29,8%. Tương tự, tỷ lệ THA thấp nhất ở nhóm  công nhân lao động nặng nhọc với 25,7%. Chưa  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  THA  với  trình  độ  học vấn và yếu tố nghề nghiệp (p > 0,05).

Tỷ lệ THA ở người béo phì (BMI ≥ 25kg/m2)  trên nghiên cứu này là 57,1%, cao gấp 2,83 lần so  với tỷ lệ THA ở nhóm không béo phì (KTC 95%  1,04‐7,71), có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Như  vậy béo phì thật sự là một yếu tố cảnh báo mạnh  của nguy cơ THA ngay cả khi xếp loại BMI của  người  lao  động  nặng  như  người  lao  động  bình  thường.

0,035 2,83 (1,0-7,7) Học vấn 9 Đại học BMI < 25kg/m2 41 98 ≥ 25kg/m2 8 6 40,0 29,5 57,1

THA và các hành vi nguy cơ  Bảng 3: Mối liên quan giữa THA và các hành vi  nguy cơ (n=152)

THA Hành vi p PR (KTC 95%) Có Tỷ lệ % THA

0,28 1,32 (0,80-2,19) Có Không Có 17 32 31 Khôn g 27 38,6 76 29,6 55 36,1 Ăn mặn TDTT 18 49 27,3 0,25

24 58 29,3 Không Không Thỉnh thoảng 12 29,3 0,81 Hút thuốc pexact = 0,63 29

Tỷ  lệ  THA  của  CB‐CNV  TTCKTX  Tháp  Chàm  là  32%  (KTC  95%:  24,7‐40,0),  trong  đó,  nam là 37,7%, cao hơn nữ là 15,4%. Tỷ lệ THA là  32% có độ tin cậy cao vì phương pháp chọn mẫu  là lấy trọn mẫu và sai lệch đo huyết áp đã được  điều chỉnh trước qua việc kiểm định máy đo HA  và  tập  huấn  lại  cho  điều  dưỡng  đo  HA.  Hiện  nay, các nghiên cứu tại Việt Nam được công bố  hiếm  có  tỷ  lệ  THA  nào  được  ghi  nhận  là  trên  30%.  Nghiên  cứu  của  nhóm  tác  giả  Phạm  Gia  Khải, Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và cộng  sự năm 2001‐2002 tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam  ghi  nhận  tỷ  lệ  THA  cao  nhất  là  tại  thành  phố  Vinh, chiếm 31,9%(6). Khi so sánh với các nghiên  cứu  khác  có  một  số  đặc  điểm  tương  đồng  như  của Phạm Văn Hùng (2006) trên 4.017 nhân viên  đường  sắt  phục  vụ  chạy  tàu  (THA:  19,9%)(5),  Nguyễn  Doãn  Thành,  Lê  Hoàng  Ninh  và  cs  (2008)(4) ở  308  công  nhân  Nhà  máy  Bia  Sài  Gòn  (THA: 16,0%) hay Trần Văn Hương (2012)(11) trên  872  người  tại  huyện  Ninh  Hải,  Ninh  Thuận  (15,1%) thì tỷ lệ THA ở nghiên cứu này cũng cao  hơn hẳn (p<0,001).

5 45,5 0,23 6

4 36,4 0,60 7

3 50,0 0,22 1,18 (0,90-1,57) 1,07 (0,61-1,88) 1,57 (0,76-3,27) 1,25 (0,53-2,95) 1,73 (0,72-4,13) < 10 điếu/ngày 10-20 điếu/ngày > 20 điếu/ngày Không

0,01 1,48 (1,1-2,0) Uống rượu pexact = 0,03

Uống bia pexact = 0,065 1,36 (1,1-1,7) < 0,05

Tỷ lệ THA ở nam giới cao hơn nữ giới 2,45  lần (KTC95%:1,13‐5,31). So với nhiều nghiên cứu  tại Việt Nam thì tỷ lệ THA ở nữ giới của nghiên  cứu này là không có sự khác biệt. Tuy nhiên, tỷ  lệ  THA  ở  nam  CB‐CNV  TTCKTX  Tháp  Chàm  cao hơn nhiều nghiên cứu khác ở Việt Nam(2,6,8,9)  và có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Như vậy, tỷ lệ  THA chung của CB‐CNV TTCKTX Tháp Chàm  cao  hơn  các  nghiên  cứu  khác  do  tỷ  lệ  THA  ở  nam giới cao.

23 Thỉnh thoảng 21 4 < 1 xị/ngày 1 > 1 xị/ngày 14 Không Thỉnh thoảng 28 2 < 3 lon /ngày 4 3-5 lon/ngày 1 > 5 lon /ngày 3 61 27,4 42 33,3 80,0 1 0 100 45 23,7 54 34,1 40,0 3 80,0 1 50,0 1

54

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

khác.  Ở  nghiên  cứu  này  ghi  nhận  được  những  người  uống  cà  phê  có  tỷ  lệ  THA  là  35,3%,  cao  hơn  những  người  không  uống  cà  phê  1,25  lần  (KTC 95%:  1,10‐1,67).  Tuy  nhiên,  mối  liên  quan  này không có ý nghĩa thống kê.

THA Hành vi p PR (KTC 95%) Có Tỷ lệ % THA Không

1,25 (1,0-1,5) < 0,05 Uống cà phê pexact = 0,12

Khôn g 13 38 25,5 Thỉnh thoảng 26 52 33,3 20,0 2 < 1 ly/ngày 50,0 6 1-2 ly/ngày 100 2 > 2 ly/ngày 8 6 0

Tỷ  lệ  các  hành  vi  nguy  cơ  của  những  CB‐ CNV TTCKTX Tháp Chàm bị THA  Bảng 4: Mô tả tỷ lệ các hành vi nguy cơ trên nhóm  hiện mắc THA (n=49)

THA Đặc trưng

Sự liên quan giữa THA và ăn mặn không có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  =  0,28).  Có  thế  do  Ninh  Thuận là tỉnh nắng nóng và có độ khô hạn cao,  ăn  mặn  là  thói  quen  hầu  hết  của  những  người  dân  ở  đây.  Vì  vậy,  việc  xác  định  ăn  mặn  tại  nghiên cứu này chỉ có tính tương đối.

Hút thuốc lá

Uống rượu

Uống bia

Uống cà phê

Chế độ ăn

Vận động thể lực thường xuyên là một hành  vi tốt đối với người bệnh THA đồng thời cũng là  yếu tố giảm nguy cơ THA. Tỷ lệ THA ở những  người có TDTT là 36%, cao hơn 1,18 lần ở người  không TDTT. Kết quả trái ngược này có thể do  đa số các đối tượng nghiên cứu là công nhân lao  động  tay  chân  nên  đã  có  hoạt  động  thể  lực  thường xuyên và do đó sự khác biệt này không  chính xác. Hơn nữa, đây là một nghiên cứu cắt  ngang mô tả, không thể xác định nhân quả giữa  THA và TDTT. Có thể một số những người biết  hoặc nghi ngờ mình có bệnh THA nên tham gia  hoạt  động  TDTT  chứ  không  phải  hoạt  động  TDTT gây THA.

Không tìm thấy mối liên quan giữa THA và

hút thuốc.

Trong số những người bị THA, tỷ lệ những  người  có  hành  vi  nguy  cơ  thì  cao  hơn  ở  người  không có hành vi nguy cơ. Hành vi nguy cơ có  tỷ  lệ  cao  nhất  là  uống  cà  phê,  chiếm  73,5%,  kế  đến là uống bia có tỷ lệ 71,4%, uống rượu với tỷ  lệ 53,1%, và hút thuốc lá có tỷ lệ 51%. Trong số  những  người  hiện  mắc  THA,  những  người  có  hành vi ăn mặn chiếm tỷ  lệ  thấp  (34,7%).  Tỷ  lệ  người có tham gia TDTT là 63,3%.

Nhìn chung, các hành vi nguy cơ có tỷ lệ khá  cao  ở  nhóm  những  CB‐CNV  bị  THA.  Nếu  không có sự tác động làm thay đổi các hành vi  nguy cơ này trên nhóm bị THA sẽ khó kiểm soát  và điều trị THA cho họ.

Ở  nhóm  uống  rượu  có  tỷ  lệ  THA  bằng  37,7%,  gấp  1,48  (KTC  95%:  1,10‐2,00)  lần  so  với  nhóm không uống rượu (p = 0,01) và có khuynh  hướng tăng theo mức độ uống  rượu.  Tương  tự  như  uống  rượu,  tỷ  lệ  uống  bia  ở  CB‐CNV  TTCKTX  Tháp  Chàm  còn  cao  hơn  với  tỷ  lệ  61,8%.  Tỷ  lệ  THA  ở  những  người  uống  bia  là  37,2%, bằng 1,36 lần (KTC 95%: 1,10‐1,67) so với  nhóm không uống. Lạm dụng rượu, bia là hành  vi  nguy  cơ  cao  của  THA,  nhưng  điều  đáng  lo  ngại  là  hiện  nay  tình  trạng  này  khá  phổ  biến  trong CB‐CNV nhà nước.

Uống  cà  phê  là  một  thói  quen  của  nhiều  người  dân  Ninh  Thuận.  Người  Ninh  Thuận  thường  uống  cà  phê  đậm  đặc  hơn  nhiều  vùng

TDTT Không Thỉnh thoảng Thường xuyên Không Thỉnh thoảng Thường xuyên Không Thỉnh thoảng Thường xuyên Không Thỉnh thoảng Thường xuyên Ăn mặn Ăn béo Ăn ngọt Ăn rau Có Không n 24 13 12 23 24 5 14 28 7 13 26 10 17 9 14 28 31 18 % 49,0 26,5 24,5 46,9 42,9 10,2 28,6 57,1 14,3 26,5 53,1 20,4 34,7 18,4 28,6 57,1 63,3 36,7

55

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Xác  định  tỷ  lệ  những  người  biết  mình  THA và được điều trị THA

Trong số những CB‐CNV bị THA, tỷ lệ biết  mình bị THA là 59,18%. Ở nhóm này, tỷ lệ hành  vi nguy cơ THA còn cao. Tỷ lệ CB‐CNV biết bị  THA và điều trị THA là 44,8%.

KHUYẾN NGHỊ

Tăng  cường  công  tác  truyền  thông  dưới  nhiều  hình  thức  nhằm  trao  đổi,  cung  cấp  kiến  thức  và  giúp  nâng  cao  nhận  thức  của  CB‐CNV  trong  ngành  về  dự  phòng  và  kiểm  soát  bệnh  THA.

Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ CB‐CNV TTCKTX  Tháp Chàm hiện mắc THA biết mình bị THA

Bảng 5: Mối liên quan giữa biết và điều trị THA theo  giới tính (n=29)

Xác  định  được  tầm  quan  trọng  của  việc  khám  sức  khỏe  định  kỳ  để  người  sử  dụng  lao  động  và  người  lao  động  không  khám  qua  loa,  đối phó. Sau khám sức khỏe, phải đánh giá kết  quả  tình  hình  bệnh  tật  của  CB‐CNV,  nhất  là  THA, để có đề xuất giải pháp kiểm soát.

Biết và điều trị THA n (%) P Giới PR (KTC 95%) Có Không

Cần có những nghiên cứu thêm về THA sâu  rộng hơn ở CB‐CNV trong ngành, nghiên cứu về  kiến thức và thực hành về THA để tìm nguyên  nhân  tỷ  lệ  THA  cao  trong  CB‐CNV,  thông  qua  đó có đề xuất, khuyến nghị cụ thể các biện pháp  giảm tỷ lệ THA và tăng tỷ lệ biết, điều trị THA.

Tỷ  lệ  CB‐CNV  biết  bị  và  điều  trị  THA  là  44,8%. Trong số những người nữ biết bị THA, tỷ  lệ điều trị THA là 60%. Trong khi đó, số người  nam  biết  bị  THA  mặc  dù  cao  hơn,  nhưng  tỷ  lệ  điều trị THA chỉ 41,7%. Tuy nhiên, sự khác biệt  này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

0,50 1,27) 2 (40%) 3 (60%) Nam 10 (41,7%) 14 (58,3%) 0,89 (0,62- Nữ Cộng 13 (44,8%) 16 (55,2%)

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Chouihi  R,  Dakhlaoui  F,  Farhaoui  SE  (2012)  ʺProjet  de  médecine  communautaire  L’hypertension  artérielleʺ.  Faculté  de médecine ibn al Jazzar Sousse

KẾT LUẬN

3.

Với  phương  pháp  mô  tả  cắt  ngang  lấy  trọn  mẫu  trên  153  người  là  CB‐CNV  Trung  tâm  cơ  khí  Toa  xe  Tháp  Chàm,  nghiên  cứu  này  đã  ghi  nhận được những kết quả sau:

Tỷ lệ THA chung của CB‐CNV Trung tâm cơ  khí  Toa  xe  Tháp  Chàm  là  32,0%.  Tỷ  lệ  này  cao  hơn ở nhóm CB‐CNV là nam giới hoặc người bị  béo phì.

5.

6.

Tỷ lệ THA ở nhóm uống rượu là 37,7%, gấp  1,48 lần so với nhóm không uống rượu (p = 0,01)  và  có  khuynh  hướng  tăng  theo  mức  độ  uống  rượu.

7.

Chưa  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  THA  và  các hành vi nguy cơ khác như ăn mặn, uống bia,  uống cà phê, hút thuốc, TDTT.

2. Chu Hồng Thắng (2009) ʺNghiên cứu thực trạng bệnh THA  và  một  số  rối  loạn  chuyển  hoá  ở  người  THA  tại  xã  Hóa  Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyênʺ. Luận văn Thạc sĩ  Y học.  Fields LE., Burt VL, Cutler JA. , Hughes J, Roccella EJ, Sorlie  P.(2004)  ʺThe  burden  of  adult  hypertension  in  the  United  States 1999 to 2000: a rising tideʺ. Hypertension, 44, (4), 398‐404.  4. Nguyễn  Doãn  Thành,  Lê  Hoàng  Ninh,  Phùng  Đức  Nhật,  Dương Tiểu Phụng, Phan Gia Cường (2008) ʺTình trạng sức  khỏe và các yếu tố hành vi liên quan của công nhân nhà máy  bia  Sài  Gòn  năm  2008ʺ.Y  học  Thành  Phố  HCM,  tập  12,  phụ  bản số 2‐2008:229‐233.  Phạm Văn Hùng (2006) ʺXây dựng tiêu chuẩn sức khỏe nhân  viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàuʺ. Đề tài NCKH cấp  Bộ GTVT.  Phạm Gia Khải, Nguyễn  Lân  Việt,  Phạm  Thái  Sơn,  Nguyễn  Ngọc  Quang,  Nguyễn  Thị  Bạch  Yến  và  cs  (2003)  ʺTần  suất  tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ ở các tỉnh phía Bắc Việt  Nam  năm  2001‐  2002ʺ.  Tạp  chí  Tim  mạch  học  Việt  Nam,  33,  (tháng 3/2003), tr 9‐34.  Phạm Nguyễn Vinh, Nguyễn Lân Việt, Trương Quang Bình,  Hồ  Thượng  Dũng,  Nguyễn  Thanh  Hiền,  Châu  Ngọc  Hoa,  Phạm  Thị  Kim  Hoa,  Đỗ  Quang  Huân,  Phạm  Mạnh  Hùng,  Phạm Thanh Phong, Bùi Hữu Minh Trí (2011) ʺNghiên Cứu  Quan  Sát  Điều  Trị  Bệnh  Nhân  Nhập  Viện  Do  Hội  Chứng

56

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

8.

11. Trần Văn Hương (2012) ʺẢnh hưởng của hành vi về lối sống  lên bệnh tăng huyết áp ở người trưởng thành tại huyện Ninh  Hải, tỉnh Ninh Thuận ʺ. Luận văn Chuyên khoa I YTCC, Đại họ  Y dược TP.HCM.

12. Viện Dinh dưỡng (2011), Đánh giá và phân loại tình trạng dinh  dưỡng  người  lớn,  http://viendinhduong.vn/news/vi/37/23/a/bang- phan-loai-bmi.aspx, truy cập ngày 15/6/2012.

9.

Động  Mạch  Vành  Cấpʺ.  Tạp  chí  Tim  mạch  học  Việt  Nam,  Hội  Tim mạch Việt Nam, 58, tr 12‐25.  Son PT, Quang NN, Viet NL, Khai PG, Wall S, Weinehall L,  Bonita  R,  Byass  P  (2012)  ʺPrevalence,  awareness,  treatment  and  control  of  hypertension  in  Vietnam‐results  from  a  national surveyʺ. J Hum Hypertens, 26, (4), 268‐80.  Tạ Ngọc Cầu (2008) ʺĐiều tra tần suất, các yếu tố nguy cơ và  các giải pháp chữa trị bệnh tăng huyết áp tại tỉnh Vĩnh Phúcʺ.  Đề tài NCKH cấp tỉnh.

13. WHO  (2004)  ʺAppropriate  body‐mass  index  for  Asian  populations  and  its  implications  for  policy  and  intervention  strategiesʺ. The Lancet, 363, 157‐163.

14. WHO  (2009)  Mortality  and  burden  of  disease  attributable  to

selected major risks, 9‐25.

10. Trần Thiện Thuần (2007) ʺHành vi và những yếu tố liên quan  đến tăng huyết áp ở người lớn tại Thành phố Hồ Chí Minhʺ.  Luận  án  Tiến  sĩ  Y  học,  Đại  học  Y  Dược  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh.

57

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

CÁC YẾU TỐ XàHỘI ẢNH HƯỞNG SỨC KHỎE TRẺ EM 6‐10 TUỔI   TẠI THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG NĂM 2011

Lê Hoàng Ninh*, Vương Thuận An*

TÓM TẮT

Đặt  vấn  đề: Sức khỏe trẻ em là một yếu tố hết sức quan trọng, đây cũng là một trong những chỉ số  đánh giá sự phát triển của một quốc gia. Đối với trẻ em từ 6‐10 tuổi thì các thói quen và hành vi xấu ảnh  hưởng đến sức khỏe chưa nhiều, cuộc sống của các em chủ yếu phụ thuộc vào cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng  trực tiếp về giáo dục, chu cấp, …và cả những tác động của môi trường xung quanh. Chính vì vậy, các yếu tố  ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ em có thể chính là bắt nguồn từ các điều kiện sống hay các yếu tố xã hội làm  ảnh hưởng, theo các nghiên cứu và tổng kết của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại nhiều quốc gia trên khắp  các Châu lục cho thấy các yếu tố xã hội ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe con người nhất là sức khỏe trẻ  em là: sự nghèo đói, giáo dục, điều kiện môi trường sống và khả năng tiếp cận y tế kém.

Mục  tiêu  nghiên  cứu:  Xác định các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em 6‐10 tuổi tại thành

phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng năm 2011.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang mô tả, cỡ mẫu được tính theo công thức ước

lượng một tỷ lệ và hệ số thiết kế k = 1.5.

Kết  quả:  Khảo  sát  được  thực  hiện  với  640  trẻ  và  cha,  mẹ  hoặc  người  nuôi  dưỡng  trực  tiếp  của  trẻ.  26,1% trẻ em có sức khỏe chưa tốt, 25,9% trẻ em có bệnh tật phát hiện qua quá trình khám bệnh tổng quát  tại trường. Qua kết quả nghiên cứu 11,4% trẻ em suy dinh dưỡng, 5,6% trẻ em bị thừa cân và 4,2% trẻ bị  béo phì. Có mối liên quan giữa tình hình ô nhiễm xung quanh nhà với tình hình bệnh tật của trẻ (p < 0,05,  PR=1,4), trẻ sử dụng nước máy và nước giếng có sức khỏe tốt hơn trẻ em sử dụng nước sông gấp 1,5 lần.  Trẻ em sinh sống trong những dạng nhà kiên cố như nhà gạch/ngói có khả năng giảm thiểu được bệnh tật  1,3 lần so với trẻ em sống trong nhà lá (p = 0,01).

Kết luận: Đời sống người dân tại thành phố Sóc Trăng đã có nhiều thay đổi và phát triển. Tuy nhiên,  vẫn còn rất nhiều yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe người dân nhất là đối tượng trẻ em như nguồn  nước, dạng nhà ở, tình trạng ô nhiễm, thu nhập kinh tế hộ gia đình thấp. Vì vậy, cần sự quan tâm cải thiện  không chỉ ở chính người dân, các bậc cha mẹ mà còn cần có sự giúp đỡ đưa vào hoạch định thành chính sách  của chính quyền địa phương.

Từ khóa: Các yếu tố xã hội ảnh hưởng sức khỏe, trẻ em

ABSTRACT

SOCIAL DETERMINANTS OF HEALTH STATUS OF CHILDREN AGED 6 ‐ 10 YEARS OLD   IN SOC TRANG CITY, 2011.

Le Hoang Ninh, Vuong Thuan An   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 58 - 64

Background: Children’s health is very important; it is one of the indicators of a country’s development.  Children  from  6‐10  years  old  do  not  have  many  bad  habits  that  affect  their  health.  Their  well‐being,

∗ Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng Tp.HCM  Tác giả liên lạc: CN. Vương Thuận An   ĐT: 0946260107   Email: benhnghenghiep@gmail.com

58

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  education  and  healthcare  are  taken  care of mainly by their parents or patrons. Therefore, factors that affect  their health can be the living conditions or other social determinants of health. Research of the World Health  Organization  (WHO)  in  different  countries  and  continents  show  that  the  major  social  determinants  of  children’s  health  are  poverty,  low  levels  of  education,  poor  environmental  sanitation,  and  limited  access  to  healthcare.

Objectives: To determine the effect of social determinants on health status of children in Soc Trang city.

Methods:  A  cross‐sectional  design  based  on  a  simple  random  sampling  was  applied,  with  design

coefficient k = 1.5.

Results:  A  survey  on  640  children  with  parents  or  caregivers  was  conducted.  The  proportion  of  children having poor health status account for 26.1%. Based on the results of general examination at school,  25.9% of children had diseases. Result of the BMI status of children showed that: 11.4% underweight, 5,6%  overweight, and 4.2% obesity. Results showed that there was a statistically significant relationship between  inadequate environmental  sanitation  and  children’s  health (the proportion of children in poor health status  in households with polluted surrounding is 1.4 times higher than that of households living in good sanitary  conditions (p < 0,05; OR=1.4). Children living in brick houses, apartment buildings, and tile‐roofed houses  have better health than children living in thatched houses (p<0.05). Children whose families using tap‐water  and well water reduced disease 1.5 times than children using water from river.

Conclusion:  Despite  much  improvement  in  living  standards  of  people  in  Soc  Trang,  there  are  still  several social factors that affect people’s health, especially that of children, such as sources of water, types of  housing,  levels  of  pollution  surrounding  their  houses,  income  level  of  households.  Efforts,  therefore,  are  required  of  not  only  the  people  themselves  and  parents  but  also  of  the  local  government,  to  integrate  improvement of children’s health into local policies and plans.

Keywords: social determinants of health, children.

ĐẶT VẤN ĐỀ

yếu  phụ  thuộc  vào  cha  mẹ  hoặc  người  nuôi  dưỡng  trực  tiếp  về  giáo  dục,  chu  cấp,  nuôi  dưỡng…và  cả  chăm  sóc  sức  khỏe.  Chính  vì  vậy,  các  yếu  tố  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  của  trẻ  em  có  thể  chính  là  bắt  nguồn  từ  các  điều  kiện  sống  hay  các  yếu  tố  xã  hội  làm  ảnh  hưởng. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều  nghiên  cứu  về  vấn  đề  này,  nhất  là  trên  đối  tượng  trẻ  em  từ  6‐10  tuổi,  lứa  tuổi  của  sự  chuyển  tiếp  và  tạo  đà  phát  triển  cho  các  giai  đoạn phát triển tiếp theo của cuộc đời.

Sức khỏe trẻ em là một yếu tố hết sức quan  trọng,  đây  cũng  là  một  trong  những  chỉ  số  đánh giá sự phát triển của một quốc gia.Ngay  từ những giai đoạn đầu đời khi trẻ từ 0‐5 tuổi,  trẻ  lứa  tuổi  tiểu  học  (6‐10  tuổi),  trẻ  lứa  tuổi  trung học cơ sở (11‐15 tuổi) trẻ được hỗ trợ tốt  để  phát  triển  đầy  đủ  về  cả  mặt  thể  chất  lẫn  tinh  thần  sẽ  là  nguồn  động  lực  mạnh  mẽ  cho  trẻ trong những giai đoạn tiếp theo và trong cả  cuộc đời.

Theo  các  nghiên  cứu  và  tổng  kết  của  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  (WHO)  tại  nhiều  quốc  gia  trên khắp các Châu lục cho thấy các yếu tố xã  hội  ảnh  hưởng  nhiều  nhất  đến  sức  khỏe  con  người nhất là sức khỏe trẻ em là: sự nghèo đói,  giáo dục, điều kiện môi trường, khả năng tiếp  cận y tế kém. Đối với trẻ em từ 6‐10 tuổi thì các  thói  quen  và  hành  vi  xấu  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  chưa  nhiều,  cuộc  sống  của  các  em  chủ

Thành  phố  Sóc  Trăng  là  một  thành  phố  vừa mới được thành lập của tỉnh Sóc Trăng, là  một thành phố đa dân tộc, ngoài dân tộc Kinh  chiếm 65,3%, người dân tộc ở đây cũng chiếm  khá  đông  như  người  Khmer  chiếm  28,9%,  người  Hoa  chiếm  5,9%...chính  vì  sự  đa  văn  hóa,  đa  truyền  thống  cũng  tạo  nên  sự  khác  nhau trong cách thức nuôi dưỡng và chăm sóc  con  cái  trong  mỗi  gia  đình.  Cơ  cấu  kinh  tế  chính của tỉnh cũng như thành phố Sóc Trăng

59

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

là  các  nhóm  bệnh  về  răng  hàm  mặt,  tai  mũi  họng,  da  liễu,  hô  hấp  và  các  bệnh  tật  do  học  đường  như:  cận  thị,  loạn  thị,  cong  vẹo  cột  sống….

Nghiên cứu Y học  là làm nông nghiệp và ngư nghiệp kết hợp với  một  số  dịch  vụ.  Kinh  tế  của  tỉnh  cũng  như  thành phố còn gặp nhiều khó khăn, giao thông  trong  tỉnh  còn  chưa  thuận  lợi  nhất  là  ở  các  huyện,  mức  độ  bao  phủ  và  tiếp  cận  với  y  tế  của  người  dân  còn  thấp.  Tất  cả  những  yếu  tố  trên có thể ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em từ  6‐10 tuổi tại đây.

Đặc tính về tình trạng của cha mẹ và sức  khỏe của trẻ  Bảng 2. Mối liên quan giữa tình trạng của cha mẹ  và sức khỏe của trẻ

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

p

Sức khỏe của trẻ Tốt Chưa tốt

Cắt ngang mô tả

Cỡ mẫu được tính theo công thức:

PR (KTC – 95%)

Bệnh tật của mẹ

p

p

)

n

Z

=

2

2 ( 1 −α

)

Có 25 (29,8%) 59 (70,2%) 0,4 1,2 (0,7-2,1) Không

( 1 − 2 d

Với  p  =  0,5;  d  =  0,05  và  hệ  số  thiết  kế  k  =

140 (25,5%) 410 (74,6%)

1,5, ta có N=640.

1 (25%) 3 (75%) 1 (33,3%) 2 (66,7%) 0,9 0 (0,0%) 0 (0,0%)

KẾT QUẢ

163 (26,0%) 464 (74,0%)

Thói quen Hút thuốc Uống rượu Hút thuốc và uống rượu Không hút thuốc, uống rượu

Tình hình sức khỏe của trẻ  Bảng 1. Tình trạng sức khỏe của trẻ (n=640)

Nghề nghiệp

Nông dân CNVC 21 (33,9%) 41 (66,1%) 24 (27,6%) 63 (72,4%) Doanh nhân 5 (29,4%) 12 (70,6%)

0,4

Buôn bán 38 (23,2%) 126 (76,8%) Công nhân 4 (11,4%) 31 (88,6%)

Thất nghiệp 56 (26,9%) 152 (73,1%)

BMI Bình thường Suy dinh dưỡng Thừa cân Béo phì Nhập viện năm vừa qua Có Không

Làm thuê Khác 13 (32,5%) 27 (67,5%) 4 (19,1%) 17 (80,9%) Học vấn Mù chữ 43 (34,4%) 82 (65,6%) 0,5 Cấp 1 12 (29,3%) 29 (70,7%)

0,09 Cấp 2 59 (25,7%) Bệnh tật Có Không Sức khỏe chung Tốt Chưa tốt

Tần số 504 73 36 27 114 526 166 474 473 167

Tỷ lệ % 78,8 11,4 5,6 4,2 17,8 82,2 25,9 74,1 73,9 26,1

0,01 Trên cấp 3 51 (21,4%)

Tỷ lệ trẻ có sức khỏe tốt trong nhóm bà mẹ  có học vấn cấp 3 và trên cấp 3 cao gấp 1,2 lần  so với tỷ lệ trẻ có sức khỏe tốt trong nhóm bà

Qua  khảo  sát  về  chỉ  số  khối  cơ  thể  (BMI)  của  trẻ  em  cho  thấy,  có  78,8%  trẻ  em  có  BMI  bình  thường,  trong  khi  đó  tồn  tại  song  song  tình trạng suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì  của  trẻ,  vẫn  còn  11,4%  trẻ  em  bị  suy  dinh  dưỡng,  tình  trạng  trẻ  em  bị  thừa  cân  và  béo  phì ở trẻ có tỷ lệ lần lượt là 5,6% và 4,2%. Qua  quá trình khám bệnh đã phát hiện có 25,9% trẻ  em 6‐10 tuổi có mắc các bệnh hoặc tật chủ yếu

1 1,1 (0,85 -1,36) 1,1 (0,97 -1,30) 1,2 (1,03- 1,40) Số con 1-2 con 171 (74,3%) 187 (78,6%) 397 0,3 134 (25,2%) (74,8%) 1,2 (0,83- 1,80) ≥ 3 con 31 (30,1%) 72 (69,9%)

60

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  mẹ  có  trình  độ  học  vấn  cấp  1,  với  p  =  0,01,  (KTC 95%: 1,03‐1,40).

thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ  trẻ  em  có  sức  khỏe  tốt  giữa  các  gia  đình  sử  dụng  nguồn  nước  mưa  (p  =  0,14)  hay  các  nguồn nước khác từ kênh rạch, ao, hồ (p = 0,1)  với tỷ lệ trẻ em khỏe mạnh trong các gia đình  sử dụng nguồn nước sông.

Điều kiện sống và sức khỏe của trẻ  Bảng 3. Mối liên quan giữa điều kiện sống và sức  khỏe của trẻ

Sức khỏe của trẻ PR (KTC

p

– 95%)

Tốt Chưa tốt

Bảng 4. Mối liên quan giữa điều kiện sống và bệnh  tật của trẻ

Ô nhiễm

p

0,06

116

Không

Bệnh tật của trẻ PR (KTC – 95%)

(24,2%) 1,1 (0,98-

Có Không

1,23) Có

Ô nhiễm

363 (75,8%) 110 (68,3%)

51 (31,7%)

Nguồn nước

Có 1,4 (1,10- 1,87) Nước sông 24 (51,1%) 23 (48,9%) Không <0,01 Nước giếng 55 (74,3%) 19 (25,7%) 0,02

77 (47,8%) 172 (35,9%)

84 (52,2%) 307 (64,1%)

Nguồn nước

Nước máy <0,05 357 (76,8%) 108 (23,2%) Nước sông 1 0,14 Nước mưa 26 (66,7%) 13 (33,3%) Nước giếng <0,01 0,08 Khác 11 (73,3%) 4 (26,7%) Nước máy <0,01 Dạng nhà ở 1 1,5 (1,06- 1,98) 1,5 (1,13- 1,99) 1,3 (0,91- 1,86) 1,4 (0,94- 2,17) Nước mưa <0,01 Nhà gạch/ngói 35 (74,5%) 27 (36,5%) 165 (35,5%) 17 (43,6%)

367 (75,8%)

Khác 5 (33,3%) 0,03

0,5 (0,34- 0,69) 0,5 (0,38- 0,58) 0,6 (0,39- 0,86) 0,4 (0,21- 0,93) 12 (25,5%) 47 (63,5%) 300 (64,5%) 22 (56,4%) 10 (66,7%)

117 (24,2%) Nhà chung cư 18 (75,0%) 6 (25,0%) 85 (66,9%) 42 (33,1%) 3 (60,0%) 2 (40,0%)

Dạng nhà ở 0,2 Nhà lá 1

130

59 (46,5%) Thường trú (24,3%) 1,1 (1,02 - Nhà lá Nhà sàn Tình trạng cư trú 405 (75,7%) 0.02 1,20) Nhà chung cư 8 (33,3%) 0,2 68 (64,8%) 37 (35,2%)

Nhà gạch/ ngói 0,04 180 (37,2%) 68 (53,5%) 16 (66,7%) 304 (62,8%) 104 > 12 m2 0,7 Nhà sàn 2 (40,0%) 3 (60,0%) 0,03 (23,6%) 1,2 (1,02 – 1,30) ≤ 12 m2 63 (31,7%) Tạm trú Không gian sống 337 (76,4%) 136 (68,3%) Tình trạng cư trú 0,7 (0,39- 1,30) 0,8 (0,64- 0,90) 0,8 (0,28- 2,56)

Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  tình hình ô nhiễm xung quanh nhà ở của trẻ và  tình hình bệnh tật của trẻ với p < 0,01; PR= 1,4  (KTC95%: 1,10‐1,87). Tỷ lệ bệnh tật của những

Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  nguồn nước gia đình sử dụng và tình hình sức  khỏe của trẻ với p = 0,03. Trong đó, tỷ lệ trẻ em  có sức khỏe tốt tại các gia đình sử dụng nước  máy nhiều gấp 1,5 lần so với tỷ lệ trẻ em có sức  khỏe tốt tại các gia đình sử dụng nước sông (p  < 0,05, KTC 95%: 1,13‐1,99). Tương tự như vậy  ta thấy tỷ lệ có sức khỏe tốt của những trẻ em  trong các gia đình sử dụng nguồn nước giếng  cao gấp 1,5 lần so với tỷ lệ trẻ em có sức khỏe  tốt  trong  các  gia  đình  sử  dụng  nguồn  nước  sông (p = 0,02, KTC 95%: 1,06‐1,98). Không tìm

341 Thường trú (63,7%) 0,8 (0,82- 0,01 0,96) Tạm trú 194 (36,3%) 55 (52,4%) Không gian sống 50 (47,6%) 104 > 12 m2 (23,6%) 1,2 (1,02 – 0,03 1,30) ≤ 12 m2 63 (31,7%) 337 (76,4%) 136 (68,3%)

61

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  trẻ  em  có  nhà  ở  bị  ô  nhiễm  xung  quanh  nhà  cao gấp 1,4 lần so với những trẻ em sống trong  nhà xung quanh không có tình trạng ô nhiễm.

đình  rất  nghèo  với  p  =  0,01,  KTC  95%  (1,11‐ 2,39). Bên cạnh đó, có sự khác biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  tỷ  lệ  trẻ  em  không  có  bệnh  tật  trong các gia đình kinh tế trung bình và các gia  đình kinh tế rất nghèo (p = 0,01). Điều này cho  thấy  tỷ  lệ  trẻ  em  không  có  bệnh  tật  trong  các  gia đình có kinh tế trung bình cao gấp 1,5 lần  so với tỷ lệ trẻ em không có bệnh tật trong các  gia đình rất nghèo.

Bảng 6. Mối liên quan giữa chăm sóc y tế và bệnh  tật của trẻ

p

95%)

Tỷ lệ trẻ em có bệnh tật tại các gia đình sử  dụng nguồn nước máy và nước giếng có tỷ lệ  bệnh tật giảm 2 lần (p < 0,01) so với tỷ lệ trẻ em  có  bệnh  tật  tại  các  gia  đình  sử  dụng  nguồn  nước sông. Tỷ lệ trẻ em có bệnh tật tại các gia  đình  sử  dụng  nguồn  nước  mưa  và  nước  khác  (ao,  hồ)  có  tỷ  lệ  bệnh  tật  giảm  lần  lượt  là  1,7  lần (p < 0,00) và 2,5 lần (p = 0,03) so với tỷ lệ trẻ  em có bệnh tật tại các gia đình sử dụng nguồn  nước sông.

Tốt

0,2 1,64)

BHYT Không Có

Sức khỏe của trẻ PR (KTC – Chưa tốt 44 (29,9%) 103 (70,1%) 1,2 (0,89- 123 (25,0%) 370 (75,0%)

Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  không gian sống và tình hình bệnh tật của trẻ  với p = 0,02. Điều này cho thấy tỷ lệ trẻ em có  bệnh tật sống trong các gia đình có không gian  sống <12 m2 cao gấp 1,2 lần so với tỷ lệ trẻ em  có  bệnh  tật  sống  trong  các  gia  đình  có  không  gian sống ≥ 12 m2

0,9 Nơi khám chữa bệnh

CSYT công 74 (24,8%) 225 (75,2%) 70 (26,8%) 191 (73,2%) 11 (28,9%) 27 (71,1%) 5 (29,4%) 12 (70,6%) 7 (28,0%) 18 (72,0%) CSYT tư Tự chữa CS YHCT Không chữa

Bảng 5. Mối liên quan giữa kinh tế gia đình và  bệnh tật của trẻ

p

Điều kiện học tập và sức khỏe của trẻ:  Bảng 7. Mối liên quan giữa điều kiện và sức khỏe  của trẻ

TNHT của mẹ

p

0-800.000 đ (41,8%) 1,2 (0,86- 0,2 1,71) > 800.000 đ

0,02

Sức khỏe của trẻ PR (KTC – 95%) Tốt Chưa tốt 74

Có (65,5%) 1,5 (1,06-

Bệnh tật của trẻ PR (KTC – 95%) Có Không 97 135 (58,2%) 253 (62,9%)

149 (37,1%)

TNHT của cha

2,10) Không 14

Áp lực học tập 39 (34,5%) 128 (24,3%)

399 (75,7%) 0-800.000 đ (29,8%) 0,6 (0,30- 0,2 1,30) > 800.000 đ 33 (70,2%) 353 (60,9%) 226 (39,1%) 8 (29,6%) 1,6 (1,11- Giàu 0,01

Qua khảo sát cho thấy có mối liên quan có  ý nghĩa thống kê giữa tình trạng áp lực học tập  (được trẻ cảm nhận) và tình hình sức khỏe của  trẻ  (p  =  0,02),  tỷ  lệ  trẻ  có  sức  khỏe  chưa  tốt  trong  nhóm  trẻ  có  áp  lực  học  tập  cao  gấp  1,5  lần  so  với  nhóm  trẻ  không  có  áp  lực  học  tập,  với KTC95%: 1,06‐2,10.

Khá 0,09

Trung bình 0,01

BÀN LUẬN

Nghèo 0,02 2,39) 1,3 (0,95- 1,86) 1,5 (1,09- 2,02) 1,5 (1,06- 2,03)

Khảo sát về chỉ số BMI của trẻ cho thấy tỷ  lệ suy dinh dưỡng của trẻ em 6‐10 tuổi vẫn còn  ở  mức  cao  11,4%,  tuy  nhiên  tình  trạng  thừa  cân,  béo  phì  của  trẻ  xuất  hiện  khá  cao  (5,6%  thừa cân  và  4,2%  béo  phì).  Điều  này  cho  thấy

Tỷ  lệ  trẻ  em  không  có  bệnh  tật  trong  các  gia đình có kinh tế giàu cao gấp 1,6 lần so với  tỷ  lệ  trẻ  em  không  có  bệnh  tật  trong  các  gia

Rất nghèo 1 Tình trạng kinh tế 19 (70,4%) 69 (57,5%) 191 (64,1%) 87 (63,5%) 25 (43,1%) 51 (42,5%) 107 (35,9%) 50 (36,5%) 33 (56,9%)

62

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  tình trạng suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì  ở  trẻ  em  đang  trở  thành  “gánh  nặng  kép”  không chỉ ở các đô thị lớn như Thành phố Hồ  Chí Minh, Hà Nội mà còn ở những đô thị mới  như thành phố Sóc Trăng.

sông  hoặc  ở  những  khu  xa  trung  tâm,  hoặc  chưa có điều kiện kinh tế đầy đủ để có thể sử  dụng  được  nguồn  nước  máy.  Các  bệnh  từ  nguồn ô nhiễm nước gây ra là bệnh tiêu chảy,  hội  chứng  lỵ,  các  bệnh  về  da,  viêm  kết  mạc(4).  Chính  vì  vậy,  khuyến  khích  và  tạo  điều  kiện  cho người dân nhất là trẻ em tiếp cận được với  nguồn nước sạch là một điều hết sức cần thiết  giúp giảm thiểu bệnh tật và nâng cao sức khỏe  cho trẻ em.

Qua kết quả khám bệnh cho thấy tỷ lệ các  em mắc các bệnh hoặc tật khá cao là 38,9% với  nhiều loại bệnh/tật như: tai mũi họng, da liễu,  răng hàm mặt, bệnh về mắt. Hiện  nay  trên  cả  nước  chưa  có  số  liệu  thống  kê  về  tình  hình  bệnh tật cũng như mô hình bệnh tật của trẻ em  nói chung và trẻ em lứa tuổi tiểu học nói riêng.  Tuy  nhiên,  gần  đây  Bộ  Y  tế  và  Bộ  Giáo  dục  –  Đào  tạo  vừa  ban  hành  thông  tư  liên  tịch  số  18/2011/TTLT‐BGDĐT‐BYT  ngày  28/4/2011  về  việc  đánh  giá  công  tác  tổ  chức  y  tế  tại  trường  học có quy định nhà trường phải tổ chức khám  sức  khỏe  định  kỳ  cho  các  em  học  sinh,  cho  thấy các vấn đề sức khỏe của trẻ em ngày càng  được quan tâm hơn, được tổ chức thăm khám  quy  mô  hơn,  nghiêm  túc  hơn  và  có  sự  giám  sát.

Trẻ  em  sinh  sống  trong  những  dạng  nhà  kiên  cố  như  nhà  gạch/ngói  có  khả  năng  giảm  thiểu được bệnh tật 1,3 lần so với trẻ em sống  trong nhà lá (p = 0,01). Những loại hình nhà lá  này  không  được  xây  dựng  bằng  những  vật  liệu  vững  chắc  và  bền,  thiếu  an  toàn  và  chật  chội. Sống trong các loại hình nhà ở này trẻ em  có  thể  đối  mặt  với  những  mối  nguy  về  sức  khỏe như có thể bị các loại côn trùng cắn, đốt  dẫn đến các bệnh như sốt xuất huyết, các bệnh  ngoài  da...  Bên  cạnh  đó  những  ngôi  nhà  này  thường  thiếu  các  điều  kiện  sinh  hoạt  dù  là  cơ  bản  nhất  như  nguồn  nước  sạch  để  sử  dụng,  điện  để  sinh  hoạt,  nhà  vệ  sinh  đủ  tiêu  chuẩn.  Tất cả những yếu tố này đều có thể ảnh hưởng  đến sức khỏe của các em vì vậy, tạo được cho  trẻ em sống trong một ngôi nhà bền chắc và an  toàn  sẽ  tạo  điều  kiện  rất  nhiều  cho  sự  phát  triển của trẻ.

Qua khảo sát cho thấy có đến 25,2% hộ gia  đình  phải  sống  gần  các  nguồn  ô  nhiễm  xung  quanh nhà như ô nhiễm sông ngòi, kênh rạch,  bãi rác thải. Gần nguồn ô nhiễm môi trường có  thể gây ra bệnh tật cho sức khỏe con người mà  trong  đó  đối  tượng  nhạy  cảm  nhất  là  trẻ  em.  Theo  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới,  ô  nhiễm  môi  trường, ô nhiễm về nguồn nước, các điều kiện  vệ sinh kém, ô nhiễm do các chất độc hại, các  véc ‐ tơ truyền bệnh… là các nguy cơ chính từ  môi  trường  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  trẻ  em(2)(3).

Khảo  sát  cho  thấy  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa thống kê giữa tình hình bệnh tật của trẻ  được  khảo  sát  và  tình  trạng  kinh  tế  của  gia  đình,  trẻ  em  sống  trong  các  gia  đình  giàu  có  hoặc  trung  bình  có  thể  giảm  thiểu  được  bệnh  tật lần lượt là 1,6 và 1,5 lần so với trẻ em sống  trong các gia đình rất nghèo (p < 0,05) (bảng 5).  Trẻ em sống trong các gia đình nghèo khó chịu  rất nhiều thiệt thòi trong chăm sóc y tế, có thể  cha  mẹ  bận  làm  việc  kiếm  tiền  không  có  thời  gian chăm sóc sức khỏe cho các em, không có  điều kiện cho các em đi khám bệnh thường kỳ  để  phát  hiện  bệnh  tật,  hoặc  cả  khi  biết  trẻ  em  bị  mắc  bệnh  thì  điều  kiện  về  kinh  tế  cũng  không  cho  phép  chữa  trị  cho  các  em  đến  nơi

Về vấn đề nguồn nước sử dụng sinh hoạt,  nghiên  cứu  cho  thấy  có  72,7%  số  trẻ  em  tại  thành phố Sóc Trăng được sử dụng nước máy.  Điều này cho thấy tỷ lệ bao phủ nước máy đã  được  thành  phố  Sóc  Trăng  chú  trọng.  Tuy  nhiên  vẫn  còn  những  hộ  gia  đình  sử  dụng  những  nguồn  nước  khác  như  nước  sông  (7,3%), nước giếng (11,6%) và các nguồn nước  khác  như  nước  kênh  rạch  trong  sinh  hoạt  và  ăn  uống,  đa  số  những  hộ  gia  đình  này  ở  ven

63

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

tượng phụ nữ để họ có thêm thu nhập cho bản  thân và gia đình.

Nâng cao trình độ học vấn cho người phụ  nữ  để  họ  có  kiến  thức  chăm  sóc  tốt  cho  con  nhất là trong chăm sóc y tế.

Nghiên cứu Y học  đến  chốn.  Chính  vì  vậy,  hỗ  trợ  cho  các  em  nghèo  được  khám  chữa  bệnh  miễn  phí  hoặc  miễn  giảm  là  tạo  điều  kiện  giúp  trẻ  em  có  được  tình  trạng  sức  khỏe  tốt  hơn,  nhất  là  đối  với  trẻ  em  trong  những  giai  đoạn  phát  triển  đầu đời.

KIẾN NGHỊ

Từ  những  kết  quả  của  nghiên  cứu,  chúng  tôi  đưa  ra  những  khuyến  nghị  sau  để  góp  phần cải thiện chất lượng cuộc sống, cải thiện  tình  trạng  sức  khỏe  của  trẻ  em  6‐10  tuổi  tại  thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

Tăng  cường  công  tác  y  tế  tại  trường  học:  mỗi trường nên có 1 đơn vị y tế trường học có  cán  bộ  làm  công  tác  y  tế  riêng  không  kiêm  nhiệm,  để  khám  chữa  bệnh  kịp  thời  cho  học  sinh, kiểm tra khám sức khỏe định kỳ cho học  sinh mỗi năm để phát hiện bệnh tật cũng như  tình hình sức khỏe của học sinh. Hỗ trợ cho trẻ  em  6‐10  tuổi  trong  vấn  đề  chăm  sóc  răng  miệng  tại  trường,  phòng  chống  các  bệnh  như  các  bệnh  về  mắt,  tai  mũi  họng,  răng  miệng,  bệnh về da….

Thành  phố  Sóc  Trăng  cần  cải  thiện  chất  lượng dạng nhà ở cho những trẻ em đang sống  trong  những  hộ  gia  đình  cư  ngụ  tạm  bợ  tại  những ngôi nhà thiếu kiên cố như nhà lá, nhà  chòi.

Thông  báo  cho  các  bậc  phụ  huynh  biết  về  tình trạng dinh dưỡng của con cái, nhất là đối  với  những  trẻ  đang  mất  cân  bằng  trong  tình  trạng  dinh  dưỡng  (suy  dinh  dưỡng  và  thừa  cân‐béo phì), và tư vấn dinh dưỡng hợp lý nếu  cần.

Chính  quyền  địa  phương  và  phụ  huynh  cần  chủ  động  phát  hiện  nguồn  ô  nhiễm  và  có  biện  pháp  ngăn  ngừa  ô  nhiễm  môi  trường  xung quanh nhà, nhất là các nguồn ô nhiễm từ  rác thải, cống rãnh, nước sông, kênh rạch…

TÀI LIỆU THAM KHẢO   1.

2.

Cục  Y  tế  dự  phòng  Việt  Nam,  UNICEF  (2007).  Tóm  tắt  điều tra thực trạng vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân  ở nông thôn Việt Nam.  Tạp chí chính sách y tế (2008), “Điều kiện vệ sinh kém ảnh  hưởng đến cuộc sống của trẻ em nông thôn Việt Nam”  3. World Health Organization Western Pacific Region (2004),  “Reaching  the  poor  challenges  for  TB  programmes  in  the  Western Pacific Region”

Thành phố Sóc Trăng cần khuyến khích và  tạo  điều  kiện  cho  người  dân  được  sử  dụng  nguồn  nước  sạch  trong  sinh  hoạt  như  nước  máy  từ  hệ  thống  thủy  cục,  đối  với  những  hộ  gia đình sử dụng nguồn nước sông trong sinh  hoạt  thì  hướng  dẫn  họ  các  biện  pháp  ăn  chín  uống sôi, và khử khuẩn nguồn nước trước khi  sử dụng để phòng ngừa bệnh tật.

4. World Health Organization Western Pacific Region (2006),  health

Poverty

gender

into

and

“Intergrating  programmes”.

Tăng nguồn thu nhập kinh tế hộ gia đình,  tạo  thêm  công  ăn  việc  làm,  nhất  là  cho  đối

64

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HÀNH VI PHÒNG NGỪA ĐUỐI NƯỚC CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ  DƯỚI 11 TUỔI TẠI HUYỆN AN PHÚ – TỈNH AN GIANG NĂM 2011

Nguyễn Ngọc Duy*, Lê Hoàng Ninh*, Nguyễn Thị Linh Đơn*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đuối nước là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em trên thế giới và ở  Việt Nam. Trong các yếu tố nguy cơ liên quan đến đuối nước trẻ em thì hành vi phòng ngừa đuối nước của ba  mẹ hoặc những người thân trong gia đình trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng. Đã có nhiều nghiên cứu trên thế  giới tìm hiểu về các hành vi này, tuy nhiên tại Việt Nam việc nghiên cứu vẫn còn chưa được quan tâm đúng  mức.

Mục tiêu: Mô tả hành vi phòng ngừa đuối nước ở người chăm sóc trẻ dưới 11 tuổi tại huyện An Phú tỉnh

An Giang năm 2011.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả trên 453 người chăm sóc trẻ dưới 11 tuổi tại huyện An Phú  tỉnh An Giang từ tháng 7‐8/2011. Sử dụng phương pháp lấy mẫu cụm hai bậc để chọn mẫu và bộ câu hỏi soạn  sẵn để thu thập số liệu.

Kết quả: Một số hành vi phòng ngừa có tỷ lệ thực hiện còn thấp (làm rào chắn khu vực sông nước: 27%;  hành vi phòng ngừa khi bận việc nhà: 28,3%; mặc áo phao cho trẻ: 39%). Giữa hành vi phòng ngừa và các yếu tố  như kiến thức, tuổi người chăm sóc, dân tộc, giới tính người chăm sóc, mối quan hệ với trẻ, tuổi trẻ, và kiến thức  về đuối nước có mối liên quan có ý nghĩa thống kê ( p < 0,05).

Kết luận: Cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu mối liên hệ giữa hành vi phòng ngừa và các  yếu tố liên quan đồng thời tăng cường công tác giáo dục truyền thông phòng ngừa đuối nước nhằm nâng cao  kiến thức của người chăm sóc trẻ.

Từ khóa: đuối nước, hành vi phòng ngừa, người chăm sóc

ABSTRACT

THE DROWNING PREVENTIVE BEHAVIOUR OF CAREGIVERS OF CHILDREN UNDER 11 YEARS  OLD IN AN PHU DISTRICT, AN GIANG PROVINCE IN 2011.

Nguyen Ngoc Duy, Le Hoang Ninh, Nguyen Thi Linh Don

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 65 ‐ 72

Background: Drowning is one of leading causes of death in children all over the world including Vietnam.  Of  factors  related  to  drowning,  the  drowning  preventive  behaviour  of  caregivers  in  family  is  particularly  important. Although there have been many worldwide researches conducted to study the preventive behaviour of  caregivers, the understanding of these kinds of behaviour is still limited in Vietnam.

Objectives: Describe the drowning preventive behaviour of caregivers of children under 11 years old in An

Phu district, An Giang province in 2011.

Methods: A cross‐sectional study was conducted on 453 caregivers who took care of children under 11 years  old from July to August 2011 in An Phu district, An Giang province. Cluster sampling was applied to choose the  sample and structured questionnaire was used to collect data.

Result:  Respondents  had  a  low  percentage  of  doing  some  drowning  preventive  behaviours  (making  fence  around  the  part  of  house  adjacent  to  river  water:  27%;  doing  preventive  behaviour  when  doing  houseworks:

∗ Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Ngọc Duy

ĐT: 0908929001

Email: duyngocnguyen1982@gmail.com

65

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  28.3%;  putting  life‐jacket  for  children:  39%).  There  were  statistical  significant  associations  between  some  drowning  preventive  behaviours  and  potential  factors  such  as  knowledge  of  drowning  prevention,  age  of  caregivers, ethnic, sex, the relationship with children, age of children, and knowledge of drowning prevention.

Conclusion: It is neccessary to conduct further studies to investigate the relationships between these kinds  of behaviour and potential factors. Moreover, local health preventive center should enhance health promotion and  education on drowning prevention so that the knowledge of people on this isue could be improved.

Keywords: drowning, drowning preventive behaviour, knowledge of drowning prevention, caregivers

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả  trên đối tượng là người chăm sóc trẻ dưới 11 tuổi  tại huyện An Phú tỉnh An Giang năm 2011.

Cỡ mẫu được tính theo công thức

p

p

)

1( −

n = Z2(1‐α/2)

2

d

Trên  thế  giới  đuối  nước  là  một  trong  những  nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em.(12,13)  Riêng  tại  Việt  Nam,  kết  quả  một  cuộc  khảo  sát  của  trường  Đại  Học  Y  Tế  Công  Cộng  Hà  Nội  được tiến hành trên toàn quốc vào năm 2001 cho  thấy tỷ lệ chết đuối ở trẻ em là 39,2/100.000 tương  đương 12.500 ca chết đuối. Tỷ lệ này cao gấp 10  lần so với các nước phát triển(8,9,10).

Trong các yếu tố nguy cơ liên quan đến đuối  nước  trẻ  em  thì  hành  vi  phòng  ngừa  đuối  nước  của ba mẹ hoặc những người thân trong gia đình  trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng. Đã có nhiều  nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng chết đuối trẻ  em đa phần là do cha mẹ hoặc người thân không  thực hiện các hành vi phòng ngừa này(6,11,4,7).

p được chọn là 0,23. Đây là tỷ lệ làm rào chắn  của các hộ gia đình có trẻ < 5 tuổi trong nghiên  cứu của Đặng Văn Chính và cộng sự(1). Với độ tin  cậy  là  95%  thì  Z1‐α/2 =  1,96.  Độ  chính  xác  (sai  số  cho phép) d= 0,05. Nhân với hệ số thiết kế là 1,4.  Như vậy n = 384. Tăng 20% cỡ mẫu trù liệu cho  những số liệu bị sai sót, những trường hợp từ chối  trả lời hoặc vắng mặt. Như vậy tổng số mẫu cần  thu thập là n = 384 x 120% = 461 người.

Sử  dụng  phương  pháp  lấy  mẫu  cụm,  mỗi  cụm  là  một  ấp,  chọn  30  cụm,  tương  ứng  30  ấp.  lập  danh  sách  các  hộ  có  trẻ  dưới  11  tuổi  trong  tất cả các ấp rồi chọn theo phương pháp PPS để  có  được  danh  sách  30  ấp.  Với  cỡ  mẫu  là  461,  chia đều cho 30 ấp được chọn. Như vậy, mỗi ấp  được chọn sẽ điều tra 15 hoặc 16 hộ gia đình có  con dưới 11 tuổi.

Tuy nhiên tại  Việt  Nam,  việc  nghiên  cứu  về  hành  vi  phòng  ngừa  ở  người  chăm  sóc  trẻ  vẫn  chưa được quan tâm đúng mức. Các nghiên cứu  về  đuối  nước  thường  tập  trung  vào  các  yếu  tố  dịch tễ học đuối nước trẻ em hơn là các hành vi  phòng  ngừa  của  người  chăm  sóc(2,3,5).  Điều  này  cho  thấy  cần  phải  có  một  nghiên  cứu  mô  tả  chi  tiết, đầy đủ hơn về các hành vi phòng ngừa đuối  nước ở người chăm sóc trẻ và đó cũng là mục đích  chính của nghiên cứu này.

Phỏng  vấn  trực  tiếp  mặt  đối  mặt  với  đối  tượng  điều  tra  để  thu  thập  thông  tin  bằng  bộ  câu hỏi đóng.

Nghiên  cứu  được  triển  khai  tại  huyện  An  Phú  tỉnh  An  Giang  là  một  huyện  thường  ngập  nặng vào mùa lũ và số ca chết đuối cũng khá cao  so  với  các  huyện  khác  của  tỉnh.  Như  vậy,  việc  khảo  sát  các  thông  tin  liên  quan  đến  hành  vi  phòng ngừa của người chăm sóc trẻ tại An Phú sẽ  có khả năng cho kết quả chính xác và có ý nghĩa  hơn.

Sử  dụng  phần  mềm  Epidata  3.1  để  nhập  liệu và phần mềm Stata 10 để phân tích số liệu.  Để mô tả đơn biến đối với các hành vi phòng  ngừa,  đặc  tính  người  chăm  sóc,  đặc  tính  trẻ  v.v, sử dụng bảng phân phối  tần  suất.  Để  mô  tả mối quan hệ giữa hai biến, sử dụng bảng 2 x  2 để trình bày phân bố tỷ lệ đồng thời sử dụng  phép kiểm chi bình phương để kiểm định mối

66

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  liên  quan  và  tính  PR  (KTC  95%)  để  đo  lường  mức độ quan hệ giữa hai biến.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

đọc,  biết  viết  cũng  cao  chiếm  đến  18,5%.  Điều  này  gợi  ý  trình  độ  học  vấn  của  người  dân  tại  huyện An Phú vẫn chưa cao và điều này có thể  ảnh hưởng trực tiếp đến kiến thức và hành vi của  họ trong việc phòng ngừa đuối nước trẻ em.

Đặc tính Tuổi

Các  yếu  tố  liên  quan  đến  hành  vi  phòng  ngừa đuối nước  Bảng 1: Các đặc tính của người chăm sóc (n = 453)  Tỷ lệ (%)

Đặc tính Tần số

18-27 123 27,2

Tuổi

Giới tính

28-37 159 35,1 38-47 79 17,4

Bảng 2: Đặc tính của trẻ (n = 453)  Tần số 192 184 77 241 212

Giới tính

Dân tộc

48-57 49 10,8 Tỷ lệ (%) 42,4 40,6 17,0 53,2 46,8 17,2 78 < 5 tuổi 5-<9 tuổi 9-11 tuổi Nam Nữ Biết bơi lội 58-70 43 9,5 Nam 48 10,6

Nữ Kinh Hoa Chăm Không biết đọc, biết viết Cấp I 405 438 2 13 84 202 89,4 96,7 0,4 2,9 18,5 44,6 Cấp II 120 26,5 Trình độ học vấn 39 8,6 Cấp III Đại học/CĐ/TC 6 1,3 Sau đại học 2 0,4

Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ trẻ < 5 tuổi là  cao nhất (42,4%) và nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ  (53,2% so với 46,8%). Điều này cho thấy dân số  trẻ  dưới  11  tuổi  của  huyện  An  Phú  đa  phần  thuộc  nhóm  nguy  cơ  cao  dễ  bị  đuối  nước  vì  nhiều nghiên cứu đã chứng minh được rằng trẻ  <  5  tuổi  và  trẻ  nam  là  hai  trong  nhiều  yếu  tố  nguy  cơ  cao  dẫn  đến  tử  vong  do  đuối  nước  ở  trẻ.(12,13). Ngoài ra dân số trẻ dưới 11 tuổi tại An  Phú có thêm một yếu tố nguy cơ khác, đó chính  là không biết bơi lội khi tỷ lệ biết bơi của trẻ chỉ  có 17,2%.

Nông dân 101 22,3

Nghề nghiệp

Bảng 3: Kiến thức về phòng ngừa đuối nước trẻ em  (n = 453)

Kiến thức Tần số Tỷ lệ (%) Buôn bán Công nhân Cán bộ, viên chức Nội trợ Lao động phổ thông 79 4 10 116 143 17,4 0,9 2,2 25,6 31,6 Cha/mẹ 356 78,6 426 94 Mối quan hệ với trẻ Ông/bà Khác 87 10 19,2 2,2 410 90,5 Biết bơi lội 401 88,5

393 86,7 Kiến thức về các tình huống nguy cơ dẫn đến đuối nước Biết trẻ không biết bơi dễ bị đuối nước Biết trẻ chơi đùa gần sông/ao/kênh/rạch dễ bị đuối nước Biết trẻ chơi đùa gần các dụng cụ chứa nước không có nắp đậy dễ bị đuối nước

406 89,6

Biết trẻ không mặc áo phao khi đi thuyền/ghe/phà dễ bị đuối nước Kiến thức về độ tuổi dễ bị đuối nước nhất

194 42,8 Biết độ tuổi từ 0-5 tuổi dễ bị đuối nước

440 97,1

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  đa  số  người  chăm sóc có độ tuổi từ 18‐37 (62,3%). Tỷ lệ này  tương  tự  nghiên  cứu  của  Đặng  Văn  Chính  và  cộng sự với tỷ lệ đối tượng có độ tuổi từ 18‐39 là  74%(1). Tỷ lệ mẫu có độ tuổi còn trẻ cao là do đa  số người chăm sóc là cha mẹ của trẻ và làm các  công  việc  tại  nhà  nên  tỷ  lệ  tham  gia  là  rất  cao.  Điều  này  được  chứng  minh  qua  tỷ  lệ  người  tham  gia  phỏng  vấn  là  cha  mẹ  trẻ  chiếm  đến  78,6%, tỷ lệ lao động phổ thông tại nhà là 31,6%.  Về  trình  độ  học  vấn,  các  đối  tượng  học  cấp  I  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  là  44,6%,  tỷ  lệ  không  biết

439 96,9 Kiến thức về các biện pháp phòng ngừa đuối nước Biết là cần đi theo và quan sát trẻ chơi gần sông/ao/kênh/rạch Biết là cần làm nắp đậy chắc chắn các dụng cụ chứa nước

67

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Kiến thức Tần số Tỷ lệ (%)

422 93,2

410 90,5

433 95,6

làm rào chắn cũng rất thấp chỉ 27% cho thấy việc  làm rào chắn của người dân vì một số lý do như  tập  quán  sinh  sống,  thiếu  tài  chính  v.v…  vẫn  chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ người có  hành vi phòng ngừa khi bận công việc nhà, tức  là khi làm việc nhà thì nhờ người khác trông hộ  trẻ, cũng thấp chỉ đạt 28,3%. Đa số người chăm  sóc  đều  vừa  làm  vừa  chăm  sóc  trẻ.  Đây  là  một  quan niệm sai lầm vì hầu như các ca chết đuối ở  trẻ em là do cha mẹ bận việc làm và không quan  tâm  trẻ.  Tỷ  lệ  mặc  áo  phao  cho  trẻ  của  người  chăm sóc cũng không cao chỉ đạt 39%. Kết quả  có  thể  lý  giải  bằng  nhiều  lý  do  như  thiếu  tài  chính nên các ghe/thuyền/phà không trang bị áo  phao,  không  có  thói  quen  mặc  áo  phao  khi  đi  ghe/thuyền/phà. Để làm rõ lý do không mặc áo  phao cần tiến hành thêm các nghiên cứu cụ thể.

Biết là cần đi với trẻ đến trường trong mùa mưa, lũ Biết là cần mặc áo phao/vật nổi cho trẻ khi đi thuyền/ghe/phà Biết là cần tập bơi cho trẻ Kiến thức về cách thức sơ cấp cứu đuối nước Biết cách thức thực hiện sơ cấp cứu đuối nước 132 29,1

Mối liên quan giữa hành vi phòng ngừa đuối

Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết các đối  tượng tham gia nghiên cứu đều có kiến thức liên  quan  đến  đuối  nước  khá  cao.  Tuy  nhiên  kiến  thức về độ tuổi trẻ dễ bị đuối nước nhất lại thấp,  chỉ có 42,8% đối tượng biết đó là độ tuổi từ 0‐5  tuổi. Ngoài ra kiến thức về sơ cấp cứu đuối nước  rất thấp chỉ đạt 29,1%. Như vậy có thể thấy kiến  thức của người chăm sóc trẻ về sơ cấp cứu và độ  tuổi dễ đuối nước còn thấp cần phải có các biện  pháp can thiệp nhằm nâng cao kiến thức này.

nước và các yếu tố liên quan

Các  hành  vi  phòng  ngừa  đuối  nước  của  người chăm sóc trẻ  Bảng 4: Hành vi phòng ngừa đuối nước của người  chăm sóc trẻ (n = 453)

Nghiên  cứu  cũng  tìm  hiểu  mối  liên  quan  giữa  các  hành  vi  phòng  ngừa  đuối  nước  của  người chăm sóc với các đặc tính của người chăm  sóc,  đặc  tính  của  trẻ  và  kiến  thức  có  liên  quan  đến hành vi phòng ngừa đó.

Qua khảo sát, giữa hành vi làm rào chắn và  các yếu tố vừa nêu trên không có mối liên quan  có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Hành vi Có Tần số Tỷ lệ (%)

77 357 383 128 27 87,1 84,5 28,3

66 39

424 94

453 92

*: Số đối tượng có nhà gần ao/sông/kênh/rạch

Giữa hành vi đậy nắp dụng cụ chứa nước và  các đặc tính người chăm sóc, đặc tính trẻ không  có mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên  giữa hành vi này và kiến thức về đậy nắp chắc  chắn các dụng cụ chứa nước có mối liên quan có  ý  nghĩa  thống  kê  với  PR  là  2,3  (KTC  95%:  1,2  ‐  4,6). Hay nói cách khác, khi người  chăm  sóc  có  kiến  thức  họ  sẽ  có  khả  năng  thực  hiện  hành  vi  này cao hơn người không có kiến thức.

**: Số đối tượng có sử dụng dụng cụ chứa nước (lu, thùng  phuy, hồ chứa nước)

***: Số đối tượng đã từng cho trẻ đi ghe/thuyền/phà

42 9 Làm rào chắn sông/ao/kênh/rạch (n=285)* Đậy nắp dụng cụ chứa nước (n=410)** Có hành vi phòng ngừa khi đi vắng Có hành vi phòng ngừa khi bận công việc nhà Mặc áo phao cho trẻ khi trẻ đi ghe/thuyền/phà (n = 167)*** Đi theo và quan sát trẻ chơi gần sông/ao/kênh/rạch Đi theo và quan sát trẻ chơi gần dụng cụ chứa nước Tham gia lớp tập huấn/lớp học về sơ cấp cứu đuối nước

Bảng 5: Mối liên quan giữa hành vi phòng ngừa  đuối nước cho trẻ khi người chăm sóc trẻ đi ra khỏi  nhà và các yếu tố liên quan

p Yếu tố liên quan PR (KTC 95%) Hành vi phòng ngừa khi đi ra khỏi nhà Có n (%) Không n (%)

Trong các hành vi phòng ngừa đuối nước, tỷ  lệ người chăm sóc tham gia các lớp tập huấn/lớp  học về sơ cấp cứu đuối nước là thấp nhất. Điều  này cho thấy cần tăng cường thêm công tác tập  huấn sơ cấp cứu đuối nước tại địa phương. Tỷ lệ

0,90 (0,8-0,96) < 0,05 Tuổi < 5 tuổi 174 (90,6) 18 (9,4)

68

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Yếu tố liên quan p p PR (KTC 95%) Yếu tố liên quan PR (KTC 95%) Hành vi phòng ngừa khi bận việc Có n (%) Không n (%)

5-<9 tuổi 9-11 tuổi

0,02 0,8) Dân tộc 38-47 16 (20,3) 63 (79,7) 34 (69,4) 48-57 15 (30,6) 33 (76,7) 58-70 10 (23,3) Kinh 120 (27,4) 318 (72,6) 0,53 (0,3- Khác 8 (53,3) 7 (46,7) 0,03 0,90 (0,8-0,99) Trẻ biết bơi lội Biết Không biết Hành vi phòng ngừa khi đi ra khỏi nhà Có n (%) Không n (%) 150 (81,5) 34 (18,5) 18 (23,4) 59 (76,6) 59 (75,6) 19 (24,4) 324 (86,4) 51 (13,6)

Bảng 6 cho thấy hành vi phòng ngừa khi đối  tượng  bận  việc  nhà  chỉ  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05)  đối  với  độ  tuổi  của  người chăm sóc và dân tộc. Về độ tuổi, kết quả  phân tích cho thấy người chăm sóc càng lớn tuổi  sẽ ít có khả năng thực hiện hành vi phòng ngừa,  hay  nói  cách  khác  là  sẽ  gửi  trẻ  cho  người  khác  trông  nom  hộ,  so  với  người  chăm  sóc  trẻ  tuổi.  Điều này có thể giải thích là người chăm sóc lớn  tuổi thường là ông/bà của trẻ vì vậy họ cho rằng  mình có kinh nghiệm trông trẻ nên vừa làm việc  vừa có thể theo dõi trẻ. Dân tộc cũng là một yếu  tố ảnh hưởng đến hành vi phòng ngừa này khi  người Chăm lại có khả  năng  thực  hiện  hành  vi  phòng  ngừa  cao  gấp  2  lần  so  với  người  Kinh.  Đây là một kết quả đáng quan tâm vì để lý giải  kết quả này có thể cần liên hệ đến những yếu tố  thuộc văn hóa đặc trưng của dân tộc Chăm.

Giữa hành vi phòng ngừa đuối nước cho trẻ  khi người chăm sóc ra khỏi nhà và các đặc tính  của người chăm sóc không có mối liên quan có ý  nghĩa thống kê (p > 0,05). Riêng đặc tính của trẻ,  hành  vi  này  chỉ  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  độ  tuổi  trẻ  cũng  như  việc  trẻ  biết  bơi  lội.  Điều  đó  có  nghĩa  là  trẻ  có  độ  tuổi  càng  cao thì đối tượng càng ít có hành vi phòng ngừa  đuối nước cho trẻ và trẻ biết bơi thì đối tượng sẽ  ít thực hiện hành vi phòng ngừa hơn so với trẻ  không  biết  bơi.  Đây  là  hai  kết  quả  phản  ánh  quan  niệm,  thói  quen  của  người  dân  khi  cho  rằng trẻ lớn và biết bơi thì không cần quan tâm  nhiều trong việc phòng ngừa chết đuối cho trẻ.

0,03 1,10 (0,9-1,3) 71 (77,2) 21 (22,8) Kiến thức về tình huống nguy cơ dẫn đến đuối nước trẻ em Có kiến thức 312 (86,4) 49 (13,6) Không có kiến thức

Bảng 7: Mối liên quan giữa mặc áo phao cho trẻ khi  đi ghe/thuyền phà và các yếu tố liên quan

Mặc áo phao cho trẻ khi đi thuyền p Yếu tố liên quan PR (KTC 95%) Có n (%)

Ngoài ra giữa kiến thức về tình huống nguy  cơ  dẫn  đến  đuối  nước  và  hành  vi  này  cũng  có  mối liên quan có ý nghĩa thống kê nhưng chịu sự  tương tác của biến dân tộc. Hay nói cách khác, ở  người  chăm  sóc  trẻ  là  người  Kinh  thì  những  người có kiến thức sẽ có khả năng thực hiện hành  vi  phòng  ngừa  gấp  1,1  lần  so  với  những  người  không có kiến thức. Kết quả này cho thấy cần tìm  hiểu lý do tại sao ở dân tộc khác, cụ thể ở đây là  người  Chăm,  việc  biết  kiến  thức  lại  không  góp  phần vào việc nâng cao hành vi phòng ngừa của  người chăm sóc trẻ.

< 0,05 0,52 (0,3- 0,8) Trình độ học vấn Không biết đọc, viết Cấp I Từ cấp II trở lên Tuổi 0,04 < 5 tuổi 5-<9 tuổi 9-11 tuổi Không n (%) 9 (40,9) 13 (59,1) 37 (44,6) 46 (55,4) 16 (25,8) 46 (74,2) 17 (25,8) 49 (74,2) 1,51 35 (52,2) 32 (47,8) (1,01- 2,3) 14 (41,2) 20 (58,8)

Bảng 6: Mối liên quan giữa hành vi phòng ngừa đuối  nước cho trẻ khi đối tượng bận việc nhà và các yếu tố  liên quan

Tuổi

Hành  vi  mặc  áo  phao  cho  trẻ  khi  đi  ghe/thuyền/phà chỉ có mối liên quan có ý nghĩa  thống  kê  với  trình  độ  học  vấn  của  người  chăm  sóc và độ tuổi của trẻ, ngoài ra các yếu tố khác  đều không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê.  Kết quả tính PR cho thấy người chăm sóc càng  học  cao  thì  càng  ít  thực  hiện  hành  vi  mặc  áo  phao cho trẻ. Đây là một kết quả đáng quan tâm

Yếu tố liên quan p PR (KTC 95%) Hành vi phòng ngừa khi bận việc Có n (%) Không n (%) 75 (61) 0,05 0,91 (0,8-0,99) 18-27 48 (39) 28-37 39 (24,5) 120 (75,5)

69

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Yếu tố liên quan p PR (KTC 95%) Tham gia lớp tập huấn/lớp học về sơ cấp cứu Có n (%) Không n (%) (1,5-4,4) Cấp I 8 (4) 194 (96) Từ cấp II trở lên 29 (17,4) 138 (82,6)

Nghiên cứu Y học  vì thông thường trình độ học vấn cao thường đi  kèm với tỷ lệ thực hiện các hành vi phòng ngừa  cao, do đó cần phải tiến hành thêm nghiên cứu  để  tìm  hiểu  vấn  đề  này.  Kết  quả  tính  PR  cũng  cho  thấy  trẻ  càng  lớn  tuổi  thì  khả  năng  người  chăm sóc mặc áo phao cho trẻ càng cao. Có thể  lý giải điều này là do trẻ từ 5‐11 tuổi đang trong  giai đoạn đi nhà trẻ, hoặc đi học tiểu học, do đó  cần đi lại nhiều từ nhà và trường học. Ngoài ra,  trẻ  trên  6  tuổi  bắt  đầu  đi  học  và  sử  dụng  ghe/thuyền/phà cao hơn trẻ dưới 5 tuổi nên tỉ lệ  có  mặc  áo  phao  cao  hơn.  Huyện  An  Phú  lại  là  một huyện có nhiều sông ngòi, kênh rạch và các  cù lao nằm giữa sông nên việc đi lại đa phần gắn  liền với sông nước. Do đó việc người chăm sóc  trẻ  trang  bị  áo  phao  cho  trẻ  khi  đi  ghe  thuyền  phà là điều dễ hiểu.

Khi phân tích mối liên quan giữa các yếu tố  và hành vi tham gia lớp tập huấn/lớp học về sơ  cấp cứu, chỉ có giới tính và trình độ học vấn của  người  chăm  sóc  có  mối  quan  hệ  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05).  Những  người  chăm  sóc  là  nam sẽ có khả năng tham  gia  các  lớp  tập  huấn  cao  gấp  3,7  lần  so  với  người  chăm  sóc  là  nữ.  Điều này có thể là do quan niệm của người dân  cho  rằng  người  đàn  ông  là  người  có  thể  thực  hiện các hoạt động “nặng nhọc” đòi hỏi sử dụng  nhiều kỹ thuật, sự khéo léo v.v…, do đó khi các  chương trình, dự án tổ chức các lớp tập huấn sơ  cấp  cứu,  người  đàn  ông  trong  gia  đình  sẽ  là  người tham gia các lớp học này.

Giữa hành vi đi theo và quan sát trẻ chơi gần  sông/ao/kênh/rạch  và  các  yếu  tố  liên  quan  đều  không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p >  0,05).  Như  vậy  có  thể  thấy  hành  vi  này  có  thể  còn  phụ  thuộc  vào  các  yếu  tố  khác  chẳng  hạn  như khoảng cách trẻ chơi cách xa nhà, hoặc thời  gian trẻ chơi gần sông/ao/kênh/rạch v.v…

Hành  vi  đi  theo  và  quan  sát  trẻ  chơi  gần  dụng cụ chứa nước và các yếu tố khảo sát cũng  không  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  ngoại trừ mối quan hệ với trẻ. Kết quả phân tích  cho  thấy  những  người  chăm  sóc  là  cha  mẹ  có  khả năng thực hiện hành vi này thấp hơn 0,9 lần  so  với  những  người  chăm  sóc  có  mối  quan  hệ  khác.  Lý  giải  điều  này,  có  thể  cha  mẹ  cho  rằng  trẻ ít có  khả  năng  bị  đuối  nước  trong  các  dụng  cụ chứa nước nên ít quan tâm, theo dõi trẻ chơi  gần các dụng cụ chứa nước đó.

Còn  về  trình  độ  học  vấn,  những  người  có  trình  độ  cấp  I  sẽ  có  khả  năng  tham  gia  lớp  tập  huấn  sơ  cấp  cứu  cao  gấp  2,6  lần  so  với  những  người không biết đọc biết viết hay nói cách khác  người  không  biết  đọc,  biết  viết  có  khả  năng  tham  gia  lớp  tập  huấn  chỉ  bằng  0,38  lần  so  với  người  có  trình  độ  cấp  I.  Điều  này  có  thể  giải  thích  là  do  những  người  mù  chữ  thường  quan  niệm rằng việc tham gia học các lớp sơ cấp cứu,  sẽ  gây  khó  khăn  cho  bản  thân  trong  việc  nắm  bắt  những  kỹ  thuật  sơ  cấp  cứu,  vì  vậy  hạn  chế  việc tham gia của họ. Đây là điều mà các chương  trình can thiệp tập huấn sơ cấp cứu cần cân nhắc  để  thiết  kế  chương  trình  sao  cho  phù  hợp  với  trình độ học vấn của các đối tượng được mời gọi  tham gia các lớp tập huấn này.

Điểm hạn chế

Bảng 8: Mối liên quan giữa tham gia lớp tập  huấn/lớp học sơ cấp cứu và các yếu tố liên quan

p Yếu tố liên quan PR (KTC 95%)

Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát  những  người  chăm  sóc  chỉ  một  trẻ  duy  nhất.  Đây là một điểm hạn chế của đề tài bởi vì yếu tố  chăm sóc nhiều trẻ cùng lúc có thể là yếu tố gây  nhiễu  tác  động  đến  các  mối  quan  hệ  đã  được  phân tích trong nghiên cứu này.

Khi khảo sát hành vi đi theo và quan sát trẻ  chơi  gần  sông/ao/kênh/rạch,  chúng  tôi  chỉ  tập

< 0,05 Giới tính 3,71 (2,1-6,7) Nam Nữ Tham gia lớp tập huấn/lớp học về sơ cấp cứu Có n (%) Không n (%) 13 (27,1) 35 (72,9) 29 (7,2) 376 (92,8) Trình độ học vấn Không biết đọc, viết 5 (6) 79 (94) 2,61 < 0,05

70

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

kết quả cho thấy nhiều hành vi chịu ảnh hưởng  của kiến thức. Các kết quả trên có thể tạo nên cơ  sở  nền  hữu  ích  cho  các  chương  trình  can  thiệp  cộng  đồng  nhằm  nâng  cao  kiến  thức  phòng  ngừa đuối nước của người dân.

KIẾN NGHỊ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  trung  khai  thác  thông  tin  về  hành  vi  này  trong  các  trường  hợp  trẻ  chơi  gần  sông/ao/kênh/rạch  gần nhà của trẻ. Chúng tôi không khảo sát thông  tin về hành vi phòng ngừa trong các trường hợp  người  chăm  sóc  dẫn  trẻ  ra  khỏi  nhà  và  đi  đến  một  địa  điểm  khác  cũng  có  các  khu  vực  chứa  nước có thể dẫn đến đuối nước cho trẻ (các khu  công viên nước, hồ bơi, nhà người quen có khu  vực chứa nước). Đây là một hạn chế vì trong các  trường hợp nêu trên hành vi đi theo và quan sát  trẻ có thể rõ ràng, cụ thể hơn so với khi trẻ chơi  gần sông/ao/kênh/rạch gần nhà.

Cần  tiến  hành  thêm  các  nghiên  cứu  định  tính chuyên sâu để tìm hiểu thêm nguyên nhân  tỷ lệ thực hiện một số hành vi phòng ngừa đuối  nước  còn  thấp  ở  người  dân  huyện  An  Phú  nói  riêng  cũng  như  người  dân  tỉnh  An  Giang  nói  chung.

Do  chỉ  là  nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  nên  các  mối  quan  hệ  có  ý  nghĩa  thống  kê  khảo  sát  được trong nghiên cứu chỉ mang tính giả thuyết,  do đó cần có một nghiên cứu sâu hơn để khẳng  định lại các mối quan hệ này.

KẾT LUẬN

Đối với trung tâm y tế dự phòng huyện An  Phú,  cần  tăng  cường  công  tác  truyền  thông  giáo dục về phòng ngừa đuối nước cho người  dân.  Trong  quá  trình  truyền  thông,  giáo  dục,  cần  quan  tâm  đến  các  yếu  tố  có  thể  tác  động  đến  người  dân  như  độ  tuổi,  dân  tộc,  trình  độ  học  vấn  v.v…  Khi  đó  công  tác  truyền  thông  giáo dục mới đạt được hiệu quả cao đồng thời  người  dân  cũng  có  thể  nâng  cao  được  kiến  thức phòng ngừa đuối nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Đặng Văn Chính, và cs (2008). Kiến thức, thái  độ  và  thực  hành của người dân về chết đuối trẻ em ở vùng đồng bằng  sông  MEKONG.  Y  Học  Thành  Phố  Hồ  Chí  Minh,  tập  12,   số 4, 2008, 108‐115

2. Huong  DL,  Minh  HV,  Byass  P  (2003).  Applying  verbal  autopsy  to  determine  cause  of  death  in  rural  Vietnam.  Scand. J. Public Health Suppl., 62, 19‐25

4.

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  nhiều  phát  hiện  mới  về  hành  vi  của  người  chăm  sóc  trẻ  trong phòng ngừa đuối nước trẻ em. Có bốn loại  hành vi có tỷ lệ thực hiện thấp bao gồm hành vi  làm rào chắn khu vực sông/ao/kênh/rạch (27%),  hành  vi  phòng  ngừa  khi  bận  việc  nhà  (28,3%),  hành  vi  mặc  áo  phao  cho  trẻ  khi  đi  ghe/thuyền/phà (39%), và hành vi tham gia lớp  tập huấn/lớp học về sơ cấp cứu đuối nước (9%).  Đây là những hành vi rất đáng quan tâm bởi vì  chúng  ảnh  hưởng  đến  khả  năng  chết  đuối  của  trẻ. Vì vậy, việc tiến hành thêm các nghiên cứu  sâu  để  tìm  hiểu  nguyên  nhân  tại  sao  tỷ  lệ  thực  hiện  các  hành  vi  trên  còn  thấp  là  một  điều  cần  thiết.

5.

6.

case‐control

study.

7.

contributing

factor

a

Nghiên  cứu  cũng  cho  thấy  các  yếu  tố  khảo  sát  bao  gồm  đặc  tính  của  người  chăm  sóc,  đặc  tính của trẻ và kiến thức phòng ngừa đuối nước  cũng  có  mối  liên  quan  với  hầu  hết  các  hành  vi  khảo  sát.  Trong  các  yếu  tố  trên,  độ  tuổi  người  chăm sóc, độ tuổi trẻ, trình độ học vấn, khả năng  bơi lội của trẻ là những yếu tố có mối liên quan  với nhiều hành vi và cũng phản ánh nhiều hành  vi, quan điểm, suy nghĩ trong thực tế của người  dân về phòng ngừa đuối nước ở  trẻ  em.  Ngoài  ra  kiến  thức  cũng  đóng  vai  trò  quan  trọng  khi

3. Huỳnh  Thiện  Sĩ,  Nguyễn  Đỗ  Nguyên  (2009).  Đặc  điểm  dịch tễ học của tử vong đuối nước trẻ em tại Đồng Tháp.  Luận văn tốt nghiệp CKI‐Y Tế Công Cộng, Đại học Y dược  TP.HCM.  Landen  MG,  Bauer  U,  Kohn  M.  (2003).  Inadequate  supervision  as  a  cause  of  injury  deaths  among  young  children in Alaska and Louisiana. Pediatrics, 111, (2), 328‐ 31  Lê Thanh Hải, Khu Thị Khánh Dung (2010). Đuối nước ở  trẻ  em  tại  bệnh  viện  Nhi  Trung  Ương.  Y  Học  Thành  Phố  Hồ Chí Minh, tập 14, số 2, 2010, 193‐198.  Li Y, Quan‐Quing N, Chun‐Ling L, Qi‐Ming F, Sing Kai L  (2007).  Risk  factors  for  drowning  in  rural  regions  of  a  developing  Injury  country:  a  Prevention 13, pp. 178‐182  Petrass LA, Blitvich JD, Finch CF (2011). Lack of caregiver  in  Australian  supervision:  unintentional  child  drowning  deaths,  2000‐2009.  Med.  J.  Aust., 194, (5), 228‐31.

71

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  8.

11. Water  L  (1998).  A  descriptive  study  of  childhood

drowning in western Australian: 1987‐1991.

Save  The  Children  (2003).  Effects  of  natural  disasters  on  children: the issue of child drowning in the Mekong delta  and the Central Vietnam.  TASC (2008). Fact‐sheet‐Child Injury in Asia.

12. WHO (2004) World report on child injury prevention.  13. WHO (2008). World report on child injury prevention.

9. 10. Trường Đại Học Y Tế Công Cộng Hà Nội (2003). Report to  UNICEF on the Vietnam Multi‐center Injury Survey.

72

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NHIỄM KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT   TRÊN KHỈ TẠI TỈNH BÌNH PHƯỚC

Lê Thành Đồng*, Trịnh Ngọc Hải**, Nguyễn Vân Hồng***, Ngô Việt Thành*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nhằm triển khai xây dựng các đề tài NCKH về các bệnh lây truyền từ động vật sang người,  các bệnh do ngoại ký sinh, tháng 4 năm 2011, trong một đợt điều tra ban đầu, Viện Sốt rét ‐ KST ‐ CT TP. Hồ  Chí Minh đã phát hiện hai con khỉ có triệu chứng mắc bệnh sốt rét tại huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước.

Mục tiêu: Xác định loài KSTSR trên khỉ bị nhiễm bệnh sốt rét.

Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, với các kỹ thuật soi phát hiện ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)

trên kính hiển vi quang học, PCR lồng (Nested PCR).

Kết quả: Kết quả xét nghiệm KSTSR dương tính, tuy nhiên rất khó xác định loài ký sinh trùng bằng soi  bằng kính hiển vi, do hình thể ký sinh trùng tương tự các loài P. malariae, P. falciparum và P. vivax. Sau khi  thực hiện kỹ thuật PCR, tất cả các loại KSTSR trên đều âm tính. Kết quả giải trình tự ADN sequencing tại  Viện Lâm sàng nhiệt đới Vương quốc Bỉ xác định 96% tương đồng với P. inui. Vấn đề quan tâm là có sự lây  truyền ký sinh trùng sốt rét từ động vật sang người hay không?

Kết luận: có khỉ ở Bình Phước bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium inui.

Từ khóa: Khỉ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở Bình Phước.

ABSTRACT

A CASE STUDY OF MALARIA INFECTED MONKEY IN BINH PHUOC PROVINCE

Le Thanh Dong, Trinh Ngoc Hai, Nguyen Van Hong, Ngo Viet Thanh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 73‐ 78

Background:  In  preparation  for  development  of  a  scientific  theme  on  zoonotics  and  epizotic  diseases,  in  April  2011,  Ho  Chi  Minh  Institute  of  Malariology,  Parasitology  and  Entomology  conducted  an  initial  investigation and found 2 monkeys which have been infected with malaria in Phuoc Long district, Binh Phuoc  province.

Objectives: Identification type of malaria parasite in malaria infected monkeys.  Methods: A case describable study

Result: The tested sample resulted that it was positive with malaria. However, it is difficult to identify which  type of malaria parasite by microscope as its shape is as the same as those of P. malariae, P. falciparum and P.  vivax. The researchers have conducted PCR on the collected samples. The results has shown that all samples have  been negative with malaria parasites. ASN sequencing was conducted then by the Tropical Clinic of Kingdom of  Belgium concluded that 96% was similar to P.inui. The concern is that if there is a transmission of malaria from  animal to human?

Conclusion: The monkey in Binh Phuoc province has been infected with Plasmodium inui.

Keywords: malaria infected monkey in Binh Phuoc

** Viện Sốt rét – KST – CT TW

* Viện Sốt rét – KST ‐ CT TP Hồ Chí Minh   *** Đơn vị NCLS Đại học Oxford  Tác giả liên lạc: Ts. Lê Thành Đồng  ĐT: 0912009217

Email: lethanhdong@gmail.com

73

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối tượng

Mẫu máu được thu thập từ khỉ có biểu hiện  bị bệnh sốt rét tại huyện Phước Long, tỉnh Bình  Phước.

Phương pháp xác định ký sinh trùng sốt rét  Sử dụng kỹ thuật soi phát hiện KSTSR trên

kính hiển vi quang học (giọt mỏng và giọt dày).

Kỹ  thuật  PCR  lồng  (Nested  PCR)  theo

phương pháp Mallika Imwong, 2009(4).

Mồi:  rPLU1,  rPLU5,  PkF  1060,  PkF  1140,

PkF1550(4)

Chứng:  P.knowlesi  (H  strain)  và  P.cynomolgi

(Cambodia strain)

Kỹ thuật giải trình tự gen (sequencing).

KẾT QUẢ

Ký sinh trùng sốt rét trên lam giọt mỏng

Theo các báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới,  trong  vòng  4  thập  kỷ  qua  có  trên  30  tác  nhân  truyền  nhiễm  mới  đã  được  phát  hiện,  75%  có  nguồn  gốc  từ  động  vật  (bệnh  lây  từ  động  vật  sang  người).  Các  bệnh  truyền  nhiễm  mới  xuất  hiện  như  bệnh  sốt  xuất  huyết  ebola,  marburg,  bệnh bò điên, sốt thung lũng rift và đặc biệt gần  đây  là  bệnh  viêm  đường  hô  hấp  cấp  do  vi  rút  (SARS),  bệnh  cúm  A  phân  týp  H5N1,  H1N1,  bệnh tay chân miệng đều có nguồn gốc từ động  vật.  Nhìn  chung,  các  bệnh  truyền  nhiễm  xuất  hiện  hoặc  lưu  hành  thường  liên  quan  đến  điều  kiện môi trường sinh thái, phong  tục,  tập  quán  sinh hoạt, tập quán canh tác, tính chất lao động  và  khả  năng  phòng  chống  dịch  bệnh  của  con  người. Ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực Nam Bộ  ‐ Lâm Đồng hội đủ các điều kiện để các bệnh từ  động  vật  có  khả  năng  lây  truyền  và  gây  bệnh  cho người.

Hình 1: Thể nhẫn và tư dưỡng sớm

Đối với bệnh sốt rét, gần đây, có nhiều  báo  cáo công bố thêm một loài KSTSR vốn từ lâu gây  bệnh sốt rét cho khỉ, có khả năng lây nhiễm và  gây  bệnh  cho  người  với  tỷ  lệ  nhiễm  tương  đối  cao, vấn đề này có thể tăng thêm gánh nặng về  bệnh  sốt  rét  trong  tương  lai(2,1,6,3).  Tại  Việt  Nam  năm 2004, trong một đợt giám sát sốt rét tại tỉnh  Khánh  Hòa,  Viện  sốt  rét  KST  ‐  CT  TƯ  đã  phát  hiện  3  mẫu  dương  tính  với  P.  knowlesi  qua  kỹ  thuật PCR(5).

Trong khuôn khổ bước đầu tiếp cận và xây  dựng các đề tài nghiên cứu khoa học về các bệnh  truyền nhiễm có thể lây truyền từ động vật sang  người,  các  bệnh  do  ngoại  ký  sinh  trùng  gây  ra  cho người, Viện Sốt rét ‐ KST ‐ CT TP. HCM tiến  hành  đề  tài  nghiên  cứu  trường  hợp  nhiễm  ký  sinh trùng sốt rét trên khỉ tại tỉnh Bình Phước.

Mục tiêu nghiên cứu

Hình 2: Thể tư dưỡng muộn

Xác định loài KSTSR trên khỉ bị nhiễm bệnh

sốt rét.

74

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Hình 3: Thể tư dưỡng muộn

Hình 7: Thể phân liệt

Hình 4: Thể tư dưỡng muộn  Ký sinh trùng sốt rét trên lam giọt dầy

Hình 8: Thể giao bào  Nhận xét:  Hình thể giống P.falciparum ở giai đoạn sớm:  hồng cầu không biến dạng, có thể thấy rõ các hạt  trong  hồng  cầu,  thể  nhẫn  nhỏ,  mảnh  (hình  1  và  5).

Hình 5: Thể nhẫn mảnh

Và  giống  P.malariae:  nguyên  sinh  chất  đều,  dày đặc; sắc tố phân tán rộng, màu vàng nhạt ở  thể  tư  dưỡng  muộn  (hình  3,4,  6)  hay  dải  khăn  quàng (hình 2) hoặc thể phân liệt (hình 7) và thể  giao bào với các sắc tố thô, rải rác, phân bố ở phía  ngoài (hình 8).  Kết quả PCR

Âm tính với P.knowlesi và P.cynomolgi

Kết quả Sequencing

Sequence  với  Cytochrom  B  theo  phân  đoạn  gen  là  810  bp  và  816  bp,  kết  quả  sequence  phù  hợp  với  SSJ2010,  A.  number  GU  930214.1,  GU  ghi  930216.

Sequnence

Pubmid

trên

Hình 6: Thể tư dưỡng muộn

75

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  “Unclassified’  96%  tương  đồng  với  P.  inui,  A.  number AB 444113.1.

BÀN LUẬN

Với  sự  giúp  đỡ  của  các  nhà  khoa  học  Viện  Lâm sàng Nhiệt đới, Vương Quốc Bỉ, giải trình tự  sequencing được thực hiện đồng thời với kỹ thuật  real‐Time PCR.

Đối với con người, cho đến nay, người ta cho  rằng  bệnh  sốt  rét  ở  người  chủ  yếu  do  4  loài  ký  sinh  trùng  sốt  rét  gây  ra,  đó  là  P. falciparum,  P.  vivax,  P.  malariae,  P.  ovale  gây  ra.  Trong  số  đó  phần  lớn  là  hai  loài  P.  falciparum  và  P.  vivax  chiếm một tỷ lệ cao trong cơ  cấu  ký  sinh  trùng,  tùy  từng  vùng  địa  lý  mà  tỷ  lệ  hai  loại  này  gây  nhiễm ở người có khác nhau. Đối với các loài linh  trưởng, có hơn 26 loài, trong đó các loài ký sinh  trùng sốt rét ở khỉ liên quan gần với các loài gây  bệnh  ở  người,  đó  là  P. simium, P. brazilianum, P.  cynomolgi, P. inui và P. knowlesi(2,1,6,3).

Hai con khỉ trong nghiên cứu chúng tôi được  phát hiện tại nhà hàng Phúc, Khu phố Sơn Long,  Phường Sơn Giang, thị xã Phước Long, tỉnh Bình  Phước,  một  con  đuôi  lợn  (Pig‐  tailed  macaques)  và một con khỉ đuôi dài (Long‐tailed macaques).  Đây là loài khỉ thường gặp ở Đông Nam Á.

Thực hiện cloning đoạn AND cần thiết được  nhận  và  gắn  vào  vi  khuẩn  Escherichia coli,  đoạn  chèn ứng với P. knowlesi được xác định tại Geno  Screen, các trình tự nucleotide của các dòng sau  đó  phát  triển  thành  colone,  các  colone  lại  được  kiểm  tra  lại  bằng  PCR  để  xem  có  nhận  đúng  đoạn  gen  hay  không,  những  clone  nào  nhận  đúng  thì  được  giải  trình  tự.  Mỗi  loại  ký  sinh  trùng đều có một bản đồ gen (gene map) và sau  đó  so  sánh  trình  tự  nhận  được  với  bản  đồ  gen.  Những chuỗi NNN trong trình tự xuôi được sửa  bằng thông tin từ trình tự ngược theo qui luật A‐ T, G‐C, đoạn nào thừa sẽ được cắt bỏ, cũng có thể  so sánh trình tự thu được với trình tự trong ngân  hàng  gen  (Gene  Bank).  Thông  thường,  trình  tự  phải giống 100% so với Gen Bank thì mới có thể  khẳng  định  được.  Trong  các  mẫu  của  chúng  tôi  thu được có 4 nucleotid khác biệt, do vậy khẳng  định 96% là P. inui.

Triệu chứng ban đầu, khỉ số 1 có biểu hiện rét  run,  tự  lấy  chăn  để  đắp  lên  người,  hoạt  động  chậm chạp, biểu hiện biếng ăn. Khỉ số 2 mập mạp  hơn, hoạt động linh hoạt hơn không rét run như  khỉ số 1.

Nghiên cứu ký sinh trùng sốt rét trên khỉ ở  Việt  Nam  đang  còn  hạn  chế,  rất  ít  thông  tin  khoa  học  về  dịch  tễ  học,  côn  trùng  học  liên  quan  đến  khỉ  mang  ký  sinh  trùng.  Từ  những  thập  kỷ  60  của  thế  kỷ  20,  William  Chin  đã  nghiên  cứu  thành  công  ký  sinh  trùng  P.  inui  truyền từ khỉ sang người.

Quan sát ký sinh trùng dưới kính hiển vi trên  lam  giọt  dầy  và  mỏng  cho  thấy  hình  thể  giống  P.falciparum  ở  giai  đoạn  sớm:  hồng  cầu  không  biến dạng, có thể thấy rõ các hạt trong hồng cầu,  thể  nhẫn  nhỏ,  mảnh  (hình  1  và  5).  Và  giống  P.malariae: nguyên sinh chất đều, dày đặc, sắc tố  phân  tán  rộng.  màu  vàng  nhạt  ở  thể  tư  dưỡng  muộn (hình 3,4, 6) hay dải khăn quàng (hình 2)  hoặc thể phân liệt (hình 7) và thể giao bào với các  sắc tố thô, rải rác, phân bố ở phía ngoài (hình 8).

Chúng  tôi  cũng  đã  lấy  mẫu  máu  của  khỉ  để  nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. KST được rửa  3  lần  bằng  môi  trường  nuôi  cấy  RPMI  1640  với  20% huyết thanh AB của người. Tuy nhiên KST  không thể nhân lên và xâm nhập hồng cầu mới  vì không tương thích nhóm máu nên hồng cầu bị  ngưng kết. Sau 5 ngày nuôi cấy KST lụi đi và chết  chỉ còn thấy sắc tố của ký sinh trùng.  Khả  năng  người  nhiễm  ký  sinh  trùng  sốt  rét khỉ

Sau  đó  xác  định  lại  bằng  kỹ  thuật  PCR  thì  hoàn  toàn  âm  tính.  Kết  quả  của  chúng  tôi  phù  hợp với kết quả phân tích PCR tại Viện Lâm sàng  Nhiệt đới Vương Quốc Bỉ. Do vậy, khẳng định ký  sinh  trùng  trên  2  con  khỉ  không  phải  là  P.  knowlesi.

Như trên đã đề cập, về tình hình sốt rét trên  khỉ,  cho  đến  nay,  người  ta  đã  ghi  nhận  được  ở  các khu vực có các loài ký sinh trùng và vật chủ  của nó như sau:

76

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Khu vực Vật chủ

Ký sinh trùng P. pitheci P. inui Thời gian 1905 Đười ươi (Orangutan) 1905

chỉ  biết

ta

một  số  lượng  lớn  người  nhiễm  P. knowlesi  phải  chăng có sự lây truyền từ người sang người hoặc  từ khỉ sang người qua trung gian truyền bệnh là  muỗi? Các câu hỏi này chưa được chứng minh.  Người  rằng  nhóm  muỗi  An.leucosphyrus có khả năng lây truyền ký sinh  trùng P. knowlesi có mặt ở khu vực đó, tuy nhiên  người  ta  cũng  chưa  xác  định  chắc  chắn  là  loài  muỗi này truyền bệnh hay loài khác.

P. cynomolgi 1905

Châu Á P. eylesi P. hylobati P. jefferyi P. youngi P. fieldi 1965 1939 1964 1964 1962

P. simiovale 1965

P. coatneyi 1965

P. fragile 1965

Ở  Việt  Nam,  nhiều  cộng  đồng  dân  cư  hiện  nay sinh sống ở các vùng rừng, bìa rừng, nhiều  nhóm người giao lưu vào vùng rừng núi, vùng  sốt  rét  lưu  hành,  nơi  có  nhiều  động  vật  linh  trưởng  sống  có  thể  có  nguy  cơ  nhiễm  ký  sinh  trùng sốt rét từ các động vật này? Đặc biệt là P.  Knowlesi  ‐  ký  sinh  trùng  có  mặt  ở  hầu  hết  các  quốc gia Đông Nam Á, nay cũng đã xuất hiện tại  Việt Nam.

P. knowlesi 1932 Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Vượn (Gibbon) Vượn (Gibbon) Vượn (Gibbon) Vượn (Gibbon) Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Khỉ đuôi ngắn (Macaque) Khỉ đuôi ngắn (Macaque)

Châu Mỹ P. brasilianum 1908 Khỉ Nam Mỹ (Cacajao) 1951 Khỉ rú đuôi dài (Howler P. simium monkey)

Châu Phi P. gonderi P. schwetzi P. rhodaini 1908 Khỉ châu Phi (Mangaby) 1920 Tinh tinh (Chimpanzee) 1939 Tinh tinh (Chimpanzee) P. reichenowi 1922 Tinh tinh (Chimpanzee)

Theo  thời  gian,  năm  1932,  người  ta  gây  nhiễm  P.  knowlesi  cho  người  tình  nguyện;  năm  1948,  người  bị  nhiễm  các  ký  sinh  trùng  từ  tinh  tinh;  năm  1960,  người  bị  nhiễm  P.cynomolgi  do  muỗi đốt từ sự cố phòng xét nghiệm; năm 1965,  người nhiễm P. knowlesi tự nhiên ở Malaysia. Từ  năm  2000  ‐  2002,  một  nghiên  cứu  tại  Malaysia  cho  thấy  trong  số  208  ca  được  chẩn  đoán  bằng  kính  hiển  vi  là  nhiễm  P.malariae  nhưng  khi  xét  nghiệm bằng kỹ thuật PCR lồng thì có đến 120  ca được xác định là nhiễm P.knowlesi. Đến năm  2004,  nhiều  người  ở  Borneo  (Malaysia)  được  phát  hiện  nhiễm  P.  knowlesi,  trong  năm  này,  người ta cũng phát hiện một trường hợp nhiễm  P.knowlesi ở khu vực rừng biên giới Thái Lan và  Myanmar  và  một  trường  hợp  khác  ở  Philippines.

Một nghiên cứu tại Khánh Phú (Khánh Hoà)  bắt  đầu  từ  năm  2002  cho  thấy  quần  thể  muỗi  Anopheles  dirus  nhiễm  ký  sinh  trùng  thể  thoi  trùng với tỷ lệ tương đối cao (1 ‐ 2%) trên hàng  ngàn cá thể muỗi được mổ tuyến nước bọt. Câu  hỏi đặt ra là các thể thoi trùng này có thuộc các  loài  có  khả  năng  nhiễm  bệnh  cho  người?  Các  nhà nghiên cứu đã xét nghiệm PCR đối với các  DNA  của  P.  cynomolgi,  P.  knowlesi,  P.  inui,  P.  simiovale and P. coatneyi. Đồng thời theo dõi tình  trạng  nhiễm  ký  sinh  trùng  ở  các  con  khỉ  được  nhốt trong rừng và thấy những con khỉ này xuất  hiện  nhiễm  P.  cynomolgi,  nguyên  nhân  phần  nhiều  được  cho  là  do  muỗi  đốt  truyền  ký  sinh  trùng chứ không phải do tái phát. Câu hỏi đặt ra  là  liệu  P.cynomolgi  có  nhiễm  sang  người  hay  không?  Trong  khi  các  primer  của  P.vivax  cũng  cho phản ứng chéo với P.cynomolgi, do đó tất cả  các mẫu xét nghiệm trước đây được chẩn đoán  là P. vivax ỏ khu vực đều bị nghi ngờ. Hơn nữa,  muỗi Anopheles dirus ‐ loài véc tơ chính duy nhất  của sốt rét ở khu vực này được phát hiện dương  tính  với  P. cynomolgi.  Vấn  đề  ký  sinh  trùng  sốt  rét  ở  động  vật  hoang  dại  có  lây  truyền  sang  người hay không, loài nào, véc tơ nào truyền còn  chưa được sáng tỏ và việc đặt ra chiến lược loại

Có  sự  truyền  bệnh  sốt  rét  từ  loài  khỉ  đến  người và người đến người qua trung gian muỗi  hay không? Trường hợp ở Borneo (Malaysia) có

Madagasc a P. lemuris P. girardi 1963 1952 Vượn cáo (Lemur) Vượn cáo (Lemur)

77

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  trừ  bệnh  sốt  rét  cũng  cần  phải  cân  nhắc  khía  cạnh này.

KẾT LUẬN

4.

Bằng kỹ thuật giải trình tự ADN đã xác định  khỉ bắt được ở Phước Long – Bình Phước nhiễm  ký sinh trùng sốt rét Plasmodium inui.

KIẾN NGHỊ

2. Chin W, Contacos PG, Collins WE, Jeter MH, Alpert E (1968).  Experimental  mosquito  transmission  of  Plasmodium  knowlesi to man and monkey. Am J Trop Med Hyg. 17:355–8.  3. Cox‐Singh  J,  Davis  TM,  Lee  KS,  Shamsul  SS,  Matusop  A,  Ratman  S,  et  al  (2008).  Plasmodium  knowlesi  malaria  in  humans is widely distributed and potentially life threatening.  Clin Infect Dis.;46:165–71. DOI: 10.1086/524888  Imwong  M,  Tanomsing  N,  Pukrittayakamee  S,  Day  NPJ,  White NJ and Snounou G (2009). Spurious amplification of a  Plasmodium  vivax  small‐subunit  RNA  gene  by  use  of  primers  currently  used  to  detect  P.knowlesi..Journal  of  Clinical Microbiology, p. 4173‐4175.

Cần phải nghiên cứu tiếp để xác định có sự  lan truyền ký sinh trùng sốt rét từ động vật sang  người.

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.  1.

5. Nguyễn  Vân  Hồng  và  CS  (2011).  “Trường  hợp  đầu  tiên  nhiễm  P.knowlesi  tại  Việt  Nam”.  Công  trình  khoa  học  báo  cáo tại Hội nghị Ký sinh trùng lần thứ 38, trang 2005‐2009.  Singh B, Kim Sung L, Matusop A, Radhakrishnan A, Shamsul  SS,  Cox‐Singh  J,  et  al  (2004).  A  large  focus  of  naturally  acquired  Plasmodium  knowlesi  infections  in  human  beings.  Lancet.;363:1017–24. DOI: 10.1016/S0140‐6736(04)15836‐4

Bronner  U,  Divis  PC,  Farnert  A,  Singh  B  (2009).  Swedish  traveller  with  Plasmodium  knowlesi  malaria  after  visiting  Malaysian Borneo. Malar J. ;8:15. DOI: 10.1186/1475‐2875‐8‐15.

Hình A: Khỉ đang bị sốt rét

Hình B: Khỉ bình thường

78

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN LOÀI, PHÂN BỐ VÀ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM  CỦA VÉC TƠ SỐT RÉT Ở MỘT SỐ VÙNG SINH CẢNH   KHU VỰC BIÊN GIỚI VIỆT NAM ‐ CAMPUCHIA

Lê Thành Đồng*, Huỳnh Kha Thảo Hiền*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nghiên cứu được thực hiện tại các điểm đại diện các vùng sinh cảnh, kinh tế xã hội liên quan

đến lan truyền bệnh sốt rét giữa biên giới Việt Nam và Campuchia từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2010.

Mục  tiêu:  Mục  tiêu  nhằm:  (1)  đánh  giá  đặc  điểm  thành  phần  loài,  sự  phân  bố  muỗi  Anopheles,  mật  độ  vector đốt người, sinh thái hoạt động và yếu tố liên quan và (2) xác định mức độ đáp ứng của véc tơ sốt rét với  các hóa chất đang sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét quốc gia.

Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu ngang mô tả và hồi cứu tài liệu về sự phân bố, thành

phần loài Anopheles.

Kết  quả:  Kết  quả  cho  thấy,  về  thành  phần  loài  có  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  và  An.  dirus,  An.  jamesi,  An.  kochi,  An.maculatus,  An.nivipes,  An.peditaeniatus,  An.philippinensis, An.sinensis, An. vagus. Có sự phân bố các loài Anopheles không đồng nhất giữa các vùng  sinh  cảnh  đại  diện  (sinh  cảnh  đồng  bằng,  biên  giới  nhiều  sông,  rạch  có  2  loài  chủ  yếu  là  An.  vagus  và  An.sinnensis; sinh cảnh biên giới núi rừng, giao lưu qua lại biên giới lớn có An.aconitus, An.barbirostris, An.  jamesi,  An.  kochi,  An.peditaeniatus,  An.maculatus,  An.nivipes,  campestris,  An.crawfordi,  An.  An.philippinensis, An.sinensis và An. vagus; sinh cảnh biên giới núi rừng, vùng sâu, vùng xa, không có giao  lưu  qua  lại  biên  giới  có  An.crawfordi,  An.  dirus,  An.maculatus,  An.peditaeniatus,  An.  philippinensis,  An.  sinensis, An. vagus. Mức độ nhạy cảm của véc tơ với hóa chất sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét  (PCSR) quốc gia: Muỗi An. sinensis đã kháng với Lambdacyhalothrin 0,05%, muỗi An. dirus vẫn còn nhạy cảm  với hóa chất Alphacypermethrin 30 mg hoạt chất/m2 với tỷ lệ muỗi chết sau 24 giờ là 100 %.

Kết luận: Có sự phân bố các loài Anopheles không đồng nhất giữa các vùng sinh cảnh đại diện (sinh cảnh  đồng  bằng,  biên  giới  nhiều  sông,  rạch  có  An.  vagus  và  An.sinnensis;  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng  có  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  An.  jamesi,  An.  kochi,  An.peditaeniatus,  An.maculatus,  An.nivipes,  An.philippinensis,  An.sinensis  và  An.  vagus;  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng,  vùng  sâu, vùng xa có An.crawfordi, An. dirus, An.maculatus, An.peditaeniatus, An. philippinensis, An. sinensis, An.  vagus. Mức độ nhạy cảm của véc tơ với hóa chất sử dụng  trong  chương  trình  PCSR:  Muỗi  An.  sinensis  đã  kháng với Lambdacyhalothrin 0,05%, muỗi An. dirus vẫn còn nhạy cảm với hóa chất Alphacypermethrin 30 mg.

Từ khóa: Véc tơ sốt rét biên giới

ABSTRACT

CHARACTERISTICS OF SPECIES COMPOSITION, DISTRIBUTION AND EXTENT OF SENSITIVITY  OF MALARIA VECTOR ALONG THE BORDER OF VIETNAM ‐ CAMBODIA

Le Thanh Dong, Huynh Kha Thao Hien

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 79 ‐ 84

Background: The research was conducted in representative areas of habitat, society – economy relating to

* Viện Sốt rét – KST ‐ CT TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ts. Lê Thành Đồng  ĐT: 0912009217

Email: lethanhdong@gmail.com

79

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  spread of malaria between the border of Vietnam and Cambodia from April to December, 2011

Objectives:  (1)  Assessment  of  species  composition,  distribution  of  Anopheles  mosquitoes,  vector  density,  activity and ecology and related factors. (2) Determine the respond level of malaria vector to the chemicals used in  national malaria control programs.

Methods: Cross ‐ sectional study and retrospective study.   Result:  The  results  showed  that  species  composition  are  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  jamesi,  An.  kochi,  An.maculatus,  An.nivipes,  An.peditaeniatus,  An.crawfordi,  and  An.  dirus,  An.  An.philippinensis,  An.sinensis,  An.  vagus.  There  was  the  inhomogeneous  distribution  of  Anopheles  species  between representative areas of habitat (characteristics of plain areas, border with many rivers and canals with  two  main  species:  An.  vagus  and  An.sinnensis;  characteristics  of  mountainous  border  areas,  cross  –  border  exchanges  with  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  An.  jamesi,  An.  kochi,  An.peditaeniatus,  An.maculatus,  An.nivipes,  An.philippinensis,  An.sinensis  and  An.  vagus;  characteristics  of  mountainous  border  areas,  remote  areas  and  no  cross  –  border  exchanges  wiht  An.crawfordi,  An.  dirus,  An.maculatus,  An.peditaeniatus,  An.  philippinensis,  An.  sinensis,  An.  vagus.  Sensitive  extent  of  the  vectors  with chemicals used in national malaria control program: An. Sinensis resistant to Lambdacyhalothrin 0,05%,  An. dirus sensitive to chemicals Alphacypermethrin 30 mg main substance/m2 with the dead rate of mosquitoes  after 24 hours came to 100 %.

Conclusion: There was the inhomogeneous distribution of Anopheles species between representative areas of  habitat (the border with many rivers and canals with An. vagus and An.sinnensis; the mountainous border areas  with  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  An.  jamesi,  An.  kochi,  An.peditaeniatus,  An.maculatus, An.nivipes, An.philippinensis, An.sinensis and An. vagus; the mountainous border areas, remote  areas  wiht  An.crawfordi,  An.  dirus,  An.maculatus,  An.peditaeniatus,  An.  philippinensis,  An.  sinensis,  An.  vagus.  Sensitive  extent  of  the  vectors  with  chemicals  used  in  national  malaria  control  program:  An.  Sinensis  resistant to Lambdacyhalothrin 0,05%, An. dirus sensitive to chemicals Alphacypermethrin 30 mg.

Keywords: Malaria vector along border

ĐẶT VẤN ĐỀ

“Đặc điểm thành phần loài, phân bố và mức độ  nhạy cảm của véc tơ sốt rét ở một số vùng sinh  cảnh khu vực biên giới Việt Nam Campuchia.

Mục tiêu đề tài

Đánh giá đặc điểm thành phần loài, sự phân  bố  muỗi  Anopheles,  mật  độ  vector  đốt  người,  sinh thái hoạt động và yếu tố liên quan.

Xác định mức độ đáp ứng của véc tơ sốt rét  với  các  hóa  chất  đang  sử  dụng  trong  chương  trình phòng chống sốt rét quốc gia.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm

Muỗi Anopheles giữ vai trò trung gian truyền  bệnh sốt rét cho người. Sự phân bố của muỗi có  liên quan mật thiết đến dịch tễ học bệnh sốt rét.  Phần lớn các tỉnh có tình hình sốt rét diễn biến  phức  tạp  đều  nằm  trong  khu  vực  sốt  rét  lưu  hành  và  nằm  dọc  theo  biên  giới  Việt  Nam  ‐  Campuchia. Một trong những vấn đề đang được  quan tâm hiện này là sự lan truyền của dòng ký  sinh  trùng  sốt  rét  kháng  với  artemisinin  ở  các  tỉnh  phía  Tây  Campuchia,  sự  di  dân  tự  do  của  các thành phần dân cư dọc theo biên giới cùng  với  việc  vector  sốt  rét  kháng  hóa  chất  thuộc  nhóm pyrethroid và DDT đã làm cho tình hình  sốt rét khu vực biên giới Việt Nam ‐ Campuchia  đang  tiềm  ẩn  một  nguy  cơ  bùng  phát  dịch  rất  cao.  Trong  giai  đoạn  từ  tháng  4  đến  tháng  12  năm 2010, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài

Các  điểm  đại  diện  cho  các  sinh  cảnh  dọc  theo biên giới Việt Nam ‐ Campuchia: Đặc trưng  cho sinh cảnh đồng bằng, biên giới nhiều sông,  rạch  (sinh  cảnh  A:  An  Giang);  đặc  trưng  cho  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng,  giao  lưu  qua  lại

80

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Bảng 1: Kết quả thu thập muỗi và thành phần loài  Anopheles

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  biên giới lớn (sinh cảnh B: Tây Ninh); đặc trưng  cho  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng,  vùng  sâu,  vùng  xa,  không  có  giao  lưu  qua  lại  biên  giới  (sinh cảnh C: Bình Phước).

STT Loài Anopheles

Thời gian tiến hành

Từ tháng 04/2010 đến tháng 12/2010.

Phương pháp nghiên cứu: (2,3,5).

Nghiên cứu ngang mô tả.

Hồi cứu tài liệu về sự phân bố, thành phần

loài Anopheles.

Vật liệu

Dụng cụ thử nhạy cảm theo tiêu chuẩn của

Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Giấy thử nhạy cảm Lamdacyhalothrin 0,05%  và Alphacypermethrin 30 mg a.i/m2 do Đại học  Penang, Malaysia sản xuất.

An.aconitus 1 2 An.barbirostris 3 An. campestris An.crawfordi 4 An.dirus 5 An. jamesi 6 An. kochi 7 8 An.maculatus 9 An.peditaeniatus 10 An.philippinensis 11 12 13 An.nivipes An.sinensis An. vagus Sinh cảnh A 1.758 12 Sinh cảnh B 13 24 36 4 4 4 6 47 4 6 43 92 Sinh cảnh C 5 55 16 2 4 9 18

Bẫy đèn CDC chạy pin do Mỹ sản xuất.  Điều tra thực địa: thu thập mẫu vật mới

Thành  phần  loài:  tại  thời  điểm  điều  tra,  kết  quả điều tra cho thấy ở Tây Ninh có thành phần  loài Anopheles đa dạng (12 loài), thành phần loài  Anopheles  tỉnh  Bình  Phước  là  7  loài  và  thành  phần loài Anopheles ở An Giang có 2 loài.

Số  lượng  muỗi  An.sinensis  thu  thập  được  ở

An Giang là 1.758 con.

Điều  tra  côn  trùng  sốt  rét  và  bọ  gậy  theo  phương pháp của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)  và  Viện  Sốt  rét  ‐  Ký  sinh  trùng  ‐  Côn  trùng  Trung ương.

Phân tích mẫu vật

Định loại dựa trên các đặc điểm hình thái.

Ở  điểm  nghiên  cứu  tỉnh  Bình  Phước  thu  thập được véc tơ chính của vùng là An. dirus, hai  điểm nghiên cứu ở An Giang và Tây Ninh chưa  thu  thập  được  véc  tơ  chính,  chỉ  thu  thập  được  véc tơ phụ của vùng (An. sinensis, An. maculatus  và An. aconitus).

Định loại muỗi và bọ gậy Anopheles dựa vào  đặc  điểm  hình  thể  bên  ngoài  trên  cơ  sở  Bảng  định loại muỗi Anopheles.

Thử  nhạy  cảm  muỗi  với  giấy  tẩm  hóa  chất

diệt côn trùng

Đánh  giá  mức  nhạy  cảm  của  muỗi  với  hóa  chất  diệt  côn  trùng  theo  phương  pháp  của  tổ  chức Y tế thế giới WHO/CPC/MAL/98.12(6,1).

STT

Bảng 2: Kết quả thu thập bọ gậy  Sinh cảnh A 48 8

Đối tượng thử: vector chính và vector phụ bắt  tại thực địa của mỗi vùng. (nếu bắt đủ số lượng).

Hóa  chất  thử:  Lambda‐cyhalothrin  0,05%  và

Alpha ‐ cypermethrin 30 mg/m2

Tên loài Anopheles An. Dirus An.peditaeniatus An.sinensis An. Vagus 1 2 3 4 Sinh cảnh B 1 Sinh cảnh C 39

Xử lý số liệu

Xử lý số liệu bằng chương trình Excel.

Số liệu thu thập bọ gậy của các loài Anopheles  tương  ứng  với  số  lượng  muỗi  thu  thập  được.  Riêng điểm nghiên cứu ở Tây Ninh, vừa xảy ra  một trận mưa to vào thời điểm thu thập bọ gậy  nên đã làm cho nước ở suối chảy mạnh và làm  trôi bọ gậy. Do đó số lượng bọ gậy thu thập hầu  như không có (1 con/100 vá).

Bảng 3: Mật độ muỗi thu được bằng phương pháp MNTN và MNNN

81

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Sinh cảnh A Sinh cảnh B Sinh cảnh C STT Tên loài Anopheles MNTN (c/đ/ng) MNNN (c/đ/ng) MNTN (c/đ/ng) MNNN (c/đ/ng) MNTN (c/đ/ng) MNNN (c/đ/ng)

0,17 2 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 An.aconitus An.barbirostris An. campestris An.crawfordi An.dirus An. jamesi An. kochi An.maculatus An.peditaeniatus An.philippinensis An.nivipes An.sinensis An. vagus 68,5 94,5 0,5 0,15 0,33 2,5 1,17 0,16 0,33 6,16

Bảng 4: Mật độ muỗi Anopheles bằng các phương  pháp: bẫy đèn CDC, soi chuồng gia súc, soi trong nhà  ban ngày

Sinh cảnh A Sinh cảnh B Sinh cảnh C

Bằng phương pháp mồi người trong nhà và  ngoài nhà thu được các loài Anopheles sau: An.  aconitus,  An.  campestris,  An.  barbirostris,  An.  crawfordi,  An.  dirus,  An.  kochi,  An.maculatu,  An.philippinensis,  An.nivipes,  An.  jamesi,  An.  peditaeniatus và An. sinensis, An. vagus.

N T Đ B

N T Đ B

N T Đ B

N N Đ B

N N Đ B

N N Đ B

S G C S

S G C S

S G C S

Tên loài Anopheles

0,24

Ở  điểm  Bình  Phước  mật  độ  An.dirus  đốt  người  ngoài  nhà  cao  hơn  trong  nhà  (6,17/1,17  con/người/đêm).

0,37

0,67

Ở các điểm An Giang và Tây Ninh đều thu  thập  được  véc  tơ  truyền  bệnh  phụ  An.sinensis  bằng phương pháp mồi người trong nhà.

1,3 2,3

0,07 0,05 0,07 0,05

An  Giang  có  mật  độ  An.sinensis  đốt  người  ngoài  nhà  cao  hơn  đốt  người  trong  nhà  (94,5/68,5 con/người/đêm).

0,1 0,27

0,81 0,03

0,07 0,07

Tại  thời  điểm  điều  tra  ở  Tây  Ninh  thành  phần  loài  muỗi  Anopheles  thu  thập  được  bằng  phương  pháp  soi  chuồng  gia  súc  khá  phong  phú,  tuy  nhiên  mật  độ  không  cao  (<1,7  con/giờ/người) (Bảng 4).

0,22 An.aconitus An.barbirostri s An. campestris An. dirus An.crawfordi An. jamesi An. kochi An.maculatu s An.peditaeni atus An.philippine nsis An.nivipes An.sinensis 771 0,29 0,3 0,13

An. vagus 14,2 7 12 0,2 1,7 0,33

Bảng 5: Kết quả thử nhạy cảm muỗi Anopheles với  hóa chất đang sử dụng trong chương trình PCSR  quốc gia  Điểm NC

Ở An Giang bằng soi chuồng gia súc và bẫy  đèn  ngoài  nhà  chỉ  thu  thập  được  2  loài  Anopheles,  mật  độ  An.sinensis  thu  thập  được  bằng phương pháp  soi  chuồng  gia  súc  cao  hơn  mật độ An.sinensis ở các điểm Tây Ninh và Bình  Phước.

Soi trong nhà ban ngày thì kết quả thu thập

Tỷ lệ muỗi chết sau 24g Tên hóa chất Loài muỗi Thời gian

được = 0 tại cả 3 điểm nghiên cứu.

23/6/10 28 % An. sinensis Sinh cảnh A Lambdacyhal othrin 0,05 %

100 % Sinh An.dirus 6/11/10 Ghi chú T= 29oC, RH = 72% Alphacyperm T=27-

82

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Tỷ lệ muỗi chết sau 24g Loài muỗi Thời gian

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Điểm NC cảnh C

Muỗi  An.

sinensis  đã

kháng

Kết quả thử nhạy cảm muỗi An. sinensis với  lệ  muỗi  An.

Tên hóa chất ethrin 30 mg/m2 Ghi chú 28 oC RH:80- 82%

Mức  độ  nhạy  cảm  của  véc  tơ  với  hóa  chất  sử dụng trong chương trình PCSR quốc gia  với  lambdacyhalothrin  0,05%,  tuy  nhiên  cần  thực  hiện thêm nhiều thử nghiệm mới có thể đưa ra  kết luận chính xác.

Lambdacyhalothrin  0,05%:  tỷ  sinensis chết sau 24 giờ là 28%

Muỗi  An.  dirus  vẫn  còn  nhạy  cảm  với  hóa  chất alphacypermethrin 30 mg hoạt chất/m2 với  tỷ lệ muỗi chết sau 24 giờ là 100 %. Tuy nhiên, vì  tổng số muỗi thử nghiệm ít hơn 100 con nên kết  quả này chưa đủ chắc chắn.

Kết quả thử nhạy cảm cho thấy An. dirus vẫn  còn  nhạy  cảm  với  hóa  chất  Alphacypermethrin  30  mg  hoạt  chất/m2  với  tỷ  lệ  muỗi  chết  sau  24  giờ  là  100  %.  Tuy  nhiên,  vì  tổng  số  muỗi  thử  nghiệm  ít  hơn  100  con,  nên  kết  quả  này  chỉ  mang tính chất tham khảo.

KẾT LUẬN

Thành phần loài Anopheles

An.maculatus,

dirus,

An.

Thành  phần  loài  Anopheles  tại  các  điểm  nghiên  cứu  thuộc  các  vùng  sinh  cảnh  đồng  bằng,  biên  giới  nhiều  sông,  rạch  (sinh  cảnh  A);  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng,  giao  lưu  qua  lại  biên giới lớn (sinh cảnh B) và sinh cảnh biên giới  núi rừng, vùng sâu, vùng xa, không có giao lưu  qua lại biên giới (sinh cảnh C) phù hợp với các  kết quả đã nghiên cứu trước đây.

Kết  Luận:  Có  sự  phân  bố  các  loài  Anopheles  không  đồng  nhất  giữa  các  vùng  sinh  cảnh  đại  diện (sinh cảnh đồng bằng, biên giới nhiều sông,  rạch có An. vagus và An.sinnensis; sinh cảnh biên  giới  núi  rừng  có  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  An.  jamesi,  An.  kochi,  An.peditaeniatus,  An.nivipes,  An.philippinensis,  An.sinensis  và  An.  vagus;  sinh  cảnh  biên  giới  núi  rừng,  vùng  sâu,  vùng  xa  có  An.maculatus,  An.crawfordi,  An.peditaeniatus,  An.  philippinensis,  An.  sinensis,  An. vagus. Mức độ nhạy cảm của véc tơ với hóa  chất  sử  dụng  trong  chương  trình  PCSR:  Muỗi  An.  sinensis  đã  kháng  với  Lambdacyhalothrin  0,05%, muỗi An. dirus vẫn còn nhạy cảm với hóa  chất Alphacypermethrin 30 mg.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Dirus,

An.

Bortel  WV,  Hồ  Đình  Trung,  Lê  Khánh  Thuận,  Sochantha  T,  Socheat D, Sumrandee C, Baimai V, Keokenchanh K, Samlane  P,  Roelants  P,  Denis  L,  Verhaeghen  K,  Obsomer  V,  Coosemanns  M  (2008),  The  insecticide  resistance  status  of  malaria vectors in the Mekong region,Malaria Journal 2008.

Sinh cảnh A có 2 loài Anopheles chủ yếu là  An. vagus và An.sinnensis; sinh cảnh B có 12 loài  là  An.aconitus,  An.barbirostris,  An.  campestris,  An.crawfordi,  An. jamesi,  An. kochi,  An.maculatus,  An.peditaeniatus,  An.philippinensis,  An.nivipes,  An.sinensis, An. vagus; sinh cảnh C có 7 loài đó là  An.maculatus,  An.crawfordi,  An.peditaeniatus,  An.  philippinensis,  An.  sinensis,  An. vagus.

4.

5.

Tại vùng sinh cảnh biên giới núi rừng, vùng  sâu, vùng xa, không có giao lưu qua lại biên giới  (sinh  cảnh  C)  mật  độ  An.dirus  đốt  người  ngoài  nhà cao hơn trong nhà; ở vùng sinh cảnh đồng  bằng,  biên  giới  nhiều  sông,  rạch  (sinh  cảnh  A)  mật độ An sinensis đốt người ngoài nhà cao hơn  trong nhà. Ở vùng sinh cảnh biên giới núi rừng,  giao lưu qua lại biên giới lớn (sinh cảnh B) mật  độ An sinensis đốt người ngoài nhà và trong nhà  tương tự nhau.

2. Nguyễn  Quốc  Hưng,  Nguyễn  Ngọc  Thanh,  Võ  Thị  Long,  Ngô  Thị  Phú  và  CS  (2004),  Giám  sát  vector  ở  3  tỉnh  Bình  Phước, Bình Dương Và Lâm Đồng, Kỷ yếu công trình nghiên  cứu khoa học Viện SR ‐ KST ‐ CT TP.HCM, 1996 ‐ 2003.  3. NIMPE  HN,  IMPE  HCM,  IMPE  QN.  (2000)  Final  report  on  border  malaria  in  the  five  borders  pilot  communes  in  Vietnam. 2000.  Potikasikorn  J,   Chareonviriyaphap  T,   Bangs  MJ,  Prabaripai  A  (2005),  Behavioral  responses  to  DDT  and  pyrethroids  between anopheles minimus species A and C, malaria vectors  in Thailand, Am. J. Trop. Med. Hyg., 73(2), 2005, pp. 343‐349.  Sochantha T, et al. (2000) Emtomologicalstudy in the 3 border  pilot communes in Cambodia. CMN, Cambodia. 2000.  6. World  Health  Organisation  (WHO)  (1998).  Test  Procedures  for Insecticide Resistance monitoring in Malaria Vectors, Bio‐

83

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

efficacy  and  Persistence  of  Insecticides  on  treated  surfaces.  Document WHO/CDS/CPC/MAL/98.12. Geneva.

84

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

XÁC ĐỊNH Ổ LĂNG QUĂNG NGUỒN VÀ KIẾN THỨC,   THỰC HÀNH PHÒNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT: ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU  CHO CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG

Phạm Thị Nhã Trúc*, Nguyễn Thanh Phương*, Đặng Văn Chính**, Phạm Trí Dũng*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue là vấn đề sức khỏe công cộng. Số mắc  bệnh hàng năm là cao. Phòng bệnh là biện pháp can thiệp chính. Để việc phòng bệnh mang hiệu quả cao thì cần  hiểu rõ ổ lăng quăng nguồn phát triển từ đâu, đồng thời cần biết rõ kiến thức, thực hành của người dân còn  những hạn chế gì để có những biện pháp truyền thông phù hợp.

Mục tiêu: Xác định ổ lăng quăng nguồn truyền bệnh sốt xuất huyết và tỷ lệ người dân có kiến thức, thực

hành phòng sốt xuất huyết năm 2011.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang từ tháng 6‐9/2011 trên 384 hộ gia đình (HGĐ)

sống tại xã Phong Thạnh Tây B, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu dựa trên bộ câu hỏi soạn sẵn.

Kết quả: Ổ lăng quăng nguồn thường xuất hiện trong nhà, tập trung ở các dụng cụ chứa nước (DCCN)  trữ nước mưa và nước sạch để sinh hoạt chiếm 91,7% và 37% có lăng quăng trong chén nước chống kiến kê  chân tủ thức ăn ; tuy nhiên, không tìm thấy lăng quăng trong các DCCN khác. Tỷ lệ người dân biết nơi muỗi  vằn đẻ trứng thấp (43,2%), đồng thời hiểu sai về các biện pháp diệt lăng quăng (22,1%) và chưa biết cách đậy  kín các DCCN.

Kết  luận: Công tác truyền thông nên tập trung vào những điểm còn hạn chế của người dân để nâng cao

chất lượng phòng bệnh tại cộng đồng.

Từ khóa: Sốt Dengue/Sốt xuất huyết Dengue (SD/SXHD), Sốt xuất huyết (SXH), KP, dụng cụ chứa nước

(DCCN), hộ gia đình (HGĐ).

ABSTRACT

IDENTIFY THE SOURCE OF LARVA AND KNOWLEDGE, PRACTICE OF PEOPLE IN PHONG  THANH TAY B VI LLAGE, PHUOC LONG DISTRIC T, BAC LIEU PROVINCE TO PREVENT DENGU  E HEMORRHAGIC FEVER IN 2011

Pham Thi Nha Truc, Nguyen Thanh Phuong, Dang Van Chinh, Pham Dung Tri

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 85 ‐ 90

Background:  In  Vietnam,  Dengue  fever/Dengue  hemorrhagic  fever  (DF/DHF)  is  an  viral  disease  that  challenges to public health. The prevalence of DF/DHF is high. No vaccine is available; therefore prevention is the  most effective measures. It’s necessary to know thoroughly the larval development source and clearly identify the  limitations of the people’s knowledge and practice to take the appropriate communication measures.

Objectives: Define the source of Dengue mosquito larvae, and determinate the proportion of people have the

knowledge and accurate practice for Dengue prevention in 2011.

Methods: A cross‐sectional study of 384 households living in Phong Thanh Tay B, Phuoc Long district, Bac

Lieu province.

* Trường Cao Đẳng Y Tế Bạc Liêu    Tác giả liên lạc: Ths. Phạm Thị Nhã Trúc

**: Viện Vệ sinh Y tế Công cộng Tp.HCM  ĐT: 0983897365

Email: tructhytbl@yahoo.com.vn

85

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Result: The larval sources are mainly in the water containers in the house. The jars of rain water accounted  for  91.7%  and  the  ant  traps  for  37%;.  In  all,  67.4%  households  have  knowledge  and  60.9%  people  have  appropriate practice against DF/DHF.

Conclusion: The water containers need to be covered tighly and cleaned appropriately should be focused on

changing households’ behaviors to prevent DF/DHF.

Keywords: Dengue fever, KAP, water container, household, larva

ĐẶT VẤN ĐỀ

kê của Trung tâm Y tế huyện, năm 2010 huyện  Phước Long đã có 211 ca mắc bệnh SXH, tăng  so các năm trước và so với các huyện khác gấp  2‐3  lần(4).  Trong  đó,  xã  Phong  Thạnh  Tây  B  là  một xã vùng ven của huyện Phước Long có tỷ  lệ  mắc  bệnh  SXH  cao  nhất  huyện  trong  nhiều  năm liền: năm  20  08  có  87  ca,  năm  2009  có  71  ca và năm 2010 có 78 ca(4).

Mục tiêu nghiên cứu

Việt  Nam  là  nước  nằm  trong  khu  vực  có  dịch  SXH  lưu  hành  nặng.  Bệnh  không  chỉ  xuất  hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi  Aedes  sp  là  véctơ  truyền  bệnh.  Mức  độ  trầm  trọng  của  bệnh  cũng  như  dịch  ngày  càng  gia  tăng. Tỷ suất chết tuy có giảm do công tác điều  trị hiệu quả hơn nhưng tỷ suất mắc có khuynh  hướng  tăng  dần.  Biện  pháp  phòng  bệnh  hiệu  quả  nhất  hiện  nay  là  cần  làm  giảm  lây  truyền  bằng cách diệt ấu trùng của muỗi Aedes sp(1).

Xác  định  ổ  lăng  quăng  nguồn  truyền  bệnh  SXH; 2/ ‐Xác định tỷ lệ người dân tại xã Phong  Thạnh Tây B, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu  có  kiến  thức,  thực  hành  đúng  về  phòng  chống  SXH năm 2011.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Chủ  hộ  gia  đình  (HGĐ),  hoặc  người  có  quyền  quyết  định  những  sinh  hoạt  trong  gia  đình.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang với cở mẫu là:

n=[Z2(1‐α/2).p(1‐p)]/d2

Kết quả ta có n = (1,96 x 0,5 x 0,5)/0,05 2 = 384

Để có thể cắt đứt mắc xích trong bộ ba tam  giác  truyền  bệnh,  công  việc  cần  thiết  là  phải  xác định ổ lăng quăng phát triển từ đâu. Đồng  thời cần hiểu rõ hơn kiến thức, thực hành của  người dân còn hạn chế những điểm nào trong  công  tác  phòng  chống  bệnh.  Đây  là  những  thông  tin  quan  trọng  trong  việc  đưa  ra  quyết  định lập kế hoạch và triển khai các biện pháp  cải  thiện  chương  trình  kiểm  soát  SXH  tại  địa  phương. Do vậy, mục đích của nghiên cứu này  nhằm  xác  định  ổ  lăng  quăng  nguồn  truyền  bệnh SXH và xác định tỷ lệ người dân có kiến  thức, thực hành đúng về phòng chống SXH để  giúp  các  nhà  quản  lý  y  tế  có  số  liệu  nền,  lựa  chọn giải pháp can thiệp phù hợp.

HGĐ.

KẾT QUẢ

Đặc tính chung của mẫu nghi ên cứu  Bảng 1: Đặc tính của mẫu nghi ên cứu (n = 384)

Đặc tính mẫu nghiên cứu

Giới

Tuổi

Huyện  Phước  Long  là  một  huyện  vùng  sâu,  vùng  xa  của  tỉnh  Bạc  Liêu  có  địa  hình  thấp, đặc biệt có nhiều kênh rạch, ao tù, nước  đọng;  tập  quán  lưu  trữ  nước  mưa  trong  sinh  hoạt của người dân đã tồn tại từ lâu đời. Đây  là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng  khiến  cho  dịch  bệnh  SXH  thường  xuyên  xuất  hiện vì đặc tính sinh thái của muỗi Aedes sp là  thích đẻ trứng ở những nơi nước sạch. Tại địa  bàn  huyện  Phước  Long  hàng  năm  số  ca  mắc  SXH luôn cao hơn các huyện khác. Theo thống

Nghề nghiệp Nam Nữ ≤ 35 > 35 Làm ruộng Khác Tần số Tỷ lệ % 87,8 12,2 13,5 86,5 91,9 8,1 337 47 52 332 353 31

86

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc tính mẫu nghiên cứu

Bảng 3: Ổ lăng quăng nguồn truyền bệnh SXH

Vật chứa nước Trình độ học vấn Số lượng Vật chứa có lăng quăng Aedes sp

Số người trong HGĐ n % 3,4 13 n 4 % 1,0

HGĐ có trẻ em < 5t 380 99,0 352 91,7 Hồ chứa nước (> 500 lít) Lu, khạp, phuy (< 500 lít)

HGĐ từng có người mắc bệnh SXH ≤ cấp I > cấp I ≤ 4 người > 4 người Không Có Không Có Tần số Tỷ lệ % 47,7 52,3 55,2 44,8 77,9 22,1 83,6 16,4 183 201 212 172 299 85 321 63

Bình bông Hòn non bộ

bệnh

mắc

Đa  số  chủ  HGĐ  là  nam  chiếm  87,8%,  tuổi  đời trên 35 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm dưới  35 tuổi (86,5% so với 13,5%). Nghề nghiệp chủ  yếu  là  làm  ruộng  (91,9%).  Trình  độ  học  vấn  của  người  dân  nơi  đây  tương  đối  thấp;  47,7%  có  trình  độ  từ  cấp  I  trở  xuống.  Có  5  5,2%  gia  đình không quá 4 người/hộ. Tỷ lệ HGĐ có trẻ  em  dưới  5  tuổi  chiếm  22,1%  và  HGĐ  từng  có  người  SXH   chiếm 16,4%.

Qua quan sát trực tiếp các vật chứa nước tại  các HGĐ, kết quả nghiên cứu cho thấy có 91,7%  HGĐ  có  lăng  quăng  trong  các  DCCN  thường  dùng như lu, khạp, phuy trữ nước mưa để sinh  hoạt và 37% HGĐ có chén nước chống kiến dưới  chân tủ thức ăn có lăng quăng Aedes aegypti, một  số ít hồ chứa nước cũng có lăng quăng tuy nhiên  chỉ chiếm tỷ lệ thấp nhất là 1%.

Chén nước chống kiến 236 61,5 56 14,6 0 Vật phế thải chứa n ước 38 723 0 9,9 Tổng số 142 0 0 0 498 37,0 0 0 0

Xác  định  ổ  lăng  quăng  nguồn  tại  địa  bàn

nghiên cứu

Kiến thức, thực hành của người dân về phòng

Bảng 2: Phân bố các vật chứa nước

chống SXH

Vật chứa nước Số lượng Có nắp đậy Có thiên

Bảng 4: Kiến thức phòng chống SXH (n = 384)

địch

n 13 (%) 3,4 n 8 (%) 2,1 n 3 (%) 0,8

Tần số Tỷ lệ % 96,4 88,0 8,6 370 338 33 380 99,0 319 83,1 34 8,9

236 61,5 - 0 0 -

370 322 113 96,4 83,9 29,4

56 0 38 14,6 0 9,9 - - - 0 0 0 0 0 0 - - - 166 353 349 43,2 91,9 90,9 Hồ chứa nước (> 500 lít) Lu, khạp, phuy (< 500 lít) Chén nước chống kiến kê chân tủ thức ăn Bình bông Hòn non bộ Vật phế thải chứa n ước Tổng số 723 327 37

Có 83,1% gia đình có sử dụng nắp đậy các  DCCN nhưng chỉ có 8,9% các DCCN này được  thả cá, tuy nhiên việc thả cá chủ yếu tập trung  vào các DCCN có dung tích < 500 lít. Bên cạnh  đó,  61,5%  HGĐ  có  sử  dụng  chén  nước  chống  kiến  kê  dưới  chân  tủ  thức  ăn,  14,6%  HGĐ  thường  cắm  hoa  tươi  trong  thờ  cúng  hàng  ngày  và  9,9%  vật  phế  thải  có  thể  chứa  nước  vẫn còn bị người dân vứt ra xung quanh nhà.

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  96,4%  đối  tượng tham gia đã từng nghe nói về bệnh SXH.  Khi được hỏi về dấu hiệu nhận biết bệnh SXH,  có  88%  đối  tượng  hiểu  đúng  về  bệnh  nhưng  người  dân  biết  được  các  dấu  hiệu  khi  bệnh  chuyển nặng chiếm rất thấp 8,6%. Kiến thức về  phòng bệnh SXH của người dân nơi đây khá tốt  với 91,9% đối tượng biết biện pháp phòng chống

Nội dung Đã từng nghe nói về bệnh SXH Hiểu biết đúng dấu hiệu của bệnh SXH Biết đúng dấu hiệu khi bệnh chuyển nặng Biết đường lây truyền của bệnh Biết muỗi vằn là trung gian truyền bệnh Biết thời điểm đốt ng ười của muỗi Aedes sp Biết nơi đẻ trứng của muỗ i Aedes sp Biết SXH có thể phòng tránh được Biết biện pháp ph òng chống SXH tốt nhất Biết biện pháp ph òng tránh muỗi đốt Biết biện pháp diệt lăng quăng 145 85 37,8 22,1

87

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HGĐ có trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 22,1% và HGĐ  từng có người mắc bệnh SXH chiếm 16,4%.

Nghiên cứu Y học  bệnh  tốt  nhất  và  90,9%  biết  cách  phòng  tránh  muỗi đốt.

Bảng 5: Thực hành phòng chống SXH (n = 384)

Ổ lăng quăng nguồn

Tần số Tỷ lệ % 99,2 23,2 97,1 381 89 373

242 244 63,0 63,5

Hầu  hết  các  HGĐ  v  ùng  nông  thôn  đều  có  thói quen trữ nước mưa để sinh hoạt, nhưng chỉ  có  83,1%  gia  đình  có  sử  dụng  nắp  đậy  các  DCCN. Các nắp đậy này thường được làm bằng  xi măng, nhôm và nhựa, tuy nhiên các loại nắp  này thường không kín và thường có một khoảng  nhỏ  đủ  cho  muỗi  có  thể  bay  vào  trong  để  đẻ  trứng nên dù có đậy nắp nhưng tỷ lệ các DCCN  có lăng quăng vẫn chiếm tỷ lệ khá cao  (91,7%).  Số  DCCN  được  thả  cá  chiếm  8,9%,  tuy  nhiên  việc thả cá chủ yếu tập trung vào các DCCN có  dung  tích  <  500  lít  như  lu,  kiệu,  khạp,  phuy,  thùng.  Các  DCCN  chứa  nước  lớn  như  hồ  thì  ít  được  thả  cá  hơn  do  người  dân  quan  niệm  hồ  luôn  đậy  kín  nhưng  thực  tế  các  nắp  hồ  này  thường chỉ được đậy bằng các mái tol đã hư nên  không kín, vì vậy tỷ lệ hồ chứa nước vẫn thấy có  lăng  quăng  nhưng  chiếm  tỷ  lệ  thấp  (1%).  Tuy  nhiên,  tỷ  lệ  này  có  thể  chưa  chính  xác  do  hồ  chứa  nước  lớn  và  khó  quan  sát  để  đánh  giá  đúng vào bảng kiểm quan sát.

Qua  phỏng  vấn  kết  hợp  với  quan  sát  bảng  kiểm cho thấy có 97, 1% HGĐ có dùng nắp đậy  các  DCCN;  65,4%  HGĐ  có  súc  rửa  các  DCCN  thường xuyên. Có 45,1% HGĐ súc  rửa định kỳ  các  DCCN  ≤  7  ngày/lần;  63%  HGĐ  có  súc  rửa  các  DCCN  như  lọ  cắm  hoa,  chén  nước  chống  kiến dưới chân tủ thức ăn; 34,6% hộ súc rửa các  DCCN  đúng  hạn  định  (≤  7  ngày/lần);  36,5%  HGĐ vứt bỏ VDPT không đúng qui định; 99,7%  HGĐ có vệ sinh nhà cửa tốt, thông thoáng, sắp  xếp quần áo ngăn nắp, màn treo gọn gàng, loại  bỏ nơi trú ẩn của muỗi. Tuy nhiên, có 3% HGĐ  vệ  sinh  môi  trường  không  đạt,  có  VDPT  chứa  nước  và  ao  tù  nước  đọng  quanh  nhà.  Kết  quả  này  trái  ngược  với  quan  sát  thực  tế  trên  các  DCCN  trong  nhà,  có  đến  91,7%  HGĐ  có  lăng  quăng.

379 383 383 98,7 99,7 99,7 Nội dung Có ngủ mùng Ngủ mùng cả ngày lẫn đêm Có đậy nắp các DCCN (lu, phuy, khạp, kiệu, xô, thùng) Súc rửa đúng các DCCN Vứt bỏ các VDPT (tô, chén bễ, gáo dừa…) Sử dụng các biện pháp xua, diệt muỗi Quan sát vệ sinh nhà ở đạt Quan sát vệ sinh môi trường xung quanh nh à đạt

BÀN LUẬN

Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu

Trạm Y tế cần tăng cường công tác giáo dục  truyền  thông  phòng  chống  bệnh  SXH,  đặc  biệt  tập trung vào việc hướng dẫn đậy như thế nào  là  đậy  kín  các  DCCN  sinh  hoạt  hàng  ngày  vì  khái niệm đậy kín của người dân vẫn còn hiểu  sai lệch rất nhiều, đồng thời hướng dẫn kỹ cách  ngăn  ngừa  muỗi  có  thể  đẻ  trứng  vào  các  vật  chứa nước trong nhà như chén nước chống kiến  dưới  chân  tủ  thức  ăn  –  là  một  loại  DCCN  rất  thường dùng ở miền Nam.

Kiến  thức,  thực  hành  của  người  dân  về  phòng chống SXH

Đa  số  chủ  HGĐ  là  nam  (87,8%),  tỷ  lệ  này  phản  ảnh  đúng  thực  tế  quan  hệ  trong  gia  đình  của  các  tỉnh  khu  vực  phía  Nam  phần  lớn  chủ  HGĐ  là  người  cha,  người  chồng,  người  ông  trong  gia  đình,  người  đàn  ông  có  quyền  quyết  định các vấn đề sinh hoạt và có tuổi đời trên 35  tuổi  (86,5%).  Đây  là  vùng  nông  thôn  nên  nghề  nghiệp  chủ  yếu  là  làm  ruộng  (91,9%),  trình  độ  học vấn của người dân nơi đây tương đối thấp  (47,7%  có  trình  độ  từ  cấp  I  trở  xuống).  Tỷ  lệ

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  hầu  hết  đối  tượng tham gia đã từng nghe nói về bệnh SXH  (96,4%),  chứng  tỏ  hiện  nay  SXH  không  còn  là  vấn đề xa lạ trong cộng đồng. Khi  được  hỏi  về  dấu  hiệu  nhận  biết  bệnh  SXH,  có  đến  88%  đối  tượng hiểu đúng về bệnh (kể được ít nhất 2 dấu  hiệu sốt và xuất huyết). Điều này cho thấy vẫn

88

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

kết quả này trái ngược với quan sát thực tế các  DCCN  trong  nhà,  vẫn  còn  91,7%  HGĐ  có  lăng  quăng trong các DCCN này.

Qua  đánh  giá  cho  thấy  người  dân  có  kiến  thức  rất  tốt  về  thực  hành  phòng  chống  SXH  nhưng từ kiến thức chuyển qua thay đổi hành vi  vẫn  còn  “một  quãng  đường  dài”  dẫn  đến  hậu  quả là dịch SXH vẫn liên tục xảy ra trên địa bàn  nghiên cứu trong nhiều năm liền. Nguyên nhân  do công tác TT ‐GDSK của địa phương chưa xác  định được những mặt hạn chế của người dân do  đâu. Bên cạnh đó, Trạm y tế không đủ kinh phí  để hoạt động thường xuyên, cộng tác viên chưa  nhiệt  tình,  chính  quyền  địa  phương  chưa  quan  tâm về công tác phòng chống SXH, chưa xã hội  hóa  được  công  tác  y  tế,  chỉ  nói  trên  lý  thuyết  nhưng thực tế vẫn chưa triển khai được.

KẾT LUẬN

Ổ  lăng  quăng  nguồn  thường  xuất  hiện  trong nhà, tập trung ở các DCCN có trữ nước  mưa và nước sạch để sinh hoạt (lu, khạp, kiệu)  chiếm 91,7% và 37% có lăng quăng trong chén  nước  chống  kiến  kê  chân  tủ  thức  ăn,  không  thấy  lăng  quăng  trong  các  DCCN  khác.  Tỷ  lệ  người  dân  biết  nơi  đẻ  trứng  thấp  (43,2%)  và  thời  điểm  đốt  người  của  muỗi  vằn  rất  thấp  (29,4%).  Tỷ  lệ  người  dân  biết  các  biện  pháp  diệt  lăng  quăng  thấp  (22,1%)  và  hiểu  sai  về  việc đậy kín các DCCN rất nhiều.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  còn  tỷ  lệ  rất  nhỏ  các  đối  tượng  vẫn  chưa  nhận  biết bệnh, không biết cách theo dõi và xử trí khi  gia đình có người mắc bệnh SXH. Nguyên nhân  là do những HGĐ này ở sâu trong đồng ruộng,  kênh rạch nên việc tiếp cận những thông tin về  bệnh SXH rất hạn chế. Bên cạnh đó, người dân  biết  được  các  dấu  hiệu  khi  bệnh  chuyển  nặng  chiếm rất thấp 8,6% nhưng có đến 96,4% người  dân  biết  được  nguyên  nhân  lây  truyền  bệnh  SXH  là  muỗi.  Kết  quả  này  không  khác  bi  ệt  nhiều với nghiên cứu ở Phú Vinh ‐ Định Quán ‐  Đồng  Nai  của  Nguyễn  Văn  Danh  năm  2005  là  93,9%(2),  có  thể  do  các  nghiên  cứu  cùng  được  thực  hiện  trên  địa  bàn  khu  vực  phía  Nam,  nơi  thường  xuyên  xảy  ra  dịch  bệnh  này,  đồng  thời  một phần do người dân thường được nghe nhắc  đến nguyên nhân lây nhiễm bệnh trên các kênh  phương  tiện  truyền  thông  đại  chúng.  Tỷ  lệ  người dân biết nguyên nhân và loại muỗi truyền  bệnh khá cao nhưng số người biết nơi đẻ trứng  (43,2%) và thời điểm đốt người của muỗi vằn lại  rất  thấp  (29,4%).  Điều  này  chứng  tỏ  người  dân  chưa  hiểu  rõ  nơi  sinh  sản  cũng  như  thời  điểm  mà loại muỗi gây bệnh này hoạt động mạnh và  có thể truyền bệnh để có biện pháp phòng chống  tốt  hơn.  Kiến  thức  về  phòng  bệnh  SXH  của  người dân nơi đây khá tốt với 91,9% đối tượng  biết  biện  pháp  phòng  chống  bệnh  tốt  nhất  và  90,9%  biết  cách  phòng  tránh  muỗi  đốt,  tỷ  lệ  người  dân  biết  các  biện  pháp  diệt  lăng  quăng  trong  nghiên  cứu  này  vẫn  còn  thấp  (22,1%).  Vì  vậy,  trong  thời  gian  tới  địa  phương  cần  tăng  cường vận động, giám sát, tiêu diệt lăng quăng  để hạn chế muỗi phát triển.

Tỷ  lệ  HGĐ  súc  rửa  các  DCCN  đúng  hạn  định (≤ 7 ngày/lần) là 34,6%; có 3% HGĐ vệ sinh  môi trường không đạt, các VDPT chứa nước và  ao tù nước đọng vẫn còn quanh nhà.

KHUYẾN NGHỊ

Đối với Ngành Y tế

Vận  động  và  giúp  đỡ  người  dân  thường  xuyên súc rửa các DCCN như lu, phuy, đặc biệt  các DCCN mưa trong nhà  và  chén  nước  chống  kiến dưới chân tủ. Bên cạnh đó, cần tăng cường  giáo dục hành vi của người dân, đặc biệt là cần  nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của họ trong vấn  đề kiểm soát muỗi, lăng quăng, cụ thể như: giải  thích rõ nơi muỗi thường đẻ trứng và thời điểm

Về  thực  hành,  có  45,1%  HGĐ  súc  rửa  định  kỳ các DCCN một tuần một  lần  ;  63%  HGĐ  có  súc  rửa  các  DCCN  như  lọ  cắm  hoa,  chén  nước  chống kiến dưới  chân  tủ  thức  ăn;  34,6%  hộ  súc  rửa  các  DCCN  đúng  hạn  định  (≤  7  ngày/lần);  36,5% HGĐ vứt bỏ VDPT không đúng qui định;  99,7%  HGĐ  có  vệ  sinh  nhà  cửa  tốt,  thông  thoáng, sắp xếp quần áo ngăn nắp, màn treo gọn  gàng, loại bỏ nơi trú ẩn của muỗi và có 3% HGĐ  vệ  sinh  môi  trường  không  đạt,  có  VDPT  chứa  nước và ao tù nước đọng quanh nhà. Tuy nhiên,

89

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

2.

Nghiên cứu Y học  hoạt  động  của  muỗi,  hướng  dẫn  các  biện  pháp  diệt lăng quăng dựa trên kết quả nghiên cứu để  có thể cắt đứt mắc xích quan trọng của vectơ.

Đối với cộng đồng

3.

4.

Nâng cao sự nhận thức và thay đổi hành vi  của mỗi cá nhân, cộng đồng phải thường xuyên  kiểm soát các DCCN sinh hoạt để loại trừ “nhà  hộ sinh” của các vectơ truyền bệnh.

bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue, Nhà xuất bản Y học, Hà  nội.  Lý Lệ Lan (2004), Khảo sát kiến thức ‐ thái độ ‐ thực hành phòng  chống  SXH  của  ng  ười  dân  quận  5,  thành  phố  HCM  năm  2004,  luận  văn  tốt  nghiệp  Bác  sĩ  chuy  ên  khoa  cấp  1  YTCC,  TP.HCM.  Nguyễn văn Danh (2005), Kiến thức – thái độ ‐ hành vi về phòng  chống SXH của ng ười dân xã Phú Vinh, huy ện Định Quán, tỉnh  Đồng Nai năm 2005, luận  văn  tốt  nghiệp  Bác  sĩ  chuyện  khoa  cấp 1 YTCC, TP.HCM.  TTYT  huyện  Phước  Long  (2010),  Báo cáo TTYT huyện Phước  Long năm 2010.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Bộ Y tế, Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số  bệnh  xã  hội,  bệnh  dịch  nguy  hiểm  và  HIV/AIDS  &  dự  án  phòng chống SD/SXHD (2003), Giám sát, chẩn đoán và điều trị

90

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ NHIỄM  ẤU TRÙNG GIUN TOXOCARA SPP Ở MỘT SỐ ĐIỂM TẠI BÌNH ĐỊNH VÀ GIA  LAI

Bùi Văn Tuấn*, Nguyễn Văn Chương*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh giun đũa chó mèo thuộc nhóm “bệnh động vật” là bệnh từ thú có xương sống lây truyền  sang người. Người bị nhiễm bệnh do tình cờ nuốt trứng có ấu trùng của Toxocara spp nhiễm trong đất, nước,  thức ăn từ phân của những chó con bị nhiễm bệnh.

Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ người có xét nghiệm ELISA nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên  cứu. 2. Xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa chó trên vật chủ chính (chó) và trứng giun đũa chó, mèo ở môi trường  đất. 3. Xác định một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo tại các điểm nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả: xác định tỷ lệ người nhiễm ấu trùng giun đũa chó  bằng xét nghiệm ELISA; xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa chó ở chó bằng kỹ thuật xét nghiệm phân chó tìm trứng  theo phương pháp ly tâm lắng cặn với Formalin ether; xác định sự tồn tại trứng giun đũa chó ở ngoại cảnh bằng  xét nghiệm đất Romanenko; xác định một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó bằng bộ câu hỏi phỏng  vấn

Kết quả: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp ở người bằng xét nghiệm huyết thanh học tại các điểm  nghiên cứu từ 13,1‐16, 8%. Tỷ lệ chó bị nhiễm tại các điểm nghiên cứu là 41,3%. Có sự khác biệt về nhiễm ấu  trùng giun Toxocara spp giữa nuôi và không nuôi chó tại các điểm nghiên cứu (p < 0,05 và p < 0,01). Nguy cơ  nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp ở những người trong hộ có nuôi chó cao gấp 1,9‐2,8 lần so với những người  trong hộ không nuôi. Tỷ lệ nhiễm trứng giun ở đất tại những hộ có nuôi chó ở các điểm nghiên cứu từ 35,7‐ 42,9%, tại những hộ không nuôi chó từ 8,6‐20,5%. Nguy cơ các mẫu đất bị nhiễm trứng giun Toxocara spp ở  những hộ có nuôi chó cao gấp từ 2,9‐9,4 lần ở những hộ không nuôi chó (p < 0,05 và p < 0,01). Mật độ nhiễm  trứng giun Toxocara spp ở các mẫu đất tại các hộ có nuôi chó dao động từ 5,5‐7,3 trứng/100 gam đất, tại các hộ  không nuôi chó từ 0,8‐2,1 trứng/100 gam đất. Những người tiếp xúc đất, bồng bế chó mèo thường xuyên có  nguy cơ nhiễm ấu trùng Toxocara spp.

Kết luận: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp ở người tại các điểm nghiên cứu từ 13,1‐16,8%. Tỷ lệ  chó bị nhiễm tại các điểm nghiên cứu là 41,30%. Tỷ lệ nhiễm trứng giun ở đất tại những hộ có nuôi chó ở các  điểm nghiên cứu từ 35,7‐42,9%, tại những hộ không nuôi chó từ 8,6‐20,5%. Các yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng  Toxocara spp ở người là tiếp xúc đất, bồng bế chó mèo thường xuyên.

Từ khóa: Bệnh giun đũa chó mèo, dịch tễ, tỉ lệ nhiễm trùng

ABSTRACT

EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS & RISK FACTORS FOR TOXOCARA SPP INFECTION IN  SOME SITES IN BINH DINH & GIA LAI PROVINCES.

Bui Van Tuan, Nguyen Van Chuong

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 91 ‐ 96

Background: Toxocariasis is one of zoonosis. Humans get toxocariasis by ingestion of embryonated eggs of

* Viện Sốt rét‐KST‐CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: TS.Nguyễn Văn Chương

ĐT: 0914004839

Email: chuongkst@yahoo.com.vn

90

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Toxocara spp which are released in the feces of infected animals and then adhere to contaminated sources.

Objectives: 1. To determine the proportion of people infected with Toxocara spp using ELISA test in study  sites. 2. To determine the rates of dog roundworm infection in definitive hosts (dogs) and Toxocara spp eggs in  contaminated soil. 3. To identify risk factors for zoonotic Toxocara spp infection in the study sites.

Methods: This was a cross‐sectional study carried out to determine the rate of Toxocara spp infection by  ELISA test, rate of dog roundworm infection in dogs by examining dog excrement for embryonated eggs using  the  method  of  centrifugal  sedimentation  with  Formalin  ether,  and  existence  of  dog roundworm  eggs  in  environment by  Romanenko  soil  test,  and  to  identiy  some  risk  factors  for  Toxocara  spp  infection  by  interview  with the questionnaire.

Result:  The  rate  of  Toxocara  spp  infection  in  humans  in  the  study  sites  was  from  13.1  to  16.8%.  The  average rate of infected dogs in study sites was 41.3%. The difference in Toxocara spp infection was found in  people  who  raise  dogs  and  those  who  don’t  in  study  sites  (p  <  0.05  and  p  <  0.01).  The  risk  of  Toxocara  spp  infection  in  people  who  raise  dogs  was  from  1.9  to  2.8  times  as  high  as  those  who  don’t.  In  dog‐raising  households,  the  rate  of  Toxocara  spp  eggs  contaminated  soil  was  35.7‐42.9%  compared  with  8.6‐20.5%  in  households  not  raising  dogs.  Soil  samples  in  households  raising  dogs  was  2.9‐9.4  times  more  likely  at  risk  of  contamination with Toxocara spp eggs than those in households not raising them (p<0.05 and p>0.01). In dog‐ raising households, the density of Toxocara spp eggs in soil samples was 0.8‐2.1 eggs/100 gram of soil, compared  with 0.8‐2.1 eggs/100 gram of soil in households not raising dogs. People who often contacted with soil, embraced  dogs or cats were more likely to get infected with Toxocara spp.

Conclusion: the infection rates of Toxocara spp in  humans  identified  by  serological  surveys  in  the  study  sites  was  from  13.1  to  16.8%,  respectively.  The  average  rate  of  infected  dogs  in  the  study  was  41.30%.,  the  infection rate of worm eggs was from 35.7‐42.9% in dog‐raising households and 8.6‐20.5% for households that  did not raise dogs. The risk of Toxocara spp infection in people who often contact with soil was from 2.0 to 2.6  times as high as in those who don’t. People who often embrace dogs or cats were from 2.0 to 3.3 times more likely  to get infected with Toxocara spp than those who don’t.

Keywords: toxocara, infection, prevalence, epidemiology

ĐẶT VẤN ĐỀ

nghiệm tại các cơ sở y tế. Tuy nhiên hiện nay các  cơ sở y tế chỉ quan tâm đến khám, xét nghiệm và  điều trị, thiếu các nghiên cứu về đặc điểm dịch  tễ  và  các  yếu  tố  nguy  cơ.  Việc  nghiên  cứu  các  đặc  điểm  dịch  tễ  của  bệnh  ấu  trùng  giun  Toxocara spp, phương thức lan truyền cũng như  các yếu tố nguy cơ là cần thiết, trên cơ sở đó sẽ  đề  xuất  những  biện  pháp  can  thiệp  hữu  hiệu  nhằm giảm tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng.

Mục tiêu đề tài

1. Xác định tỷ lệ người có xét nghiệm ELISA  nhiễm ấu trùng giun đũa chó bằng tại các điểm  nghiên cứu.

Bệnh  giun  đũa  chó  mèo  thuộc  nhóm  “bệnh  động  vật”  tức  bệnh  từ  thú  có  xương  sống  lây  truyền sang người. Người bị nhiễm bệnh do tình  cờ  nuốt  trứng  có  ấu  trùng  của  Toxocara  spp  nhiễm  trong  đất,  nước,  thức  ăn  do  chất  phóng  uế  bừa  bãi  của  những  chó  con  bị  nhiễm  bệnh.  Các  ấu  trùng  đi  vào  ruột,  di  chuyển  đến  nội  tạng,  tại  đây  chúng  có  thể  sống  nhiều  năm  ở  dạng tự do hay hóa kén nhưng sẽ không bao giờ  phát  triển  thành  giun  trưởng  thành.  Ngoài  ra  người có thể nhiễm do ăn thịt thú vật nấu không  chín(2,6).

2. Xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa chó trên vật  chủ  chính  (chó)  và  trứng  giun  đũa  chó,  mèo  ở  môi trường đất.

Những năm gần đây số lượng bệnh nhân có  chiều hướng ngày càng gia tăng có thể do mầm  bệnh  được  phát  tán  nhiều  ra  ngoại  cảnh,  mặt  khác  người  dân  đã  có  ý  thức  đến  khám  và  xét

3. Xác định một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu

91

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  trùng giun đũa chó/mèo tại các điểm nghiên cứu.

ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người dân được chọn trong 4 xã.

Chó  được  chọn  trong  100  hộ  gia  đình.  Mẫu

đất thu ở sân, vườn của 100 hộ gia đình.

Địa điểm

Chọn 2 xã thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình  Định  và  2  xã  thuộc  thị  xã  An  Khê  tỉnh  Gia  Lai.  Tại  An  Nhơn,  chọn  xã  Nhơn  Phong  là  xã  có  số  chó nhiều và xã có tỷ lệ nuôi  chó  ít  là  xã  Nhơn  Hưng.  Tại  thị  xã  An  Khê,  chọn  xã  có  tỷ  lệ  nuôi  chó nhiều là xã Song An và xã có tỷ lệ nuôi chó ít  là phường Tây Sơn.

Thời gian

điểm  nghiên  cứu  từ  13,1‐16,8%.  Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  chọn  một  số  điểm  tại  Bình  Định và Gia Lai là hai địa phương có  số  lượng  bệnh nhân nhiễm ấu trùng Toxocara spp cao nhất  (số  liệu  tại  Phòng  Khám  Viện  Sốt  rét‐KST‐CT  Quy  Nhơn),  tuy  nhiên  so  với  nghiên  cứu  của  Trần Thị Hồng tại xã An Phú, huyện Củ Chi, TP  HCM tỷ lệ huyết thanh dương tính là 38,4%(4) và  nghiên cứu của Trần Vinh Hiển tại hai xã Chư Pả  và  H’  Bông  (Gia  Lai)  tỷ  lệ  huyết  thanh  dương  tính  là  50%(5)  thì  tỷ  lệ  dương  tính  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thấp  hơn.  Không  có  sự  khác  biệt  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp  ở  người  giữa  điểm  nuôi  chó  nhiều  và  điểm  nuôi  chó  ít.  Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  chọn  xã  Nhơn  Phong của Bình Định và xã Song An của Gia Lai  là điểm nuôi chó nhiều, xã Nhơn Hưng của Bình  Định  và  phường  Tây  Sơn  của  Gia  Lai  là  điểm  nuôi chó ít.

Từ tháng 3/2011 ‐ 12/2011.

Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu

Bảng 2: Mức độ huyết thanh dương tính đọc theo  mật độ quang (OD)  Xã/phường Số (+)

OD/ngưỡng 1,5 - < 2 ≥ 2

1 - < 1,5 46 45 43 36

Mức  độ  huyết  thanh  dương  tính  chủ  yếu  ở  mức thấp (70,8%), mức OD/ngưỡng lớn hơn hoặc  bằng 2 chỉ chiếm 6,3%.

Cắt ngang mô tả, mô tả tỷ lệ nhiễm ấu trùng  giun đũa chó bằng xét nghiệm ELISA; mô tả tỷ  lệ nhiễm giun đũa chó ở chó bằng kỹ thuật xét  nghiệm  phân  chó  tìm  trứng  theo  phương  pháp  ly tâm lắng cặn với Formalin ether; mô tả sự tồn  tại  trứng  giun  đũa  chó  ở  ngoại  cảnh  bằng  xét  nghiệm  đất  Romanenko;  mô  tả  một  số  yếu  tố  nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó bằng bộ  câu hỏi phỏng vấn.

21 7 14 13 5 3 3 4 72 55 60 53 240 170 (70,8%) 55 (22,9%) 15 (6,3%) Nhơn Phong Nhơn Hưng Song An Tây Sơn Cộng

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Kết  quả  điều  tra  trứng  giun  Toxocara  spp  trên chó và môi trường đất  Bảng 3: Tỷ lệ nuôi chó ở các hộ gia đình tại các điểm  nghiên cứu

p Tỉnh Xã/phường Số hộ điều tra Tỷ lệ (%)

Kết  quả  điều  tra  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara spp ở người bằng XN ELISA  Bảng 1: Tỷ lệ người có huyết thanh dương tính với  Toxocara canis

Tỉnh p < 0,05 Bình Định Bình Định > 0,05

Tỷ  lệ  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp  ở  người bằng xét nghiệm huyết thanh học tại các

Xã  Nhơn  Phong  và  xã  Song  An  có  tỷ  lệ  các  hộ  nuôi  chó  nhiều,  xã  Nhơn  Hưng  và  phường  Tây Sơn có tỷ lệ các hộ nuôi chó ít, sự khác biệt có

Gia Lai < 0,05 Nhơn Phong Nhơn Hưng Song An Tây Sơn Gia Lai > 0,05 Cộng 100 100 100 100 400 Số hộ nuôi chó 56 30 55 28 169 56,0 30,0 55,0 28,0 42,3 Xã/phường Số XN Số (+) Tỷ lệ (%) Nhơn Phong 429 406 Nhơn Hưng 417 Song An 406 Tây Sơn 1.658 16, 8 13,5 14,4 13,1 14,47 72 55 60 53 240 Cộng

92

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Bảng 4: Tỷ lệ chó bị nhiễm Toxocara canis

Toxocara spp ở những hộ có nuôi chó cao  gấp  từ  2,9‐9,4 lần ở những hộ không nuôi chó (p < 0,05  và p < 0,01).

Tỉnh Xã/phường Số chó p Số chó bị nhiễm Tỷ lệ (%)

> 0,05 Bình Định

Tỷ  lệ  chó  bị  nhiễm  tại  các  điểm  nghiên  cứu  chung là 41,30%. Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ  chó nhiễm với nuôi chó tại các điểm nghiên cứu.

Gia Lai > 0,05 Nhơn Phong Nhơn Hưng Song An Tây Sơn Cộng xét nghiệm 60 32 58 34 184 28 11 25 12 76 46, 7 34,4 43,1 35,3 41,3

Bảng 5: Liên quan giữa nhiễm ấu trùng giun  Toxocara spp ở người và nuôi chó  Xã/phường

p/OR

Có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm trứng  giun Toxocara spp ở đất. Nguy cơ các mẫu đất bị  nhiễm  trứng  giun  Toxocara  spp  ở  những  hộ  có  nuôi chó cao gấp từ 2,9‐9,4 lần ở những hộ không  nuôi  chó  (p  <  0,05  và  p  <  0,01).  Mật  độ  nhiễm  trứng giun Toxocara spp ở các mẫu đất tại các hộ  có  nuôi  chó  dao  động  từ  5,5‐7,3  trứng/100  gam  đất,  tại  các  hộ  không  nuôi  chó  từ  0,8‐2,1  trứng/100  gam  đất.  Mật  độ  nhiễm  trứng  giun  chung ở đất là 3,8 trứng/100 gam đất, so với kết  quả của S. Dubná năm 2006, điều tra nhiễm trứng  Toxocara  spp  vùng  thành  thị  và  nông  thôn  tại  Praha,  Cộng  hòa  Séc  cho  thấy  số  trứng  trung  bình trong 100 gam đất là 6,2 trứng(1) thì nghiên  cứu của chúng tôi thấp hơn.

Nhơn Phong

Nhơn Hưng

Song An

Bảng 7: Mật độ nhiễm trứng giun Toxocara spp ở  đất  Xã/phường Hộ nuôi

chó Số mẫu (+) Tây Sơn Số mẫu đất xét nghiệm < 0,05 OR = 1,9 < 0,01 OR = 2,8 < 0,05 OR = 2,0 < 0,01 OR = 2,6 Nuôi chó Không nuôi Nuôi chó Không nuôi Nuôi chó Không nuôi Nuôi chó Không nuôi Nhiễm Không nhiễm 183 174 100 251 183 174 100 253 48 24 29 26 41 19 27 26

Số trứngTB/mẫu (100 g/mẫu) 7,3 2,1 56 44 24 9 Nhơn Phong Nuôi chó Không nuôi

Có  sự  khác  biệt  giữa  nuôi  chó  và  nhiễm  ấu  trùng giun Toxocara spp tại các điểm nghiên cứu  (p  <  0,05  và  p  <  0,01).  Nguy  cơ  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp  ở  những  người  trong  hộ  có  nuôi  chó  cao  gấp  từ  1,9‐2,8  lần  ở  những  người  trong hộ không nuôi.

30 70 12 6 5,6 0,9 Nhơn Hưng Nuôi chó Không nuôi

55 45 23 8 6,8 1,9 Song An Nuôi chó Không nuôi

28 72 10 4 5,5 0,8 chó Tỷ lệ (%) Tây Sơn Nuôi chó Không nuôi Cộng 400 96 3,8 Nuôi chó Nhơn Phong

Nuôi chó Nhơn Hưng

Mật  độ  nhiễm  trứng  giun  Toxocara spp ở  các  mẫu  đất  tại  các  hộ  có  nuôi  chó  từ  5,5‐7,3  trứng/100 gam đất, tại các hộ không nuôi chó từ  0,8‐2,1 trứng/100 gam đất.

Nuôi chó Song An

Nuôi chó Tây Sơn < 0,05 OR = 2,9 < 0,01 OR = 7,1 < 0,05 OR = 3,3 < 0,01 OR = 9,4

Bảng 6: Tỷ lệ nhiễm trứng giun Toxocara spp ở đất  Số Xã/phường Hộ nuôi p/OR mẫu đất XN 56 Không nuôi 44 30 Không nuôi 70 55 Không nuôi 45 28 Không nuôi 72

Số mẫu (+) 24 9 12 6 23 8 10 4 42,6 20, 5 40,0 8,6 41,8 17,8 35,7 5,6

Uống nước lã Ăn rau sống

Kết  quả  điều  tra  một  số  yếu  tố  nguy  cơ  nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp   Bảng 8: Một số yếu tố nguy cơ do thói quen, tập  quán sinh hoạt  Xã/phường Số điều tra

Tỷ lệ nhiễm trứng giun ở đất tại những hộ có  nuôi chó ở các điểm NC từ 35,7‐42,9%, tại những  hộ không nuôi chó từ 8,6‐20,5%. Có sự khác biệt  giữa nuôi chó và nhiễm trứng giun Toxocara spp ở  đất.  Nguy  cơ  các  mẫu  đất  bị  nhiễm  trứng  giun

Tiếp xúc đất, nghịch Bồng bế chó, mèo

93

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tây Sơn 10 43 23 330 2,1 < 0,01 OR = 3,3 xuyên Thường xuyên Không thường xuyên

Kết  quả  điều  tra  1.658  người  tại  các  điểm  nghiên  cứu  cho  thấy  tỷ  lệ  người  dân  có  ăn  rau  sống là 30,27%, uống nước lã là 15,38%, tiếp xúc  đất  là  15,02%,  bồng  bế  chó  mèo  là  11,88%.  Khi  phân tích mối liên quan giữa ăn rau sống, uống  nước lã với nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp cho  thấy không có mối liên quan (p > 0,05).

Nguy cơ nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp ở  những người bồng bế chó mèo thường xuyên cao  gấp  từ  2,0‐3,3  lần  ở  những  người  không  thường  xuyên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <  0,05  và  p  <  0,01.  Điều  này  phù  hợp  với  nghiên  cứu của Phan Anh Tuấn và tác giả nước ngoài ở  Đài  Loan,  Indonesia,  Pháp.  Khi  nuôi,  bồng  bế  chó  mèo,  nhất  là  chó  con,  khi  chó  bị  nhiễm  Toxocara canis, chó liếm hậu môn, liếm lông hoặc  liếm người, người sẽ có nguy cơ mắc bệnh (2,3).

Nhơn Phong 429 Nhơn Hưng 406 417 406 1.658 Song An Tây Sơn Cộng 156 118 120 108 502 (30,3%) 77 57 61 60 255 (15,4%) đất 70 49 75 55 249 (15 %) 60 34 70 33 197 (11,9%)

KẾT LUẬN

Bảng 9: Liên quan giữa nghịch đất, tiếp xúc đất và  nhiễm ấu trùng Toxocara spp  Xã/phường Nghịch, tiếp xúc

Nhiễm Không nhiễm đất

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng  giun  Toxocara spp ở  người tại các điểm nghiên cứu

Nhơn Phong 21 51 49 308

Tỷ  lệ  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp  ở  người  bằng  xét  nghiệm  huyết  thanh  học  tại  các  điểm  nghiên  cứu  từ  13,1‐16,  8%.  Không  có  sự  khác  biệt  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp  ở  người  giữa  điểm  nuôi  chó  nhiều  và  điểm  nuôi  chó ít.

Nhơn Hưng 12 43 37 304

Song An 17 43 58 299

Tây Sơn 13 40 42 311 p OR < 0,05 OR = 2,6 < 0,05 OR = 2,3 < 0,05 OR = 2,0 < 0,05 OR = 2,4 Thường xuyên Không thường xuyên Thường xuyên Không thường xuyên Thường xuyên Không thường xuyên Thường xuyên Không thường xuyên

Tỷ  lệ  nhiễm  giun  đũa  chó  trên  vật  chủ  chính  (chó)  và  trứng  giun  đũa  chó,  mèo  ở  môi trường đất

Tỷ  lệ  chó  bị  nhiễm  tại  các  điểm  nghiên  cứu  chung là 41,3%. Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ  chó nhiễm với nuôi chó tại các điểm nghiên cứu.  Có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng  giun  Toxocara  spp  tại  các  điểm  nghiên  cứu  (p  <  0,05 và p < 0,01). Nguy cơ nhiễm ấu trùng giun  Toxocara spp ở những người trong hộ có nuôi chó  cao  gấp  từ  1,9‐2,8  lần  ở  những  người  trong  hộ  không nuôi.

Có  sự  khác  biệt  giữa  tiếp  xúc  đất  thường  xuyên  và  không  thường  xuyên  với  nhiễm  ấu  trùng giun Toxocara spp tại các điểm nghiên cứu  (p < 0,05). Nguy cơ nhiễm ấu trùng giun Toxocara  spp ở những người tiếp xúc đất thường xuyên cao  gấp  từ  2,0‐2,6  lần  ở  những  người  không  thường  xuyên.  Bảng 10: Liên quan giữa bồng bế chó, mèo và nhiễm  ấu trùng giun Toxocara spp Xã/phường Bồng, bế chó,

Nhiễm Không nhiễm mèo

16 56 44 313 Nhơn Phong p OR < 0,05 OR = 2,0

Nhơn Hưng 10 45 24 327 < 0,05 OR = 3,0

Tỷ lệ nhiễm trứng giun ở đất tại những hộ có  nuôi chó ở các điểm nghiên cứu từ 35,7‐42,9%, tại  những  hộ  không  nuôi  chó  từ  8,6‐20,5%.  Có  sự  khác  biệt  giữa  nuôi  chó  và  nhiễm  trứng  giun  Toxocara spp ở đất. Nguy cơ các mẫu đất bị nhiễm  trứng giun Toxocara spp ở những hộ có nuôi chó  cao gấp từ 2,9‐9,4 lần ở những hộ không nuôi chó  (p < 0,05 và p < 0,01). Mật độ nhiễm trứng giun

Song An 25 35 89 268 Thường xuyên Không thường xuyên Thường xuyên Không thường xuyên Thường xuyên Không thường < 0,05 OR =

94

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Toxocara spp ở các mẫu đất tại các hộ có nuôi chó  dao động từ 5,5‐7,3 trứng/100 gam đất, tại các hộ  không nuôi chó từ 0,8‐2,1 trứng/100 gam đất.

2.

Một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun  Toxocara spp tại các điểm nghiên cứu

3.

Không có sự khác biệt giữa ăn rau sống, uống  nước  lã  thường  xuyên  và  không  thường  xuyên  với nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp.

4.

5.

6.

Có sự khác biệt giữa tiếp xúc đất, bồng bế chó  mèo  thường  xuyên  và  không  thường  xuyên  với  nhiễm  ấu  trùng  giun  Toxocara  spp.  Nguy  cơ  nhiễm ấu trùng Toxocara spp ở những người tiếp  xúc  đất  thường  xuyên  cao  gấp  từ  2,0‐2,6  lần  ở  những  người  không  thường  xuyên.  Nguy  cơ  nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp ở những người  bồng bế chó mèo thường xuyên cao gấp từ 2,0‐3,3  lần ở những người không thường xuyên. Sự khác  biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 và p < 0,01.

Dubna’  S.  (2007).  Contamination  of  soil  with  Toxocara  eggs  in  urban (Prague) and rural areas in the Czech Republic. Veterinary  Parasitology. Volume 144, issues 1‐2, 15 March, papes 81‐86.  Hayashi E., Tuda J., Imada M., Akao N., Fujita K (2005). The  infection  among  high  prevalence  of  asymptomatic  Toxocara  schoolchidren in Manado, Indonesia. Southeast Asian j Trop Med  Public Health, 36(6): 399‐406;. 10.   Phan Anh Tuấn, Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ Mạnh Siêu,  Trần Vinh Hiển (2009). Tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng  nguyên Toxocara canis trên các bệnh nhân có triệu chứng dị ứng.  Tạp chí y học quân sự. Số CD91.. ISSN 1859‐1655. Cục Quân y  xuất bản.  Trần  Thị  Hồng,  Đỗ  Văn  Dũng,  Trần  Thị  Kim  Dung,  Trần  Vinh  Hiển  (2000).  Điều  tra  tình  hình  nhiễm  giun  đũa  chó  mèo  Toxocara sp ở cộng đồng dân xã An Phú, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí  Minh.  Thông  tin  phòng  chống  bệnh  sốt  rét  và  các  bệnh  ký  sinh trùng‐côn trùng Trung ương; số 4, trang 74‐79.  Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung, Phạm Văn Lực và CS  (2008). Xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính Toxocara sp của cư  dân tại hai xã Chư Pả và H’ Bông tỉnh Gia Lai.  Tạp  chí  Y  dược  học Quân sự‐Học Viện Quân Y, 33 (2), trang 89‐93.  Trần Xuân Mai (1992). Góp phần nghiên cứu ngõ cụt ký sinh lây  truyền từ phân chó mèo sang người. Luận án Phó Tiến sĩ y học,  Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh.

95

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ  BỆNH GIUN ĐẦU GAI BẰNG THUỐC ALBENDAZOLE TẠI BÌNH ĐỊNH

Nguyễn Văn Chương*, Nguyễn Hữu Giáo*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh giun đầu gai là một bệnh ký sinh trùng do ăn phải cá, lươn, ếch có chứa ấu trùng chưa

được nấu chín. Biểu hiện của bệnh ở nhiều cơ quan trong cơ thể với những triệu chứng đa dạng.

Mục tiêu: Nghiên cứu tại 2 điểm của tỉnh Bình Định với 3 mục tiêu: 1) Xác định tỉ lệ nhiễm của bệnh giun  đầu gai ở người tại điểm nghiên cứu bằng kỹ thuật ELISA; 2) Mô tả một số triệu chứng của bệnh giun đầu gai  tại điểm nghiên cứu; 3) Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh bằng thuốc Albendazole 400mg.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả về tỷ lệ nhiễm giun đầu gai bằng kỹ thuật xét nghiệm ELISA;  mô tả các triệu chứng lâm sàng của bệnh. Phương pháp thử nghiệm lâm sàng không đối chứng cho những bệnh  nhân nhiễm giun đầu gai bằng thuốc Albendazole 400mg liều 15mg/kg/24h x 21 ngày. Theo dõi triệu chứng lâm  sàng, chức năng gan, thận trước và sau 1 tháng điều trị; theo dõi lâm sàng và xét nghiệm ELISA trước và sau 6  tháng điều trị.

Kết  quả:  Tỷ  lệ  nhiễm  giun  đầu  gai  được  phát  hiện  bằng  kỹ  thuật  miễn  dịch  ELISA  chung  của  2  điểm  nghiên cứu là 6,33%; trong đó tỷ lệ nhiễm ở nữ giới (6,89%) cao hơn nam giới (5%) với p> 0,05. Tỷ lệ nhiễm  giun đầu gai bằng xét nghiệm miễn dịch ELISA chủ yếu ở hiệu giá kháng thể mức 1‐<1,5 OD chiếm 57,70%;  mức 1,5‐<2 OD chiếm 28,85%; mức ≥ 2 OD chiếm 13,46%. Triệu chứng đau đầu chiếm tỷ lệ cao nhất 35/52  (67,30%);  triệu  chứng  ngứa,  nổi  mẩn  gặp  42,30%;  mắt  mờ  chiếm  tỷ  lệ  25%.  Triệu  chứng  đau  bụng  gặp  28,85%; rối loạn tiêu hoá gặp 7,69%. Các triệu chứng khác như mệt mỏi, tê chân, chóng mặt, khó thở, nhức  mỏi, tức ngực, đau khớp gặp 50%. Thuốc Albendazole (Azole) 400mg với liều 15 mg/kg/24h chia 2 lần cách  nhau 8h x 21 ngày; Sau 1 tháng điều trị, triệu chứng mắt mờ, đau bụng và rối loạn tiêu hoá giảm 100%; đau  đầu giảm 97,14%; ngứa, nổi mẩn giảm 45,45%; các triệu chứng khác giảm 76,92%. Các chức năng gan và chức  năng thận thay đổi không đáng kể và đều có xu hướng trở về bình thường. Sau 6 tháng điều trị; hầu như các  triệu chứng lâm sàng đều giảm và khỏi 100%; còn 2/52 ca có ngứa, nổi mẩn nhẹ không liên tục; 3/52 ca có biểu  hiện mệt mỏi, kém ăn. Tác dụng phụ của thuốc thường gặp ở những ngày đầu là mệt mỏi, đau đầu chiếm tỷ lệ  23,06%; dị ứng mặt, đỏ mặt và nóng bụng chiếm tỷ lệ 7,69%; bủn rủn chân tay 5,77%; buồn ngủ 3,85%; đi  ngoài phân sệt, lỏng 9,61%; ngứa, nổi mẩn tăng lên 17,08%.

Kết luận: Triệu chứng lâm sàng của bệnh giun đầu gai phát hiện ở cộng đồng chủ yếu là đau đầu, ngứa  nổi mẩn, đau bụng, rối loạn tiêu hoá. Thuốc Albendazole 400mg với liều 15mg/kg/24h x 21 ngày, sau 6 tháng  100% khỏi về lâm sàng; ELISA dương tính giảm 86,54%. Tác dụng phụ của thuốc với tỷ lệ thấp, tự mất không  cần can thiệp.

Từ khóa: giun đầu gai, Bình Định

∗ Viện Sốt rét‐KST‐CT Quy Nhơn   Tác giả liên lạc: TS.Nguyễn Văn Chương   ĐT: 0914004839

Email: chuongkst@yahoo.com.vn

96

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ABSTRACT

SOME CLINICAL SYMPTOMS OF HUMAN GNATHOSTOMIASIS & THERAPEUTIC EFFICACY  OF ALBENDAZOLE IN BINH DINH PROVINCE

Nguyen Van Chuong, Nguyen Huu Giao

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 97 ‐ 103

Background: Gnathostomiasis is the infection of human intestinal parasites due to the habit of eating raw or  undercooked fishes, eels or frogs that contain fully developed larvae. The disease manifestations can be found in  many internal organs of human body with diversified symptoms.

Objectives:  The  study  was  conducted  in  two  sites  of  Binh  Dinh  province  with  3  targets:  1)  Identify  the  infection  rate  of  gnathostomiasis  in  humans  by  enzyme‐linked  immusorbent  assay  (ELISA)  test;  2)  Describe  symptoms  of  gnathostomiasis  in  study  sites.3)  Evaluate  the  therapeutic  efficacy  of  Albendazole  400mg  for  gnathostomiasis.

Methods:  A  cross‐sectional  descriptive  study  was  conducted  to  evaluate  the  infection  rate  of  gnathostomiasis by ELISA and to describe the clinical symptoms of the disease. Randomized, non‐comparative  clinical trials were carried out on gnathostomiasis infected patients with Albendazole 400mg at 15mg/kg of body  weight in 24 hours x 21 days. Other methods were aslo used, such as to monitor clinical symptoms, the functions  of liver, kidney prior to and one month after treatment; to clinically follow‐up and carry out ELISA prior to and  six months after treatment.

Result: The overall infection rate of gnathostomiasis diagnosed by ELISA in two study sites was 6.33%; of  which females (6.89%) were likely to be infected with the disease than males (5%) with p> 0.05. By ELISA test,  the infection rate of gnathostomiasis was mainly presented at antibody titers at 1‐<1,5 OD (57.70%), 1,5‐<2 OD  (28.85%), ≥ 2 OD (13.46%). Of clinical signs and symptoms, headache had the highest rate with 35 out of 52  cases  (67.30%);  itching  and  hives  42.30%;  blurred  vision  25%;  abdominal  pain  28.85%,  digestive  disorder  7.69%.  Other  symptoms  such  as  fatigue,  leg numbness,  dizziness,  dyspnea,  aches  and  pains,  chest  pain,  arthralgia occurred in 50% of cases. Albendazole (Azole) 400mg at 15 mg/kg of body weight in 24 hours, twice a  day with 8‐hour intervals x 21 days. After one month of treatment there were reduction of symptoms such as  abdominal  pain,  digestive  disorder  (reduced  by  100%);  headache  (97.14%);  hives  (45.45%),  other  symptoms  (76.92%). The functions of the liver and kidney changed insignificantly and tended to getting back to normal.  After 6 months of treatment, most of the clinical symptoms decreased and disappeared nearly 100%; 2/52 cases  had still intermittent mild itch and hives; 3/52 cases had signs of fatigue and loss of appetite. The side effects of  the drug often appeared in first days of treatment, including fatigue, headache (23.06%); face allergy, red face and  hot feeling in abdomen (7.69%), flagging limbs (5.77%), drowsiness (3.85%), viscous and liquid stools (9.61%),  and hives (+17.08%).

Conclusion:  The  clinical  signs  and  symptoms  of  gnathostomiasis  detected  in  the  community  include  headache, hives, abdominal pain, digestive disorder. By treating with Albendazole 400mg at 15 mg/kg of body  weight in 24 hours x 21 days, after 6 months of treatment, 100% patients get over clinically; the positive cases of  ELISA test decrease by 86.54%. The side effects of the drug occur in low rate, and usually disappear without any  intervention needed.

Keywords: Gnathostomiasis, Binh Dinh

ĐẶT VẤN ĐỀ

trùng  gây  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  sức  khoẻ  của  con người.

Bệnh  giun  Gnathostoma  sp  là  một  bệnh  ký

Bệnh giun đầu gai (Gnathostomiasis) do giun  Gnathostoma sp.là một trong những bệnh ký sinh

97

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ở  người  tại  điểm  nghiên  cứu  bằng  kỹ  thuật  ELISA.

2.  Mô  tả  một  số  triệu  chứng  của  bệnh  giun

đầu gai ở các bệnh nhân tại điểm nghiên cứu.

3. Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh bằng thuốc

albendazole 400mg.

ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người dân sống ở 2 điểm nghiên cứu không  phân  biệt  giới  tính,  tuổi  tác  và  nghề  nghiệp;  bệnh nhân nhiễm giun đầu gai.

Thuốc  điều  trị  Albendazole  400mg:  Thuốc  có  tên  biệt  dược  là  Azole  có  chứa  hoạt  chất  Albendazole 400mg; viên nén dẹt tròn, màu trắng,  một mặt có khắc chữ “BP”, mặt kia có vạch kẻ.  Thuốc sản xuất từ Bangladesh.

Địa điểm nghiên cứu

Thị trấn Phù Mỹ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình

Định.

Xã  Phước  Thuận,  huyện  Tuy  Phước,  tỉnh

Bình Định.

Thời gian nghiên cứu  4/2011‐ 11/2011

Nghiên cứu Y học  sinh trùng lưu hành tại một số quốc gia châu Á,  phân  bố  nhiều  ở  Trung  Quốc,  Nhật  Bản,  Đông  Nam  Á,  Philippine,  Indonexia,  Việt  Nam..,  nơi  người dân có tập quán ăn thủy hải sản tái  sống.  Bệnh  gây  ra  do  ăn  phải  cá,  lươn,  ếch  nấu  chưa  chín  nhiễm  phải  ấu  trùng  giai  đoạn  3  của  giun  đầu gai Gnathostoma spp. Bệnh có thể biểu hiện ở  nhiều  cơ  quan  trong  cơ  thể,  một  trong  số  đó  có  da,  khi  bị  bệnh  giun  đầu  gai  da  có  một  số  biểu  hiện là các hội chứng ban trườn hay hội chứng ấu  trùng di chuyển hoặc ban đỏ di chuyển (creeping  eruptions‐migrating  erythema).  Từ  năm  1970,  một  số  bệnh  nhân  nhiễm  dường  như  gia  tăng  ở  các quốc gia Trung và Nam Mỹ như Mexico và  Peru.  Trước  đây,  Gnathostomiasis  được  xem  là  bệnh  hiếm  gặp  ở  Việt  Nam,  thậm  chí  cho  đến  cuối  năm  1998  bệnh  nhiễm  Gnathostoma spp vẫn  được  xem  là  bệnh  hiếm  gặp,  dù  rằng  tại  Việt  Nam  đã  phát  hiện  ca  bệnh  đầu  tiên  vào  năm  1963  và  thế  giới  đã  có  4  loài  Gnathostoma  được  phát hiện trên động vật từ đầu thế kỷ XX. Trước  năm 2000 đã có nhiều bệnh do giun Gnathostoma  gây ra ở mắt được thông báo tại Viện mắt Trung  ương. Từ tháng 6/2002 đến tháng 8/2003, Bộ môn  Ký sinh ‐Vi nấm thuộc Trung tâm Đào tạo cán bộ  y tế TP Hồ Chí Minh đã phát hiện 30 ca bệnh do  giun Gnathostoma ở người lớn bằng kỹ thuật miễn  dịch ELISA để chẩn đoán.

Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp chọn mẫu

Chọn  mẫu  có  chủ  đích,  chọn  nơi  có  tỷ  lệ  bệnh nhân có nguy cơ nhiễm giun đầu gai cao.  Chọn  2  xã  thuộc  huyện  Phù  Mỹ  và  Tuy  Phước  của tỉnh Bình Định để điều tra khảo sát.

Phương pháp dịch tễ học mô tả

Tỉnh  Bình  Định,  một  trong  tỉnh  khu  vực  miền  Trung  ‐Tây  Nguyên  có  tỷ  lệ  nhiễm  giun  đầu gai cao nhất so với các tỉnh trong khu vực.  Theo  báo  cáo  của  Viện  Sốt  rét‐Ký  sinh  trùng‐ Côn trùng Quy Nhơn từ năm 2006 ‐2010 đã phát  hiện  và  điều  trị  cho  3.200‐4.600  bệnh  nhân  nhiễm giun sán đến từ các tỉnh miền Trung‐Tây  Nguyên; trong đó số bệnh nhân nhiễm giun đầu  gai chiếm tỷ lệ 65‐70%.

Mô  tả  tỉ  lệ  nhiễm  giun  đầu  gai  bằng  xét  nghiệm  ELISA  và  triệu  chứng  lâm  sàng  của  bệnh  giun  đầu  gai  trên  người  bằng  kỹ  thuật  thăm khám lâm sàng.

Phương pháp dịch tễ học can thiệp  Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng

Cỡ mẫu: n ≥ 50; tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh:

Để  giúp  cho  công  tác  chẩn  đoán  và  điều  trị  giun đầu gai ở người, chúng tôi tiến hành đề tài:  “Nghiên  cứu  một  số  triệu  chứng  lâm  sàng  và  hiệu  quả  điều  trị  bệnh  giun  đầu  gai  bằng  thuốc  albendazole 400mg tại 2 điểm của tỉnh Bình Định  ” với mục tiêu:

Lâm sàng

1. Xác định tỉ lệ nhiễm của bệnh giun đầu gai

98

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bệnh  nhân  có  triệu  chứng  ngứa,  nổi  mẩn

cộng đồng.

hoặc có những ban trườn ở ngoài da.

Đau đầu không rõ nguyên nhân.

Bảng 2: Tỷ lệ nhiễm giun đầu gai theo giới tính ở 2  xã.

Mắt nhìn mờ hoặc kém.

Cận lâm sàng

Xã P Giới Số XN Số (+) Tỷ lệ (%)

Nam 148 13 8,78 > 0,05 TT Phù Mỹ huyện Phù Mỹ Nữ 264 18 6,81

Xét  nghiệm  ELISA  dương  tính  với  kháng  nguyên giun đầu gai với hiệu giá kháng thể ≥ 1  OD.  Tổ  chức  điều  trị  bệnh  nhân  giun  đầu  gai  bằng  thuốc  Albendazole  (Azole)  400mg;  liều  15mg/kg cân nặng/24h, chia 2 lần cách nhau 8h  x 21 ngày; thuốc uống sau khi ăn no.

Nam 132 1 0,76 < 0,001 Nữ 277 20 7,22 Phước Thuận huyện Tuy Phước Nam 280 14 5,0 Cộng > 0,05 541 38 6,89 Nữ

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Xác định tỷ lệ nhiễm giun đầu gai bằng xét  nghiệm miễn dịch  Bảng 1: Tỷ lệ nhiễm giun đầu gai ở 2 xã bằng xét  nghiệm miễn dịch.

Nhận xét:  Kết  quả  tỷ  lệ  nhiễm  giun  đầu  gai  chung  tại  2  điểm  nghiên  cứu  không  có  sự  khác  biệt giữa nam giới và nữ giới (p >0,05). Tuy nhiên  xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước tỷ  lệ  nhiễm  giun đầu gai ở nữ giới cao hơn nam giới với p <  0,001). Kết quả này tương đương kết quả nghiên  cứu  của  Trần  Thị  Hồng  năm  2003  (  nữ  63,33%;  nam 36,67%) (5).

TT Xã P Số XN Tỷ lệ (%)

Số ELISA (+) tính 31 7,52 412 1 TT Phù Mỹ - huyện

Bảng 3: Mức độ nhiễm theo hiệu giá kháng thể OD :

Phù Mỹ > 0,05 OD/ngưỡng 409 21 5,13 2 Phước Thuận - huyện Xã 1 – <1,5 1,5 - < 2 ≥ 2 821 52 6,33 Tuy Phước Cộng TT Phù Mỹ 20 7 4

Phước Thuận 10 8 3

Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ nhiễm giun  đầu  gai  ở  mức  hiệu  giá  kháng  thể  1‐<1,5  OD  chiếm  57,70%;  mức  1,5‐<  2  OD  chiếm  28,85%;  mức  ≥  2  OD  chiếm  13,46%.  Như  vậy  việc  phát  hiện sớm nhiễm giun đầu gai ở cộng đồng cũng  thể hiện ở mức hiệu giá thấp chiếm tỷ lệ cao hơn  so  với  mức  hiệu  giá  trung  bình  và  nặng.  Mức  hiệu giá cao thường gặp ở những bệnh nhân đã  có biểu hiện triệu chứng buộc phải đi khám bệnh.

Cộng 30 (57,70%) 15 (28,85%) 7 (13,46%)

Bảng 4: Tỷ lệ bạch cầu ái toan ở bệnh nhân nhiễm  giun đầu gai ở 2 xã:

Xã Số BN Mức BCAT (%) 6-8% 2-5% > 8%

TT Phù Mỹ 31 3 10 18

Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm giun đầu gai chung tại  2  điểm  nghiên  cứu  là  6,33%.  Tuy  nhiên  tỷ  lệ  nhiễm  ở  thị  trấn  Phù  Mỹ  cao  hơn  xã  Phước  Thuận,  huyện  Tuy  Phước.  Kết  quả  nghiên  cứu  này thấp hơn rất nhiều so với các kết quả của một  số tác giả như: Trần Thị Hồng (2003) xét nghiệm  cho 148 bệnh nhân đến khám tại bộ môn Ký sinh  ‐Vi nấm Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ  y tế TP Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm giun  đầu  gai  là  20,3%.(5)  Lê  Thị  Xuân  và  CS  từ  năm  1999‐2004 đã phát hiện được 654 ca nhiễm giun  đầu  gai  ở  TP  Hồ  Chí  Minh  bằng  kỹ  thuật  ELISA.(3) Báo cáo của phòng Khám Viện Sốt rét‐ Ký  sinh  trùng‐Côn  trùng  Quy  Nhơn  11  tháng  năm 2011 đã phát hiện 3437 ca nhiễm giun đầu  gai  đến  từ  các  tỉnh  trong  khu  vực  miền  Trung‐ Tây Nguyên. Sở dĩ các kết quả này cao hơn điều  tra  của  chúng  tôi  là  do  bệnh  nhân  thường  biểu  hiện  triệu  chứng  lâm  sàng  nên  chủ  động  đi  khám, còn nghiên cứu của chúng tôi là  điều  tra

Phước Thuận 21 4 9 8

Cộng 52 7 19 26

99

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

cũng cho thấy giun đầu gai đã ảnh hưởng tới thị  lực của bệnh nhân. Năm 2002 có 1 gia đình (2 vợ  chồng  và  2  con)  trú  tại  phường  Ngô  Mây,  TP.  Quy Nhơn, Bình Định đã phải cấp cứu tại Trung  tâm Bệnh Nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh do nhiễm  giun  đầu  gai  với  các  triệu  chứng  đau  đầu  dữ  dội, mệt mỏi, nôn ói, mờ mắt, kèm theo trên bề  mặt da có cảm giác bỏng rát như bị đốt.

Kết quả bảng trên cho thấy trong số 52 bệnh  nhân dương tính với huyết thanh giun đầu gai có  50%  bệnh  nhân  có  tỷ  lệ  bạch  cầu  ái  toan  tăng  >  8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn  nghiên cứu của Lê Thị Xuân và CS tại TP. Hồ Chí  Minh  trong  số  446  ca  nhiễm  giun  đầu  gai  có  92,2% có tỷ lệ bạch cầu ái toan > 5% (từ 6‐75%) (3).

(13,46%) (36,54%) (50,0%)

Mô  tả  một  số  triệu  chứng  của  bệnh  giun  đầu gai tại 2 điểm nghiên cứu  Bảng 5. Theo dõi TCLS của BN nhiễm giun đầu gai  tại 2 điểm nghiên cứu.

Triệu chứng đau bụng gặp 28,85%, cơn đau  không rõ ràng, vị trí đau không cố định; rối loạn  tiêu  hoá  gặp  7,69%.  Các  triệu  chứng  khác  như  mệt mỏi, tê chân, chóng mặt, khó thở, nhức mỏi,  tức ngực, đau khớp gặp 50%.

RLTH Đau bụng T. số BN Đau đầu TC Khác Mắt mờ Ngứa, nổi mẩn

TCLS T T Xã

1 31 17 13 3 7 2 11 TT Phù Mỹ

2 21 18 9 10 8 2 15 Phước Thuận

Nhìn  chung  triệu  chứng  lâm  sàng  của  52  bệnh nhân nhiễm giun đầu gai phát hiện ở cộng  đồng không điển hình so với những bệnh nhân  điều trị tại các cơ sở Bệnh viện và Phòng khám.  Những  bệnh  nhân  đến  bệnh  viện  đã  có  biểu  hiện lâm sàng gây ảnh hưởng hoặc khó chịu cho  sức khoẻ, buộc bệnh nhân phải đi khám điều trị;  do vậy các triệu chứng, dấu chứng lâm sàng khá  phong phú và điển hình hơn so với bệnh nhân  phát hiện ở cộng đồng.

Ghi chú: Triệu chứng khác bao gồm: mệt mỏi,  tê chân, chóng mặt, khó thở, nhức mỏi, tức ngực,  đau khớp.

Cộng 52 35 67,30 22 42,30 13 25,0 15 28,85 4 7,69 26 50,0

Đánh  giá  hiệu  quả  điều  trị  bệnh  của  Albendazole 400mg  Bảng 6: Theo dõi xét nghiệm ELISA sau 6 tháng điều  trị

OD/ngưỡng Xã Số XN Số (+) tính % giảm 1 - <1,5 1,5 - < ≥ 2 2 4 4 0 0 31 87,09

3 21 2 1 0 85,71

Kết quả sau 6 tháng theo dõi điều trị kết quả

ELISA dương tính giảm trung bình 86,54%.

Bảng 7: Theo dõi chức năng gan, thận của BN sau 1  tháng điều trị.

7 TT Phù Mỹ Phước Thuận Cộng 52 86,54 6 1 0

Trước điều trị Sau điều trị Chỉ số đánh giá Tổng số BN % Tăng (+) Giảm (-) Tăng (%) Tăng (%)

Urea 52 1 1,92 0 0 -100,0

Triệu  chứng  đau  đầu  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  35/52  (67,30%).  Triệu  chứng  đau  đầu  gặp  ở  đa  phần  bệnh  nhân,  cơn  đau  không  liên  tục,  vị  trí  đau cũng không cố định, có bệnh nhân đau vùng  gáy, hoặc vùng đỉnh đầu hay đau nửa đầu kiểu  đau đầu migrain. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu  trên  30  bệnh  nhân  của  Trần  Thị  Hồng,  triệu  chứng đau đầu chỉ gặp 2/30 (6,7%). Triệu chứng  ngứa, nổi mẩn gặp 42,30%. Trong số bệnh nhân  nhiễm giun đầu gai này chúng tôi chưa gặp bệnh  nhân nào có hội chứng ấu trùng di chuyển ngoài  da. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nghiên  cứu  của  Trần  Thị  Hồng  (mề  đay  mãn  tính  gặp  43,5%).  Triệu  chứng  mắt  mờ  chiếm  tỷ  lệ  25%.  Gnathostoma có thể gây viêm màng bồ đào, viêm  mống  mắt,  xuất  huyết  trong  mắt,  tăng  áp  lực  nhãn cầu, sẹo võng mạc,…dẫn đến giảm thị lực,  đau, sợ ánh sáng và mù. Kết quả của chúng tôi

Creatinine 52 9 17,3 1 1,92 -88,89

100

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

3,84 2 3,84 0 Khác 26 3 - 88,46 SGOT 52 2

SGPT 52 6 11,53 4 7,69 -33,33

Kết quả bảng 9 cho thấy sau 6 tháng điều trị,  các triệu chứng: đau đầu mắt mờ, đau bụng, rối  loạn  tiêu  hoá  đều  giảm  100%;  ngứa  nổi  mẩn  giảm 90,90%; các triệu chứng khác giảm 88,46%.

Kết quả bảng 3.7 cho thấy các chỉ số về chức  năng gan, thận đều dần chuyển về bình thường  sau 1 tháng điều trị.

Cộng 18 34,61 7 13,46 -61,11

Bảng 10: Theo dõi tác dụng phụ của thuốc sau liệu  trình điều trị (n=52)  Triệu chứng TT

Tỷ lệ % Số BN 1 Mệt mỏi, đau đầu 12 23,06 Trước điều trị Sau 1 tháng

Bảng 8. Theo dõi triệu chứng lâm sàng sau 1 tháng  điều trị: (n=52)  Triệu chứng lâm sàng

% tăng (+) Giảm (-) 2 Dị ứng mặt, đỏ mặt 3 Nóng bụng 4 4 7,69 7,69 4 Bủn rủn chân tay 3 5,77 5 2 3,85

5 6 9,61 35 22 13 15 4 điều trị 7 12 0 0 0 - 97,14 - 45,45 - 100,0 - 100,0 - 100,0

(Azole)  400mg  với

Những  bệnh  nhân  có  xét  nghiệm  ELISA  ≥  1OD  kết  hợp  ít  nhất  có  một  triệu  chứng  lâm  sàng  trở  lên  được  chọn  điều  trị  bằng  thuốc  liều  15  Albendazole  mg/kg/24h  chia  2  lần  cách  nhau  8h  x  21  ngày.  Thuốc được uống sau khi ăn no và theo dõi ghi  nhận tác dụng phụ và hiệu quả của thuốc sau 1  tháng, 6 tháng điều trị.

Tác  dụng  phụ  của  thuốc  thường  gặp  ở  những ngày đầu là mệt mỏi, đau đầu chiếm tỷ lệ  23,06%; dị ứng mặt, đỏ mặt và nóng bụng chiếm  tỷ  lệ  7,69%;  bủn  rủn  chân  tay  5,77%;  buồn  ngủ  3,85%; đi ngoài phân sệt, lỏng 9,61%; ngứa, nổi  mẩn  tăng  lên  17,08%.  Triệu  chứng  ngứa,  nổi  mẩn  tăng  lên  thường  sau  5‐7  ngày  uống  thuốc  do ký sinh trùng chết ly giải kháng nguyên làm  cho ngứa và nổi mẩn tăng lên sau lại trở về bình  thường.

9 7 17,08 Buồn ngủ Đi ngoài phân lỏng, sệt Ngứa, nổi mẩn tăng lên Đau đầu Ngứa, nổi mẩn Mắt mờ Đau bụng Rối loạn tiêu hoá Khác 26 6 - 76,92

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Sau  1  tháng  điều  trị,  triệu  chứng  mắt  mờ,  đau  bụng  và  rối  loạn  tiêu  hoá  giảm  100%;  đau  đầu  giảm  97,14%;  ngứa,  nổi  mẩn  giảm  45,45%;  các  triệu  chứng  khác  giảm  76,92%.  Trong  số  52  ca, có 7 ca triệu chứng đau đầu và ngứa vẫn còn,  chỉ thuyên giảm khoảng 70%, chúng tôi tiếp tục  điều trị thêm 10 ngày nữa với liều 15mg/kg cân  nặng  chia  2  lần.  Các  chức  năng  gan  và  chức  năng thận thay đổi không đáng kể và đều có xu  hướng trở về bình thường.

1. Tỷ lệ nhiễm giun đầu gai được phát hiện  bằng  kỹ  thuật  miễn  dịch  ELISA  chung  của  2  điểm nghiên cứu là 6,33%; trong đó tỷ lệ nhiễm  ở  nữ  giới  (6,89%)  cao  hơn  nam  giới  (5%).  Tuy  nhiên,  sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p>  0,05).  Tỷ  lệ  nhiễm  giun  đầu  gai  xác  định  bằng  xét  nghiệm  miễn  dịch  ELISA  chủ  yếu  ở  hiệu giá kháng thể mức 1‐<1,5OD chiếm 57,70%;  mức  1,5‐<2  OD  chiếm  28,85%;  mức  ≥  2  OD  chiếm 13,46%.

Trước điều trị Sau 6 tháng

Bảng 9. Theo dõi triệu chứng lâm sàng sau 6 tháng  điều trị: (n=52)  Triệu chứng lâm sàng

% tăng (+) Giảm (-) Đau đầu 35 điều trị 0 - 100,0

2. Triệu chứng đau đầu chiếm tỷ lệ cao nhất  35/52 (67,30%); triệu chứng ngứa, nổi mẩn gặp ở  42,30%  trường  hợp;  mắt  mờ  chiếm  tỷ  lệ  25%.  Triệu chứng đau bụng gặp 28,85%; rối loạn tiêu  hoá  gặp  7,69%.  Các  triệu  chứng  khác  như  mệt  mỏi, tê chân, chóng mặt, khó thở, nhức mỏi, tức

22 13 15 4 2 0 0 0 - 90,90 - 100,0 - 100,0 - 100,0 Ngứa, nổi mẩn Mắt mờ Đau bụng Rối loạn tiêu hoá

101

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  ngực, đau khớp gặp 50%.

Kết  luận:  liệu  trình  điều  trị  nêu  trên  có  kết  quả  tốt  và  ít  tác  dụng  phụ  cho  bệnh  nhân,  nên  được sử dụng trong điều trị bệnh giun đầu gai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

4.

5.

Akahane  H,  Iwata  K,  Miyazaki  I  (1982).  Studies  on  Gnathostoma hispidum Fedchenko, 1872 parasitic in loaches  imported from China, 1982, J. parasitol.; Vol. 3, pp. 507 ‐16   Ando  K.,  Tanaka  H.,  Taniguchi  Y  at  all  (1988).  Two  human  cases  of  gnathostomiasis  and  discovery  of  a  second  intermediate  host  of  Gnathostoma  nipponicum  in  Japan.  J.  Parasitol., 1988, Vol. 74.  Lê  Thị  Xuân,  Phạm  Thị  Lệ  Hoa,  Trần  Thị  Huệ  Vân  và  CS  (2003).  Bệnh  nhiễm  Gnathostoma  ở  người  tại  TP.  Hồ  Chí  Minh. Tạp chí Y học thực hành, 2003, số 477, tr. 117‐119.  Nguyễn  Quang  Vinh  (2001).  Biểu  hiện  lâm  sàng  bệnh  giun  đầu gai ở người lớn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr.  100‐102.  Trần  Thị  Hồng  (2004).  Hình  ảnh  lâm  sàng  bệnh  do  giun  Gnathostoma spp. Tạp chí Y học thực hành, 2004, số 477, tr.  99‐103.

3.  Thuốc  Albendazole  (Azole)  400mg  với  liều  15 mg/kg/24h chia 2 lần cách nhau 8h x 21 ngày;  Sau  1  tháng  điều  trị,  triệu  chứng  mắt  mờ,  đau  bụng  và  rối  loạn  tiêu  hoá  giảm  100%;  đau  đầu  giảm  97,14%;  ngứa,  nổi  mẩn  giảm  45,45%;  các  triệu  chứng  khác  giảm  76,92%.  Các  chức  năng  gan, chức năng thận thay đổi không đáng kể và  đều  có  xu  hướng  trở  về  bình  thường.  Sau  6  tháng điều trị; hầu như các triệu chứng lâm sàng  đều  giảm  và  khỏi  100%;  còn  2/52  ca  còn  ngứa,  nổi mẩn nhẹ không liên tục; 3/52 ca có biểu hiện  mệt  mỏi,  kém  ăn.  Tác  dụng  phụ  của  thuốc  thường gặp ở những ngày đầu là mệt mỏi, đau  đầu chiếm tỷ lệ 23,06%; dị ứng mặt, đỏ mặt và  nóng bụng chiếm tỷ lệ 7,69%; bủn rủn chân tay  5,77%; buồn ngủ 3,85%; đi ngoài phân sệt, lỏng  9,61%; ngứa, nổi mẩn tăng lên 17,08%.

102

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH HÌNH KHÁM CHỮA BỆNH NHIỄM TRÙNG SAU LŨ LỤT   NĂM 2009 TẠI HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

Hà Văn Như*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh nhiễm trùng còn phổ biến tại Việt Nam, nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng tăng sau lũ lụt  là mối quan tâm của cộng đồng và ngành Y tế Việt Nam, tuy nhiên bằng chứng về bệnh nhiễm trùng sau lũ lụt  tại Việt Nam còn rất hạn chế.

Mục  tiêu:  Xác định sự thay đổi số lượng bệnh nhân mắc bệnh nhiễm trùng đến khám tại các trạm y tế

(TYT) xã của huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị sau lụt năm 2009.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích số liệu từ sổ khám bệnh của tất cả 18 TYT xã của huyện

Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị trong 3 tháng trước và sau lũ lụt năm 2009.

Kết quả: Số lượt khám bệnh nhiễm trùng trong 3 tháng sau lụt tăng 1,6 lần. Bốn bệnh phổ biến nhất gồm:  Viêm nhiễm đường hô hấp (47,2%); Hội chứng cúm (19,1%); Bệnh đường ruột (10,1%) và Nhiễn khuẩn hô  hấp cấp tính trẻ em dưới 5 tuổi (9,7%). Nữ chiếm 56,0% tổng số lượt người tới khám. Tỷ lệ trên 1000 người ở  nhóm 50‐59 tuổi là cao nhất: 220,1, tiếp đến là nhóm dưới 5 tuổi: 201,5..

Kết  luận:  Số  lượt  khám  bệnh  nhiễm  trùng  tăng  1,6  lần  so  với  3  tháng  trước  lụt.  Nữ  nhiều  hơn  nam.  Người từ 50 tuổi trở lên và trẻ em dưới 5 tuổi là hai nhóm có nguy cơ cao nhất. Cần tiến hành nghiên cứu dựa  trên điều tra hộ gia đình để xác định chính xác hơn số người bị ốm nói chung và bị bệnh nhiễm trùng nói riêng  sau lũ lụt.

Từ khóa: Bệnh nhiễm trùng, lũ lụt năm 2009, Quảng Trị, Việt Nam

ABSTRACT

CONSULTATIONS DUE TO COMMUNICABLE DISEASES AFTER THE 2009 FLOOD IN HAI  LANG DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE, VIET NAM

Ha Van Nhu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 104 ‐ 109

Background:  Communicable disease (CD) as a consequence of natural disaster is not well documented in

developing countries, particularly in Viet Nam.

Objectives: This cross‐sectional study explores whether common communicable diseases increased after the

2009 flood in the district in central Viet Nam most affected by the 2009 flood.

Methods: Records of consultations at all commune health centres (CHC) of Hai Lang district, Quang Tri  province, in the period starting three months before and ending three months after the 2009 flood were collected  and analyzed.

Result: An increase in patient consultations occurred rapidly after the flood and remained elevated during  the three months after the flood. The number of consultations during the  three  months  after  the  flood  was  1.6  times  higher  than  the  number  during  the  three  months  before  the  flood.  The  most  common  causes  for  seeking  health  care  at  the  CHCs  after  the  flood  include:  respiratory  tract  infection  (47.2%),  flu  symptoms  (19.1%),  gastro‐intestinal symptoms (10.1%) and acute respiratory infection (9.7%). Dermatitis, conjunctivitis and acute  diarrhoea  accounted  for  4.9%,  3.4%  and  1.3%,  respectively.  Unknown  causes  accounted  for  4.3%.  Females

∗ Bộ môn Phòng Chống Thảm Họa, Trường Đại Học Y Tế Công Cộng   Tác giả liên lạc: TS.Hà Văn Như   ĐT: 0978 762 802

Email: hvn@hsph.edu.vn

103

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  accounted for 56.0% of the total number of patient consultations due to CDs.

Conclusion:  Numbers  of  consultations  due  to  communicable  diseases  increased  by  1.6  times  during  3  months after the flood. The most common CD was respiratory tract infection (47.2%). More female than male  who  have  seeking  care  at  CHCs  (56.0%  vs.  44.0%).  The  most  vulnerable  groups  include  people  from  50  and  above and children under five years.

Keywords: Communicable diseases, natural disaster, 2009 flood, Viet Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Quảng  Trị  –  là  tỉnh  bị  ảnh  hưởng  nặng  nhất  bởi lũ lụt  sau  bão  số  9  năm  2009.  Nghiên  cứu  đã thu thập thông tin của bệnh nhân đến TYT  xã  KCB  từ  01/01/2009  tới  30/09/2009  (9  tháng  trước lụt) và 01/10/2009 tới 30/07/2010 (9 tháng  sau  lụt).  Thông  tin  về  các  bệnh  nhiễm  trùng  phổ  biến  sau  được  thu  thập:  viêm  đường  hô  hấp ở người từ 5 tuổi trở lên, nhiễm khuẩn hô  hấp  cấp  tính  ở  trẻ  em  dưới  5  tuổi  (ARI),  tiêu  chảy,  bệnh  về  đường  ruột,  sốt  rét,  sốt  xuất  huyết, nhiễm trùng da và đau mắt đỏ.

Phân tích số liệu: số liệu được nhập vào phần  mềm  Epi‐Data  sau  đó  được  chuyển  sang  phần  mềm  SPSS  15.0  để  phân  tích.  Các  phép  tính  thống kê thông thường (tần số, tỷ lệ %) được sử  dụng  để  trong  phân  tích  mô  tả.  Thuật  toán  Khi  bình  phương  (χ2)  được  sử  dụng  để  so  sánh  sự  khác biệt giữa một số biến số, mức so sánh thống  kê có ý nghĩa (p < 0,05) được sử dụng.

KẾT QUẢ

Số lượng KCB hàng tháng trong thời gian  9 tháng trước và sau lụt năm 2009

Mưa lớn sau cơn bão số 9 từ ngày 29/09/2009  đã gây ra lũ lụt và thiệt hại nghiêm trọng tại 14  tỉnh  miền  Trung  của  Việt  Nam.  Theo  thống  kê  của  Ban  chỉ  đạo  phòng  chống  lụt  bão  Trung  ương (tính đến ngày 15/10/2009) có 172 người tử  vong,  12  người  mất  tích,  860  người  khác  bị  thương.  Thiệt  hại  về  kinh  tế  ước  tính  lên  tới  14.312  tỷ  đồng.  Quảng  Trị  là  một  trong  những  tỉnh bị thiệt hại nặng nhất với 10 người tử vong,  33  người  bị  thương  và  589  cơ  sở  y  tế  bị  thiệt  hại.(2)  Một  số  nghiên  cứu  trên  thế  giới(5,9)  và  tại  Việt Nam(1,6) cho thấy lũ lụt có ảnh hưởng tới sức  khỏe  của  cộng  đồng,  đặc  biệt  lũ  lụt  làm  tăng  nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng do ô nhiễm môi  trường,  thay  đổi  điều  kiện  sống.  Tuy  nhiên,  thông  tin  về  tình  hình  mắc  bệnh  nhiễm  trùng  sau  lũ  lụt  tại  Việt  Nam  còn  rất  hạn  chế.  Do  đó  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  này  nhằm  xác  định có hay không có sự gia tăng số người mắc  bệnh nhiễm trùng sau lũ lụt năm 2009 đến khám  chữa bệnh (KCB) tại các trạm y tế (TYT) xã của  huyện  Hải  Lăng,  tỉnh  Quảng  Trị  và  nếu  có  thì  những bệnh nào là bệnh phổ biến nhất và ai là  đối  tượng  dễ  bị  tổn  thương  nhất.  Kết  quả  của  nghiên  cứu  này  sẽ  góp  phần  cung  cấp  thêm  bằng chứng về tác động của lũ lụt lên sức khỏe  của cộng đồng bị ảnh hưởng tại Việt Nam.

Biểu  đồ  1  cho  thấy  tổng  số  lượt  KCB  và  số  KCB do bệnh nhiễm trùng đến khám tại các TYT  xã  tăng  nhanh  ngay  sau  lụt  và  duy  trì  trong  3  tháng sau lụt. Thông tin chi tiết về số bệnh nhân  mắc  bệnh  nhiễm  trùng  được  trình  bày  trong  bảng 1 và 2.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên  cứu  mô  tả  cắt  ngang  được  thực  hiện  tại  18  TYT  xã  của  huyện  Hải  Lăng,  tỉnh

Các loại bệnh nhiễm trùng phổ biến  Bảng 1. Một số bệnh nhiễm trùng phổ biến trong 3 tháng trước và sau lụt

Bệnh nhiễm trùng χ2, (p)

Nhiễm trùng đường hô hấp* Hội chứng cúm 3 tháng trước lụt Số lượng (%) 2.598 (24,9) 1.433 (19,3) 3 tháng sau lụt Số lượng (%) 5.588 (47,2) 2.264 (19,1) 276,2 (p=0,000) 0,11 (p=0,74)

104

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bệnh nhiễm trùng χ2, (p)

(*) Không bao gồm trẻ em dưới 5 tuổi.

trong đó số KCB do bệnh nhiễm trùng tăng 1,6  lần (11.847/7.440) (p<0,001).

Kết quả trong Bảng 1 cho thấy tổng số lượt  KCB tại TYT xã trong 3 tháng sau lụt là 17.807,  tăng  1,5  lần  so  với  3  tháng  trước  lụt  (11.941),

8000

7000

Lụt: 29/9/09

6000

5000

B C K

t

4000

ợ ư

3000

l ố S

2000

1000

0

9tr

8tr

7tr

6tr

5tr

4tr

3tr

2tr

1tr

1s

2s

3s

4s

5s

6s

7s

8s

9s

Tháng trước (tr) và sau (s) lụt

Bệnh nhiễm trùng

Tổng số KCB

Hội chứng dạ dày-ruột NKHH cấp tính trẻ em dưới 5 tuổi (ARI) Nhiễm trùng da Đau mắt đỏ Nhiễm khuẩn đường sinh sản Tiêu chảy Nhiễm trùng khác Tổng số KCB nhiễm trùng (%) 3 tháng trước lụt Số lượng (%) 858 (11,5) 1.042 (14,0) 613 (8,2) 308 (4,1) 299 (4,0) 283 (3,8) 6 (0,08) 7.440 (62,3) 3 tháng sau lụt Số lượng (%) 1.196 (10,1) 1.154 (9,7) 580 (4,9) 399 (3,4) 385 (3,2) 305 (2,6) 3 (0,03) 11.874 (66,7) 10,26 (p=0,001) 83,42 (p=0,000) 88,82 (p=0,000) 7,88 (p=0,005) 4,32 (p=0,04) 23,64 (p=0,000) 60,09 (p=0,000)

Biểu đồ 1: Diễn biến số lượng KCB theo tháng trong 9 tháng trước và sau lụt 2009

Bảng  2  cho  thấy  tỷ  lệ  KCB  do  bệnh  nhiễm  trùng  ở  nữ  cao  hơn  tỷ  lệ  này  ở  nam  cả  trước  (55,9%  so  với  44,1%)  và  sau  lụt  (56,0%  so  với  44,0%).

Bảng 3: Tỷ lệ KCB do bệnh nhiễm trùng trên 1000  người theo nhóm tuổi, trong 3 tháng trước và 3  tháng sau lụt  Nhóm tuổi

Năm  bệnh  nhiễm  trùng  có  tỷ  lệ  cao  nhất  gồm:  nhiễm  trùng  đường  hô  hấp  (47,2%),  Hội  chứng  cúm  (19,1%),  Hội  chứng  dạ  dày‐ruột  (10,1%), nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em dưới  5  tuổi‐ARI  (9,7%).  và  nhiễm  trùng  da  (4,9%).  Trong năm bệnh có tỷ lệ cao nhất, chỉ có “Nhiễm  trùng đường hô hấp” sau lụt (47,2%), tăng hơn  so  với  trước  lụt  (34,9%)  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p=0,001).  “Triệu  chứng  cúm”  không  thay  đổi.  Ba bệnh tiếp theo có tỷ lệ thấp hơn so với trước  lụt.

Tỷ lệ KCB/1000 người

0-4 5-14 15-49 50-59 60+ 3 tháng trước lụt 231,8 75,0 49,9 132,4 136,9 3 tháng sau lụt 201,5 164,3 91,2 220,1 189,4

Giới và tuổi  Bảng 2: Phân bố số lượt KCB do các bệnh nhiễm  trùng theo giới trong 3 tháng trước và sau lụt

Thời gian

Bảng 3 cho thấy tỷ lệ KCB/1000 ở nhóm 50‐ 59  cao  nhất  (220,1),  tiếp  đến  nhóm  dưới  5  tuổi  (201,5). Trong 3 tháng sau lụt, số lượt KCB tính  trên 1.000 người cao hơn so với trước lụt ở hầu

Nam n (%) Nữ n (%) Tổng n (%) 3 tháng trước lụt 3.285 (44,1) 4.155 (55,9) 7.440 (100) 3 tháng sau lụt 5.221 (44,0) 6.653 (56,0) 11.874 (100)

105

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  hết  các  nhóm  tuổi,  trừ  nhóm  tuổi  từ  0‐4  tuổi.  Mức  tăng  lớn  nhất  (2,2  lần)  ở  nhóm  tuổi  5‐14  (164,3/1000  so  với  75,0/1000).  Tiếp  đến  là  nhóm  15‐49: tăng 1,8 lần, nhóm 50‐59 tăng 1,7 lần.

BÀN LUẬN

khi  đó  trong  nghiên  cứu  này,  lụt  tại  Quảng  Trị  chỉ kéo dài khoảng 10 ngày. Lũ lụt kéo dài có lẽ  đã có ảnh hưởng lớn hơn tới nguy cơ mắc bệnh  nhiễm trùng, tuy nhiên nhận định này cần được  nghiên cứu sâu hơn với qui mô nghiên cứu rộng  và thời gian dài hơn mới có thể kết luận được.

Một điều đáng chú ý là tại Việt Nam, nhiều  người không đến TYT xã khám khi bị bệnh, thay  vào đó họ có thể tự chữa ở nhà hoặc đến các cơ  sở  y  tế  khác  như:  bệnh  viện,  phòng  khám  tư  nhân, hoặc thầy lang. Người dân cũng có thể tự  mua thuốc để điều trị bệnh, do đó số lượng bệnh  nhân đến KCB tại các TYT xã có thể thấp hơn so  với số bệnh nhân mắc bệnh nhiễm trùng thực tế  trong  cộng  đồng.  Vì  vậy,  nghiên  cứu  dựa  trên  phỏng vấn hộ gia đình sẽ cho kết quả chính xác  hơn  để  đánh  giá  tình  hình  mắc  bệnh  nhiễm  trùng tại cộng đồng sau lũ lụt.

Các loại bệnh nhiễm trùng

Kết quả nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân  đến TYT xã KCB do các bệnh nhiễm trùng trong  3  tháng  sau  lụt  chiếm  66,7%,  cao  hơn  tỷ  lệ  này  trong  3  tháng  trước  lụt  (62,3%)  (p<0,001).  Các  bệnh nhiễm trùng phổ biến sau lụt gồm: nhiễm  trùng hô hấp(47,17%), triệu chứng cúm(19.07%),  triệu  chứng  dạ  dày‐ruột  (10,07%),  ARI  (9,72%).  Đây  là  những  bệnh  phổ  biến  nhất  xảy  ra  ở  các  huyện trong nghiên cứu, cả trong điều kiện môi  trường  bình  thường  cũng  như  điều  kiện  môi  trường bị ô nhiễm sau lũ lụt.

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  mặc  dù  số  bệnh nhân KCB do bệnh nhiễm trùng tại TYT xã  trong 3 tháng sau lụt tăng 1,6 lần, không có vụ  dịch bệnh nào được xảy ra. Kết quả của nghiên  cứu này phù hợp với kết quả một số nghiên cứu  tại Việt Nam(4,6,7) và một số nghiên cứu trên thế  giới.(1,9,8) Các nghiên cứu này đều cho thấy không  có  dịch  bệnh  truyền  nhiễm  xảy  ra  trong  khi  số  bệnh nhân mắc bệnh nhiễm trùng thông thường  tăng sau lũ lụt. Nghiên cứu này cho thấy số lượt  KCB  tăng  ngay  sau  khi  lụt  xảy  ra  và  duy  trì  ở  mức  cao  trong  3  tháng  tiếp  theo,  sau  đó  giảm  mạnh  vào  tháng  thứ  4  sau  lụt  (Biểu  đồ  1).  Nghiên cứu của Guha‐Sapir và cộng sự cho thấy  số lượng bệnh nhân đến KCB tại một bệnh viện  ở Banda Aceh, Indonesia tăng lên nhanh chóng  trong  tháng  đầu  tiên  sau  thảm  họa  sóng  thần  năm  2004.(5)  Thay  đổi  môi  trường  sống  và  điều  kiện  vệ  sinh  trong  hoàn  cảnh  lũ  lụt  có  thể  là  nguyên nhân trực tiếp dẫn tới số bệnh nhân mắc  bệnh  nhiễm  trùng  tăng.  Theo  thời  gian,  tình  hình  ổn  định  dần,  người  dân  cũng  dần  thích  ứng với những thay đổi, cùng với các biện pháp  phòng chống bệnh nhiễm trùng được triển khai  nên  số  người  mắc  bệnh  có  xu  hướng  giảm  đi.  Điều này cho thấy việc thực hiện các biện pháp  phòng  ngừa  bệnh  nhiễm  trùng  trước  và  ngay  sau lụt sẽ góp phần giảm số người mắc bệnh sau  lụt.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy số KCB do  các bệnh nhiễm trùng sau lũ lụt cao hơn 1,6 lần  so với 3 tháng trước lụt, thấp hơn kết quả nghiên  cứu của Hà Văn Như, nghiên cứu tại một huyện  của tỉnh Đồng Tháp cho thấy số lượt KCB trong  4  tháng  sau  lụt  tăng  gấp  3,6  lần  so  với  4  tháng  trước  lụt  năm  2007.(6)  Sự  khác  nhau  về  mức  độ  tăng số lượng KCB nhiễm trùng sau lụt có lẽ do  đặc điểm riêng của lũ lụt, lũ lụt đồng bằng sông  Cửu Long thường kéo dài 3 đến 4 tháng, trong

Nhiễm trùng đường hô hấp chiếm tới 47,2%  tổng số lượt KCB do các bệnh nhiễm trùng, tăng  1,6 lần so với 3 tháng trước khi lũ (p<0,01). Kết  quả này tương tự với kết quả của các nghiên cứu  của  Hà  Văn  Như(2,7)  và  của  Le  and  Dang  (10).  Trong thực tế, nhiễm trùng đường hô hấp cũng  là bệnh phổ biến nhất tại cộng đồng trong điều  kiện  bình  thường  tại  nhiều  khu  vực  của  Việt  Nam. Kết quả nghiên cứu tại bệnh viên ở Banda  Aceh, Indonesia cho thấy nhiễm trùng đường hô  hấp chiếm tỉ lệ lớn nhất (21,0%) trong 1.188 bệnh  nhân  tới  khám  sau  trận  sóng  thần  tại  Ấn  Độ  Dương cuối năm 2004.(5) Theo báo cáo của Bộ Y  tế Pakistan và Tổ chức Y tế thế giới, nhiễm trùng

106

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hô  hấp  là  nguyên  nhân  lớn  thứ  2  sau  lụt  ở  Pakistan năm 2010.

(201.5/1000)  và  nhóm  5‐14

tuổi

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ KCB trên  1000 dân tăng lên trong 3 tháng sau lụt ở tất cả  các  nhóm  tuổi,  ngoại  trừ  nhóm  tuổi  0‐4  tuổi  trong  3  tháng  sau  lũ.  Sự  gia  tăng  lớn  nhất  là  trong  nhóm  tuổi  5‐14  tuổi  (164.3/1000  và  75.0/1000).  Sau  lũ  lụt  số  bệnh  nhân  thăm  khám  trên  1.000  người  đạt  tỷ  lệ  cao  nhất  ở  các  nhóm  tuổi 50‐59 tuổi (220.1/1000), tiếp theo là nhóm 0‐ 4  tuổi  (164.3/1000)  (Bảng  3).  Điều  này  cho  thấy  rằng  những người 50‐59 tuổi tuổi và 0‐4 là nhóm dễ  bị tổn thương nhất.

Hạn chế của nghiên cứu

Thứ nhất là không phải tất cả các bệnh nhân  bị  bệnh  đều  đến  KCB  tại  TYT,  do  đó  số  lượng  KCB  tại  TYT  chưa  phản  ánh  đầy  đủ  tình  hình  mắc  bệnh  nhiễm  trùng  tại  cộng  đồng.  Thứ  hai,  thông tin được ghi trong sổ khám bệnh của TYT  không phải luôn chính xác, việc chẩn đoán chủ  yếu dựa trên các dấu hiệu/triệu chứng lâm sàng  hơn là các xét nghiệm do đó việc phân loại bệnh  có thể không chính xác.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Tiêu chảy:  kết  quả  của  nghiên  cứu  cho  thấy  số lượt KCB do tiêu chảy sau lũ lụt đã giảm so  với  thời  gian  trước  (p<0,001).  Kết  quả  nghiên  cứu  này  khác  với  kết  quả  một  số  nghiên  cứu  khác  cho  thấy  bệnh  tiêu  chảy  là  bệnh  phổ  biến  nhất sau lũ lụt. Nghiên cứu của Hà Văn Như tại  một  huyện  miền  núi  phía  Bắc  cho  thấy  một  tháng sau lũ quét, bệnh tiêu chảy tăng 6,3 lần so  với  tháng  trước  lũ.  Tương  tự,  theo  báo  cáo  của  Bộ Y tế Pakistan(3) và của Hisayoshi Kondo(9), có  sự  gia  tăng  của  bệnh  tiêu  chảy  sau  lũ  lụt  tại  Mozambique  năm  2000.  Sự  khác  nhau  này  có  thể do sự khác nhau về bản chất của lũ lụt, thời  gian ngập lụt, điều kiện vệ sinh cơ bản và điều  kiện khí hậu trong lũ, giữa lũ lụt tại Pakistan và  Mozambique.  Tuy  nhiên,  như  đã  đề  cập  trên  đây,  một  số  bệnh  nhân  tiêu  chảy  có  thể  không  đến TYT xã mà tự chữa hoặc đến các cơ sở y tế  khác dẫn đến số lượng bệnh nhân tiêu chảy ghi  nhận được tại TYT xã thấp hơn số bệnh nhân tại  cộng  đồng.  Do  đó  nghiên  cứu  điều  tra  hộ  gia  đình có thể giảm những sai số này.

Mặc  dù  số  người  KCB  tại  TYT  xã  trong  3  tháng sau lụt tăng 1,6 lần so với 3 tháng trước lụt,  nhưng không có dịch bệnh truyền nhiễm nghiêm  trọng tại địa bàn nghiên cứu. Những bệnh nhiễm  trùng phổ biến bao gồm: nhiễm trùng đường hô  hấp (47,17%), các triệu chứng cúm (19,67%), các  triệu  chứng  dạ  dày  –  ruột  (10,07%)  và  nhiễm  đường hô hấp cấp tính ở trẻ em (9,72%). Viêm da  (4,91%), viêm kết mạc (3,36%), tiêu chảy (1,27%).  Tỷ  lệ  nữ  (56,0%)  đến  KCB  cao  hơn  tỷ  lệ  nam  (44,0%). Nhóm tuổi 50‐59 và 0‐4 tuổi là hai nhóm  có tỷ lệ trên 1000 người cao nhất sau lụt.

Bệnh ngoài da/viêm da: Trong nghiên cứu của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  bệnh  nhân  thăm  khám  do  các  bệnh  ngoài  da  chiếm  4,9%  tổng  số  lượt  thăm  khám,  thấp  hơn  so  với  báo  cáo  của  Bộ  Y  tế  Pakistan  (19%  bệnh  nhân  viêm  da).(3)  Điều  này  có thể được giải thích bởi sự khác biệt trong bản  chất của lũ lụt và thời gian thu thập số liệu. Lũ  lụt  ở  Pakistan  năm  2010  kéo  dài  và  ảnh  hưởng  trên diện rộng hơn nhiều so với lũ lụt tại Quảng  Trị trong nghiên cứu trong nghiên cứu này. Và  hơn nữa, như đã đề cập trên đây, trong bối cảnh  của  Việt  Nam,  một  số  người  bệnh  không  đến  KCB ở TYT xã do đó số người mắc bệnh nhiễm  trùng da thực tế trong cộng đồng có thể cao hơn.

Nhóm tuổi và giới tính

Cần  tiến  hành  những  nghiên  cứu  dựa  trên  điều tra hộ gia đình với cỡ mẫu phù hợp để xác  định  được  cả  những  người  bị  bệnh  không  đến  KCB  tại  TYT  xã.  Cải  thiện  việc  thực  hiện  đúng  phân loại bệnh tật theo ICD‐10 tại TYT cũng sẽ có  ích  cho  việc  theo  dõi  và  cung  cấp  những  thông  tin  chính  xác  về  tình  hình  mắc  bệnh  trong  điều  kiện bình thường cũng như sau lũ lụt.

Thông thường, trong những trường hợp thiên  tai,  phụ  nữ  có  khả  năng  dễ  bị  tổn  thương  hơn  nam giới (11).Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ  nữ đến KCB trước lụt là 55,9%, tương đương với  sau lụt (56,0%).

107

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

7.

2.

3.

8.

9.

4.

Hà Văn Như (2011). Tình hình bệnh nhân mắc bệnh nhiễm trùng  đến khám tại trạm y tế xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng  Tháp trong mùa lũ năm 2007, Tạp chí Y học thảm họa và Bỏng,  số 3/2011, tr. 11‐16.   Hà Văn Như (2011). Tình hình khám chữa bệnh tại trạm y tế xã  thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên bái sau lũ quét tháng 9 năm 2005,  Tạp chí Y học dự phòng, tập XXI, số 6(124), tr. 298‐306.  Ivers  LC,  Edward  RT  (2006).  ‘Infectious  diseases  of  severe  weather‐related  and  flood‐related  natural  disasters’,  Current  opinion in infectious diseases, vol. 19, no. 5, pp. 408–414  Kondo H et al., (2001). ‘Infectious Diseases during the Flood  Disaster  in  Mozambique  2000’,  Prehospital  Disaster  Medicine,  vol. 16, Supplement 2, pp. 38‐39

10. Le  TT  and  Dang  VC  (2004).  Report  on  morbidity  and  in  Central  Viet  am  2003

flooding

from

mortality  (unpublished)

5.

11. Nishikiori  N,  Abe  T,  Costa  DG,  Dharmaratne  SD,  Kunii  O  and Moji K (2006). ‘Who died as a result of the tsunami? Risk  factor  of  mortality  among  internally  displaced  persons  in  Srilanka: a retrospective cohort analysis’, BMC Public Health  6, 73.

Ahern  M,  Kovats  RS,  Wilkinson,  Few  PR  and  Matthies  F  (2005).  ‘Global  health  impacts  of  floods:  Epidemiologic  evidence’, Epidemiologic Reviews, vol. 27, pp. 36‐46.  Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương (2010). Báo cáo  tổng hợp thiệt hại do cơn bão số 9 gây ra, tính đến 15/10/2010.   Federal  Ministry  of  Health,  Government  of  Pakistan  and  World  Health  Organization  (WHO),  Pakistan  (2010).  Flood  Response  in  Pakistan,  Epidemiological  Bulletin,  vol.  1,  issue  2  Monday 30 August 2010.  Few  R,  Tran  PG  and  Bui  TTH  (2004).  Living  with  floods:  Health risk and copping strategies of the urban poor in Viet  Nam,  Research  report,  May  2004  (a  research  project  funded  by British Academy (Committee for South East Asia Studies)  May 2003‐March 2004)  Guha‐Sapir  D,  Gijsbert  WP,  Langoutte  J  (2007).  ‘Pattern  of  chronic  and  acute  disease  after  natural  disasters  –  a  study  from  the  international  Committee  of  the  Red  Cross  field  hospital in Banda Aceh after the 2004 Indian ocean tsunamis’,  Tropical Medicine and International Health,  vol.  12,  No.  11,  pp.  1338‐1341.

108

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, HÀNH VI, THỰC HÀNH   VỀ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV NGHỀ NGHIỆP CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ BỆNH  VIỆN ĐA KHOA TỈNH YÊN BÁI NĂM 2011

Lê Phương Lan*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nhân viên y tế (NVYT) thường lúng túng trong việc xử lý vết thương tại chỗ và thực hiện qui

trình xử lý sau phơi nhiễm khi xảy ra tai nạn nghề nghiệp.

Mục  tiêu:  1)  Mô  tả  kiến  thức,  thái độ,  thực  hành,  yếu  tố  liên  quan  đến dự phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề

nghiệp của NVYT Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái năm 2011. 2) Đề xuất biện pháp giải quyết.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu: NVYT bệnh viện. Thời gian nghiên

cứu: Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2011.

Kết quả: 35% ‐ 40% NVYT chưa có kiến thức xử lý sau phơi nhiễm và giai đoạn người bệnh có nguy cơ  lây nhiễm cao; 50% chưa có kiến thức đúng về dự phòng phổ cập; 20% ngại chăm sóc bệnh nhân HIV. Việc dự  phòng phổ cập và xử lý dự phòng sau phơi nhiễm chưa đúng. Có mối liên quan giữa: Đào tạo và kiến thức, tính  sẵn có của trang bị phòng hộ hoặc việc thực hiện kiểm tra các qui định dự phòng lây nhiễm HIV với tính tự giác  dự phòng lây nhiễm HIV của NVYT.

Kết luận: Bổ xung kiến thức, đào tạo qui trình chăm sóc người bệnh, qui trình xử lí chất thải. Cấp đủ trang

bị phòng hộ và các loại hóa chất khử nhiễm cần thiết. Giáo dục y đức và kỹ năng giao tiếp cho NVYT.

Từ  khóa: Kiến thức, thái độ, thực hành, phơi nhiễm, dự phòng phổ cập, dự phòng sau phơi nhiễm, nhân

viên y tế, bệnh nhân

ABSTRACT

DESCRIPTION OF KNOWLEDGE, BEHAVIOURS, PRACTICES, AND ALL FACTORS RELATED  TO PREVENTIVE INFECTION OF HIV FOR ALL HEALTH CARE STAFFS IN GENERAL  HOSPITAL OF YENBAI PROVINCE IN 2011

Le Phuong Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 110 ‐ 117

Background:  Health  care  staffs  are  usually  hesitant  in  first  aid  and  in  carrying  out  an  initial‐treating

procedure of exposures after accidental incident takes place when treating patients.

Objectives: 1) Descriptions of knowledge, behaviours, practices, and all factors that related to prevention of  infection of HIV for all health care staffs who directly treat and take care of patients in General Hospital of Yenbai  province in 2011. 2) Suggesting solutions for those issues.

Methods: Study Method: Cross‐sectional study. Study objects: The entire members of treatment staff. Study

duration: from January to December 2011.

Result: In general, 35%‐40% of staff do not have knowledge of treating protocol after exposure and stage  that victims have high chance of being infected; and 50% of staff do not have a firm understanding of universal  precaution  and  20%  are  afraid  of  infectious  possibility  in  treatment.  It  appeared  that  knowledge  on  universal  precaution  and  of  protection  and  treating  after  exposure  are  incorrect  and  misunderstood.  There  is  relation

∗ Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Đồng Nai   Tác giả liên lạc: BS.CKII. Lê Phương Lan  ĐT: 0984239224

Email: lelanssyb@gmail.com

109

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  between training and knowledge of staffs, availability of protective equipment and facilities/examine and follow  procedure instructed in order to prevent infection from many varied sources and apperception of staffs in HIV  treatments.

Conclusion: Encourage training activities for staffs to improve their own knowledge in HIV prevention, in  stages of giving therapies to patients, and procedure of sewage disposal. There are also needs of providing staff  with sufficient protective equipments, chemicals for desinfectation. Most importance is training on ethics of staff  and communication skills to communicate with patients whom they are directly giving treatments.

Keywords: Knowledge, attitude, practice, exposure, compulsory prevention, treating after exposure, health

staff, patients  ĐẶT VẤN ĐỀ

ngang  có  phân  tích,  kết  hợp  giữa  nghiên  cứu  định lượng và định tính. Đối tượng nghiên cứu  là tất cả nhân viên hàng ngày trực tiếp chăm sóc  và phục vụ người bệnh trong giai đoạn điều tra.

KẾT QUẢ

Một số thông tin chung của đối tượng nghiên

cứu.  Bảng 1. Thông tin về tuổi, giới tính, dân tộc  Nhóm thông tin

Tỷ lệ (%) Biểu đồ 1. Tỷ lệ NVYT được đào tạo

Báo cáo từ 46 tỉnh, thành trong cả nước cho  thấy năm 2011 có 411 ca phơi nhiễm HIV. Theo  số  liệu  của  Trung  tâm  phòng  chống  HIV/AIDS  tỉnh Yên Bái tính từ năm 2005 đến năm 2010 có  29  trường  hợp  nhân  viên  Y  tế  (NVYT)  phơi  nhiễm HIV nghề nghiệp. Các trường  hợp  được  báo cáo đều được tư vấn, điều trị dự phòng sau  phơi  nhiễm,  không  có  trường  hợp  nào  HIV(+)  sau phơi nhiễm. Tuy nhiên, phản ứng tâm lý của  người bị phơi nhiễm là hết sức nặng nề và kéo  dài  trong  suốt  thời  gian  chờ  xác  định  kết  quả.  Nguyên nhân của những phản ứng bất lợi này là  do  NVYT  chưa  hiểu  biết  đầy  đủ  về  dự  phòng  lây nhiễm HIV sau phơi nhiễm.

Tuổi

Đề  tài  nhằm  mục  đích  trả  lời  các  câu  hỏi:  Kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  và  những  yếu  tố  liên  quan  đến  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  của  NVYT trong khi tác nghiệp?

Giới

Mục tiêu

1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ và thực  hành  về dự phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  của NVYT Bệnh viện Đa khoa tỉnh Yên Bái năm  2011.

Dân tộc

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  của  NVYT  bệnh  viện Đa khoa tỉnh Yên Bái.

3. Đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu nguy

cơ lây nhiễm HIV nghề nghiệp của NVYT.

< 25 25 - 29 30 - 34 35 - 39 40 - 44 45 - 49 ≥ 50 Nam Nữ Kinh Thái Mường Tày Nùng Dao H' Mông Khác Số lượng 75 96 41 26 37 65 60 132 268 331 7 8 43 4 3 1 3 400 Tổng 18,8 24,0 10,2 6,5 9,3 16,2 15,0 33,0 67,0 82,8 1,8 2,0 10,8 1,0 0,7 0,2 0,7 100

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Nhận xét: 42,8% NVYT tuổi dưới 30, không  có  sự  chênh  lệch  lớn  giữa  các  nhóm  tuổi.  Tỷ  lệ  nữ  cao  gấp  2  lần  số  nam.  Người  dân  tộc  Kinh  82,8%. Trình độ sau đại học chiếm 7,3%, đại học  chiếm 18,5%, trung học  và  kỹ  thuật  viên  chiếm  gần  60%.  NVYT  đã  qua  thời  gian  công  tác  >  5  năm  chiếm  gần  60%.  Số  NVYT  chưa  được  tập  huấn về dự phòng phơi nhiễm HIV chiếm tỷ lệ  tương  đối  cao  (60,8%).  Kiến  thức,  thái  độ,  thực

Nghiên  cứu  được  tiến  hành  từ  tháng  1  đến  tháng 12 năm 2011 bằng phương pháp mô tả cắt

110

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hành về phòng lây nhiễm HIV nghề nghiệp của  NVYT.

Kiến thức về nguy cơ lây nhiễm của các loại  chất thải y tế

Giai  đoạn  sơ  nhiễm  và  giai  đoạn  AIDS  là  2  giai  đoạn  tải  lượng  vi  rút  cao,  khả  năng  lây  nhiễm  của  người  bệnh  là  lớn  nhất.  Tuy  nhiên  35,5%  NVYT  cho  rằng  người  bệnh  HIV  ở  giai  đoạn bệnh tiến triển có khả năng gây lây nhiễm  cao,  điều  này  cho  thấy  nhiều  NVYT  còn  chưa  hiểu rõ sinh lí  bệnh HIV.

Kiến thức về hoàn cảnh xảy ra phơi nhiễm  làm tăng nguy cơ nhiễm HIV

Có  mối  liên  quan  tỷ  lệ  thuận  giữa  nguy  cơ  cao ‐ thấp với số lượng máu dịch thể nhiều ‐ ít,  thời  gian  tiếp  xúc  nhanh  ‐  lâu,  vật  gây  tổn  thương  to  ‐  nhỏ,  tổn  thương  sâu  ‐  nông,  tuy  nhiên  có  đến  41,3%  đến  63,5%  NVYT  không  phân định được.

64,3% – 93,3% có kiến thức đúng về loại chất  thải  có  khả  năng  lây  nhiễm  HIV;  Vẫn  còn  18%  cho rằng tất cả rác thải sinh hoạt ở buồng bệnh,  chai lọ thuỷ tinh/chai lọ nhựa đựng huyết thanh,  các loại bột bó trong gãy xương kín là nguồn lây  nhiễm HIV; 29,7% ‐ 35,7% cho rằng chất thải sau  phẫu thuật như: mô, bộ phận cơ thể người, rau  thai,  bào  thai,  bông  gạc  dính  máu  và  chất  dịch  của cơ thể không phải là nguồn lây nhiễm HIV.  Những  số  liệu  trên  cho  thấy  kiến  thức  của  NVYT về các loại rác thải lây nhiễm HIV là chưa  đầy đủ.

Kiến  thức  về  xử  lý  sau  phơi  nhiễm  và  việc  giảm  nguy  cơ  lây  nhiễm  HIV  từ  sản  phụ  sang  cán bộ y tế trong khi đỡ đẻ.

Kiến thức về nguy cơ lây nhiễm của các loại  chất dịch cơ thể

Biểu đồ 2. Kiến thức về xử lý sau phơi nhiễm

94,5%  hiểu  biết  đúng:  Máu  là  nguồn  lây  nhiễm  HIV  cao.  Trong  khi  tinh  dịch,  chất  tiết  dịch âm đạo và chất tiết dịch từ vết thương cũng  là  nguồn  lây  nhiễm  HIV  cao  nhưng  chỉ  có  khoảng  50%  trả  lời  đúng;  Chỉ  có  40,8%  đến  50,7% có hiểu biết đúng về loại dịch thể có nguy  cơ  lây  nhiễm  HIV  thấp  là  dịch  màng  tim,  dịch  màng bụng, dịch màng phổi, dịch màng não tủy,  dịch ổ khớp, nước ối; 26,5% cho rằng sữa mẹ là  nguồn  lây  nhiễm  cao;  1,2%  đến  5,5%  cho  rằng:  phân, nước tiểu, nước bọt, nước mắt, nước mũi,  mồ hôi, chất nôn là nguồn lây nhiễm cao. Tỷ lệ  NVYT  không  có  hiểu  biết  hoặc  hiểu  không  rõ  ràng  về  mức  độ  lây  nhiễm  HIV  của  từng  loại  chất dịch cơ thể giao động từ 3% đến 18,2%.

Kiến thức về các trường hợp có nguy cơ lây  nhiễm HIV nghề nghiệp

Biểu đồ 3. Kiến thức về giảm nguy cơ lây nhiễm  HIV từ sản phụ sang cán bộ y tế trong khi đỡ đẻ

57,8%  ‐  70,3%  xác  định  đúng  về  các  trường  hợp  được  gọi  là  có  nguy  cơ  phơi  nhiễm  HIV;  16,5% cho rằng nguy cơ phơi nhiễm HIV có thể  xảy ra khi máu và dịch thể của người bệnh bắn  vào vùng da lành. Rõ ràng kiến thức của NVYT  về phơi nhiễm nghề nghiệp là chưa chắc chắn.

Kiến  thức  của  NVYT  về  khả  năng  lây  nhiễm cao của các giai đoạn nhiễm HIV

111

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Nhận xét:

Kiến  thức  đúng  của  NVYT  về  các  trường  hợp bắt buộc phải xét nghiệm HIV

‐ 74,7% NVYT cho rằng cần xét nghiệm HIV  đồng loạt cho mọi người bệnh, chủ động phòng  lây nhiễm HIV cho NVYT.

‐ Tỷ lệ NVYT tế lo sợ chiếm phần lớn 79%.

‐ 22,8% cho rằng nên cho bệnh nhân HIV về  nhà  để  người  nhà  chăm  sóc;  1,2  %  không  thể  hiện quan điểm.

Bảng 3. Thái độ với việc đào tạo người chăm sóc  bệnh nhân HIV

Thái độ Số lượng Tỷ lệ (%)

Biểu đồ 4. Kiến thức đúng của NVYT về các trường  hợp bắt buộc xét nghiệm HIV

1. Việc đào tạo cho NVYT về dự phòng lây nhiễm HIV

Không cần thiết Cần thiết Rất cần thiết Không biết/không trả lời 21 66 310 3 5,2 16,5 77,5 0,8

2. Việc đào tạo nhóm người nhiễm HIV, chuyên chăm sóc bệnh nhân HIV

Kiến thức về nguyên tắc dự phòng phổ cập  Về nguyên tắc phải coi máu và dịch thể của  tất  cả  người  bệnh  đều  có  khả  năng  lây  nhiễm  HIV,  tuy  nhiên  chỉ  có  42%  NVYT  có  kiến  thức  đúng; gần 1% số được hỏi không biết/không trả  lời.

179 44,8

212 53,0

Tuyển chọn người nhiễm HIV, đào tạo họ để họ chăm sóc bệnh nhân HIV Không nên thực hiện cách trên vì tạo sự kỳ thị quá mức Không biết/không trả lời Tổng 9 400 2,2 100

Kiến  thức  về  việc  truyền  máu  khi  không  có  sẵn máu đã được sàng lọc HIV: Tỷ lệ NVYT hiểu  biết  đúng  về  nguồn  máu  được  phép  truyền  là  73,5%; khi không có sẵn máu đã được sàng lọc:  61,8%  NVYT  dùng  biện  pháp  mạnh:  truyền  dung  dịch  thay  thế;  11,7%  nhất  trí  truyền  máu  người nhà.

Thái  độ  của  NVYT  đối  với  người  bệnh  HIV/AIDS  Bảng 2. Thái độ đối với người bệnh HIV/AIDS

Nhận  xét:  Gần  80%  cho  rằng  việc  đào  tạo  NVYT về phòng phơi nhiễm HIV là rất cần thiết.  Trong khi kết quả điều tra tại Bảng 1 lại cho thấy  60,8%  NVYT  chưa  được  đào  tạo;  44,8%  NVYT  muốn đào tạo nhóm đồng đẳng để họ chăm sóc  bệnh  nhân  HIV;  2,2%  số  được  hỏi  không  tỏ  rõ  thái độ.

Thái độ

Lý do chỉ định dùng thuốc cho người bệnh

Số lượng Tỷ lệ (%) 1. Mọi bệnh nhân cần được xét nghiệm sàng lọc HIV, chủ động phòng lây nhiễm cho NVYT

299 93 8

90% NVYT cho rằng nên dùng thuốc đường  uống cho người bệnh HIV, với 3 lý do chính: kín  đáo,  dễ  sử  dụng,  hạn  chế  lây  nhiễm;  4,3%  cho  rằng  khi  cần  thiết  vẫn  dùng  thuốc  đường  tiêm  cho người bệnh.

74,7 Đúng 23,3 Sai 2,0 Không biết/không trả lời 2. Tâm trạng của NVYT khi chăm sóc người bệnh HIV/AIDS.

Thái độ của NVYT trong công việc

98,8%  cho  rằng  việc  sử  dụng  bảo  hộ  lao  động là cần thiết; 80,5% trả lời: nếu sảy ra phơi  nhiễm sẽ bình tĩnh xử lý đúng qui trình.

Lo sợ bị lây nhiễm Không lo sợ Không biết/không trả lời 316 79 5 79,0 19,8 1,2

Thực  hành  rửa  tay  và  sử  dụng  phương  tiện

phòng hộ

93,3% thực hành rửa tay trước và sau chăm

3. Để đề phòng lây nhiễm cho NVYT, tất cả bệnh nhân AIDS nên chuyển về nhà cho người nhà chăm sóc ? 22,8 76,0 1,2 100 Đồng ý Không đồng ý Không trả lời Tổng 91 304 5 400

112

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  sóc  người  bệnh;  72,5%  lựa  chọn  phương  tiện  phòng hộ phù hợp trong từng tình huống chăm  sóc bệnh nhân cụ thể.

Nguyên nhân không thực hiện các qui định về

phòng lây nhiễm HIV của NVYT

Trong  số  NVYT  không  thường  xuyên  thực  hiện  các  qui  định  về  phòng  chống  lây  nhiễm  HIV có 93,2% trả lời là do không có sẵn phương  tiện phòng hộ.

nhân viên y tế. (p > 0,05). Điều này cũng phù hợp  với  kết  quả  quan  sát  và  phỏng  vấn  một  điều  dưỡng tại khoa Nội: “ Về lý thuyết đôi khi tôi không  nhớ, tuy nhiên qui trình thực hành thì chúng tôi làm  thường xuyên và thường làm tương đối đúng. Điều  dưỡng  trưởng  khoa  cũng  thường  xuyên  kiểm  tra,  nhắc nhở các điều dưỡng viên của chúng tôi”.  Tuy  nhiên  kết  quả  tại  Bảng  6  cũng  cho  thấy:  Tỷ  lệ  NVYT  thực  hiện  đúng  100%  các  qui  trình  thực  hành là rất ít.

Liên  quan  của  đào  tạo  đến  kiến  thức  của

BÀN LUẬN

NVYT

Bảng 4. Mối liên quan giữa đào tạo và kiến thức của  NVYT

Đào tạo Kiến thức Tổng

Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu   Với  từng  độ  tuổi  của  NVYT  bệnh  viện  như  hiện nay sẽ đảm bảo được tính kế thừa và thay  thế.  60,8%  NVYT  chưa  được  tập  huấn  về  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  là  điều  rất  cần các nhà quản lí quan tâm.

Đã đào tạo Chưa đào tạo Tổng Đạt 25 9 34 157 243 400 Không đạt 132 234 366 χ2 = 18,31; p = 0,001

Kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  phòng  lây  nhiễm HIV nghề nghiệp của NVYT

Nhận  xét: Có sự khác biệt về kiến thức của  nhóm  NVYT  đã  được  tập  huấn  và  chưa  được  tập huấn về dự phòng lây nhiễm HIV, (p < 0,05).

Bảng 5. Mối liên quan giữa thâm niên công tác của  NVYT với thái độ lo lắng bị lây nhiễm HIV.

Gần 40% NVYT chỉ cảnh giác với chất thải là  dụng cụ sắc nhọn, chủ quan với những chất thải  không có khả năng làm tổn thương, điều này có  thể dẫn đến việc chủ quan trong việc quản lý và  tiếp xúc với loại chất thải này.

Đào tạo Tổng

Thâm niên công tác > 5 năm <= 5 năm 175 141 52 27 316 79

1 4 5

Lo sợ bị lây nhiễm Không lo sợ Không biết/không trả lời Tổng 231 400 169 χ2 = 3,946; p = 0,267

Nhận xét: Thái độ lo lắng bị lây nhiễm HIV  không  phụ  thuộc  vào  thâm  niên  công  tác  của  NVYT (p > 0,05).

Chỉ  có  57,8%  ‐  70,3%  xác  định  đúng  các  trường  hợp  có  nguy  cơ  nhiễm  HIV  sau  phơi  nhiễm.  Đây  là  một  trong  những  nguyên  nhân  con  số  phơi  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  không  được báo cáo đầy đủ. Kiến thức về sinh lý bệnh  HIV của nhiều NVYT còn rất mơ hồ, dẫn đến họ  chủ  quan  với  giai  đoạn  sơ  nhiễm  của  người  bệnh, đặc biệt với tất cả những trường hợp chưa  xác  định  được  rõ  ràng  tình  trạng  nhiễm,  trong  khi nguyên tắc của dự phòng phổ cập là phải coi  mọi nguồn máu và dịch thể của tất cả bệnh nhân  đều có nguy cơ lây nhiễm.

Bảng 6. Mối liên quan giữa đào tạo với thực hành  phòng chống HIV/AIDS nghề nghiệp của NVYT Tổng

Kiến  thức  về  nguy  cơ  lây  nhiễm  cao  ‐  thấp  liên quan đến hoàn cảnh xảy ra phơi nhiễm của  nhiều NVYT còn mơ hồ.

Thực hành Đào tạo

Đã được đào tạo Chưa được đào tạo Tổng Không đạt 155 242 157 243 400 Đạt 2 1 χ2 = 0,95; p = 0,564

Nhận  xét:  Không  thấy  có  mối  liên  quan  có  nghĩa thống kê giữa đào tạo với thực hành của

Chỉ  có  gần  60%  NVYT  biết  qui  trình  xử  lý  sau  phơi  nhiễm  là  7  bước  và  điều  trị  sau  phơi  nhiễm là khẩn cấp, điều này cho thấy nếu xảy ra  phơi  nhiễm,  nhiều  NVYT  sẽ  lúng  túng  trong

113

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  việc xử lý cho bản thân và đồng nghiệp.

Kết  quả  thu  được  từ  nghiên  cứu  cho  thấy  những lỗ hổng về kiến thức của nhiều NVYT, để  lấp đầy thì việc bổ sung kiến thức là hết sức cần  thiết.  Ngoài  ra  cũng  cần  khích  lệ  NVYT  tự  học  tập  nâng  cao  trình  độ,  biện  pháp  này  là  biện  pháp  lâu  dài,  bền  bỉ  và  mang  lại  hiệu  quả  bền  vững.

chân, kính mắt, áo ni lông mới đáp ứng được từ  37% ‐ 47%, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến  việc  thực  hiện  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  của  NVYT.  Bệnh  viện  tổ  chức  khá  thường  xuyên  việc  kiểm  tra  qui  chế  dự  phòng  lây nhiễm HIV nghề nghiệp. Điều này rất đáng  kích  lệ  và  cần  được  tiếp  tục  làm  tốt  trong  thời  gian tới. Số NVYT được đào tạo đạt yêu cầu về  kiến thức cao gấp gần 3 lần so với số chưa được  đào tạo (Bảng 4: p < 0,05), trong khi có đến 60,8%  NVYT chưa được đào tạo, rõ ràng việc đào tạo  về  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  cho  NVYT  là  rất  có  ý  nghĩa.  Thái  độ  lo  lắng  bị  lây  nhiễm  HIV  không  phụ  thuộc  vào  thâm  niên  công tác ( p> 0,05). Không có mối liên quan giữa  đào  tạo  với  thực  hành  của  NVYT  (Bảng  6:  p  >  0,05).

Kết quả nghiên cứu là hình ảnh nhiều chiều  phản ảnh thực chất nhiều NVYT ngại chăm sóc  người bệnh HIV/AIDS (Bảng 2, Bảng 3, Bảng 5),  tuy nhiên, ý kiến về thái độ tiêu cực của NVYT  với  người  bệnh  không  gặp  trong  thảo  luận  nhóm  và  phỏng  vấn  sâu.  Kết  quả  khảo  sát  về  thái độ cho thấy một tâm lí  không ổn định vẫn  đang tồn tại ở một số NVYT, đây là vấn đề rất  cần  phải  thảo  luận  để  NVYT  hiểu  và  nêu  cao  hơn nữa tinh thần trách nhiệm cũng như y đức  đối với người bệnh.

Việc  thực  hiện  các  qui  định  về  dự  phòng  lây nhiễm HIV

Kết quả điều tra cũng cho thấy: Tỷ lệ NVYT  thực  hành  đúng  100%  qui  trình  chiếm  tỷ  lệ  rất  nhỏ (Kể cả đối tượng được đào tạo và chưa được  đào tạo). Câu hỏi đặt ra là: Tại sao kiến thức của  nhóm được đào tạo có sự khác biệt nhưng thực  hành  ở  nhóm  được  đào  tạo  và  chưa  được  đào  tạo lại không có sự khác biệt, để trả lời câu hỏi  này cần có một nghiên cứu sâu hơn.

Phân tích các giải pháp giảm thiểu nguy cơ  lây nhiễm HIV nghề nghiệp

NVYT  là  đối  tượng  có  nguy  cơ  cao  lây  nhiễm HIV do hàng ngày phải tiếp xúc trực tiếp  với máu, dịch thể của người bệnh, tuy nhiên việc  giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm cho NVYT là vấn  đề  rất  khó  khăn,  phức  tạp,  có  liên  quan  đến  nhiều yếu tố, cụ thể là:

Yếu tố khách quan

Tại  Quyết  định  Số:  3003  /QĐ‐BYT  ngày  19/8/2009,  Bộ  Y  tế  đã  ban  hành  “Hướng  dẫn  chẩn  đoán  và  điều  trị  HIV/AIDS”  trong  đó  hướng  dẫn  rất  cụ  thể  việc  xử  lí   đối  với  từng  trường  hợp  ngay  sau  khi  xảy  ra  phơi  nhiễm.  Trong khi hàng ngày phải đối mặt với nguy cơ  phơi nhiễm nhưng số NVYT có cách xử lí  sai với  trường  hợp  cụ  thể  vẫn  chiếm  từ  20%  đến  trên  50%.  Điều  này  chứng  tỏ  NVYT  không  thường  xuyên cập nhật kiến thức mới, cũng chưa tự tìm  hiểu để cập nhật những kiến thức mà hàng ngày  liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ và phòng hộ  cho  bản  thân.  Cần  cung  cấp  kiến  thức  cho  NVYT. Cần có sự thống nhất lại qui trình về xử  lý sau phơi nhiễm.

Các yếu tố liên quan đến phòng lây nhiễm  HIV nghề nghiệp của NVYT

Phương  tiện  phòng  hộ  cho  NVYT  hiện  nay  của bệnh viện chủ yếu đáp ứng nhu cầu về găng  tay y tế, hộp đựng dụng cụ sắc nhọn và các loại  dung  dịch  sát  khuẩn/khử  nhiễm.  Các  loại  phương  tiện  phòng  hộ  khác  như:  Mặt  nạ,  bao

Do điều kiện kinh tế ở nước ta còn nhiều khó  khăn nên cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật,  phương  tiện  phòng  hộ  cho  NVYT  chưa  tốt.  Cũng do kinh phí eo hẹp nên công tác giáo dục,  truyền  thông,  đào  tạo  cho  NVYT  về  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  cũng  chưa  thật  sự  được làm tốt. Đôi khi, sự quan tâm từ phía các  nhà quản lí đối với công tác này cũng chưa thật  đúng  mức,  các  chính  sách  bảo  hiểm  y  tế  cho  người bị phơi nhiễm cũng ra đời chậm, muộn và

114

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

người bệnh HIV/AIDS.

Các giải pháp lâu dài

Cải cách không ngừng các chế độ bảo hiểm  nghề  nghiệp  phù  hợp  và  thỏa  đáng  đối  với  người bị phơi nhiễm.

KẾT LUẬN

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều trị sau  phơi nhiễm HIV là một điều trị cấp cứu nhưng  việc  tiếp  cận  với  thuốc  điều  trị  dự  phòng  cũng  còn những bất cập … Hiện nay sự quá tải bệnh  nhân  tại  các  bệnh  viện  nói  chung  và  bệnh  viện  Đa  khoa  tỉnh  Yên  Bái  nói  riêng  thường  xuyên  xảy  ra,  cường  độ  làm  việc  của  NVYT  thường  xuyên quá sức, điều này ảnh hưởng không nhỏ  đến chất lượng công việc và tính cẩn trọng trong  khi tác nghiệp.

Yếu tố chủ quan

Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  của  NVYT bệnh  viện  Đa  khoa  tỉnh  Yên  Bái  năm 2011  Kiến thức

Ý  thức  tự  giác  chấp  hành  các  quy  định  chuyên  môn  của  nhiều  NVYT  chưa  cao,  nhiều  NVYT  còn  chủ  quan  trong  việc  dự  phòng  lây  nhiễm HIV trong khi tác nghiệp... Từ các kết quả  nghiên  cứu  thu  được  và  những  phân  tích  nguyên  nhân  kể  trên  thì  các  giải  pháp  có  tính  khả thi hiện nay là:

Giải pháp trước mắt

Xác  định  đúng  nguồn  lây  nhiễm  HIV  của  NVYT cơ bản đạt yêu cầu (64,3 đến 93,3%). Tuy  nhiên với từng loại rác thải y tế còn nhiều NVYT  chưa  xác  định  đúng  là  nguồn  lây  nhiễm.  Với  từng loại chất dịch cơ thể, nhiều NVYT xác định  mức  độ  lây  nhiễm  chưa  chính  xác.  Khả  năng  đánh  giá  nguy  cơ  lây  nhiễm  sau  phơi  nhiễm  HIV của nhiều NVYT chưa đúng. Khoảng 35% ‐  40% NVYT chưa có kiến thức về xử lý sau phơi  nhiễm  và  giai  đoạn  người  bệnh  có  nguy  cơ  lây  nhiễm cao. Kiến thức về dự phòng phổ cập của  khoảng trên 50% NVYT là chưa chắc chắn.

Thái độ

Cần  có  sự  quan  tâm  đúng  mức  từ  các  nhà  quản lí, cung cấp cho NVYT đầy đủ kiến thức về  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp  qua  các  lớp  đào  tạo,  tập  huấn,  giúp  họ  hiểu  được  sự  quan trọng, cần thiết và hiệu quả của việc tự giác  phòng  hộ  cho  bản  thân.  Trang  bị  đầy  đủ  các  phương tiện phòng hộ tối thiểu cho NVYT, trên  cơ sở sử dụng phù hợp, tránh lãng phí.

Tổ chức giám sát thường xuyên, uốn nắn để  NVYT  thực  hiện  đúng  các  qui  trình  dự  phòng  lây nhiễm HIV nói riêng cũng như các qui trình  phòng chống nhiễm khuẩn nói chung.

20%  NVYT  ngại  chăm  sóc  bệnh  nhân  HIV.  Số  NVYT  lo  sợ  lây  nhiễm  HIV  chiếm  tỷ  lệ  lớn (79%). Trên 90% NVYT có thái độ đúng với  việc  sử  dụng  bảo  hộ  lao  động  cũng  như  đồng  tình  với  quan  điểm  dùng  thuốc  bằng  đường  uống  cho  người  bệnh  HIV  đề  phòng  tránh  lây  nhiễm.  Gần  50%  NVYT  muốn  đào  tạo  nhóm  đồng  đẳng  để  họ  chăm  sóc  bệnh  nhân  HIV/AIDS.

Thực hành

Tại các khoa lâm sàng cần có qui trình xử lí  sau phơi nhiễm được treo/dán ở nơi phù hợp để  NVYT  có  thể  thực  hiện  đúng  khi  xảy  ra  phơi  nhiễm. Đảm bảo tính sẵn có của thuốc kháng vi  rút để NVYT có thể sử dụng trước 6 giờ đầu kể  từ khi xảy ra phơi nhiễm.

Cần  thống  nhất  lại  các  qui  trình  thực  hành  dự phòng phổ cập và qui trình xử lý dự phòng  sau  phơi  nhiễm,  công  việc  này  cần  được  giám  sát và kiểm tra thường xuyên.

Cố  gắng  bố  trí  phù  hợp  nhân  lực  để  giảm  gánh nặng công việc cho NVYT nhất là với các  bộ phận có nguy cơ lây nhiễm cao và cường độ  làm việc lớn.

Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái  độ,  thực  hành  dự  phòng  lây  nhiễm  HIV  nghề  nghiệp của NVYT.

Thường  xuyên  giáo  dục  y  đức  và  kỹ  năng  giao tiếp của NVYT với người bệnh, đặc biệt là

115

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Việc  tập  huấn  nâng  cao  trình  độ  có  ảnh

hưởng tốt đến kiến thức của NVYT (p<0,05).

Cải tiến lại qui trình xử lý các chất thải và rác  thải  bệnh  viện  từ  khâu  thu  gom,  làm  sạch  và  khử nhiễm … cho thuận lợi và khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Tính  sẵn  có  của  các  loại  trang  bị  phòng  hộ,  thường  xuyên  thực  hiện  kiểm  tra  các  qui  định  dự phòng lây nhiễm HIV sẽ góp phần làm tăng  tính  tự  giác  của  NVYT  trong  dự  phòng  lây  nhiễm HIV.

Giáo dục y đức cho NVYT để cải thiện tình

trạng ngại chăm sóc người bệnh HIV/AIDS.

2.

Đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu nguy cơ

lây nhiễm HIV nghề nghiệp cho NVYT.

3.

4.

5.

6.

Tổ chức tập huấn kiến thức về dự phòng lây  nhiễm  HIV/AIDS  cho  NVYT.  Cập  nhật  thường  xuyên  kiến  thức  mới  về  dự  phòng  và  điều  trị  HIV,  bao  gồm  cả  điều  trị  dự  phòng  sau  phơi  nhiễm.  Tập  huấn  lại  các  qui  trình  chăm  sóc  người  bệnh,  qui  trình  xử  lí  chất  thải  từ  người  bệnh,  rèn  luyện  thói  quen  tự  bảo  vệ  bản  thân  cho NVYT theo nguyên tắc dự phòng phổ cập.

7.

Trang bị đủ cho NVYT găng tay, ủng chân,  kính  mắt  và  các  loại  hóa  chất  khử  nhiễm  cần  thiết.  Coi  trọng  giáo  dục  y  đức  và  trang  bị  kỹ  năng giao tiếp cho NVYT trong chăm sóc và tiếp  cận với bệnh nhân HIV.

8.

KIẾN NGHỊ

9.

Qui  trình  xử  lí  sau  phơi  nhiễm  phải  được  treo/dán ở nơi phù hợp của từng khoa lâm sàng  để NVYT thực hiện đúng khi xảy ra phơi nhiễm.

Bộ Y tế ‐ Bộ Tài chính (2005),  Thông tư liên tịch hướng dẫn  thực  hiện  Quyết  định  số  265/2003/QĐ‐TTG  ngày  16/12/2003  của Thủ tướng về chế  độ  đối  với  người  bị  phơi  nhiễm  HIV  hoặc  bị  nhiễm  HIV/AIDS  do  tai  nạn  rủi  do  nghề  nghiệp,  Thông tư liên tịch số 10/2005/TTLT‐BYT‐BTC ngày 30 tháng 3  năm 2005, Hà Nội.  Bộ  Y  tế  (1996),  Qui  định  chuyên  môn  về  xử  lí   nhiễm  HIV/AIDS,  Quyết  định  số  2557/QĐ‐BYT  ngày  26  tháng  12  năm 1996, Hà Nội.   Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS,  Quyết định số 3003/QĐ‐BYT ngày 19 tháng 8 năm 2009, Hà  Nội.  Bộ Y tế (2009), Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS tại Việt  Nam năm 2007‐2012, Hà Nội.   Chu Quốc Ân (2010), Cập nhật tình hình dịch HIV/AIDS trên  thế  giới  qua  các  con  số,  (Online).  www.hivquangtri.org.vn  (Accesed: 23 March 2010).  Đại học Y Hà Nội, văn phòng CDC Việt Nam chương trình  AIDS  toàn  cầu,  văn  phòng  dự  án  LIFE‐GAP  Bộ  Y  tế  (2005),  Đánh giá nhu cầu đào tạo về dự phòng phơi nhiễm HIV nghề  nghiệp tại 8 trường đại học y Việt Nam, Hà Nội, tr. 23 – 29  Lê Đăng Hà, Nguyễn Đức Hiền, Cao Thị Thanh Thủy (1999),  Khảo sát về hiểu biết, thái độ, thực hành chăm sóc bệnh nhân  HIV/AIDS của nhân viên Y tế tại bệnh viện và sự hiểu biết,  thái độ và hành vi của bệnh nhân AIDS, người nhà chăm sóc  bệnh nhân AIDS, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học về  HIV/AIDS 1997 ‐1999, Hà Nội, tr. 183 ‐ 189.  Nguyễn  Đức  Thành  (2001),  Hiểu  biết,  thái  độ,  thực  hành  phòng  chống  lây  nhiễm  HIV/AIDS  của  cán  bộ  y  tế  tại  các  bệnh  viện  tỉnh/thành  phố  và  huyện/quận  thuộc  các  tỉnh  Quảng Ninh, Nghệ An, Nam Định năm 2000, Báo cáo tại Hội  thảo khoa học 2001 Hà Nội, Hà Nội.  Sở  Y  tế  tỉnh  Yên  Bái,  Trung  tâm  phòng  chống  HIV/AIDS  (2011), Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu  năm 2011, Yên Bái.

Đảm bảo tính sẵn có của thuốc kháng vi rút  để NVYT có thể sử dụng trước 6 giờ đầu kể từ  khi xảy ra phơi nhiễm.

10. Ủy ban Nhân dân tỉnh Yên Bái (2009), Đề án tăng cường công  tác phòng, chống, kiềm chế sự gia tăng lây nhiễm HIV/AIDS  tại  tỉnh  Yên  Bái  giai  đoạn  2010  –  2015,  Quyết  định  số  1591/QĐ‐UBND ngày 20 tháng 10 năm 2009, Yên Bái.

116

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KHẢO SÁT SƠ BỘ TÌNH HÌNH RĂNG NHIỄM FLUOR TẠI 2 Xà  CÓ MỎ FLUORITE CỦA TỈNH PHÚ YÊN

Nguyễn Thị Thanh Hà*, Trần Thu Thủy*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Theo báo cáo của tỉnh Phú Yên, người dân tại đây, nhất là những người sống tại huyện Đồng  Xuân, đang rất quan tâm và lo lắng cho tình trạng răng đen của họ, đã ảnh hưởng rất nhiều trong công việc và  trong giao tiếp. Đây cũng chính là huyện có sự hiện diện của các mạch chứa quặng và mỏ fluorite, trong đó xã  Xuân Lãnh là một trong những xã có mỏ quặng fluorite đang được khai thác.

Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu khảo sát sơ bộ tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng răng nhiễm fluor  tại 2 xã của huyện Đồng Xuân ở trẻ 12 tuổi sống liên tục tại 2 xã này từ trước khi sinh đến nay. Từ đó làm cơ sở  để lập kế hoạch điều tra một cách toàn diện hơn về tình trạng răng nhiễm fluor của người dân sống trong môi  trường hoạt động của mỏ fluorite, nhằm đề xuất những biện pháp xử lý thích hợp để ngăn chặn hiện tượng này  cho những thế hệ sau.

Phương  pháp  nghiên  cứu: Cắt ngang mô tả, khám đánh giá tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng  răng nhiễm fluor cho học sinh lớp 6 (12 tuổi) đang theo học và sinh sống liên tục tại 2 xã Xuân Lãnh và Xuân  Phước huyện Đồng xuân, cùng những người dân sống liên tục tại xã Xuân Phước, theo 2 loại chỉ số: Dean và  TF. Nghiên cứu được thực hiện bởi 2 Bác sĩ của bộ môn Nha khoa Công cộng, Khoa Răng Hàm Mặt, đại học Y  Dược thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12 năm 2011.

Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ răng nhiễm fluor của học sinh 12 tuổi sống liên tục tại 2 xã này đều cao: 80% ở  xã Xuân Phước và 84,6% ở xã Xuân Lãnh. Chỉ số nhiễm cộng đồng ở trẻ em 12 tuổi cả 2 xã đều thuộc loại trung  bình (1,5). Tỷ lệ trẻ có toàn bộ (100%) răng nhiễm fluor mức độ TF≥1 là 53,85%; TF≥2 là 26,92%; TF≥3 là  7,69%; và TF≥4 là 3,85%. 100% người dân được khám có tình trạng răng nhiễm fluor ở mức độ 4 và 5 theo  Dean, FCI=3,6±0,51(rất đáng kể).

Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh và người dân ở cả hai xã đều có tỷ lệ và mức độ trầm trọng  của răng nhiễm fuor như nhau và rất cao. Điều này cho thấy tính cần thiết và cấp bách của việc điều tra nghiên  cứu chi tiết và tổng quát hơn về tình hình sức khỏe răng miệng cũng như yếu tố môi trường để đưa ra biện pháp  điều trị và phòng ngừa thích hợp giúp người dân có một hàm răng đẹp.

Từ khóa: Răng nhiễm fluor, chỉ số nhiễm F cộng đồng

ABSTRACT

PRELIMINARY SURVEY OF DENTAL FLUOROSIS IN TWO WARDS HAVING FLUORITE MINES  IN PHU YEN PROVINCE

Nguyen Thi Thanh Ha, Tran Thu Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 118 ‐ 124

Background: According to a report of Phu Yen province, people, especially those who live in Dong Xuan  district,  really  worry  about  their  black  teeth,  that  influence  their  works  and  communications.  This  is  also  the  district with the presence of the fluorite mines, in which Xuan Lanh ward is one of the fluorite mine areas that are  being exploited.

∗ Bộ môn Nha khoa Công cộng ‐ Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược tp. HCM  Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thị Thanh Hà   ĐT: 093 848 9911  Email: nguyenthithanhha1964@yahoo.com.vn

117

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Objectives:  To  primarily  evaluate  the  prevalence  and  the  severity  of  dental  fluorosis  among  children  12  year‐old living continuosly from prenatal to present in two wards in Dong Xuan. The results achieved from this  study will be a foundation of making plans for a comprehensive survey of dental fluorosis of people living in the  fluorite mine area and propose appropriate prevention methods for future generations.

Research  Methodology:  Cross‐sectional  method  was  applied.  61  students  in  grade  6  (12  years)  permanently resident in two wards (Xuan Lanh and Xuan Phuoc) and people permanently resident Xuan Phuoc  ward of Đồng Xuân district are examined and assessed the severity of dental fluorosis,  using  the  two  indices:  Dean and TF. The study was carried out by two doctors of Dental Public Health department, Faculty of Odonto‐ Stomatology, University of Medicine and Pharmacy in December, 2011.

Results:  The rate of dental fluorosis of 12 year‐old students permanently resident in these wards was too  high, accounted for 80% in Xuan Phuoc and 84.6% in Xuan Lanh. Fluorosis community indices in both of 2  commuities are 1.5 (in moderate ). The percentageof children have 100% teeth with dental fluorosis at level TF ≥  1,  TF  ≥  2,  TF  ≥  3,  and  TF  ≥  4  were  53.85%,  26.92%,  7.69%  and  3.85%  respectively.  100%  of  inhabitants  examined have dental fluorosis at level 4 and 5 according to Dean index, with Fluorosis community index FCI =  3.6 ± 0.51 (remarkable).

Conclusion: The results showed that students and people living in both fluorite mine wards have the high  rate and severity of dental fluorosis. Therefore, a comprehensive investigation of oral health situation as well as  environmental factors are recommended to find out appropriate treatment  and  prevention  methods  in  order  to  bring nice teeth for people in the areas..

Keywords: Dental fluorosis, Fluorosis community index

ĐẶT VẤN ĐỀ

nước  gây  ra  tình  trạng  này  là  cần  thiết  để  có  những biện pháp giải quyết thích hợp.

Fluor (F) là một chất hóa học có trong thiên  nhiên,  thường  dưới  dạng  hợp  chất.  Fluor  hấp  thụ vào cơ thể với một mức độ phù hợp sẽ có tác  dụng  phòng  ngừa  sâu  răng,  nhưng  nếu  lượng  fluor  hấp  thụ  quá  mức  sẽ  gây  ra  tình  trạng  nhiễm  độc  cấp  hoặc  mãn  tính.  Tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  là  một  điển  hình  của  nhiễm  độc  fluor mãn tính(11).

Phú  Yên  là  một  tỉnh  ven  biển  thuộc  vùng  duyên  hải  Nam  Trung  Bộ  Việt  Nam,  có  nhiều  suối  nước  khoáng  nóng  và  nhiều  tài  nguyên.  Đồng Xuân là huyện miền núi nằm về phía Tây  Bắc của tỉnh Phú Yên. Đây cũng là huyện có sự  hiện  diện  của  các  mạch  chứa  quặng  và  mỏ  fluorite, trong đó Xuân Lãnh là một trong những  xã có mỏ quặng fluorite đang được khai thác(9).  Theo  báo  cáo  của  địa  phương,  người  dân  sống  tại Phú Yên, nhất là tại huyện Đồng Xuân đều có  tình trạng răng nâu đen, đục, bề mặt lỗ chỗ. Dân  chúng ở đây đang rất quan tâm và lo lắng vì tình  trạng răng đen này đã ảnh hưởng rất lớn trong  công việc và trong giao tiếp hàng ngày. Họ thiết  tha mong muốn có sự giúp đỡ để cải thiện tình  hình, và đồng thời hy vọng thế hệ con cháu của  họ sẽ không gặp phải hiện tượng này.

Ở nước ta, một số nơi có tỉ lệ sâu răng cao,  lượng  fluor  trong  nước  ít  hoặc  không  có,  cần  phải  fluor  hoá  nước  và  sử  dụng  thêm  một  số  biện  pháp  F  khác.  Bên  cạnh  đó,  một  số  nơi  ghi  nhận  có  hiện  tượng  răng  nhiễm  fluor,  do  nồng  độ  fluor  trong  nước  cao.  Có  một  số  vùng  tình  trạng này rất trầm trọng, ảnh hưởng nhiều đến  thẩm  mỹ,  và  đã  được  mệnh  danh  là  vùng  đất  “không  có  nụ  cười”.  Tình  trạng  nhiễm  fluor  thiên  nhiên  nhất  là  do  nguồn  nước  không  chỉ  ảnh hưởng đến từng cá nhân mà là vấn đề của  cộng đồng. Do đó việc xác định một cộng đồng  có  nhiễm  fluor  hay  không,  cũng  như  xác  định  những nguyên nhân, trong đó chủ yếu là nguồn

Nghiên cứu này là một khảo sát ban đầu để  đánh  giá  về  thực  trạng  nhiễm  fluor  của  người  dân tỉnh Phú Yên, cụ thể là 2 xã của huyện Đồng  Xuân,  nơi  nhận  được  phản  ánh  nhiều  nhất  về  tình trạng răng đen, mà địa phương nghi ngờ là

118

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

FCI= (∑ (n×w))/ N

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  do có mỏ fluorite đang khai thác.

n: Số lượng trẻ ở mỗi mức độ

Mục tiêu nghiên cứu

w: Tần số của mỗi mức độ

N: Tổng số cá thể được khám

Khảo sát sơ bộ tình trạng răng nhiễm fluor:  tỷ lệ và mức độ trầm trọng ở trẻ 12 tuổi và một  số dân sống tại 2 xã Xuân Lãnh và Xuân Phước,  là  những  xã  có  mỏ  fluorite,  thuộc  huyện  Đồng  Xuân tỉnh Phú Yên.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Trẻ  12  tuổi  sống  liên  tục  (từ  trước  khi  sinh  tới nay) tại 2 xã Xuân Lãnh và Xuân Phước (học  sinh lớp 6 của 2 trường cấp II tại 2 xã này) thuộc  huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Một số người dân sống liên tục tại thôn Phú

Xuân B, xã Xuân Phước.

FCI 0,0 - 0,4 0,4 - 0,6 0,6 - 1,0 1,0 - 2,0 2,0 - 3,0 3,0 - 4,0 Ý nghĩa sức khỏe cộng đồng/Mức độ gây hại Âm tính (không hại) Giới hạn (ranh giới hại và không hại) Nhẹ Trung bình Đáng kể Rất đáng kể

Phương pháp nghiên cứu

Khám ghi nhận tình trạng răng nhiễm fluor  của các học sinh lớp 6 thuộc 2 xã Xuân Lãnh và  Xuân Phước – huyện Đồng Xuân theo chỉ số TF  (Thylstrup  và  Fejerskov  1978)(7,1,2,12,3):  Ghi  nhận  chỉ số cho từng răng, răng được làm sạch và khô  trước  khi  khám.  Mô  tả  đặc  điểm  nhiễm  fluor  trên răng, được sắp xếp thành 10 mức độ, từ độ  0 − 9, phản ảnh sự gia tăng mức độ trầm trọng.  Vì toàn bộ các mặt răng đều bị nhiễm như nhau,  nên  cách  phân  loại  này  có  thể  căn  cứ  vào  mặt  ngoài như là đại diện cho tất cả các mặt răng còn  lại, Ghi nhận mã số của mặt ngoài:

0: Men răng trong, màu kem nhạt.

1.  Những  đường  trắng  đục  mảnh  chạy

ngang trên bề mặt, có hình ảnh “đỉnh tuyết”.

2.  Những  đường  trắng  đục  thấy  rõ  hơn  và

Khám ghi nhận tình trạng răng nhiễm fluor  của tất cả các đối tượng nghiên cứu theo chỉ số  Dean  (1942)(7,1,2,12,3,4,13,8):  Mỗi  răng  được  khám  và  đánh  giá  từ  1  đến  6  mức  độ.  Răng  được  khám  dưới ánh sáng tự nhiên không cần làm sạch răng  và không thổi khô răng trước khi khám. Mỗi cá  thể được ghi nhận bằng một số. Khi xếp loại thì  dựa vào tình trạng cặp răng bị ảnh hưởng nhiều  nhất,  nếu  2  răng  không  tương  đương  nhau  thì  chọn mã số theo răng bị nhiễm ít hơn.

tạo các đám mây nhỏ.

Mã số:

3.  Những  đường  trắng  hợp  lại  thành  các

đám mây trắng đục lan rộng.

0: Bình thường: men răng có độ trong bình thường, nhẵn,  bóng, màu kem nhạt.

4. Toàn bộ bề mặt răng bị trắng đục.

5.  Có  thêm  những  hố  tròn  khiếm  khuyết

1. Nghi ngờ: biến đổi nhẹ về độ trong của men răng từ vài  đốm đến vài chấm trắng.

men có đường kính dưới 2mm.

6. Những hố nhỏ kết hợp lại thành từng dãy

2. Rất nhẹ: vùng nhỏ, trắng đục rải rác nhưng <25% bề  mặt răng.

có chiều cao < 2mm.

7.  Mất  men  nhiều  hơn,  nhưng  <  1/2  bề  mặt

3. Nhẹ: Các vùng trắng đục trên 25% nhưng < 50% bề  mặt răng.

men. Phần men còn lại có màu trắng đục.

8. Mất men > 1/2 bề mặt men. Phần men còn

4. Trung bình: toàn bộ bề mặt răng bị ảnh hưởng trắng  đục. Mặt răng có thể nhiễm sắc.

lại trắng đục.

5. Nặng: trắng đục toàn bô, có hiện diện các hố khiếm  khuyết.

9.  Mất  phần  lớn  bề  mặt  men  làm  thay  đổi

hình dáng giải phẫu của răng.

Tính chỉ số răng nhiễm fluor của cộng đồng (FCI: fluorosis  community index):

FCI được tính cho cộng đồng theo công thức:

Đánh  giá  tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  nhẹ,  trung bình, và nặng nhóm theo các mức độ của

119

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

trung bình.

Nghiên cứu Y học  chỉ số TF:

TF 0: bình thường

TF 1 – 2: nhẹ

TF 3 – 4: trung bình

TF 5 ‐9: nặng

Phỏng vấn học sinh và người dân qua bảng  câu hỏi để biết thông tin về nguồn nước sử dụng  và thời gian sinh sống tại địa phương.

Xử  lý  kết  quả  bằng  phần  mềm  Excel  và

SPSS(6).

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Khái quát về mẫu chọn:

Biểu đồ 2: Tỷ lệ trẻ 12 tuổi nhiễm fluor tại 2 xã theo  từng mức độ của chỉ số Dean

Bảng 1: Số lượng trẻ 12 tuổi được khám

Kết  quả  về  tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  của  học sinh 12 tuổi sống liên tục từ bé đến nay tại 2  xã này theo chỉ số TF.

Xã Xuân Phước Xuân Lãnh Tổng Nam 15 12 27 Nữ 20 14 34 Tổng cộng 35 26 61

Bảng 3: Tỷ lệ răng nhiễm fluor ở từng mức độ so  với tổng số răng được khám theo chỉ số TF

Xã Trung bình (TF 3, 4) Nhẹ (TF 1, 2) Nặng (TF 5 - 9)

Xuân Phước Xuân Lãnh Bình thường (TF 0) 38,31% (303/791R) 27,23% (162/595R) 38,18% (302/791R) 46,55% (277/595R) 17,19% (136/791R) 25,38% (151/595R) 6,32% (50/791R) 0,84% (5/595R)

Biểu đồ 1: Tỷ lệ nam và nữ trong tổng số dân  được khám tại thôn Phú Xuân B xã Xuân Phước.

Kết quả về tình trạng răng nhiễm fluor (tỷ lệ  và mức độ trầm trọng) của học sinh 12 tuổi sống  liên  tục  từ  bé  đến  nay  tại  2  xã  Xuân  Phước  và  Xuân Lãnh huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên.

Kết  quả  về  tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  của  học sinh 12 tuổi sống liên tục từ bé đến nay tại 2  xã này theo chỉ số Dean.

Bảng 2: Tỷ lệ trẻ có tình trạng răng nhiễm fluor và  chỉ số nhiễm fluor cộng đồng (FCI)   FCI

n Tỷ lệ NF (%) Đánh giá FCI

35 80 1,5±1,20 Trung bình

Biểu đồ 3: Tỷ lệ răng nhiễm fluor theo từng mức độ  của chỉ số TF

Không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm fluor  cũng như về chỉ số nhiễm fluor cộng đồng giữa  2 xã Xuân Phước và Xuân Lãnh (p= 1,0). Cả 2 xã  đều có chỉ số nhiễm fluor cộng đồng thuộc loại

Xã Xuân Phước Xuân Lãnh 26 84,6 1,5±1,16 Trung bình

120

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kết  quả  về  tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  của  một số cá thể sống tại thôn Phú xuân B, xã Xuân  Phước,  huyện  Đồng  Xuân,  tỉnh  Phú  Yên:  100%  số dân được khám đều có tình trạng răng nhiễm  fluor  với  2  mức  độ  4  và  5  theo  chỉ  số  Dean,  không có người nào nhiễm ở mức độ nhẹ hơn.

FCI  =  3,  6  ±  0,51:  thuộc  loại  nhiễm  fluor  rất

đáng kể.

Biểu đồ 5: Tỷ lệ nhiễm fluor theo từng mức độ của  chỉ số Dean của những người dân được khám

BÀN LUẬN

Tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng  răng  nhiễm  fluor  của  người  dân  tại  2  xã  Xuân Phước và Xuân Lãnh

Cụm Biểu đồ 4: Tỷ lệ trẻ 12 tuổi tương ứng với  những tỷ lệ răng bị nhiễm fluor khác nhau ở mức độ  TF≥1; 2; 3 và 4 của mỗi trẻ.

Trẻ 12 tuổi và người dân sống tại 2 xã này có  tỷ  lệ  răng  nhiễm  fluor  khá  cao,  chiếm  tỷ  lệ  từ  80%  đến  100%.  Chỉ  số  nhiễm  fluor  cộng  đồng  FCI của học sinh đều thuộc lọai trung bình (1,0 ‐ 2,0). Các học sinh bị nhiễm ở mức độ 2 và 3 nếu  khám theo cả 2 loại chỉ số Dean và TF chiếm tỷ  lệ  cao.  Những  bé  có  bề  mặt  men  bị  khiếm  khuyết có tỷ lệ không nhỏ, mặc dù mức độ TF ≥  7 (làm thay đổi hình dạng răng) không ghi nhận  được, nhưng TF 5 và 6 biểu hiện bởi các khiếm  khuyết  men  răng  từ  những  hố  nhỏ  cho  đến  những  dãy  khiếm  khuyết  dài  đều  ghi  nhận  được. Nhất là dân sống tại thôn Phú Xuân B, xã  Xuân Phước đều có tình trạng răng nhiễm fluor  từ  trung  bình  đến  nặng.  Toàn  bộ  bề  mặt  men

Tỷ  lệ  trẻ  có  toàn  bộ  (100%)  răng  bị  nhiễm  fluor ở mức độ TF≥ 1 là 53,85%; TF≥2 là 26,92%;  TF≥3 là 7,69%; và TF≥4 là 3,85%..

121

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Yếu tố khí hậu, môi trường

Huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên có sự hiện  diện  của  các  mạch  chứa  quặng  và  mỏ  fluorite,  trong đó xã Xuân Lãnh là một trong những xã có  mỏ quặng fluorite đang được khai thác(9).

Nghiên cứu Y học  răng của tất cả răng trên cung hàm đều bị trắng  đục, nhiễm sắc, 60% số dân được khám có tình  trạng khiếm khuyết men, nhất là vùng răng cửa,  do  đó  ảnh  hưởng  rất  nhiều  đến  thẩm  mỹ.  Đây  cũng chính là mối quan tâm và lo lắng của người  dân  sống  tại  huyện  này  cũng  như  của  các  cấp  lãnh đạo.

Theo Đặng Trung Thuận, hàm lượng F trong  nước bề mặt và trong lòng đất của huyện này có  nồng độ rất cao, có nơi lên đến 11,5 mg/l, trong  nước mỏ fluorite có nồng độ 5,1 mg/l(9).

Tình  hình  sử  dụng  nguồn  nước  và  thời  gian sinh sống tại địa phương

Tất cả trẻ 12 tuổi và những người dân được  khám đều có thời gian sinh sống tại địa phương  rất  lâu.  Hầu  hết  đều  sử  dụng  nguồn  nước  chủ  yếu  là  nước  giếng  đào  tại  nhà,  hoặc  của  hàng  xóm để nấu ăn, uống kể cả sinh hoạt; chỉ có 2 trẻ  được phỏng vấn trả lời là có sử dụng thêm nước  mưa  và  nước  suối.  Điều  này  đã  đặt  ra  những  câu  hỏi:  Nồng  độ  fluor  trong  nguồn  nước  của  các giếng tại các xã này như thế nào, và nồng độ  này  có  đồng  đều  tại  tất  cả  các  giếng  nước  hay  không? Mỏ fluorite đang được khai thác tại đây  có  ảnh  hưởng  như  thế  nào  đối  với  tình  trạng  này?

Các  nguồn  nước  khoáng  nóng  có  thể  vận  động ngầm theo các hệ thống đứt gãy, khe nứt  trong các đá mang theo fluor có trong đá và phát  tán  ra  xung  quanh.  Vì  vậy  các  giếng  nước  gần  nơi  khai  thác  mỏ  hay  gần  các  nguồn  nước  khoáng nóng có hàm lượng F tương đối cao 4,2 ‐ 6,1mg/l,  nơi  cao  nhất  11,5  mg/l.  Nước  giếng  tại  các  nhà  dân  có  nồng  độ  dao  động  rất  lớn  từ  0,1mg/l đến 11,5mg/l. Đặc biệt tại xã Xuân Lãnh,  một số giếng do các hộ dân đào dọc theo đường  liên tỉnh La Hai‐Vân Canh tuy nằm trên bề mặt  địa hình cao, nhưng các giếng luôn đầy nước, và  có nồng độ F>1,5mg/l, có giếng 5 – 6,1mg/l(9).

So sánh với các kết quả nghiên cứu trước  đây

So  sánh  tác  động  của  nồng  độ  fluor  trong  nguồn nước sử dụng và tình trạng răng nhiễm F  tại  2  xã  Xuân  Phước  và  Xuân  Lãnh  với  các  nghiên cứu gần đây tại Việt nam:

Vùng FCI

Tỷ lệ răng nhiễm fluor (%)

Tỷ lệ nhiễm fluor > 90% FCI 1,76 Huyện Ninh Hòa Nồng độ Fluor trong nước giếng (ppm) 0,1 – 20 96 1,76 Khánh Hòa(Error! Reference

source not found.)

Khánh Hòa và Ninh Thuận là 2 tỉnh lân cận  với Phú Yên đã được khảo sát về tình trạng răng  nhiễm fluor với tỷ lệ và mức độ trầm trọng  rất  đáng quan tâm.  Vùng Khánh Hòa (1985) (Error! Reference source not found.) Ninh thuận (1999) (5,10) Huyện Ninh Hải Huyện Ninh Phước

>90% >90% 1,68 1,62

0,15 – 4,8 97,8 2,69

0,1 – 3,2 97,5 2,03 Huyện Đồng Xuân – Phú Yên Xã Xuân Phước Xã Xuân Lãnh 80% 84,6% 1,5 1,5 Ninh Thuận(5,10)

1,22 0,05 – 3,4 73

0,1 – 6,1 84,6 1,5 Phú Yên

Tỷ  lệ  và  chỉ  số  nhiễm  fluor  cộng  đồng  của  các nơi này tương đương nhau. Các tỉnh lân cận  Phú Yên và ngay tại Phú Yên có tỷ lệ và chỉ số  nhiễm fluor cộng đồng tương đương với nhau →  yếu  tố  địa  chất,  môi  trường  có  liên  quan  mật  thiết đến tình trạng này như thế nào?

Thôn Khánh Hội-Huyện Ninh Hải Thôn Phước Dân-Huyện Ninh Phước Phường Phước Mỹ-Thị xã Phan Rang Xã Xuân Lãnh-Huyện Đồng Xuân

KẾT LUẬN

122

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

nước giếng.

ĐỀ XUẤT

Tỷ  lệ  răng  nhiễm  fluor:  Đa  số  học  sinh  12  tuổi sống liên tục tại 2 xã này đều có tình trạng  răng nhiễm fluor: 80% đối với xã Xuân Phước và  84,6%  đối  với  xã  Xuân  Lãnh.  100%  người  dân  sống tại thôn Phú Xuân B xã Xuân Phước huyện  Đồng Xuân đều bị nhiễm fluor trên răng.

Mức  độ  trầm  trọng  của  tình  trạng  răng

Cần  có  một  đợt  khám  điều  tra  chi  tiết  hơn,  phối hợp với việc phân tích nguồn đất đai cùng  với nồng độ fluor trong nước sử dụng. Từ đó đề  ra  các  biện  pháp  khắc  phục  nhằm  đem  lại  cho  người dân tại đây một hàm răng đẹp.

nhiễm fluor:

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

Fejerskov  O  (1988),  Dental  fluorosis  (a  handbook  for  health  workers), Munksgaard Int Publ,.   Fejerskov  O  (1996),  Fluoride  in  dentistry,  Munksgaard  Int  Publ,.

Chỉ số nhiễm cộng đồng ở trẻ em 12 tuổi ở cả  2  xã  đều  thuộc  loại  trung  bình  (1,5),  của  nguời  dân tại thôn Phú Xuân B: 3,6 (rất đáng kể). Mức  độ  trầm  trọng  của  răng  nhiễm  fluor  cũng  thay  đổi nhiều từ bình thường đến nặng, nhưng hầu  hết trẻ bị nhiễm ở mức độ 2 và 3.

4.

5.

Theo  phân  loại  của  TF:  Số  răng  bị  nhiễm  fluor  ở  các  mức  độ  khác  nhau  theo  TF  cũng  có  khoảng thay đổi rộng, số răng bị nhiễm fluor ở  mức độ TF từ 1 đến 4 chiếm phần lớn.

6.

7.

8.

Tất cả người dân được khám đều có mức độ  nhiễm fluor theo chỉ số Dean là 4 và 5, nghĩa là  toàn bộ bề mặt men bị trắng đục, nhiễm sắc và  có các hố khiếm khuyết men răng.

9.

3. Murray  JJ  (1996),  Epidemiology  and  measurement  of  dental  fluorosis,  Fluorides  in  caries  prevention,  Munksgaard  Int  Publ,, 222: 261.  Ngô Đồng Khanh (1997), Điều tra sức khỏe răng miệng, Viện  RHM Tp.HCM,.  Nguyễn  Thị  Thanh  Hà  (1999),  Khảo  sát  tình  trạng  nhiễm  Fluor trên răng tại Ninh Thuận, Luận văn cao học, Đại học Y  dược Tp.HCM.  Nguyễn Xuân Phách (1995), Thống kê y học, Nhà xuất bản Y  học.  Pereira AC (1999), Analysis of three dental fluorosis indexes  used in epidemiologic trials, Brazil Dent J, 10(1): 29: 37.  Rozier  RG  (1994),  Epidemiologic  indices  for  measuring  the  clinical  manifestations  of  dental  fluorosis;  overview  &  critique, Adv Dent Res,, June, 8(1): 39‐55.  Thái  Vũ  Bình  (2011),  Đề  án  khảo  sát  đánh  giá  tình  hình  ô  nhiễm fluor tại xã Xuân lãnh và Xuân Phước.

Trong  quá  trình  khám  điều  tra  cũng  nhận  thấy có tình trạng răng nhiễm fluor ở hệ răng  sữa  với  mức  độ  trầm  trọng  không  kém  gì  người lớn.

10. Trần  Thị  Phương  Đan  (2000),  Khảo  sát  nồng  độ  fluor  trong  nguồn nước sinh hoạt và mối liên quan đến tình trạng răng  nhiễm fluor tại tỉnh Ninh Thuận, Luận văn cao học, Đại học Y  dược Tp.HCM.

11. Võ Thế Quang (1985), Phòng bệnh sâu răng bằng Fluor, Nhà

xuất bản Y học.

12. WHO  (1994),  Fluoride  and  oral  health,  Report  of  a  WHO  Expert Communittee on Oral Health Status and Fluoride Use  1994.

Tình  trạng  răng  nhiễm  fluor  có  thể  có  liên  quan  chặt  chẽ  với  nồng  độ  fluor  trong  nguồn  nước sử dụng, ở đây chính là nguồn nước giếng  tại nhà.

13. WHO (1997). Oral health survey.

Mỏ  fluorite  có  thể  cũng  chính  là  nguyên  nhân quan trọng là gia tăng nồng độ fluor trong

123

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG LAO ĐỘNG ẢNH HƯỞNG   ĐẾN SỨC KHỎE VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP  TRONG TỈNH ĐỒNG NAI NĂM 2009‐ 2010

Ngô Thị Hiền*, Phan Hải Nam*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Để nhìn nhận thực trạng về tình hình tác động của môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe và  bệnh nghề nghiệp của người lao động tại các khu công nghiệp trên tỉnh Đồng Nai, đề tài với số liệu thống kê kết  quả  kháo  sát  môi  trường  lao  động,  khám  sức  khỏe  định  kỳ,  khám  phát  hiện  bệnh  nghề  nghiệp  trong  hai  năm  2009‐ 2010, từ đó đưa ra kiến nghị cần thực hiện nhằm góp phần giảm thiểu bệnh nghề nghiệp và công tác chăm  sóc sức khỏe người lao động ngày càng hoàn thiện hơn.

Mục  tiêu:  Đánh giá tác động của môi trường lao động ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và bệnh  nghề nghiệp của các công ty trong KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2009‐2010. Từ đó đưa ra giải pháp  giảm thiểu các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động.

Phương pháp nghiên cứu: Chọn lấy kết quả khảo sát môi trường lao động và kết quả khám sức khỏe định  kỳ, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động trong 2 năm 2009‐2010 do Trung tâm bảo vệ sức khỏe lao  động và Môi trường Đồng Nai thực hiện. Điều tra hồi cứu số liệu kết hợp với phương pháp thống kê báo cáo.  Cách tiếp cận: Dựa vào kết quả cụ thể của các hoạt động hàng năm của Trung tâm, thu thập số liệu.

Kết quả nghiên cứu: Kết quả môi trường lao động trong 2 năm( 2009‐2010), Kết quả khám sức khỏe định  kỳ trong 2 năm( 2009‐2010), kết quả khám phát hiện bệnh nghề nghiệp trong 2 năm( 2009‐2010), báo cáo công  tác Y tế của cơ sở trong 2 năm (2009‐2010).

Kết luận: Qua công tác hai năm thực hiện khảo sát môi trường lao động, khám sức khỏe định kỳ, khám phát  hiện bệnh nghề nghiệp( 2009‐2010) môi trường lao động chưa được cải thiện, trong đó đặc biệt là yếu tố ồn và  bụi, tỷ lệ mẫu đo vượt tiêu chuẩn vệ sinh lao động so với mẫu đo không giảm, số người mắc bệnh điếc nghề  nghiệp và bệnh bụi phổi Silic có xu hướng tăng tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai,  từ đó đưa ra các biện pháp, kiến nghị cần thực hiện.

Từ khóa : Môi trường, khảo sát môi trường lao động, khám sức khỏe định kỳ, bệnh nghề nghiệp

ABSTRACT

EVALUATION IMPACT ENVIRONMENT WORKING AFFECTS TO HEALTH AND   OCCUPATIONAL DISEASES IN THE INDUSTRIAL PARKS IN ĐONG NAI PROVINCE IN 2009 – 2010

Ngo Thị Hien, Phan Hai Nam  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 125 ‐ 131

Background:  To  see  the  reality  of  the  situation  impact  of  environment  affect  health  and  occupational  diseases in the industrial parks in Dong Nai province in 2009 ‐2010. Data of topics are statistics from the results  survey of working environment, examination health periodic, examination for detection of occupational diseases  in the two years 2009 – 2010, make proposals to reduce the incidence of occupational diseases and health care for  workers more and more complete.

*Phòng Kế Hoạch Tài chính , Trung tâm Bảo vệ sức khỏe lao động và Môi trường Đồng Nai   Tác giả liên lạc:KS. Ngô Thị Hiền        ĐT: 0937041199   Email: ngohien63@gmail.com

124

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Objectives:  Evaluation  impact  environment  affects  to  health  and  occupational  diseases  in  the  industrial

parks in Dong Nai province in 2009 – 2010, make proposals to reduce risk factors affect health of workers.

Methods:  Select  survey  results  of  working  environment,  examination  health  periodic,  examination  for  detection of occupational diseases in the two years 2009 – 2010 made by Center of Environment and Health care  of Dong Nai province. Retrospective study date associated with statistical and reporting method. Approch : Based  on the specific results of the annual operation of the center, to collect date.

Results:  Result of survey environment working t in 2 years (2009 – 2010), results of examination health  periodic in 2 years (2009 – 2010), results of examination for detection of occupational diseases in the two years  2009 – 2010.

Conclusion: Over the two years surveyed labor environment, public health examination, examination for  detection of occupational diseases (2009‐2010) working environment has not improved, in particular factors that  noise  and  dust,  the  sample  rate  exceeds  occupational  standards  compared  to  the  sample  does  not  decrease,  the  number of people with occupational deafness and silicosis disease tends to increase in enterprises in the industrial  zone in Dong Nai province, which given the measures and proposals to make.

Keywords:  environment,  survey  environment  working,  Results  of  examination  health  periodic,

occupational diseases.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chính  vì  thế  công  tác  khảo  sát  môi  trường  lao  động,  khám  sức  khỏe  định  kỳ,  khám  phát  hiện  bệnh  nghề  nghiệp,  tập  huấn  vệ  sinh  lao  động‐ sơ cấp cứu tai nạn lao động do Trung tâm  Bảo  vệ  sức  khỏe  lao  động  &  Môi  trường  Đồng  Nai  thực  hiện(1)  đối  với  các  doanh  nghiệp  mỗi  năm đều tăng (có thể là số cơ sở, số mẫu đo hoặc  người lao động khám) và chúng tôi đã thống kê  được số liệu cụ thể.

Tỉnh  Đồng  Nai  là  một  trong  những  tỉnh  trọng điểm phía Nam có nền công nghiệp phát  triển  mạnh,  cùng  với  đà  phát  triển  của  công  nghiệp  hóa,  hiện  đại  hóa  đất  nước,  trình  độ  cơ  giới hóa ngày càng nâng cao, công tác an toàn vệ  sinh  lao  động  ngày  càng  được  đề  cập  và  chú  trọng  nhiều  hơn  vì  vậy  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe,  phòng  chống  tai  nạn  lao  động,  phòng  chống  bệnh  nghề  nghiệp  cho  người  lao  động  phải cần được quan tâm hơn.

Theo Bác sĩ Vũ Thị Giang tỷ lệ tiếng ồn vượt  TCVSCP  từ  53,4‐85,7%;  tỷ  lệ  giảm  sức  nghe  chiếm đến 32,9% trong các ngành nghề tại Đồng  Nai (ĐTNC 2004‐2005‐Vũ Thị Giang)(4).

Môi  trường  lao  động  là  một  phần  quan  trọng  của  môi  trường  sống.  Hàng  ngày  người  lao  động  phải  làm  việc  theo  thời  qui  định  là  8  tiếng nhưng cũng có lúc tăng ca ngày phải làm  từ 10‐ 12 tiếng. Như vậy trung bình 1/3 thời gian  trong ngày là tiếp xúc với môi trường lao động,  tức là có khả năng tiếp xúc với các yếu tố nguy  cơ độc hại.

Tuy  nhiên  để  nhìn  nhận  thực  trạng  về  tình  hình  tác  động  của  môi  trường  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  và  bệnh  nghề  nghiệp  của  người  lao  động  tại  các  khu  công  nghiệp  trên  tỉnh  Đồng  Nai, chúng tôi thực hiện đề tài với số liệu thống  kê trong hai năm 2009‐ 2010 (2)(3) và từ đó đưa ra  những  giải  pháp  và  biện  pháp  cải  thiện  môi  trường  lao  động  nhằm  góp  phần  giảm  thiểu  bệnh  nghề  nghiệp  và  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe người lao động ngày càng hoàn thiện hơn.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  mức  độ  ô  nhiễm  môi  trường  đối

Những  năm  gần  đây  các  doanh  nghiệp  đã  thực  hiện  biện  pháp  cải  thiện  môi  trường  lao  động  phần  nào  nhưng  chưa  đồng  bộ,  trang  bị  bảo  hộ  lao  động  chưa  được  đầy  đủ,  chưa  phù  hợp với tính chất công việc do đó dẫn đến tình  trạng tai nạn lao động, ảnh hưởng tới sức khỏe  của  người  lao  động,  và  bệnh  nghề  nghiệp  có  chiều hướng gia tăng.

125

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nhận xét:

Nghiên cứu Y học  với  người  lao  động  tạị  các  doanh  nghiệp  trong  năm  2009  &  2010  (thông  qua  các  kết  quả  khảo  sát môi trường lao động).

+  Số  cơ  sở  lập  hồ  sơ  vệ  sinh  lao  động  để  quản  lý  năm  2010(573)  tăng  60  cơ  sở  so  với  năm 2009(513).

Xác  định  tình  hình  sức  khỏe  bệnh  tật  của  người  lao  động  trong  năm  2009  &  2010  (thông  qua kết quả khám sức khỏe định kỳ và kết quả  khám phát hiện bệnh nghề nghiệp).

+  Số  lao  động  trực  tiếp  được  quản  lý  năm  2010(332.875)  tăng  23990  CN  so  với  năm  2009(332.875).

+  Số  mẫu  đo  kiểm  môi  trường  lao  động  năm  2010(32.092)  tăng  647  mẫu  so  với  năm  2009(31.445).

Xác  định  một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  tỷ  lệ  mắc bệnh nghề nghiệp (yếu tố ồn, bụi). Đánh giá  tình  trạng  và  điều  kiện  môi  trường  ảnh  hưởng  đến tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp của công nhân.

+  Tổng  số  mẫu  đo  năm  2009  vượt  tiêu

Phương pháp nghiên cứu

chuẩn VSLĐ: 4.848; chiếm tỷ lệ: 15,42%.

Hồi cứu, mô tả.

+  Tổng  số  mẫu  đo  năm  2010  vượt  tiêu

chuẩn VSLĐ: 5.451; chiếm tỷ lệ: 16,98%.

Cách tiếp cận

Dựa  vào  kết  quả  cụ  thể  của  các  hoạt  động

Bảng 2: Kết quả đo từng yếu tố trong môi trường lao  động trong hai năm 2009‐2010.

hàng năm của Trung tâm, thu thập số liệu.

a. Nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Năm Nhiệt độ Độ ẩm Tốc độ gió

(2) (1) (1) (2) (%) (%) (1) (2) Số cơ sở

(%) 2009 259 6327 1236 19.53 6319 29 0.45 6304 268 4.25 2010 253 6234 1956 31.37 6223 59 0.94 6612 129 1.95

Công tác quản lý hồ sơ VSLĐ và khảo sát  MTLĐ:  Bảng 1: Số cơ sở lập hồ sơ VSLĐ‐ KSMTLĐ‐ TS  mẫu đo MTLĐ.

Ghi chú: (1) tổng số mẫu đo

(2) tổng số mẫu đo vượt TCVSLĐ

b. Ánh sáng, Ồn, Bụi.

Năm TS mẫu đo TS lao động quản lý TS cơ sở quản lý TS cơ sở đo kiểm MTLĐ TS mẫu đo vượt TC VSLĐ

Năm Ánh sáng Ồn Bụi 2009 513 308.885 2010 573 332.875 259 31.445 4.848 253 32.092 5.451 Tỷ lệ mẫu Vượt TC VSLĐ 15.42 16.98 Số cơ sở

(1) (2) (%) (1) (2) (%) (1) (2) (%)

573

600

513

500

2009 259 4006 961 23.99 3547 1560 43.98 2159 185 8.56

400

259 253

2010 253 4657 1096 23.53 3543 1593 44.96 2217 123 5.54

300

200

50

44.96

100

43.98

0

40

31.37

2009

Số cơ sở sx

23.99

30

23.52

Số cơ sở thực hiện

20.4

20.91

19.53

2010

% ệ l Tỉ

20

8.56

5.54

10

4.25 1.95

0.45 0.94

Biểu đồ biểu diễn số cơ sở đo kiểm MTLĐ

Độ ẩm Vận

Ồn

Bụi

tốc gió

Ánh sáng

Hơi Khí

16.98

0 2009 Nhiệt độ 2010

17

16.5

15.42

16

2009

15.5

2010

Biểu đồ biểu diễn tỷ lệ % nhiệt độ, độ ẩm,tốc độ gió,  ánh sáng, ồn, bụi, hơi khí năm 2009‐2010

15

14.5

Nhận xét:

Tỉ lệ mẫu vượt TC VSLĐ

+ Số mẫu vượt TCVSLĐ cao nhất trong cả 2

Biểu đồ biểu diễn tổng số mẫu vượt TCVSLĐ

năm: là tiếng ồn,

126

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

+ Tổng số cơ sở khám sức khỏe tăng

+  Số  mẫu  không  đạt  TCVSLĐ  thấp  nhất

trong cả 2 năm là độ ẩm.

+ Tổng số công nhân khám SKĐK tăng.

Công tác khám sức khỏe định kỳ phân loại  theo QĐ 1613/BYT.  Bảng 3: Kết quả tổng số cơ sở khám và tổng số người  khám năm 2009‐2010.

+  Tổng  số  công  nhân  có  sức  khỏe  loại  2,  3  chiếm tỷ lệ cao, đối với sức khỏe loại 4, 5, chiếm  tỷ lệ thấp ( năm 2009 loại 5 là: 3,18%; năm 2010  loại 5:5,40%) và tỷ lệ phân loại sức khỏe hai năm  chênh lệch không nhiều.

Năm Số cơ sở sản xuất quản lý Số cơ sở khám SKĐK

62854

61072

70000 60000

2009 2010 513 573 84 101 Tổng số công nhân được khám SKĐK 61.072 62.854

50000 40000

Năm 2009 Năm 2010 Nội dung

Công  tác  khám  phát  hiện  bệnh  nghề  nghiệp  Bảng 5: Số cơ sở & công nhân khám bệnh nghề  nghiệp  TT 01 Số cơ sở SX khám bệnh

30000 20000

573

84

513

101

Số cơ sở SX

Số cơ sở KSKĐ

số công nhân khám

10000 0 2009 2010

35 30 nghề nghiệp 02 Tổng số người được khám 6.346 10.095 BNN 03 Tổng số người được giám 11 20 định BNN

10095

Biểu đồ biểu diễn tình hình khám sức khỏe định kỳ  trong 2 năm 2009‐2010

6346

Bảng 4: Kết quả KSKĐ và phân loại, tỷ lệ %.

1120

12000 10000 8000 6000 4000 2000 0

2009

3530 Số CS khám BNN

TS người giám định

2010

Biểu đồ biểu diễn số cơ sở và số công nhân khám phát  hiện bệnh nghề nghiệp

Bảng 6: Kết quả khám bệnh nghề nghiệp

Phân loại bệnh TT TS khám TS khám Cơ sở khám Số người khám Loại 1 % Loại 1 Loại 2 % Loại 2 Loại 3 % Loại 3 Loại 4 % Loại 4 Loại 5 % Loại 5 Năm 2009 84 61072 6666 10,91 21755 35,62 25258 41,35 5446 8,91 1947 3,18 Năm 2010 101 62854 6666 8,21 23940 38,08 22344 41,35 8025 12,76 3379 5,40 TS giám định TS giám định Năm 2009 TS theo dõi mắc Năm 2010 TS theo dõi mắc

245 12 01 407 14 02 01

208 13 04 227 14 02 -

38.0841.35

35.54

35.62

03 - - - 328 46 -

10.918.21

8.9112.76

3.185.4

04 5762 112 02 8551 28 14

50 40 30 20 10 0

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Loại 4

Loại 5

05 64 21 0 - - -

2009 2010

Biểu đồ biểu diễn phân loại khám sức khỏe định kỳ

So sánh 2 năm 2009‐2010:

Nhận xét:

06 04 04 04 04 04 04 Bệnh bụi phổi Silic Nhiễm độc chì Nhiễm độc Nicotin Bệnh điếc do tiếng ồn Bệnh xạm da NN Bệnh VG vi rút NN 20 Tổng cộng 6.346 - 11 10.095 -

127

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

4

4

4

4

4

3

+  Số  cơ  sở  khám  BNN:  năm  2009  cao  hơn  năm 2010 (năm 2009: 35 cơ sở; năm 2010: 30 CS.

2

1

2009

0

2010

TS khám BNN

TS giám định BNN

+  Số  lượng  công  nhân  được  KBNN:  năm  2010  cao  hơn  năm  2009  (năm  2010:  10.095  CN;  năm 2009: 6.346 CN).

Biểu đồ biểu diễn bệnh Viêm gan siêu vi nghề nghiệp

+  Số  công  nhân  giám  định  BNN:  năm  2010  cao hơn năm 2009 (năm 2009: 11 CN; năm 2010:  20 CN).

Bệnh bụi phổi Silic

a.  Số  công  nhân  khám  BNN  năm  2010  cao  hơn  năm  2009  (năm  2010:  407CN;  năm  2009:  245CN) tăng 162 công nhân.

2009 85 2010 32

Tình hình sức khỏe và bệnh tật trong công  nhân do cơ sở báo cáo  Bảng 7: Số công nhân đến khám tại các cơ sở gửi  báo cáo Nội dung TT Tổng số cơ sở sản xuất báo cáo 1 2 Tổng số công nhân các cơ sở trên 72.343 46.908 3 Tổng số trường hợp khám bệnh (lần) 98.881 85.929

Bảng 8 : Tình hình nghỉ ốm  TT 1

b. Số công nhân được giám định BNN năm  2010  cao  hơn  năm  2009  là  1  CN  ;  tỷ  lệ  số  công  nhân được giám định BNN năm 2010: 2/407 đạt:  0,49%; năm 2009: 1/245 đạt: 0,41%.

2009 85 2010 32

2 72.343 46.908

500

Nội dung Số cơ sở báo cáo Tổng số công nhân của các CS báo cáo

407

400

Tổng số người nghỉ ốm trong năm 15.499 12.226

245

300

- -

200

3 4 Tổng số lượt người nghỉ ốm trong năm 5 Tổng số ngày nghỉ ốm 37.323 29.326

100

1

2

2009

0

TS khám BNN

TS giám định BNN

2010

Bảng 9: Tổng hợp các nhóm bệnh của các y tế cơ sở  gửi báo cáo năm 2009 ‐ 2010.

Biểu đồ biểu diễn bệnh bụi phổi Silic

Năm Mắt Tiêu hóa Nội tiết Tai mũi họng Tim mạch

Bệnh điếc nghề nghiệp

2009 4.615 22.390 6.899 4.776 98

a.  Số  công  nhân  khám  BNN  năm  2010  cao  hơn  năm  2009  là  2789  CN  (năm  2010:  8551CN;  năm 2009: 5762CN);

2010 3.832 19.200 3.089 2.756 41

Năm Da Phụ khoa

2009 2010 Xương khớp 4.236 1.726 889 1.992 Bệnh thần kinh TW&NB 7.534 3.912 Bệnh khác 43.200 18.286 3.407 1.932

BÀN LUẬN

b. Số công nhân được giám định BNN năm  2010  cao  hơn  năm  2009  là  12  CN  tỷ  lệ  số  công  nhân  được  giám  định  BNN  năm  2010:  14/8551  chiếm tỷ lệ: 0,16%; năm 2009: 2/5762 chiếm tỷ lệ:  0,03%.

10000

8551

8000

5762

6000

2009

4000

2010

2000

14

2

0

TS khám BNN

TS giám định BNN

Biểu đồ biểu diễn bệnh Điếc nghề nghiệp

Bệnh viêm gan vi rút nghề nghiệp

Thực  hiện  xuất  sắc  nhiệm  vụ  và  chức  năng  được  giao  Trung  tâm  BVSKLĐNN&MT  tỉnh  Đồng Nai hàng năm đã có kế hoạch và chỉ tiêu  phấn đấu về công tác chăm sóc sức khỏe người  lao  động  trong  và  ngoài  các  khu  công  nghiệp  toàn tỉnh. Nhìn chung trên lĩnh vực môi trường  lao động, khám sức khỏe định kỳ và khám phát  hiện bệnh nghề nghiệp có phát triển hơn so với  những năm trước.

Tổng  số  CN  khám  BNN  và  tổng  số  được

giám định BNN trong 2 năm như nhau (04).

Cùng  với  sự  phát  triển  công  nghiệp  hóa  hiện  đại  hóa,  các  doanh  nghiệp  trên  địa  bàn

128

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Công tác khảo sát môi trường lao động

Trên tổng số cơ sở hai năm liền thực hiện đo  kiểm  môi  trường  lao  động  có  giảm  06  cơ  sở  nhưng số mẫu đo tăng 647 mẫu và số cơ sở lập  hồ sơ vệ sinh lao động để quản lý năm 2010(573)  tăng 60 cơ sở so với năm 2009(513).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  tỉnh Đồng Nai  luôn  có  những  chuyển  biến  để  phù  hợp  với  yêu  cầu  đối  với  điều  kiện  từng  công  ty,  lĩnh  vực  sản  xuất….sự  biến  đổi  chủ  yếu  là  lực  lượng  lao  động,  trong  đó  có  người  làm công tác thống kê báo cáo vì vậy số cơ sở  báo  cáo  về  Trung  tâm  năm  sau  ít  hơn  năm  trước  và  số  mẫu  không  tương  đồng,  công  tác  đáng giá chỉ trên mặt tổng hợp chung.

Qua  hai  năm  thực  hiện  (2009‐2010)  công  tác  khảo  sát  môi  trường  lao  động,  khám  sức  khỏe  địng  kỳ,  khám  phát  hiện  bệnh  nghề  nghiệp chúng tôi nhận thấy:

Riêng yếu tố ồn và bụi trong năm 2009‐2010,  số mẫu vượt tiêu chuẩn vệ sinh lao động còn cao  (ồn:  năm  2009  số  mẫu  vượt  tiêu  chuẩn  vệ  sinh  lao động chiếm tỷ lệ 43,98% so với mẫu đo, năm  2010  số  mẫu  vượt  tiêu  chuẩn  vệ  sinh  lao  động  chiếm tỷ lệ 44,96% so với mẫu đo).

Công tác khám sức khỏe định kỳ

Do tính chất đặc thù của công việc, một số  doanh  nghiệp  thuộc  các  ngành  (khai  thác  đá,  chế biến sản xuất công nghiệp thực phẩm, gia  công  cơ  khí...)  khắc  phục  các  yếu  tố  môi  trường  vượt  tiêu  chuẩn  vệ  sinh  lao  động  chỉ  đạt phần nào yêu cầu.

Ngoài ra một số cơ sở không quan tâm đến  các yếu  tố  môi  trường  lao  động,  không  có  biện  phát cải thiện điều kiện lao động, đăng ký thực  hiện đo môi trường lao động chỉ là hình thức đối  phó với các cơ quan chức năng hoặc do yêu cầu  của khách hàng vì vậy đã không thực hiện theo  những kiến nghị chúng tôi đề xuất trong các kết  quả đo kiểm hoặc trong công tác thanh kiểm tra  hàng năm.

Thực  hiện  đạt  thấp  so  với  cơ  sở  quản  lý,  năm 2009 cơ sở tổ chức khám sức khỏe định kỳ  đạt  16,37  %  (  84/513),  năm  2010  số  cơ  sở  tổ  chức  khám  sức  khỏe  định  kỳ  đạt  17.63  %  (101/573). Đây là vấn đề các công ty chưa thật  sự  quan  tâm  tới  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe  người  lao  động,  còn  xem  nhẹ.  Về  công  tác  quản  lý  các  cơ  sở  báo  cáo  công  tác  chăm  sóc  sức khỏe người lao động gủi về Trung tâm còn  ít, năm sau ít hơn năm trước, tổng số các cơ sở  gủi báo cáo công tác chăm sóc sức khỏe người  lao động về Trung tâm năm 2010 giảm 53 cơ sở  so  với  năm  2009  (năm  2009:  85  cơ  sở  gủi  báo  cáo,  năm  2010:  32  cơ  sở),  do  đó  nhiều  cơ  sở  khám  sức  khỏe  định  kỳ  ở  những  cơ  sở  y  tế  khác chúng tôi không quản lý được.

Đối  với  công  tác  khám  phát  hiện  bệnh  nghề nghiệp

Chủ  yếu  tập  trung  vào  bệnh  điếc  nghề  nghiệp, bệnh bụi phổi Silic và tập trung vào các  cơ sở sản xuất có nguy cơ cao.

Do môi trường lao động còn có yếu tố vượt  tiêu chuẩn vệ sinh lao động, nhất là tiếng ồn và  bụi, cho nên bệnh điếc nghề nghiệp và bụi phổi  chiếm  phần  lớn  trong  các  bệnh  nghề  nghiệp  được  phát  hiện.  (năm  2009:  bệnh  điếc  nghề  nghiệp được giám định: 02; năm 2010 bệnh điếc  nghề nghiệp được giám định: 14; Bụi phổi năm  2009  bệnh  bụi  phổi  Silic  được  giám  định:  01;  năm  2010  bệnh  bụi  phổi  Silic  được  giám  định:  02)  điều  này  cho  thấy  tại  các  doanh  nghiệp,  nguy  cơ  mắc  bệnh  điếc  nghề  nghiệp,  bụi  phổi

Tình  hình  sức  khỏe  người  lao  động  qua  khám  sức  khỏe  định  kỳ  được  phân  loại  theo  QĐ  1613/BYT.Tổng  số  công  nhân  khám  sức  khỏe định kỳ có sức khỏe loại 2, 3 chiếm tỷ lệ  cao, đối với sức khỏe loại 4, 5, chiếm tỷ lệ thấp  (  năm  2009  loại  5  là:  3,18%;  năm  2010  loại  5:  5,40%)  và  tỷ  lệ  phân  loại  sức  khỏe  hai  năm  chênh  lệch  không  nhiều.  Chủ  yếu  sức  khỏe  loại  IV  và  V  do  thể  lực  là  chính  và  bệnh  về  đường hô hấp (VFQ), tai mũi họng chiếm tỷ lệ  cao hơn so với các bệnh khác, vấn đề này liên  quan đến các yếu tố môi trường về nhiệt, bụi,  hơi  khí.....và  các  chế  độ  tổ  chức  quản  lý  của  công ty chưa theo sự hướng dẫn quy định của  Bộ y tế, Bộ Lao Động.

129

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  Silic có xu hướng tăng.

Silic  nghề  nghiệp  (theo  Thông  tư  12/TT‐BYT  ngày 10 tháng 11 năm 2006 của Bộ Y tế).

KIẾN NGHỊ

Khám sức khỏe tuyển dụng

Những người được bố trí vào vị trí có tiếng  ồn,  bụi  cao  cần  được  kiểm  tra  kỹ  về  tai,  mũi,  họng và đo thính lực, đo chức năng hô hấp.

Đẩy  mạnh  công  tác  tuyên  truyền,  giáo  dục  về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống bệnh  nghề nghiệp cho các cơ sở sản xuất trong đó chú  trọng tập trung các ngành, các cơ sở sản xuất có  các  yếu  tố  có  nguy  cơ  cao.  Ngoài  ra  cần  tăng  cường công tác tuyên truyền, hội thảo, tập huấn  công tác phòng chống bệnh nghề nghiệp đối với  cơ sở thuộc ngành y tế.

Không  bố  trí  vào  vị  trí  có  tiếng  ồn,  bụi  cao  các  đối  tượng  bị  bệnh  sau:  viêm  mũi,  viêm  tai  giữa  nhiều  lần,  thần  kinh  không  bình  thường,  bệnh tuyến nội tiết, bệnh tim mạch, loạn thị giác,  bệnh đường hô hấp.

Cần  phối  hợp  tốt  với  các  ngành  liên  quan  đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát  việc thực hiện công tác an toàn vệ sinh lao động,  phòng  chống  bệnh  nghề  nghiệp  của  các  cơ  sở  sản xuất, doanh nghiệp. Đoàn kiểm tra là đoàn  liên  ngành,  cần  có  đơn  vị  y  tế  tham  gia  từ  đó  mới  có  ý  kiến  về  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe  người  lao  động,  và  hiệu  quả  kiến  nghị  của  ngành mới có chuyển biến tốt.

Y tế công ty và cán bộ An toàn phải có kế  hoạch giám sát chặt chẽ việc sử dụng phương  tiện  bảo  vệ  cá  nhân.  Ngoài  ra  cần  thường  xuyên khuyến cáo cho người lao  động  tác  hại  của  tiếng  ồn,  bụi,  điều  kiện  vi  khí  hậu  xấu  ….đối với sức khỏe con người nhằm nâng cao  hiểu  biết  và  ý  thức  về  công  tác  an  toàn  và  vệ  sinh lao động cho họ.

Giảm thời gian làm việc và lập thời gian biểu  cho người lao động làm việc nơi có tiếng ồn cao  để họ có thời gian nghỉ ngơi hợp lý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Đối  với  các  doanh  nghiệp  phải  có  các  biện  pháp cải thiện môi  trường  lao  động,  hàng  năm  phải  thực  hiện  khảo  sát  môi  trường  lao  động,  khám  sức  khỏe  định  kỳ,  khám  phát  hiện  bệnh  nghề  nghiệp,  tập  huấn  cho  người  lao  động  về  công tác sơ cấp cứu tai nạn lao động, vệ sinh lao  động và phòng chống bệnh nghề nghiệp.

2.

3.

4.

Bộ Y tế (2007), Quyết định số 15/2007/QĐ‐BYT và Ban hành  kèm theo “ Qui định chức năng, nhiệm vụ, nhiệm vụ, quyền  hạn  và  cơ  cấu  tổ  chức  của  Trung  tâm  Bảo  vệ  sức  khỏe  lao  động và Môi trường tỉnh”.  Trung  tâm  Bảo  vệ  sức  khỏe  lao  động  và  Môi  trường  Đồng  Nai (2009), Báo cáo hoạt động năm 2009.  Trung  tâm  Bảo  vệ  sức  khỏe  lao  động  và  Môi  trường  Đồng  Nai (2010), Báo cáo hoạt động năm 2010.  Vũ  Thị  Giang  (2006),  “  Đánh  gía  tác  động  môi  trường  lao  động ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh nghề nghiệp  tại  các  khu công nghiệp trong tỉnh Đồng Nai năm  2004‐2005”,  Tạp  chí Y học TP. Hồ Chí Minh tập 10(4), trang 150‐155.

Trong  hồ  sơ  sức  khỏe  của  người  lao  động  làm việc ở các vị trí có mức ồn, bụi cao cần phải  ghi  rõ  điều  kiện  lao  động  và  thực  hiện  những  biện pháp khám bệnh riêng biệt như phải kiểm  tra thường xuyên về thính lực, đo chức năng hô  hấp  chụp  X  quang  phim  phổi  nhằm  phát  hiện  kịp  thời  bệnh  điếc  nghề  nghiệp,  bệnh  bụi  phổi

130

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN KHI ĐẾN KHÁM ĐIỀU TRỊ   TẠI CÁC TRẠM Y TẾ XàHUYỆN CẦN GIUỘC TỈNH LONG AN   NĂM 2010‐2011

∗   Phạm Trần Thanh Lịch

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Kĩ năng giao tiếp giữa nhân viên y tế và bệnh nhân/thân nhân là một trong nhiều yếu tố quyết  định tác động đến sự hài lòng của bệnh nhân đối với các dịch vụ chăm sóc y tế tại cơ sở y tế, nhất là trạm y tế xã  là nơi đầu tiên tiếp xúc với bệnh nhân. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm khảo sát ý kiến bệnh nhân về kĩ  năng giao tiếp của nhân viên y tế tuyến cơ sở từ đó chấn chỉnh các mặt tồn tại, phát huy các mặt tích cực, tạo sự  hài lòng cho người bệnh để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân/thân nhân hài lòng với một số khía cạnh hoạt động tại trạm y tế xã như  kĩ năng giao tiếp, thời gian khám bệnh, và mối liên quan giữa sự hài lòng của bệnh nhân/thân nhân với các biến  số nền như tuổi, giới, nghề nghiệp v.v…

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả trên 800 bệnh nhân/thân nhân đến khám bệnh  tại  hai  trạm  y  tế  xã  Phước  Hậu  và  Phước  Lại  của  huyện  Cần  Giuộc,  Long  An  từ  tháng  2‐3/2011.  Áp  dụng  phương pháp lấy mẫu phân tầng chọn ngẫu nhiên mỗi xã 400 bệnh nhân. Bộ câu hỏi đóng được điều tra viên  phỏng vấn bệnh nhân trong vòng 2 tuần từ thứ hai đến chủ nhật.

Kết quả: Đa số bệnh nhân hài lòng với các khía cạnh hoạt động của trạm y tế của hai xã (tỷ lệ hài lòng >  60%). Tuy nhiên tỷ lệ hài lòng với hướng dẫn của điều dưỡng, toa thuốc được kê, trang thiết bị y tế tại trạm vẫn  còn thấp (58%, 51%, 47%). Giữa sự hài lòng chung của bệnh nhân và các biến số nền không có mối liên quan có  ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Kết  luận: Các trạm y tế tại hai xã cần thực hiện một số điều chỉnh trong công tác nhằm nâng cao chất  lượng dịch vụ chăm sóc tại trạm. Cần tập huấn cho điều dưỡng cách giao tiếp, hướng dẫn bệnh nhân. Toa thuốc  cần cải thiện về số lượng và chất lượng sao cho đáp ứng nhu cầu của người dân. Các trang thiết bị y tế cần được  bổ sung, mua mới để phục vụ tốt hơn cho người bệnh. Trạm y tế xã cần có một số chính sách nhằm hỗ trợ người  bệnh nghèo, chưa có bảo hiểm y tế.

Từ khóa: sự hài lòng của bệnh nhân, trạm y tế xã, kĩ năng giao tiếp

ABSTRACT

PATIENT’S SATISFACTION WITH HEALTH CARE SERVICES OF COMMUNE HEALTH  CENTERS AT CAN GIUOC DISTRICT, LONG AN PROVINCE IN 2010‐2011

Pham Tran Thanh Lich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 132 ‐ 137

Background:  Communication  skills  between  health  workers  and  patients  or  patient’s  relatives  is  one  of  determinants affecting patient’s satisfaction with health care services of health facilities, in particular commune  health  centers  where  patients  visit  at  first.  The  study  was  conducted  to  evaluate  patient’s  opinion  about  communication skills of health workers of commune health centers and the findings were used to fill the gaps in  order to improve patient’s satisfaction and quality of health care services.

Objectives:  Identify  the  levels  of  patient’s  satisfaction  with  some  aspects  of  health  care  services  such  as

∗ Phòng Khám Đa Khoa Tư Nhân Phạm Trần Thanh Lịch  Tác giả liên lạc: BS. Phạm Trần Thanh Lịch  ĐT: 0989352151

Email: thanhlich_pham1968@yahoo.com

131

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  communication skills of health workers, waiting time for examination, and figure out the associations between  overall patient’s satisfaction and patient characteristics such as age, gender, occupation, etc.

Methods:  A cross‐sectional study was conducted on 800 patients/patients’ relatives who visited commune  health centers at Phuoc Hau and Phuoc Lai communes, Can Giuoc district, Long An province from February to  March  2011.  Stratified  sampling  was  applied  to  enroll  400  objects  from  each  commune  and  a  structured  questionnaire was used to collect data over two weeks (from Monday till Sunday).

Result:  Most  of  respondents  satisfied  with  many  aspects  of  health  care  services  (the  proportions  of  satisfaction were over 60%). However, some aspects including nurse’s instruction manner, drug prescriptions,  and medical equipments had a low level of patient’s satisfaction (58%, 51%, and 47%, respectively). There were  no statistical significant associations between overall patient’s satisfaction and other patients’ characteristics (p >  0.05).

Conclusion:  The  findings  showed  that  commune  health  centers  needed  to  make  some  improvements  to  improve  the  quality  of  health  care  services.  Nurses  and  other  medical  staff  should  be  continuing  trained  of  communication skills. The drug descriptions should be modified to have more drugs and more high quality drugs  to meet the diverse needs of patients. Moreover, medical equipments should be upgraded or newly bought to serve  patients better. Finally, the commune health centers should develop flexible and appropriate policies to support  poor patients and patients without health insurance.

Keywords: patient’s satisfaction, commune health canters, communication skills.

ĐẶT VẤN ĐỀ

đó,  vấn  đề  y  đức  càng  phải  được  chú  trọng,  những  hành  động,  việc  làm  tiêu  cực  của  nhân  viên  y  tế  sẽ  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  vấn  đề  gìn  giữ  đạo  đức,  phẩm  chất  của  người  thầy  thuốc,  do đó cần có biện pháp khắc phục. Chính vì vậy,  việc đo lường sự hài lòng của bệnh nhân đã trở  thành một tiêu chuẩn quan trọng nhằm cải thiện  chất  lượng  dịch  vụ  chăm  sóc  tại  các  cơ  sở  y  tế,  nhất là trạm y tế xã.

Khám chữa bệnh là một trong những nhiệm  vụ quan trọng đối với hệ thống y tế và Trạm y tế  là nơi đầu tiên tiếp nhận bệnh nhân, là tuyến cơ  sở  hay  tuyến  đầu  của  hệ  thống  y  tế.  Trạm  y  tế  luôn phấn đấu cải tiến lề lối làm việc, nâng cao  trình  độ  chuyên  môn,  ứng  dụng  khoa  học  kỹ  thuật‐  công  nghệ  hiện  đại  nhằm  rút  ngắn  thời  gian điều trị, đem lại sức khỏe tốt nhất cho bệnh  nhân. Tuy nhiên với tình trạng dân số ngày càng  tăng, bên cạnh đó bảo hiểm y tế tự nguyện được  triển khai, làm tăng nhanh số lượng  người  dân  có  bảo  hiểm  y  tế.  Ngoài  ra,  cơ  cấu  tổ  chức  mô  hình khám chữa bệnh còn nhiều bất cập, chính  sách bảo hiểm y tế đang từng bước hoàn thiện,  cơ sở vật chất thiếu thốn, nhân lực hạn chế, nên  ảnh  hưởng  không  ít  đến  nhu  cầu  khám  chữa  bệnh và lòng tin của người dân(2).

Bên  cạnh  đó,  vấn  đề  giao  tiếp  của  bác  sĩ,  điều  dưỡng  vẫn  chưa  làm  cho  người  bệnh  hài  lòng và là nguyên nhân của mọi trách cứ, phiền  hà(1,3,8,9). Vậy  làm  thế  nào  để  nâng  cao  kỹ  năng  giao  tiếp,  văn  hóa  công  sở  cho  bác  sĩ,  điều  dưỡng?  (4,5,7)  Để  giải  quyết  vấn  đề  trên,  người  nghiên cứu tiến hành khảo sát ý kiến bệnh nhân  về giao tiếp của nhân viên y tế tuyến cơ sở nhằm  chấn chỉnh các mặt tồn tại, phát huy các mặt tích  cực, tạo sự hài lòng cho người bệnh để nâng cao  chất lượng chăm sóc người bệnh.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bộ Y tế xác định y đức là phẩm chất tốt đẹp  của  người  làm  y  tế,  được  biểu  hiện  bởi  lương  tâm  và  trách  nhiệm  cao.  Trong  tình  hình  hiện  nay, nhiều vấn đề y tế quan trọng đang diễn ra  như vấn đề quá tải ở các tuyến, y đức của nhân  viên y tế, nhu cầu của người dân đến khám chữa  bệnh tăng cao, mức độ hài lòng bị suy giảm. Do

Nghiên  cứu  sử  dụng  thiết  kế  cắt  ngang  mô  tả  trên  đối  tượng  là  bệnh  nhân/thân  nhân  đến  khám điều trị từ 2/2011 đến 3/2011 tại 2 trạm y tế  xã  Phước  Hậu  và  xã  Phước  Lại,  huyện  Cần

132

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

62 (15,5) 116 (14)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Giuộc, tỉnh Long An.

p

Cỡ mẫu được tính theo công thức   p )

1( −

Thân nhân Nghề nghiệp 50 (12)

n = Z2(1‐α/2)

2

d

p được chọn là 0,5. Với độ tin cậy là 95% thì  Z(1‐α/2) = 1,96. Độ chính xác (sai số cho phép) d=  0,05.  Như  vậy  n  =  384.  Vì  nghiên  cứu  điều  tra  trên hai xã: 1 xã vùng thượng 1 xã vùng hạ, nên  tổng số mẫu là 768 làm tròn 800.

Công nhân viên chức 80 (20) 7 (2) Công nhân/doanh nghiệp 35 (9) 32 (8)

Sử  dụng  phương  pháp  lấy  mẫu  phân  tầng.  Chia  huyện  Cần  Giuộc  thành  vùng  thượng  và  vùng hạ. Rút thăm ngẫu nhiên chọn ra xã Phước  Hậu  thuộc  vùng  thượng  và  Phước  Lại  thuộc  vùng hạ. Tại mỗi xã chọn tất cả bệnh nhân đến  khám  tại  trạm  y  tế  xã  trong  vòng  hai  tuần  trừ  thứ bảy và chủ nhật.

Nông dân/lao động tự do 264 (66) 67 (17) 2 (1) 12 (3) 142 (36) 157 (39) 72 (18) 17 (4) 15 (4) 361 (90) 23 (6)

115 (14) 39 (5) 148 (37) 412 (52) 148 (37) 215 (27) 19 (2) 17 (4) 64 (8) 53 (13) 176 (44) 317 (40) 133 (33) 289 (36) 102 (13) 30 (8) 25 (3) 8 (2) 26 (6,5) 42 (5) 348 (87) 708 (88) 50 (6) 26 (6,5) 215 (54) 290 (72,5) 505 (63) 185 (46) 110 (27,5) 295 (37) 23 (6)

Phỏng  vấn  trực  tiếp  mặt  đối  mặt  với  đối  tượng điều tra để thu thập thông tin bằng bộ câu  hỏi  đóng  với  các  câu  hỏi  được  đo  bằng  thang  Likert 5 điểm.

Làm  sạch  số  liệu  và  nhập  liệu  bằng  phần  mềm Epidata 3.02. Phân tích số liệu bằng phần  mềm  R  2.13.  Đối  với  các  biến  số  nền  sử  dụng  bảng phân phối tần suất. Đối với các biến số phụ  thuộc  không  tuân  theo  quy  luật  phân  phối  chuẩn  sử  dụng  phép  kiểm  Wilcoxon,  Kruskal  Wallis khi xét mối liên quan giữa sự hài lòng và  các biến số nền.

Nội trợ/nghỉ hưu Học sinh /sinh viên Trình độ học vấn Mù chữ Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trên THPT Tình trạng hôn nhân Chưa lập gia đình Lập gia đình Ly hôn/góa Bảo hiểm y tế Có thẻ bảo hiểm y tế Tự chi trả Tình trạng kinh tế Khá Đủ sống Nghèo 48 (12) 321 (80) 31 (8) 71 (9) 268 (67) 589 (74) 109 (27) 140 (18)

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số đối tượng  là nữ (65%). Độ tuổi chiếm nhiều nhất là từ 31‐60  tuổi  (64%).  Tại  cả  hai  xã  tỷ  lệ  bệnh  nhân/thân  nhân là nông dân đều khá cao (Phước Hậu: 66%;  Phước Lại: 37%). Về trình độ học vấn, xã Phước  Lại có tỷ lệ mù chữ cao hơn xã Phước Hậu (13%  so  với  3%).  Lý  do  chính  là  do  Phước  Lại  nằm  trong vùng  sâu, cách 1 con sông lớn, đi lại khó  khăn,  lại  là  vùng  thiếu  điện,  nước  sinh  hoạt,  vì  vậy việc được đi học là một khó khăn của người  dân thuộc mọi lứa tuổi tại Phước Lại.

Các đặc tính của mẫu nghiên cứu  Bảng 1: Các đặc tính của mẫu nghiên cứu (n = 800)

Đặc tính Phước Lại n (%) Tổng n (%)

147 (37) 282 (35) 253 (63) 518 (65)

Tỷ lệ chưa có bảo hiểm y tế của cả hai xã còn  cao  lên  đến  37%.  Điều  này  ít  nhiều  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  khám,  điều  trị  bệnh,  và  nhận  thức  thái  độ  của  người  dân.  Đây  cũng  chính  là  hạn  chế của việc triển khai chính sách y tế công cộng  cho  người  dân  tại  huyện  Cần  Giuộc.  Tỷ  lệ  hộ  nghèo của cả hai xã cũng cao lên đến 18% trong  đó  Phước  Lại  có  tỷ  lệ  hộ  nghèo  lên  đến  27%.  Điều này dẫn đến việc tiếp cận với các chăm sóc  sức  khỏe  của  người  dân  sẽ  khó  khăn.  Do  đó  huyện Cần Giuộc cần có chi phí hỗ trợ cho bệnh  nhân  qua  chính  sách  bảo  hiểm  y  tế,  hay  các

Phước Hậu n (%) 135 (34) 265 (66) 41 (10) 151 (38) 142 (35) 66 (17) Giới Nam Nữ Nhóm tuổi 15 - 30 31 - 45 46 - 60 > 60 Khách thể nghiên cứu Bệnh nhân 81 (20) 122 (15) 112 (28) 262 (33) 109 (27) 251 (31) 165 (21) 98 (25) 350 (88) 338 (84,5) 684 (86)

133

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  chương trình y tế khác của quốc gia.

Mức  độ  hài  lòng  của  bệnh  nhân  và  thân  nhân đến khám và điều trị tại Trạm y tế  Bảng 2: Mức độ hài lòng của bệnh nhân và thân  nhân đến khám và điều trị tại Trạm y tế (n = 800)

Yếu tố Tổng n (%) Phước Hậu n (%) Phước Lại n (%) Hài lòng về giao tiếp

Có  26%  bệnh  nhân  không  hài  lòng  về  cách  hỏi bệnh của bác sĩ/nhân viên y tế. Sự không hài  lòng  này  là  do  kĩ  năng  hỏi  cũng  như  cách  hỏi  của bác sĩ không thể hiện được sự quan tâm của  mình đối với nhu cầu và nguyện vọng chăm sóc,  khám và điều trị của bệnh nhân. Về sự hài lòng  với toa thuốc, có đến 49% đối tượng không hài  lòng  với  toa  thuốc.  Đó  là  do  toa  thuốc  thanh  quyết  toán  cho  bảo  hiểm  y  tế  chưa  đáp  ứng  được nhu cầu điều trị thực tế tại các cơ sở, nhiều  loại thuốc thường dùng có tác dụng tốt, giá rẻ lại  không có trong danh mục này.

321 (80) 261 (65) 582 (73)

257 (64) 237 (59) 494 (62) Tư vấn/ tham vấn sức khỏe của Bác sĩ Hướng dẫn/chăm sóc của Điều dưỡng/hộ sinh Hài lòng về quan hệ

322 (81) 261 (65) 583 (73)

344 (86) 187 (47) 531 (66)

226 (57) 240 (60) 466 (58) Quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân Thái độ của bác sĩ Thái độ của điều dưỡng/Nữ hộ sinh/dược sĩ Hài lòng về chuyên môn

265 (66) 329 (82) 594 (74) Chất lượng cách hỏi bệnh/khám bệnh Hài lòng với toa thuốc điều trị 192 (48) 212 (53) 404 (51) Hài lòng về cơ sở nhà trạm 184 (46) 190 (48) 374 (47)

320 (80) 261 (65) 581 (73) Trang thiết bị y tế Nhà vệ sinh/ khu vực vệ sinh của trạm y tế Hài lòng về qui chế

Tỷ  lệ  hài  lòng  với  trang  thiết  bị  y  tế  chỉ  có  47%,  trong  khi  tỷ  lệ  bệnh  nhân  cho  là  bình  thường  chiếm  43%.  Điều  này  cho  thấy  người  dân  tại  hai  xã  có  lẽ  ít  quan  tâm  đến  máy  móc,  trang thiết bị y tế hoặc họ không biết đánh giá về  trang thiết bị y tế tại trạm như thế nào là tốt, đầy  đủ. Tỷ lệ không hài lòng với nhà vệ sinh tại trạm  y  tế  xã  là  10%.  Điều  này  là  do  khuôn  viên  của  trạm  nhỏ,  quy  mô  đầu  tư  thấp  do  đó  hạn  chế  nhiều về điều kiện vệ sinh. Khi khảo sát ở 2 trạm  y  tế,  không  thấy  có  nhân  viên  vệ  sinh,  hầu  hết  điều dưỡng phải phụ trách vệ sinh. Kết quả này  thấp  hơn  trong  nghiên  cứu  của  Lê  Nữ  Thanh  Uyên, Trương Phi Hùng và nghiên cứu của Trần  Ngọc Hữu, Lê Công Minh.(6,10)

221 (55) 263 (66) 484 (61)

289 (72) 339 (85) 628 (79)

Mức độ hài lòng chung của cả hai xã đối với  kĩ năng giao tiếp của bác sĩ và điều dưỡng là khá  cao (73% và 62%). Tuy nhiên  vẫn  còn  trên  30%  đối tượng không hài lòng với sự tư vấn của bác  sĩ  hay  hướng  dẫn/chăm  sóc  của  điều  dưỡng,  điều  này  cho  thấy  cần  nghiên  cứu  sâu  hơn  để  tìm hiểu các vấn đề liên quan đến kĩ năng giao  tiếp của bác sĩ và điều dưỡng.

Tỷ lệ hài lòng với thời gian chờ khám, nhận  thuốc là 79%, trong khi tỷ lệ không hài lòng chỉ  có 7,8%. Điều này lý giải là do ở trạm y tế lượng  bệnh nhân đến khám ít nên có thể thời gian chờ  đợi  được  rút  ngắn,  và  thời  gian  làm  việc  của  trạm y tế sớm (trước 7 giờ sáng), nên bệnh nhân  ít phải chờ đợi như tại các bệnh viện. Chỉ có 61%  bệnh  nhân  hài  lòng  với  giờ  giấc  làm  việc  của  nhân viên. Nguyên nhân có thể là do ở trạm y tế  xã,  số  lượng  bác  sĩ  ít  nhưng  phải  đảm  đương  nhiều công việc, do đó bệnh nhân đếm khám có  thể không gặp được bác sĩ.

Tỷ  lệ  hài  lòng  về  chi  phí  chỉ  có  72%,  trong  khi  đó  có  10%  không  hài  lòng  về  chi  phí.  10%  đối  tượng  không  hài  lòng  có  thể  nằm  trong  số  36%  đối  tượng  không  có  bảo  hiểm  y  tế.  Như  vậy, cần có một chính sách hợp lý về chi phí cho

Về mối quan hệ giữa nhân viên y tế và bệnh  nhân,  tỷ  lệ  bệnh  nhân  hài  lòng  với  thái  độ  của  bác sĩ cao hơn so với thái độ của điều dưỡng/nữ  hộ  sinh  (68%  so  với  58%).  Tỷ  lệ  bệnh  nhân  không hài lòng với điều dưỡng có thể xuất phát  từ việc bệnh nhân bị điều dưỡng thiếu tôn trọng  do điều kiện kinh tế kém.

Giờ giấc làm việc của nhân viên y tế Thời gian chờ khám bệnh, hay chờ nhận thuốc Hài lòng về chi phí 317 (79) 261 (65) 578 (72)

134

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Bảng 4: Mối liên hệ giữa mức độ hài lòng của bệnh  nhân/thân nhân với các đặc tính mẫu (n = 800)

n p

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  những người dân chưa có bảo hiểm y tế.  Bảng 3: So sánh các mức độ hài lòng của bệnh  nhân/thân nhân của trạm y tế xã Phước Hậu và  Phước Lại

p Yếu tố hài lòng 0,4 Phướ c Hậu (TB) Phướ c Lại (TB) Hài lòng về giao tiếp

0,58 0,86 <0,00 1 0,11** 0,77 0,53 0,04 Tư vấn/ tham vấn sức khỏe của Bác sĩ Hướng dẫn/chăm sóc của điều dưỡng/hộ sinh Hài lòng về quan hệ 1,08 0,4 Quan hệ thầy thuốc/bệnh nhân Thái độ của bác sĩ 0,9 0,4 0,9 0,003 <0,00 1 Giới Nam Nữ Nhóm tuổi 15 - 30 31 - 45 46 - 60 > 60 Khách thể Bệnh nhân Thân nhân Nghề nghiệp 282 518 122 262 251 164 684 110 0,66 0,61 0,6 Thái độ của điều dưỡng/nữ hộ sinh/dược sĩ 0,1** Hài lòng về chuyên môn:

0,87 0,99 0,01

Chất lượng cách hỏi bệnh/khám bệnh Hài lòng với toa thuốc điều trị 0,28 0,23 0,08 Hài lòng về cơ sở vật chất trạm y tế 0,31 0,54 0,003 0,3** 1,07 0,89 0,007 Trang thiết bị y tế Nhà vệ sinh/ khu vực vệ sinh của trạm y tế Hài lòng về qui chế

0,95 1,06 0,01 Thời gian chờ khám bệnh, hay chờ nhận thuốc 0,19

Giờ giấc làm việc của nhân viên y tế 0,66 0,71 0,007 0,1 Hài lòng về chi phí 1,03 0,88

0,4**

0,13**

Mức độ hài lòng trung bình 9,4 9,5 10,4 9,2 8,9 10,1 9,5 8,8 8,8 10,4 9,2 10,1 10,8 10,2 9,7 9,3 9,1 7,8 9,2 10,0 10,0 9,4 9,3 9,5 9,2 10,3 Công nhân viên chức Nông dân/lao động tự do Nội trợ/nghỉ hưu/ Học sinh/sinh viên Học vấn Mù chữ Tiểu học Trung học cơ sở THPT Cao đẳng, đại học… Bảo hiểm y tế Có Không Tình trạng hôn nhân Chưa lập gia đình Lập gia đình Ly hôn/góa Kinh tế Khá Đủ sống Nghèo

Kruskal‐Wallis

Kết  quả  cho  thấy  có  9  yếu  tố  hài  lòng  giữa  Phước  Hậu  và  Phước  Lại  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong 9 yếu tố này thì  6 yếu tố hài lòng ở Phước Lại cao hơn ở Phước  Hậu  bao  gồm:  tư  vấn  của  bác  sĩ,  chất  lượng  khám  bệnh,  trang  thiết  bị,  thời  gian  chờ  khám  bệnh, giờ giấc làm việc của nhân viên. Điều này  là do trạm y tế xã Phước Lại luôn có nhân viên  trực từ thứ hai đến chủ nhật. Bên cạnh đó trạm y  tế thường mở cửa từ rất sớm để khám cho bệnh  nhân. Điều này dẫn đến nhân viên có nhiều thời  gian dành cho bệnh nhân nên chất lượng tư vấn,  khám  và  chữa  bệnh  của  Phước  Lại  cao  hơn  Phước Hậu.

Công nhân/doanh nghiệp 115 39 412 215 19 65 318 290 102 25 504 295 42 708 49 71 589 140 ∗∗  Kiểm  định  phi  tham  số  wilcoxon,  kiểm  định

Mối liên hệ giữa mức độ hài lòng của bệnh  nhân/thân nhân với một số đặc tính mẫu

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  giữa  sự  hài  lòng chung đối với trạm y tế và các đặc tính mẫu  của cả hai xã không có mối liên quan có ý nghĩa  thống (p > 0,05). Điều này có thể thấy rằng mức  độ  hài  lòng  hay  không  hài  lòng  không  phụ  thuộc  nhiều  ở  nhóm  tuổi,  nhóm  nghề  nghiệp,  tình  trạng  hôn  nhân,  có  bảo  hiểm  y  tế  hay  không.  Hay  nói  cách  khác  bệnh  nhân  hài  lòng

135

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  hay không tùy thuộc vào yếu tố từ nhân viên y  tế, các qui định bắt buộc của trạm y tế xã hơn là  cảm nhận chủ quan của bệnh nhân.

Ngoài ra nghiên cứu cũng khảo sát mối liên  quan giữa sự hài lòng chung của riêng từng xã  với các đặc tính của mẫu. Kết quả cũng cho thấy  không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p >  0,05).

KẾT LUẬN

trạm. Các trạm cần thay đổi, điều chỉnh về quy  chế,  quy  trình  làm  việc.  Ngoài  ra,  các  trạm  cần  đầu tư thêm về trang thiết bị y tế, nâng cấp khu  vực vệ sinh của trạm y tế, tuyển thêm hộ lý để  vệ  sinh  khu  vực  này.  Đối  với  thái  độ  của  điều  dưỡng,  các  trưởng  trạm  cần  chú  trọng  đào  tạo,  bồi dưỡng về thái độ, hành vi. Về chi phí khám  và điều trị tại trạm, cần tăng độ phủ bảo hiểm y  tế ở xã Phước Lại, thêm vào đó phải có các chính  sách  hỗ  trợ  kinh  phí  cho  bệnh  nhân  nghèo  đi  kèm với phí dịch vụ khám và điều trị hợp lý. Về  toa  thuốc,  các  trạm  cần  nâng  cao  chất  lượng  thuốc, số lượng thuốc trong toa sao cho phù hợp  hơn  với  bệnh  nhân  bằng  cách  điều  chỉnh  lại  danh mục thuốc thiết yếu tại trạm y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

Nghiên  cứu  khảo  sát  mức  độ  hài  lòng  của  bệnh nhân/thân nhân tại trạm y tế hai xã Phước  Hậu  và  Phước  Lại  tại  huyện  Cần  Giuộc,  tỉnh  Long  An  về  6  khía  cạnh:  hài  lòng  về  giao  tiếp  của  nhân  viên  y  tế  trạm,  hài  lòng  về  quan  hệ  thầy thuốc bệnh nhân, hài lòng về chuyên môn  nhân viên y tế, hài lòng về trang thiết bị y tế, hài  lòng về qui chế, hài lòng về chi phí điều trị. Bệnh  nhân/thân nhân đa số hài lòng với các khía cạnh  tại trạm y tế (> 60%). Tuy nhiên một số khía cạnh  vẫn  có  tỷ  lệ  hài  lòng  thấp  và/hoặc  không  hài  lòng  còn  cao  bao  gồm:  hướng  dẫn  của  điều  dưỡng (hài lòng: 58%; không hài lòng: 23%), toa  thuốc  (hài  lòng:  51%,  không  hài  lòng:  22%),  trang  thiết  bị  (hài  lòng:  47%,  không  hài  lòng:  12%). Nghiên cứu cũng khảo  sát  mối  liên  quan  giữa sự hài lòng chung và các đặc tính của mẫu  như tuổi, giới, nghề nghiệp, bảo hiểm y tế. Tuy  nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối  liên  quan  giữa  các  yếu  tố  này  và  mức  độ  hài  lòng  của  bệnh  nhân/thân  nhân  đến  khám  và  điều trị tại hai trạm y tế xã Phước Hậu và Phước  Lại.

9.

KIẾN NGHỊ

Bộ T Tế (2001). Quyết định về chế độ giao tiếp trong các cơ sở  khám, chữa bệnh.  Bộ  Y  Tế  (2009).  Chương  trình  số  527/CTr‐BYT  về  nâng  cao  chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh vì  mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh bảo hiểm y tế.  Đỗ Hồng Ngọc. (2000) Thầy thuốc và bệnh nhân. NXB Tổng  Hợp Tp.HCM. 58‐61.  Hồ  Văn  Hiền  (1999).  Quan  hệ  bác  sĩ  và  bệnh  nhân.  http://www.advite.com/bshien.htm  Lê Hoàng Sơn (2010). Các mức độ hài lòng của bệnh nhân nội  trú tại bệnh viện Y học Dân Tộc. Luận văn chuyên Khoa II.  Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh.  Lê  Nữ  Thanh  Uyên,  Trương  Phi  Hùng  (2005).  Mức  độ  hài  lòng  của  bệnh  nhân  về  dịch  vụ  y  tế  tại  bệnh  viện  Bến  Lức‐  huyện Bến Lức‐ tỉnh Long An, tháng 5 năm 2005. Tạp chí Y  Học TP. Hồ Chí Minh, 10,(1),43‐47.  Lê Thành Ni (2010). Mức độ hài lòng của bệnh nhân nội trú  về  dịch  vụ  y  tế  tại  BV.  Chợ  Rẫy.  Luận  văn  chuyên  Khoa  II.  Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh  Lý  Thu  Hoa,  Đặng  Thị  Kim  Lan,  Hoàng  Sỹ  Quỳnh,  (2006).  “Kỹ  năng  giao  tiếp  của  điều  dưỡng  tại  Bệnh  viện  đa  khoa  Bình Dươngʺ.  Phùng Lưu Quang, Phương Liên.(2008) “Những điều cần biết  về  nghệ  thuật  khám  chữa  bệnh  dành  cho  bác  sĩ  và  bệnh  nhân”. NXB Y Học TP. Hồ Chí Minh, 24‐25.

10. Trần Ngọc Hữu, Lê Công Minh (2006). Đánh giá sự hài lòng  của  người  bệnh  tại  3  bệnh  viện  tỉnh  Long  An  ‐  Năm  2005ʺ.  Tạp chí Y học Tp. Hồ Chí Minh,10,(4),12‐16.

Kết quả nghiên cứu sẽ được dùng làm cơ sở  để  từ  đó  trạm  y  tế  của  hai  xã  Phước  Hậu  và  Phước Lại đưa ra một số điều chỉnh trong công  tác  nhằm  nâng  cao  chất  lượng  dịch  vụ  y  tế  tại

136

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

SỰ TUÂN THỦ PHÁC ĐỒ VẮC XIN DỰ PHÒNG BỆNH DẠI   SAU PHƠI NHIỄM TẠI THỊ XàSA ĐÉC, ĐỒNG THÁP

∗ , Nguyễn Kim Thủy*  Phùng Minh Trí

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh dại là một bệnh viêm não cấp lây truyền từ động vật sang người và hầu như luôn gây tử  vong, do đó dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) là rất quan trọng. Không hoàn tất phác đồ vắc xin là một nguyên  nhân gây thất bại trong việc phòng bệnh dại.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh nhân điều trị PEP hoàn tất phác đồ vắc xin, số mũi tiêm trung bình đã thực

hiện theo từng phác đồ và các yếu tố liên quan đến việc hoàn tất các phác đồ hiện hành.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Mẫu gồm 9519 bệnh nhân điều trị PEP trong 2  năm 2010‐2011 bằng 3 phác đồ: phác đồ tiêm bắp 5 mũi (TB5) phác đồ tiêm trong da 5 mũi (TTD5) phác đồ tiêm  trong da 4 mũi (TTD4).

Kết quả: Tỉ lệ hoàn tất phác đồ chung là 60,64%. Tỉ lệ bệnh nhân hoàn tất phác đồ vắc xin phòng dại sau  phơi nhiễm của từng phác đồ TB5, TTD5 và TTD4 lần lượt là 61,98%, 48,50% và 66,47%. Với cả ba phác đồ, số  mũi tiêm trung bình mỗi bệnh nhân đã thực hiện là 3,75 mũi. Tỉ lệ hoàn thành 3 mũi tiêm trở lên tính chung là  83,32%. Yếu tố làm tăng khả năng hoàn tất phác đồ hiện hành (TB5 và TTD4) là bệnh nhân nữ, nhóm tuổi <15.  Yếu tố nguy cơ không hoàn tất phác đồ là bệnh nhân cư ngụ trong thị xã và bệnh nhân sử dụng phác đồ tiêm  bắp.

Kết  luận Tỉ lệ hoàn tất phác đồ PEP trong nghiên cứu này còn thấp hơn các khảo sát ở một số nước. Sử

dụng phác đồ tiêm trong da giúp tăng tỉ lệ hoàn tất phác đồ phòng dại.

Từ khóa: Bệnh dại, dự phòng sau phơi nhiễm, PEP, tuân thủ

ABSTRACT

PATIENT COMPLIANCE WITH RABIES VACCINATION REGIMENS FOR POST‐EXPOSURE  PROPHYLAXIS IN SA DEC TOWN, DONG THAP.

Phung Minh Tri, Nguyen Kim Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 138 ‐ 144

Background: Rabies is a viral zoonosis that causes acute encephalitis in humans and almost invariably fatal.  Hence,  post‐exposure  prophylaxis  (PEP)  is  extremely  important  to  prevent  the  disease.  Failure  to  complete  prophylaxis vaccination regimens may result in death.

Objectives: To determine the rates of patients who complete rabies prophylaxis vaccination regimens, the  mean injections per patient of each regimen and some related factors of completing current regimens in Sa Dec  town, Dong Thap.

Methods:  Descriptive,  cross‐sectional  method  was  used.  Data  included  total  of  9,519  patients  treated  by  three  PEP  regimens:  5‐dose  intramuscular  (5‐dose  IM),  Thai  Red  Cross  intradermal  (TRC‐ID)  or  2‐site  intradermal (2‐site ID) during 2010‐2011.

Result:  The  PEP  vaccination  regimen  completion  was  60.64%.  With  5‐dose  IM,  TRC‐ID  and  2‐site  ID  regimens, the rates were 61.98%, 48.50% and 66.47% respectively. The mean injections per patient was 3.75.  ∗ Trung tâm y tế TX Sa Đéc, Đồng Tháp  Tác giả liên lạc: Bs. Phùng Minh Trí

Email: bs_phmtri@yahoo.com

ĐT: 0673861339

137

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  On aggregate, 83.32% of patients took three or more injections. With two current regimens (5‐dose IM, 2‐site  ID),  the  dependent  risk  factors  of  not  completing  the  vaccination  regimen  included  local  patients  and  intramuscular regimen.  The  dependent  protective  factors  of  completing  the  regimens  were  female  patients  and  under 15 patients.

Conclusion: The rates of vaccination regimen completion in this survey was lower than that of completion

in others. Using the intradermal post‐exposure prophylaxis regimen may increase completion rate.

Keywords: Rabies, post‐exposure prophylaxis, PEP, compliance

ĐẶT VẤN ĐỀ

sau  phơi  nhiễm

trị  sau  phơi  nhiễm

Bệnh  dại  là  một  bệnh  viêm  não  cấp,  do  vi  rút  dại  (RABV),  một  vi  rút  thuộc  giống  Lyssavirus, họ Rhabdoviridae gây ra. Đây là một  bệnh  lây  truyền  từ  động  vật  sang  người,  chủ  yếu  qua  vết  cắn  hay  vết  cào  của  con  vật  bị  nhiễm (đa số là chó nhà) trên da hay niêm mạc  nạn  nhân.  Thời  gian  ủ  bệnh  thường  từ  1‐3  tháng,  tuy  nhiên  có  thể  từ  2  tuần  đến  hơn  1  năm,  tùy  vào  nhiều  yếu  tố  và  khi  có  triệu  chứng lâm sàng, hầu như 100% ca bệnh đều tử  vong. Do vậy, khác với các nhiễm trùng khác,  bệnh dại cần thiết phòng ngừa và có thể phòng  ngừa  bằng  cách  điều  trị  vết  thương  và  tiêm  phòng kịp thời sau khi phơi nhiễm(10), gọi là dự  phòng  (post‐exposure  prophylaxis ‐ PEP) hay như nhiều tác giả gọi là  điều  (post‐exposure  treatment ‐ PET)(5,7). Theo Tổ chức Y tế thế giới  (WHO), tại châu Á và châu Phi hiện nay, PEP  ước tính ngăn ngừa được 272000 ca tử vong do  bệnh dại mỗi năm(5).

hưởng  đến  hiệu  quả  điều  trị  dự  phòng  bệnh  dại bằng vắc xin là việc tuân thủ các phác đồ.  Việc  tuân  thủ  này  chịu  ảnh  hưởng  tổng  hợp  của nhiều yếu tố như: sự thuận tiện đi lại, chi  phí thuốc, tư vấn của người chỉ định và nhiều  yếu tố không thể dự đoán khác, nhưng rõ ràng  có vai trò quan trọng trong điều trị dự phòng,  vì không hoàn tất phác đồ là một trong những  nguyên  nhân  thất  bại  trong  việc  phòng  bệnh  dại(9,10). Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chứng  minh  hiệu  quả  cũng  như  độ  an  toàn  của  vắc  xin dại(1,3,8), tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào  trong  nước  về  việc  tuân  thủ  lịch  tiêm  của  các  phác  đồ  điều  trị  PEP  với  vắc  xin  dại  thế  hệ  mới, có thể do khó khăn trong việc theo dõi và  cập  nhật  dữ  liệu  bệnh  nhân  khi  phác  đồ  kéo  dài. Một nghiên cứu  tại  Hà  Tĩnh  năm  1993  có  8660  người  tiêm  phòng  dại  với  vắc  xin  mô  thần  kinh  trước  đây  (Fuenzalida),  ước  lượng  có  80%  các  trường  hợp  tiêm  đủ  6‐8  mũi,  và  20%  tiêm  4  mũi  trở  xuống.  Cũng  trong  năm  đó,  có  14  ca  tử  vong  do  dại  ở  Hà  Tĩnh,  tất  cả  đều không được tiêm vắc xin(6).

Đơn vị tiêm phòng Trung tâm y tế thị xã Sa  Đéc  cung  cấp  dịch  vụ  điều  trị  PEP  không  chỉ  cho  bệnh  nhân  cư  ngụ  trên  địa  bàn,  mà  còn  cho  bệnh  nhân  của  nhiều  huyện  lân  cận  và  một ít bệnh nhân vãng lai từ các tỉnh khác. Từ  đầu  năm  2008,  đơn  vị  đã  loại  bỏ  hẳn  vắc  xin  dại từ mô thần kinh chuyển hoàn toàn sang sử  dụng vắc xin thế hệ mới phù hợp với khuyến  cáo của WHO(9). Cho đến tháng 3/2012, vắc xin  duy  nhất  chúng  tôi  sử  dụng  là  Verorab  (Sanofi‐Pasteur, Pháp), một loại vắc xin tế bào  Vero tinh chế, và trong 2 năm 2010‐2011 đã có  9820 trường hợp điều trị PEP với vắc xin này.

Dù từ năm 2009 đến hết 2011 không có ca  tử vong do bệnh dại nào tại thị xã Sa Đéc, việc  đánh giá sự tuân thủ phác đồ điều  trị  PEP  và  các yếu tố liên quan vẫn là cần thiết. Nhờ ứng  dụng cơ sở dữ liệu máy tính để lưu trữ, quản  lý  bệnh  nhân  điều  trị  dự  phòng  bệnh  dại  từ  năm 2009, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm  có số liệu cơ bản về sự tuân thủ các phác đồ dự  phòng  bệnh  dại  sau  phơi  nhiễm  bằng  vắc  xin  (nghiên  cứu  này  gọi  là  PEP  hay  ĐTDPSPN),  giúp  nâng  cao  hiệu  quả  chương  trình  phòng  chống bệnh dại nói chung và hiệu quả tư vấn  tiêm phòng dại nói riêng.

Một  trong  những  yếu  tố  quan  trọng  ảnh

Mục tiêu nghiên cứu

138

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Xác định tỉ lệ bệnh nhân điều trị ĐTDPSPN

WHO(9).

hoàn tất phác đồ.

Xác  định  số  mũi  tiêm  trung  bình  đã  thực

hiện theo từng phác đồ.

Khảo sát các yếu tố liên quan đến việc tuân

thủ các phác đồ hiện hành.

Cũng  với  3  phác  đồ  trên,  chúng  tôi  chia  theo  nhóm  để  đánh  giá  sự  tuân  thủ:  nhóm  tiêm  bắp  (TB5)  so  với  nhóm  tiêm  trong  da  (TTD4  hay  TTD5),  nhóm  4  mũi  (TTD4)  so  với  nhóm  5  mũi  (TB5  hay  TTD5),  nhóm  28  ngày  (TB5 hay TTD4) so với nhóm 90 ngày (TTD5).

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dữ liệu của tất cả bệnh nhân ĐTDPSPN từ  2009 đến nay đều được nhập vào một cơ sở dữ  liệu  do  chúng  tôi  tự  thiết  kế  bằng  MS  Visual  Foxpro  9.0  để  lưu  trữ,  quản  lý,  cập  nhật  sau  mỗi mũi tiêm (tức mỗi ngày tiêm). Số liệu của  nghiên  cứu  này  được  lọc  ra  từ  cơ  sở  dữ  liệu  trên và chuyển đổi để xử lý bằng chương trình  Stata/SE 10.0 for Windows.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Với thiết kế mô tả cắt ngang, chúng tôi ước  tính  cỡ  mẫu  dựa  trên  tỉ  lệ  hoàn  tất  phác  đồ  50%,  sai  số  2%  được  kết  quả  n=2500  bệnh  nhân.  Để  khảo  sát  đầy  đủ  phác  đồ,  chúng  tôi  lấy  số  liệu  bệnh  nhân  ĐTDPSPN  trong  thời  gian tròn 2 năm, từ tháng 1/2010 đến hết tháng  12/2011. Trong thời gian này, tất cả bệnh nhân  chưa  tiêm  vắcxin  dại  trước  đây  đều  được  chỉ  định một trong ba phác đồ:

Đặc điểm mẫu

Phác  đồ  tiêm  bắp  5  mũi  (TB5),  còn  gọi  là  phác đồ 5 liều (5‐dose IM) vào các ngày 0, 3, 7,  14 và 28, mỗi ngày 1 liều 0,5mL.

Phác  đồ  tiêm  trong  da  5  mũi  (TTD5),  còn  gọi  là  phác  đồ  Hội  Chữ  thập  đỏ  Thái  Lan  (TRC‐ID) vào các ngày 0, 3, 7, 28 và 90, ba ngày  đầu  mỗi  ngày  2  liều  0,1mL  ở  2  vị  trí,  2  ngày  sau mỗi ngày 1 liều 0,1mL.

Tổng  số  bệnh  nhân  ĐTDPSPN  đủ  tiêu  chuẩn  trong  nghiên  cứu  này  là  9519  người,  trong đó số bệnh nhân được điều trị bằng các  phác  đồ  TB5,  TTD5,  TTD4  lần  lượt  là  3035,  2332  và  4152  người,  tương  ứng  với  tỉ  lệ  lần  lượt  là  31,88%,  24,50%  và  43,62%.  Các  đặc  điểm khác của mẫu được trình bày trong bảng  1 và bảng 2.

Bảng 1: Phân bố đặc điểm dịch tễ theo phác đồ  Phác đồ

Phác  đồ  tiêm  trong  da  4  mũi  (TTD4),  còn  gọi là phác đồ 2 vị trí (2‐site ID) vào các ngày  0, 3, 7 và 28, mỗi ngày 2 liều 0,1mL ở 2 vị  trí.  Phác  đồ  này  thay  thế  hoàn  toàn  cho  phác  đồ  TTD5 từ tháng 11/2010.

Chung p(χ2) N

Nam (%) 0,000 Nữ (%)

Tuổi <15 (%) 0,000

0,000

Tuổi >=15 (%) BN trong thị xã (%) BN ngoài thị xã (%)

Chó cắn (%) 0,079

Súc vật khác (%) TTD5 TTD4 2008 1147 (48,36) (49,19) 2114 1185 (51,64) (50,81) 1253 689 (30,18) (29,55) 2889 1643 (69,82) (70,45) 1721 1012 (41,45) (43,40) 2431 1320 (58,55) (56,60) 3335 1904 (80,32) (81,65) 817 428 (19,68) (18,35)

Tất  cả  bệnh  nhân  ĐTDPSPN  bằng  3  phác  đồ kể trên được thu nhận trong thời gian này  và được tiêm ít nhất một mũi vắc xin đều đưa  vào nghiên cứu. Như vậy, bệnh nhân được chỉ  định  phác  đồ  khác  hoặc  bệnh  nhân  chỉ  dùng  huyết thanh kháng dại mà không dùng vắc xin  sẽ  không  đưa  vào  nghiên  cứu  này.  Trong  nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa một mũi  tiêm hay một ngày tiêm là khi bệnh nhân đến  và được tiêm 1 hay 2 liều vắc xin tùy theo phác  đồ. Việc lựa chọn phác đồ tuỳ thuộc vào: tuổi,  cơ địa, thời gian trì hoãn sau phơi nhiễm, tình  trạng vết thương theo hướng dẫn của nhà sản  xuất  kèm  theo  sản  phẩm  và  hướng  dẫn  của

VT nặng (%) 7 (0,30) 4 (0,10) 0,000 TB5 1695 (55,85) 1340 (44,15) 1801 (49,34) 1234 (40,66) 1092 (35,98) 1943 (64,02) 2500 (82,37) 535 (17,63) 511 (16,84) 2524 4850 (50,95) 4669 (49,05) 3743 (39,32) 5776 (60,68) 3825 (40,18) 5694 (59,82) 7739 (81,30) 1780 (18,70) 522 (5,48) 8995 VT không 2325 4148

139

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

(ngày) Phác đồ N Chung p(χ2) TB5 TTD5 TTD4 (83,16) (99,70) (99,90) (94,52)

2 (0,09) 3 (0,07) 0,000

(BN: bệnh nhân; VT:vết thương; HT: huyết thanh kháng  dại)

Đối  với  bệnh  dại,  việc  trì  hoãn  ĐTDPSPN  có thể dẫn tới nguy cơ tử vong vì khi vi rút dại  xâm nhập dây thần kinh ngoại biên, hiệu quả  ĐTDPSPN  sẽ  hạn  chế(4,11).  Tuy  nhiên,  chưa  có  tài liệu nào cho thấy số ngày trì hoãn tối đa để  bảo  đảm  hiệu  quả  ĐTDPSPN,  có  lẽ  do  thời  gian  ủ  bệnh  rất  dao  động  và  tính  nguy  hiểm  của bệnh đòi hỏi điều trị dự phòng bất cứ khi  nào có thể. Vì vậy, số ngày trì hoãn trung bình  là  1,48  ngày  của  nghiên  cứu  này  cũng  chưa  thật sự có ý nghĩa, dù sao, bảng phân tích bách  phân  vị  ứng  với  số  ngày  trì  hoãn  cho  ta  cái  nhìn  cụ  thể  hơn:  trong  số  bệnh  nhân  có  tiêm  vắc xin, chỉ có 21% bệnh nhân được dùng liều  vắc  xin  đầu  tiên  ngay  trong  ngày  bị  phơi  nhiễm, và 94% là được tiêm trong 5 ngày đầu  (bảng 3).

Số  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  chưa  thể  hiện  sự  vượt  trội  về  giới  tính,  nhưng  rõ  ràng,  nhóm  dưới  15  tuổi  chiếm  tỉ  lệ  cao  (39,32%).  Điều này phù hợp với nhận định của Knobel(5)  và  WHO  về  tình  hình  phơi  nhiễm  tại  châu  Á  và châu Phi(10), theo đó, khoảng 40% số PEP là  trẻ em 5‐14 tuổi. Một nghiên cứu tại Ấn Độ cho  thấy: trong 916 trường hợp phơi nhiễm, có đến  68% là nam giới, 91,5% là do chó cắn(7), cả hai tỉ  lệ  này  đều  khác  biệt  rất  có  ý  nghĩa  thống  kê  với nghiên cứu của chúng tôi (p=0,0000).

nặng (%) Có tiêm HT (%) Không tiêm HT (%) 311 (10,25) 2724 (89,75) 2330 (99,91) 4149 (99,93) 316 (3,32) 9203 (96,68)

Bảng 3: Bách phân vị theo số ngày trì hoãn trước khi  tiêm vắc xin (n=9519)

Số ngày Phân vị 0 21 1 72 2 85 3 92 4 94 5 96

Tỉ lệ bệnh nhân hoàn tất phác đồ

Theo từng phác đồ và từng nhóm phác đồ,  chúng  tôi  có  tỉ  lệ  hoàn  tất  phác  đồ  (tiêm  đủ  mũi) trình bày trong bảng 4.

Bảng 4: Tỉ lệ hoàn tất phác đồ ĐTDPSPN

Phác đồ Đủ mũi (%) p(χ2)

0,000

61,98 48,50 66,47 61,98 Không đủ mũi (%) 38,02 51,50 33,53 38,02 0,067 60,01 39,99

0,000

Dù  súc  vật  cắn  không  liên  quan  đến  việc  chỉ  định  phác  đồ  tại  đơn  vị  của  chúng  tôi,  nhưng  do  thói  quen  chỉ  định  theo  hướng  dẫn  của  nhà  sản  xuất,  bệnh  nhân  có  vết  thương  nặng thường được điều trị phác đồ TB5 (cùng  với  sử  dụng  huyết  thanh  kháng  dại),  nên  ít  bệnh  nhân  có  vết  thương  nặng  hoặc  có  dùng  huyết  thanh  điều  trị  bằng  phác  đồ  tiêm  trong  da. Khuyến cáo 2010  của  WHO,  phác  đồ  tiêm  trong da được sử dụng cho tất cả  các  mức  độ  nặng  nhẹ  của  vết  thương,  và  như  vậy,  thói  quen  chỉ  định  này  nên  được  thay  đổi.  Tuy  nhiên,  sử  dụng  huyết  thanh  cho  vết  thương  nặng vẫn là khuyến cáo quan trọng của WHO  trong  PEP(10). Tỉ  lệ  sử  dụng  huyết  thanh  trong  nghiên cứu này là 3,32% so với nghiên cứu tại  Ấn  Độ  là  2,1%  trong  số  439  ca  PEP(7)  và  cũng  rất  khác  biệt  với  tỉ  lệ  tại  Hà  Tĩnh  là  16,41%  trong số 8660 bệnh nhân ĐTDPSPN(6).

0,000

TB5 (n=3035) TTD5 (n=2332) TTD4 (n=4152) Phác đồ tiêm bắp Phác đồ tiêm trong da Phác đồ 5 mũi Phác đồ 4 mũi Phác đồ 28 ngày Phác đồ 90 ngày Chung 56,12 66,47 64,57 48,50 60,64 43,88 33,53 35,43 51,50 39,36

Bảng 2: Thống kê mô tả các đặc tính mẫu (n=9519)

Số ngày trì hoãn: từ ngày phơi nhiễm đến ngày tiêm  mũi vắc xin đầu tiên

Tỉ  lệ  hoàn  tất  khác  nhau  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  các  phác  đồ,  có  thể  do  đặc  điểm  của  phác đồ: TTD5 có mũi cuối cách xa so với mũi  trước, TB5 có chi phí mỗi mũi cao hơn và có 5  lần  tiêm,  còn  TTD4  có  nhiều  ưu  điểm:  giá  thành  thấp,  ít  lần  đi  tiêm,  ngắn  ngày.  Tỉ  lệ

Biến số Trung bình Min Max

28,35 1,48 Độ lệch chuẩn 21,52 1,90 1 0 99 26 Tuổi (năm) Số ngày trì hoãn

140

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hoàn  tất  cũng  khác  nhau  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  các  nhóm  phác  đồ,  ngoại  trừ  giữa  nhóm  tiêm bắp và tiêm trong da (p=0,067), vì phác đồ  tiêm  trong  da  bao  gồm  một  phác  đồ  có  tỉ  lệ  hoàn  tất  cao  hơn  hẳn  (TTD4)  và  một  phác  đồ  có  tỉ  lệ  thấp  hơn  hẳn  (TTD5).  Nếu  chỉ  xét  hai  phác đồ hiện hành là TB5 và TTD4, tỉ lệ hoàn  tất chung sẽ là 4641/7187, tức 64,57%.

bình  mũi  tiêm:  Knobel  ước  tính  số  mũi  tiêm  trung bình là 3 mũi với phác đồ TB5 (thay vì 5  mũi) và cũng 3 mũi với phác đồ TTD5 (thay vì  5  mũi)  để  ước  tính  gánh  nặng  chi  phí  của  PEP(5).  Nếu  sử  dụng  kết  quả  của  nghiên  cứu  này, chi phí ước tính sẽ có nhiều thay đổi. Chi  tiết  tỉ  lệ  theo  từng  số  mũi  đã  tiêm  được  trình  bày trong bảng 6.

Bảng 6: Tỉ lệ bệnh nhân ĐTDPSPN theo số mũi đã  tiêm và phác đồ

Phác đồ Số liệu Cộng 1 4 2 5 n TB5

Ít  có  dữ  liệu  khảo  sát  về  tỉ  lệ  hoàn  tất  các  phác  đồ.  Một  nghiên  cứu  ở  Ấn  Độ(7)  với  439  bệnh nhân dùng phác đồ TB5 cho thấy, chỉ có  42,7%  là  hoàn  tất  phác  đồ  (đủ  5  mũi).  Hai  số  liệu khác chưa công bố cho thấy tại New York  (Mỹ),  tỉ  lệ  hoàn  tất  phác  đồ  TB5  là  87%  trong  số  1132  bệnh  nhân;  tại  Puerto  Rico,  tỉ  lệ  hoàn  tất  phác  đồ  TB5  là  84%  trong  số  191  bệnh  nhân(2). Tất cả đều khác biệt so với phác đồ TB5  trong nghiên cứu này (61,98%).

Trong  tương  lai,  phác  đồ  TB5  có  thể  sẽ  được thay thế bởi phác đồ tiêm bắp 4 mũi (bỏ  mũi  tiêm  sau  cùng  ngày  28),  theo  khuyến  cáo  mới  nhất(2,10).  Phác  đồ  mới  này  (TB4)  sẽ  rút  ngắn chi phí và thời gian, do đó, tỉ lệ hoàn tất  sẽ  cao  hơn.  Dựa  trên  bảng  6,  ta  có  thể  ước  lượng  tỉ  lệ  hoàn  tất  của  phác  đồ  TB4  sẽ  là  13,38%+61,98%=  75,36%  (thay  vì  chỉ  61,98%  như  hiện  nay),  sẽ  trở  thành  phác  đồ  có  tỉ  lệ  hoàn  tất  cao  nhất,  vượt  trội  so  với  phác  đồ  TTD4 hiện nay, dù chi phí vẫn cao hơn.

n TTD5 Số mũi đã tiêm 3 352 199 197 406 1881 Tỉ lệ (%) 11,59 6,56 6,49 13,38 61,98 224 194 352 431 1131 Tỉ lệ (%) 9,61 8,32 15,09 18,48 48,50 n TTD4 328 291 773 2760 Tỉ lệ (%) 7,90 7,01 18,62 66,47 3035 100 2332 100 4152 100

Tỉ lệ hoàn thành từ 3 mũi tiêm trở lên

Điểm  yếu  của  nghiên  cứu  này  là  sai  sót  trong quá trình cập nhật mũi tiêm. Nếu dự trù  thiếu hụt 10% do không cập nhật đủ mũi cuối  cùng lên máy tính, tỉ lệ hoàn tất 2 phác đồ hiện  hành  ước  lượng  có  thể  đạt  71,03%,  tỉ  lệ  hoàn  tất phác đồ TTD4 ước lượng đạt 73,12% và tỉ lệ  hoàn  tất  phác  đồ  TB5  ước  lượng  thực  tế  đạt  68,18%,  vẫn  thấp  hơn  so  với  New  York  và  Puerto  Rico.  Có  thể  các  khác  biệt  là  do  điều  kiện kinh tế để tuân thủ phác đồ, một lý do để  WHO  khuyến  cáo  nên  dùng  phác  đồ  tiêm  trong da tại các nước đang phát triển(10).

Về số mũi vắc xin đã tiêm  Bảng 5: Số mũi tiêm trung bình theo từng phác đồ  (đơn vị: mũi)

Để giảm thiểu ảnh hưởng của yếu tố khác  biệt  về  thời  gian  hoàn  tất  và  số  mũi  của  từng  phác đồ PEP ‐ vì cả phác đồ trong nghiên cứu  này đều có 3 mũi đầu tiên vào các ngày 0, 3, 7 ‐  chúng  tôi  tính  tỉ  lệ  bệnh  nhân  hoàn  tất  từ  3  mũi trở lên cho từng phác đồ như trong bảng  7.

Phác đồ N Min Max p (ANOVA)

0,0000

Bảng 7: Số liệu tiêm >=3 mũi theo phác đồ

Trung bình 3035 4,08 TB5 2332 3,88 TTD5 4152 3,44 TTD4 Chung 9519 3,75 Độ lệch chuẩn 1,41 1,35 0,93 1,24 1 1 1 1 5 5 4 5 Chung p(χ2)

Tiêm <3 mũi 0,000

Một nhận xét là: cho dù đã loại trừ sự khác

Cũng  như  tỉ  lệ  hoàn  tất  các  phác  đồ,  sự  khác biệt của số mũi tiêm trung bình là do đặc  điểm của phác đồ. Ý nghĩa của các giá trị trung  bình  trong  bảng  5  là  nó  cho  ta  cơ  sở  để  tính  toán chi phí của ĐTDPSPN trên diện rộng. Các  tác giả trước đây thường phỏng đoán số trung

Tiêm >=3 mũi Phác đồ TB5 TTD5 TTD4 n 1588 619 418 551 % 18,15 17,92 14,91 16,68 n 2484 1914 3533 7931 % 81,85 82,08 85,09 83,32

141

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

phác đồ.

Tần số (%) Yếu tố Giá trị p(χ2) Hoàn tất Không hoàn tất

Giới 0,009

Nghiên cứu Y học  nhau về số mũi và thời gian của các phác đồ, tỉ  lệ hoàn tất 3 mũi vẫn khác biệt rất có ý nghĩa  thống kê (p=0,000). Như vậy, không chỉ có thời  gian hay số mũi tiêm ảnh hưởng đến việc hoàn  tất các phác đồ PEP.

Tuổi 0,000 Nữ Nam <15 >= 15

Cư ngụ 0,001

Súc vật cắn 0,014 Chó Khác

0,290 Số ngày trì hoãn Nặng 0,477 Mức độ vết thương

Nhiều tài liệu cho thấy, với vắc xin phòng  dại  thế  hệ  mới,  nồng  độ  kháng  thể  trung  hòa  vi rút dại sẽ đạt mức bảo vệ vào ngày thứ 14,  tức hoàn thành 3 mũi tiêm dù sử dụng đường  tiêm bắp hay trong da(1,3,8,11). Đồng thời, sự kéo  dài  nồng  độ  ở  mức  bảo  vệ  này  lại  không  tùy  thuộc số mũi đã tiêm(2,11). Đó cũng là thời điểm  có  thể  ngưng  điều  trị  PEP  nếu  con  vật  liên  quan còn sống (sau 10 ngày từ khi cắn)(10). Như  vậy,  việc  hoàn  thành  3  mũi  tiêm  có  ý  nghĩa  quan trọng trong ĐTDPSPN và việc khảo sát tỉ  lệ hoàn thành từ 3 mũi tiêm trở lên sẽ là cơ sở  giúp  đánh  giá  mức  bảo  vệ  của  vắc  xin.  Nếu  nhận định số liệu theo quan điểm này, số liệu  bảng 7 sẽ cho ta tỉ lệ bảo vệ của các phác đồ có  thể đạt đến 83,32%, dù bệnh nhân có hoàn tất  phác đồ hay không.

Phác đồ 0,000 2303 (33,90) 1181 (66,10) 2338 (63,14) 1365 (36,86) 2189 (71,68) 865 (28,32) 2452 (59,33) 1681 (40,67) Trong thị xã 1752 (62,28) 1061 (37,72) Ngoài thị xã 2889 (66,05) 1485 (33,95) 3807 (65,24) 2028 (34,76) 834 (61,69) 518 (38,31) 0-1 ngày 3334 (64,95) 1799 (35,05) >1 ngày 1307 (63,63) 747 (36,37) 340 (66,02) 175 (33,98) Không nặng 4301 (64,46) 2371 (35,54) 1881 (61,98) 1154 (38,02) 2760 (66,47) 1392 (33,53) TB5 TTD4

Các yếu tố liên quan đến việc hoàn tất phác  đồ hiện hành

Số liệu bảng 8 cho ta thấy có mối liên quan  của 5/6 yếu tố được khảo sát với việc hoàn tất  các  phác  đồ  (ngoại  trừ  yếu  tố  vết  thương  nặng). Phân tích định lượng các mối liên quan  này bằng OR (bảng 9) cũng cho kết quả tương  tự, tuy nhiên khi phân tích đa biến với công cụ  hồi qui logistic, kết quả có thay đổi: vết thương  nặng cũng là yếu tố liên quan với việc hoàn tất  phác  đồ,  nhưng  yếu  tố  súc  vật  cắn  thì  không  liên  quan.  Như  vậy,  có  sự  tác  động  lẫn  nhau  giữa các yếu tố.

Bảng 9: Kết quả OR các yếu tố liên quan hoàn tất  phác đồ (n=7187)  *Các giá trị OR có p>0,05

Phác đồ TTD5 có thời gian hoàn tất kéo dài  đến ngày 90, điều này ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ  hoàn  tất  phác  đồ.  Hơn  nữa,  phác  đồ  này  đã  không còn nằm trong khuyến cáo của WHO từ  năm  2007(9,10),  và  thực  tế,  chúng  tôi  đã  không  còn  sử  dụng  từ  tháng  11/2010.  Vì  vậy,  để  kết  quả có ý nghĩa thực tế hơn, chúng tôi chỉ khảo  sát  các  yếu  tố  liên  quan  đến  việc  hoàn  tất  hai  phác đồ đang sử dụng là TB5 và TTD4, tổng số  là n=7187 bệnh nhân trong cùng thời gian.

OR (95%CI) Yếu tố Đơn biến Đa biến

1,14 (1,03-1,25) 1,26 (1,14-1,39) 1,73 (1,57-1,92) 2,06 (1,85-2,30) 0,85 (0,76-0,94) 0,85 (0,77-0,94) 1,17 (1,03-1,32) 1,07 (0,94-1,21)*

0,94 (0,85-1,05)* 0,94 (0,84-1,05)*

Các  yếu  tố  dự  đoán  có  thể  liên  quan  đến  việc hoàn tất hai phác đồ được khảo sát gồm:  nữ,  tuổi  <15,  cư  ngụ  trong  thị  xã,  súc  vật  cắn,  số  ngày  trì  hoãn,  mức  độ  vết  thương  (loại  III  hay  category  III  theo  hướng  dẫn  của  WHO(9)  được  xem  là  vết  thương  nặng).  Đây  cũng  là  những  yếu  tố  hành  chính,  dịch  tễ,  được  khai  thác khi làm thủ tục ĐTDPSPN tại đơn vị (bảng  8).

Giới nữ Tuổi <15 Cư ngụ trong thị xã Do chó cắn Đến tiêm sau >1 ngày Vết thương nặng Phác đồ TB5 1,07 (0,89-1,29)* 1,48 (1,20-1,81) 0,82 (0,75-0,91) 0,62 (0,56-0,70)

Bảng 8: Tần số, tỉ lệ các yếu tố liên quan hoàn tất

Chúng  tôi  nhận  thấy:  nhóm  <15  tuổi  có  nguy  cơ  bị  chó  cắn  cao  hơn  nhóm  >=15  tuổi  (p=0,000; OR=2,07), nhóm <15 lại thường được  chỉ  định  phác  đồ  TB5  (p=0,000;  OR=3,38).  Nhóm bị chó cắn cũng có tỉ lệ hoàn tất không  khác  biệt  với  nhóm  còn  lại  (p=0,301;  95%CI

142

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  OR: 0,94‐1,21).

có khả năng hoàn tất phác đồ chỉ bằng 0,85 lần  bệnh  nhân  ngoài  thị  xã  và  phác  đồ  tiêm  bắp  TB5  có  khả  năng  hoàn  tất  phác  đồ  chỉ  bằng  0,82 lần phác đồ TTD4.

Việc mở rộng sử dụng phác đồ tiêm trong  da 4 mũi, áp dụng phác đồ tiêm bắp 4 mũi mới  cùng  với  tăng  cường  tư  vấn,  nhắc  nhở  tiêm  đúng  lịch,  đặc  biệt  trên  đối  tượng  có  nguy  cơ  không  hoàn  thành  điều  trị,  sẽ  giúp  tăng  đáng  kể tỉ lệ hoàn tất phác đồ tiêm phòng bệnh dại.

Theo kết quả phân tích OR các yếu tố nguy  cơ  độc  lập  trên,  bệnh  nhân  nữ  có  khả  năng  hoàn  tất  phác  đồ  bằng  1,14  lần  bệnh  nhân  nam, nhóm tuổi <15 có khả năng hoàn tất phác  đồ  bằng  1,97  lần  nhóm  bệnh  nhân  >=15  tuổi,  bệnh nhân cư ngụ trong thị xã lại có khả năng  hoàn tất phác đồ chỉ bằng 0,85 lần bệnh nhân  ngoài  thị  xã  và  phác  đồ  tiêm  bắp  TB5  có  khả  năng  hoàn  tất  phác  đồ  chỉ  bằng  0,82  lần  phác  đồ TTD4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. DJ,

al

A

et

(2000).

Banzhoff

KẾT LUẬN

2.

3.

4.

Qua  hồi  cứu  9519  bệnh  nhân  điều  trị  dự  phòng  bệnh  dại  sau  phơi  nhiễm  trong  2  năm  2010‐2011, chúng tôi nhận thấy:  số  bệnh  nhân  được  điều  trị  bằng  các  phác  đồ  TB5,  TTD5,  TTD4  lần  lượt  là  3035,  2332  và  4152  người,  tương ứng với tỉ  lệ  lần  lượt  là  31,88%,  24,50%  và  43,62%.  Tỉ  lệ  bệnh  nhân  hoàn  tất  phác  đồ  vắc xin phòng dại sau phơi nhiễm lần lượt của  từng  phác  đồ  là  61,98%,  48,50%  và  66,47%.  Tỉ  lệ  hoàn  tất  phác  đồ  chung  của  ba  phác  đồ  là  60,64%.  Với  hai  phác  đồ  hiện  hành,  tỉ  lệ  hoàn  tất chung 64,57%.

5.

6.

7.

8.

Briggs  Antibody response of patients after postexposure rabies  vaccination  with small intradermal oses of purified  chick  embryo  cell  vaccine  or  purified  Vero  cell rabies vaccine.  Bulletin of the World Health Organization, 78(5): 693‐698.  CDC  (2010).  Use  of  a  reduced  (4‐dose)  vaccine  schedule  for  postexposure  prophylaxis  rabies.  to  prevent  human  Morbidity and mortality weekly report, RR‐2(59): 1‐7   Đinh Kim Xuyến (2003). Nghiên cứu đáp ứng kháng thể và  độ  an  toàn  của  vacxin  dại  Verorab  sản  xuất  tại  Pháp,  theo  phương pháp tiêm bắp và tiêm trong da trên người Việt Nam  tình nguyện. Y học dự phòng, 6(13): 134‐139.  Jackson  AC,  Johannsen  EC  (2008).  Rabies  and  other  Rhabdovirus  infections.  In:  Fauci  AS,  Braunwald  E  (eds).  Harrisonʹs Principle of Internal Medicine, Part 7, 17th ed, pp  1222‐1226. McGraw‐Hill Companies, Inc, eBook edition, New  York.  Knobel  DL,  Cleaveland  S  et  al  (2005).  Re‐evaluating  the  burden  of  rabies  in  Africa  and  Asia.  Bulletin  of  the  World  Health Organization, 83(5): 360‐368.  Nguyễn  Huy  Thành,  Thái  Hoạch  (1995).  Nhận  xét  về  số  người  tiêm  phòng  dại  và  chết  vì  bệnh  dại  tại  Hà  Tĩnh  năm  1993. Vệ sinh phòng dịch, 1(5): 84‐87.  Sudarshan MK, Rahman SA (2004). Assessing the burden of  rabies in India: WHO sponsored national multi‐centric rabies  survey  2003.  http://rabies.org.in/rabies‐publications/who‐ survey‐report. Accessed 04/2012: 27‐28.  Sudarshan  MK.  et  al  (2005).  Assessing  the  relationship  between  antigenicity  and  immunogenicity  of  human  rabies  vaccines. Human Vaccines, 1(5): 187‐190.

Với cả ba phác đồ, số mũi tiêm trung bình  mỗi  bệnh  nhân  đã  thực  hiện  là  3,75  mũi,  với  hai phác đồ đang sử dụng là TB5 và TTD4 thì  mũi  tiêm  trung  bình  mỗi  bệnh  nhân  đã  thực  hiện  lần  lượt  là  4,08  mũi  và  3,44  mũi.  Tỉ  lệ  hoàn  thành  3  mũi  tiêm  trở  lên  tính  chung  là  83,32%, theo hai phác đồ đang sử dụng là TB5  và  TTD4  thì  tỉ  lệ  này  lần  lượt  là  81,85%  và  85,59%.

9. WHO (2007). Rabies vaccines: WHO position paper. Weekly

epidemiological record, No. 49/50: 425‐435.

10. WHO (2010). Rabies vaccines: WHO position paper. Weekly

epidemiological record, No. 32: 309‐320.

11. WHO

(2010).  Immunization,  Vaccines  and  Biologicals  Immunity  to  rabies.  In:  The  Immunological  Basis  for  Immunization  Series,  Module  17:  Rabies,  pp  3‐9.  World  Health Organization, Geneva.

Khảo sát 7187 bệnh nhân sử dụng hai phác  đồ hiện hành là TB5 và TTD4 trong cùng thời  gian, chúng tôi nhận thấy, nhóm bệnh nhân nữ  có  khả  năng  hoàn  tất  phác  đồ  bằng  1,14  lần  bệnh  nhân  nam,  nhóm  tuổi  <15  có  khả  năng  hoàn  tất  phác  đồ  bằng  1,97  lần  nhóm  bệnh  nhân >=15 tuổi, bệnh nhân cư ngụ trong thị xã

143

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TÌNH HÌNH BỆNH NHÂN NHẬP CẢNH VÀO VIỆT NAM   QUA CÁC CỬA KHẨU TÂY NINH

Trần Phước Đoàn

∗ , Lê Hoàng San**

TÓM TẮT

Mở đầu: Trong những năm gần đây, trên thế giới cũng như các nước trong khu vực, dịch bệnh đang diễn

biến phức tạp và phát sinh ngày càng nhiều các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới.

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát mô hình bệnh tật từ những người Cam‐pu‐chia nhập cảnh vào Việt  Nam để khám và điều trị qua các cửa khẩu Tây Ninh và xác định tỉ lệ bệnh cúm A(H5N1) và bệnh tả trên  những bệnh nhân này.

Đối  tượng  và  phương  pháp  nghiên  cứu:  Một  nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  được  thực  hiện  từ  tháng  9/2009 đến tháng8/2011 tại các cửa khẩu Tây Ninh. Tất cả bệnh nhân nhập cảnh, lưu ý đến những triệu chứng:  sốt, ho, khó thở, tiêu chảy… và được phỏng vấn thông qua bộ câu hỏi để thu thập một số thông tin có liên quan  đến bệnh tật.

Kết  quả: Trong tổng số 1796 đối tượng điều tra, 1503 đối tượng mắc bệnh không truyền nhiễm và chấn  thương, chiếm tỉ lệ 83,7%, trong đó nổi bật là chấn thương do tai nạn giao thông hay tai nạn sinh hoạt (chiếm  17,8%), tai biến mạch máu não (15,6%) và  huyết  áp  cao  (5,6%).  Trong  số  55  mẫu  xét  nghiệm  từ  đối  tượng  nghiên cứu bị tiêu chảy, có 4 mẫu dương tính Vibrio cholerae O1, chiếm tỉ lệ 7,3% (khoảng tin cậy 95%: 0,4% ‐  14,1%). Trong tổng số 238 mẫu làm xét nghiệm bệnh cúm trong nghiên cứu này, kết quả dương tính chiếm  12,6%  (khoảng  tin  cậy  95%:  8,4%  ‐  16,8%),  trong  đó  dương  tính  với  cúm  A/H3N2  là  24  mẫu,  chiếm  tỉ  lệ  10,1% và dương tính với cúm A(H1N1) đại dịch năm 2009 là 6 mẫu, chiếm tỉ lệ 2,5%.

Kết luận: Nhóm bệnh nhập cảnh chủ yếu là nhóm bệnh không truyền nhiễm, trong đó ba loại bệnh có tỷ lệ  cao mắc cao nhất là tai nạn trong giao thông và trong sinh hoạt, tai biến mạch máu não và cao huyết áp. Đối với  các bệnh truyền nhiễm, chưa phát hiện trường hợp mắc cúm A(H5N1) nhưng ca bệnh cúm A(H1N1) đại dịch  năm 2009 chiếm tỉ lệ 10,2% trên tổng số nhóm bệnh truyền nhiễm và 12,6% trên tổng số ca nghi cúm. Ngoài ra,  ca bệnh tả chiếm tỉ lệ 1,4% trên tổng số nhóm bệnh truyền nhiễm và 7,3% trên tổng số ca tiêu chảy.

Từ khóa: bệnh truyền nhiễm, mô hình bệnh, cửa khẩu, bệnh tả, bệnh cúm, kiểm dịch y tế, Tây Ninh

ABSTRACT

SITUTATION OF PATIENTS ENTERING VIETNAM THROUGH TAY NINH BODER GATE

Tran Phuoc Doan, Le Hoang San

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 145 ‐ 150

Background:  For  recent  years,  epidemic  diseases  have  developed  in  complicated  ways  and  many  new

dangerous infectious diseases appear in the world as well as in regional countries..

Objectives:  To  Survey the disease model of people entering from Cambodia into Vietnam for examination  and treatment through Tay Ninh border gates and to identify the ratio of avian influenza A(H5N1) and cholera  over immigrant patients.

Methods: A cross‐sectional study was conducted from September 2009 to August 2011 at Tay Ninh border  gates.  All  immigrant  patients,  paid  special  attention  to  symptoms:  fever,  cough,  dyspnea,  cholera,…  and

∗ Trung tâm Kiểm dịch Y tế Quốc tế Tây Ninh   **: Viện Pasteur Tp.HCM  Tác giả liên lạc: BS. Trần Phước Đoàn

ĐT: 0913822478

Email: tranphuocdoankd@gmail.com

144

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  interviewed through a questionnaire to get information related to diseases..

Result:  Among  1796  immigrant  patients  surveyed,  1503  patients  got  non‐communicable  diseases  and  injuries, accounted for 83.7%, of which three diseases holding the highest ratio were trauma in traffic or domestic  accidents  (  17.8%),  cerebrovascular  accident  (15.6%)  and  hypertension  (5.6%).  Among  55  cholera  testing  samples  from  55  research  subjects,  there  were  four  samples  positive  for  Vibrio  cholerae  O1,  taking  7.3%  (confidence range 95%: 04% ‐ 14.1%). Among 238 flu testing samples in total, positive results occupied 12.6%  (confidence range 95%: 8.4% ‐ 16.8%), of which 24 samples were positive for A/H3N2 flu equal to 10.1% and 6  samples are positive for A(H1N1) đại dịch năm 2009 equal to 2.5%.

Conclusion: Two major groups of immigrant diseases are uninfectious at 83.7% and infectious at 16.3%.  For infectious diseases, although the research has not found any cases of A(H5N1) flu, cases of A(H1N1) đại dịch  năm 2009 flu found occupy 10.2% over total number of infectious diseases and 12.6% over suspected cases of flu.  Moreover, cases of cholera occupy 1.4% over total number of infectious diseases and 7.3% over cases of cholera.  For uninfectious diseases, three diseases holding the highest ratio are traffic accident, domestic accident (17.8%),  cerebrovascular accident (15.6%), hypertension (5.6%).

Keywords: infectious disease, model of disease, border gate, cholera, flu, health quarantine, Tay Ninh

ĐẶT VẤN ĐỀ

nghiệp và buôn bán nhỏ, chăn nuôi cá thể hộ gia  đình, gia súc gia cầm đa số thả rong, là điều kiện  để  dịch  bệnh  dễ  phát  triển.  Điển  hình  là  bệnh  cúm  A  (H5N1)  xảy  ra  trong  năm  2007  với  01  trường  hợp  tử  vong  tại  huyện  Mê‐mót  tỉnh  Kông‐pong‐chàm  giáp  với  tỉnh  Tây  Ninh.  Theo  thông  báo  của  Bộ  Y  tế  Cam‐pu‐chia  ngày  02/12/2008,  đã  có  08  trường  hợp  mắc  cúm  A  (H5N1) trên người và có 07 trường hợp tử vong  tại Cam‐pu‐chia(2).

Trong  những  năm  gần  đây,  trên  thế  giới  cũng  như  các  nước  trong  khu  vực,  dịch  bệnh  đang diễn biến phức tạp và phát sinh ngày càng  nhiều  các  bệnh  truyền  nhiễm  nguy  hiểm  mới.  Các nghiên cứu cho thấy một trong những biện  pháp hữu hiệu nhất để phòng chống dịch bệnh  lây lan vào Việt Nam và ngược lại là tăng cường  giám sát và xử lý triệt để dịch bệnh ngay từ đầu.  Để làm được điều này, kiểm dịch y tế tại các cửa  khẩu  cần  hoàn  thành  tốt  nhiệm  vụ  sàng  lọc  trong việc bảo vệ sức khỏe quốc gia. Tuy nhiên,  mặc  dù  y  tế  cửa  khẩu  đã  được  đầu  tư  và  phát  triển trong những năm vừa qua, nhưng cho đến  nay  tại  Tây  Ninh  vẫn  chưa  có  một  quy  trình  chuẩn  nhằm  giám  sát,  đánh  giá  và  xử  lý  các  bệnh truyền nhiễm đi vào Việt Nam qua các cửa  khẩu.  Một  trong  những  nguyên  nhân  cho  việc  chưa  định  hình  quy  trình  là  do  sự  thiếu  hụt  thông  tin  và  chưa  có  nghiên  cứu  khoa  học  nào  được thực hiện tại đây.

Chính vì vậy, để có thể định hình hệ thống  thu thập thông tin dự báo dịch bệnh và làm cơ  sở  cho  việc  lập  kế  hoạch  phòng  chống  dịch,  chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Tình hình bệnh  nhân nhập cảnh vào Việt Nam qua các cửa khẩu  Tây Ninh”. Nghiên cứu này nhằm khảo sát mô  hình  bệnh  tật  từ  Cam‐pu‐chia  nhập  cảnh  vào  Việt  Nam  khám  và  điều  trị  qua  các  cửa  khẩu  Tây  Ninh  và  đồng  thời  kết  hợp  tầm  soát  tỉ  lệ  bệnh  cúm  A(H5N1)  và  bệnh  tả  đối  với  những  bệnh nhân nhập cảnh vào Việt Nam qua các cửa  khẩu  tại  Tây  Ninh.  Nghiên  cứu  sau  khi  hoàn  thành  không  những  giúp  nhà  khoa  học,  nhà  quản  lý  hiểu  hơn  về  tình  hình  bệnh  truyền  nhiễm  nhập  cảnh  qua  các  cửa  khẩu  Tây  Ninh  mà còn giúp hình  thành  quy  trình  xử  lý  khi  có  dịch.

Tỉnh  Tây  Ninh  có  240  km  đường  biên  giới  giáp  với  Cam‐pu‐chia.  Cộng  đồng  dân  cư  các  huyện vùng biên giới của Cam‐pu‐chia giáp với  Việt Nam có nền kinh tế còn thấp, trình độ dân  trí và điều kiện vệ sinh kém, người dân có thói  quen không ăn chín uống sôi, y tế cơ sở gần như  không có. Đời sống người dân chủ yếu làm nông

145

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực  hiện trong thời gian từ 9/2009 đến 8/2011 tại các  cửa  khẩu  Tây  Ninh.  Vì  nghiên  cứu  nhằm  tầm  soát tỉ lệ bệnh tả và cúm nhập cảnh qua đường  biên  giới  nên  cỡ  mẫu  được  xác  định  dựa  vào  công  thức  ước  lượng  tỉ  lệ  bệnh  của  Cochcran  (1977) trong đó tỉ lệ kết cuộc ước định là 3%, sai  số  chấp  nhận  trong  nghiên  cứu  này  là  2%,  xác  suất  sai  lầm  loại  1  là  5%.  Cỡ  mẫu  tính  được  là  279 và dự trù mất mẫu thì nghiên cứu này chọn  300  mẫu  để  xét  nghiệm  trong  đó  60  mẫu  xét  nghiệm bệnh tả và 240 mẫu xét nghiệm cúm.

viên  trước  khi  tiến  hành  nghiên  cứu.  Điều  tra  viên là những người có kinh nghiệm nghiên cứu  và  đồng  thời  là  các  kiểm  dịch  viên  y  tế  tại  các  cửa khẩu nên sẽ đảm bảo khai thác tốt các thông  tin  từ  đối  tượng  nghiên  cứu.  Ngoài  ra,  bộ  câu  hỏi được thiết kế đúng với mục tiêu nghiên cứu,  cách dùng từ ngữ rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và  dễ  trả  lời  nên  cũng  góp  phần  hạn  chế  sai  lệch  thông  tin  khi  tiến  hành  thu  thập  dữ  liệu.  Hơn  nữa, để đảm bảo đối tượng có thể hiểu đúng các  thông tin cần khai  thác  thì  phiếu  điều  tra  được  thể hiện bằng hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng  Anh. Tuy nhiên, nghiên cứu viên có thể giao tiếp  với đối tượng bằng tiếng Khơ‐me khi cần thiết.  Không những thế, sai  lệch  chọn  lựa  được  kiểm  soát tốt nhờ việc bám  sát  các  tiêu  chí  nhận  vào  và  tiêu  chí  loại  ra  trong  nghiên  cứu.  Ngoài  ra,  điều  tra  viên  cũng  được  tập  huấn  tốt  về  cách  chọn đối tượng và  bắt  buộc  phải  tuân  thủ  theo  danh sách đã được chọn lựa. Việc tiến hành điều  tra còn có sự giám sát của nghiên cứu viên chính  nên  sẽ  giảm  thiểu  được  sai  số  do  chọn  lựa  đối  tượng.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Trong  thời  gian  nghiên  cứu,  tại  các  cửa  khẩu Tây Ninh, nghiên cứu viên (đồng thời là  kiểm dịch viên y tế) sẽ tiến hành điều tra tất cả  bệnh nhân nhập cảnh bao gồm: bệnh nhân có  giấy  chuyển  viện,  bệnh  nhân  tự  đi  khám  và  điều trị có những triệu chứng: sốt, ho, khó thở,  tiêu chảy… từ Cam‐pu‐chia vào Việt Nam qua  các cửa khẩu Tây Ninh. Nghiên cứu viên quan  sát  thể  trạng  và  khám  phát  hiện  những  triệu  chứng trên và sau đó tiến hành lấy mẫu bệnh  phẩm đối với những bệnh nhân có triệu chứng  trên  và  chuyển  mẫu  bệnh  phẩm  đi  làm  xét  nghiệm  để  chẩn  đoán  xác  định  bệnh  cúm,  tả.  Ngoài  ra,  nghiên  cứu  viên  cũng  tiến  hành  phỏng  vấn  đối  tượng  nhằm  khai  thác  một  số  thông  tin  liên  quan  đến  các  triệu  chứng  bệnh  thông qua phiếu điều tra.

Trong  thời  gian  nghiên  cứu,  có  tổng  cộng  1796 đối tượng thỏa các tiêu chí chọn lựa trong  nghiên cứu và đã đồng ý tham gia nghiên cứu.  Bệnh  không  phải  bệnh  truyền  nhiễm  có  1503  bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 83,7% trong đó nổi bật là  3 loại bệnh chiếm tỉ lệ cao là chấn thương do tai  nạn giao thông hay tai nạn sinh hoạt (chiếm tỉ lệ  17,8%), tai biến mạch máu não (15,6%) và huyết  áp cao (5,6%).

Bảng 1: Tình hình các loại bệnh (N=1796)

STT Tên bệnh Tỉ lệ % Số ca

1 267 14,9

2 3 4 235 84 74 13,1 4,7 4,1

Phiếu điều tra là một bộ câu hỏi gồm 30 câu  hỏi khai thác thông tin như: tiền sử bệnh, vệ sinh  trong  sinh  hoạt  (ăn  uống,  nguồn  nước,  vệ  sinh  tay  chân),  nơi  cư  trú  của  đối  tượng  trong  thời  gian  bệnh,  việc  chăn  nuôi  gia  cầm.  Số  liệu  sau  khi  thu  thập  về  được  kiểm  tra  tính  đầy  đủ  và  phù  hợp  của  thông  tin.  Những  phiếu  điều  tra  không đủ thông tin  sẽ  được  loại  ra.  Phiếu  điều  tra sau đó được đánh mã số và được nhập vào  máy  tính  và  được  phân  tích  bằng  phần  mềm  thống kê Epi info 6.0. Các chỉ số thống kê mô tả  chủ yếu sử dụng tần số và tỉ lệ phần trăm.

5 64 3,6

Sai  lệch  trong  nghiên  cứu  này  được  kiểm  soát tốt bằng cách tập huấn cẩn thận cho điều tra

6 62 3,5 Chấn thương do tai nạn giao thông + tai nạn sinh hoạt Tai biến mạch máu não Huyết áp cao Tiểu đường Tim mạch (suy tim, hở van tim, nhồi máu cơ tim…) Đường tiêu hóa (Xuất huyết bao tử, viêm dạ dày, đau bụng, rối loạn, tắc ruột…)

146

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

STT Tên bệnh Tỉ lệ %

Biểu đồ 1: số ca bệnh do tai nạn giao thông và tai  nạn sinh hoạt nhập cảnh theo thời gian

Tai biến MMN

Số ca 60 3,3 7

35

30

3,2 57 8

25

20

2,7 48 9

a c

2,6 10 46

ố s

15

10

5

2,3 42 11

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

2,3

2,1 38 13

tháng

1,4 26 14

Biểu đồ 2: số ca bệnh tai biến mạch máu não nhập  cảnh theo thời gian

Cao H/A

12

356 15 19,8

10

8

Ung thư (gan, phổi, xương) Bệnh đường hô hấp (lao phổi, tràn dịch màng phổi…) Bệnh về khớp xương (viêm khớp dạng thấp, cấp…) U não, lao màng não Đường tiết niệu (bí tiểu, suy thận, sỏi thận…) 12 Bệnh gan mật (sỏi mật, sỏi ống gan…) 42 Bệnh về máu (bạch cầu, suy tủy, thiếu hồng cầu…) Bệnh phụ khoa (rong kinh, xuất huyết âm đạo, u xơ tử cung…) Khác (ho ra máu, tâm thần phân liệt, đau đầu, viêm xoang, trĩ, suy nhược cơ thể, viêm thanh quản, viêm tai…) Tiêu chảy (nghi bệnh tả) Nghi cúm 16 17 Tổng cộng: 3,1 55 238 13,3 1796 100

a c

6

ố s

4

2

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

tháng

Biểu đồ 3: số ca bệnh do cao huyết áp nhập cảnh theo  thời gian

Bệnh  nhân  nhập  cảnh  mắc  bệnh  phụ  khoa  và các bệnh về máu chiếm tỉ lệ thấp nhất với tỉ lệ  lần  lượt  là  1,4%  và  2,1%.  Các  tỉ  lệ  bệnh  tật  này  phù hợp với tình hình thực tế tại các trạm kiểm  dịch y tế quốc tế cửa khẩu. Tuy  nhiên,  tỉ  lệ  các  loại bệnh này cũng dao động tùy vào thời điểm  trong năm. Ví dụ, người nhập cảnh với các chấn  thương  do  tai  nạn  giao  thông  và  tai  nạn  sinh  hoạt tăng cao vào các tháng giữa năm (tháng 5,  6,  7)  và  cao  nhất  là  vào  tháng  cuối  năm  (tháng  12) trong khi tỉ lệ đối tượng nhập cảnh mắc bệnh  tai biến mạch máu não lại biến động trong suốt  năm  nhưng  cao  nhất  là  vào  khoảng  tháng  7.  Chính vì  vậy,  việc  hiểu  được  mô  hình  bệnh  tật  này và diễn tiến theo mùa sẽ giúp cho kiểm dịch  y tế quốc tế tại Tây Ninh có chương trình hỗ trợ  và ứng phó kịp thời.

TNGT+TNSH

35

30

25

20

a c

ố s

15

10

5

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

tháng

Số  bệnh  nhân  nghi  ngờ  mắc  bệnh  truyền  nhiễm là 293, chiếm tỉ lệ 16,3% trong tổng số đối  tượng trong nghiên cứu, trong đó số nghi cúm là  238 bệnh nhân (chiếm 81,2%) và nghi bệnh tả là  55  bệnh  nhân  (chiếm  18,8%).  Trong  tổng  số  55  mẫu xét nghiệm bệnh tả từ 55 đối tượng nghiên  cứu,  có  4  mẫu  dương  tính  Vibrio  cholerae  O1,  chiếm  tỉ  lệ  7,3%  (khoảng  tin  cậy  95%:  0,4%  ‐  14,1%).  Qua  khảo  sát  30  ca  dương  tính  có  50%  tiếp  xúc  với  gia  cầm  trong  vòng  7  ngày  qua.  Đồng thời có số bệnh nhân ăn thịt gia cầm trong  vòng 7 ngày vừa qua kể từ ngày phát hiện triệu  chứng,  chiếm  tỉ  lệ  46,7%.  Tuy  nhiên,  điều  này  chỉ  có  ý  nghĩa  nếu  ca  cúm  do  virút  cúm  A(H5N1)  từ  gia  cầm  lây  qua  người,  với  cúm  mùa ở người chỉ lây truyền từ người sang người  thì  việc  tiếp  xúc  gia  cầm  không  làm  tăng  nguy  cơ nhiễm cúm mùa(5). Tuy vậy, với việc số đông  người  ở  gần  khu  chăn  nuôi  gia  cầm,  thường

147

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

1.127.962 người, phát hiện 1.458 ca nghi ngờ, có  317  ca  dương  tính  với  cúm  A(H1N1)  đại  dịch  năm 2009, chiếm tỉ lệ 21,7%(4).

Nghiên cứu Y học  xuyên  tiếp  xúc  gia  cầm,  giết  mỗ  gia  cầm  thì  nguy  cơ  mắc  cúm  gia  cầm  A(H5N1)  là  rất  lớn  nếu  có  mầm  bệnh  trên  gia  cầm,  đồng  thời  gia  tăng  nguy  cơ  tái  tổ  hợp  yếu  tố  di  truyền  giúp  cúm  A(H5N1)  có  khả  năng  lây  truyền  dễ  dàng  từ người sang người như cúm mùa, có thể khởi  đầu cho một đại dịch cúm mới (đạt đủ 3 tiền đề  gây đại dịch cúm của WHO)(3).

Nguyên  nhân  của  sự  khác  biệt  này  là  quy  mô tiếp nhận người nhập cảnh vào Việt Nam tại  Tây  Ninh  và  tại  Tp.HCM  có  khác  nhau.  Nếu  như tại Tây Ninh chủ yếu là người Cam‐pu‐chia  nhập cảnh qua đường bộ hoặc người dân trong  khu vực Châu Á (mà chủ yếu là Đông Nam Á)  thì tại Tp.HCM người nhập cảnh có thể  đến  từ  nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới bao gồm  cả Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và cả  Châu  Úc  với  số  lượng  lớn.  Ngoài  ra,  các  đặc  điểm  về  vệ  sinh  phòng  bệnh,  lối  sống  ở  các  nhóm  đối  tượng  cũng  khác  nhau  (giữa  người  Cam‐pu‐chia  và  các  nước  khác  trên  thế  giới).  Hơn nữa, bệnh cúm A(H1N1) đại dịch năm 2009  xuất  phát  từ  Châu  Mỹ  nên  khi  Tp.HCM  tiếp  nhận nhiều người nhập cảnh từ Châu Mỹ sẽ có  tỉ lệ cao hơn tại Tây Ninh.

Trong tổng số 238 mẫu làm xét nghiệm bệnh  cúm trong nghiên cứu này, kết quả dương tính  chiếm 12,6% (khoảng tin cậy 95%: 8,4% ‐ 16,8%),  trong  đó  dương  tính  với  cúm  A/H3N2  là  24  mẫu,  chiếm  tỉ  lệ  10,1%  và  dương  tính  với  cúm  A(H1N1) đại dịch năm 2009 là 6 mẫu, chiếm tỉ lệ  2,5%.  Không  phát  hiện  trường  hợp  cúm  A(H5N1)  nào.  Kết  quả  này  là  phù  hợp  với  các  con số thống kê của các cơ quan quản lý. Ví dụ,  theo báo cáo số  510/BC‐BYT  thì  mặc  dù  từ  đầu  năm  2011  đến  20/6/2011  cả  nước  có  498  trường  hợp mắc cúm A(H1N1) đại dịch năm 2009 tại 40  địa phương, trong đó có 13 trường hợp tử vong  tại  10  địa  phương  nhưng  từ  đầu  năm  2011  tới  nay, Việt Nam chưa ghi nhận ca bệnh nhân cúm  A(H5N1) nào. Kết quả từ nghiên cứu này cũng  cho thấy, tương tự như các địa phương khác, tại  các cửa khẩu tại Tây Ninh vẫn tiếp tục ghi nhận  rải  rác  trường  hợp  nhiễm  virus  cúm  A(H1N1)  đại dịch năm 2009 nhưng không ghi nhận các ổ  dịch lớn trong cộng đồng(2).

Tuy  nhiên,  nếu  so  sánh  tỉ  lệ  12,6%  trong  nghiên cứu này với các tỉnh khác như An Giang,  Quảng Trị, Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh thì tỉ  lệ này lại rất đáng quan tâm. Bởi vì, theo báo cáo  của các trung tâm KDYTQT tại các tỉnh trên thì  năm 2009, cửa khẩu các tỉnh này vẫn chưa phát  hiện ca dương tính với bệnh cúm nào nhập cảnh  vào  Việt  Nam.  Tuy  nhiên,  điều  cần  quan  tâm  khác  lại  là  việc  các  tỉnh  này  chưa  có  quy  trình  kiểm tra và giám sát bệnh(1).

Qua  phân  tích  cho  thấy  bệnh  cúm  chủ  yếu  diễn  ra  từ  tháng  5  đến  tháng  10,  cao  điểm  là  tháng  8  hàng  năm.  Điều  này  cũng  tương  đối  phù  hợp  với  kết  quả  giám  sát  cúm  trọng  điểm  khu vực phía Nam của Viện Pasteur Tp.HCM là  cúm  A  (H3N2)  gia  tăng  từ  tháng  4,  đạt  đỉnh  ở  tháng 6‐7 và xuống thấp vào tháng 9 hàng năm.

Ngoài  ra,  tỉ  lệ  dương  tính  với  bệnh  cúm  trong  nghiên  cứu  này  (12,6%)  cũng  tương  tự  như theo thống kê định kỳ tại Tây Ninh. Ví dụ,  theo báo cáo của TT KDYTQT Tây Ninh 9 tháng  đầu  năm  2009  thì  trong  tổng  số  hành  khách  nhập  cảnh  (425.746  lượt)  phát  hiện  được  243  khách có triệu chứng nghi ngờ. Kết quả đã có 28  trường  hợp  dương  tính  với  cúm  A(H1N1)  đại  dịch năm 2009 đi qua cửa khẩu Mộc Bài, chiếm  tỉ  lệ  11,5%.  Tuy  nhiên,  tỉ  lệ  này  lại  thấp  hơn  so  với nghiên cứu tại cửa khẩu quốc tế tại sân bay  Tân  Sơn  Nhất.  Theo  báo  cáo  của  Trung  tâm  KDYTQT  Tp.HCM,  trong  tổng  số  khách  nhập  cảnh được đo nhiệt độ tại sân bay Tân Sơn Nhất  là:  từ  ngày  26/4/2009  đến  ngày  10/9/2009

148

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

16

15

14

12

10

9

a c

8

ố S

6

4

4

2

1

1

0

0

0

0

0

0

0

0

1

2

3

4

7

8

9

10

11

12

5

6

Tháng

Để  chủ  động  phòng  chống  dịch  xâm  nhập  và lây lan, cần giám sát tất cả các cửa khẩu giáp  với Cam‐pu‐chia, hạn chế tối đa nguy cơ lây lan  mầm bệnh bằng cách xây dựng phương án sẵn  sàng  phòng  chống  dịch  bệnh,  tăng  cường  hoạt  động  KDYTBG,  giám  sát  chặt  các  trường  hợp  cúm  A(H1N1)  pdm2009,  cúm  A  (H5N1),  bệnh  tả...  cần  có  quy  trình  giám  sát  cụ  thể;  chuẩn  bị  sẵn sàng cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc điều  trị  để  chủ  động  phòng  ngừa  trường  hợp  dịch  xảy ra.

Biểu đồ 4: Ca bệnh cúm xâm nhập qua cửa khẩu theo  thời gian

KẾT LUẬN

Duy  trì  và  tiếp  tục  nâng  cao  năng  lực  hệ  thống  thu  thập  thông  tin  dịch  bệnh  tại  các  cửa  khẩu,  kịp  thời  làm  cơ  sở  dự  báo  dịch  để  kiểm  soát, không để các dịch bệnh truyền nhiễm xâm  nhập vào Việt Nam qua các cửa khẩu Tây Ninh.

Tăng cường công tác truyền thông GDSK tại  các  cửa  khẩu  về  phòng,  chống  dịch  cúm  A(H1N1)  đại  dịch  năm  2009,  cúm  A(H5N1)  và  các bệnh dịch khác (đặc biệt dịch tiêu chảy cấp  nguy hiểm).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2. 3.

4.

Hai  nhóm  bệnh  nhập  cảnh  chủ  yếu:  nhóm  bệnh  không  truyền  nhiễm  chiếm  tỉ  lệ  83,7%  và  nhóm bệnh truyền nhiễm chiếm tỉ lệ 16,3%. Đối  với các bệnh truyền nhiễm, mặc dù nghiên cứu  chưa  phát  hiện  trường  hợp  nào  mắc  cúm  A(H5N1) nhưng ca bệnh cúm A(H1N1) đại dịch  năm  2009  chiếm  tỉ  lệ  10,2%  trên  tổng  số  nhóm  bệnh truyền nhiễm và 12,6% trên tổng số ca nghi  cúm. Ngoài ra, ca  bệnh  tả  chiếm  tỉ  lệ  1,4%  trên  tổng  số  nhóm  bệnh  truyền  nhiễm  và  7,3%  trên  tổng số ca tiêu chảy. Đối với bệnh không truyền  nhiễm thì ba loại bệnh có tỉ lệ cao nhất là tai nạn  giao thông và tai nạn trong sinh hoạt (17,8%), tai  biến mạch máu não (15,6%), và bệnh cao huyết  áp (5,6%).

5.

KIẾN NGHỊ

Bộ Y tế (2011), Hội nghị về công tác kiểm dịch y tế biên giới  với sự tham dự của các chuyên gia y tế, đại diện Sở Y tế các  tỉnh, thành phố trong cả nước, ngày 16‐12 tại Tp.Hồ Chí Minh.  Tổ chức Y tế Thế giới (2005), Điều lệ Y tế Quốc tế.  Tổ chức Y tế Thế giới (2011), Hướng dẫn chẩn đoán phòng thí  nghiệm và giám sát virus học bệnh cúm. Mạng lưới giám sát  cúm toàn cầu. Geneva.  Trung tâm Kiểm dịch Y tế Quốc tế ‐ Tp. Hồ Chí Minh (2010),  Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2010 và kế hoạch năm 2011.  Viện Vệ sinh Y tế công cộng (2009), Cập nhật kiến thức Y tế  Dự phòng số 1, quý 1/2009.

149

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ÁP DỤNG PHẦN MỀM WHO ANTHRO ĐỂ ĐÁNH GIÁ   TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ DƯỚI 1 TUỔI   Ở MỘT SỐ PHƯỜNG THUỘC THÀNH PHỐ HUẾ

Nguyễn Văn Đạt*,Hoàng Thị Cẩm Nhung*, Lê Thị Nhung*, Võ Thị Ngọc Diễu*, Đinh Thanh Huề*,

Hoàng Thị Bạch Yến*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng là công việc thường quy đối với cán bộ công tác trong lĩnh  vực dinh dưỡng và nhi khoa. Ở Việt Nam, việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng dựa vào quần thể tham khảo  NCHS đã được áp dụng ngay từ đầu những năm 1980. Năm 2006 Tổ chức Y tế thế Thế giới khuyến cáo sử  dụng quần thể tham khảo mới. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm hai mục tiêu.

Mục tiêu: Sử dụng phần mềm WHO Anthro để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 1 tuổi ở một  số phường ở thành phố Huế. Đánh giá mối tương quan giữa các chỉ số cân nặng theo tuổi, chiều dài theo tuổi,  cân nặng theo chiều dài.

Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, đánh giá tình trạng dinh  dưỡng của 387 trẻ dưới 1 tuổi hiện đang sinh sống tại thành phố Huế. Sử dụng phương pháp nhân trắc học dinh  dưỡng để thu thập cân nặng, chiều dài nằm của trẻ, sau đó sử dụng phần mềm WHO Anthro của Tổ chức Y tế  Thế giới để tính toán các chỉ số cân nặng theo tuổi; chiều cao theo tuổi; cân nặng theo chiều cao nhằm đánh giá  tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Các thông tin khác được thu thập thông qua phỏng vấn bà mẹ từ tháng 6/2009  đến tháng 4/2010.

Kết  quả: Dùng phần mềm WHO Anthro cho kết quả chính xác, thuận lợi và nhanh chóng với tỷ lệ suy  dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm lần lượt là 2,84%, 5,68% và 3,61%. 2. Có mối tương quan giữa cân  nặng  theo  tuổi  với  chiều  dài  theo  tuổi  (r=‐0,659,  p<0,001);  cân  nặng  theo  tuổi  với  cân  nặng  theo  chiều  dài  (r=0,612, p<0,001); chiều dài theo tuổi với cân nặng theo chiều dài (r=0,142, p<0,05).

Kết luận: Phần mềm WHO Anthro mang lại nhiều lợi ích trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em, dễ  dàng, thuận tiện, chính xác, giúp loại bỏ sai số khi tính tuổi, vốn thường xảy ra khi không có sự thống nhất giữa  các điều tra viên trong các điều tra đánh giá trình trạng dinh dưỡng của trẻ. 2. Phần mềm WHO Anthro cho giá  trị Z‐score cụ thể, đồng thời hiển thị giá trị Z‐score của trẻ trên biểu đồ.

Từ khóa: WHO Anthro, tình trạng dinh dưỡng, trẻ dưới 1 tuổi, thành phố Huế.

ABSTRACT

APPLYING WHO ANTHRO SOFTWARE FOR ASSESSING NUTRITIONAL STATUS OF INFANTS IN  SOME PRECINTS, HUE CITY

Nguyen Van Dat, Hoang Thi Cam Nhung, Le Thi Nhung, Vo Thi Ngoc Dieu, Dinh Thanh Hue,

Hoang Thi Bach Yen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 151 ‐ 156

Background:  Assessing  nutritional  status  is  a  common  activity  of  pediatricians  and  nutritionists.  In  Vietnam,  the  National  Center  for  Health  Statistics  (NCHS)  reference  had  been  used  from  beginning  of  1980s.  In  2006,  the  World  Health  Organization  recommended  to  use  WHO  standards  for  assessing

* Đại học Y – Dược Huế  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Đạt

ĐT: 0945528776   Email: vandatht@gmail.com

150

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nutritional status of children. This study was conducted with two objectives.

Objectives:  Using  WHO  Anthro  software  for  assessing  nutritional  status  of  infants  in  some  precints  in

Hue city. Finding out the relationship between weight for age, length for age, and weight for length

Methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  from  June  2009  to  April  2010.  387  infants  who  were  living in Hue city were involved in the study. The weight, length, age of the infants was measured and others  information were collected by interviewing their mothers. WHO anthro software was used to calculate weight for  age, length for age, and weight for length for assessing their nutritional status.

Result: WHO Anthro software helped to assess nutritional status of infants rapidly and conveniently with  high accuracy. Prevalence of underweight, stunting and wasting were 2.84%, 5.68% and 3.61% respectively.  There were correlations between weight for age and length for age (r = ‐0.659, p<0.001); between weight for age  and weight for length (r=0.612, p<0.001); between length for age and weight for length (r=0.142, p<0.05).

Conclusion:  WHO  Anthro  software  is  very  useful  for  assessing  nutritional  status  of  children.  It  is  very  simple, convenience, and precise to use the software. It also helps to prevent a common error caused by collectors  when counting age of the children. WHO Anthro software displays exact Z‐score value in number and displays  the score in graph.

Keywords: WHO Anthro, nutritional status, infants, Hue city

ĐẶT VẤN ĐỀ

nặng  theo  tuổi,  chiều  dài  theo  tuổi,  cân  nặng  theo chiều dài.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Trẻ dưới 1 tuổi tại thành phố Huế.

Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Cỡ mẫu

Tính theo công thức(3)  p

p

)

Zn

1( − 2 d

2 = α 2

Với độ tin cậy 95% (α= 0,05) thì Z α /2= 1,96.

p: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi

trên toàn quốc năm 2008 (p=19,9%)(5).

d: mức chính xác mong muốn, chọn d = 0,04

Từ  đó  tính  được  cỡ  mẫu  tối  thiểu  cần  đạt  được  là  n  =  382,72.  Thêm  1%  dự  phòng,  tính  được cỡ mẫu trong nghiên cứu này là 387.

Hiện nay, suy dinh dưỡng đóng vai trò trực  tiếp hoặc gián tiếp đến 40 ‐ 50% trường hợp của  10,9  triệu  trường  hợp  tử  vong  hàng  năm  ở  trẻ  em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới(6). Đánh giá tình  trạng  dinh  dưỡng  là  công  việc  thường  quy  đối  với  cán  bộ  công  tác  trong  lĩnh  vực  dinh  dưỡng  và  nhi  khoa,  giúp  phát  hiện,  chẩn  đoán  các  rối  loạn do thiếu, thừa dinh dưỡng để từ đó có biện  pháp can thiệp kịp thời. Ở Việt Nam, việc đánh  giá  tình  trạng  dinh  dưỡng  dựa  vào  quần  thể  tham  khảo  NCHS  (National  Center  for  Health  Statistics) đã được áp dụng ngay từ đầu những  năm  1980.  Năm  2006  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  khuyến  cáo  sử  dụng  quần  thể  tham  khảo  mới  của Tổ chức Y tế Thế giới vì đây là quần thể đáp  ứng  được  nhiều  tiêu  chí  nhất  cho  tất  cả  trẻ  em  trên  toàn  thế  giới(1).  Phần  mềm  WHO  Anthro  của Tổ chức Y tế Thế giới ra đời từ năm 2006, sử  dụng quần thể tham khảo WHO là công cụ hữu  ích giúp đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ  em  từ  0  đến  60  tháng  tuổi(4).  Nghiên  cứu  này  được thực hiện nhằm hai mục tiêu:

Phương pháp chọn mẫu

Sử dụng phương pháp chọn mẫu tầng tỷ lệ.

Sử  dụng  phần  mềm  WHO  Anthro  để  đánh  giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 1 tuổi ở  một số phường ở thành phố Huế.

Đánh giá mối tương quan giữa các chỉ số cân

Thành  phố  Huế  có  27  đơn  vị  hành  chính,  gồm  24  phường  và  3  xã.  Chúng  tôi  tiến  hành

151

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

tế  Thế  giới  đã  được  lập  trình  trong  phần  mềm  WHO Anthro như sau:

Bảng 1: Các chỉ số phát triển(8)  Độ lệch chuẩn (SD)

Các chỉ số phát triển Cân nặng theo tuổi

Chiều dài theo tuổi (Xem chú thích 1) Bình thường Trên 3 Trên 2

(Xem chú thích 2) Trên 1 Bình thường Cân nặng theo chiều dài Béo phì Thừa cân Có nguy cơ thừa cân (Xem chú thích 3)

Bình thường Bình thường Bình thường 0 (trung vị)

Bình thường Dưới -1 Bình thường Bình thường

Nghiên cứu Y học  chọn chủ định 2 phường và 2 xã (1 phường, 1 xã  phía  Bắc  và  1  phường,  1  xã  phía  Nam  Thành  phố Huế). Chúng tôi chọn được xã Hương Long,  phường Phú Thuận, xã Thủy Xuân, phường Phú  Hội.  Tại  mỗi  xã,  phường  được  chọn,  dựa  vào  danh sách trẻ <1 tuổi được quản lý tại trạm y tế,  chúng tôi tính toán để có được số cá thể cần thiết  cho mỗi tầng với tỷ lệ mỗi tầng lần lượt là 0,271;  0,209; 0,266; 0,253, sau đó lấy hệ số của mỗi tầng  nhân  với  cỡ  mẫu  của  nghiên  cứu  chúng  tôi  có  được số cá thể của mỗi tầng lần lượt là 105; 81;  103;  98.  Cuối  cùng  chúng  tôi  tiến  hành  chọn  ngẫu nhiên các cá thể trong mỗi tầng để có đủ cỡ  mẫu cần thiết.

Dưới -2 Nhẹ cân Gầy còm Thấp còi (Xem chú thích 4)

Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 6/2009 đến tháng 4/2010.

Gầy còm nặng Dưới -3 Thấp còi nặng (Xem chú thích 4)

Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu

Chú thích:

Sử  dụng  phương  pháp  nhân  trắc  học  dinh  dưỡng để thu thập cân nặng, chiều dài nằm của  trẻ,  sau  đó  sử  dụng  phần  mềm  WHO  Anthro  của Tổ chức Y tế Thế giới để đánh giá tình trạng  dinh dưỡng của trẻ.

Đứa trẻ trong ô này rất cao. Chiều cao hiếm  khi là vấn đề, trừ trường hợp quá cao có thể do  rối loạn nội tiết, ví dụ như một khối u sản sinh  hormon  tăng  trưởng.  Nếu  nghi  ngờ  đứa  trẻ  có  rối  loạn  nội  tiết  thì  nên  chuyển  đứa  trẻ  đến  chuyên gia để được đánh giá (ví dụ trẻ quá cao  so với tuổi trong khi bố, mẹ đứa trẻ có chiều cao  bình thường).

Phần mềm WHO Anthro sử dụng hai quần  thể so sánh là NCHS và quần thể tham khảo mới  của Tổ chức Y tế Thế giới để đánh giá tình trạng  dinh dưỡng tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Năm  2007,  Hội  Nhi  khoa  Việt  Nam  đưa  ra  khuyến  nghị  về  nhu  cầu  dinh  dưỡng  cho  trẻ  em  Việt  Nam  và  khuyến  nghị  sử  dụng  chuẩn  tăng  trưởng 2006 của Tổ chức Y tế Thế giới (2).

Một đứa trẻ có cân nặng theo tuổi thuộc các  ô này có thể có vấn đề về tăng trưởng nhưng tốt  hơn nên đánh giá cân nặng theo chiều dài/chiều  cao hoặc BMI theo tuổi.

Nếu chấm cân nặng theo chiều dài trên 1 thì  có  thể  có  nguy  cơ.  Đường  biểu  diễn  hướng  lên  phía 2 SD xác định nguy cơ.

Một đứa trẻ bị thấp còi hoặc thấp còi nặng có

thể trở nên thừa cân.

(IMCI:

Phần mềm WHO Anthro cho phép đánh giá  tất cả các chỉ tiêu liên quan đến tình trạng dinh  dưỡng của trẻ như cân nặng theo tuổi, cân nặng  theo  chiều  cao/chiều  dài  (chiều  dài  đối  với  trẻ  dưới 2 tuổi và chiều cao đối với trẻ từ 2 tuổi trở  lên),  chiều  cao/chiều  dài  theo  tuổi,  BMI  theo  tuổi,  chu  vi  vòng  đầu  theo  tuổi,  chu  vi  vòng  cánh  tay  theo  tuổi,  nếp  gấp  da  cơ  tam  đầu  và  nếp gấp da dưới xương bả vai theo tuổi.

Ô  này  liên  quan  đến  thuật  ngữ  rất  nhẹ  cân  trong  chương  trình  Lồng  ghép  chăm  sóc  trẻ  bệnh  Integrated  Management  of  Childhood Illness).

Rất nhẹ cân (Xem chú thích 5)

Phân tích và xử lí số liệu

Sử dụng phần mềm WHO Anthro, SPSS 15.0

Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  sử  dụng  các  chỉ  số:  cân  nặng  theo  tuổi,  chiều  dài  theo  tuổi,  cân  nặng  theo  chiều  dài  để  đánh  giá  tình  trạng dinh dưỡng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y

và MedCalc để phân tích và xử lý số liệu.

152

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ

Đối  tượng  nghiên  cứu  gồm  387  trẻ  dưới  1  tuổi (cách tính tháng tuổi theo quy định của Tổ  chức Y tế Thế giới), trong đó có 208 nam và 179  nữ, tỷ lệ nam/nữ = 1,16.

Phân bố tháng tuổi của trẻ

Phân  bố  theo  tháng  tuổi  của  nhóm  trẻ  nghiên cứu tương đối đồng đều. Nhóm 0 tháng  tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (1,0%), nhóm 2 tháng  tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (12,7%).

Biểu đồ 1: Tương quan giữa cân nặng theo tuổi với  chiều dài theo tuổi

Bảng 1: Tình trạng dinh dưỡng của trẻ

Tình trạng dinh dưỡng n %

Có  mối  tương  quan  nghịch  chiều  giữa  cân  nặng theo tuổi với chiều dài theo tuổi r = ‐ 0,659  (p<0,001).

Cân nặng theo tuổi

Rất nhẹ cân 5 1,29

Nhẹ cân 6 1,55

Tương  quan  giữa  cân  nặng  theo  tuổi  với  cân nặng theo chiều dài

Bình thường 376 97,16

Chiều dài theo tuổi

Thấp còi nặng 11 2,84

Thấp còi 11 2,84

Bình thường 365 94,32

Cân nặng theo chiều dài

Rất gầy còm 4 1,03

Gầy còm 10 2,58

Bình thường 353 91,21

Thừa cân - béo phì 20 5,17

Biểu đồ 2: Tương quan giữa cân nặng theo tuổi với  cân nặng theo chiều dài

Có  mối  tương  quan  thuận  chiều  giữa  cân  nặng  theo  tuổi  với  cân  nặng  theo  chiều  dài  r  =  0,612 (p<0,001).

Đánh  giá  dựa  vào  cân  nặng  theo  tuổi  thì  trong số 387 trẻ được nghiên cứu có 11 (2,84%)  trẻ bị suy dinh dưỡng (SDD) thể nhẹ cân.

Tỷ  lệ  SDD  thể  thấp  còi  (stunting)  là  5,68%,

Tổng 387 100,0

Tương  quan  giữa  chiều  dài  theo  tuổi  với  cân nặng theo chiều dài

trong đó có 2,84% trẻ bị thấp còi nặng.

Có  14  (3,61%)  trẻ  bị  SDD  thể  gầy  còm  (wasting),  trong  đó  có  1,03%  trẻ  bị  gầy  còm  nặng. Đối nghịch với tình trạng đó, có 20 (5,17%)  trẻ bị thừa cân và béo phì.

Nhận  xét  về  mối  tương  quan  giữa  các  chỉ  số  Tương quan giữa cân nặng theo tuổi với chiều  dài theo tuổi

Biểu đồ3: Tương quan giữa chiều dài theo tuổi với

153

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  cân nặng theo chiều dài

Về phần mềm WHO Anthro

Sử dụng phần mềm WHO Anthro có một số

ưu điểm như sau:

Có  mối  tương  quan  thuận  chiều  giữa  chiều  dài  theo  tuổi  với  cân  nặng  theo  chiều  dài  r  =  0,142 (p<0,05).

BÀN LUẬN

Về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 1 tuổi

Xác định chính xác tháng tuổi, ngày tuổi của  trẻ,  giúp  hạn  chế  sai  số  giữa  các  điều  tra  viên,  vốn rất thường gặp trong các điều tra liên quan  nếu thiếu sự thống nhất ngay từ đầu.

Cho giá trị Z‐score cụ thể, đồng thời hiển thị  giá  trị  Z‐score  của  trẻ  trên  biểu  đồ.  Nhờ  vậy  chúng tôi có thể tính toán được tương quan giữa  các chỉ số một cách chính xác và biết được vị trí  các  chỉ  số  của  trẻ  trên  biểu  đồ  một  cách  trực  quan.

Ở nước ta, trong những năm gần đây đã có  sự  phấn  đấu  nỗ  lực  nhằm  giảm  tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 3  tuổi vì đây đối tượng dễ mắc các bệnh tật, tỷ lệ  các bệnh lý về dinh dưỡng tập trung chủ yếu ở  đối tượng này nếu không được quan tâm chăm  sóc đúng mực, hơn nữa ở đối tượng này cơ thể  đang phát triển, cần phải có những nghiên cứu  theo  dõi  để  đánh  giá  tình  trạng  dinh  dưỡng,  phát  triển  tâm  vận  động  của  trẻ,  từ  đó  có  biện  pháp can thiệp kịp thời cho cộng đồng.

Phần  mềm  này  có  sử  dụng  các  chỉ  số  đánh  giá tình trạng dinh dưỡng mới của Tổ chức Y tế  Thế  giới  như  BMI  theo  tuổi,  chu  vi  vòng  đầu  theo  tuổi,  chu  vi  vòng  cánh  tay  theo  tuổi,  nếp  gấp da cơ tam đầu và nếp gấp da dưới xương bả  vai  theo  tuổi  (không  có  khi  sử  dụng  quần  thể  NCHS).  Đây  mới  chỉ  là  nghiên  cứu  bước  đầu,  chúng  tôi  sẽ  sử  dụng  phần  mềm  này  để  tiến  hành nghiên cứu sâu hơn với đầy đủ các chỉ số.

Sử  dụng  phần  mềm  này  thuận  tiện,  nhanh

Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng năm  2000,  tỷ  lệ  SDD  ở  nhóm  trẻ  dưới  12  tháng  tuổi  các  thể  nhẹ  cân,  thấp  còi,  gầy  còm  trên  tương  ứng  là  12,9%,  19,0%  và  6,0%  (7),  cao  hơn  có  ý  nghĩa thống kê so với nghiên cứu của chúng tôi  (p<0,001). Nguyên nhân có thể do:

chóng, dễ dàng, có thể áp dụng cho cộng đồng.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên đối  tượng trẻ dưới 1 tuổi – lứa tuổi còn bú mẹ ‐ nên  còn  chịu  ảnh  hưởng  tốt  của  sữa  mẹ,  đồng  thời  thời  gian  này  chưa  đủ  dài  để  có  thể  có  những  ảnh hưởng mạn tính đến cân nặng, chiều dài của  trẻ.

Dùng  phần  mềm  WHO  Anthro  trong  đánh  giá  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  trẻ  dưới  1  tuổi  cho kết quả chính xác, thuận lợi và nhanh chóng  với tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi,  gầy còm lần lượt là 2,84%, 5,68%, và 3,61%.

Tác  động  tích  cực  của  các  hoạt  động  nhằm  nỗ lực làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em của  các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Sử  dụng  phầm  mềm  này  dễ  dàng,  thuận  tiện, chính xác, giúp loại bỏ sai số khi tính tuổi,  vốn thường xảy ra khi không có sự thống nhất  giữa các điều tra viên trong các điều tra đánh giá  trình trạng dinh dưỡng của trẻ.

Có mối tương quan giữa cân nặng theo tuổi  với chiều dài theo tuổi (r = ‐0,659, p<0,001); giữa  cân nặng theo tuổi với cân nặng theo chiều dài (r  = 0,612, p<0,001); giữa chiều dài theo tuổi với cân  nặng theo chiều dài (r = 0,142, p<0,05).

KIẾN NGHỊ

Phần mềm WHO Anthro đơn giản, dễ thực

Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận có  20  (5,17%)  trẻ  bị  thừa  cân  và  béo  phì  dựa  theo  cân nặng theo chiều dài. Đây là điểm cần lưu ý  vì  hiện  nay  thừa  cân  và  béo  phì  cũng  đang  là  vấn  đề  dinh  dưỡng  cộng  đồng  quan  trọng  bởi  một vấn đề mới xuất hiện từ mấy năm gần đây  ở một số cộng đồng (khu vực thành thị có mức  sống cao hơn) là tình trạng gia tăng một số bệnh  mạn  tính  có  liên  quan  tới  dinh  dưỡng  không  hợp lý như béo phì, tim mạch, đái tháo đường,  tăng huyết áp.

154

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

4.

5.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hiện, đề nghị phổ biến và tập huấn rộng rãi. Đặc  biệt là đối tượng cán bộ phụ trách Dân số và Kế  hoạch hóa gia đình.

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Đinh Thanh Huề (2005), Phương pháp dịch tễ học, Nhà xuất  bản Y học.  Hội  Nhi  khoa  Việt  Nam  (2007),  Khuyến  nghị  mới  của  Hội  Nhi khoa Việt Nam về nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ em Việt  Nam và khuyến nghị sử dụng chuẩn tăng trưởng 2006 của Tổ  chức Y tế Thế giới.  Nguyễn Công Khẩn (2006), Cách nhìn mới về nuôi dưỡng trẻ  sơ  sinh  và  trẻ  nhỏ  theo  khuyến  nghị  toàn  cầu  của  WHO/UNICEF, Tạp chí dinh dưỡng & thực phẩm, 2(2), tr.1‐5.  7. WHO  (2007),  WHO  Anthro  ‐  Software  for  assessing  growth

2.

and development of the worldʹs children.

8. WHO  (2008),  Training  course  on  child  growth  assessment,

3.

Interpreting growth indicators. Geneva, WHO; 2008.

Bộ  Y  tế  (2008),  Suy  dinh  dưỡng  protein  năng  lượng,  Dinh  dưỡng cộng đồng và an toàn vệ sinh thực phẩm, Hà Nội, Nhà  xuất bản Giáo dục, tr.146‐159.  Bộ Y tế, Viện Dinh Dưỡng, (2000), Tổng điều tra dinh dưỡng  năm 2000.  Bộ Y tế (2008). Thống kê y tế về công tác chăm sóc sức khỏe  bà mẹ và trẻ em   (http://www.cimsi.org.vn/THONGKE.aspx?action=detail&th ongke_id=86)

155

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐỘ NHẠY, ĐỘ ĐẶC HIỆU, KHẢ NĂNG PHÙ HỢP CHẨN ĐOÁN   VÀ DƯƠNG TÍNH KÉO DÀI CỦA TEST NHANH COMBO   TRONG CHẨN ĐOÁN SỐT RÉT TẠI XàCƯ DRAM,   HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAK LAK, NĂM 2010

Hồ Văn Hoàng*, Huỳnh Hồng Quang*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Test nhanh Combo với đặc điểm cho kết quả nhanh, đơn giản có vai trò quan trọng trong chẩn

đoán, điều trị sốt rét tại những xã không có điểm kính hiển vi.

Mục  tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, khả năng phù hợp chẩn đoán của test nhanh Combo so với kỹ

thuật Giêm sa và đánh giá khả năng dương tính kéo dài của test sau điều trị sốt rét.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, Đánh giá một nghiệm pháp chẩn đoán.

Kết quả: Kết quả phân tích cho thấy độ nhạy của test nhanh Combo là 95,45%; độ đặc hiệu là 97,98%. Giá  trị dự đoán dương tính của test là 84% và giá trị dự đoán âm tính là 99,49%. Khả năng phù hợp cao của 2 test  chẩn đoán với Kappa=0,88. Test Combo (+) kéo dài đến ngày 28 sau khi đã được điều trị sạch ký sinh trùng sốt  rét bằng Artecan. Tỷ lệ (+) của test vào ngày D7 là 77,42%, ngày D14 là 50%, ngày D21 là 20% và ngày D28  là 3,33%.

Kết luận: Test nhanh Com bo có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, đơn giản dễ sử dụng. Vì vậy cần cung cấp test

này cho vùng không có điểm kính hiển vi giúp chẩn đoán và điều trị sốt rét.

Từ khóa: Ký sinh trùng sốt rét, test chẩn đoán nhanh.

ABSTRACT

THE SENSITIVITY, SPECIFICITY, AGREEMENT, AND PROLONGED POSITIVITY OF COMBO TEST  IN DIAGNOSING MALARIA AT CUDRAM COMMUNE, KRONGBONG DISTRICT, DAKLAK  PROVINCE, 2010

Ho Van Hoang, Huynh Hong Quang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 157 ‐ 163

Background:  Malaria  Combo  test  with  rapid  and  simple  results  play  an  important  role  in  the  malarial

diagnosis and treatment at the communes without microscope points.

Objectives: To determine the sensitivity, specificity, and agreement of Combo test compared to giemsa test

and to evaluate prolonged positivity of Combo test after successful malaria treatment.

Methods: Cross‐sectional study and Diagnostic technique evaluation.

Result:  The  analysis  of  the  results  showed  that  the  sensitivity  of  test  was  95.45%;  the  specificity  was  97.98%. The positive predictive value and negative predictive value were 84% and 99.49%, respectively. There is  a  strong  degree  of  agreement  between  Combo  test  and  giemsa  test  (Kappa=0.88).  Combo  test  has  showed  a  prolonged positivity till day 28th after successful treatment with Artecan. The proportion of positive test by 7th  day, 14th day, 21st day, and 28th day were 77.42%, 50%, 20%, and 3.33%, respectively.

Conclusion:  Combo  test  has  high  sensitivity  and  specificity,  simple  and  easy  to  use.  Therefore,  it  is  nessesary that malaria control program should provide these tests for those communes without microscope points

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

156

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  to help in diagnosis and treatment of malaria cases.

Key words: Malaria parasite, rapid diagnostic test.

Đánh  giá  khả  năng  dương  tính  kéo  dài  của

ĐẶT VẤN ĐỀ

test sau điều trị sốt rét.

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Xã Cư Dram, huyện Krông Bông, nằm trong

vùng sốt rét lưu hành nặng.

Đối tượng

Hiện  nay,  sốt  rét  (SR)  có  mặt  và  lưu  hành  trên 100 quốc gia, trong đó có Việt Nam là một  trong  những  nước  còn  tỷ  lệ  mắc  cao(6,7).  Trước  thực  trạng  SR  nghiêm  trọng  và  phức  tạp  như  thế, Chương trình Quốc gia phòng chống sốt rét  các nước đã nêu cao quan điểm chẩn đoán sớm  và điều trị kịp thời bệnh SR, nhằm hạ thấp tỷ lệ  bệnh, tử vong do SR đến mức tối đa. Thực hành  chẩn  đoán  sốt  rét  sớm  bằng  kính  hiển  vi  ở  các  điểm  kính  là  một  phần  chính  trong  việc  nâng  cao  không  chỉ  chẩn  đoán  mà  còn  giúp  điều  trị  kịp thời bệnh nhân sốt rét (BNSR).

Tất  cả  các  ca  bệnh  sốt  rét  (bao  gồm  ca  xác  định  là  sốt  rét  và  ca  sốt  rét  lâm  sàng  theo  tiêu  chuẩn chẩn đoán) hoặc ca nghi sốt rét đang sống  tại các xã nghiên cứu.

Thời gian

Năm 2010

Vật liệu nghiên cứu

Các bộ KIT que thử Combo.

Các  lam  lấy  máu  để  nhuộm  Giêm  sa  (cùng  một  mẫu  máu  lấy  máu  làm  cả  giọt  đặc  và  giọt  đàn),  các  giá  để  khô  lam  và  hộp  bảo  quản  lam  máu.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên  cứu  cắt  ngang  đánh  giá  nghiệm

pháp chẩn đoán.

Phương  pháp  chẩn  đoán  bằng  kính  hiển  vi  (KHV)  có  nhiều  ưu  điểm  tuy  nhiên  chất  lượng  phụ  thuộc  nhiều  yếu  tố:  năng  lực  xét  nghiệm  viên  (XNV),  kinh  nghiệm  phát  hiện  ký  sinh  trùng  sốt  rét  (KSTSR)  ở  mật  độ  thấp,đảm  bảo  chất lượng và số lượng trang thiết bị, chưa kể cơ  cấu  tổ  chức  và  quản  lý  nhân  viên  tốt,...Để  hạn  chế một số nhược điểm của phương pháp KHV,  một  loạt  kỹ  thuật  khác  ra  đời,  đáng  chú  ý  là  công  nghệ  que  nhúng  hay  thử  nghiệm  chẩn  đoán nhanh, giúp hỗ trợ KHV trong chẩn đoán  sốt rét mang lại hiêu quả cao tại một số vùng có  SR, độ nhạy và độ đặc hiệu của test chẩn đoán  nhanh  có  nhạy  cảm  về  mặt  địa  lý,  nghĩa  là  kết  quả về nó tại mỗi quốc gia có khác nhau(1,3,7).

z

1(

p

)

×

2/

Cỡ mẫu nghiên cứu  Theo công thức   2 1 − α

n

=

2

p d

2/1 α−z

Trong  đó:

=  1,96  (hệ  số  tin  cậy  với  độ  tin cậy 95%), p = 0,95: độ nhạy theo các nghiên  cứu  trước,  d  =  0,03  (sai  số  tuyệt  đối),  tính  ra  n=203

Kỹ thuật nghiên cứu

Dù  vậy,  các  test  này  cần  được  đánh  giá  tại  các  tuyến,  nhất  là  y  tế  cơ  sở,  những  nơi  đang  thiếu về nhân lực và thiết bị KHV cũng như yếu  về  chất  lượng,  kinh  nghiệm  chẩn  đoán  KHV.  Với  ý  nghĩa  đó,  đề  tài:  “Xác  định  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu,  khả  năng  phù  hợp  chẩn  đoán  và  dương tính kéo dài của test nhanh Combo trong  chẩn đoán sốt rét tại xã Cư Dram, huyện Krông  Bông,  tỉnh  Đak  Lak  năm  2010”  nhằm  mục  tiêu  sau:

Kỹ  thuật  xét  nghiệm  Giêm  sa  cổ  điển,  Soi

lam dưới kính hiển vi quang học.

Kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán Combo.

Xác  định  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu,  khả  năng  phù  hợp  chẩn  đoán  của  test  nhanh  Combo  so  với kỹ thuật Giêm sa.

157

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Các chỉ số đánh giá(5)

Độ nhạy của test hay tỷ lệ dương tính thật là  khả năng phát hiện bệnh của test khi bệnh nhân  có bệnh thật sự. Độ nhạy = a/(a +c).

Độ đặc hiệu của test hay tỷ lệ âm tính thật là  khả năng phát hiện người không mắc bệnh của  test. Độ đặc hiệu = d/(b+d).

Kỹ  thuật  CareStartTM  Malaria  HRP2/pLDH  Combo  Test  do  Công  ty  Access  Bio,  Inc.  New  Jersey,  của  Mỹ  sản  xuất.  Kỹ  thuật  Combo  Test  dùng  để  chẩn  đoán  nhanh  sốt  rét  khi  bị  nhiễm  KSTSR với tất cả các chủng loại P. falciparum, P.  vivax, P. malariae và P. ovale bằng cách nhận dạng  nhanh Proteine 2 và pLDH trong máu của người  bệnh bị mắc sốt rét.

Đọc kết quả

Âm tính: chỉ có 1 vạch màu đỏ tại vị trí C của

Giá  trị  dự  đoán  dương  tính  hay  tỷ  lệ  bệnh  nhân dương tính có t́nh trạng test dương tính =  a/(a+b).

phần đọc kết quả.

Giá trị dự đoán âm tính hay tỷ lệ bệnh nhân  có kết quả âm tính so với tổng số trường hợp có  test âm tính = d/(c+d).

Không  có  kết  quả:  không  xuất  hiện  vạch  màu  đỏ  nào  trên  test  hoặc  không  có  vạch  màu  đỏ ở vị trí C. Trường hợp này nếu có xảy ra, phải  làm lại test khác.

Test Combo Tổng

Mức độ phù hợp 2 loại chẩn đoán (Kappa).  Chuẩn vàng Giêm sa Âm tính b d b+d

Dương  tính  với  Plasmodium  falciparum:  xuất  hiện  2  vạch  màu  đỏ  tại  vị  trí  C  và  tại  vị  trí  1;  Dương  tính  với  Plasmodium  vivax:  xuất  hiện  2  vạch màu đỏ tại ví trí C và tại vị trí 2.

Giá trị Kappa được tính như sau:

Phù hợp quan sát: (a+d)/n

Phù  hợp  ngẫu  nhiên:

(a+b)*(a+c)/n  +

(c+d)*(b+d)/n

Dương  tính  với  Plasmodium falciparum  và  cả  Plasmodium vivax, thường gọi là nhiễm phối hợp:  xuất hiện cả 3 vạch màu đỏ tại các vị trí C, vị trí  1 và vị trí 2.

Phù hợp thực tại = phù hợp quan sát ‐ phù

hợp ngẫu nhiên.

Phù hợp tiềm ẩn (không do ngẫu nhiên): (1 ‐  phù  hợp  ngẫu  nhiên)  hoặc  (100%  ‐  phù  hợp  ngẫu nhiên (%).

Khi thấy xuất hiện 2 vạch màu đỏ tại vị trí C  và  tại  vị  trí  2  trên  test,  thường  chẩn  đoán  là  P.  vivax. Kết quả này cũng xuất hiện khi bệnh nhân  bị  nhiễm  cả  ký  sinh  trùng  sốt  rét  chủng  loại  P.  malariae  hoặc  P.  ovale.  Hai  chủng  loại  ký  sinh  trùng này ít gặp tại Việt Nam.

Phù hợp thực tại

Chỉ số Kappa = ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐

Phù hợp tiềm ẩn

Đánh giá chỉ số Kappa:

0 ‐ 0,2: Phù hợp rất thấp

0,2 ‐ 0,4: Phù hợp thấp

0,4 ‐ 0,6: Phù hợp vừa

0,6 ‐ 0,8: Phù hợp cao

0,8 ‐ 1,0: Phù hợp rất cao

Dương tính a c a+c Dương tính Âm tính Tổng a+b c+d n

Xử  lý  và  phân  tích  số  liệu:  Số  liệu  được

phân tích theo chương trình Epi Info 6.04.

158

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ

Giá trị Kappa được tính theo sau

Phù

hợp

quan

sát:

(a+d)/n

=

(21+194)/220=97,73%

Phù  hợp  ngẫu  nhiên:

Thành  phần,  tỷ  lệ  loài  KSTSR  của  2  phương pháp xét nghiệm  Bảng 1: Tỷ lệ KSTSR xác định bằng kỹ thuật nhuộm  Giêm sa và test Combo.

(a+b)*(a+c)/n  +  (c+d)*(b+d)/n = (25*22)/220 + (195*198)/220 = 2,5 +  175,5 = 178

Phù  hợp  ngẫu  nhiên  =  (178/220)*100%  =

80,91%

Phù hợp thực tại = Phù hợp quan sát ‐ phù

P. vivax Phối hợp P. falciparu m TT (+) % Phươn g pháp Số XN %

hợp ngẫu nhiên = 97,73% ‐ 80,91% = 16,82%

% Số lượn g % Số lượn g Số lượ ng

Phù  hợp  tiềm  ẩn  (không  do  ngẫu  nhiên)=  (100%  ‐  phù  hợp  ngẫu  nhiên(%))  =  100%  ‐  80,91% = 19,09%

1 4,55 3 18 1 Giêm sa 210 22 13,6 4 81,8 2 10,4 8

Phù hợp thực tại      16,82

Chỉ số Kappa = ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐ = ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐= 0,88

Phù hợp tiềm ẩn        19,09

Như  vậy  Kappa  =  0,88,  cho  thấy  khả  năng

Kết quả trên cho thấy kỹ thuật nhuộm Giêm  sa  phát  hiện  được  18  ca  nhiễm  KSTSR  tỷ  lệ  10,48%.  Trong  đó  có  81,82%  là  P.  falciparum,  13,64% là P. vivax và 4,55% là phối hợp.

phù hợp rất cao của 2 test chẩn đoán (0,8‐1,0).

Test  nhanh  Combo  phát  hiện  được  25  ca  dương tính tỷ lệ 11,90%. Trong đó có 80% là P.  falciparum, 12% là P. vivax và 8% là phối hợp.

2 8,00 3 20 210 25 2 12,0 0 80,0 0 11,9 0 Test Combo

Thời  gian  dương  tính  của  test  Combo  sau  khi điều trị thuốc sốt rét Artecan đủ liều  Bảng 4: Tình trạng test (+) sau khi điều trị sạch  KSTSR.

TT (+) % (+) %

Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự  đoán của  test nhanh Combo  Bảng 2: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự đoán của  test nhanh Combo.

Độ nhạy (%) = (11/22)*100% = 95,45%

Độ đặc hiệu (%) = (194/195)*100% = 97,98%

Giá

dự

đoán

dương

tính

trị  (%)=(21/25)*100% = 84%.

Kết quả phân tích trên cho thấy, test nhanh  Combo có thể (+) kéo dài đến ngày 28 sau khi đã  được điều trị sạch ký sinh trùng sốt rét. Tỷ lệ (+)  của  test  vào  ngày  D7  là  77,42%,  ngày  D14  là  50%, ngày D21 là 20% và ngày D28 là 3,33%.

Giá trị dự đoán âm tính (%).= (194/195)*100%

Ngày xét nghiệm theo dõi Chuẩn vàng Giêm sa Test Combo Tổng Dương tính Âm tính Dương tính 21 4 25 Âm tính 1 194 195 1 2 3 4 5 D0 D7 D14 D21 D28 Kỹ thuật Giêm sa Test nhanh Combo Xét nghiệm 31 31 30 30 30 31 100.00 0 0 1 1 Xét nghiệm 31 31 30 30 30 31 100.00 24 77.42 15 50.00 6 20.00 3.33 1 0.00 0.00 3.33 3.33 22 198 220 Tổng

BÀN LUẬN

= 99,49%.

Bảng 3: Khả năng phù hợp của 2 phương pháp.

Độ nhạy, độ đặc hiệu và khả năng phù hợp  chẩn đoán của test Combo

Nghiên  cứu  tiến  hành  ở  phạm  vi  1  xã,  xét  nghiệm  220  người,  xét  nghiệm  song  hành  2  kỹ  thuật  trên  1  bệnh  nhân,  kết  quả  cho  thấy  kỹ  thuật  nhuộm  Giêm  sa  phát  hiện  được  22  ca

Chuẩn vàng Giêm sa Test Combo Tổng Dương tính  Âm tính Dương tính 21 (a) 4 (b) 25 (a+b) Âm tính 1 (c) 194 (d) 195 (c+d) Tổng 22 (a+c) 198 (b+d) 220 (n)

159

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

cứu tại một số tỉnh Nam Bộ và Lâm Đồng (2003)  cũng cho độ nhạy 80,7%, độ đặc hiệu 96,8%. Tại  khu  vực  miền  Trung  và  Tây  Nguyên,  nghiên  cứu  test  nhanh  HRP‐2  (2006)  cho  thấy  độ  nhạy  98,7%,  độ  đặc  hiệu  93,7%.  Như  vậy  các  test  nhanh  chẩn  đoán  sốt  rét  hiện  nay  cho  thấy  độ  nhạy  và  độ  đặc  hiệu  cao  trong  chẩn  đoán  sốt  rét(1,3).

Nghiên cứu Y học  nhiễm KSTSR tỷ lệ 10,48%, trong đó có 81,82% là  P. falciparum, 13,64% là P. vivax và 4,55% là phối  hợp.  Test  nhanh  Combo  phát  hiện  được  25  ca  dương  tính  tỷ  lệ  11,90%,  trong  đó  có  80%  là  P.  falciparum, 12% là P. vivax và 8% là phối hợp. Về  cơ  cấu  KSTSR  hiện  nay  theo  các  báo  cáo  thì  P.  falciparum  chiếm  76,45%‐85,28%,  P.  vivax  từ  13,70%‐21,98%,  phối  hợp  từ  0,90%‐1,36%.  Như  vậy  tại  điểm  nghiên  cứu  tỷ  lệ  nhiễm  phối  hợp  do test nhanh Combo cao hơn.

Giá  trị  dự  đoán  dương  tính  của  test  nhanh  Combo  là  84%  và  gía  trị  dự  đoán  âm  tính  của  test là 99,49%.

Kết  quả  phân  tích  khả  năng  phù  hợp  chẩn  đoán của test nhanh và chuẩn vàng Giêm sa với  chỉ số Kappa=0,88, cho thấy khả năng phù  hợp  cao  của  2  test  chẩn  đoán  (nằm  trong  phạm  vi  0,8‐1,0).  Với  khả  năng  phù  hợp  chẩn  đoán  cao,  độ nhạy và độ đặc hiệu cao nên có thể ứng dụng  test  nhanh  này  cho  những  vùng  có  sốt  rét  lưu  hành  nhưng  không  có  điểm  kính  hiển  vi  hoạt  động hoặc thiếu xét nghiệm viên. Hơn nữa trong  một số trường hợp nhất là sốt rét ác tính với mật  độ KSTSR ở máu ngoại biên thấp soi kính hiển  vi có thể bỏ sót thì có thể sử dụng test nhanh này  để giúp cho chẩn đoán sốt rét.

Tình  trạng  dương  tính  kéo  dài  của  test  Combo

Đây  là  một  nhược  điểm  của  test  nhanh  Combo. Kết quả này cho thấy tỷ lệ nhiễm phối  hợp  của  test  Combo  cao  hơn  so  với  kỹ  thuật  Giêm sa. Đây là một vấn đề cần quan tâm. Kết  quả test Combo  khi  có  sự  xuất  hiện  cả  3  vạch  thì  có  thể  là  nhiễm  đơn  P.  falciparum  hoặc  là  nhiễm  phối  hợp.  Nhiễm  trùng  phối  hợp  P.  falciparum với các loài không phải P. falciparum  không  thể  phân  biệt  với  tình  trạng  nhiễm  P.  falciparum  đơn  thuần.  Trong  trường  hợp  test  dương tính và xuất hiện cả 3 vạch thì làm thế  nào  để  phân  biệt  đó  chỉ  là  nhiễm  đơn  thuần  loại P. falciparum hay nhiễm phối hợp với một  loài  khác  không  phải  P.  falciparum.  Vì  tại  các  vùng  sốt  rét  của  Việt  Nam,  cơ  cấu  ký  sinh  trùng sốt rét chủ yếu là P. falciparum, kế đến là  P. vivax (chiếm tỷ lệ ít hơn rất nhiều) và còn lại  là P. malariae. Do đó, việc xuất hiện cùng lúc 3  vạch sẽ rất nhiều, để làm phân biệt điều đó chỉ  còn  cách  là  làm  thêm  một  lam  máu  nhuộm  Giêm sa để phân biệt theo khuyến cáo của Dự  án phòng chống sốt rét Việt Nam.

Kết quả phân tích so sánh với kỹ thuật Giêm  sa cho thấy độ nhạy của test Combo là 95,45%,  độ đặc hiệu là 97,98%. Các nghiên cứu trên thế  giới  và  Việt  Nam  về  test  chẩn  đoán  nhanh  Combo đang sử dụng thì với số liệu của nhà sản  xuất  cho  biết  độ  nhạy  và  độ  đặc  hiệu  rất  cao  (đều từ 95 hay 96% trở lên)(1,3,4).

Sử  dụng  test  nhanh  Combo  chẩn  đoán  sốt  rét  và  theo  dõi  31  bệnh  nhân  sốt  rét  có  test  Combo (+) được điều trị với các loại thuốc theo  phác đồ của Bộ Y tế trong 7 ngày đầu cho thấy  có 29 trường hợp không sốt trở lại chiếm 93,55%;  có  2  trường  hợp  sốt  trở  lại  (1  ca  test  (+)  với  P.  falciparum và 1 ca test (+) phối hợp) chiếm 6,54%.  Hai trường hợp sốt trở lại này cũng đã được lấy  máu  xét  nghiệm  KSTSR  với  kỹ  thuật  Giêm  sa  cho  kết  quả  (+)  vào  ngày  thứ  7.  Điều  này  cho  thấy KSTSR chưa hết trong máu, có thể do tình  trạng  dung  nạp  thuốc  bệnh  nhân  không  bình  thường hoặc một số lý do khác trong giai đoạn  hiện nay như nguy cơ tỷ lệ thất bại cao của các  thuốc sốt rét.

Các  loại  test  nhanh  khác  trong  những  năm  gần  đây  cũng  cho  kết  quả  vế  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu khá cao. Test DiaMed OptiMal nghiên cứu  tại  Bình  Phước  (2003)  cho  độ  nhạy  là  87%,  độ  đặc hiệu 98,6%. Test nhanh Paracheck P.f nghiên

Nghiên  cứu  tình  trạng  dương  tính  kéo  dài  của test Paracheck‐F cũng cho thấy có tính trạng  dương tính kéo dài sau điều trị sạch KSTSR. Tỷ

160

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Tỷ  lệ  (+)  của  test  vào  ngày  D7  là  77,42%,  ngày D14 là 50%, ngày D21 là 20% và ngày D28  là 3,33%.

KIẾN NGHỊ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  lệ  dương  tính  của  test  sau  khi  điều  tri  với  chloroquin vào ngày 28 là 18,18%. Sau khi điều  trị  với  Artequick  ngày  21  tỷ  lệ  dương  tính  với  test là 23,33%, vào ngày 28 không có dương tính  nào(2,4).

Test  Combo  có  độ  nhạy  và  độ  đặc  hiệu  >  95%, khả năng phù hợp chẩn đoán Kappa = 0,88,  phát  hiện  được  các  loài  KSTSR  nên  có  thể  sử  dụng để hỗ trợ chẩn đoán cho các vùng sốt rét  lưu hành không có điểm kính hiển vi.

Trong những trường hợp sốt rét ác tính điển  hình nhưng xét nghiệm máu với kỹ thuật Giêm  sa  vẫn  không  phát  hiện  KSTSR  có  thể  sử  dụng  test Combo để định hướng chẩn đoán.

Test  Combo  chỉ  cho  kết  quả  định  tính  nên  cần  lấy  máu  nhuộm  Giêm  sa  xét  nghiệm  kính  hiển  vi  để  xác  định  mật  độ  KSTSR  trong  máu  giúp tiên lượng và theo dõi diễn tiến bệnh.

Tỷ lệ phối hợp cao do hạn chế của test  nên  trong trường hợp nhiễm phối hợp cần lấy máu  nhuộm Giêm sa xác định thành phần loài KSTSR  chính xác hơn.

Hiện  tượng  dương  tính  kéo  dài  này  có  thể  giải  thích  là  do  kháng  nguyên  của  KSTSR  vẫn  còn  lưu  hành  trong  máu  nên  test  huyết  thanh  miễn dịch vẫn cho kết quả dương tính. Kỹ thuật  test  Combo  để  chẩn  đoán  nhanh  sốt  rét  khi  bị  nhiễm ký sinh trùng sốt rét với tất cả các chủng  loại P. falciparum, P. vivax, P. malariae và P. ovale  bằng  cách  nhận  dạng  nhanh  HRP  2  và  pLDH  trong  máu  của  người  bệnh  bị  mắc  sốt  rét.  Tuy  nhiên  cũng  có  một  tỷ  lệ  nhỏ  có  thể  do  KSTSR  còn lại với mật độ rất thấp mặc dù không gây ra  sốt  nhưng  vẫn  có  sự  hiện  diện  của  kháng  nguyên  trong  máu  nên  test  vẫn  cho  kết  quả  dương  tính.  Với  tình  trạng  dương  tính  kéo  dài  này nên trong vùng sốt rét lưu hành tỷ lệ (+) của  các  loại  test  nhanh  thường  cao  hơn  kỹ  thuật  Giêm sa. Hơn nữa việc xác định chẩn đoán trong  một số trường hợp cần cân nhắc và nếu cần thiết  phải kiểm chứng với kỹ thuật chuẩn Giêm sa.

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung (2007). Giá trị chẩn  đoán nhanh HRP‐2 trong việc phát hiện và chẩn đoán sốt rét P.  falciparum một số tỉnh khu vực miền Trung – Tây Nguyên”, Kỷ  yếu  công  trình  nghiên  cứu  khoa  học  (2001‐2006).  Viện  sốt  rét  KST‐CT Quy Nhơn. Nhà xuất bản y học, tr.242‐249.

Độ nhạy, độ đặc hiệu test Combo so với kỹ  thuật Giêm sa trong chẩn đoán sốt rét.  Độ nhạy (%) = (11/22)*100% = 95,45%

2. Lê  Nguyên  Bình,  Nguyễn  Bá  Nền  (1996).  Parasight‐F  dương  tính  kéo  dài  sau  khi  ký  sinh  trùng  đã  sạch  do  điều  trị  bằng  artemisinin. Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký  sinh trùng. Viện sốt rét KST‐CT Hà Nội, (4), tr.23‐35.

Độ đặc hiệu (%) = (194/195)*100% = 97,98%

Giá

trị  dự  đoán  dương

tính

(%)  =

(21/25)*100% = 84%

Giá trị dự đoán âm tính (%) = (194/195)*100%

3. Phùng Đức Thuận, Trần Thị Ánh Loan (2011). DiaMed OptiMal  trong chẩn đoán bệnh sốt rét tại một vùng sốt rét lưu hành của  tỉnh Bình Phước. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học (2001‐ 2006), Viện sốt rét KST‐CT Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản y học,  tr.106‐110.

= 99,49%

Khả năng phù hợp cao của 2 test chuẩn đoán

với Kappa = 0,88

4. Triệu  Nguyên  Trung,  Nguyễn  Tân,  Nguyễn  Tấn  Thoa  (2007).  Đánh giá khả năng dương tính kéo dài sau điều trị sốt rét do P.  falciparum bằng Chloroquin và Artequick của test Paracheck tại  một xã sôt rét lưu hành nặng Phước Chiến, Ninh Thuận. Kỷ yếu  công  trình  nghiên  cứu  khoa  học  (2001‐2006),  Nhà  xuất  bản  y  học, tr. 218‐224.

5. Trường  Đại  học  Y  Hà  Nội  (1998).  Phương  pháp  nghiên  cứu

Khả năng dương tính kéo dài của test sau  khi điều trị sốt rét

khoa học y học. Nhà xuất bản y học, tr.167‐188.

Test Combo (+) kéo dài đến ngày 28 sau khi

6. WHO (2009), Malaria Report, pp.27‐28  7. WHO  (2009),  Guidelines  for  the  treatment  of  malaria,  2th

đã được điều trị sạch ký sinh trùng sốt rét.

edition, pp.1‐24.

161

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

XÁC ĐỊNH TỶ LỆ NHIỄM KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT VÀ KIẾN THỨC,   THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH Ở NGƯỜI DÂN NGỦ RẪY TẠI XàVĨNH KIM,   HUYỆN VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH NĂM 2010

Hồ Văn Hoàng*, Nguyễn Duy Sơn*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Mặc dù tỷ lệ mắc và tử vong sốt rét tại miền Trung‐Tây Nguyên giảm nhưng nguy cơ mắc và

tử vong của người dân ngủ rẫy vẫn rất cao.

Mục  tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét và đánh giá mức độ hiểu biết, thái độ và thực hành

(KAP) của người dân ngủ rẫy về phòng chống sốt rét.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả với xét nghiệm mẫu máu và điều tra bảng

câu hỏi KAP tại xã Vĩnh Kim.

Kết quả: Kết quả điều tra căt ngang vào tháng 9/2010 tại xã Vĩnh Kim cho thấy: tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng  sốt rét ở người dân ngủ rẫy là 6,73% (95%CI: 4,52‐9,58), trong đó P. falciparrum chiếm ưu thế với 89,29%.  Phân tích kết quả điều tra kiến thức, thái độ và thực hành cho thấy 61,78% người dân biết muỗi là nguyên nhân  gây bệnh sốt rét. Với phương pháp quan sát trực tiếp cho thấy chỉ có 58,41% người dân ngủ màn ban đêm ở  nhà. Phỏng vấn trực tiếp cho thấy 42,79% người dân ngủ màn khi ngủ rẫy.

Kết luận: Nguy cơ mắc sốt rét tại cộng đồng dân ngủ rẫy rất cao, tỷ lệ ngủ màn khi ngủ rẫy thấp nên cần

có những biện pháp quản lý và phòng chống sốt rét thích hợp cho đối tượng này.

Từ khóa: Ký sinh trùng sốt rét, ngủ rẫy.

ABSTRACT

THE PROPORTION OF MALARIA PARASITE INFECTION AND KAP   IN THE PEOPLE SLEEPING AT FIELD HUTS IN VINH KIM COMMUNE,   VINH THANH DISTRICT, BINH DINH PROVINCE 2010

Ho Van Hoang*, Nguyen Duy Son

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 164 ‐ 168

Background:  Although  malaria  morbidity  and  mortality  rates  in  central  Vietnam  reduced  considerably

compared with previous years, the risk of malaria infection is still high in people sleeping at field huts.

Objectives:  To  determine  the  proportion  of  malaria  parasite  infection  and  to  evaluate  KAP  on  malaria

disease of people sleeping at field huts.

Methods:  Cross‐sectional  study  using  blood  examination  and  KAP  survey  conducted  in  Vinh  Kim

commune.

Result:  The  results  of  cross‐sectional  studies  in  September,  2010  showed  that  the  infection  of  malaria  parasite  in  people  sleeping  at  field  huts  was  6.73%  (95%CI:  4,52‐9,58),  P.  falciparum  was  dominant  with  89.29% of total malaria parasite cases. The KAP survey showed that 61.78% of them believed that malaria could  be transsmitted through the bites of the mosquitoes. There were 58.41% of them sleeping under bednets during  staying at home with the night by direct observation method. Only 42.79% of them sleeping under bednet during  staying in the field huts by direct interview method.

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

162

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Conclusion: There is still high risks of malaria infection in people sleeping at field huts, low proportion of

sleeping under bednets; therefore, we should apply appropriate malaria control solutions for those people.

Keywords: Malaria parasite, sleeping at field huts.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu  chuẩn  chọn  mẫu:  Có  hoạt  động  đi  rẫy  và ngủ lại trong rẫy là tiêu chuẩn bắt buộc, từ 15  tuổi trở lên và đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ: Những người không thể  trả  lời  phỏng  vấn,  người  bệnh  nặng,  tâm  thần,  câm, điếc. Những người từ chối tham gia nghiên  cứu.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp dịch tễ học mô tả.

Thiết  kế  nghiên  cứu  cắt  ngang  nhằm  xác  định  tỷ  lệ  nhiễm  ký  sinh  trùng  sốt  rét  (KSTSR)  trong  cộng  đồng.  và  kiến  thức‐thái  độ  và  thực  hành về PCSR.

Cỡ mẫu theo công thức tính cho điều tra cắt

ngang tại cộng đồng:

z

1(

p

)

×

2/

2 1 −α

n

=

Sốt rét (SR) vẫn tiếp tục là vấn đề sức khỏe  của cộng đồng, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và  thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội(5,6). Theo báo cáo  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  năm  2008,  mỗi  năm  thế  giới  có  khoảng  247  triệu  ca  mắc  và  hơn  1  triệu  người  chết  do  SR(6).  Ở  Việt  Nam,  theo  số  liệu  của  Viện  Sốt  rét‐Ký  sinh  trùng‐Côn  trùng  Trung ương năm 2009 có 16,6% dân số cả nước  sống  trong  vùng  SR  lưu  hành.  Riêng  miền  Trung‐Tây  Nguyên  có  40%  dân  số  nằm  trong  vùng sốt rét lưu hành(5). Trong những năm qua  Chương trình phòng chống sốt rét (PCSR) ở Việt  Nam dù có những thành công nhưng tại nhiều  vùng  có  dân  đi  rừng  ngủ  rẫy  như  huyện  Vĩnh  Thạnh,  tỉnh  Bình  Định  công  tác  PCSR  vẫn  còn  một số khó khăn, nguy cơ mắc và tử vong do SR  rất cao(1,4,3,2).

p 2 d

1 α−z 2/

Trong  đó

Việc xác định tỷ lệ hiện mắc SR ở cộng đồng  dân  ngủ  rẫy  vào  giai  đoạn  này  là  rất  cần  thiết  cho  công  tác  PCSR.  Hơn  nữa  đánh  giá  đúng  mức độ kiến thức, thái độ, thực hành của người  dân sẽ giúp cho công tác truyền thông giáo dục  sức khoẻ có hiệu quả hơn. Trên cơ sở khoa học  và thực  tiễn  của  hoạt  động  PCSR,  đề  tài  này  là  rất cần thiết nhằm các mục tiêu sau:

=  1,96  (hệ  số  tin  cậy  với  độ  tin cậy 95%), p = 0,10 là tỷ lệ theo các nghiên cứu  trước,  d  =  0,03  (độ  chính  xác  tuyệt  đối).  Tính  toán cho kết quả n = 385 người. Để đảm bảo cỡ  mẫu tối thiểu, bù vào số người từ chối tham gia  nghiên cứu và quá trình làm sạch số liệu, ta ước  lượng  thêm  5%  số  người  vào  cỡ  mẫu,  cần  điều  tra n = 400 người.

Phương pháp điều tra tỷ lệ ngủ màn: Quan

sát trực tiếp.

Xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở  cộng  đồng  dân  ngủ  rẫy  sống  tại  xã  Vĩnh  Kim,  huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định năm 2010.

Chọn ngẫu nghiên 51 nhà dân để xác định tỷ  lệ  người/màn  và  ngủ  màn  bằng  phương  pháp  quan sát trực tiếp ban đêm.

Đánh giá mức độ hiểu biết, thái độ và thực  hành  của  cộng  đồng  dân  ngủ  rẫy  về  phòng  chống sốt rét.

Kỹ thuật nghiên cứu

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình

Định.

Xét nghiệm KSTSR trong máu bằng phương  pháp  nhuộm  Giêm  sa(5).  Phỏng  vấn  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  và  quan  sát  sát  trực  tiếp  người dân ngủ màn.

Đối tượng nghiên cứu

Đạo đức trong nghiên cứu

Người dân có hoạt động ngủ rẫy.

Người dân được giải thích rõ ràng mục đích  nghiên  cứu.  Kỹ  thuật  xét  nghiệm  được  làm

163

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  đúng quy trình. Nếu có bệnh sẽ được tham vấn  điều trị kịp thời.

Bảng 4: Kiến thức người dân ngủ rẫy về nguyên  nhân truyền bệnh.

Phân tích số liệu

Kết quả trả lời sai

Sử  dụng  phần  mềm  Epi  Info  6.04  để  phân

TT

Kiến thức người dân

Tỷ lệ % Số Tỷ lệ %

Kết quả trả lời đúng Số lượng

tích số liệu.

lượng

257 61,78 159 38,22 1

Thời gian

Nghiên cứu được tiến hành năm 2010.

251 60,34 165 39,66 2

KẾT QUẢ

354 85,10 62 14,90 3 Muỗi là nguyên nhân lan truyền bệnh sốt rét KSTSR là nguyên nhân gây bệnh sốt rét Bệnh sốt rét có thuốc điều trị lành bệnh

Bảng 1: Tỷ lệ nhiễm KST SR trong cộng đồng dân  ngủ rẫy Vĩnh Kim.

Kết quả phỏng vấn cho thấy có 61,78% trả lời  đúng nguyên nhân lan truyền bệnh  SR,  60,34%  trả  lời  đúng  nguyên  nhân  gây  bệnh  do  KSTSR,  và 85,10% người dân biết rằng bệnh SR có thuốc  điều trị lành bệnh.

TT Thôn Số điều tra Tỷ lệ % 95% CI

131 138 147 KSTSR (+) 9 9 10 6,87 6,52 6,80 3,19-12,64 3,03-12,02 3,31-12,15 1 Thôn 1 2 Thôn 2 3 Thôn 3 Tổng 416 28 6,73 4,52-9,58

Bảng 5: Thái độ người dân ngủ rẫy về bệnh và biện  pháp phòng bệnh SR.

Thái độ chấp nhận TT

Thái độ người dân

%

Kết  quả  điều  tra  416  người  ngủ  rẫy  trên  15  tuổi tại 3 thôn của xã nghiên cứu cho thấy tỷ lệ  KSTSR là 6,73% (95%CI: 4,52‐9,58). Tỷ lệ nhiễm  ở  thôn  1  là  6,87%,  thôn  2  là  6,52%,  thôn  3  là  6,80%.

Số lượng 319 76,68 Thái độ không chấp nhận % Số lượng 97 23,32

2 356 85,58 60 14,42

3

Bảng 2: Tỷ lệ giao bào và lách sưng ở người dân ngủ  rẫy.

Kết  quả  trên  cho  thấy  có  76,68%  cho  rằng  bệnh SR nguy hiểm đến con người, 85,58% cho  ngủ màn sẽ ngừa được SR, 89,18% người đồng ý  phun hoá chất diệt muỗi sẽ phòng ngừa mắc SR.

1 Bệnh SR nguy hiểm Nằm ngủ màn phòng bệnh SR Phun hóa chất phòng bệnh SR 371 89,18 45 10,82 Giao bào Lách sưng TT Thôn Số điều tra

3 5 4 12 1 Thôn 1 2 Thôn 2 3 Thôn 3 Tổng cộng 131 138 147 416 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 2,29 3,62 2,72 2,88 2,29 3,62 2,72 2,88 3 5 4 12

Bảng 6: Thực hành ngủ màn của người dân ngủ rẫy.  Ngủ màn Không ngủ màn

TT Số

Thực hành ngủ màn

Số lượng % lượng % 1 Ngủ màn khi ở nhà 347 83,41 69 16,59

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  tỷ  lệ  nhiễm  giao  bào chung là 2,88%. Tỷ lệ này tại thôn 1 là 2,29%,  tại thôn 2 là 3,62%, tại thôn 3 là 2,72%. Tỷ lệ lách  sưng chung của người dân là 2,88%. Lách sưng  ở thôn 1 là 2,29%, ở thôn 2 là 3,62%, ở thôn 3 là  2,72%.

Tỷ  lệ  người  dân  ngủ  màn  khi  ở  nhà  chiếm  83,41%,  nhưng  khi  đi  rẫy  tỷ  lệ  có  ngủ  màn  thường xuyên chỉ là 42,79%.

2 178 42,79 238 57,21 Ngủ trong màn khi đi rẫy

Bảng 3: Cơ cấu KST SR trong cộng đồng dân ngủ  rẫy.  TT 1 2 3

Tổng

Loài KSTSR P.falciparum (P.f) P.vivax (P.v) Phối hợp (P.f+P.v) Số lượng 25 2 1 28 Tỷ lệ % 89,29 7,14 3,57 100%

Bảng 7: Tỷ lệ ngủ màn qua quan sát trực tiếp ban  đêm khi ở nhà.  TT 1 2

P.falciparum  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  89,29%,

P.vivax chiếm 7,14% và 3,57% phối hợp.

Chỉ số Số hộ quan sát Số khẩu Số lượng 51 214 Tỷ lệ 4,20 người/hộ (214/51)

164

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

3 Số màn 76

4 125 2,81 người/màn (214/76) 58,41% ngủ trong màn

Số người ngủ trong màn

P.falciparum  chiếm  ưu  thế  89,29%,  sau  đó  đến  P.vivax chiếm 7,14%. Cơ cấu P.falciparum ưu thế  cũng  phù  hợp  với  cơ  cấu  loài  ở  các  vùng  khác  của khu vực miền Trung‐Tây Nguyên(5).

Tỷ lệ người dân thực tế ngủ màn qua quan  sát  trực  tiếp  chiếm  58,41%  thấp  hơn  khi  phỏng  vấn  (60,58%).  Tỷ  lệ  màn  trong  dân  trung  bình  2,81 người/màn.

Bảng 8: Thực hành khi nghi ngờ mắc sốt rét của  người dân ngủ rẫy.  TT

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  tỷ  lệ  mang  giao  bào  tại  điểm  nghiên  cứu  là  2,88%.  Giao  bào  là  thể KSTSR mặc dù không gây sốt nhưng là thể  làm lan truyền bệnh trong công đồng khi có sự  hiện  diện  của  các  loài  muỗi  sốt  rét.  Tỷ  lệ  lách  sưng qua điều tra ở người dân ngủ rẫy là 2,88%.  Lách sưng là dấu hiệu thường đi kèm với bệnh  sốt rét.

Thực hành người dân

Về Kiến thức – Thái độ – Thực hành phòng  chống sốt rét

Khi nghi ngờ bản thân bị  sốt  rét  người  dân  đến  cơ  sở  y  tế  chiếm  57,21%,  hoặc  đến  y  tế  tư  nhân (11,30%). Tuy nhiên, càc hành vi khác của  người  dân  khi  có  dấu  hiệu  nghi  ngờ  bị  sốt  rét  còn  khá  cao:  tự  điều  trị  (15,63%),  dùng  thuốc  dân gian ở nhà (5,05%) và 18,67% cúng bái.

1 2 3 4 5 Đến cơ sở y tế Tự điều trị Đến y tế tư nhân Dùng thuốc dân gian Cúng bái Tổng số Số lượng 238 65 47 21 45 416 % 57,21 15,63 11,30 5,05 18,67 100,00

BÀN LUẬN

Về  tỷ  lệ  mắc  sốt  rét  trong  cộng  đồng  dân  ngủ rẫy ở xã Vĩnh Kim

Có  61,87%  người  dân  trả  lời  đúng  nguyên  nhân  truyền  bệnh  là  muỗi,  85,10%  người  dân  biết bệnh sốt rét có thuốc điều trị lành bệnh. Tuy  nhiên chỉ có 60,34% người dân biết nguyên nhân  gây bệnh sốt rét là do KSTSR. Điều này cho thấy  cần  nâng  cao  chất  lượng  và  hiệu  quả  của  hoạt  động  truyền  thông  giáo  dục  sức  khỏe  hơn  nữa  trong  thời  gian  đến  cho  đối  tượng  nguy  cơ  cao  này.  Ngoài  ra  tỷ  lệ  này  thấp  có  thể  do  phương  pháp  truyền  thông  chưa  hợp  lý  trong  khi  khả  năng tiếp thu của người dân ở những vùng sâu  vùng xa như thế này còn hạn chế.

Điều tra cho thấy 76,68% người dân có thái  độ xem bệnh sốt rét là nguy hiểm với tính mạng  của con người cần phải phòng  chống.  Họ  cũng  có  thái  độ  chấp  nhận  và  đồng  ý  thực  hiện  các  biện pháp phòng chống sốt rét với tỷ lệ khá cao:  thái  độ  chấp  nhận  về  ngủ  màn  phòng  sốt  rét  (85,58%),  thái  độ  chấp  nhận  phun  thuốc  diệt  muỗi (93,99%).

Kết  quả  điều  tra  người  dân  có  hoạt  động  ngủ rẫy tại xã nghiên cứu cho thấy tỷ lệ KSTSR  là  6,73%.  Nghiên  cứu  về  nhiễm  KSTSR  của  người dân ngủ rẫy tại huyện Vĩnh Linh, Quảng  Trị cho thấy tỷ lệ nhiễm là 6,95%. Một số điều tra  từ  2003‐2004  tại  các  điểm  có  dân  đi  rừng,  ngủ  rẫy cho thấy tỷ lệ nhiễm cũng rất cao: Ngọc Lây  (Kon Tum) là 8,85%; Ia O (Gia Lai) là 7,08%, Sơn  Thái (Khánh Hoà) là 29,77%, Thanh (Quảng Trị)  là 6,77%(4,3,2).

Những kết quả điều tra này cho thấy, người  dân đi rừng ngủ rẫy có nguy cơ mắc sốt rét cao  hơn  những  đối  tượng  khác  và  các  biện  pháp  PCSR  thường  quy  cho  thấy  chưa  có  hiệu  quả  cũng  như  người  dân  chưa  có  ý  thức  cao  về  tự  bảo vệ khi đi vào rừng, rẫy. Việc tỷ lệ ngủ màn  thấp cũng chứng minh thêm cho ý kiến này. Cơ  cấu  KSTSR  tại  các  điểm  này  chủ  yếu  vẫn  là

Thực  hành  về  ngủ  màn  khi  ở  nhà:  có  83,41%  người  dân  trả  lời  có  nằm  màn  thường  xuyên khi ở nhà và 42,79% ngủ trong màn khi  đi  rẫy.  Có  một  khoảng  cách  khá  xa  giữa  thái  độ  hưởng  ứng  ngủ  màn  của  người  dân  (83,41%) so với thực tế ngủ màn 58,41% (quan  sát trực tiếp ban đêm người dân ngủ màn). Với  phương  pháp  quan  sát  trực  tiếp  thì  độ  chính  xác cao hơn, điều này có nghĩa rằng tỷ lệ ngủ  màn trong dân vẫn còn thấp.

165

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Kiến  thức  –  Thái  độ  –  Thực  hành  ở  cộng  đồng dân ngủ rẫy xã Vĩnh Kim

Đây  là  vấn  đề  rất  đáng  quan  tâm,  bởi  vì  hành  vi  không  ngủ  màn  ở  nhà  và  rẫy  là  điều  kiện hết sức thuận lợi cho sự nhiễm bệnh, cũng  như làm cho công tác PCSR của địa phương gặp  rất nhiều khó khăn.

Biết muỗi là nguyên nhân lây lan bệnh sốt là  61,87%, biết được ký sinh trùng sốt rét là nguyên  nhân gây bệnh là 60,34%, biết được bệnh sốt rét  có thể điều trị lành được là 85,10%.

Người  dân  chấp  nhận  ngủ  màn  sẽ  ngăn  ngừa  được  sốt  rét  là  85,58%;  người  dân  chấp  nhận  phun  hoá  chất  diệt  muỗi  phòng  bệnh  sốt  rét là 89,18% và 76,68% cho rằng bệnh SR nguy  hiểm đến con người.

Ngủ  màn  thường  xuyên  qua  quan  sát  trực  tiếp khi ở  nhà  58,41%,  trả  lời  nằm  màn  thường  xuyên khi đi nương rẫy 42,79%.

Có 57,21% đối tượng đến cơ sở y tế khi nghi  ngờ mắc bệnh sốt rét. Đây là hành vi tốt rất cần  duy trì và làm cho người dân tin tưởng hơn nữa.  Tuy nhiên, vẫn còn một số người dân chọn cách  tự  điều  trị  (15,63%),  đến  y  tế  tư  nhân  (11,30%),  đặc  biệt  là  vẫn  còn  cúng  bái  khi  bị  bệnh  (18,67%). Mặc dù tỷ lệ cúng bái không cao như  trước  đây  nhưng  cũng  cần  áp  dụng  các  biện  pháp truyền thông giáo dục sức khỏe để người  dân  hiểu  rõ  hơn  về  nguyên  nhân,  cách  phòng  bệnh và cách điều trị bệnh.

KẾT LUẬN

Khi  nghi  ngờ  bản  thân  bị  sốt  rét  57,21%  người dân đến cơ sở y tế để được khám và điều  trị  bệnh,  tự  điều  trị  (15,63%),  đến  y  tế  tư  nhân  (11,30%), dùng thuốc dân gian ở nhà (5,05%) và  18,67% cúng bái.

Tỷ  lệ  nhiễm  ký  sinh  trùng  sốt  rét  ở  cộng  đồng dân ngủ rẫy xã Vĩnh Kim

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ  Y  tế  (2009).  Hướng  dẫn  chẩn  đoán  và  điều  trị  sốt  rét.  QĐ

4605/QĐ‐BYT, 24/11/2009, Hà Nội, tr.1‐10.

Tỷ  lệ  nhiễm  ký  sinh  trùng  sốt  rét  là  6,73%  (95%CI: 4,52‐9,58), tỷ lệ nhiễm ở thôn 1 là 6,87%,  thôn 2 là 6,52%, thôn 3 là 6,80%.

2. Hồ Văn Hoàng (2003). Đặc điểm dịch tễ học tử vong do sốt rét  tại khu vực miền Trung‐Tây Nguyên năm 2003. Tạp chí Y học  thực hành, số 477/2004, tr.39‐46.

3. Hồ Văn Hoàng (2004). Thực trạng và nguy cơ gia tăng sốt rét ở  cộng đồng dân di cư tự do tỉnh Đak Lak năm 2003. Tạp chí Y  học thực hành, số 477/2004, tr.36‐42.

Tỷ lệ nhiễm giao bào là 2,88%. Tỷ lệ này tại  thôn 1 là 2,29%, tại thôn 2 là 3,62%, tại thôn 3 là  2,72%. Tỷ lệ lách sưng của  người  dân  là  2,88%.  Lách sưng ở thôn 1 là 2,29%, ở thôn 2 là 3,62%, ở  thôn 3 là 2,72%.

4. Hồ Văn Hoàng (2006). Di cư tự do, ngủ rẫy và nguy cơ gia tăng  sốt rét ở các tỉnh miền Trung‐Tây Nguyên. Tạp chí Y học thực  hành, số 3 (537)/2006, tr23‐27.

Loài  P.falciparum  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  89,29%, P.vivax chiếm 7,14% và 3,57% phối hợp.

5. Viện  Sốt  rét  ‐KST‐CT  TW  (2012).  Hội  nghị  tổng  kết  công  tác  phòng  chống  sốt  rét  năm  2011  và  triển  khai  kế  hoạch  PCSR  2012.

6. WHO (2008). World Malaria report 2008, pp:1‐2.

166

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TỶ LỆ NHIỄM KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT, THỰC TRẠNG MÀN   VÀ SỬ DỤNG MÀN Ở CỘNG ĐỒNG DÂN XàEA LỐP, HUYỆN EA SOUP   TỈNH DAK LAK NĂM 2011

Hồ Văn Hoàng*, Nguyễn Duy Sơn*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Để đạt được mục tiêu giảm chết, giảm mắc do sốt rét một trong những giải pháp ưu tiên hàng  đầu là ngủ màn phòng chống sốt rét. Việc đánh giá thực trạng màn và sử dụng màn của người dân sẽ giúp cho  việc lập kế hoạch phòng chống sốt rét.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở cộng đồng dân sống tại xã Ea Lốp, huyện Ea Soup,

tỉnh Dak Lak năm 2011 và đánh giá thực trạng màn và sử dụng màn của người dân trong phòng chống sốt rét.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, điều tra tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét, khảo sát

thực trạng màn và sử dụng màn của người dân xã Ea Lốp huyện Ea Soup, tỉnh Đak Lak năm 2011.

Kết quả: Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở người dân xã Ea Lốp là 6,15%; trong đó P.falciparum chiếm  ưu thế với 79,17%. Tỷ lệ người/màn tại xã nghiên cứu là 2,3. Tỷ lệ màn được tẩm hóa chất chiếm 97,37%. Tỷ lệ  người dân ngủ màn chiếm 88,46%, số người không ngủ màn chiếm 11,54%. Tỷ lệ màn có thủng và rách chiếm  50%.Tỷ lệ màn được bảo quản đúng chiếm tỷ lệ 42,11%.

Kết luận: Truyền thông giáo dục người dân ngủ màn và bảo quản màn đúng để nâng cao hiệu quả phòng

chống sốt rét.

Từ khóa: Ký sinh trùng sốt rét, màn.

ABSTRACT

THE PROPORTION OF MALARIA PARASITE INFECTION, THE SITUATION OF BEDNETS AND  THE USAGE OF THE BEDNETS AT THE COMMUNITY OF EA LOP COMMUNE, EA SOUP  DISTRICT, DAK LAK PROVINCE 2011

Ho Van Hoang*, Nguyen Duy Son

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 169 ‐ 174

Background: In order to achieve the targets of reducing malaria mortality and morbidity, sleeping under  bednets for malaria control is one of the top priorities. The evaluation of bednet status and people’s bednet usage  will be helpful for making malaria control plans.

Objectives: To identify the proportion of malaria parasite infection in the community residing in Ea Lop  commune,  Ea  Soup  district,  Dak  Lak  province  in  2011  and  to  evaluate  the  bednet  situation  and  usage  of  the  people for malaria control.

Methods: Cross‐sectional descriptive study, investigating malaria parasite infection rate, surveying bednet

situation and usage of the populations in Ea Lop commune, Ea Soup district, Dak Lak province in 2011.

Result: The proportion of malaria parasite infection in Ea Lop commune was 6.15%; of which P.falciparum  infection dominated with 79.17%. The proportion of person/bednet in the study commune was 2,3. The bednets  treated  with  insecticides  accounted  for  97.37%.  The  rates  of  inhabitants  sleeping  under  bednets  and  sleeping

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

167

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  without bednets were 88.46% and 11.54%, respectively. The torn bednets occupied 50%. The proportion of well‐ preserved bednets was 42.11%.

Conclusion: Increasing rates of bed‐net usage and proper bed‐net maintenance through health information,

communication and education to enhance the effectiveness of malaria control.

Keywords: Malaria parasite, bednet.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả.

Thiết kế nghiên cứu cắt ngang xác định tỷ lệ

nhiễm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR).

Cỡ  mẫu  theo  công  thức  tính  cho  điều  tra

ngang cộng đồng(4).

z

1(

p

)

×

2/

2 1 −α

n

=

p 2 d

Trong đó: n là cỡ mẫu cần cho nghiên cứu. Z  (1‐α/2)  =  1,96.  p  =  0,10  là  tỷ  lệ  theo  các  nghiên  cứu trước. d = 0,03 (sai số tuyệt đối). Tính toán  cho kết quả n=385 người.

Đối với điều tra sử dụng màn chỉ điều tra số  người trên 15 tuổi. Phỏng vấn tất cả hộ gia đình  được chọn trong nghiên cứu  ngang  để  điều  tra  thực trạng màn và sử dụng màn.

Kỹ thuật nghiên cứu

Kỹ  thuật  xét  nghiệm  lam  máu  tìm  KSTSR

trong máu.

Mặc  dù  tỷ  lệ  mắc  bệnh  sốt  rét  (SR)  giảm  nhưng nguy cơ tử vong do sốt rét ở cộng đồng  dân sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng vẫn  rất  cao,  bùng  phát  sốt  rét  có  thể  xảy  ra  nếu  không phòng chống sốt rét (PCSR) một cách có  hiệu quả(6,7). Chương trình PCSR ở Việt Nam dù  có  những  thành  công  đáng  kể  nhưng  tại  khu  vực Miền Trung‐Tây Nguyên (MT‐TN) công tác  PCSR  vẫn  còn  một  số  khó  khăn(5).  Để  đạt  được  mục  tiêu  giảm  chết,  giảm  mắc,  khống  chế  dịch  SR, một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu  là ngủ màn có tẩm hóa chất PCSR. Việc xác định  tỷ lệ hiện mắc SR cũng như đánh giá thực trạng  màn và sử dụng màn của người dân sẽ giúp cho  phòng  chống  SR  đạt  hiệu  quả  hơn.  Trên  cơ  sở  khoa học và thực tiễn công tác phòng chống sốt  rét  đề  tài:  “Tỷ  lệ  nhiễm  ký  sính  trùng  sốt  rét,  thực  trạng  màn  và  sử  dụng  màn  ở  cộng  đồng  dân  xã  Ea  Lốp,  huyện  Ea  Soup  tỉnh  Dak  Lak  năm  2011”  là  rất  cấn  thiết  nhằm  các  mục  tiêu  sau:

Kỹ thuật khám và kẹp nhiệt độ ở nách.

Kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp, điều tra hộ gia

đình.

Xác định tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở  cộng  đồng  dân  sống  tại  xã  Ea  Lốp,  huyện  Ea  Soup, tỉnh Dak Lak năm 2011.

Phân tích số liệu

Đánh  giá  thực  trạng  màn  và  sử  dụng  màn

Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA

của người dân trong phòng chống sốt rét.

8.0.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ

Địa điểm nghiên cứu

Xã Ea Lốp, huyện Ea Soup, tỉnh Đak Lak là

vùng sốt rét lưu hành nặng.

Bảng 1: Tỷ lệ mắc nhiễm KSTSR ở cộng đồng dân  sống tại xã Ealốp.  TT Thôn Số điều tra KSTSR (+) Tỷ lệ % 95% CI

Đối tượng nghiên cứu

Người dân và màn có trong dân ở xã Ia Lốp.

1 Thôn 1 2 Thôn 2 3 Thôn 3 Tổng cộng 128 130 132 390 7 9 8 24 5,47 2,23-10,94 6,92 3,21-12,74 6,06 2,65-11,59 3,98-9,02 6,15

Thời gian

Nghiên cứu được tiến hành năm 2011

Kết quả điều tra 390 người dân ở xã Ea Lốp  cho  thấy  tỷ  lệ  KSTSR  là  6,15%  (95%  CI:  3,98‐

168

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Phân tích 190 màn điều tra trong 390 người  dân tại xã nghiên cứu cho thấy có 150 màn đôi  chiếm  78,95%,  màn  đơn  có  40  chiếc  chiếm  21,05%.

3 Thôn 3 Tổng 66 190 52 150 91,23 78,95 14 40 8,77 21,05

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  9,02).  Tỷ  lệ  nhiễm  ở  thôn  1  là  5,47%,  thôn  2  là  6,92%, thôn 3 là 6,06%. Trong số 24 trường hợp  KSTSR (+) có 19 trường hợp nhiễm P.falciparum,  chiếm tỷ lệ cao nhất 79,17%; 4 trường hợp nhiễm  P.vivax chiếm 16,67%; và 4,17% nhiễm phối hợp  (P.f+P.v).

Bảng 2: Tỷ lệ giao bào và lách sưng ở cộng đồng dân.

Trong 190 màn có 31 màn người dân tự mua  chiếm  16,32%  và  159  màn  do  Dự  án  Quỹ  toàn  cầu  cấp  chiếm  83,68%.  Phân  tích  màu  của  màn  điều tra cho thấy có 167 màn có màu xanh chiếm  87,89% và 23 màn có màu trắng chiếm 12,11%.

Giao bào TT Thôn Số điều tra Tỷ lệ Tỷ lệ

Bàng 5: Tỷ lệ màn và ngủ màn trong cộng đồng dân.

1 Thôn 1 2 Thôn 2 3 Thôn 3 Tổng cộng 128 130 132 390 Số lượng (SL) 4 6 4 15 3,13 4,62 3,03 3,85 Lách sưng Số lượng 2 3 2 5 1,56 2,31 1,52 1,28 TT Nội dung Số lượng %

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  tỷ  lệ  nhiễm  giao  bào  là  3,85%.  Tỷ  lệ  này  tại  thôn  1  là  3,13%,  tại  thôn  2  là  4,62%,  tại  thôn  3  là  3,03%.  Tỷ  lệ  lách  sưng của người dân là 1,28%. Lách sưng ở thôn  1 là 1,56%, ở thôn 2 là 2,31%, ở thôn 3 là 1,52%.

1 2 3 4 Số hộ điều tra/số khẩu Số màn (quy thành đụi) Tỷ lệ người/màn Số ngủ màn 96/390 170 2,3 345 88,46 5 Số không ngủ màn 45 11,54

Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm KST SR theo giới trong cộng  đồng.

Phân tích số màn có trong 86 hộ điều tra cho  thấy tỷ lệ người/màn tại xã nghiên cứu là 2,3. Số  người  dân  ngủ  màn  chiếm  88,46%,  số  người  không ngủ màn chiếm 11,54%.

TT Đặc điểm Số điều tra KSTSR (+) Tỷ lệ %

1 Giới Nam Nữ 198 192 14 10 7,07 5,21

Bảng 6: So sánh tỷ lệ ngủ màn của các nhóm dân tộc.

0 – 5 136 6 4,41 2 Lứa tuổi TT 1 2 Dân tộc Ê đê Khác Điều tra 242 148 Ngủ màn 207 138 Tỷ lệ % 85,54 93,24 Tổng 390 345 88,46 > 5 – 15 > 15 Ê đê 142 112 242 8 10 18 5,63 8,93 7,44 3 Dân tộc Khác 148 6 4,05

Kết  quả  điều  tra  ngủ  màn  người  dân  tại  xã  nghiên  cứu  cho  thấy  tỷ  lệ  ngủ  màn  ở  nhóm  người Ê đê là 85,54%, tỷ lệ ngủ màn nhóm dân  tộc khác cao hơn là 93,24%.

186 14 7,53 4 Hoạt động Đi rừng, ngủ rẫy Khác 204 10 4,90

Bảng 7: Mục đích sử dụng màn của người dân tại  điểm nghiên cứu.

Sử dụng màn TT Thôn Điều tra* Để treo ngủ Đắp Bắt cá Không sử dụng

88 74 84,09 2 2,27 7 7,95 1 1,14 1 Thôn 1

Tỷ lệ nhiễm KSTSR ở nam là 7,07%, và ở nữ  là  5,21%.  Tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  ở  trẻ  0‐5  tuổi  là  4,41%,  từ  5‐15  tuổi  là  5,63%  và  trên15  tuổi  là  8,93%.  Tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  ở  người  Ê  đê  là  7,44%, và ở các dân tộc khác là 4,05%. Người có  đi  rừng  ngủ  rẫy  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  là  7,53%;  nhóm  người  không  có  hoạt  động  này  nhiễm  4,90%.

75 65 86,67 3 4,00 5 6,67 2 2,67 2 Thôn 2

82 70 85,37 3 3,66 6 7,32 3 3,66 3 Thôn 3

245 209 85,31 8 3,27 18 7,35 6 2,45 Tổng

Bảng 4: Loại kích cỡ màn có trong dân ở điểm điều  tra.

*(> 15 tuổi)

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  có  85,31%  người  trả  lời  dùng  màn  treo  ngủ,  3,27%  người  dùng

TT Thôn

1 Thôn 1 2 Thôn 2

Tổng số màn 60 64

Màn đôi % SL 85,71 48 87,72 50

Màn đơn % SL 14,29 12 12,28 14

169

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 12: Tỷ lệ màn được tẩm hóa chất phòng chống  nhiễm sốt rét.

Nghiên cứu Y học  màn  đắp,  7,35%  không  sử  dụng  màn  và  2,45  người có sử dụng màn để bắt cá.

Bảng 8: Tỷ lệ màn rách và hỏng trong dân.

TT Dân tộc Số màn Tỷ lệ %

TT Thôn Số màn Tỷ lệ %

Kết  quả  trên  cho  thấy  số  màn  có  thủng  và

Tỷ lệ màn được tẩm hóa chất chiếm 97,37%.  Tỷ  lệ  màn  được  tẩm  hóa  chất  ở  thôn  1  là  95%,  thôn 2 là 98,44% và thôn 3 là 98,48%.

rách chiếm 50% số màn điều tra.

1 2 3 Thôn 1 Thôn 2 Thôn 3 Tổng 60 64 66 190 Số màn được tẩm hóa chất 57 63 65 185 95,00 98,44 98,48 97,37 1 2 3 Thôn 1 Thôn 2 Thôn 3 Tổng 60 64 66 190 Màn rách và hỏng 29 37 29 95 48,33 57,81 43,94 50,00

BÀN LUẬN

Bảng 9: Hình thức màn hỏng trong dân.

Thủng Rách

TT Thôn

Mất 1 mảng màn

Về  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  trong  cộng  đồng  dân ở xã Ea Lốp

Số màn

Tổng

Rách ở góc màn SL % SL % SL % SL % 1 Thôn 1 60 12 20.00 6 10.00 4 6.67 9 15.00 2 Thôn 2 64 15 23.44 8 12.50 3 4.69 11 17.19 3 Thôn 3 66 9 13.64 6 9.09 2 3.03 12 18.18 190 36 18.95 20 10.53 9 4.74 32 16.84

Phân  tích  số  màn  hỏng  trong  dân  cho  thấy  trong số 190 màn có 18,95% màn thủng, 10,53%  màn  rách,  4,74%  màn  có  mảng  rách  và  16,84%  màn có rách ở góc màn.

Bảng 10: Diện tích lỗ thủng và mảng rách của màn.

TT

Loại hỏng

Số lỗ thủng / rách Trung bình diện tích thủng/mảng rách (cm2) ±Độ lệch Trung bình lỗ thủng (mảng rách/màn

Số màn thủng / rách 36 9

Kết quả phân tích cho thấy trung bình có 2 lỗ  thủng/màn có thủng với diện tích lỗ thủng trung  bình 9,91cm2. Đối với mảng rách, trung bình có  1,89  /màn  có  mảng  rách,  trung  bình  diện  tích  mảng rách là 17,18 cm2.

Kết quả điều tra xã nghiên cứu cho thấy tỷ lệ  KSTSR là 6,15%. Tỷ lệ nhiễm KSTSR ở các điều  tra tại cộng đồng dân tại xã này cao hơn nhiều  so  với  tỷ  lệ  nhiễm  chung  của  khu  vực  MT‐TN  chỉ 1,14% (năm 2010) và 0,90% (năm 2011) cũng  như  tại  các  cộng  đồng  dân  sống  cố  định  trong  vùng  sốt  rét  lưu  hành(5).  Tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  ở  đây cao hơn có thể là do có nhiều người dân ở  xã  này  có  hoạt  động  đi  rừng  ngủ  rẫy.  Nghiên  cứu  về  nhiễm  KSTSR  người  dân  ngủ  rẫy  tại  Quảng Trị cho thấy tỷ lệ nhiễm là 6,95%(1). Một  số  điều  tra  từ  2003‐2004  tại  các  điểm  có  dân  đi  rừng, ngủ rẫy cho thấy tỷ lệ nhiễm rất cao: Ngọc  Lây (Kon Tum) là 8,85%, Ia O (Gia Lai) là 7,08%,  Sơn Thái (Khánh Hoà) là 29,77%, Thanh (Quảng  Trị) là 6,77%(2). Các biện pháp PCSR thường quy  chưa  có  hiệu  quả  và  người  dân  chưa  có  ý  thức  cao  về  tự  bảo  vệ  khi  đi  vào  rừng,  rẫy.  Kết  quả  điều  tra  cũng  cho  thấy  ở  nhóm  người  có  hoạt  động  đi  rừng  ngủ  rẫy  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  là  7,53%, nhóm người không có hoạt động này chỉ  nhiễm 4,90%.

1 Lỗ thủng 2 Mảng rách 72 17 2,00 1,89 9,91±7,80 17,18±3,15

Bảng 11: Tỷ lệ bảo quản màn đúng của người dân.  Bảo quản đúng Bảo quản sai

TT Thôn

1 Thôn 1

Số màn 60

Tỷ lệ nhiễm KSTSR cao nhất ở người trên15  tuổi  là  8,93%.  Điều  này  được  giải  thích  do  đối  tượng  này  thường  xuyên  có  các  hoạt  động  đi  rừng ngủ rẫy.

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  có  80  màn  được  bảo  quản  đúng  chiếm  tỷ  lệ  42,11%  và  57,89%  màn bảo quản không đúng.

Về  tỷ  lệ  nhiễm  theo  dân  tộc,  tỷ  lệ  KSTSR  ở  nhóm người Ê đê là 7,44%, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở  nhóm  dân  tộc  khác  thấp  hơn  chỉ  chiếm  4,05%.  Điều này là do kiến thức và thực hành tự bảo vệ

SL 26 % 43,33 SL 34 % 56,67 2 Thôn 2 64 26 40,63 38 59,38 3 Thôn 3 66 28 42,42 38 57,58 Tổng 190 80 42,11 110 57,89

170

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  PCSR của nhóm dân Ê đê còn hạn chế. Kết quả  phân tích cho thấy tỷ lệ ngủ màn của người dân  Ê  đê  chỉ  chiếm  85,54%  so  với  93,24%  ở  người  nhóm khác.

Hóa, Dak Rông (Quảng Trị) cũng cho thấy tỷ lệ  ngủ màn cũng chỉ đạt dưới 75%. Nghiên cứu tại  Nam Trà My năm 2001 tỷ lệ người/màn là 3,29,  tỷ  lệ  treo  màn  32,68%(3).  Như  vậy  mặc  dù  tỷ  lệ  màn  có  tăng  cao  nhưng  thói  quen  ngủ  trong  màn  vẫn  chưa  tăng,  một  trong  những  nguyên  nhân làm cho tình hình sốt rét phức tạp.

Cơ cấu KSTSR tại điểm này  chủ  yếu  vẫn  là  P.falciparum  chiếm  ưu  thế  79,17%,  sau  đó  đến  P.vivax chiếm 16,67%. Cơ cấu P.falciparum ưu thế  cũng  phù  hợp  với  cơ  cấu  loài  ở  các  vùng  khác  của khu vực MT‐TN (giai đoạn 2006‐2010, về cơ  cấu  KSTSR  ở  khu  vực  này  thì  P.falciparum  vẫn  chiếm ưu thế với tỷ lệ từ 76,45% đến 85,28%)(5).

Tỷ  lệ  nhiễm  giao  bào  của  người  dân  là  3,85%. Giao bào là thể KSTSR mặc dù không gây  sốt nhưng là thể làm lan truyền bệnh trong cộng  đồng.  Vì  vậy  trong  phác  đồ  điều  trị  cần  chú  ý  các thuốc diệt thể giao bào hạn chế lây lan trong  cộng đồng, nhất là khi có sự gia tăng mật độ các  loài muỗi sốt rét, có nguy cơ xảy dịch.

Thực trạng màn và sử dụng màn của người  dân

Về sử dụng màn, chỉ có 85,31% người trả lời  dùng màn treo ngủ, 3,27% người dùng màn đắp,  7,35% không sử dụng màn và 2,45 người có sử  dụng màn để bắt cá. Việc dùng màn bắt cá hoặc  không  dùng  đã  hạn  chế  hiệu  quả  sử  dụng  của  màn chống muỗi. Việc bảo quản màn có vai trò  rất quan trọng trong việc kéo dài tuổi thọ và khả  năng sử dụng của màn. Trong điều tra này màn  có  thủng  và  rách  chiếm  50%  do  việc  bảo  quản  không  được  tốt  (57,89%  màn  bảo  quản  không  đúng  chiếm  tỷ  lệ).  Phân  tích  cũng  cho  thấy  những người không ngủ màn ở vùng sốt rét có  nguy  cơ  nhiễm  sốt  rét  gấp  15,13  lần  so  với  những  người  thường  xuyên  ngủ  màn,  sự  khác  biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

KẾT LUẬN

Tỷ  lệ  nhiễm  ký  sinh  sốt  rét  trong  cộng  đồng dân xã Ea Lốp

Tỷ  lệ  nhiễm  ký  sinh  trùng  sốt  rét  ở  người

dân xã Ea Lốp là 6,15%.

Nam  giới  nhiễm  KSTSR  7,07%,  tỷ  lệ  nhiễm

Phân tích số màn điều tra cho thấy màn đôi  chiếm phần lớn 78,95%. Việc sử dụng màn đơn  trong  cộng  đồng  dân  hiện  nay  thấp  hơn  màn  đôi. Hiện nay, xã Ea Lốp được Dự án Quỹ toàn  cầu  hỗ  trợ  về  màn  PCSR.  Tuy  nhiên  cũng  có  6,32%  số  màn  do  người  dân  tự  mua  bổ  sung  trong  quá  trình  sử  dụng.  Về  màu  sắc,  cho  thấy  có  màn  màu  xanh  chiếm  đa  số  với  87,89%  và  màn màu trắng chỉ chiếm 12,11%.

KSTSR ở nữ là 5,21%.

Tỷ lệ KSTSR ở trẻ 0‐5 tuổi là 4,41%, 5‐15 tuổi

là 5,63% và >15 tuổi là 8,93%.

Tỷ lệ KSTSR ở người Ê đê là 7,44%, ở nhóm

dân tộc khác là 4,05%.

Người  có  hoạt  động  đi  rừng  ngủ  rẫy  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  là  7,53%,  nhóm  người  không  có  hoạt động này nhiễm 4,90%.

Tỷ  lệ  lách  sưng  ở  người  dân  là  1,28%;  tỷ  lệ

Tỷ lệ người/màn tại xã nghiên cứu là 2,3. Về  lý  tưởng  thì  mỗi  người  một  màn  đơn  hoặc  2  người/màn  đôi  nhưng  với  tỷ  lệ  2,3  người/màn  cũng đáp ứng được sự bảo vệ của người dân khi  ngủ  màn  tránh  muỗi  đốt.  Một  số  điều  tra  khác  cho  thấy  tỷ  lệ  người/màn  là  2,65  tại  xã  Thanh  (Quảng  Trị);  2,71  tại  xã  Trà  Don  (Quảng  Nam)  và 2,73 tại xã Ia O, Gia Lai. So với các xã này thì  tỷ  lệ  người/màn  của  Ia  Lốp  đảm  bảo  hơn,  có  nghĩa là một màn bao phủ cho 2,3 người(3).

giao bào là 3,85%.

Loài P.falciparum chiếm ưu  thế  với  tỷ  lệ  cao  nhất  79,17%,  P.vivax  chiếm  16,67%  và  4,17%  nhiễm phối hợp (P.falciparum+P.vivax).

Tuy nhiên điều quan trọng là người dân có  ngủ trong màn hay không. Kết quả điều tra cho  thấy số người ngủ màn chiếm 88,46%, số không  ngủ  màn  chiếm  11,54%.  Khảo  sát  tại  Hướng

171

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

nhằm  điều  trị  sớm  và  làm  giảm  tỷ  lệ  hiện  mắc  trong cộng đồng dân.

Thực  trạng  màn  và  sử  dụng  màn  PCSR  ở  người dân xã Ia Lốp

Tỷ lệ màn đôi là 78,95%, màn đơn là 21,05%.

Màn người dân tự mua là 16,32% và do Dự

án cấp chiếm 83,68%.

Tỷ  lệ  màn  có  màu  xanh  chiếm  87,89%  và

Tăng cường truyền thông giáo dục sức khoẻ  về chương trình phòng chống sốt rét, tập trung  vào hình thức trực tiếp thông qua nhân viên y tế  nhằm  nâng  cao  hơn  nữa  tỷ  lệ  ngủ  màn  và  bảo  quản màn trong dân.

màu trắng chiếm 12,11%.

Tỷ lệ người/màn tại xã nghiên cứu là 2,3. Tỷ  lệ  người  dân  ngủ  màn  chiếm  88,46%,  số  người  không ngủ màn chiếm 11,54%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến (2007). Một số yếu tố xã hội  học  liên  quan  dến  lan  truyền  sốt  rét  dai  dẳng  ở  2  huyện  Dak  Rông, Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị. Tạp chí phòng chống bệnh  sốt  rét  và  các  bệnh  ký  sinh  trùng,  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Trung  ương, số 4/2007, tr. 10‐16.

Tỷ lệ ngủ màn ở nhóm người Ê đê là 85,54%,  tỷ  lệ  ngủ  màn  nhóm  dân  tộc  khác  cao  hơn  là  93,24%.

2. Hồ Văn Hoàng (2006). Di cư tự do, ngủ rẫy và nguy cơ gia tăng  sốt rét ở các tỉnh miền Trung‐Tây Nguyên. Tạp chí y học thực  hành, số 3 (537)/2006 tr.23‐27.

3. Hồ Văn Hoàng, Triệu Nguyên Trung (2011). Nghiên cứu yếu tố  nguy cơ ở một số xã có sốt rét dai dẳng tại các tỉnh Quảng Trị,  Quảng  Nam,  Gia  Lai  và  áp  dụng  một  số  biện  pháp  nâng  cao  hiệu quả phòng chống bệnh sốt rét. Tạp chí y học thực hành, số  796)/2011, tr. 16‐20.

Tỷ  lệ  màn  có  thủng  và  rách  chiếm  50%;  trong  đó  18,95%  màn  thủng,  10,53%  màn  rách,  4,74% màn có mảng rách và 16,84% màn có rách  ở góc màn.

4. Trường Đại học Y Hà Nội (1999). Dịch tễ học và thống kê ứng

Tỷ lệ màn được bảo quản đúng chiếm tỷ lệ

dụng trong NCKH, tr.98‐114.

42,11%; 57,89% màn bảo quản không đúng.

Tỷ lệ màn được tẩm hóa chất chiếm 97,37%.

5. Viện sốt rét KST‐CT Quy Nhơn (2011). Đánh giá công tác phòng  chống  sốt  rét  2006‐2010,  định  hướng  kế  hoạch  2011,  khu  vực  miền  Trung  ‐Tây  Nguyên.  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Quy  Nhơn,  2011.

6. Viện sốt rét KST‐CT TW (2011). Tổng kết công tác PCSR và giun

sán 2006‐2010 và triển khai kế hoạch 2011.

7. WHO (2009). Malaria Report, pp.27‐28

Người  không  ngủ  màn  ở  vùng  sốt  rét  có  nguy  cơ  nhiễm  sốt  rét  gấp  15,13  lần  so  với  những người thường xuyên ngủ màn (p<0,001).

KIẾN NGHỊ

Tổ chức hệ thống giám sát thường quy phát  hiện KSTSR, chủ động quản lý các ca mắc sốt rét

172

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

THỰC TRẠNG BỆNH SỐT RÉT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN  PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT‐ LÀO   HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ NĂM 2010

Hồ Văn Hoàng*, Nguyễn Duy Sơn*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sốt rét biên giới là một vấn đề cấp thiết cần đánh giá để có biện pháp can thiệp nhằm giảm tỷ lệ

mắc và chết ở người dân sống tại vùng biên giới.

Mục tiêu: Đánh giá thực trạng bệnh sốt rét tại vùng biên giới Việt‐Lào huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

và mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến phòng chống sốt rét ở vùng biên giới.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả dịch tễ học.

Kết quả: Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét tại cộng đồng dân vùng biên giới Việt‐Lào là 4,22%. Tỷ lệ ngủ  màn của người dân vùng biên  giới  còn  thấp,  chiếm  72,10%.  Tỷ  lệ  đến  cơ  sở  y  tế  khám  xét  nghiệm  61,19%‐ 89,87%. Số người giao lưu biên giới nhận thuốc tự điều trị 60,20%‐75,15%. Ngủ màn trong quá trình giao lưu  qua biên giới 52,74%‐59,39%. Người có giao lưu biên giới nhiễm sốt rét cao gấp 5,37 lần người không giao lưu  biên giới (p<0,001).

Kết  luận: Nguy cơ mắc sốt rét ở người dân vùng biên giới Việt‐Lào rất cao, cần áp dụng các biện pháp

phòng chống sốt rét tích cực để giảm mắc và chết do sốt rét tại vùng biên giới.

Từ khóa: Sốt rét biên giới.

ABSTRACT

MALARIA SITUATION AND SOME FACTORS AFFECTING MALARIA CONTROL   ALONG VIET‐LAO BORDER IN HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE IN 2010

Ho Van Hoang*, Nguyen Duy Son

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 1756 ‐ 180

Background:  Border  malaria  is  one  of  the  urgent  problems  which  need  to  be  evaluated  and  applied

interventional measures to reduce morbidity and mortality for people living in the border area.

Objectives: To evaluate malaria situation in the border area of Viet‐ Lao in Huong Hoa district, Quang Tri

province and describe some factors affecting malaria control in Viet‐Lao border area.

Methods:  A  cross‐sectional  descriptive  study  was  conducted  to  identify  the  infection  rate  of  malaria

parasites and to analyse some risk factors for malaria infection in the community along Viet‐Lao border.

Result: The proportion of malaria parasite infection in Viet‐Lao border area was 4.22%. The proportion of  border people sleeping under bednets was still low, accounted for 72.10%. The patients going to health facilities  for  medical  examination  occupied  from  61.19%  to  89.87%.  The  rate  of  border‐crossing  people  receiving  antimalarial  drugs  for  self‐treatment  was  60.20%‐75.15%.  The  people  sleeping  under  bednets  when  crossing  border made up 52.74%‐59.39%. The people who cross border were 5.37 times more likely to get infected with  malaria than those who do not (p<0.001).

Conclusion: The risk of malaria infection in the community along Viet‐Lao border was very high, so it is  necessary to apply active malaria control measures to reduce mortality and morbidity due to malaria in the boder

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

173

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  area.

Keywords: Border malaria.

Muỗi  Anopheles,  sinh  cảnh  vùng  nghiên

ĐẶT VẤN ĐỀ

cứu. Y tế thôn bản và xã.

Thời gian nghiên cứu

Năm 2010.

Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp hồi cứu.

Hồi  cứu  số  liệu  bệnh  nhân  sốt  rét  (BNSR),  sốt rét ác tính, tử vong sốt rét tại các xã nghiên  cứu từ 2006‐2010.

Phương pháp mô tả dịch tễ học

So  sánh  với  khu  vực  khác,  chương  trình  phòng  chống  bệnh  sốt  rét  của  miền  Trung‐Tây  Nguyên vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt ở các  vùng  biên  giới  Việt‐Lào.  Tại  khu  vực  biên  giới  với Lào, giao lưu của dân cư khu vực biên giới  thường xuyên xảy ra tại đây nên việc kiểm soát  bệnh rất khó khăn(4,5). Tại các vùng này, các biện  pháp  phòng  chống  sốt  rét  thường  quy  chưa  mang lại hiệu quả cao, số bệnh nhân sốt rét vẫn  duy trì với số giảm không đáng kể trong nhiều  năm như Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị(2).

Thiết  kế  nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  xác  định tỷ lệ mắc bệnh, KSTSR, giao bào, lách sưng.

Cỡ  mẫu  theo  công  thức  nghiên  cứu  cắt

ngang(3).

z

qp

2 1 −α

n

=

× 2

Để  đạt  được  các  mục  tiêu  này  cần  có  định  hướng  ưu  tiên  tìm  các  giải  pháp  thích  hợp  cho  những  vùng  biên  giới  và  đề  xuất  áp  dụng  các  biện pháp hiệu quả nhằm duy trì thành quả đã  đạt  được,  việc  tiến  hành  đề  tài  này  là  rất  cần  thiết nhằm các mục tiêu sau:

2/ d

Đánh  giá  thực  trạng  bệnh  sốt  rét  tại  vùng  biên  giới  Việt‐Lào  huyện  Hướng  Hóa,  tỉnh  Quảng Trị năm 2010.

Mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến phòng

chống sốt rét ở vùng biên giới Việt‐ Lào.

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Trong đó: với α=0,05, thì Z(1‐α/2)= 1,96. p là  tỷ lệ KSTSR ở người dân vùng biên giới ở miền  Trung‐Tây  Nguyên  khoảng  10%,  q  =(1‐  p)=1‐ 0,10=  0,90.  d:  Độ  chính  xác  tuyệt  đối,  chọn  d=0,03.  Tính  toán,  nghiên  cứu  cần  số  mẫu  385  người, để bổ sung cho các trường hợp không thu  thập  được  số  liệu,  cộng  thêm  10%  vào  mẫu,  vì  vậy mỗi xã cần điều tra 430 người.

Địa điểm nghiên cứu

Các kỹ thuật nghiên cứu

Kỹ thuật xét nghiệm máu tìm KSTSR.

Kỹ  thuật  khám  lâm  sàng  phát  hiện  sốt  và

lách sưng.

Kỹ thuật phỏng vấn, quan sát.

Phân tích số liệu

Huyện  Hướng  Hoá,  tỉnh  Quảng  Trị  là  một  huyện  sốt  rét  nặng  gồm  22  xã,  dân  số  75.000  người;  trong  11  xã  biên  giới  2  nước  Việt  –  Lào  chọn 3 xã: Thanh, Xy, Lao Bảo có nhiều dân giao  lưu  qua  biên  giới  nhiều  nên  tình  hình  sốt  rét  luôn luôn biến động phức tạp để nghiên cứu.

Sử dụng phần mềm STATA 8.0 để phân tích

Đối tượng nghiên cứu

số liệu.

Người dân sống tại 3 xã Xy, Thanh, Lao Bảo.  Người Lào sang tạm trú hoặc giao lưu sang Việt  Nam. Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR).

KẾT QUẢ

174

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 1: Diễn biến mắc sốt rét theo các tháng từ 2006‐2010 tại các xã biên giới.

Phân  tích  số  BNSR  theo  các  tháng  trong  5  năm  2006‐2010  tại  3  xã  biên  giới  cho  thấy  mắc  sốt rét xảy ra quanh năm, có ở  tất  cả  các  tháng  nhưng  tăng  cao  vào  các  tháng  8‐9‐10  tạo  thành  đỉnh cao của mùa bệnh sốt rét trong năm.

Kết  quả  điều  tra  cắt  ngang  cho  thấy  tỷ  lệ  bệnh nhân sốt rét là 4,36%, nhiễm KSTSR ở 3 xã  biên giới là 4,22%. Trong đó tỷ lệ KSTSR ở xã Xy  là  4,79%;  xã  Thanh  là  4,04%  và  xã  Lao  Bảo  là  3,85%.

Tháng Xã 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Trung bình 7,40 10,00 13,60 13,40 20,40 24,80 24,20 23,40 31,20 37,20 18,60 11,00 Xy Độ lệch 4,93 4,58 4,39 3,58 3,29 2,17 2,05 6,99 5,93 16,16 9,58 3,32 Trung bình 6,40 7,20 11,20 14,40 17,60 18,20 11,80 18,80 22,00 24,80 21,60 7,60 Thanh Độ lệch 1,67 2,05 2,17 5,08 4,77 3,83 0,45 2,86 4,06 3,27 11,76 2,07 Trung bình 6,00 6,20 10,00 7,80 9,00 8,40 7,40 12,80 12,20 9,80 6,80 5,80 Lao Bảo Độ lệch 1,00 1,10 1,22 1,64 5,29 1,82 1,14 0,84 2,77 6,72 2,49 1,79

Bảng 2: Tỷ lệ mắc bệnh và nhiễm KSTSR tại các xã  biên giới.

Tỷ lệ giao bào ở 3 xã là 2,37% (CI95%: 1,62‐ 3,33). Tỷ lệ giao bào ở xã Xy là 1,42%; xã Thanh  là 2,24%; xã Lao Bảo là 2,14%.

BNSR KSTSR TT Xã· Số khám

Phân  tích  cơ  cấu  KSTSR  cho  thấy  loài  P.falciparum  chiếm  ưu  thế  đến  75,44%;  P.vivax  chiếm 21,05% và phối hợp chiếm 3,51%.

Xy

438 1 446 2 Thanh 3 Lao Bảo 468 1352 Tổng SL % CI95% SL % 22 5,02 21 4,79 2,99-7,24 19 4,26 18 4,04 2,41-6,30 18 3,85 18 3,85 2,30-6,01 59 4,36 57 4,22 3,21-5,43

Bảng 3: Phân bố nhiễm KSTSR theo đối tượng ở các xã nghiên cứu.

Tại chỗ Có sang Lào Người Lào Xã khác TT Xã KSTSR (+)

Xy

Phân tích kết quả điều tra cắt ngang cho thấy trong số 57 KSTSR có 45,61% nhiễm tại chỗ, 19,30%  nhiễm ở người Việt có giao lưu sang Lào về, 26,32% là người Lào sang Việt Nam và 26,89% là người từ  các xã khác đến.

người  đi  theo  đường  tiểu  ngạch,  chỉ  có  26,92%  nhiễm KSTSR qua đường cửa khẩu.

1 2 3 Thanh Lao Bảo Tổng Số lượng (SL) 10 8 8 26 % 47,62 44.44 44,44 45,61 21 18 18 57 SL 4 4 3 11 % 19,05 22,22 16,67 19,30 SL 6 4 5 15 % 28,57 22,22 27,78 26,32 SL 1 2 2 5 % 4,76 11,11 11,11 26,98

Bảng 4: Nhiễm KSTSR theo đường giao lưu ở các xã  nghiên cứu.

Cửa khẩu có kiểm soát

Bảng 5: Mối liên quan giữa giao lưu biên giới và  nhiễm sốt rét.

TT Năm Không qua cửa khẩu (Tiểu ngạch) KSTSR (+)

Phân  tích  số  nhiễm  KSTSR  ở  người  có  giao  lưu  biên  giới  cho  thấy  73,08%  nhiễm  KSTSR  ở

Kết  quả  bảng  trên  cho  thấy  người  có  giao  lưu biên giới nguy cơ nhiễm sốt rét gấp 5,37 lần  người không có giao lưu biên giới (p<0,01).

Giao lưu Có giao lưu biên giới Không giao lưu biên giới Tổng KSTSR(+) KSTSR(-) Tổng 201 1151 1352 26 31 57 1 2 3 Xy Thanh Lao Bảo 10 8 8 SL 8 5 6 % 80,00 62,50 75,00 SL 2 3 2 % 20,00 37,50 25,00 175 1120 1295 OR=5,37 (3,01-9,57) χ2=44,45, p<0,001 Tổng 26 19 73,08 7 26,92

175

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 8: Kiến thức, thái độ và thực hành của người  dân tại các xã nghiên cứu.

Nghiên cứu Y học  Bảng 6: Mối liên quan giữa ngủ màn khi giao lưu  biên giới và nhiễm sốt rét.

KSTSR(+) KSTSR(-) Tổng TT 18 79 97 Kiến thức, thái độ và thực hành người dân

96 8 104 73,2 70,6 1 3 116 5 145 175 26 201* 43,4 48,7 2 6 86 3 102 Ngủ màn Không ngủ màn khi qua biên giới Có ngủ màn khi giao lưu biên giới Tổng OR= 2,73 (1,05-7,28), χ2=5,26, p<0,05 73,2 73,6 3

* Chỉ tính số người có giao lưu biên giới.

Kết quả bảng trên cho thấy người không ngủ  màn khi giao lưu biên giới có nguy cơ nhiễm sốt  rét gấp 2,73 lần người có ngủ màn khi giao lưu  biên giới (p<0,05).

Phân  tích  khả  năng  tiếp  cận  y  tế  của  người

dân tại các xã nghiên cứu.

Y tế xã không thường xuyên phát hiện bệnh  tại thôn bản. Người dân chỉ tiếp cận được với y  tế  thôn  bản;  đặc  biệt  về  mùa  mưa,  rất  khó  tiếp  cận y tế xã.

Trong tổng số 28 y tế thôn bản tại 3 xã chỉ có  5/28 y tế thôn bản được đào tạo 3 tháng, còn lại  23/28  nhân  viên  chỉ  được  đào  tạo  1  tuần.  Tỷ  lệ  trả  lời  đúng  các  câu  hỏi  liên  quan  đến  triệu  chứng  bệnh,  sử  dụng  thuốc  sốt  rét  chỉ  đạt  từ  50% đến 83,33%. Về kỹ năng, thực hành đạt yêu  cầu  lấy  lam  và  kẹp  nhiệt  độ  chỉ  từ  66,66%  đến  75%. Làm lam giọt đặc đạt yêu cầu từ 66,66‐70%.

Muỗi là nguyên nhân lan truyền bệnh sốt rét KSTSR là nguyên nhân gây bệnh sốt rét Tác hại xấu của bệnh SR đối với sức khoẻ 3 127 3 145 74,7 72,1 Bệnh SR nguy hiểm 4 5 136 4 148 70,2 81.5 5 Ngủ màn phòng được SR 9 139 0 121 72,1 64,1 6 Thường xuyên ngủ màn 4 127 4 119 61,1 63,1 7 Đến cơ sở y tế khi bị bệnh 9 125 3 142 66,6 71,7 8 7 142 2 136 60,2 62,6 9 0 124 3 96 62,6 62,6 10 9 124 3 112 52,7 49,4 11 Bệnh SR có thể phòng chống được Nhận thuốc tự điều trị khi giao lưu biên giới Khi qua biên giới, ngủ rẫy có mang màn Ngủ màn khi đi rẫy và qua biên giới Lao Bảo Xy Thanh (n=201) (n=186) (n=198) SL % SL % SL % 62,3 14 7 2 54,8 4 68,2 8 73,1 2 65,0 5 63,9 8 76,3 4 73,1 2 51,6 1 60,2 2 46,2 4 98 14 8 14 5 16 4 14 5 12 3 13 4 12 1 12 6 10 6 4 98 9 86

Bảng 7: Chất lượng xét nghiệm của xét nghiệm viên  điểm kính hiển vi.

Phần  lớn  người  dân  biết  muỗi  là  nguyên  nhân  lan  truyền  bệnh  sốt  rét  (73,43%‐87,88%);  người  dân  tin  tưởng  ngủ  màn  phòng  chống  được bệnh sốt rét (>76,58%‐84,24%). Tỷ lệ đến cơ  sở  y  tế  khám  xét  nghiệm  61,19%‐89,87%.  Số  người giao lưu biên giới nhận thuốc tự điều trị  60,20%‐75,15%.  Ngủ  màn  trong  quá  trình  qua  biên giới 52,74%‐59,39%.

Loại sai sót

BÀN LUẬN

TT Số sai sót Điểm kính Lam kiểm tra Âm tính giả Dương tính giả 1 Thanh 10 2 (20%) 1 (50%) 1 (50%)

2 Xy 10 1 (10%) 0 0 Sai chủng 0 1 (100%)

Thực trạng bệnh sốt rét tại vùng biên giới  Việt – Lào huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng  Trị

3 Lao Bảo 10 1 (10%) 1(100%) 0 0

Hướng  Hóa  là  1  huyện  biên  giới  Việt‐Lào,  với địa bàn rất phức tạp về giao lưu của 2 phía  tạo  nên  sự  di  biến  động  phức  tạp  tại  khu  vực  biên giới này. Thống kê 2.721 bệnh nhân sốt rét  của 3 xã này trong 5 năm 2006‐2010 cho thấy có  13,78% người phía Việt Nam mắc sốt rét có giao  lưu qua biên giới và 7,35% là bệnh nhân người  Lào.  Bên  cạnh  đó  có  23,30%  số  mắc  sốt  rét  là  người  từ  các  xã  khác  đến.  Số  liệu  điều  tra  cắt

Kết quả kiểm tra chất lượng xét nghiệm cho  thấy tỷ lệ sai sót của kỹ thuật viên điểm kính ở 3  điểm kính là 13,33%. Tỷ lệ sai sót ở xã Thanh là  20%, xã Xy là 10% và xã Lao Bảo là 10%. Số sai  sót  chủ  yếu  là  âm  tính  giả  (không  phát  hiện  được KSTSR khi lam máu có KSTSR) chiếm 50%  (2/4) số sai sót.

Tổng số 30 2 (50%) 1 (25%) 1 (25%) 4 (13,33%)

176

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân tại khu  vực biên giới.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  ngang trên 1.325 người dân tại 3 xã biên giới cho  thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét là 4,22%.  Trong số 57 trường hợp nhiễm KSTSR có 19,30%  là  người  Việt  có  sang  Lào  về,  26,32%  là  người  Lào sang Việt.

Y tế thôn bản mặc dù có nhưng chất  lượng  lượng hoạt động hạn chế, thực sự y tế thôn bản  chỉ  có  vai  trò  tham  gia  hoạt  động,  vì  có  tới  82,14% y tế thôn bản chỉ được đào tạo 7 ngày về  phòng  chống  sốt  rét.  Những  y  tế  thôn  bản  này  thực hành kẹp nhiệt độ cũng chỉ đạt yêu cầu từ  66,66%‐75%;  lấy  lám  máu  giọt  đặc  chỉ  đạt  66,66%‐70%.

Điều tra của Hoàng Hà (Quảng Trị) tại 3 xã  Xy, Thanh, Thuận của huyện Hướng Hóa và 14  thôn của Lào giáp với 3 xã trên cho thấy về phía  Việt  Nam  tỷ  lệ  hiện  mắc  sốt  rét  là  1,81%;  phía  Lào tỷ lệ hiện mắc là 5,20%. Tỷ lệ phía Lào mắc  sốt rét cao  hơn  phía  Việt  Nam.  Trong  số  BNSR  cho  thấy  92%  người  Lào  và  17%  người  Việt  có  qua  lại  biên  giới  trong  12  tháng  vừa  qua,  39%  người Lào và 34% người Việt cho biết có người  mắc sốt rét trong 12 tháng vừa qua(2).

Một  lý  do  khác  cũng  góp  phần  ảnh  hưởng  chất lượng điều trị là kỹ năng soi của xét nghiệm  viên  điểm  kính  hiển  vi.  Kết  quả  khảo  sát  cho  thấy, chất lượng xét nghiệm của xét nghiệm viên  điểm kính tại 3 xã này vẫn còn một số sai sót, tỷ  lệ sai sót đến 13,33% (10%‐20%).

Đối  với  những  đối  tượng  này  nguy  cơ  gia  tăng  sốt  rét  vẫn  tiềm  ẩn  tại  các  vùng  có  sốt  rét  lưu  hành  và  cả  người  ở  vùng  không  có  sốt  rét  lưu hành.

Nghiên cứu tại các vùng sốt rét dai dẳng tại  một số vùng khu vực MT‐TN cũng cho nhận xét  là hệ thống y tế với số lượng và chất lượng hạn  chế ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động  phòng chống sốt rét.

Về  cơ  cấu  KSTSR,  kết  quả  phân  tích  cho  thấy  tại  các  điểm  điều  tra  này  chủ  yếu  vẫn  là  P.falciparum  chiếm  ưu  thế  75,44%.  Với  tỷ  lệ  P.falciparum  ưu  thế  cũng  phù  hợp  với  cơ  cấu  loài ở các vùng khác của khu vực miền Trung‐ Tây Nguyên. P.falciparum ưu thế là yếu tố gây  nên  sốt  rét  ác  tính  và  tử  vong  cao  ở  những  người  di  biến  động,  giao  lưu  biên  giới  khi  bị  nhiễm sốt rét(4).

Những dẫn liệu trên cho thấy hoạt động của  hệ thống y tế phục vụ cho phòng chống sốt rét  chất  lượng  còn  nhiều  hạn  chế.  Nghiên  cứu  của  Đoàn Hạnh Nhân tại 2 huyện có sốt rét dai dẳng  Hướng  Hóa  và  Dak  Rông  cũng  cho  nhận  xét  rằng giám sát và hoạt động PCSR của tuyến xã,  thôn bản còn hạn chế, thiếu bác sỹ, y tế xã tham  gia quá nhiều hoạt động(1).

Tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  ở  các  điều  tra  tại  cộng  đồng dân giao lưu biên giới cao hơn nhiều so với  tỷ lệ nhiễm chung của khu vực MT‐TN chỉ 0,93%  (năm  2007)  và  0,69%  (năm  2008),  1,14%  (năm  2010) và 0,90% (năm 2011) cũng như tại các cộng  đồng  dân  sống  cố  định  trong  vùng  sốt  rét  lưu  hành(4).

Một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng dẫn đến  sốt rét giao lưu.

Bên cạnh đó kiến thức, thái  độ,  thực  hành  của người dân vùng biên giới còn hạn chế. Kết  quả điều tra tại 3 xã này cho thấy chỉ có 48,76%  đến 64,56% biết nguyên nhân gây bệnh sốt rét  là  KSTSR,  73,42%  đến  88,75%  biết  muỗi  là  nguyên  nhân  lan  truyền  và  đặc  biệt  chỉ  có  61,69%  đến  89,87%  đến  cơ  sở  y  tế  khám  khi  nghi mắc bệnh sốt rét. Điều tra của Đoàn Hạnh  Nhân  tại  các  vùng  sốt  rét  biên  giới  này  cũng  cho thấy chỉ có 61% trả lời đúng nguyên nhân  lan  truyền  bệnh  là  muỗi  sốt  rét,  69%  trả  lời  đúng biểu hiện bệnh sốt rét, biết sử dụng màn  phòng chống muỗi chỉ 49% (1).

Hệ  thống  y  tế  với  chất  lượng  hạn  chế  ảnh  hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động phòng  chống  sốt  rét.  Tại  cả  3  xã  này  do  địa  bàn  vùng  sâu  vùng  xa,  vùng  biên  giới  rất  khó  khăn  để  cung  cấp  các  dịch  vụ  y  tế  đến  cho  cộng  đồng.  Giao  thông  đi  lại  cũng  là  một  trở  ngại  lớn  cho

Phân  tích  số  mắc  sốt  rét  cũng  cho  thấy  người  có  giao  lưu  biên  giới  Việt‐Lào  có  nguy

177

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  cơ mắc sốt rét cao gấp 5,37 lần người không có  giao lưu biên giới (p<0,001). Người có giao lưu  biên  giới  không  ngủ  màn  nguy  cơ  nhiễm  sốt  rét gấp 2,73 lần người không có giao lưu biên  giới (p<0,05).

Người  dân  biết  muỗi  là  nguyên  nhân  lan  truyền bệnh sốt  rét  (73,43%‐87,88%);  người  dân  tin tưởng ngủ màn phòng chống được bệnh sốt  rét  (76,58%‐84,24%).  Tỷ  lệ  đến  cơ  sở  y  tế  khám  xét  nghiệm  61,19%‐89,87%.  Số  người  giao  lưu  biên giới nhận thuốc tự điều trị 60,20%‐75,15%.  Ngủ màn trong quá trình qua biên giới 52,74%‐ 59,39%.

Người có giao lưu biên giới nhiễm sốt rét cao  gấp  5,37  lần  người  không  giao  lưu  biên  giới  (p<0,001).  Người  có  giao  lưu  biên  giới  không  ngủ  màn  nguy  cơ  nhiễm  sốt  rét  gấp  2,73  lần  người không có giao lưu biên giới (p<0,05).

KIẾN NGHỊ

Những  số  liệu  trên  có  thể  lý  giải  ở  những  vùng đồng bào dân tộc, vùng xâu vùng xa vùng  biên giới, trình độ nhận thức người dân còn hạn  chế nên việc thay đổi hành vi còn gặp nhiều trở  ngại. Tuy nhiên cũng có thể do các phương tiện,  phương  pháp  truyền  thông  chúng  ta  chưa  đạt  hiệu  quả  nên  người  dân  chưa  thay  đổi  được  nhận  thức  và  hành  vi  về  phòng  chống  sốt  rét.  Đây  cũng  là  một  trong  những  thách  thức  mà  chương  trình  PCSR  cần  có  các  giải  pháp  nâng  cao  nhận  thức  và  cải  thiện  thói  quen  ngủ  màn  của người dân đặc biệt cho cộng đồng dân tộc ít  người trình độ còn thấp.

KẾT LUẬN

Tăng cường công tác truyền thông giáo dục  sức khỏe về các biện pháp tự bảo vệ (mang theo  màn, nhận thuốc tự điều trị) của người dân khi  giao lưu biên giới cũng như đi rừng và ngủ  lại  trong rừng.

Y tế xã và y tế thôn bản tăng cường quản lý  đối  tượng  giao  lưu  biên  giới:  chú  ý  phát  hiện  nhiễm ký sinh trùng sốt rét sau khi giao lưu biên  giới khống  chế  sốt  rét  ác  tính  và  tử  vong  do  sốt  rét.

Thực  trạng  bệnh  sốt  rét  tại  vùng  biên  giới  Việt‐Lào huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị  Bệnh sốt rét tại vùng biên giới Việt Lào của  huyện  Hướng  Hóa  lưu  hành  quanh  năm,  phát  triển đỉnh cao tháng 8‐9‐10.

Cần có sự phối hợp y tế giữa 2 tỉnh biên giới  cũng  như  sự  giúp  đỡ  của  quân  y  biên  phòng  giúp quản lý người giao lưu biên giới.

Tỷ lệ nhiễm KSTSR tại cộng đồng dân vùng  biên giới tại huyện Hướng Hóa là 4,22% (CI 95%  từ  3,21‐5,43).  Số  KSTSR  là  người  Việt  có  sang  Lào về chiếm 19,30%, 26,32% là người Lào sang  Việt.

Tỷ lệ giao bào tại cộng đồng dân vùng biên

giới là 2,37% (CI 95% từ 1,62‐3,33).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến (2007). Một số yếu tố xã hội  học  liên  quan  dến  lan  truyền  sốt  rét  dai  dẳng  ở  2  huyện  Dak  Rông, Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị. Tạp chí phòng chống bệnh  sốt  rét  và  các  bệnh  ký  sinh  trùng,  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Trung  ương, số 4/2007, tr. 10‐16.

P.falciparum  là  loài  chiếm  ưu  thế  với  tỷ  lệ

75,44% trong tổng số ký sinh trùng sốt rét.

2. Hoàng Hà, Đinh Thị Hòa (2011). Hợp tác nghiên cứu bệnh sốt  rét vùng biên giới giữa 2  tỉnh  Savanakhet  (Lào)  và  Quảng  Trị  (Việt Nam). Công trình khoa học Hội nghị KST lần 38. Nhà xuất  bản y học 2011, tr.241‐249.

3. Trường Đại học Y Hà Nội (1999). Dịch tễ học và thống kê ứng

Một số yếu tố nguy cơ mắc sốt rét ở người  giao lưu biên giới

dụng trong NCKH, tr.98‐114.

Tiếp cận của người dân với hệ thống y tế tại

các thôn biên giới còn gặp khó khăn.

4. Viện sốt rét KST‐CT Quy Nhơn (2011). Đánh giá công tác phòng  chống  sốt  rét  2006‐2010,  định  hướng  kế  hoạch  2011,  khu  vực  miền  Trung  ‐Tây  Nguyên.  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Quy  Nhơn,  2011.

Điểm  kính  hiển  vi  soi  phát  hiện  KSTSR  sai

5. Viện sốt rét KST‐CT TW (2011). Tổng kết công tác PCSR và giun

sót 13,33%.

sán 2006‐2010 và triển khai kế hoạch 2011.

Tỷ lệ ngủ màn tại các xã vùng biên giới còn

thấp, chiếm 72,10%.

178

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT   CHO CỘNG ĐỒNG DÂN VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT‐LÀO HUYỆN HƯỚNG HÓA,  QUẢNG TRỊ NĂM 2010‐2011

Hồ Văn Hoàng*, Nguyễn Duy Sơn*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nguy cơ mắc sốt rét ở người dân vùng biên giới Việt‐Lào là một vấn đề cấp thiết cần áp dụng

các biện pháp can thiệp để giảm tỷ lệ mắc và chết ở đối tượng này.

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả quản lý sốt rét đối với người giao lưu biên giới Việt‐Lào huyện Hướng Hóa, tỉnh

Quảng Trị và kết quả của truyền thông giáo dục trong phòng chống sốt rét cho người ở vùng biên giới Việt‐ Lào.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp nhằm đánh giá hiệu quả của biện pháp phòng chống sốt

rét cho người dân vùng biên giới Việt‐Lào.

Kết  quả: Giảm tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở những người giao lưu biên giới. Tại xã Xy từ 8,64%  (4/2010) xuống 4,40%) (9/2011); xã Thanh từ 9,52% (4/2010) xuống 3,85% (9/2011); xã Lao Bảo từ 6,41%  (4/2010) xuống 3,57% (9/2011). Nâng cao tỷ lệ ngủ màn vùng biên giới. Tại xã Thanh tăng từ 71,01% lên  86,82%; xã Xy tăng từ 72,34% lên 87,02%; xã Lao Bảo tăng từ 80,16% lên 90,77%.

Kết luận: Nguy cơ mắc sốt rét ở người dân vùng biên giới Việt‐Lào rất cao, áp dụng các biện pháp phòng

chống sốt rét tích cực đã giảm mắc và chết do sốt rét tại vùng biên giới.

Từ khóa: Sốt rét biên giới, ký sinh trùng sốt rét.

ABSTRACT

THE EFFECTIVENESS OF SOME MALARIA CONTROL MEASURES FOR   THE COMMUNITY ALONG VIETNAM‐LAO BORDER IN HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI  PROVINCE IN 2010‐ 2011

Ho Van Hoang*, Nguyen Duy Son

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 181 ‐ 187

Background:  The  risk  of  malaria  infection  in  populations  along  the  border  area  of  Viet‐Lao is  an  urgent  problem  which  needs  to  be  applied  intervention  measures  to  reduce  malaria  morbidity  and  mortality  in  these  subjects.

Objectives: To evaluate the malaria management effectiveness of people crossing Viet‐Lao border in Huong  Hoa district, Quang Tri province and results of health information, communication and education pertaining to  malaria control for the people in Viet‐Lao border area.

Methods: Intervention study design. Comparison of outcomes from study participants before and after an  intervention was introduced to evaluate the effectiveness of malaria control measures for the community in Viet‐ Laot border area.

Result: The malaria infection rate of border‐crossing people decreased; particularly, in Xy commune from  8.64%  (April  2010)  to  4.40%  (September  2011);  in  Thanh  commune  from  9.52%  (April  2010)  to  3.85%  (September  2011);  and  in  Lao  Bao  commune  from  6.41%  (April  2010)  to  3.57%  (September  2011).  The

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

179

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  proportion of bed‐net usage in boder area raised from 71.01% to 86.82% in Thanh commune, from 72.34% to  87.02% in Xy commune, from 80.16% to 90.77% in Lao Bao commune.

Conclusion:  The  population  living  in  Vietnam‐Lao  border  area  are  still  at  very  high  risk  of  malaria  infection. The application of active malaria control measures reduced mortality and morbidity due to malaria in  the boder area.

Keywords: Malaria, control measures, Vietnam‐Lao border.

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Huyện  Hướng  Hoá,  tỉnh  Quảng  Trị  là  một  huyện  sốt  rét  nặng  gồm  22  xã,  dân  số  75.000  người;  trong  11  xã  biên  giới  2  nước  Việt  –  Lào.  Có 3 xã: Thanh, Xy, Lao Bảo có nhiều dân giao  lưu qua biên giới.

Đối tượng nghiên cứu

Người dân sống tại 3 xã Xy, Thanh, Lao Bảo.  Người Lào sang tạm trú hoặc giao lưu sang Việt  Nam. Ký sinh trùng sốt rét. Y tế thôn bản và xã.

Thời gian nghiên cứu  2 năm 2010‐2011.

Phương pháp nghiên cứu

Bệnh sốt rét vẫn là một bệnh xã hội phổ biến  ở nhiều vùng trên thế giới và những nước thuộc  vùng  nhiệt  đới  như  Việt  Nam,  ảnh  hưởng  lớn  đến  sức  khỏe  con  người  và  thiệt  hại  to  lớn  về  kinh  tế,  xã  hội(7,8).  So  sánh  với  khu  vực  khác,  công  tác  phòng  chống  bệnh  sốt  rét  của  miền  Trung‐Tây  Nguyên  vẫn  có  một  số  khó  khăn.  Một số huyện do các khó khăn về mạng lưới y  tế,  giao  lưu  biên  giới,  di  biến  động  dân  số  làm  cho  tình  hình  sốt  rét  một  số  vùng  có  diễn  biến  phức  tạp(6).  Tại  các  vùng  này,  các  biện  pháp  phòng chống sốt rét thường quy chưa mang lại  hiệu  quả  cao.  Ở  nhiều  huyện,  số  lượng  bệnh  nhân  vẫn  duy  trì  với  số  giảm  không  đáng  kể  trong nhiều năm như Hướng Hóa (Quảng Trị)(2).

Phương pháp nghiên cứu can thiệp.

Thiết  kế  nghiên  cứu  can  thiệp  thực  địa,

không có đối chứng, theo dõi trước sau.

Cỡ mẫu theo công thức sau(5):

Z2(α,β)[P1 (1‐ P1) + P2 (1‐ P2)]

n  = ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐

d2

[0,10(1‐0,10) + 0,04(1‐0,04)]

= 10,5 x ‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐  = 374

(0,10‐0,04)2

Quảng  Trị  là  một  tỉnh  có  sốt  rét  lưu  hành  thuộc khu vực miền Trung‐Tây Nguyên. Tỉnh có  đường  biên  giới  với  Lào,  giao  lưu  của  dân  cư  khu  vực  biên  giới  thường  xuyên  xảy  ra  tại  đây  nên  việc  kiểm  soát  bệnh  rất  khó  khăn.  Để  đạt  được  các  mục  tiêu  kiểm  soát  bệnh  tại  khu  vực  này,  cần  có  định  hướng  ưu  tiên  và  tìm  các  giải  pháp  thích  hợp  cho  những  vùng  biên  giới,  nơi  sự giao lưu di biến động rất lớn, bệnh sốt rét vẫn  duy trì ở mức lưu hành cao. Trên cơ sở khoa học  và thực tiễn của công tác phòng chống bệnh sốt  rét  (PCSR)  việc  tiến  hành  đề  tài  này  là  rất  cần  thiết nhằm các mục tiêu sau:

Đánh  giá  hiệu  quả  quản  lý  sốt  rét  đối  với  người  giao  lưu  biên  giới  Việt‐Lào  huyện  Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

Trong đó: Z2(α,β) ứng với giá trị của α=0,05  và  β=90%  thì  Z2(α,β)  =10,5.  P1:  Tỷ  lệ  ký  sinh  trùng  sốt  rét  (KSTSR)  trước  can  thiệp,  P1=0,10.  P2:  Tỷ  lệ  KSTSR  sau  can  thiệp,  P2=  0,04.  d:  Độ  chênh  giữa  2  tỷ  lệ.  Chọn  vào  mẫu  nghiên  cứu  374 người. Để dự phòng mất mẫu cộng thêm 5%  nghiên cứu cần 400 người cho điều tra.

Đánh  giá  kết  quả  của  truyền  thông  giáo  dục  trong  phòng  chống  sốt  rét  cho  ngườt  ở  vùng biên giới Việt‐ Lào.

Các biện pháp can thiệp: Đào tạo lại y tế xã  và  thôn  bản  về  phòng  chống  sốt  rét.  Quản  lý  bệnh nhân khi giao lưu biên giới. Truyền thông

180

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Phân tích số liệu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  giáo  dục  sức  khỏe  cho  người  dân  về  PCSR  khi  giao lưu biên giới.

Sử dụng phần mềm STATA 8.0 để phân tích

số liệu.

Các kỹ thuật nghiên cứu

KẾT QUẢ

Các biện pháp can thiệp đã áp dụng

Kỹ thuật xét nghiệm  (XN)  máu  tìm  ký  sinh  trùng sốt rét. Kỹ thuật khám lâm sàng. Kỹ thuật  phỏng  vấn  và  quan  sát.  Phỏng  vấn  trực  tiếp:  Điều tra những người dân từ 15 tuổi trở lên để  điều tra sự hiểu biết, hành vi về PCSR của cộng  đồng.  Quan  sát  trực  tiếp  người  dân  ngủ  màn  vào ban đêm tại nhà.

Truyền  thông  trực  tiếp:  Y  tế  thôn  bản  là  người chịu trách nhiệm truyền thông, vận động  trực tiếp người dân ngủ màn, tẩm màn với hóa  chất, nhận thuốc tự điều trị khi đi rừng ngủ rẫy,  giao  lưu  biên  giới.  Cấp  tờ  rơi  và  tranh  tuyên  truyền cho các hộ gia đình.

Thanh Xy Lao bảo

Bảng 1: Tỷ lệ cấp thuốc tự điều trị cho người dân giao lưu biên giới.  Tháng điều tra

Điều tra Nhận thuốc Điều tra Nhận thuốc % % Điều tra Nhận thuốc % 22 52,38 78 45 57,69 4/2010 81 36 44,44 42

Đã  cấp  thuốc  sốt  rét  tự  điều  trị  cho  những  người  có  giao  lưu  biên  giới  từ  52,35%  đến  72,60%.

21 22 31 30 38 56,76 62,86 70,45 71,43 73,08 98 86 87 93 84 58 52 61 68 71 59,18 60,47 70,11 73,12 84,52 7/2011 9/2011 4/2011 7/2011 9/2011 65 74 57 82 91 27 35 42 64 69 41,54 47,30 73,68 78,05 75,82 37 35 44 42 52

Bảng 2: So sánh chất lượng cán bộ trước và sau tập huấn nâng cao về PCSR.

Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu TT Xã Trước đào tạo Sau đào tạo Trước đào tạo Sau đào tạo

1 2 3 Xy Thanh Lao Bảo Tổng SL 4 5 6 15 % 40,00 50,00 60,00 50,00 SL 8 8 9 25 SL 6 5 4 15 % 20,00 20,00 10,00 16,67 % 60,00 50,00 50,00 50,00 SL 2 2 1 5

Phân tích kết quả đào tạo cho thấy, sau đào  tạo  tỷ  lệ  YTTB  đạt  yêu  cầu  tăng  từ  50%  lên

% 80,00 80,00 90,00 83,33 83,33%.  Số  không  đạt  yêu  cầu  sau  đào  tạo  chỉ  chiếm 16,67%.

Bảng 3: So sánh tỷ lệ KSTSR qua các đợt điều tra tại xã Thanh.  Lần 1 (tháng 4)

Lần 2 (tháng 7) Lần 3 (tháng 9) TT Năm Điều tra KSTSR(+) % Điều tra KSTSR(+) % Điều tra KSTSR(+) %

1 2010 446 18 4,04 454 8,59 410 39 9,51 39

2 2011 414 17 4,11 406 5,91 456 24 3,51 16

KSTSR  tháng  7  năm  2011  là  5,91%  so  với  cùng  thời điểm là 8,59% (p>0,05). Tỷ lệ KSTSR tháng 9  năm  2011  là  3,51%  so  với  cùng  thời  điểm  là  9,51% (p<0,05).

Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ KSTSR giảm  vào  cùng  thời  điểm  điều  tra  so  với  năm  trước.  Tỷ  lệ  KSTSR  tháng  4  năm  2011  là  4,11%  so  với  cùng thời điểm năm 2010 là 4,04% (p>0,05). Tỷ lệ

P p>0,05 p>0,05 P<0,01

181

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TT Năm

Bảng 4: So sánh tỷ lệ KSTSR qua các đợt điều tra tại xã Xy.  Lần 1 (tháng 4) KSTSR(+)

Lần 2 (tháng 7) Điều tra KSTSR(+) Điều tra % % Điều tra Lần 3 (tháng 9) KSTSR(+) %

1 2010 438 22 5,02 440 30 6,86 408 7,84 32

2 2011 393 16 4,07 412 24 5,83 420 5,24 22

5,02% (p>0,05). Tỷ lệ KSTSR tháng 7 năm 2011 là  5,83%  so  với  cùng  thời  điểm  là  6,86%  (p>0,05).  Tỷ  lệ  KSTSR  tháng  9  năm  2011  là  5,24%  so  với  cùng thời điểm là 8,09% (p>0,05).

Phân  tích  tỷ  lệ  nhiễm  qua  các  đợt  điều  tra  cho thấy tỷ lệ KSTSR giảm vào cùng  thời  điểm  điều tra so với năm trước. Tỷ lệ KSTSR tháng 4  năm  2011  là  4,07%  so  với  cùng  thời  điểm  là

P>0,05 P P>0,05 p>0,05

Bảng 5: So sánh tỷ lệ KSTSR qua các đợt điều tra tại xã Lao Bảo.

Lần 1 (tháng 4) Lần 3 (tháng 9) TT Năm Điều tra KSTSR(+) % Điều tra % Điều tra KSTSR(+) % Lần 2 (tháng 7) KSTSR(+)

1 2010 468 18 3,85 364 7,14 386 26 26 6,74

2 2011 366 14 3,83 410 3,90 384 16 16 4,17

KSTSR  tháng  7  năm  2011  là  3,90%  so  với  cùng  thời  điểm  là  7,14%.  Tỷ  lệ  KSTSR  tháng  9  năm  2007  là  4,17%  so  với  cùng  thời  điểm  là  6,74%  (p<0,05).

Kết quả phân tích tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng  sốt  rét  (KSTSR)  ở  xã  Lao  Bảo  cho  thấy  tỷ  lệ  KSTSR giảm vào cùng thời điểm điều tra so với  năm  trước.  Tỷ  lệ  KSTSR  tháng  4  năm  2011  là  3,83%  so  với  cùng  thời  điểm  là  3,85%.  Tỷ  lệ

P<0,05 P<0,05 P p>0,05

Bảng 6: Tỷ lệ KSTSR ở người giao lưu biên giới.

Thanh Lao Bảo Tháng Điều tra KSTSR(+) Điều tra KSTSR (+)

TT 1 2 3 4 5 6 4/2010 7/2010 9/2010 4/2011 7/2011 9/2011 Xy Điều tra KSTSR (+) % 8,64 7,69 6,76 7,02 6,10 4,40 81 65 74 57 82 91 7 5 5 4 5 4 % 9,52 8,11 5,71 6,82 4,76 3,85 42 37 35 44 42 52 4 3 2 3 2 2 5 6 5 4 4 3 % 6,41 6,12 5,81 4,59 4,30 3,57

Tỷ lệ nhiễm KSTSR ở những người giao lưu  biên giới giảm dần. Tại xã Xy từ 8,64% (4/2010)  xuống  4,40%)  (9/2011);  xã  Thanh  từ  9,52%

78 98 86 87 93 84 (4/2010)  xuống  3,85%  (9/2011);  xã  Lao  Bảo  từ  6,41% (4/2010) xuống 3,57% (9/2011).

Bảng 7: Tỷ lệ người dân đến xét nghiệm quản lý sau khi giao lưu biên giới trở về.

Tháng điều tra

4/2010 7/2011 9/2011 4/2011 7/2011 9/2011 Điều tra 42 37 35 44 42 52 Xy Có XN 15 14 20 34 36 41 % 35,71 37,84 57,14 77,27 85,71 78,85 Điều tra 81 65 74 57 82 91 Thanh Có XN 32 29 52 48 71 80 % 39,51 44,62 70,27 84,21 86,59 87,91 % 39,74 42,86 41,86 47,13 65,59 60,71 Lao bảo Có XN 31 42 36 41 61 51

Kết  quả  trên  cho  thấy,  tỷ  lệ  người  dân  đến  xét  nghiệm  phát  hiện  KSTSR  sau  khi  qua  biên

Điều tra 78 98 86 87 93 84 giới trở về chiếm tỷ lệ cao ở 2 xã Xy và Thanh,  tại xã Lao Bảo tỷ lệ này thấp hơn. Điều tra tháng

182

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Thanh và 60,71% ở xã Lao Bảo.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  9/2011,  tỷ  lệ  người  giao  lưu  biên  giới  đến  xét  nghiệm  chiếm  78,85%  ở  xã  Xy,  87,91%  ở  xã

Bảng 8: Hiệu quả truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành người dân về bệnh sốt rét.

Thanh Xy Lao Bảo

Chỉ số

So  sánh  kết  quả  điều  tra  trước  và  sau  áp  dụng biện pháp giáo dục truyền thông cho thấy  các chỉ số theo dõi đều tăng cao.

Muỗi là nguyên nhân lan truyền bệnh SR KSTSR là nguyên nhân gây bệnh sốt rét Tác hại xấu của bệnh SR với sức khoẻ Bệnh SR nguy hiểm Ngủ màn phòng được bệnh sốt rét Thường xuyên ngủ màn Đến cơ sở y tế khi bị bệnh Bệnh SR có thể phòng chống được Nhận thuốc tự điều trị khi qua biên giới Khi qua biên giới, ngủ rẫy có mang màn Ngủ màn khi đi rẫy và qua biên giới Trước can thiệp n=201 70,65 60,20 73,63 72,14 81,59 72,14 61,19 66,67 60,20 62,69 52,74 Sau can thiệp n=162 93,83 83,95 95,06 92,59 96,30 80,86 90,12 87,65 85,80 87,65 84,57 Trước can thiệp n=198 73,23 56,57 73,23 74,75 70,20 64,14 63,13 71,72 62,63 62,63 49,49 Sau can thiệp n=161 91,93 81,99 92,55 93,79 81,37 88,20 85,09 87,58 88,20 85,71 85,78 Trước can thiệp n=186 62,37 61,29 68,28 73,12 65,05 63,98 76,34 73,12 51,61 60,22 46,24 Sau can thiệp n=167 65,27 86,83 92,22 88,02 82,63 89,82 91,62 88,02 86,83 90,42 87,43

Bảng 9: Hiệu quả truyền thông giáo dục nâng cao tỷ lệ ngủ màn của người dân.

Thanh Xy Lao Bảo TT Chỉ số theo dõi

Kết quả quan sát trực tiếp cho thấy tỷ lệ ngủ  màn tăng ở 3 xã nghiên cứu vào thời điểm sau  can  thiệp.  Tại  xã  Thanh  tăng  từ  71,01%  lên  86,82%; xã Xy tăng từ 72,34% lên 87,02%; xã Lao  Bảo tăng từ 80,16% lên 90,77%.

1 2 3 4 5 6 Số hộ quan sát Số khẩu Số màn Tỷ lệ người/màn Số ngủ màn Tỷ lệ ngủ màn Trước can thiệp 34 138 58 2,34 98 71,01 Sau can thiệp 31 129 52 2,48 112 86,82 Trước can thiệp 35 141 62 2,27 102 72,34 Sau can thiệp 32 131 54 2,43 114 87,02 Trước can thiệp 32 126 52 2,42 101 80,16 Sau can thiệp 32 130 54 2,41 118 90,77

BÀN LUẬN

giới(1,2,3,7,8). Đối tượng giao lưu tại các vùng biên  giới lại có tình trạng kinh tế khó khăn, nhận thức  về  phòng  chống  sốt  rét  chưa  cao,  trình  độ  văn  hóa  hạn  chế  nên  việc  đề  xuất  các  giải  pháp  phòng chống vẫn còn nhiều khó khăn. Tùy theo  các vùng khác nhau, thói quen khác nhau, điều  kiện kinh tế, xã hội mà người dân có khác quan  niệm tự bảo vệ khi giao lưu biên giới. Nói chung  phần lớn người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi  đi qua lại biên giới(1,4).

Hiệu  quả  của  quản  lý  bệnh  nhân  và  củng  cố mạng lưới phòng chống nhiễm sốt rét ở  những người giao lưu biên giới

Trong nghiên cứu này đã áp dụng biện pháp  cấp  thuốc  tự  điều  trị  cho  người  giao  lưu  biên  giới  nhằm  giảm  nguy  cơ  sốt  rét  ác  tính  và  tử  vong. Theo dõi cho thấy so  với  điều  tra  cơ  bản  thì số người qua lại biên giới đến nhận thuốc tự

Tuy trải qua nhiều chiến lược phòng chống  căn bệnh sốt rét từ lâu nhưng cho đến nay biện  pháp nào có hiệu quả để áp dụng cho đối tượng  giao lưu biên giới cũng như người đi rừng ngủ  rẫy vẫn đang là thách thức đối với chương trình  phòng  chống  sốt  rét  của  Việt  Nam  và  cả  thế

183

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  điều trị tại các trạm y tế xã chiếm 73,08%‐84,52%  trong số người giao lưu biên giới.

Tại  xã  Lao  Bảo,  tỷ  lệ  KSTSR  tháng  9  năm  2011  là  4,17%  so  với  cùng  thời  điểm  là  6,74%  (p<0,05).

Bên  cạnh  biến  pháp  trên,  nghiên  cứu  cũng  áp dụng đào tạo lại cho cán bộ y tế thôn bản. Kết  quả  cũng  cho  thấy  chất  lượng  hoạt  động  y  tế  thôn bản đã cải thiện trong quá trình hoạt động.

Nhưng  tại  xã  Xy,  tỷ  lệ  nhiễm  qua  các  đợt  điều  tra  cho  thấy  tỷ  lệ  KSTSR  giảm  vào  cùng  thời điểm điều tra so với năm trước nhưng chưa  có sự khác biệt. Tỷ lệ KSTSR tháng 9 năm 2011  (sau can thiệp) là 5,24% so với cùng thời điểm là  8,09% (p>0,05).

Biện  pháp  truyền  thông  giáo  dục  đã  làm  tăng tỷ lệ ngủ màn khi giao lưu biên giới  cũng  như  tăng  tỷ  lệ  ngủ  màn  khi  ở  nhà.  Tỷ  lệ  ngủ  màn khi giao lưu biên giới chiếm 75,78%‐87,43%  số người điều tra. Tỷ lệ ngủ màn của người dân  khi  ở  tại  nhà  chiếm  86,82%‐90,77%.  Đây  là  những thực hành tốt giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh  sốt rét.

Như vậy tại 3 xã nghiên cứu, tỷ lệ KSTSR có  giảm nhưng chỉ có sự khác biệt ở xã Thanh và xã  Lao  Bảo.  Tại  xã  Xy  có  thể  do  địa  bàn  phức  tạp  hơn,  tình  hình  giao  lưu  qua  lại  và  số  người  đi  rừng lớn, kèm theo đó sự lưu hành sốt rét ở xã  Xy nặng hơn, hệ thống y tế xã này có chất lượng  kém hơn xã khác (không có bác sỹ).

Phân tích riêng đối tượng giao lưu biên giới  cho  thấy  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  có  giảm:  3,57%‐ 4,40% so với trước đó 1 năm là 6,41%‐9,52%.

Tuy  nhiên  tỷ  lệ  đến  nhận  thuốc  tự  điều  trị  của  đối  tượng  này  chưa  cao.  Điều  tra  những  người khi đi rừng ngủ rẫy và giao lưu biên giới  ở một số xã thuộc miền Trung‐Tây Nguyên cho  thấy  tỷ  lệ  nhận  thuốc  tự  điều  trị  ở  mức  30%‐ 50%(3).

Theo  dõi  dọc  các  trường  hợp  giao  lưu  biên  giới này cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm sốt rét giảm  dần  theo  thời  gian  ở  người  dân  các  xã.  Sau  1  tháng áp dụng biện pháp, qua theo dõi của y tế  thôn bản tại cộng đồng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh  sốt rét giảm tại các xã này xã Xy (từ 10,32 xuống  6,68; xã Thanh (từ 7,98 xuống 3,32); xã Lao Bảo  (từ 2,41 xuống 1,32).

Trong  nghiên  cứu  này,  các  biện  pháp  bao  gồm  đào  tạo  nâng  chất  lượng  hoạt  động  y  tế  thôn  bản,  cấp  thuốc  tự  điều  trị  ngắn  ngày  (Arterakin),  sử  dụng  test  nhanh  để  chẩn  đoán  sớm  những  trường  hợp  nghi  mắc  sốt  rét  và  truyền  thông  giáo  dục  người  dân  ngủ  màn,  nhận thuốc tự điều trị khi qua biện giới.

Như  vậy  tỷ  lệ  nhiễm  qua  theo  dõi  dọc  các  trường  hợp  giao  lưu  biên  giới  ở  người  dân  các  xã biên giới giảm so với trước can thiệp.

Phân tích kết quả các biện pháp cho thấy, tỷ  lệ  nhận  thuốc  của  người  dân  khi  qua  biện  giới  tăng lên tại cả 3 xã 73,08%‐ 84,52% so với trước  chỉ 44,44%‐57,69%. Kiến thức  và  kỹ  năng  của  y  tế thôn bản đạt yêu cầu tăng từ 50% lên 83,33%  sau đào tạo.

Về tác động của các biện pháp cho thấy, tỷ lệ  nhiễm  KSTSR  ở  3  xã  cho  thấy  sau  1  năm  áp  dụng biện pháp tỷ lệ nhiễm KSTSR giảm ở cả 3  xã vào thời điểm sau nghiên cứu:

Hiệu quả của truyền thông giao dục trong  PCSR cho người ở vùng biên giới Việt‐ Lào  Mặc  dù  tại  các  xã  nghiên  cứu  tỷ  lệ  mắc  sốt  rét giảm, tỷ lệ ngủ màn có tăng lên nhưng hiệu  quả  của  các  biện  pháp  chưa  thực  sự  rõ  ràng  cũng như các yếu tố bền vững để khống chế sự  gia  tăng  mắc  bệnh  là  chưa  có.  Tại  các  khu  vực  biên giới việc giao lưu rất phức tạp, vì lý do kinh  tế người dân có thể chấp nhận bệnh tật sốt rét để  kiêm sống.

Tại  xã  Thanh  tỷ  lệ  KSTSR  giảm  vào  cùng  thời điểm điều tra so với năm trước, tỷ lệ KSTSR  tháng 9 năm 2011 (sau 1 năm can thiệp) là 3,51%  so với cùng thời điểm là 9,51% (p<0,05).

Việc quản lý người dân cũng gặp khó khăn  nên  ảnh  hưởng  đến  kết  quả  nghiên  cứu.  Tỷ  lệ  người dân đến xét nghiệm phát hiện KSTSR sau

184

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Tỷ  lệ  người  dân  đến  xét  nghiệm  phát  hiện  KSTSR sau khi qua  biên  giới  trở  về  chiếm  tỷ  lệ  78,85% tại xã Xy; xã Thanh là 87,91%; xã Lao Bảo  là 60,71% (9/2011).

KIẾN NGHỊ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  khi qua biên giới trở về chỉ chiếm tỷ lệ <90%. Tại  xã Xy tỷ lệ này từ 78,85%; xã Thanh là 87,91%; xã  Lao Bảo là 60,71%. So với 2 xã khác, tỷ lệ đến xét  nghiệm  của  người  giao  lưu  biên  giới  thấp  hơn.  Điều này có thể là do địa bàn rộng của Lao Bảo,  các thôn gần biên giới xa Trạm y tế xã đồng thời  hệ thống y tế tư nhân đây cũng hoạt động mạnh  hơn các xã khác.

Tăng cường công tác truyền thông giáo dục  sức khỏe về các biện pháp tự bảo vệ (mang theo  màn, nhận thuốc tự điều trị) của người dân khi  giao lưu biên giới cũng như đi rừng, ngủ rẫy.

Với tỷ lệ như vậy, còn một số lớn người dân  không kiểm soát được sau khi qua lại biên giới,  nếu  nhiễm  bệnh  sẽ  là  nguồn  lây  lan  cho  cộng  đồng.

Y tế xã và y tế thôn bản tăng cường quản lý  đối  tượng  giao  lưu  biên  giới:  chú  ý  phát  hiện  nhiễm ký sinh trùng sốt rét sau khi giao lưu biên  giới khống chế sốt rét ác tính và tử vong do sốt  rét.

Đề tài dù có một số kết quả nhưng cần có các  nghiên  cứu  tiếp  tục  cũng  như  sự  hợp  tác  của  chỉnh phủ 2 nước để kiểm soát bệnh sốt rét qua  đường biên giới.

KẾT LUẬN

Cần có sự phối hợp y tế giữa 2 tỉnh biên giới  cũng  như  sự  giúp  đỡ  của  quân  y  biên  phòng  giúp quản lý người giao lưu biên giới.

Hiệu quả của biện pháp quản lý sốt rét đối  với người giao lưu biên giới Việt‐Lào

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến (2007). Một số yếu tố xã hội  học  liên  quan  dến  lan  truyền  sốt  rét  dai  dẳng  ở  2  huyện  Dak  Rông, Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị. Tạp chí phòng chống bệnh  sốt  rét  và  các  bệnh  ký  sinh  trùng,  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Trung  ương, số 4/2007, tr. 10‐16.

2. Hồ Văn Hoàng (2006). Di cư tự do, ngủ rẫy và nguy cơ gia tăng  sốt rét ở các tỉnh miền Trung‐Tây Nguyên. Tạp chí y học thực  hành, số 3 (537)/2006 tr.23‐27.

Giảm  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  vùng  nghiên  cứu:  Tại xã Thanh sau 1 năm can thiệp là 3,51% so với  cùng thời điểm là 9,51% (p<0,05), tại xã Lao Bảo,  tỷ  lệ  KSTSR  là  4,17%  so  với  cùng  thời  điểm  là  6,74%  (p<0,05).  Tại  xã  Xy,  tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  giảm nhưng chưa có khác biệt.

3. Hồ  Văn  Hoàng  (2009).  Nghiên  cứu  tình  trạng  nhiễm  ký  sinh  trùng sốt rét và sử dụng thuốc tự điều trị sốt rét của cộng đồng  dân ngủ rẫy. Tạp chí y học Quân sự, số CĐ1/2009, tr.42‐47.  4. Hoàng Hà, Đinh Thị Hòa (2011). Hợp tác nghiên cứu bệnh sốt  rét vùng biên giới giữa 2  tỉnh  Savanakhet  (Lào)  và  Quảng  Trị  (Việt Nam). Công trình khoa học Hội nghị KST lần 38. Nhà xuất  bản y học 2011, tr.241‐249.

5. Trường Đại học Y Hà Nội (1999). Dịch tễ học và thống kê ứng

Tỷ  lệ  nhiễm  KSTSR  giảm  ở  những  người  giao  lưu  biên  giới.  Tại  xã  Xy  từ  8,64%  (4/2010)  xuống  4,40%  (9/2011);  xã  Thanh  từ  9,52%  (4/2010)  xuống  3,85%  (9/2011);  xã  Lao  Bảo  từ  6,41% (4/2010) xuống 3,57% (9/2011).

dụng trong NCKH, tr.98‐114.

6. Viện sốt rét KST‐CT Quy Nhơn (2011). Đánh giá công tác phòng  chống  sốt  rét  2006‐2010,  định  hướng  kế  hoạch  2011,  khu  vực  miền  Trung  ‐Tây  Nguyên.  Viện  sốt  rét  KST‐CT  Quy  Nhơn,  2011.

7. Viện sốt rét KST‐CT TW (2011). Tổng kết công tác PCSR và giun

sán 2006‐2010 và triển khai kế hoạch 2011.

8. WHO (2009). Malaria Report, pp.27‐28

Hiệu quả của truyền thông giáo dục trong  PCSR cho người ở vùng biên giới Việt‐ Lào  Nâng cao tỷ lệ ngủ màn ở 3 xã nghiên cứu:  Tại  xã  Thanh  tăng  từ  71,01%  lên  86,82%;  xã  Xy  tăng  từ  72,34%  lên  87,02%;  xã  Lao  Bảo  tăng  từ  80,16% lên 90,77%.

185

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TỶ LỆ SAI SÓT VÀ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG XÉT NGHIỆM  KÝ SINH TRÙNG SỐT RÉT CỦA ĐIỂM KÍNH HIỂN VI Xà  Ở TỈNH QUẢNG NGÃI NĂM 2012

Hồ Văn Hoàng*, Nguyễn Thị Lệ Huyền*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Điểm kính hiển vi xã có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị sốt rét tại tuyến xã.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sai sót của xét nghiệm viên tại điểm kính hiển vi xã trong phát hiện ký sinh trùng  sốt rét ở tỉnh Quảng Ngãi năm 2012 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sai sót trong kỹ thuật phát  hiện ký sinh trùng sốt rét.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngang mô tả có phân tích.

Kết quả: Khảo sát chất lượng các điểm kính hiển vi tại Quảng Ngãi năm 2012 cho thấy tỷ lệ sai sót của xét  nghiệm viên xã là 22,33%; tỷ lệ âm tính giả cao nhất chiếm 28,56%. Xét nghiệm viên đào tạo từ các cơ sở không  chuyên có tỷ lệ soi sai gấp 4,95 lần xét nghiệm viên đào tạo từ các trường chuyên khoa (p<0,001). Xét nghiêm  viên  có  kính  hiển  vi  không  đạt  chất  lượng  soi  sai  gấp  3,52  lần  so  với  nơi  có  kính  hiển  vi  đạt  chất  lượng  (p<0,001). Sai sót của xét nghiệm viên sử dụng nước pha giêm sa có pH phạm vi <7,00 và >7,20 gấp 2,31 lần so  với xét nghiệm viên sử dụng nước có pH phạm vi 7,00‐7,20 (p<0,05).

Kết luận: Tỷ lệ sai sót trong xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét còn cao.

Kiến nghị: Cần giám sát chất lượng hoạt động của các điểm kính hiển vi xã và cung cấp dung dịch đệm để

pha giêm sa nhuộm lam máu.

Từ khóa: Điểm kính hiển vi.

ABSTRACT

THE ERROR PROPORTION AND THE FACTORS AFFECTING THE QUALITY OF MALARIA  PARASITE EXAMINATION OF THE COMMUNAL MICROSCOPE POINTS IN QUANG NGAI  PROVINCE IN 2012

Ho Van Hoang*, Nguyen Thi Le Huyen

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 188 ‐ 193

Background: Malaria microscope points play an important role in the malaria diagnosis and treatment at

the commune level.

Objectives: To determine the error proportion of malaria examination  of  microscopists  at  commune  level  and  to  analyze  the  some  factors  affecting  to  the  error  proportion  of  malaria  examination  of  microscopists  at  commune level in Quang Ngai province in 2012.

Methods: The cross‐sectional study and the analysis of some affecting factors.

Result: The survey on the quality of parasite dectection of communal microscopists showed the error rate of  malaria smear slides was 22.33%. The error rate of false negativity was highest (28.56%). The no. of error slides  of microscopists trained from non‐professional schools was 4,95 times in comparison with that from professional  schools  (p<0.001).  The  no.  of  error  slides  of  microscopists  used  low  quality  of  microscopes  was  3.52  times  in  comparison with that from good quality microcopes (p<0.001). The no of error slides of microscopists used water

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Hồ Văn Hoàng

ĐT: 0914004629

Email: ho_hoang64@yahoo.com

186

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  with pH from <7 and >7.2 was 2.31 times in comparison with that pH ranging from 7 to 7.2 (p<0.05).

Conclusion: the error proportion of malaria examination of microscopists at communal level was high.

Recommendations:  The  microscopists  at  communal  level  should  be  supervised  continuously  to  enhance

their job performance and providing the buffered solution to asusre a standard pH of Giemsa stain.

Keywords: Microscope point.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tất cả các xét nghiệm viên của các ĐKHV và  cán bộ y tế của cơ sở y tế nơi có điểm kính hiển  vi.

Hệ  thống  sổ  sách,  hồ  sơ  lưu  trữ  liên  quan

đến xét nghiệm KSTSR.

Thời gian nghiên cứu

Năm 2012.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp dịch tễ học mô tả.

Thiết kế  nghiên  cứu  mô  tả  cắt  ngang  nhằm  mô  tả  thực  trạng  hoạt  động  và  vai  trò  của  các  ĐKHV phục vụ công tác phòng chống sốt rét

Kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu

Phỏng  vấn  và  quan  sát  cán  bộ  y  tế  và  xét

nghiệm viên.

Đo pH nước.

XNV bốc thăm ngẫu nhiên một bộ lam mẫu  để soi và trả lời kết quả trong 1 giờ theo bộ lam  mẫu phát hiện KSTSR gồm 10 lam với mật độ và  loài KSTSR khác nhau.

Bệnh sốt rét là một bệnh xã hội phổ biến trên  thế  giới,  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  sức  khỏe  con  người,  đặc  biệt  ở  các  nước  vùng  nhiệt  đới(1,8).  Chẩn đoán xác định các ca bệnh có ký sinh trùng  sốt rét (KSTSR) (+) là rất quan trọng, đòi hỏi phải  thiết lập các điểm kính hiển vi (ĐKHV) ngay tại  tuyến  xã  là  để  góp  phần  điều  trị  sớm  bệnh  sốt  rét, đồng thời góp phần vào củng cố mạng lưới y  tế cơ sở là một nhu cầu cấp thiết để thực hiện và  bảo vệ thành quả của chương trình phòng chống  sốt  rét.  Việc  phát  hiện  ký  sinh  trùng  sốt  rét  (KSTSR)  bằng  kỹ  thuật  giêm  sa  soi  dưới  kính  hiển vi là tiêu chuẩn tốt nhất để xác định bệnh,  nhưng  việc  áp  dụng  kỹ  thuật  tại  tuyến  y  tế  xã  vẫn có một tỷ lệ sai sót do nhiều yếu tố(5,3,7). Do  vậy để xem xét các chẩn đoán sai sót trong việc  phát hiện KSTSR tại y tế tuyến xã, chúng tôi tiến  hành  khảo  sát  chất  lượng  của  kính  hiển  vi,  tay  nghề  kỹ  thuật  viên  cũng  như  dung  dịch  nước  pha giêm sa đã ảnh hưởng như thế nào đến kết  quả xét nghiệm với mục tiêu:

Phương pháp xử lý số liệu

Phần  mềm  trên  các  chương  trình  EPI.INFO

Xác định tỷ lệ sai sót của xét nghiệm viên tại  điểm  kính  hiển  vi  xã  trong  phát  hiện  ký  sinh  trùng sốt rét ở tỉnh Quảng Ngãi năm 2012

6.04 để phân tích.

KẾT QUẢ

Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ  sai sót trong kỹ thuật phát hiện ký sinh trùng sốt  rét.

Bảng 1: Tỷ lệ sai sót của xét nghiệm viên trong phát  hiện KSTSR.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

TT Huyện Số xã khảo sát Số lam soi

Địa điểm nghiên cứu

Số lam soi sai SL* % Số lam soi đúng SL %

20 25,00 60 75,00 80 1 Ba tơ 8

Toàn bộ 30 ĐKHV, nơi có sốt rét lưu hành ở  các xã thuộc huyện: Sơn Tây, Sơn Hà, Trà Bồng,  Tây Trà, Ba Tơ (Quảng Ngãi).

16 26,67 44 73,33 60 2 6 Sơn Tây 15 21,43 55 78,33 70 3 Sơn Hà 7

Đối tượng nghiên cứu

30 ĐKHV tại các xã thuộc các huyện trên.

5 16,67 25 83,33 30 4 Tây Trà 3

11 18,33 49 81,67 60 5 6 Trà Bồng Tổng 30 300 67 22,33 233 77,67

187

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

*SL: số lượng

XNV trả lời đúng kết quả chiếm 77,67% (CI 95%:  72,53‐82,25) và tỷ lệ sai sót chung là 22,33% (CI  95%:17,75‐27,47).

Kết quả khảo sát về chất lượng soi cho thấy,  300  lam  mẫu  của  30  XNV  có  233  lam  được  các

Bảng 2: Phân tích các loại sai sót khi xét nghiệm lam máu.

Âm tính giả TT Huyện Số sai sót

1 2 3 4 5 Ba Tơ Sơn Tây Sơn Hà Tây Trà Trà Bồng Tổng SL 6 5 4 1 3 19 % 30,00 31,25 26,67 20,00 27,27 28,56 20 16 15 5 11 67 Dương tính giả SL 5 3 3 2 3 16 % 25,00 18,75 20,00 40,00 27,27 23,88 Sai chủng % 5,00 6,25 26,67 0 0 9,56 SL 1 1 4 0 0 6 Sót, thừa thể SL 4 5 2 1 3 15 % 20,00 31,25 13,33 20,00 27,27 22,39 Sót phối hợp SL 4 2 2 1 2 11 % 20,00 12,50 13,33 20,00 18,18 16,42

Bảng 5: Ảnh hưởng nơi đào tạo đến kết quả xét  nghiệm.

Phân  tích  các  loại  sai  sót  cho  thấy  tỷ  lệ  âm  tính giả (không phát hiện được KSTSR) chiếm tỷ  lệ  28,56%,  cao  nhất  trong  các  loại  sai  sót.  Tỷ  lệ  dương  tính  giả  chiếm  23,88%,  sai  chủng  chiếm  9,56%,  sót  thừa  thể  chiếm  22,39%  và  sót  phối  hợp chiếm 16,42%.

Số lam sai Số lam đúng Tổng số 25 25 50 Nơi đào tạo Không chuyên khoa Cơ sở chuyên khoa 42 208 250 Tổng số 67 233 300

OR =4,95, χ2= 26,48 (CI95% của OR: 2,47- 9,94), p < 0,001

Bảng 3: So sánh tỷ lệ sai sót khi soi lam âm và lam  dương.

Soi đúng

TT Loại lam soi Số lam soi

XNV  được  đào  tạo  từ  các  cơ  sở  không  chuyên có tỷ lệ soi sai gấp 4,95 lần các XNV từ  các trường chuyên (p<0,001). Tỷ lệ sai sót của các  XNV từ các cơ  sở  không  chuyên  là  50%  (25/50)  trong khi sai sót của các xét nghiệm viên từ các  cơ sở chuyên khoa là 22,33% (67/300).

1 Lam âm 120 Soi sai (âm và dương tính giả) SL % 16 13,33 0 Soi sai chủng và sót SL % 0 SL % 104 86,67

2 180 19 10,56 32 17,78 129 71,66

Lam dương Tổng cộng 300 35 11,67 32 10,66 233 77,67

Bảng 6: So sánh tỷ lệ sai sót giữa XNV là Y sĩ và cán  bộ sơ cấp.

Trình độ Số lam sai Số lam đúng Tổng số

Tỷ lệ soi sai của lam âm là 13,33%. Tỷ lệ sai  sót  của  lam  dương  là  28,34%  bao  gồm  10,56%  âm tính giả và 17,78% sai chủng, sót thừa thể.

48 152 200

Cán bộ sơ cấp (Y tá, nữ hộ sinh...) Y sĩ 19 81 100 Tổng số 67 233 300 OR = 1,35 (CI95% của OR: 0,71-2,55), χ2 = 0,96; p >0,05

Bảng 4: Phân tích sai số trong đếm mật độ của XNV  tuyến xã.  TT

Độ lệch P Độ lệch chuẩn Sai số %

Trung bình (KSTSR/µl máu) 1261 422 1 Độ lệch âm -53,69 <0,05 584 272

Kết quả phân tích cho thấy không có sự khác  biệt về tỷ lệ sai sót do XNV là y sĩ hoặc do XNV  là sơ cấp soi (p > 0,05). Tỷ lệ sai sót của XNV có  trình độ chuyên môn sơ cấp là 24% (48/200) và  tỷ  lệ  sai  sót  của  XNV  có  trình  độ  chuyên  môn  trung cấp là 19% (19/100).

976 710 2 Độ lệch dương +61,07 <0,05 1572 815 Lam mẫu XNV đếm Lam mẫu XNV đếm

Bảng 7: Liên quan giữa tỷ lệ sai sót và chất lượng  kính hiển vi.  Chất lượng kính Số lam sai Số lam đúng Tổng số

Phân tích sai số khi XNV tuyến xã đếm mật  độ KSTSR cho thấy đối với các trường hợp có độ  lệch âm sai số đến 53,69%, với độ lệch dương sai  số đến 61,07% (p<0,05).

32 48 80 Không đạt Tốt, đạt yêu cầu 35 185 220 Tổng số 67 233 300

188

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  OR = 3,52 (CI95% của OR: 1,91-6,52)χ2 =19,63; p <0,001

Tỷ  lệ  sai  sót  của  XNV  có  chất  lượng  kính  hiển vi không đạt yêu cầu cao gấp 3,52 lần so với  nơi có kính hiển vi đạt yêu cầu (p<0,001).

(tỷ  lệ  sai  sót  tuyến  xã  năm  1995‐1996  là  34,49%)(5).  Gần  đây  nhất  năm  2009,  khảo  sát  về  chất  lượng  soi  lam  của  XNV  khu  vực  MT‐TN  cho  thấy  tỷ  lệ  sai  sót  của  tuyến  xã  là  24,35%;  tuyến  huyện  là  18,21%  và  tuyến  tỉnh  thấp  nhất  là 10,97%(4).

Bảng 8: Mật độ KSTSR ảnh hưởng đến tỷ lệ sai sót  của XNV

Mật độ KSTSR Số lam sai Số lam đúng Tổng số

Theo Elizabeth Streat giới hạn sai sót ở tuyến  xã  nên  dưới  20%(2).  Như  vậy  thực  trạng  chung  của XNV tuyến xã Quảng Ngãi và các tỉnh khác  trong  việc  soi  phát  hiện  KSTSR  là  tỷ  lệ  sai  sót  còn cao cần có kế hoạch giám sát, theo dõi liên  tục hệ thống xét nghiệm KSTSR.

Tỷ  lệ  sai  sót  khi  XNV  soi  lam  có  mật  độ  KSTSR thấp cao gấp 2,91 lần so với khi soi lam  máu có mật độ từ ++ trở lên (p<0,001). Tỷ lệ sai  sót khi XNV soi lam máu có mật độ KSTSR+ là  43,33%  (26/60),  tỷ  lệ  sai  sót  khi  soi  lam  máu  có  mật độ KSTSR từ ++, +++ là 20,83% (25/120).

Phân  tích  các  loại  sai  sót  cho  thấy  tỷ  lệ  âm  tính giả (không phát hiện được KSTSR) chiếm tỷ  lệ  28,56%,  cao  nhất  trong  các  loại  sai  sót.  Đây  cũng là loại sai sót quan trọng nhất trong các loại  sai  sót.  Tỷ  lệ  dương  tính  giả  chiếm  23,88%,  sai  chủng  chiếm  9,56%,  sót  thừa  thể  chiếm  22,39%  và sót phối hợp chiếm 16,42%.

Lam + Lam ++, +++ 26 25 34 95 60 120 Tổng số 51 129 180 OR = 2,91 (CI95% của OR: 1,40-6,03) χ2 =9,97; p <0,001

Bảng 9: Ảnh hưởng của pH nước pha giêm sa và tỷ  lệ sai sót khi soi lam máu.

Tỷ lệ sai sót của các XNV tại các điểm kính  có  nước  pH  ở  phạm  vi  <7,00  và  >7,20  gấp  2,31  lần so với tỷ lệ sai sót tại các điểm kính có nước  pH ở phạm vi 7,00‐7,20 (p<0,05).

Theo  điều  tra  hoạt  động  điểm  kính  hiển  vi  xã năm 1995‐1996 tại khu vực MT‐TN cho thấy  cho thấy tỷ lệ âm tính giả chiếm tỷ lệ 30,17%, cao  nhất trong các loại sai sót(5). Khảo sát năm 2009,  tỷ  lệ  âm  tính  giả  cũng  chiếm  tỷ  lệ  26,61%,  cao  nhất trong các loại sai sót. Tỷ lệ dương tính giả  chiếm 21,77%, sai chủng chiếm 15,32%, sót thừa  thể  chiếm  20,97%  và  sót  phối  hợp  chiếm  15,32%(4).

Số lam sai Số lam đúng 55 155 Tổng số 210 pH <7,00 và >7,20 7,00-7,20 12 78 90 Tổng số 67 233 300 OR = 2,31, CI95% của OR: 1,12 -4,84, χ2 = 6,0; p < 0,05

BÀN LUẬN

Tỷ lệ sai sót trong xét nghiệm KSTSR ở các  ĐKHV xã

Về  kỹ  năng  đếm,  các  XNV  tuyến  xã  tỉnh  Quảng  Ngãi  vẫn  còn  nhiều  sai  sót.  Đối  với  các  trường hợp có độ lệch âm sai số đến 53,69%, với  độ chênh dương sai số đến 61,07%; sự khác biệt  có ý nghĩa thống kê p<0,05.

Yếu  tố  ảnh  hưởng  đến  tỷ  lệ  sai  sót  của  XNV trong kỹ thuật phát hiện KSTSR

Phân  tích  cho  thấy  có  một  số  yếu  tố  ảnh

hưởng đến kỹ năng soi lam của XNV như sau:

Chương trình PCSR Việt Nam đã có những  định hướng thiết lập các ĐKHV như là một giải  pháp giúp cho chẩn đoán bệnh sốt rét sớm, điều  trị đúng và quản lý bệnh nhân ở tuyến y tế cơ sở  từ giai đoạn đầu của chương trình tiêu diệt  sốt  rét(1,5,4).  Kết  quả  khảo  sát  về  chất  lượng  soi  300  lam  mẫu  của  30  XNV  cho  thấy  XNV  soi  phát  hiện chính xác kết quả chiếm 77,67% và tỷ lệ sai  sót chung là 22,33%.

Yếu tố thứ nhất là nơi đào tạo của XNV. Số  lam sai sót của XNV được đào tạo ở các trường  không chuyên khoa về sốt rét gấp 4,95 lần khi so  với XNV được đào tạo ở các cơ sở chuyên khoa  (p<0,001). Nguyên nhân có thể do trong đào tạo  ở các trường không chuyên chỉ có thời gian ngắn

So với khảo sát năm 1995‐1996 của toàn khu  vực Miền Trung – Tây Nguyên (MT‐TN) thì tỷ lệ  sai sót của các XNV Quảng Ngãi thấp hơn nhiều

189

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Sai số khi XNV đếm mật độ KSTSR đối với  độ lệch âm là 53,69% (p<0,05), với độ lệch dương  sai số là 61,07% (p<0,05).

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sai sót  của xét nghiệm viên

Nghiên cứu Y học  để  thực  hành  về  kỹ  thuật  sốt  rét,  trong  khi  đó  các XNV điểm kính được học trong 2 tháng chỉ  chuyên  về  kỹ  thuật  xét  nghiệm  máu  phát  hiện  KSTSR. Kết quả phân tích này cho thấy cần triển  khai  các  khoá  đào  tạo  lại  để  nâng  cao  trình  độ  cho xét nghiệm viên.

Xét  nghiệm  viên  được  đào  tạo  từ  các  cơ  sở  không  chuyên  có  tỷ  lệ  soi  lam  sai  gấp  4,95  lần  các xét nghiệm viên được đào tạo từ các trường  chuyên (p < 0,05).

Sai sót do XNV là y sĩ hoặc do XNV là sơ cấp

soi không có sự khác biệt (p> 0,05).

Sai sót của ĐKHV có chất lượng kính hiển vi  không  đạt  yêu  cầu  gấp  3,52  lần  so  với  nới  có  kính hiển vi đạt yêu cầu (p<0,001).

Yếu tố thứ hai là pH nước được sử dụng để  pha  dung  dịch  giem  sa  nhuộm  lam  máu.  Phân  tích  sai  sót  của  các  xét  nghiệm  viên  sử  dụng  nước  suối  và  nước  giếng  với  3  nhóm  pH  khác  nhau là <7,00; 7,00‐7,20 và >7,20 cho thấy: sai sót  của nhóm xét nghiệm viên sử dụng pH <7,00 và  pH >7,30 cao gấp 2,31 lần so với nhóm sử dụng  pH=7,00‐7,20  (p<0,05).  Kết  quả  này  cho  thấy  cung cấp dung dịch đệm có pH ổn định cho các  ĐKHV  là  rất  quan  trọng  để  có  thể  hạn  chế  các  sai sót.

Sai  sót  khi  XNV  soi  lam  có  mật  độ  KSTSR  thấp gấp 2,91 lần so với khi soi lam máu có mật  độ từ ++ trở lên (p<0,001).

Sai sót của các XNV sử dụng nước pha giêm  sa pH ở phạm vi <7,00 và >7,20 gấp 2,31 lần so  với xét nghiệm viên sử dụng nước pH phạm vi  7,00‐7,20 (p<0,05).

KIẾN NGHỊ

Tiếp  tục  thực  hiện  hoạt  động  giám  sát  chất

lượng hoạt động của các ĐKHV.

Đào  tạo  lại  các  xét  nghiệm  viên  có  tỷ  lệ  sai

sót cao.

Yếu tố thư ba đó là chất lượng của kính hiển  vi.  Kết  quả  phân  tích  cho  thấy  ở  các  ĐKHV  có  chất lượng kính hiển vi không đạt yêu cầu thì tỷ  lệ sai sót cao gấp 3,52 lần ở nới có kính hiển vi  tốt  (p<001).  Trong  nghiên  cứu  này,  có  đến  16,67% ĐKHV bảo quản kính hiển vi không tốt.  Bên cạnh đó nếu mật độ ký sinh trùng thấp cũng  ảnh hưởng tỷ lệ sai sót trong soi phát hiện. Tỷ lệ  sai sót khi XNV soi lam có mật độ KSTSR thấp  cao gấp 2,91 lần so với khi soi lam máu có mật  độ từ ++ trở lên (p<0,001).

Đề nghị tiến tới sử dụng dung dịch đệm để

pha dung dịch giêm sa nhuộm lam máu.

Cung  cấp  kính  hiển  vi  mới  cho  các  điểm

Đây  là  những  vấn  đề  mà  Chương  trình  PCSR cần có các hệ thống giám sát và bảo đảm  chất lượng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng  hoạt động trong những năm đến(7).

kính có kính bị hỏng.

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ Y tế (2009). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét.

Dự án PCSR Quỹ toàn cầu, Hà Nội.

Tỷ lệ sai sót của xét nghiệm vên điểm kính  xã

Tỷ  lệ  sai  sót  chung  của  xét  nghiệm  viên

2. Elizabeth S (1995). Chẩn đoán labô bệnh sốt rét: Số lượng hay  chất  lượng,  Khoá  đào  tạo  quốc  tế  về  phát  triển  nghiên  cứu  y  sinh học, Amsterdam, tr.2‐31 (Tài liệu dịch).

tuyến xã là 22,33% (CI95%:17,75‐27,47).

3. Ho Van Hoang (2000). Study on the role of malaria microscope  points for malaria control programme in Binh Thuan province,  1994‐1998. Mekong malaria forum, No.6.

Tỷ  lệ  âm  tính  giả  chiếm  tỷ  lệ  28,56%,  cao  nhất trong các loại sai sót. Tỷ lệ dương tính giả  chiếm  23,88%,  sai  chủng  chiếm  9,56%,  sót  thừa  thể chiếm 22,39% và sót phối hợp chiếm 16,42%.

4. Hồ Văn Hoàng và CTV (2009). Đánh giá thực trạng hoạt động  các điểm kính hiển vi phục vụ chương trình phòng chống sốt  rét tại khu vực miền Trung Tây Nguyên năm 2009. Y học thực  hành, Bộ Y tế, số 796‐2011, tr.11‐15.

5. Hồ Văn Hoàng, Nguyễn Tân (1996). Thực trạng tình hình hoạt  động của các điểm kính hiển vi phục vụ PCSR tại khu vực miền  Trung và Tây Nguyên. Thông tin phòng chống bệnh sốt rét và

190

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

MT‐TN.  Thông  tin  phòng  chống  bệnh  sốt  rét  và  các  bệnh  ký  sinh trùng, Viện sốt sốt rét KST‐CT Hà Nội, (2), tr. 36‐41.

các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt rét KST‐CT Hà Nội, (4), tr. 11‐ 18.

7. WHO  (2009),  Malaria  Microscopy  Quality  Assurance  Manual,

pp. 6‐16.

6. Hồ Văn Hoàng, Nguyễn Tân (1997). Những yếu tố ảnh hưởng  đến hoạt động của điểm kính hiển vi phục vụ PCSR tại khu vực

8. WHO (2009), World Malaria report 2009, pp. 27‐28.

191

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

HỘI CHỨNG TĂNG NHIỄM VỚI ẤU TRÙNG GIUN LƯƠN ĐIỂN HÌNH:   BÁO CÁO CA BỆNH VÀ TỔNG HỢP Y VĂN

Huỳnh Hồng Quang*, Hồ Văn Hoàng*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hội chứng tăng nhiễm ấu trùng giun lươn là một trong những đặc điểm lâm sàng nặng của  bệnh giun lươn với tỷ lệ tử vong hơn 85%. Hội chứng được đặc trưng bởi bệnh nhân mang một lượng lớn ấu  trùng từ chu trình tự nhiễm vàthường gặp trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

Mục tiêu: Trình bày một trường hợp có hội chứng tăng nhiễm ấu trùng giun lươn (HCTNATGL) với biểu

hiện lâm sàng mới trên người.

Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo ca bệnh có hội chứng tăng nhiễm đồng thời với bệnh lý suy giảm miễn

dịch.

Kết quả: Theo tổng hợp và ghi nhận y văn đây có thể là ca bệnh đầu tiên có HCTNATGL và viêm phổi do

Pneumocystis jiroveci.

Kết luận: Do đặc tính gây tử vong cao của bệnh, HCTNATGL phải được lưu ý trong chẩn đoán phân biệt  với các tình trạng suy hô hấp khác khi có nhiều tác nhân gây bệnh trên các bệnh nhân sống tại vùng lưu hành  bệnh.

Từ khóa: Hội trứng tăng nhiễm, Pneumocystis jiroveci, viêm phổi, ấu trùng giun lươn.

ABSTRACT

TYPICAL HYPERINFECTION SYNDROME BY STRONGYLOIDIASIS: A CASE REPORT AND  MEDICAL LITERATURE REVIEW

Huynh Hong Quang, Ho Van Hoang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 194 ‐ 199

Background:  Strongyloides  hyperinfection  syndrome  is  one  of  several  clinical  manifestations  of  strongyloidiasis and  has  a  mortality  rate  exceeding  85%.  The  syndrome  is  characterized  by  a  high  organism  burden owing to autoinfection route and is most common in immunocompromised hosts.

Objectives:  To  describe  a  case  of  Strongyloides  hyperinfection  syndrome  with  a  novel  clinical  feature  in

human.

Methods: Case report with hyperinfection syndrome due to human Strongyloides stercoralis had coinfected

Pneumocystis jiroveci pneumonia.

Result:  According  to  literature  review,  this  might  be  the  first  case  having  hyperinfection  syndrome  and

Pneumocystis jiroveci pneumonia simultaneously.

Conclusion: Owing to its extremely high mortality rate, Strongyloides hyperinfection syndrome must be  considered  early  in  the  differential  diagnosis  for  respiratory  failure  when  multiple  pathogens  are  recovered  in  patients from endemic areas.

Keywords: Strongyloidiasis, hyperinfection syndrome, Pneumocystis jiroveci, pneumonia

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn

Tác giả liên lạc: Ths, BS. Huỳnh Hồng Quang.

ĐT:0905103496    Email: huynhquangimpe@yahoo.com

192

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐẶT VẤN ĐỀ

hoặc  mảng  trên  da  bụng  và  bên  trên  hai  chi  dưới. Xét nghiệm máu có đếm bạch cầu là trong  giới  hạn  bình  thường.  Chụp  X‐quang  phổi  cho  thấy  hình  ảnh  thâm  nhiễm  kẻ  hai  bên,  so  với  phim X‐quang trước đó 30 ngày là có tốt hơn.

Bệnh ấu trùng giun lươn là hội chứng gây ra  bởi  nhiễm  trùng  Strongyloides stercoralis,  một  ký  sinh trùng (KST) lưu hành các vùng nhiệt đới và  cận nhiệt đới. Đặc điểm lâm sàng của bệnh bao  gồm: từ người mang mầm bệnh không có triệu  chứng đến biểu hiện bệnh lý mạn tính ở các cơ  quan  như  da  tiêu  hóa  và  phổi.  Hội  chứng  này  được  đặc  trưng  bởi  nhiễm  trùng,  thường  do  nhiều  tác  nhân  gây  bệnh  ở  đường  ruột  và  rối  loạn  chức  năng  các  cơ  quan  giai  đoạn  cuối  do  một lượng lớn ấu trùng giun lươn. HCTNATGL  có tỷ lệ tử vong cao (> 85%), nếu có sự chẩn đoán  sớm sẽ quyết định sự sống còn cho bệnh nhân(3).

TRÌNH BÀY CA BỆNH

Trong vòng 12 giờ khi nhập viện, tình trạng  bệnh nhân suy sụp dần, khó thở, thiếu oxy máu,  sốt  cao  run  lạnh,  tình  trạng  thần  kinh  thay  đổi  và  hình  ảnh  viêm  phổi  kẻ  nặng  hơn  trên  phim  chụp X‐quang. Bệnh nhân được chỉ định đặt nội  khí  quản  và  dẫn  lưu  dịch  phế  quả.  Bệnh  nhân  được  điều  trị  tích  cực  bằng  trimethoprim‐ sulfamethoxazole tiêm tĩnh mạch, Ciprofloxacin  và Ticarcillin‐clavulanate vì chẩn đoán  ban  đầu  nghĩ đến viêm phổi Pneumocystis jiroveci và viêm  phổi do nhiễm trùng bệnh viện.

Một  bệnh  nhân  nam  69  tuổi  biểu  hiện  khó  thở  tiến  triển  với  nguyên  nhân  không  rõ  ràng,  Bệnh nhân có tiền sử bệnh phổi tắc nghẽn mạn  tính  (COPD)  và  một  bệnh  lý  được  chẩn  đoán  gần đây là rối loạn tế bào B đa dòng. Khoảng 3  tuần trước khi nhập viện và sau khi đã hoàn tất  liệu  trình  điều  trị  4  tuần  với  rituximab  và  cyclophosphamide, bệnh nhân biểu hiện sốt, run  lạnh, đi phân lỏng và giảm oxy huyết kèm theo  thâm  nhiễm  phổi  nặng.  Mặc  dù  đã  được  dùng  thuốc hỗ trợ, song tình trạng bệnh nhân vẫn xấu  đi và được chuyển đến viện để đánh giá.

Mẫu  dịch  phế  quản  gồm  nhiều  tác  nhân  jiroveci,  Strongyloides  stercoralis,  Pneumocystis  Pseudomonas  aeruginosa,  Cytomegalovirus,  Herpes  simplex virus, và Aspergillus species. Cấy máu cho  thấy nhiều loài Enterococcus và Salmonella, huyết  thanh chẩn đoán dương tính với kháng nguyên  Cytomegalovirus pp65. Chẩn đoán HCTNATGL  được  nghĩ  đến  và  chỉ  định  thuốc  Ivermectin,  Voriconazole,  Ganciclovir  cho  bệnh  nhân  kèm  liệu  pháp  Corticosteroid.  Sau  dó  bệnh  nhân  không còn thông khí cơ học sau 11 ngày điều trị  và  ra  viện  với  sự  trợ  giúp  của  khoa  phục  hồi  chức năng vào ngày thứ 27.

MỘT SỐ BÀN LUẬN

Chu  kỳ  sinh  học  của  bệnh  ấu  trùng  giun  lươn

thuốc  dùng  hiện

tại

Tiền  sử  y  khoa  khác  đáng  chú  ý  là  bệnh  lý  mạch  vành  đa  nhánh,  cao  huyết  áp,  đái  tháo  đường,  thuyên  tắc  mạch  phổi  và  bệnh  lý  thiếu  máu  tan  máu  liên  quan  đến  bệnh  lý  ác  tính  tế  bào  B.  Các  là  Methylprednisolone,  Clopidogrel,  Omeprazole,  Aspirin,  Metformin,  Isosorbide  mononitrate,  Diltiazem  và  Cephalosporin.  Bệnh  nhân  có  tiền  sử hút thuốc lá nặng.

Nhiễm trùng ban đầu xảy ra khi thể  nhiễm  chính là ấu trùng giai đoạn filariform đi vào cơ  thể  vật  chủ  qua  đường  da  do  tiếp  xúc  với  đất  hoặc  phân  nhiễm  bệnh.  Sau  khi  KST  tiếp  cận  đến  dòng  máu  thông  qua  dẫn  lưu  hệ  bạch  huyết,  chúng  di  chuyển  đến  phổi  ‐  xuyên  qua  hàng rào mao mạch phế nang, đi vào phế nang,  đi  lên  cây  phế  quản  đến  hầu,  ở  đó  nó  tiếp  tục  được  nuốt  vào  hệ  tiêu  hóa.  Trong  khi  ở  đường  tiêu  hóa,  các  ấu  trùng  sẽ  phát  triển  thành  giun  trưởng  thành  và  bắt  đầu  sinh  sản.  Giun  cái  đi

Vào thời điểm nhập viện, bệnh nhân có tình  trạng huyết động ổn định, tỉnh táo, định hướng  tốt,  không  có  biểu  hiện  suy  hô  hấp  (huyết  áp  138/60mmHg; mạch 101 /phút, thân nhiệt 36.20C  và nồng độ HbO2 bão hòa 90% trong điều kiện  nhiệt  độ  phòng).  Khám  thấy  nhu  mô  phổi  có  hình ảnh ran lan tỏa; vết xuất huyết dạng chấm

193

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

kèm theo mày đay tại vị trí đường vào của KST;  chúng thường biểu hiện thoáng qua, kéo dài vài  giờ đến vài ngày và liên quan đến vùng mông,  đùi,  chi  dưới(5,4,7).  Thể  mạn  tính,  có  biến  chứng  bao gồm bệnh ấu trùng giun lươn rải rác, đôi khi  được xem là bệnh ấu trùng giun lươn hàng loạt  hoặc tràn ngập hoặc hội chứng tăng nhiễm.

Hội  chứng  tăng  nhiễm  (Hyperinfection  Syndrome/ Mass Syndrome)

Nghiên cứu Y học  xuyên  qua  niêm  mạc  tá  tràng  và  đoạn  hỗng  tràng gần, tại đó chúng đẻ trứng và có thể tồn tại  trong  nhiều  năm.  Con  giun  đực  bị  đào  thải  ra  ngoài theo phân. Trứng trưởng thành thành thể  ăn  mồi  không  tính  nhiễm  gọi  là  thể  ấu  trùng  rhabditiform,  thể  này  sau  đó  phóng  thích  ra  phân, trưởng thành trong đất, sinh sản và nhiễm  vào  các  vật  chủ  khác,  hoặc  trưởng  thành  sang  dạng  ấu  trùng  filariform  trong  vật  chủ  người.  Ấu trùng filariform có thể quay trở lại máu của  vật  chủ,  bằng  cách  xuyên  qua  niêm  mạc  đại  tràng hay da quanh hậu môn và tồn tại một chu  kỳ  nhiễm  thông  qua  tiến  trình  tự  nhiễm  này(3,5,4,6).

Đặc  điểm  lâm  sang  nhiễm  ấu  trùng  giun  lươn

Trên  các  cá  nhân  suy  giảm  miễn  dịch,  tỷ  lệ  diễn  ra  chu  trình  tự  nhiễm  không  khống  chế  được, dẫn đến một lượng thấp KST tồn tại. Tuy  nhiên, miễn dịch của vật chủ suy yếu hoặc thời  gian  đi  qua  hệ  tiêu  hóa  chậm  lại,  sự  cân  bằng  bình  thường  giữa  ấu  trùng  phóng  thích  vào  phân và sự trưởng thành của các thể này trong  đường  tiêu  hóa  bị  thay  đổi.  Kết  quả  này  làm  tăng  thêm  chu  trình  tự  nhiễm,  lượng  KST  cao  hơn và phát sinh hội chứng tăng nhiễm(3,5,4,6).

Triệu  chứng  lâm  sàng  của  nhiễm  ấu  trùng  giun lươn thay đổi tùy thuộc vào khả năng đáp  ứng  vật  chủ.  Phần  lớn  bệnh  nhân  nhiễm  giun  lươn  không  có  biến  chứng,  có  khi  đến  50%  là  không có triệu chứng(5,8). Sau giai đoạn cấp tính,  hầu  hết  các  bệnh  nhân  có  triệu  chứng  trong  vòng 3‐4 tuần với biểu hiện tại hệ tiêu hóa, phổi  và  da.  Đặc  điểm  trên  hệ  tiêu  hóa  chiếm  ưu  thế  hơn cả như tiêu chảy và đau bụng, ngoài ra còn  có chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, ngứa hậu môn,  sôi  bụng  và  bệnh  lý  ruột  kém  hấp  thu(2).  Các  triệu  chứng  ở  phổi  điển  hình  là  ho  không  rõ  nguyên do, khò khè và khó thở. Hình ảnh thâm  nhiễm di chuyển lan tỏa do ấu trùng di chuyển  trong  phổi  tìm  thấy  trên  phim  chụp  X  quang(7).  Tại vị trí KST đi vào (thường là ở bàn chân) có  thể  có  phản  ứng  da  như  viêm,  phù  nề,  chấm  xuất huyết, vệt ấu trùng mày đay di chuyển(5).

Liên quan giữa miễn dịch vật chủ suy yếu và  tăng  nhiễm  đã  được  mô  tả  lần  đầu  tiên  bởi  Rogers và Nelson vào năm 1966 với ca tử vong  từ  những  ca  nhiễm  giun  cùng  với  nhiễm  trùng  đường  ruột  bởi  vi  khuẩn  gram  (‐)  trên  2  bệnh  nhân  đang  dùng  liệu  pháp  Corticosteroid  liều  cao để điều trị bệnh ác  tính  về  máu.  Tương  tự,  một số tác giả khác đã mô tả mối liên quan giữa  miễn dịch vật chủ suy yếu và sự tăng nhiễm(3,4).  Trong một tổng hợp 103 ca bệnh, Igra‐Siegman  và cộng sự(2) đã cho thấy rằng 89 bệnh nhân có  suy giảm miễn dịch, hầu hết do khối u ác tính hệ  máu hoặc bạch huyết hoặc đang dùng thuốc ức  chế  miễn  dịch,  đặc  biệt  Corticosteroids.  Các  bệnh khác có cơ chế bảo vệ của vật chủ thay đổi  cũng  có  liên  quan  đến  sự  phát  triển  hội  chứng  tăng  nhiễm,  gồm  có  nghiện  rượu,  suy  dinh  dưỡng,  bỏng  nặng,  giảm  bạch  cầu,  giảm  gammaglobulin  máu(3,5) và  nhiễm  virus  HTLV‐1  hay HIV‐1.

Một số triệu chứng tương tự có thể gặp trên  các  bệnh  nhân  nhiễm  trùng  mạn  tính,  nhiễm  trùng không có triệu chứng nhưng có xu hướng  tăng  lên  rồi  giảm  xuống,  đôi  khi  đến  vài  năm.  Ngược lại với giai đoạn cấp tính ở hệ tiêu hóa và  phổi  có  triệu  chứng  nổi  trội  thì  giai  đoạn  mạn  tính  đặc  trưng  triệu  chứng  ở  da.  Hội  chứng  ấu  trùng  di  chuyến  được  xem  là  một  đặc  trưng  bệnh của bệnh ấu trùng giun lươn mạn tính với  các  biểu  hiện  ấu  trùng  di  chuyển  ngoằn  nghèo

Ngược lại các triệu chứng và dấu chứng của  nhiễm  ấu  trùng  giun  lươn  cấp  hay  mạn  tính  không  biến  chứng  có  thể  tiên  đoán  từ  chu  kỳ  phát triển của KST, hội chứng tăng nhiễm diễn  ra  phức  tạp  hơn  vì  miễn  dịch  suy  yếu  và  liên

194

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  quan đến nhiều cơ quan. Các báo cáo trình bày  gồm có các triệu chứng và dấu chứng sau, có thể  đơn lẻ hoặc phối hợp(3,5,8,4,1,7,6).

Hệ  tiêu  hóa:  đau  bụng  nghiêm  trọng,  buồn  nôn, nôn mửa, tiêu lỏng, tắc ruột, liệt ruột, kém  hấp thu, xuất huyết tiêu hóa, viêm phúc mạc lan  tỏa.

đi  vào  máu,  (2)  Các  tác  nhân  gây  bệnh  đường  ruột đi vào máu kết dính với ấu trùng giun lươn  và  (3)  Vi  sinh  vật  trong  ruột  đi  vào  máu  khi  chúng  được  đào  thải  ra  bởi  KST  sẵn  có  trong  tuần hoàn máu(6,7). Trong bài tổng hợp của Igra‐ Siegman và cộng sự (2), không có sự khác biệt có  ý nghĩa nào về tỷ lệ nhiễm trùng thứ phát giữa  bệnh  nhân  suy  giảm  miễn  dịch  và  bệnh  có  hệ  thống  miễn  dịch  tốt,  cho  thấy  nhiễm  trùng  thứ  phát dẫn đến hội chứng tăng nhiễm hơn là hội  chứng suy giảm miễn dịch.

Chẩn đoán và điều trị

Hệ hô hấp: ho kèm theo tăng đờm dãi, ho ra  máu,  khò  khè,  suy  hô  hấp,  thâm  nhiễm  thùy  hoặc  hai  phổi  lan  tỏa,  xuất  huyết  từng  ổ,  xuất  huyết  phế  nang  phổi,  viêm  phổi  và  hội  chứng  suy hô hấp cấp tính.

Hệ  thần  kinh:  thay  đổi  tình  trạng  tâm  thần  kinh, co giật, động kinh, viêm não và abces não.

Các cơ quan khác: viêm gan tạo u hạt, viêm  gan và sự xâm nhập của KST vào trong cơ quan  tim,  thận,  phúc  mạc,  hạch  lympho,  tụy,  tuyến  giáp và cận giáp.

Một  chẩn  đoán  xác  định  nhiễm  ấu  trùng  giun lươn có thể thiết lập nhờ vào phát hiện ấu  trùng Strongyloides trong phân hay trong dịch cơ  thể.  Các  phương  pháp  nuối  cấy  trên  đĩa  thạch  agar mới có độ nhạy cao hơn các phương pháp  cổ  điển,  như  là  phương  pháp  soi  trực  tiếp  hay  nuôi cấy trên giấy lọc(6). Tuy nhiên, ấu trùng sinh  trong phân chỉ là rải rác, vì thế không có phương  pháp nào trong số này có độ nhạy đủ bao phủ.  Thực hiện lấy một loạt mẫu phân là khuyến cáo  nên  làm  để  làm  tăng  độ  nhạy,  điều  này  gần  100% nếu có 7 hoặc nhiều hơn mẫu phân được  đưa  vào  phân  tích..  Xét  nghiệm  trực  tiếp  dich  hút  tá  tràng  qua  nội  soi  có  thể  làm  nhưng  độ  nhạy chỉ có 40‐90%(8).

Nhiễm  trùng  thứ  phát  thường  xảy  ra  trong  hội  chứng  tăng  nhiễm.  Nhiễm  trùng  huyết  tồn  tại  xảy  ra  khi  nhiễm  với  vi  khuẩn  đường  ruột  (như  vi  khuẩn  gram  âm,  enterococci,  streptococci  nhóm D và nấm Candida) có thể dẫn đến viêm  màng não, viêm phúc mạc và viêm nội tâm mạc.  Ba  cơ  chế  được  đề  nghị  để  giải  thích  mối  liên  quan này gồm: (1) Tính toàn vẹn của niêm mạc  ruột bị hư vỡ, cho phép các vi khuẩn đường ruột

Ấu trùng S. stercoralis

Hình ảnh thâm nhiễm

HC. ấu trùng di chuyển

trị  bằng

có  triệu  chứng  và  không  có  triệu  chứng.  Một  isotype để giám sát tiêu diệt hay chưa, song sau  khi  điều  thuốc  giun,  nồng  độ  immunoglobulin huyết thanh giảm với các tỷ lệ  khác nhau.

Đếm bạch cầu ái toan tăng đến 80% trong số  các bệnh nhân có miễn dịch bình thường nhiễm  trùng  không  biến  chứng;  song  trong  hội  chứng  tăng  nhiễm  thì  bạch  cầu  ái  toan  thường  không  tăng. Khi trên lâm sàng nghi ngờ cao về nhiễm  ấu  trùng  giun  lươn  mà  xét  nghiệm  phân  âm  tính, đo hiệu giá kháng thể bằng ELISA có thể có  ích trong chẩn đoán nhiễm trùng trên bệnh nhân

Điều  trị  ấu  bệnh  trùng  giun  lươn  có  thể  là  một thách thức. Về mặt lịch sử, thuốc Pyrvinium  pamoate  được  xem  là  lựa  chọn  điều  trị,  nhưng

195

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

từ

năm

1989.

dụng

cuối  ức

cùng  chế

Nghiên cứu Y học  thuốccó tỷ lệ tiêu diệt chỉ 30‐85% và không sản  xuất  Benzimidazoles  (thiabendazole,  mebendazole,  albendazole)  là  các  thuốc  điều  trị  giun  sán  tiếp  theo,  các  thuốc  này  có  hoạt  tính  giun  sán  phổ  rộng  làm  giảm  sinh  năng  lượng  bên  trong  KST.  Con  đường  thông  nhóm  của  [beta]‐tubulin  Benzimidazole là  polymerase,  gây  giáng  hóa  sự  hình  thành  cytoplasmic  Microtubule.  Các  thuốc  giun  sán  này không chỉ giết KST giai đoạn còn trong ruột  mà còn làm vô trùng các giai đoạn trứng và ấu  trùng.  Thiabendazole  được  chấp  nhận  sử  dụng  trên người từ  năm  1962,  sử  dụng  rộng  rãi  nhất  trong nhóm thuốc này, thuốc có tỷ lệ chữa khỏi  rất  cao,  gần  100%  trong  một  loạt  ca  bệnh.  Tuy  nhiên, sau này thuốc l ít sử dụng  vì  một  số  tác  dụng ngoại ý như rối loạn chức năng gan, chóng  mặt, buồn nôn, chán ăn(6).

gặp nhất là liệt ruột, hội chứng kém hấp thu, hội  chứng  thận,  sinh  cân  nặng  thấp(6).  Các  bệnh  nhân suy giảm miễn dịch, ngoài nguy cơ cao với  các biến chứng này thì cũng có tăng nguy cơ bị  viêm phổi, nhiễm trùng, viêm màng não,  abces  hình  thành,  bệnh  ấu  trùng  giun  lươn  lan  tỏa  hoặc HCTNATGL(8). Tử vong thường xảy ra do  nhiễm trùng vi khuẩn gram âm và gram dương  ở  đường  ruột  như  Escherichia  coli,  Klebsiella  pneumoniae, Enterococcus xảy ra hơn 80% số ca có  suy giảm miễn dịch cùng hội chứng tăng nhiễm.  Trước khi bắt đầu liệu pháp thuốc ức chế miễn  dịch, nên sàng lọc nhiễm ấu trùng giun lươn là  khuyến  cáo  với  những  bệnh  nhân  không  triệu  chứng  có  nguy  cơ,  như  tăng  bạch  cầu  ái  toan  không  rõ  nguyên  nhân,  có  tiền  sử  tổn  thương  dưới da, ấu trùng di chuyển như rắn bò hoặc có  phơi  nhiễm  với  đất  hoặc  phân  người  bệnh  nhiễm trong vùng lưu hành.

Trên  những  bệnh  nhân  bệnh  nặng  từ  các  vùng lưu hành có biểu hiện các triệu chứng lan  tỏa không đáp ứng với các liệu pháp kinh điển,  nhưng  trên  lâm  sàng  có  nghi  ngờ  HCTNATGL  thì  nên  nghĩ  đến  và  tiếp  cận  chẩn  đoán  cũng  như  điều  trị  sớm.  Trong  ca  bệnh  này  có  nhiễm  rất  nhiều  ấu  trùng  giun  lươn  trên  bệnh  lý  suy  giảm  miễn  dịch,  có  lẽ  đây  là  ca  bệnh  rất  hiếm  gặp  xảy  ra  HCTNATGL  và  viêm  phổi  do  Pneumocystis jiroveci đồng thời.

2.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Boyd  WP,  Campbell  FWJ,  Trudeau  WL  (1978).  Strongyloides  stercoralis‐‐hyperinfection. Am J Trop Med Hyg 1978;27(Pt 1):39‐ 41.   Igra‐Siegman  Y,  Kapila  R,  Sen  P,  et  al  (1981).  Syndrome  of  hyperinfection  with  Strongyloides  stercoralis.  Rev  Infect  Dis  1981;3:397‐407.

3. Longworth  DL,  Weller  PF  (1986).  Hyperinfection  syndrome  with

Ivermectin,  một  loại  kháng  sinh  lần  đầu  sử  dụng trong lĩnh vực thú y để điều trị nhiễm giun  tròn,  song  sau  đó  được  dùng  trên  người  vào  cuối những năm 1980. Thuốc ức chế dẫn truyền  thần kinh trong các giun tròn và động vật chân  khớp  thông  qua  kích  thích  ly  giải  [gamma]‐ aminobutyric acid từ các đoạn cuối sợi thần kinh  tiền  synap  và  ức  chế  dẫn  truyền  thần  kinh  lệ  thuộc  acide  [gamma]‐aminobutyric  acid.  Tỷ  lệ  tiêu diệt hai năm sau điều trị bằng ivermectin rất  cao 97%(6). Một số báo cáo cho thấy các tác dụng  phụ  tương  tự  như  các  thuốc  thuộc  nhóm  benzimidazoles,  nhưng  nhìn  chung  chúng  xảy  ra với tần suất ít hơn và ít nghiêm trọng hơn. Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  liệt  kê  Ivermectin  như  thuốc  được chỉ định điều trị hội chứng tăng nhiễm và  nhiễm giun lươn lan tỏa.

strongyloidiasis. Curr Clin Top Infect Dis 1986;7:1‐26.

4. Nagaraj  P,  Czachor  JS,  Hawley  B  (2000).  Strongyloides  hyperinfection with pulmonary hemorrhage and ARDS.  Infect  Med  2000;17:208‐12.

5. Scowden  EB,  Schaffner  W,  Stone  WJ  (1987).  Overwhelming  strongyloidiasis: an unappreciated opportunistic infection.  Medicine  (Baltimore) 1978;57:527‐44.

6. Upadhyay  D,  Corbridge  T,  Jain  M,  et  al  (2001).  Pulmonary  hyperinfection  syndrome  with  Strongyloides  stercoralis.  Am  J  Med  2001;111:167‐169.

7. Wehner  JH,  Kirsch  CM  (1997).  Pulmonary  manifestations  of

Tiêu  diệt  hoàn  toàn  gánh  nặng  KST  trên  những ca có biến chứng trước khi sử dụng liệu  pháp thuốc ức chế miễn dịch là cần thiết để đảm  bảo rằng HCTNATGL sẽ không phát triển trong  suốt  quá  trình  điều  trị.  Tỷ  lệ  chữa  khỏi  trên  những ca nhiễm trùng mạn tính không có triệu  chứng gần 100%. Các biến chứng trên các bệnh  nhân suy giảm miễn dịch không điều trị thường

strongyloidiasis. Semin Respir Infect 1997;12:122‐129.

196

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  8. Zaha O, Hirata T, Kinjo F, et al (2000). Strongyloidiasis: progress in

diagnosis and treatment. Intern Med 2000;39:695‐700.

197

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH HIỆU LỰC PHÁC ĐỒ THUỐC  DIHYDROARTEMISININE+PIPERAQUINE VỚI CHLOROQUINE   TRONG ĐIỀU TRỊ SỐT RÉT DO PLASMODIUM VIVAX 2011

Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung, Hồ Văn Hoàng

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sốt rét do Plasmodium vivax (P.vivax) đe dọa 40% dân số thế giới, khoảng 250 triệu ca mắc  mỗi năm, bao gồm sốt rét ác tính (SRAT) và tử vong. P. vivax phân bố rất rộng, với 2.5 tỷ người có nguy cơ  mắc bệnh. Sốt rét do P. vivax kháng chloroquine đã được báo cáo nhiều nơi trên thế giới, ngoại trừ Việt Nam.

Mục tiêu: So sánh hiệu lực phác đồ CQ với DHA+PPQ trong điều trị sốt rét do P. vivax.

Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng.

Kết quả: Trong khi hiệu lực ACPR (đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ) của CQ vẫn bền vững ở  mức cao (93.6%) đối với P. vivax và có tỷ lệ thất bại KST muộn (LPF) là 6.5%. Ngược lại, ACPR của phác đồ  DHA+PPQ đối với P. vivax tuyệt đối (ACPR = 100%), chưa có thất bại điều trị ETF, LPF, LCF. Thời gian  FCT 2 phác đồ không khác biệt, nhưng PCT ngắn hơn ở nhóm DHA+PPQ so với CQ (38.1 ± 12.2 giờ và 62.2±  12.2  giờ),  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Diễn  tiến,  tốc  độ  giảm  và  thời  gian  làm  sạch  giao  bào  của  DHA+PPQ nhanh hơn so với CQ sau mỗi 24 giờ.

Kết luận: Hiện P. vivax vẫn còn nhạy với thuốc chloroquine. Nếu trong tương lai, kháng thuốc xảy ra và

lan rộng thì khi đó chiến lược thuốc ACTs sẽ là lựa chọn phù hợp cho các vùng có lưu hành P. vivax.

Từ khóa: Plasmodium vivax, chloroquine, dihydroartemisinine, piperaquine.

ABSTRACT

EFFICACY COMPARISON OF CHLOROQUINE AND DIHYDROARTEMISININE+PIPERAQUINE  REGIMES IN TREATMENT FOR PLASMODIUM VIVAX MALARIA IN 2011

Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Ho Van Hoang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 200 ‐ 206

Background: Plasmodium vivax (P. vivax) threatens almost 40% of the world’s population, resulting  in  250 million clinical infections each year, including severe disease and death. P. vivax is geographically the most  widely distributed, with up to 2.5 billion people at risk. Chloroquine resistant vivax malaria had reported in the  world, but not in Vietnam.

Objectives: To compare of DHA+PPQ efficacy and CQ in treatment for vivax malaria.

Methods: Controlled randomized clinical trial study design.

Result:  While  ACPR  (Adequate  Clinical  and  Parasite  Respons)  efficacy  in  CQ  was  high  (93.6%)  for  P.vivax and LPF rate of 6.5%. ACPR efficacy in DHA+PPQ for P. vivax was highly absoluted (ACPR of 100%),  without  any  ETF,  LPF,  LCF.  The  FCT  in  two  regimes  were  not  significantly  different,  but  the  PCT  was  statistically significant shorter than in DHA+PPQ to CQ regime in time (38.1 ± 12.2 hrs vs. 62.2 ± 12.2 hrs).  Rate of progression in gametocyte clearance in DHA+PPQ group was more rapid than CQ after every 24 hrs.

Conclusion: P vivax remains sensitive to chloroquine, with rise and spread of chloroquine‐resistant P vivax,

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn

Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Hồng Quang.  ĐT: 0905103496

Email: huynhquangimpe@yahoo.com

198

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  there might be a compelling rationale for a unified ACT‐based strategy for vivax malaria in endemic zones.

Keywords: Plasmodium vivax, chloroquine, dihydroartemisinine, piperaquine.

ĐẶT VẤN ĐỀ

khuyến  cáo  của  WHO  khi  thất  bại  điều  trị  với  thuốc  ưu  tiên  CQ  và  một  số  trường  hợp  bất  dung  nạp  CQ,  tất  cả  vấn  đề  đó  khiến  chúng  ta  cần phải có thuốc thay thế khi phác đồ CQ giảm  đáp ứng đến mức cảnh báo(5,6).

Mục  tiêu  nghiên  cứu:  So  sánh  hiệu  lực  thuốc  dihydroartemisinine  +  piperaquine  với  chloroquine  trong  điều  trị  SR  do  Plasmodium  vivax.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Xã  Phước  Chiến,  huyện  Thuận  Bắc,  tỉnh

Ninh Thuận.

Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Tuổi từ 6 tháng trở lên.

Nhiễm  đơn  thuần  KSTSR  Plasmodium  vivax

Mặc dù phần lớn các trường  hợp  SR,  SR  ác  tính  (SRAT),  tử  vong  đều  do  P.  falciparum,  nhưng  P.  vivax  cũng  ảnh  hưởng  đến  gần  100  triệu người mỗi năm trên toàn cầu. 10‐20% số ca  P.  vivax  tập  trung  ở  châu  Phi,  nam  Sahara;  tại  vùng Đông và Nam Phi cho thấy P. vivax chiếm  khoảng  10%  và  riêng  tại  Tây  và  Trung  Phi,  P.  vivax chiếm dưới 1%(2,1). Ngoài châu Phi, P. vivax  chiếm trên 50% và trong đó đó 80‐90% số ca là  nằm  ở  các  quốc  gia  Trung  Đông,  châu  Á,  Tây  Thái Bình Dương và 10‐20% là nằm ở  các  quốc  gia  Trung  và  Nam  Mỹ.  Cùng  với  P. falciparum,  thì  P. vivax  góp  phần  vào  quá  trình  đói  nghèo,  tăng  tỷ  lệ  bệnh  trong  mô  hình  bệnh  tật  tại  các  quốc gia; và dù không nhiều, nhưng gần đây SR  do  P. vivax  có  ghi  nhận  gây  nên  các  bệnh  cảnh  SRAT và TVSR, đặc biệt tại Ấn Độ, gợi ý đến sự  giảm đáp ứng của P. vivax với thuốc(2,1).

được phát hiện bằng kính hiển vi.

Mật độ thể vô tính của KSTSR P. vivax trong

máu ≥ 250/μl máu.

Nhiệt  độ  nách  ≥  37.5  °C  hoặc  tiền  sử  có  sốt

trong vòng 48 giờ trước khi vào nghiên cứu.

Bệnh nhân có khả năng nuốt và uống thuốc.

Chưa  dùng  bất  kỳ  loại  thuốc  SR  nào  trước  đó (ảnh hưởng đến dược động học thuốc nghiên  cứu).

Bệnh nhân và/ hoặc gia đình, người giám hộ  đồng  ý  hợp  tác  nghiên  cứu,  tham  gia  đủ  liệu  trình điều trị và theo dõi bệnh nhân trong suốt  28/42 ngày.

Chloroquine  (CQ)  là  một  thuốc  diệt  thể  vô  tính  có  hiệu  quả  hơn  60  năm  qua  trong  việc  phòng bệnh và điều trị SR do P. vivax. Cho đến  thập kỷ trước thuốc CQ vẫn còn nhạy với loài ký  sinh trùng này. Song, tỷ lệ kháng cao với CQ đã  được  báo  cáo  lần  đầu  tiên  tại  Papua  New  Guinea,  tiếp  đó  tại  Indonesia    khoảng  10%  và  nay nhiều báo cáo cho biết bản đồ kháng CQ do  P. vivax lan rộng khắp thế giới. Trước tình hình  đó, WHO đã khuyến cáo cho sử dụng các nhóm  thuốc phối hợp có artemisinine (ACTs) khi có ca  bệnh SR do P. vivax kháng với CQ (WHO., 2009‐ 2011).  Hơn  nữa,  một  số  bệnh  nhân  có  cơ  địa  không dung nạp với CQ(5).

Tiêu chuẩn loại trừ

Nhỏ hơn 6 tháng tuổi và lớn hơn 70 tuổi.

Phụ nữ có thai (test thử âm tính) hoặc đang

cho con bú.

Bệnh nhân SR do P. vivax có biểu hiện  biến  chứng nặng (hôn mê, rối loạn ý thức, hội chứng  suy hô hấp, thiếu máu nặng) đòi hỏi phải nhập  viện, hoặc nôn trầm trọng hoặc thể trạng không

Tương  tự  các  quốc  gia  Đông  Nam  Á  khác,  Việt Nam cũng sẽ đối mặt với nguy cơ lan rộng  tiềm tàng P. vivax kháng với CQ(5). Do đó, song  song  với  hoạt  động  theo  dõi  đáp  ứng  ký  sinh  trùng  P. falciparum,  chúng  ta  cần  phải  theo  dõi  thường  quy  vấn  đề  hiệu  lực  của  CQ  đối  với  P.  vivax, để từ đó có hướng xử trí và thay đổi phác  đồ  thích  hợp.  Với  3  lý  do  về  kháng  thuốc  CQ  trên thế giới, về giảm nhạy với CQ, kết hợp với

199

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu Y học  hấp  thu  được  thuốc  và  các  thành  phần  4‐ aminoquinolein.

Đặc  điểm  chung  của  2  nhóm  bệnh  nhân  nghiên cứu  Bảng 1. Một số đặc điểm dân số học của 2 nhóm  nghiên cứu.

Hiện đang mắc bệnh nhiễm trùng phối hợp  khác như tiêu chảy nặng, viêm hô hấp cấp, sởi,  bệnh nền sẵn có nặng như gan, thận, tim mạch,  HIV/AIDS, cúm nặng, suy dinh dưỡng.

Nhiễm  SR  phối  hợp  P. vivax  +  P. falciparum

hoặc P. malariae.

Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu D0 Đặc điểm về hai nhóm nghiên cứu p

Phương pháp nghiên cứu

0.034

Thiết kế nghiên cứu

Thử  nghiệm  lâm  sàng  ngẫu  nhiên,  có  đối

chứng.

Thử  nghiệm  in  vivo  theo  dõi  28/42  ngày

đánh giá theo quy định WHO 2009.

0.77 0.85

Cỡ mẫu nghiên cứu

Chọn  tỷ  lệ  thất  bại  điều  trị  CQ/DHA+PPQ  khoảng  10%  với  khoảng  tin  cậy  CI  95%,  độ  chính xác (d) 10%. Khi đó cỡ mẫu tối thiểu cần  nghiên  cứu  hiệu  lực  CQ/DHA+PPQ  là  35.  Cỡ  mẫu phải điều chỉnh để dự phòng mất mẫu (ước  tính 20% trong 1 nghiên cứu theo dõi 28 hoặc 42  ngày).

Tổng số 68 trường hợp nhiễm đơn thuần P.  vivax  đủ  tiêu  chuẩn  đưa  vào  nghiên  cứu,  cho  uống  thuốc  theo  hai  nhóm  DHA+PPQ  và  CQ,  phân  tích  cho  thấy  tỷ  lệ  phân  theo  giới  có  sự  khác biệt có ý nghĩa (p = 0.034). Tỷ lệ trẻ em và  người  lớn  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê.

CQ (n = 32) 30/2 30 (93.8%) 2 (6.3%) 6 (18.8%) 26 (81.3%) 0 (0%) 6 (18.8%) 26 (81.3%) DHA + PPQ (n = 36) 27/9 27 (75%) 9 (25%) 12 (33.3%) 24 (66.7%) 2 (5.6%) 10 (27.8%) 24 (66.7%) Giới tính Nam/nữ Nam Nữ Trẻ em Người lớn Nhóm tuổi < 5 ≥ 5 – <15 ≥ 15

Kỹ thuật nghiên cứu và quy trình theo dõi  Theo  đề  cương  của  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới

Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng trên hai nhóm bệnh nhân  nghiên cứu.

(2009).

Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu D0 Đặc điểm lâm sàng 2 nhóm nghiên cứu CQ (n = 32) p

Thực  hiện  đầy  đủ  về  các  bước:  sự  chấp  thuận của Hội đồng đạo đức y sinh, thực hành  lâm  sàng  tốt  (GCPs),  cam  kết  tham  gia  nghiên  cứu  thông  qua  ký  bản  chấp  thuận,  bảo  mật  thông tin và số liệu nghiên cứu và dịch vụ chăm  sóc y tế tối đa.

0.89 0.74 0.59 DHA + PPQ (n = 36) 37.3 (27.2- 37.4) 30 (12 - 69) 2.1 ± 1.1 37.3 (37.2- 37.4) 35 (8 - 59) 2.4 ± 1.3

Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị

Theo qui trình đánh giá của Tổ chức Y tế thế

giới như của P. falciparum (2009).

26 (81.3%) 3 (9.4%) 26 (72.2%) 6 (16.7%) > 0.05

Phân tích và xử lý số liệu

Số liệu thu thập được phân tích theo In vivo

Exelsheet 7.1, Pascal Ringwald của WHO, 2009.

Số ngày có sốt trước khi bệnh nhân đến điều  trị,  thân  nhiệt  vào  thời  điểm  thăm  khám  ban

> 0.05 18 (56.3%) 17 (94.4%) 1 (5.6%) 16 (41.7%) 15 (93.8%) 1 (6.3%) Thân nhiệt và cân nặng Thân nhiệt trung bình (0C) Cân nặng trung bình (kg) Số ngày sốt trước điều trị (ngày) Số ca có sốt và tiền sử có sốt Nhiệt độ ≥ 37.50C Tiền sử có sốt (trong 48 giờ) Lách lớn Độ I + II Độ III

200

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

D42 có 3 trường hợp mất theo dõi trong quá trình  nghiên  cứu  ở  nhóm  dùng  DHA+PPQ  và  1  trường hợp ở nhóm dùng CQ.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  đầu,  cân  nặng  trung  bình,  tình  trạng  lách  lớn  hay  bình  thường  và  số  bệnh  nhân  có  xuất  hiện  sốt cao co giật ở nhà giữa hai nhóm bệnh nhân  nghiên  cứu  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê.

Bảng 5. Định loại ký sinh trùng trong phân loại thất  bại ký sinh trùng muộn (LPF).

D0 D28/D42 Phân loại Mã Phát hiện Xác định lại RDTs in vivo

Bảng 3. Đặc điểm về ký sinh trùng sốt rét ở hai  nhóm bệnh nhân

276/μL 105/μL Thể vô tính Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu D0 Đặc điểm nhóm nghiên cứu LPF (P. vivax) p NTCQ16 (D0-28) 0 12 Giao bào

> 0.05 KSTSR thể vô tính MĐKSTSR thể vô tính DHA + PPQ n = 36) 3.2 (3 - 3.6) 250/μL 284/μL Thể vô tính

Trong  nhóm  bệnh  nhân  dùng  phác  đồ  CQ,  có 2 trường hợp xuất hiện lại KSTSR loài P. vivax  và  P.  falciparum  (qua  kết  quả  soi  kính  hiển  vi,  que thử nhanh).

NTCQ29 (D0-42) LPF (P. falciparum) 34 17 Giao bào Loài: non- falciparum (vạch 2 (+) đặc hiệu loài P.vivax hoặc pan-species Loài: P. falciparum (vạch 1 (+) đặc hiệu loài P. falciparum > 0.05 CQ (n = 32) 3.101 (3.2 - 3.4 23/32 (71.9%) 75/ μl (35 - 115) 24/36 (66.7%) 77/ μl (26 - 128) KSTSR thể hữu tính Số trường hợp có giao bào MĐKST giao bào trung bình

Hiệu  lực  cắt  sốt  và  cắt  ký  sinh  trùng  P.  vivax của phác đồ CQ và DHA+PPQ  Bảng 6. Hiệu lực cắt sốt và làm sạch KSTSR P.  vivax của phác đồ DHA+PPQ.

Phân tích về thể vô tính và hữu tính, cho biết  mật độ thể vô tính lần lượt giữa 2 nhóm là 3.2 (3  ‐ 3.6)/μl và 3.1 (3.2 ‐ 3.4/μl, không có sự khác biệt  có ý nghĩa thống kê. Số trường hợp có giao bào  giữa  2  nhóm  lần  lượt  là  24/36  (66.7%)  và  26/32  (81.3%). Mật độ TB thể giao bào cũng tương đối  giữa 2 nhóm, lần lượt 77 và 75 /μl máu.

So sánh giữa hai phác đồ

chloroquine  và

lực  phác  đồ

Nội dung phân tích p DHA+PPQ (n = 33) CQ (n = 31)

Hiệu  DHA+PPQ đối với sốt rét do P. vivax  Bảng 4. Phân loại hiệu lực phác đồ DHA+PPQ và  CQ đối với sốt rét P. vivax.

2.1 ± 1.1 2.4 ± 1.3 > 0.05

> 0.05 DHA+PPQ (n = 36) CQ (n = 32) 37.3 (27.2- 37.4) 37.3 (37.2- 37.4) Chỉ số đánh giá 3.2 (3 - 3.6) 3.1 (3.2 - Tỷ lệ % > 0.05 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng 3.4

c ự

24.5 ± 8.4 28.3 ± 5.2 > 0.05

i

l u ệ H

38.1 ± 12.2 62.2 ± 12.2 0.003

0 1 0 0 0 33 33 0 0 0 100% 0 0 2 29 31 0 0 6.5%% 93.6%

u ẫ m

t ấ M

0 0 0 1 Ngày sốt TB trước khi điều trị (ngày) Thân nhiệt trung bình ngày D0 (0C) Mật độ KSTSR trung bình ngày D0 Thời gian cắt sốt TB (FCT) theo giờ Thời gian sạch KSTSR TB (PCT) Xuất hiện lại trong 28 ngày theo dõi Xuất hiện lại trong 42 ngày theo dõi 3 1

Hiệu lực phác đồ có tỷ lệ ACPR đạt 100% ở  nhóm dùng DHA+PPQ và 93.6% ở nhóm dùng  CQ và 2 ca thất bại KST muộn vào ngày D28, và

Thời  gian  cắt  sốt  (FCT)  lần  lượt  ở  2  nhóm  DHA+PPQ và CQ là 24.5 ± 8.4 giờ và 28.3 ± 5.2,  không có sự khác biệt có ý nghĩa. Thời gian sạch  KSTSR  (PCT)  lần  lượt  ở  2  nhóm  DHA+PPQ  và  CQ là 38.1 ± 12.2 giờ và 62.2 ± 12.2 giờ, sự khác  biệt có ý nghĩa thống kê.

36 32 ETF LCF LPF ACPR Tổng số phân tích Rút khỏi nghiên cứu Mất theo dõi, gián đoạn Tổng số nghiên cứu

201

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  Bảng 7. Tỷ lệ giảm giao bào trước và sau điều trị CQ  và DHA+PPQ.

So sánh giữa hai phác đồ Nội dung phân tích

DHA+PPQ (n = 33) CQ (n = 31) 77/μL 75/μL > 0.05 Mật độ KSTSR thể giao bào TB D0

vivax với CQ chỉ còn là 94.3% và tỷ lệ thất bại ký  sinh trùng muộn LPF là 5.7% cũng là một cảnh  báo sớm (N.T. Tiến và cs., 2007) hoặc đã có diễn  tiến giảm nhạy thông qua thời gian sạch ký sinh  trùng  và  thời  gian  cắt  sốt  kéo  dài  qua  các  năm  2005  ‐  2007  (H.H.  Quang  và  N.T.  Thoa  và  cs.,  2008; H.H. Quang và cs., 2010) hay kháng CQ do  P.  vivax  lần  lượt  được  công  bố  tại  Ấn  Độ,  Myanmar,  Guyan,  Nam  Phi  và  Indonesia  (J.  Kevin  Baird  và  cs.,  2004)  trên  y  văn  thế  giới.  Điểm  thú  vị  và  phức  tạp  nhất  là  tình  trạng  thể  ngủ trong gan tái hoạt động sau thời gian điều  trị sẽ rất khó phân biệt tái phát ‐ tái nhiễm ‐ tái  phát  sớm  trên  bệnh  nhân,  nhất  là  bệnh  nhân  nghiên  cứu  nằm  trong  vùng  SR  lưu  hành  cũng  như vùng lan truyền cao sẽ nảy sinh nhiều yếu  tố nhiễu(1, 4).

Số trường hợp có giao bào

Diễn  biến  hình  thành  và  giảm  đi  giao  bào  giữa hai nhóm bệnh nhân dùng thuốc khác biệt  có ý nghĩa thống kê.

22/31 (70.9%) 22 (70.9%) 24 (77.4%) 26 (83.9%) 26 (83.9%) 27 (87.1%) 12 (38.7%) 3 (9.7%) 1 (3.2%) 1 (3.2%) 23/33 (69.7%) 23 (69.7%) 28 (84.9%) 28 (84.9%) 16 (48.5%) 2 (6.1%) 0 (0%) Diễn tiến giao bào sau mỗi 24 giờ Ngày D0 Ngày D1 Ngày D2 Ngày D3 Ngày D7 Ngày D14 Ngày D21 Ngày D28 Ngày D35

BÀN LUẬN

Hiệu  lực  phác  đồ  DHA+PPQ  và  CQ  liệu  trình 3 ngày đối với SR do P. vivax

Hiệu lực của từng phác đồ DHA+PPQ và CQ

Mặt  khác,  trong  2  trường  hợp  thất  bại  ký  sinh trùng muộn (LPF) đều xảy ra sau ngày D21  nên chúng tôi cũng không gởi mẫu đi đánh giá  và  đo  nồng  độ  chất  CQ  và  chất  chuyển  hóa  desethychloroquine  để  đánh  giá  thất  bại/xuất  hiện ký sinh trùng cùng với thời điểm nồng độ  vượt  ngưỡng  hay  không  vì  thời  gian  bán  hủy  đào  thải  thuốc  không  còn  nữa  như  một  nghiên  cứu từng làm trong một nghiên cứu trên cỡ mẫu  lớn (n = 333) được tiến hành tại Indonesia là từ  D17 ‐ D30, trung bình là D23, có một số ít xuất hiện  sau ngày D30 (Baird và cs.,1997).

Hiệu lực cắt sốt và cắt ký sinh trùng P. vivax

của phác đồ chloroquine và DHA+PPQ

Thời gian cắt sốt trung bình (FCT) lần lượt ở  hai  nhóm  dùng  DHA+PPQ  và  CQ  là  rất  ngắn  24.45±8.36  giờ  và  28.32±5.15,  không  có  sự  khác  biệt có ý nghĩa. Do cắt sốt nhanh nên đã cải thiện  tổng thể tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.

Tỷ lệ đạt ACPR 100% ở nhóm DHA+PPQ và  không thấy tình trạng ETF, LCF và LPF. Ngược  lại, ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc CQ cho hiệu  lực  ACPR  là  93.55%,  với  2  ca  thất  bại  ký  sinh  trùng muộn (LPF) vào ngày D28 và D42. Phân tích  về 2 trường hợp LPF ở nhóm CQ, xuất hiện lại  KSTSR  loài  P.  vivax  và  P.  falciparum  (qua  lam  nhuộm  giêm  sa  và  test  nhanh).  Về  kết  quả  xác  định tái phát/ tái nhiễm bằng PCR, đến nay vẫn  chưa nhận được kết quả phản hồi, nên chưa thể  khẳng  định  đây  là  tái  phát  hay  tái  nhiễm  ở  ca  NTCQ16  để  đánh  giá  một  cách  thấu  đáo  cũng  như vai trò ưu thế từng phác đồ trong tác động  làm giảm nhiễm mới hoặc giảm tái nhiễm.

Ngược  lại  thời  gian  làm  sạch  KSTSR  trung  bình (PCT) ở hai nhóm DHA+PPQ và CQ có sự  khác  biệt  rõ  38.12±12.20  giờ  và  62.24±12.24  giờ.  Phân  tích  về  hiệu  lực  trên  khả  năng  làm  sạch  KST còn cho thấy sự tái xuất hiện KST trong thời  gian  theo  dõi  trong  28  ngày  đầu,  cụ  thể  có  1  trường  hợp  nhóm  CQ  xuất  hiện  lại  P. vivax  và

Tỷ lệ thất bại này tương tự như một nghiên  cứu của nhóm tác giả Nông Thị Tiến và cộng sự  tiến  hành  tại  xã  Phước  Thành,  huyện  Bác  Ái,  tỉnh Ninh Thuận cho thấy đáp ứng ACPR của P.

202

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  tiếp tục  theo  dõi  đến  D42  thì  nhóm  này  lại  xuất  hiện tiếp tục 1 trường hợp có P. falciparum.

Hiệu lực về giảm nguy cơ tái nhiễm, tái phát

liều  ban  đầu  (vì  các  ngày  đầu  là  liều  cao,  tấn  công  trên  dung  khối  KST)  nhanh,  sau  đó  lại  giảm dần. Gợi ý có thể là một điểm mới đối với  thuốc ACTs.

và sạch KST trong và sau điều trị

Ngược lại, phác đồ CQ lại có diễn tiễn cũng  làm tăng tỷ lệ người mang giao bào P. vivax lên  trong và sau quá trình điều trị trong vòng 7 ngày  đầu (D0: 22 (70.97%) (cid:198) D1: 24 (77.42%) (cid:198) D2: 26  (83.87%)  (cid:198)  D3:  26  (83.87%)  (cid:198)  D7:  27  (87.10%),  nhưng  sau đó từ ngày D14 đến D35 mới bắt đầu  giảm tỷ lệ mang giao bào (D14: 12 (38.71%) (cid:198) D28:  3  (9.68%)  (cid:198)  D35:  1  (3.22%)  (cid:198)  D42:  1  (3.22%).  So  với  thuốc  DHA+PPQ  thì  phác  đồ  này  cho  tỷ  lệ  giảm sinh và tăng sạch giao bào nhanh hơn phác  đồ CQ. Tuy nhiên,  nghiên  cứu  này  với  cỡ  mẫu  nhỏ, thời gian theo dõi chưa đủ dài và chúng ta  chỉ phát hiện 2 ca xuất hiện lại KST và phác đồ  DHA+PPQ lại có đáp ứng ACPR là 100%, không  có tỷ lệ tái phát hay thất bại nào để so sánh và  chúng tôi chưa đánh giá nguy cơ tích lũy của tái  xuất hiện ký sinh trùng, tỷ số Hazard, cũng như  phân  tích  nguy  cơ  thất  bại  từng  phác  đồ  như  một số nghiên cứu đã thực hiện tại đa trung tâm  và  số  mẫu  rất  lớn  (Nateghpour  M  và  cs.,  2009;  Ghulam Rahim Awah và cs., 2010).

KẾT LUẬN

Điểm  quan  trọng  trong  nghiên  cứu  này  là  vai trò của từng phác đồ trong kiểm soát và làm  giảm khả năng tái phát và nhiễm mới. Dựa vào  bảng 7. có thể nhìn thấy mật độ giao bào của 2  nhóm dùng thuốc trước điều trị có mật độ như  nhau và số ca bệnh có giao bào đồng thời với thể  vô tính trong máu cũng tương đương (69.7% và  70.97%).  Dù  phác  đồ  DHA+PPQ  và  CQ,  trong  thành  phần  không  có  chất  nào  có  hoạt  tính  chống và diệt thể giao bào, song các nghiên cứu  về  dược  động  học  artemisinine  và  dẫn  suất  (artesunate,  dihydroartemisinine,  artemether,  arteeter, arteolane) đều kết luận rằng chúng tác  động mạnh và nhanh trên cả P. falciparum và P.  vivax,  đặc  biệt  diệt  nhanh  các  thể  tư  dưỡng  và  phân liệt từ giai đoạn còn non đến trưởng thành,  do  vậy  nó  cũng  gián  tiếp  cắt  giảm  nhanh  thể  giao bào đáng kể(3,6). Tuy nhiên, do chu kỳ phát  triển  của  P. vivax  khác  với  P. falciparum  ở  điểm  tồn tại thể ngủ trong gan P. vivax, nên khó có thể  đánh  giá  thấu  đáo  và  rõ  ràng  về  tác  dụng  của  từng phác đồ thuốc trên vấn đề tái phát thật sự,  tái nhiễm và sạch giao bào sau khi điều trị vì có  thể bị một số yếu tố nhiễu làm ảnh hưởng đến  nhận định vào thời điểm cuối cùng(6).

Hiệu lực phác đồ DHA+PPQ đối với sốt rét  do  P.  vivax  tuyệt  đối  (ACPR  =  100%),  chưa  có  một tỷ lệ thất bại điều trị ETF, LPF, LCF nào.

Hiệu lực của CQ vẫn còn bền vững và duy  trì ở mức cao đối với SR do P.vivax, tỷ lệ ACPR  là 93.55%, song vẫn có một tỷ lệ nhỏ thất ký sinh  trùng muộn (LPF) là 6.45%.

Hiệu  lực  và  diễn  biến  thời  gian  cắt  sốt  của  hai phác đồ tương đương nhau. Hiệu lực và tốc  độ  làm  sạch  KSTSR  theo  thời  gian  ngắn  hơn  ở  nhóm  dùng  DHA+PPQ  so  với  CQ  (38.12±12.20  giờ  so  với  62.24±12.24  giờ),  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa thống kê.

Diễn tiến, tốc độ giảm và thời gian làm sạch  giao bào của phác đồ DHA+PPQ nhanh hơn so  với phác đồ CQ theo thời gian mỗi 24 giờ.

Diễn  tiến  về  có  mặt  giao  bào,  hình  thành  giao  bào  trước,  trong  và  sau  điều  trị  hai  nhóm  thuốc liệu trình 3 ngày có sự khác biệt rõ rệt theo  từng  ngày  theo  dõi  (sau  mỗi  24  giờ).  Diễn  tiến  cho  thấy  ở  nhóm  bệnh  nhân  dùng  phác  đồ  DHA+PPQ  có  sự  tăng  nhanh  tỷ  lệ  mang  giao  bào trong và sau điều trị 3 ngày, nhưng sau đó  lại  giảm  đi  rất  nhanh  kể  từ  ngày  D3,  đến  D7 và  sạch  giao  bào  vào  thời  điểm  D14 (D0:  23  (69.7%)  (cid:198)  D1:  28  (84.85%)  (cid:198)  D2:  28  (84.85%)  (cid:198)  D3:  16  (48.48%) (cid:198) D7: 2 (6.06%) (cid:198) D14 không còn). Điều  này  có  thể  hoặc  là  ngoài  tác  động  nhanh  làm  chết các thể vô tính, thì chúng còn gây hiệu ứng  làm  “bùng  nổ”  hay  “phản  ứng  dội”  giao  bào  cũng  như  thể  vô  tính  do  tác  động  của  thuốc  ở

203

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Baird  JK  (2009).  Resistance  to  therapies  for  infection  by  Plasmodium vivax. Clin Microbiol Rev, 2009 Jul;22(3):508‐34  2. Bruno  BA,  Antonio  RF,  Sebastiao  et  al.,  (2010).  Severe  inflamatory  Plasmodium  vivax  malaria  exhibits  marked  imbalance.  Malaria  Journal  2010,  9:13  doi:10.1186/1475‐2875‐9‐ 13

3. Ketema  T,  Bacha  K,  Birhanu  T  (2009).  Chloroquine‐resistant  Plasmodium vivax malaria in Serbo town, Jimma zone, south‐ west Ethiopia. Malaria journal, 2009 jul 30; 8:177   4. Price  RN,  Douglas  NM,  Anstey  NM.,

(2009).  New  developments in Plasmodium vivax malaria: severe disease and  the  rise  of  chloroquine  resistance.  Curr  Opin  Infect  Dis,  2009  Oct; 22(5); 430‐5.

5. Trung TN,  Quang HH, Guoqiao L và cs., (2009). Đánh giá hiệu  lực các phác đồ thuốc phối hợp có gốc Artemisinine trong điều  trị SR do P.falciparum chưa biến chứng. Tạp chí y dược học quân  sự, ISSN 1859‐1655, Số CĐ 1/2009, trang 32‐36.

6. WHO  (2010).  Global  report  antimalarial  drugs  efficacy  and

drugs resistance 2000‐2010.

Với  các  dữ  liệu  nêu  trên,  cho  thấy  hiệu  lực  phác đồ DHA+PPQ đạt tuyệt đối. Hiệu lực phác  đồ  CQ  vẫn  còn  bền  vững,  ACPR  cao  trên  90%  qua nhiều năm sử dụng tại vùng này, thời gian  làm sạch KSTSR chậm hơn so với DHA+PPQ và  đặc biệt diễn tiến giao bào có nhược điểm tăng  lên  và  kéo  dài  hơn  so  với  DHA+PPQ(1,2,3).  Dù  thuốc  CQ  vẫn  còn  hiệu  lực  cao,  song  các  bằng  chứng về thất bại điều trị (LPF) kết hợp với thời  gian làm sạch KST kéo dài cũng nói lên vấn đề  giảm  nhạy,  hay  giảm  đáp  ứng  của  P. vivax  với  CQ, có thể xem đó như một chỉ điểm cảnh báo  nguy  cơ  xuất  hiện  kháng  nếu  không  giám  sát  thường quy để có hướng xử trí thay đổi phác đồ  theo  từng  giai  đoạn,  chẳng  hạn  dùng  thuốc  DHA+PPQ như WHO khuyến cáo (WHO, 2011).

204

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG   BỆNH ẤU TRÙNG GIUN GNATHOSTOMA SPINIGERUM   TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN TRUNG TÂY NGUYÊN

Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung*, Hồ Văn Hoàng*, Huỳnh Bình Phước*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh do ấu trùng G. spinigerum là bệnh truyền từ động vật qua đường thức ăn do ấu trùng  giai đoạn 3 của Gnathostoma spp. Bệnh được phát hiện nhiều ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, lưu hành ở  Đông Nam Á, Nhật Bản và đang gia tăng tại châu Mỹ Latin. Trước đây, bệnh hiếm khi gặp ở ngoài vùng lưu  hành; nhưng hơn 10 năm qua số ca tại các quốc gia‐nơi bệnh không lưu hành đã tăng lên.

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm ấu trùng G. spinigerum.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.

Kết quả: Tổng số 77 bệnh nhân phân tích cho thấy mô hình yếu tố nguy cơ cao phù hợp trên y văn. Đặc

điểm lâm sàng gồm ấu trùng di chuyển da niêm mạc và thể phủ tạng với các triệu chứng không đặc hiệu.

Kết  luận: Bệnh ấu trùng giun đầu gai lưu hành chủ yếu tại Đông Nam Á, kể cả Việt Nam và các nhà  nghiên cứu gần đây cho biết tỷ lệ mắc mới của bệnh tăng ở người. Nhiễm ấu trùng này biểu hiện các triệu  chứng không đặc hiệu với hội chứng ấu trùng di chuyển da và phủ tạng, dễ nhầm lẫn và bỏ sót trong chẩn  đoán.

Từ khóa: Hội chứng ấu trùng di chuyển, Gnathostoma spinigerum.

ABSTRACT

CLINICAL EPIDEMIOLOGY MANIFESTATIONS IN HUMAN GNATHOSTOMIASIS IN CENTRAL  HIGHLAND PROVINCES, VIETNAM

Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Ho Van Hoang, Huynh Binh Phuoc

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 207 ‐ 212

Background:  Gnathostomiasis  is  a  food‐borne  zoonosis  caused  by  the  third‐stage  larvae  of  the  helminths  Gnathostoma spp.This disease is common in tropical and subtropical regions anh has endemic in Southeast Asia,  Japan, and Latin America. However, the number of cases has increased in areas without epidemic.

Objectives: Describe epidemiological aspects by patients with gnathostomiasis who treated in our institute.

Methods: Describe a series of patients.

Result:  A  total  of  77  patients  analysis  showed  a  plausible  epidemiologic  risk  model  suitable  for  medical  literature.  The  clinical  manifestation  included  mucocutaneous  form  (cutaneous  larva  migrans  syndrome/  creeping eruption) and visceral migration form with nonspecific symptoms.

Conclusion: Gnathostomiasis is endemic in Southeast Asia, includingVietnam. researchers have noticed an  increase  in  incidence  of  human  gnathostomiasis.  Human  gnathostomiasis  infestation  showed  that  initial  nonspecific  symptoms  followed  by  cutaneous  and/or  visceral  larva  migrans,  it  is  easy  to  misdiagnosis  or  underdiagnosis with.

Keywords: Cutanneous larval migrans syndrome, Gnathostoma spinigerum.

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn

Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Hồng Quang.  ĐT: 0905103496

Email: huynhquangimpe@yahoo.com

205

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶT VẤN ĐỀ

hiếm gặp hơn. Khi biểu hiện không điển hình dễ  chẩn đoán nhầm với một số bệnh nội khoa và da  liễu  khác.  Thể  thần  kinh  của  giun  đầu  gai  biểu  hiện lâm sàng với các triệu chứng và biến chứng  (viêm  não  màng  não,  viêm  rễ  tủy,  viêm  màng  não,  xuất  huyết  nhu  mô  não  hoặc  dưới  nhện,  nhồi  máu  não)  khó  có  thể  định  phân  giữa  các  bệnh lý nội thần kinh khác, nên dễ bỏ sót bệnh  và tử vong là có thể xảy ra. Di chứng có thể lên  đến 8‐25% (2,4).

Bệnh do ấu trùng giun đầu gai là một bệnh  ký  sinh  trùng  (KST)  truyền  từ  động  vật  sang  người  với  một  số  loài  đã  được  chứng  minh  có  liên quan (Gnathostoma doloresi, G. spinigerum, G.  nipponicum, G. hispidum và G. binucleatum). Trong  số  đó,  G.  spinigerum  được  xem  như  một  loài  chính gây bệnh cho người ở khu vực châu Á nói  chung và Việt Nam nói riêng(3,1). Vì sự phân bố  của  bệnh  và  thói  quen  ăn  uống  của  con  người,  nhất là đối tượng đi du lịch đến các vùng có lưu  hành  bệnh,  đặc  biệt  Thái  Lan  và  Nhật  Bản,  tạo  điều  kiện  thuận  lợi  cho  số  ca  bệnh  ngày  một  tăng.

Hiện tại, ngoài các vùng dịch tễ đã biết trước  đây  như  Nhật  Bản,  Thái  Lan,  Myanmar,  rất  nhiều báo cáo ca bệnh được ghi nhận tại nhiều  quốc gia Đông Nam Á. Điều đáng quan tâm là  các triệu chứng biểu hiện của phần lớn bệnh ký  sinh trùng giun sán tương tự với các bệnh lý nội  khoa  và  da  liễu  khác  nên  khó  có  một  sự  thống  nhất về tiêu chuẩn chẩn đoán (2). Do vậy, nghiên  cứu  dịch  tễ  học  lâm  sàng  nhằm  xác  định  các  triệu chứng phổ biến, để khuyến nghị một tiêu  chuẩn chẩn đoán chung là cần thiết.

Bệnh  do  giun  đầu  gai  trên  động  vật  có  thể  rất nghiêm trọng trong diễn tiến bệnh, thậm chí  có  thể  dẫn  đến  tử  vong  do  các  biến  chứng,  ngược  lại  thể  bệnh  trên  người,  đặc  biệt  đối  với  loài  Gnathostoma spinigerum, hình  thái  lâm  sàng  biểu hiện nhiều nhất là hội chứng ban trườn, ấu  trùng di chuyển dưới da và thể bệnh ở phủ tạng

Mục  tiêu  nghiên  cứu: Đánh giá đặc điểm dịch tễ học và biểu hiện lâm sàng trên bệnh nhân

nhiễm ấu trùng giun G. spinigerum.

Hình 1. Siêu câu trúc bề mặt Gnathostoma spinigerum (http://www. Stanford.edu)

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Các  bệnh  nhân  mắc  ấu  trùng  giun  đầu  gai

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Gnathostoma spp. chưa có biến chứng.

Viện Sốt rét KST ‐ CT Quy Nhơn, thời gian

Phương pháp nghiên cứu

tiến hành 1/2011 đến 12/2011.

Thiết kế và cỡ mẫu nghiên cứu  Nghiên cứu ngang mô tả.

206

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kỹ thuật nghiên cứu

Đánh  giá  về  các  biến  số  dân  số  học,  yếu  tố

nguy cơ liên quan dịch tễ học.

Đánh  giá  về  các  triệu  chứng  lâm  sàng  trên  các cơ quan cũng như các xét nghiệm  sinh hóa,  huyết học, chẩn đoán hình ảnh tại thời điểm bắt  đầu nhập viện.

Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu D0 Số lượng (%) 13 (16.9%) Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Mua bán, kinh doanh

Phân tích và xử lý số liệu

Phân  tích  dựa  theo  tỉ  lệ  và  các  kiểm  định

Tổng  số  77  trường  hợp  nhiễm  ấu  trùng  G.  spinigerum cho thấy nữ chiếm cao hơn nam. Tuổi  trung  bình  là  34  tuổi,  nhóm  tuổi  từ  15  ‐  <  50  chiếm  67.5%  cao  nhất,  phần  lớn  sinh  sống  ở  miền Trung‐Tây Nguyên. 96.1% là dân tộc Kinh,  số cán bộ viên chức mắc cao nhất (61.1%).

thống kê.

KẾT QUẢ

Bảng 2. Một số yếu tố “nguy cơ” góp phần nhiễm  bệnh ấu trùng G. spinigerum

Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77)

Một  số  đặc  điểm  về  dịch  tễ  học  lâm  sàng  của nhóm bệnh nhân nghiên cứu  Bảng 1. Một số đặc điểm về dân số học của nhóm  nghiên cứu.

Thói quen ăn, uống Ăn cá nước ngọt (nhiều loại cá) Thịt vịt, gà hấp, gà hấp muối Thịt rắn làm gỏi, uống huyết rắn Thịt ếch um, xào chưa chín hoặc gỏi Thời điểm trước nghiên cứu 56 (72.7%) 15 (19.5%) 2 (2.6%) 21 (27.2%)

Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Giới tính

Vẹm, sò huyết mù tạt Tôm, cá thái mỏng chấm mù tạt Thịt heo hun khói 5 (6.5%) 32 (41.6%) 2 (2.6%)

Nam Nữ Nhóm tuổi

Uống nước sông, giếng chưa đun sôi Mức thường xuyên phơi nhiễm thức ăn Thỉnh thoảng ăn thức ăn tái, sống 8 (10.4%) 41 (53.3%)

Thường xuyên ăn tái - sống Xem như món khoái khẩu (tái - sống) Ít ăn nhưng tiếp xúc thường xuyên 27 (35.1%) 5 (6.5%) 4 (5.2%) Tuổi trung bình 2.5 - < 6 6 – < 12 12 - < 15 15 - < 50 ≥ 50 - 60 Dân tộc

Các bệnh nhân nhiễm ấu trùng G. spinigerum  có triệu chứng cho thấy họ có thói quen ăn/ hoặc  phơi  nhiễm  nguồn  thịt  động  vật  có  nguy  cơ  nhiễm bệnh.

Kinh Jarai Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu D0 Số lượng (%) 30 (38.9%) 47 (61.1%) 34.3 (2.5 - 66) 2 (2.6%) 2 (2.6%) 11 (14.3%) 52 (67.5%) 10 (13%) 74 (96.1%) 1 (1.3%)

Hoa 2 (2.6%)

Địa chỉ sinh sống và làm việc Bình Định 19 (24.7%)

Tình  trạng  bệnh  nhân  vào  viện  &  triệu  chứng lâm sàng, cận lâm sàng  Bảng 3. Tình trạng bệnh nhân lúc vào viện trước khi  điều trị ấu trùng G. spinigerum.  Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Thời điểm trước

khi nhập viện Số ngày biểu hiện bệnh trước khi vào viện Gia Lai Quảng Ngãi Khánh Hòa Đà Nẵng Phú Yên Đăk Lăk 12 (15.6%) 7 (9.1%) 11 (14.3%) 6 (7.8%) 16 (20.8%) 4 (5.2%)

Lâm Đồng 2 (2.6%) Nghề nghiệp < 7 ngày 7 - < 30 ngày 30 - < 60 ngày ≥ 60 ngày

Nhỏ, ở nhà Đi học Cán bộ viên chức 2 (2.6%) 15 (19.5%) 47 (61 %) Cân nặng trung bình Tổng trạng chung bệnh nhân 22 (28.6%) 36 (46.8) 14 (18.2%) 5 (6.5%) 46 (14 - 78) 2 (2.6%)

207

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Thời điểm trước

BÀN LUẬN

Một số đặc điểm về dịch tễ học của nhóm  bệnh nhân nghiên cứu

Thời gian biểu hiện triệu chứng ở nhà trước  khi đến khám tại Viện chủ yếu là từ 7‐ dưới 30  ngày  (46.8%).  Toàn  trạng  bệnh  nhân  vào  viện  không  suy  kiệt  (97.4%).  Có  26  (33.8%)  ca  bệnh  biểu hiện mất ngủ mạn tính và 12 (15.6%) thỉnh  thoảng mất ngủ.

Suy kiệt Không suy kiệt Mất ngủ Có mất ngủ “mạn tính” khi nhập viện 75 (97.4%) 26 (33.8%) Thỉnh thoảng mất ngủ 12 (15.6%)

Bảng 4. Tam chứng chẩn đoán trên một ca bệnh ấu  trùng G. spinigerum.  Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Thời điểm trước

Mẫu  nghiên  cứu  77  trường  hợp  nhiễm  đơn  thuần  ấu  trùng  giun  đầu  gai  G.  spinigerum  nữ  giới chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới (61.1%  so với 38.1 có thể vì phụ nữ mang vai trò nội trợ  thường  phơi  nhiễm  với  các  thức  ăn  còn  sống,  đặc  biệt  thịt  của  thủy  cầm,  thủy  sản  dễ  nhiễm  bệnh(3,1,5). Về địa chỉ nơi cư trú, phần lớn BN làm  ăn sinh sống ở các tỉnh, thành miền Trung ‐Tây  Nguyên, trong đó Bình Định chiếm 24.7%, Phú  Yên  20.8%,  Gia  Lai  15.6%,  Khánh  Hòa  14.3%,  Quảng Ngãi 9.1%, Đà Nẵng 7.8%, Đăk Lăk 5.2%,  Lâm Đồng 2.6%.

nhập viện

58 (75.3%)

Ca bệnh ấu trùng Gnathostoma spinigerum, số

ca đủ tam chứng chẩn đoán 58 ca (75.3%).

Liên  quan  giữa  bệnh  nhân  nhiễm  ấu  trùng  G. spinigerum đến nghề nghiệp, cho thấy số cán  bộ  viên  chức  mắc  với  tỷ  lệ  cao  nhất  (61.1%),  nhóm  đối  tượng  còn  đi  học  là  19.5%,  nhóm  người  mua  bán  kinh  doanh  chiếm  tỷ  lệ  16.9%.  Đây  có  thể  là  vì  tính  chất  công  việc,  giao  tiếp  khách tại các nhà hàng đặc sản và thói quen ăn  uống  của  người  lớn.  Nhóm  tuổi  từ  15  ‐  <  50  chiếm  67.5%  cao  nhất,  nghĩa  là  rơi  vào  độ  tuổi  lớn, người lao động.

Đủ tam chứng: (i) Vết ban trườn/ ấu trùng di chuyển, sưng phồng từng đợt; (ii) Tăng bạch cầu ái toan; (iii) Yếu tố dịch tễ và có ăn tái sống Chưa đủ tam chứng 6 (7.8%) Tổn thương phủ tạng chung 13 (16.9%)

Bảng 5. Đặc điểm lâm sàng của ấu trùng giun đầu  gai ở tạng, cơ quan khác.

Thời điểm bắt đầu

Một  số  yếu  tố  “nguy  cơ”  nhiễm  ấu  trùng  của giun G. spinigerum

Các  bệnh  nhân  nhiễm  ấu

Đặc điểm nhóm nghiên cứu (n = 77) Cơ quan tiêu hóa Đau bụng không rõ ràng Đau vùng thượng vị - mũi ức 16 (20.8%) 4 (5.2%)

2 (2.6%) 2 (2.6%)

3 (3.9%)

Đau vùng hạ sườn (P) Rối loạn tiêu hóa, phân sệt (cid:198) lỏng (đợt) Đau dạng co thắt đường mật từng cơn Cơ quan hô hấp Đau ngực Khó thở 4 (5.2%) 1 (1.3%)

Ấu trùng gây thương tổn tại một số cơ quan  như tiêu hóa, hô  hấp  và  thị  giác  với  nhiều  phổ  lâm sàng khác nhau.

trùng  G.  spinigerum, có thói quen ăn các thức ăn từ nguồn  thịt  động  vật  có  nguy  cơ  nhiễm  ấu  trùng  giai  đoạn 3 như đã ghi nhận trong y văn với các loại  cá nước ngọt (đặc biệt là cá lóc, cá quả, cá chạch),  thịt  vịt,  thịt  gà  hấp  hành,  gà  hấp  muối  (19.5%),  thịt rắn làm gỏi, thậm chí uống cả huyết rắn tươi  pha  ít  rượu  nhằm  vào  mục  đích  chữa  bệnh  (2.6%), làm thịt ếch um, xào chua ngọt, chưa đủ  chín hoặc gỏi thịt ếch (27.3%), ăn các đông vật có  vỏ  như  vẹm,  sò  huyết  chấm  mù  tạt  với  tái  chanh,  xì  dầu  (6.5%),  hoặc  ăn  tôm,  cá  thái  lát  mỏng  chấm  mù  tạt  (41.6%),  thịt  heo  hun  khói  (2.6%),  danh  mục  các  thức  ăn  có  nguy  cơ  và  đóng  vai  trò  vật  chủ  trung  gian  của  bệnh  ấu  trùng giun đầu gai G. spinigerum đã cho thấy  ít

Khạc đờm có máu Cơ quan thị giác Phù di chuyển ở mi mắt trên Nhìn mờ kiểu song thị 1 (1.3%) 2 (2.6%) 1 (1.3%)

208

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

nhân,  khả  năng  đáp  ứng  viêm  với  sự  tham  gia  của các tế bào mast, immunoglobuline miễn dịch  IgG,  IgE,  bạch  cầu  ái  toan,  ngay  cả  thân  nhiệt  của  bệnh  nhân  cũng  là  một  yếu  tố  ảnh  hưởng.  toàn trạng chung bệnh nhân vào viện không suy  kiệt  (97.4%),  khỏe  mạnh  chỉ  có  phàn  nàn  khó  chịu  về  mặt  sinh  hoạt  do  phản  ứng  mày  đay,  ngứa  nổi  lên  liên  tục  và  hội  chứng  ban  trườn  khiến họ không còn tự tin khi giao tiếp(2).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nhiều  họ  đã  có  phơi  nhiễm  với  ấu  trùng  giai  đoạn 3 của G. spinigerum có mặt trong các phần  thớ thịt do còn sống hoặc xử lý chưa chín (. Đặc  biệt, nghiên cứu này cũng cho thấy có 8 trường  hợp  thường  uống  nước  chưa  đun  sôi  để  nguội  từ các sông, giếng chưa nấu sôi với tỷ lệ đáng kể  (10.4%), tương tự như trong bệnh sán lá gan lớn  thì khả năng của ấu trùng giai đoạn 2 của giun  đầu  gai  G.  spinigerum  có  thể  vào  cơ  thể  người  qua đường tiêu hóa và gây bệnh(3,1,5).

Biểu hiện lâm sàng đa hình thái

Hội chứng ấu trùng di chuyển hoặc ban trườn

Về tính chất và mức độ thường xuyên phơi  nhiễm  với  các  thức  ăn  có  nguy  cơ  cao  ở  trên  nhiễm mầm bệnh ấu trùng giun giai đoạn 3, cho  thấy có đến 6.5% số người xem đó là món khoái  khẩu  (thích  ăn  dạng  tái  ‐  sống)  mỗi  khi  đi  nhà  hàng, quán ăn, hoặc thỉnh thoảng họ ăn thức ăn  tái, sống (53.3%), thường xuyên ăn hải sản hoặc  cá  nước  ngọt,  sông,  hồ  dạng  tái‐sống  (35.1%),  thậm chí còn sống tươi và đặc biệt có nhóm đối  tượng rất ít ăn nhưng tiếp xúc thường xuyên với  các thực phẩm tươi sống này trước khi đưa vào  chế biến (5.2%), đó là các bệnh nhân là đầu bếp  của các quán ăn, nhà hàng, vựa thu mua tôm, cá,  hải sản các loại bán tại các nhà hàng hoặc quán  ăn trong thành phố.

Đánh giá về các triệu chứng lâm sàng, cận  lâm sàng trên bệnh nhân

Tổng trạng chung và thời gian khởi phát bệnh

đến khi vào viện của bệnh nhân

Diễn  tiến  bệnh  có  thể  thay  đổi  theo  từng  bệnh nhân, thời gian biểu hiện triệu chứng trên  cơ thể bệnh nhân ở nhà trước khi đến khám tại  viện thay đổi từ dưới 1 tuần (28.6%), đến từ < 30  ngày (46.8%) và từ 1 tháng đến 2 tháng là 18.2%  và trên 2 tháng là 6.5%, nhiều trường hợp ở đây  bệnh nhân mô tả đã xuất hiện triệu chứng trên 3  tháng,  thậm  chí  nhiều  năm  nhưng  không  đi  khám. Có nhiều bệnh nhân khi vào khám đã gầy  người và triệu chứng mất ngủ mạn tính (33.8%)  và 12 trường hợp (15.6%) thỉnh thoảng mất ngủ  do ngứa và nổi mày đay nhiều(3,2,4).

Về biểu hiện lâm sàng, trên các bệnh nhân bị  bệnh  ấu  tùng  giun  đầu  gai  G.  spinigerum  biểu  hiện  dưới  nhiều  hình  thái  khác  nhau,  song  các  tác  giả  trong  và  ngoài  nước  đều  quy  kết  thành  hai thể bệnh chính của loại ký sinh trùng này: (i)  Thể tổn thương vùng da, niêm mạc thường xuất  hiện với nhiều hình thái lâm sàng đa dạng, hoặc  ban đỏ đơn thuần dạng vệt, vằn vèo nổi hoặc ẩn  dưới  da  mỏng  hoặc  hiện  lên  vùng  có  hình  ảnh  như bản đồ với tỷ lệ cao nhất 67.5%, tiếp đến là  dấu ban trườn đi cùng với hội chứng ấu trùng di  chuyển (49.4%), ban đỏ đi kèm dấu viêm quầng  (32.5%),  một  tỷ  lệ  thấp  hơn  với  biểu  hiện  dạng  ban đỏ cùng với hội chứng ban trườn / ấu trùng  di  chuyển  đồng  thời  (11.7%),  rất  đặc  trưng  cho  bệnh ấu trùng giun đầu gai G. spinigerum đã mô  tả rất nhiều qua loạt ca bệnh báo cáo trong y văn  (H. H. Quang và cs., 2011). Hình ảnh viêm phù nề  mô  mỡ  dưới  da  cũng  là  một  triệu  chứng  đáng  chú ý, dù ít khi báo cáo trên các tạp chí chuyên  ngành ký sinh trùng (5.2%). Điểm đặc biệt là các  dấu hiệu ban trườn hoặc hội chứng ấu trùng di  chuyển  tạo  nên  hình  ảnh  sưng  phồng  dưới  da  rất rõ và diễn tiến từng đợt theo ghi nhận bệnh  nhân(2,4).  Mỗi  đợt  thường  kéo  dài  khoảng  7‐10  ngày và cứ 15‐20 ngày lai xuất hiện lần nữa. Tốc  độ  di  chuyển  của  ấu  trùng  có  thể  nhanh  trung  bình  1‐2  cm  mỗi  giờ.  Dọc  theo  các  đường  di  chuyển  tạo  hầm  là  các  mụn  nước  nhỏ  đi  kèm  theo, gây ngứa và nhiệt  đợt  bội  nhiễm  làm  mủ  cho da bệnh nhân.

Diễn tiến bệnh có thời gian dài hay ngắn còn  tùy thuộc vào cơ địa và thể trạng của từng bệnh

Cũng như các tác giả khác trên thế giới, đặc  biệt  tại  Nhật  Bản,  trong  nghiên  cứu  này  có  tới

209

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT LUẬN

Một  số  đặc  điểm  về  dịch  tễ  học  và  yếu  tố  “nguy  cơ”  của  bệnh  nhân  nhiễm  G.  spinigerum

Bệnh  nhân  nữ  chiếm  cao  hơn  nam,  nhiều  nhất  đến  từ  tỉnh  Bình  Định,  cán  bộ  viên  chức  mắc cao nhất (61.1%) và độ tuổi lao động chiếm  cao nhất (67.5%).

Nghiên cứu Y học  61.1% số ca này có biểu hiện vệt ban trườn hoặc  ấu  trùng  di  chuyển  kèm  theo  dấu  chứng  mày  đay, ngứa dọc theo đường đi của chúng, một số  trường hợp có biểu hiện phản ứng viêm tại chỗ  hoặc lan tỏa ra hai bên hoặc tạo thành đám, nổi  các hạt li ti dọc theo đường đi của vết ban trườn  (27.3%), số ca không không có phản ứng viêm là  33.8%. Điều này còn tùy thuộc vào tình trạng vệ  sinh  của  người  bệnh  và  ý  thức  đi  khám  bệnh  sớm hay muộn.

Biểu hiện thương tổn ở cơ quan

Bệnh nhân có thói quen ăn hoặc phơi nhiễm  thức ăn từ nguồn thịt động vật có nguy cơ như  cá  nước  ngọt,  thịt  gia  cầm,  thủy  cầm  chưa  nấu  chín.

Triệu  chứng  lâm  sàng,  cận  lâm  sàng  trên  bệnh nhân ấu trùng giun đầu gai

Biểu  hiện  vùng  da  niêm  mạc  hay  gặp  nhất  với  hội  chứng  ấu  trùng  di  chuyển  hoặc  ban  trườn  có  đủ  tam  chứng  (75.3%)  hoặc  chưa  đủ  tam chứng (7.8%).

Vì  là  một  bệnh  vốn  dĩ  truyền  động  vật  sang người, nên số ca có biểu hiện thương tổn  tại các cơ quan tiêu hóa, hô hấp và thị giác có  phần ít hơn.

Là một bệnh truyền từ động vật sang người,  nên việc gây thương tổn tại một số cơ quan của G.  spinigerum cũng rất hiếm gặp, nếu có thì có thể do  quá trình ấu trùng G. spinigerum di chuyển và gây  thương tổn tại chỗ và lan tỏa trên nhiều cơ quan.  Cũng như một số bệnh giun tròn tiêu hóa như ấu  trùng  giun  lươn  S. stercoralis,  ấu  trùng  giun  đũa  chó/  mèo  Toxocara  canis/  cati  trong  nghiên  cứu  này, ấu trùng G. spinigerum đã ảnh hưởng tại cơ  quan  tiêu  hóa  do  ấu  trùng  giun  đầu  gai  G.  spinigerum với biểu hiện đau bụng không rõ ràng  là 20.8%, đau vùng thượng vị ‐ mũi ức 5.2%, đau  co  thắt  đường  mật  từng  cơn  3.9%,  đau  vùng  hạ  sườn (P) là 2.6% và có rối loạn tiêu hóa dạng phân  sệt, phân lỏng từng đợt (2.6%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Herman JS, Chiodini PL (2009). Gnathostomiasis, another emerging  imported disease. Clin Microbiol Rev. 2009 Jul; 22(3):484‐92.   2. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung (2010). Tổng hợp loạt  ca bệnh ban trườn/ hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da do ký sinh  trùng  tại  huyện  đảo  Lý  Sơn,  tỉnh  Quảng  Ngãi,  Việt  Nam  (2006‐ 2010). Kỷ yếu công trình NCKH, Viện Y học biển Việt Nam, Hội  Y học biển Việt Nam.

3. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung (2011). Giun đầu gai ‐  bệnh giun mới nổi, Cập nhật y văn và tổng hợp thông tin về 12 bệnh  nhân giun đầu gai. Available from: http://www.impe‐qn.org.vn  4. Quang HH, Trung NT et al. (2010). Human helminthics diseases: A  review and update of an emerging zoonosis now crossing Central and  highland  of  Vietnam. Monography  of  International  seminar  of  Researchable Issues in Ecosystem Approaches to Health Management  of Emerging Infectious Diseases in Southeast Asia in Bali, Indonesia,  October, 2010.

5. Sawanyawishuth  JK  et  al.,  (2011).  Neurognathostomiasis,  a  negected  parasitosis  of  the  Central  nervous  system.  Emerging  Infectious Diseases. www.cdc.gov/eid.vol 17. No 7, July 2011.

Đối  với  cơ  quan  hô  hấp,  triệu  chứng  gặp  ở  bênh nhân không điển hình mà giống như bệnh  phổi  khác,  trong  đó  dấu  đau  ngực  (5.2%),  khó  thở và khạc đờm có sợi máu trên cùng một bệnh  nhân xẹp phổi thùy rất rõ 1.3%, sau khi điều trị  khoảng 10 ngày, bệnh nhân đã cải thiện đáng kể  cả  lâm  sàng  và  hình  ảnh  X  quang  phổi  thẳng.  Tại cơ quan thị giác, dấu hiệu phù mi mắt trên  rất điển hình và có di chuyển theo thời gian như  y văn mô tả với tỷ lệ (2.6%), hoặc nhìn mờ kiểu  song thị (1.3%). Tương tự như trên y văn, chúng  tôi  không  phát  hiện  thêm  các  triệu  chứng  khác  nào dựa vào sự di chuyển của ấu trùng(3,2,5).

210

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HIỆU QUẢ THIABENDAZOLE TRONG ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG ẤU TRÙNG DI  CHUYỂN DO GNATHOSTOMA SPINIGERUM 2011

Huỳnh Hồng Quang*, Tra Thanh Phúc

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hội chứng ấu trùng di chuyển (CLM) và ban trườn (CE) thường hay gặp tại các vùng nhiệt  đới và cận nhiệt đới, kể cả việt Nam, và các rối loạn về da mắc phải tại các vùng nhiệt đới cũng có thể do ấu  trùng Gnathostoma spp.

Mục  tiêu:  Xác định phổ lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu  quả  của  thuốc  thiabendazole  trong  điều  trị  hội

chứng CE/CLM do G. spinigerum.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngang mô tả và thử nghiệm lâm sàng không đối chứng.

Kết quả: Hội chứng CE/CLM biểu hiện lâm sàng là một phổ triệu chứng đa dạng với các ban đỏ, ngoằn  ngoèo như rắn bò, ngứa, sưng phồng di chuyển dưới da gây ra do sự xuyên da niêm mạc tình cờ và tiếp sau đó  ấu  trùng  G.  spinigerum  di  chuyển,  đặc  biệt  trên  thể  có  tam  chứng  điển  hình  (>  95%).  Hiệu  quả  của  thuốc  thiabendazole đường uống rất cao và dung nạp tốt với liều duy nhất (tỷ lệ chữa khỏi 91.37‐96.55%) không có  tác dụng ngoại ý nghiêm trọng.

Kết luận: CE/CLM là một tổn thương da niêm do nhiễm ấu trùng G. spinigerum. Đặc điểm lâm sàng với  phổ đa dạng, dể chẩn đoán nhầm với bệnh da và nhiễm trùng. Điều trị bằng thiabendazole liều duy nhất có tỷ lệ  chữa khỏi cao.

Từ khóa: Gnathostoma spinigerum, Ấu trùng di chuyển dưới da, Ban trườn.

ABSTRACT

THIABENDAZOLE EFFECTIVENESS IN TREATMENT FOR CUTANEOUS LARVA MIGRANS DUE  TO GNATHOSTOMA SPINIGERUM IN 2011

Huynh Hong Quang, Tra Thanh Phuc

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 213 ‐ 219

Background:  Cutaneous larva migrans (CLM) and creeping eruption (CE) are the most commonly found  in tropical and subtropical geographic areas, including Vietnam, and these are tropically acquired dermatosis by  gnathostoma spp. larva as well.

Objectives:  To  highlight  this  CE/CLM  syndrome’s  clinical,  laboratory  findings,  and  thiabendazole

effectiveness in CE/CLM due to G. spinigerum.

Methods: Cross‐sectional study and Non‐controlled clinical trial.

Result: CE/CLM syndrome manifests as a diversified symptomes and signs model with an erythematous,  serpiginous,  pruritic,  cutaneous  eruption  caused  by  accidental  percutaneous  penetration  and  subsequent  migration  of  larvae  of  G.  spinigerum,  specially  in  typical  triad  forms  (>  95%).  Oral  thiabendazole  is  high  effectiveness  and  well  tolerated  when  given  as  a  single  dose  (cure  rate  of  91.37‐96.55%)  without  severe  side‐ effects.

Conclusion: CE/CLM is a muco‐cutaneous lesion resulting from exposure of the skin to infective larvae of  G.  spinigerum.  Clinical  manifestations  as  diversified  symptom  broads,  easy  to  misdiagnosis  of  other

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn

Tác giả liên lạc: Ths. BS. Huỳnh Hồng Quang.

ĐT: 0905103496   Email: huynhquangimpe@yahoo.com

211

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  dermatological and infectious diseases. Treatment with single dose thiabendazole was high efficacy in cure rate.

Keywords:  Gnathostoma  spinigerum  (G.  Spinigerum),  Cutaneous  Larval  Migrans  (CLM),  Creeping

Eruption (CE)

Từ tháng 3/2011 – 12/ 2011.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối tượng nghiên cứu

Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm ấu

trùng G. spinigerum chưa có biến chứng.

Tiêu chuẩn chọn bệnh

Dựa  vào  hoặc  ca  bệnh  đủ  tam  chứng  chẩn  đoán  của  CLM:  (i)  Vết  ban  trườn/  ấu  trùng  di  chuyển  +  (ii)  tăng  bạch  cầu  ái  toan  trong  máu  ngoại  vi  +  (iii)  Có  nằm  trong  vùng  dịch  tễ  và  phơi nhiễm  mầm  bệnh.  Hoặc  ca  bệnh  ấu  trùng  di chuyển nhưng chưa đủ tam chứng ở trên.

Xét nghiệm ELISA phát hiện kháng thể IgG  chống lại ấu trùng G. spinigerum (+) với hiệu giá  kháng thể ≥ 1/1.600 hoặc chỉ số S/Co ≥ 1.0.

Bệnh nhân có khả năng nuốt và uống thuốc,

chưa dùng bất kỳ loại thuốc chống giun sán.

Bệnh  nhân  hoặc  gia  đình,  người  giám  hộ

đồng ý hợp tác nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ

Nhiễm  ấu  trùng  G.  spinigerum  nhưng  có

Bệnh  ký  sinh  trùng  (KST)  do  ấu  trùng  Gnathostoma spinigerum (G. spinigerum) gây bệnh  ở  động  vật  có  thể  rất  nghiêm  trọng  trong  diễn  tiến  bệnh,  thậm  chí  có  thể  dẫn  đến  tử  vong  do  các  biến  chứng,  ngược  lại  thể  bệnh  trên  người  nhất  là  khi  nhiễm  G.  spinigerum,  phổ  hình  thái  lâm sàng biểu hiện nhiều nhất là phản ứng ban  trườn (creeping eruption), hội chứng ấu trùng di  chuyển dưới da (cutaneous larva migrans_CLM)  và  hiếm  hơn  là  thể  ở  phủ  tạng  (VLM)  và  khi  biểu  hiện  lại  không  điển  hình  dễ  chẩn  đoán  nhầm  với  một  số  bệnh  khác(3,5).  Thể  thần  kinh  của  G.  spinigerum  biểu  hiện  lâm  sàng  với  các  biến chứng nghiêm trọng (viêm não‐màng não,  viêm rễ tủy, xuất huyết nhu mô não hoặc dưới  nhện,  nhồi  máu  não,…),  khó  có  thể  phân  định  với  các  bệnh  lý  thần  kinh  khác  nếu  thầy  thuốc  lâm sàng không nghĩ đến, nên dễ bỏ sót bệnh và  tử vong là có thể xảy ra. Di chứng có thể lên đến  8‐25% nếu chẩn đoán và xử trí bệnh không kịp  thời(3,6).

biến chứng thần kinh, cơ quan khác.

Phụ  nữ  có  thai  (test  thử  thai  +)  hoặc  đang

cho con bú.

spp,

Bệnh  nhân  có  xét  nghiệm  ELISA  (+)  với  G.  spinigerum kèm các loại giun, sán, đơn bào khác  Neurocysticercosis,  (Toxocara  Strongyloides  stercoralis;  Fasciola  gigantica,  Angiostrongylus  cantonensis;  Paragonimus  spp).

Với  phân  bố  dịch  tễ  học  và  gánh  nặng  của  bệnh bao phủ nhiều vùng ở Đông Nam châu Á,  song  thuốc  đặc  hiệu  vẫn  còn  bỏ  ngõ,  một  số  thuốc chỉ có hiệu lực 80‐87% như Ivermectine và  Albendazole (H.H. Quang và cs., 2011). Do vậy,  việc  thử  nghiệm  một  phác  đồ  thuốc  mới  nhằm  rút  ngắn  liệu  trình  dùng  và  cải  thiện  hiệu  lực  điều  trị  là  cần  thiết.  Do  vậy,  đề  tài  tiến  hành  nhằm:

Thuốc  và  liều  lượng  sử  dụng  trong  nghiên

Đánh  giá  đặc  điểm  hội  chứng  ấu  trùng  di

cứu.

chuyển do ấu trùng G. spinigerum.

Đánh giá hiệu quả Thiabendazole trên bệnh

nhân nhiễm ấu trùng G. spinigerum.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thuốc  Thiabendazole  (biệt  dược  Niczen)  viên  nén  500mg,  do  công  ty  N.I.C  Pharma  Co.Ltd sản xuất, lô SX: 203040, HSD: 15.03.2015,  hộp đóng gói 7 vỉ x 4 viên.

Địa điểm và thời gian

Tại Viện sốt rét KST‐CT Quy Nhơn.

212

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 1. Liều thuốc Thiabendazole (Niczen) dùng theo cân nặng của bệnh nhân.

Cân nặng (kg) Một số lưu ý

Với hội chứng CLM là 2 ngày và hội chứng ấu trùng di chuyển phủ tạng là 7 ngày Nếu sau 2 ngày kết thúc liệu trình tình trạng thương tổn còn nặng có thể chỉ định thêm liều 2; Không dùng vượt 3000mg/ ngày.

Giờ thứ 12 250mg 500mg 750mg 1.000mg 1.250mg 1.500mg Ngày 1 - 2 (hoặc 1(cid:198)7) Giờ 0 250mg 500mg 750mg 1.000mg 1.250mg 1.500mg 13.60 - < 22.6 ≥ 22.6 - < 34 ≥ 34.0 - < 45 ≥ 45 - < 56 ≥ 56 - < 68 ≥ 68

Phương pháp nghiên cứu

cứu  (Do)  cũng  như  vào  các  ngày  D60,  180  (sau  2  tháng và 6 tháng).

Thiết kế và cỡ mẫu nghiên cứu

Thiết  kế  nghiên  cứu:  (i)  Nghiên  cứu  ngang

mô tả và (ii) Thử nghiệm lâm sàng tự chứng.

lệ

tỷ

Chọn

Các bệnh nhân đều được XN đầy đủ về chức  năng gan, thận, CTM toàn phần, miễn dịch vào  thời  điểm  bắt  đầu  nghiên  cứu  (Do)  cũng  như  vào các ngày D60 và 180 (sau 2 tháng và 6 tháng).

Chẩn  đoán  hình  ảnh  (nội  soi  tiêu  hóa  và

chụp x quang) khi cần thiết.

Phân tích và xử lý số liệu

Mọi dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng phải

lâm  sàng  của  thất  bại  thiabendazole  đối  với  hội  chứng  CLM  do  G.  spinigerum là  p  =  20%,  độ  tin  cậy  95%  và  độ  chính  xác  (d)  khoảng  10%,  thì  cỡ  mẫu  n  =  61.  Song, tránh tình trạng mất mẫu khi theo dõi thời  gian dài nên cần tăng 20% (cid:198) cỡ mẫu ≈ 73 bệnh  nhân.

được ghi lại vào CRFs.

Phân  tích  theo  chương  trình  EPI‐INFO  6.04

Kỹ thuật nghiên cứu

để phân tích và kiểm định kết quả nghiên cứu.

Đánh giá các triệu chứng lâm sàng toàn thân  và  trên  cơ  quan  vào  thời  điểm  bắt  đầu  nghiên

KẾT QUẢ

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng ấu trùng di chuyển (CLM) và ban trườn (CE)  Bảng 2. Tam chứng chẩn đoán CLM trên ca bệnh ấu trùng G. spinigerum.

Đặc điểm nhóm nghiên cứu Thời điểm bắt đầu nghiên cứu TT

(75.32%), số ca chưa đủ tam chứng 7.79%, số còn  lại là tổn thương phủ tạng 16.88%.

Trong  số  77  trường  hợp  nhiễm  ấu  trùng  G.  spinigerum,  số  ca  đủ  tam  chứng  CLM  là  58

- Đủ tam chứng CLM (i) Vết ban trườn/ ấu trùng di chuyển, sưng phồng từng đợt; (ii) Tăng bạch cầu ái toan; (iii) Yếu tố dịch tễ và có ăn tái sống - Chưa đủ tam chứng (iCLM) - Tổn thương phủ tạng chung 58 (75,32%) 6 (7,79%) 13 (16,88%)

Bảng 3. Đặc điểm và tính chất của hội chứng CLM ở vùng da, niêm mạc.  Đặc điểm nhóm nghiên cứu

TT

1

2 Triệu chứng biểu hiện đa dạng - Ban đỏ theo vệt, vùng hình ảnh không rõ - Ban đỏ + viêm quầng - Ban đỏ cùng với ban trườn đồng thời - Dấu ban trườn và ấu trùng di chuyển - Viêm mô mỡ dưới da Vị trí hiện ban đỏ của CLM - Vùng mặt, cổ Thời điểm bắt đầu D0 52 (67.53%) 25 (32.47%) 9 (11.69%) 38 (49.35%) 4 (5.19%) 6 (7.79%)

213

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TT Đặc điểm nhóm nghiên cứu

3

4

quầng (32.47%). Chủ yếu là tại bụng, ngực 1 bên  thân.  Chủ  yếu  xuất  hiện  từng  đợt  (51.95%).  Viêm chỉ có 33.77%, đa số các vết này đã chuyển  màu từ hồng sang đỏ sậm (38.96%).

Về lâm sàng, hội chứng CLM biểu hiện một  phổ lâm sàng đa dạng, nhiều nhất là ban đỏ đơn  thuần dạng vệt hoặc dạng bản đồ (67.53%), vết  ban  trườn/  CLM  (49.35%),  ban  đỏ  đi  kèm  viêm

5 Thời điểm bắt đầu D0 47 (61.03%) 3 (3.89%) 12 (15.58%) 6 (7.79%) 28 (36.36%) 12 (15.58%) 2 (2.6%) 40 (51.95%) 16 (20.78%) 21 (27.27%) 26 (33.77%) 47 (61.04%) 8 (10.39%) 30 (38.96%) - Bụng, ngực 1 bên - Bụng, ngực 2 bên - Lưng và thắt lưng - Mạng sườn (phải và trái) - Chi trên - Chi dưới Tính chất và thay đổi thương tổn CLM - Xuất hiện thường xuyên - Xuất hiện từng đợt - Xuất hiện sau tắm ấm, đi mưa về, mồ hôi Phản ứng CLM kèm phản ứng viêm - Viêm dọc theo đường đi của ban trườn - Không có viêm nhiễm - Có ngứa, mày đay, kiến bò Màu sắc của ban trườn và vết di chuyển - Ban trườn màu đỏ (hồng (cid:198) sậm màu) - Vết di chuyển và ban trườn đỏ sậm màu

Bảng 4. Thông số cận lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm ấu trùng G. spinigerum.

Nhóm nghiên cứu 1/1.600 Ngưỡng hiệu giá kháng thể 1/6.400 1/3200 1/12.800

Số nghiên cứu (n = 77) SL 74 % 96.1 SL 3 % 3.89 SL 0 % 0 SL 0 % 0 Tỷ lệ bạch cầu ái toan Nhóm nghiên cứu 7 - 10% 11 - 25% 26 - 35% 36 - 78%

Hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng giun đầu gai

bằng thuốc Thiabendazole (Niczen).

Huyết  thanh  chẩn  đoán  của  các  bệnh  nhân  CLM  chủ  yếu  gặp  là  1/1600  cao  nhất  (96.1%).  Trên  90%  số  ca  có  biểu  hiện  tăng  bạch  cầu  ái  toan trong máu ngoại vi.

Số nghiên cứu (n = 77) SL 4 % 5.19% SL 46 % 59.74 SL 19 % 24.68 SL 8 % 10.39

Bảng 5. Hiệu quả điều trị đánh giá sau 2 tháng, 6 tháng điều trị.  Trước Đ. trị

Sau điều trị (D60 - D180) TT Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng 6 tháng SL % 2 tháng % SL SL %

53 2 5 Cải thiện: giảm hoặc mất 91.37 33.33 38.46 56 5 8 96.55 83.33 61.54 Cải thiện: bình thường

Cải thiện về mặt lâm sàng Ca đủ tam chứng C.đoán giun đầu gai Ca không điển hình về tam chứng Ca bệnh biểu hiện ở phủ tạng Cải thiện về cận lâm sàng Tăng BCAT (> 10%) (cid:198) bình thường ELISA dương tính ≥ 1/1600 Nội soi tiêu hóa (dạ dày tá tràng) X- quang phổi (xóa hình ảnh) 58 6 13 73 77 12 4 75.32 7.79 16.88 94.81 100 15.58 5.19 68 9 10 2 93.15 11.69 83.33 50.0 71 63 11 4 97.26 81.82 91.67 100 1 2 3 1 2 3 4

214

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Dấu chứng & triệu chứng Thời điểm biểu hiện (ngày)

Hiệu  quả  cải  thiện  về  lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng sau 2 tháng đối với ca đủ tam chứng giảm  91.37%, ngược lại số ca không điển hình và phủ  tạng giảm ít hơn (33.33% và 38.46%).

Tác dụng ngoại ý hay gặp nhất là  khó  chịu  dạ  dày  ruột  và  buồn  nôn  (6.5%),  chóng  mặt  và  nhức đầu 1.3% và đặc biệt có phản ứng Jarisch‐ Herxheimer là 2.6%. Các biểu hiện này hay xảy  ra  vào  1‐4  ngày  đồng  trong  và  sau  khi  uống  thuốc.

Sau 6 tháng, ca đủ tam chứng đáp ứng đến  96.55% và ca không điển hình và phủ tạng cải  thiện đến 83.33% và 61.54%. Riêng về mặt XN  và  CĐ  hình  ảnh,  ngoại  trừ  ELISA  diễn  tiến  chuyển  từ  (+)  sang  (‐)  chậm  sau  2  tháng  và  6  tháng  (11.96%  và  81.82%),  các  thông  số  khác  cải thiện tốt.

Một số tác dụng ngoại ý của Thiabendazole

n = 77 SL % 1.3 1 2.6 2 2-3 1-2 Chóng mặt, nhức đầu Phản ứng Jarisch- Herxheimer

Bảng 7. Một số biểu hiện trên các bệnh nhân có phản  ứng Jarisch‐Herxheimer.

(Niczen) khi điều trị CLM của G. spinigerum.

*  Đánh  giá  cải  thiện  trước  và  sau  điều  trị

theo thiết kế nghiên cứu lâm sàng tự chứng.

Biểu hiện Jarisch-Herxheimer SL Thời điểm biểu hiện Sốt nhẹ cả ngày, khó chiu tiêu hóa

2 Trong vòng1-4 ngày trong và sau dùng Thiabendazole Nhịp tim nhanh, thở nhanh, ra mồ hôi 1 2 2 Khó ngủ, nhất là ban đêm Đỏ da, khô da, nóng da

Bảng 6. Một số triệu chứng nghi ngờ tác dụng ngoại  ý.

Dấu chứng & triệu chứng Thời điểm biểu hiện (ngày)

Phản  ứng  Jarisch‐Herxheimer  (Herx)  xuất  hiện trên các bệnh nhân trong hoặc sau khi dùng  thuốc  (1‐4  ngày)  với  nhiều  triệu  chứng  như  y  văn mô tả.

n = 77 SL % 6.5 5 1-2 Khó chịu dạ dày ruột và buồn nôn

5 0 . 0 > P

P

5 0 . 0 > P

Thông số cận lâm sàng Haemoglonin (g/l) Range Mean ± s Bạch cầu/mm3 Range Mean ± s

Sau 6 tháng 11.0 - 14.5 12.2 ± 1.51 6.300 - 12.350 6.700 ± 2.290 32 - 74 32.50 ± 42.5 15 - 86 17.90 ± 34.9 Sau 2 tháng 10.0 - 12.5 11.6 ±1.16 4.520 - 10.360 6.800 ± 1.960 38 - 99 33.54 ± 44.85 16-84 20.0 ± 18.20

Bảng 8. Thông số sinh hóa và huyết học trước và sau điều trị Thiabendazole.  Ngày D0 9.7- 12.5 10.7 ± 1.56 6.020 - 12.250 7.700 ± 1.640 32 – 86 27.50 ± 16.5 10 - 66 18.90 ± 16.9

Các  thông  số  sinh  hóa  và  huyết  học  không  thay  đổi  trước  và  sau  điều  trị  liệu  trình  thiabendazole (Niczen) với p > 0,05 (CI = 95%).

SGPT (BT: 5-34UI) Range Mean ± s SGOT (BT: 0-38UI) Range Mean ± s

BÀN LUẬN

Đánh giá về các triệu chứng lâm sàng, cận  lâm  sàng  trên  bệnh  nhân  có  hội  chứng  CE/CLM.

nhiều hình thái khác nhau: Ban đỏ đơn thuần  dạng  vệt,  vằn  vèo  nổi  hoặc  ẩn  dưới  da  mỏng  hoặc  hiện  lên  vùng  có  hình  ảnh  như  bản  đồ  chiếm  nhiều  nhất  (67.53%),  dấu  ban  trườn  đi  cùng  với  CLM  (49.35%),  ban  đỏ  đi  kèm  dấu  viêm  quầng  (32.47%),  phối  hợp  ban  đỏ  cùng  CLM là 11.69%, rất đặc trưng bệnh ấu trùng G.  spinigerum đã mô tả trong y  văn  (H. H. Quang  và  cs.,  2011).  Hình  ảnh  viêm  phù  nề  mô  mỡ  dưới  da  cũng  là  một  triệu  chứng  đáng  chú  ý,

Về biểu hiện lâm sàng, trên các bệnh nhân  mắc  CLM  do  G.  spinigerum  biểu  hiện  dưới

215

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Hiệu  quả  của  Thiabendazole  (Niczen)  trong điều trị hội chứng.

Nghiên cứu Y học  dù ít khi báo cáo (5.19%). Điểm đặc biệt là các  dấu  hiệu  CLM/CE  tạo  nên  hình  ảnh  sưng  phồng  dưới  da  rất  rõ  và  diễn  tiến  từng  đợt.  Mỗi đợt thường kéo dài khoảng 7‐10 ngày, tốc  độ  di  chuyển  của  CLM  có  thể  nhanh  trung  bình  1‐2  cm/  giờ(2,1,5).  Dọc  theo  đường  di  chuyển  tạo  hầm  là  mụn  nước  nhỏ  kèm  theo,  gây  ngứa  và  nhiệu  đợt  bội  nhiễm.  Vị  trí  xuất  hiện  của  CLM/CE  di  chuyển  theo  đường  rất  đặc trưng, hiếm khi gặp ở vùng bụng và ngực  hai  bên  đồng  thời  (3.89%),  vùng  mặt  cổ  (7.79%),  nhiều  nhất  là  vùng  bụng  và  ngực  1  bên thân mình (61.03%), tiếp đến là tại hai chi  trên (36.36%), tiếp đó vùng thắt lưng cũng như  chi  dưới  (15.58%),  mạng  sườn  (7.79%),  điểm  đặc  biệt  khác  là  vết  di  chuyển  cùng  bên  chi‐ ngực khá nhiều.

Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  không  phân  tích  cụ  thể  sự  thay  đổi  của  từng  triệu  chứng  của  thể  CLM  da  niêm  mạc  vì  các  triệu  chứng của bệnh nhân có thể trùng lắp trên một  bệnh  nhân  có  thể  nhiều  triệu  chứng  hoặc  bao  gồm cả thể da niêm và phủ tạng đồng thời. Do  vậy, phân tích đánh giá diễn tiến LS và CLS qua  2  tháng  (D60)  và  6  tháng  (D180)  theo  từng  nhóm  bệnh nhân: nhóm tam chứng điển hình và nhóm  không điển hình. Kết quả cho thấy sự cải thiện  triệu chứng lâm sàng trên nhóm bệnh nhân đủ  tam chứng của thể da niêm đã giảm đến 91.37%  (sau 2 tháng) và đến 96.55% (sau 6 tháng), ngược  lại số ca không điển hình về tam chứng cải thiện  chậm hơn có ý nghĩa.

Phản ứng ELISA diễn tiến chuyển đổi huyết  thanh từ (+) sang (‐) còn chậm sau 2 tháng và 6  tháng  (11.96%  và  81.82%),  nhưng  các  chỉ  số  BCAT trở về bình thường rất nhanh sau 2 tháng  và 6 tháng (93.15% và 97.26%). Kết quả này cho  thấy tỷ lệ cải thiện triệu chứng và cận lâm sàng  có  vẻ  cao  hơn  các  tác  giả  khác  khi  dùng  Albendazole  (Punyagupta  S  và  cs.,  1961;  Maleewong  W  và  cs.,  1992;  Mimori  T  và  cs.,  1987), hoặc tương tự Ivermectine (Kesensuthi R  và  cs.,  1981,  Nuchprayoon  S  và  cs.,  2003),  hoặc  thiabendazole  liều  như  trên  (Caumes  E  và  cs.,  2000,  Yakohama  và  cs.,  2002).  Không  những  thuốc cải thiện trên hội chứng CE/ CLM mà còn  cải thiện rất tốt thể phủ tạng (3,2)sau 2 tháng điều  trị  nhưng  phải  dùng  đến  2‐3  liệu  trình  mới  hết  (sau 6 tháng).

Đặc  tính  thay  đổi  của  thương  tổn  do  ấu  trùng  G.  spinigerum  di  chuyển  cũng  rất  đặc  trưng, chúng có thể xuất hiện từng đợt dạng ban  đỏ/  ban  trườn  51.95%,  đặc  biệt  các  vệt  CLM  có  vẻ  thích  nghi  với  nhiệt  độ  mát  của  da,  chúng  thường  nổi  lên  vào  chiều  hoặc  ban  đêm,  nửa  đêm về sáng, hoặc sau khi bệnh nhân tắm xong  lau  khô  thân  mình  (20.78%).  Tương  tự  tác  giả  khác  tại  Nhật  Bản,  ở  đây  có  tới  61.04%  có  biểu  hiện  vệt  CE/CLM  kèm  theo  chứng  mày  đay,  ngứa  dọc  theo  đường  đi  của  CE/CLM,  một  số  khác biểu hiện phản ứng viêm tại chỗ hoặc lan  tỏa dọc 2 bên hoặc tạo thành đám, nổi các hạt li  ti dọc theo đường đi của vết CL/CLM (27,27%),  đó là phản ứng viêm. Màu sắc của vết CE/CLM  có thể chuyển từ màu đỏ tươi (vết thương mới)  đến  màu  đỏ  sậm  nhìn  thấy  dễ  nhầm  vết  chàm  hóa  do  diễn  tiến  dài,  không  điều  trị,  dùng  các  chế phẩm có corticosteroides thoa liên tục và đã  có  quá  trình  nhiễm  trùng  đi  kèm  theo  (38.96%)  trước đó.

(2,6%)  có  phản  ứng

Xét  nghiệm  huyết  thanh  miễn  dịch  ELISA  đều (+) với G. spinigerum, phần lớn nằm ngưỡng  hiệu  giá  1/1600  (96.1%)  hay  OD  dao  động  [1.0‐ 1.6],  tỷ  lệ  BCAT  hầu  hết  các  bệnh  nhân  tăng  >  10%,  đặc  biệt  có  hội  chứng  tăng  nhiễm  BCAT  như ấu trùng giun lươn S. stercoralis là 10,39%.

Trong  nghiên  cứu  này,  không  thể  ghi  nhận  được  thông  tin  về  tác  dụng  ngoại  ý  từ  trẻ  em  nhỏ  và  một  số  trường  hợp  không  có  thông  tin  phản hồi hoặc không gởi bản đánh giá tác dụng  ngoại ý. Nhìn chung các tác dụng ngoại ý chỉ là  thoáng  qua  và  nếu  có  không  cần  gián  đoạn  nghiên  cứu  vì  chúng  tự  khỏi  sau  khi  kết  thúc  liệu  trình(3).  Đặc  biệt,  trong  nghiên  cứu  này  2  bệnh  nhân  Jarisch‐ Herxheimer trong thời gian dùng thuốc và có 1

216

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng di chuyển  của thiabendazole (Niczen)

Hiệu quả cải thiện triệu chứng lâm sàng trên  nhóm  bệnh  nhân  đủ  tam  chứng  thể  da  niêm  mạc  đã  giảm  đến  91.37%  (sau  2  tháng  điều  trị)  và  đến  96.55%  (sau  6  tháng)  và  số  không  điển  hình về tam chứng cải thiện lần lượt sau 2 tháng  và 6 tháng là 33.33% và 83.33% (chậm hơn). Chỉ  số ELISA chuyển đổi huyết thanh và BCAT trở  về  bình  thường  sau  khi  điều  trị  2‐6  tháng  có  ý  nghĩa quan trọng về hiệu lực của thuốc.

Tác  dụng  ngoại  ý  không  đáng  kể,  đặc  biệt  chú ý và giải thích cho bệnh nhân về phản ứng  Jarisch‐Herxheimer  (sẽ  cho  kết  quả  tốt  hơn)  trong quá trình dùng thuốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bussaratid  V  et  al.,  (2010).  Predictive  factors  for  Gnathostoma  seropositivity  in  patients  visiting  the  gnathostomiasis  clinic  at  the hospital for tropical diseases in Thai Lan, during 2000‐2005.  J Helminthol.Vol 41, number 6, 2010

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  bệnh nhân biểu hiện rất sớm trong cuối ngày 1  dùng  thuốc.  Jarisch‐Herxheimer  (Herx)  biểu  hiện  tương  tự  như  khi  một  số  kháng  sinh  hay  albendazole,  được  xem  như  cơn  chữa  lành  (“healing  crisis”)  hoặc  chết  ấu  trùng  (“die‐off”)  theo  quá  trình  khử  độc  quá  nhanh  khi  một  lượng  lớn  ấu  trùng  chết.  Bệnh  nhân  lo  lắng  và  quay  trở  lại  khám,  cảm  giác  bệnh  tệ  hơn  lúc  chưa  dùng  thuốc,  biểu  hiện  sốt  nhẹ  cả  ngày,  nhịp tim nhanh, khó ngủ và khó chịu đỏ da toàn  thân  (2  bệnh  nhân),  ửng  đỏ  da  vùng  CE/CLM  nhiều hơn, da khô và tăng nhiệt, đặc biệt hai bên  gò má và hai  cẳng  tay,  ngứa  nhiều.  Nhận  định  được các dấu hiệu của phản ứng Herx do thuốc  tác  động  lên  các  ấu  trùng  giai  đoạn  3  của  G.  spinigerum, đưa ra lời khuyên do đây là một đáp  ứng  viêm  tốt,  “trông  có  vẻ  tệ  hơn  nhưng  sẽ  mang lại kết quả tốt hơn”, trấn an bệnh nhân có  gắng chịu đựng thêm vài ngày nữa dùng thêm  nước hoa quả, nước chanh cam,…và thực tế các  phản ứng này giảm đi sau 3‐7 ngày, không để lại  một biến chứng gì.

2. Herman  JS,  Chiodini  PL  (2009).  Gnathostomiasis,  another  emerging  imported  disease.  Clin  Microbiol  Rev.  2009  Jul;  22(3):484‐92.

KẾT LUẬN

3. Huỳnh  Hồng  Quang,  Triệu  Nguyên  Trung  (2010).  Tổng  hợp  loạt ca bệnh ban trườn/ hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da  do ký sinh trùng tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Việt  Nam  (2006‐2010).  Kỷ yếu công trình NCKH, Viện Y học biển Việt  Nam, Hội Y học biển Việt Nam.

Lâm sàng và cận lâm sàng trên bệnh nhân  có hội chứng CE/CLM của G. spinigerum

4. Huỳnh Hồng Quang, Triệu Nguyên Trung (2011). Giun đầu gai  ‐ bệnh giun mới nổi, Cập nhật y văn và tổng hợp thông tin về 12  bệnh nhân giun đầu gai. http://www.impe‐qn.org.vn

5. Nawa  Y  et  al.,  (2008).  An  overview  of  Gnathostomiasis  in  the  world.  Southeast  Asian  Journal  of  Tropical  medicine  and  public  health, Vol 35 (supp. 1): 87‐91.

Hội chứng CE/CLM, đặc biệt trên các ca đủ  tam chứng  biểu  hiện  phổ  lâm  sàng  đa  dạng  về  tính  chất,  dạng  ban  trườn,  di  chuyển,  vị  trí  và  màu  sắc.  Trong  đó,  dạng  ban  đỏ  đơn  thuần  dạng  vệt,  vằn  vèo  nổi  hoặc  ẩn  dưới  da  mỏng  hoặc hình bản đồ với tỷ lệ cao nhất.

6. Sawanyawishuth  JK  et  al.,  (2011).  Neurognathostomiasis,  a  negected  parasitosis  of  the  Central  nervous  system.  Emerging  Infectious Diseases. www.cdc.gov/eid.vol 17. No 7, July 2011

Trên 95% số ca có chỉ số BCAT trên 10% và

ELISA (+) với hiệu giá ≥ 1/1.600.

217

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HIỆU LỰC ARTERAKINE  ĐỐI VỚI SỐT RÉT CHƯA BIẾN CHỨNG   DO PLASMODIUM FALCIPARUM   TẠI VÙNG GIAO LƯU BIÊN GIỚI VIỆT LÀO

Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung*, Hồ Văn Hoàng*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Dihydroartemisinin‐piperaquine (DHA+PPQ) là một trong năm phối hợp thuốc được hứa hẹn

với ưu điểm hiệu quả cao và dung nạp tốt ở người theo Tổ chức Y tế thế giới.

Mục tiêu: Đánh giá hiệu lực phác đồ Arterakine  trong điều trị sốt rét do P. falciparum.

Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên, tự chứng.

Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và KST đầy đủ sau hiệu chỉnh bằng phương pháp khuếch đại chuỗi (PCR)  và phân tích Kaplan Meier ở ngày 42 là từ 97.4% (trước hiệu chỉnh PCR) đến 100% (sau hiệu chỉnh PCR) và  điểm đặc biệt không có thất bại điều trị sớm.

Kết luận: Phối hợp thuốc DHA+PPQ có hiệu lực cao, liệu trình ngắn ngày khi điều trị tại vùng biên giới

Việt Lào hiện vẫn đang là một ứng cử viên hứa hẹn nhất.

Từ khóa: Plasmodium falciparum, hiệu lực, Arterakine

ABSTRACT

EFFICACY OF ARTERAKINE  IN TREATMENT FOR UNCOMPLICATED FALCIPARUM MALARIA  IN VIETNAM‐LAO PDR CROSS‐BORDER

Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Ho Van Hoang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 220 ‐ 226

Background:  Dihydroartemisinin‐piperaquine  (DHA+PPQ)  is  one  of  five  promising  new  artemisinin

combination with highlights of effective and well tolerance in human by WHO.

Objectives: To assess of DHA+PPQ efficacy in treatment for uncomplicated falciparum malaria.

Methods: Non‐randomized clinical trial study design.

Result:  The  PCR  adjusted  cure  rate  by  Kaplan  Meier  analysis  at  day  42  was  from  97.4%  (before  PCR

correct) to 100% (95% CI: 76.9–97.4), and special points without ETF.

Conclusion:  A  short‐course  regimes,  effective  and  highly  efficacy,  fixed  DHA+PPQ  combination  on  the

VietNam ‐ Lao PDR border currently looks the most promising candidate.

Keywords: Plasmodium falciparum, Efficacy, Arterakine

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ký  sinh  trùng  Plasmodium  falciparum  đa  kháng thuốc lan rộng nghiêm trọng trên thế giới  và đặc biệt tại Đông Nam Á như một thách thức  lớn  cho  việc  lựa  chọn  thuốc  sốt  rét(3,8)(TSR).  Ở  Việt  Nam,  P.  falciparum  kháng  cao  với  hầu  hết  các  thuốc  sốt  rét  cổ  điển  và  giảm  đáp  ứng  với

nhiều  loại  mới  hiện  dùng.  Từ  năm  1990,  thuốc  artemisinine  và  dẫn  chất  artesunate  được  tiến  hành  thử  nghiệm  lâm  sàng  và  chính  thức  đưa  vào  sử  dụng  trong  Chương  trình  Quốc  gia  Phòng  chống  sốt  rét  (CTQGPCSR)  ở  Việt  Nam  góp  phần  ý  nghĩa  trong  việc  hạ  thấp  sốt  rét  ác  tính (SRAT) và tử vong do sốt rét (TVSR). Song,  việc  sử  dụng  artemisinine  và  dẫn  chất  có  thời

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ths. BS. Huỳnh Hồng Quang  ĐT: 0905103496  Email: huynhquangimpe@yahoo.com

219

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nếu  xem  tỷ  lệ  thất  bại  lâm  sàng  trên  quần  thể  của  loại  thuốc  Arterakine    là  p  =  20%,  với  khoảng tin cậy 95%, độ chính xác d = 10%. Khi  đó cỡ mẫu tối thiểu cần đánh giá hiệu lực là 61.  Dự kiến số bệnh nhân mất mẫu là 20%. Vậy cỡ  mẫu cuối cùng là n = 73 (bệnh nhân).

Kỹ thuật nghiên cứu và quy trình theo dõi  Theo  đề  cương  của  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới

(2009)(9)

Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

Thực  hiện  đầy  đủ  về  các  bước:  sự  chấp  thuận của Hội đồng đạo đức y sinh, thực hành  lâm  sàng  tốt  (GCPs),  cam  kết  tham  gia  nghiên  cứu  thông  qua  ký  bản  chấp  thuận,  bảo  mật  thông tin và số liệu nghiên cứu và dịch vụ chăm  sóc y tế tối đa.

Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị

Theo qui trình đánh giá của Tổ chức Y tế thế

giới như của P. falciparum (2009)(9).

Phân tích và xử lý số liệu

Số liệu được phân tích và xử lý theo In vivo

Nghiên cứu Y học  gian bán hủy ngắn, liệu trình dài ngày trên một  phạm  vi  rộng,  phổ  biến  sẽ  tạo  “điều  kiện  tiềm  năng”  cho  quá  trình  hình  thành  và  thúc  đẩy  kháng thuốc có thể xảy ra(4,5,6). Quả vậy, diễn tiến  giảm  nhạy  với  thuốc  artemisinine  và  dẫn  chất  artesunate,  artemether  trên  in vitro  đã  cho  thấy  điều  đó  (WHO,  2011).  Gần  đây,  đã  có  những  dấu  hiệu  đáng  lo  ngại  ở  khu  vực  miền  tây  Campuchia,  khu  vực  biên  giới  Thái  Lan  ‐  Campuchia và Myanmar do sốt rét P. falciparum  đáp  ứng  chậm  với  artesunate  hơn  những  quốc  gia  khác  trên  toàn  thế  giới  (WHO,  2009;  Dondorp  và  cs.,  2009),  cũng  như  sự  tồn  tại  KSTSR  P.  falciparum  sau  72  giờ(3,8) điều  trị  bằng  thuốc  ACTs  dihydroartemisinine  +  piperaquine  (DHA+PPQ)  như  một  chỉ  điểm  lâm  sàng  gián  tiếp  thất  bại  điều  trị.  Việt  Nam  chia  sẻ  một  dải  biên giới dài với các quốc gia Campuchia và Lào,  với một số  lượng  lớn  người  đi  qua  lại  giao  lưu  giữa Việt Nam và 2 quốc gia này sẽ “giao thoa”  chủng  ký  sinh  trùng  sốt  rét  (KSTSR)  kháng  thuốc là rất lớn, nên việc giám sát hiệu lực thuốc  thường  xuyên  và  đưa  ra  biện  pháp  ngăn  chặn  kháng là cần thiết.

Exelsheet 7.1, Pascal Ringwald của WHO, 2009.

Mục tiêu nghiên cứu

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đánh giá hiệu lực Arterakine  đối với sốt rét

do P. falciparum.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Đặc  điểm  của  nhóm  bệnh  nhân  đủ  tiêu  chuẩn nghiên cứu   Bảng 1. Một số đặc điểm về dân số học trên nhóm  bệnh nhân nghiên cứu  TT Đặc điểm nhóm bệnh nhân

Chọn  địa  bàn  xã  Xy  thuộc  vùng  sốt  rét  lưu  hành nặng và vùng giao lưu biên giới Việt ‐ Lào;

Từ tháng 5/2011 ‐ 12/2011

1 Thời điểm bắt đầu ngày D0 45 (59.21%) (n = 76) Giới tính - Nam

Đối tượng nghiên cứu

Các  bệnh  nhân  sốt  rét  nhiễm  đơn  thuần  P.

falciparum đủ tiêu chuẩn đề cương WHO 2009.

2

Phương pháp nghiên cứu

- Nữ Nhóm tuổi (năm) - Tuổi trung bình - Nhóm tuổi: < 5 ≥ 5 đến = 15 31 (40.79%) 34 (5 - 63) 0 19 (25%)

Thiết kế nghiên cứu

Là  một  thử  nghiệm  lâm  sàng  không  ngẫu

nhiễn, tự chứng.

Trong nhóm bệnh nhân đưa vào nghiên cứu,

> 15 57 (75%) 40.2 3 Cân nặng trung bình (kg)

Cỡ mẫu nghiên cứu

nam  chiếm  tỷ  lệ  cao  hơn  nữ.  Nhóm  tuổi  trung

bình là 34, người cao tuổi nhất là 63 và thấp tuổi

220

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

nhất là 5, nhóm tuổi trên 15 chiếm ưu thế với 57

bệnh nhân (75%).

LPF: Late Parasitological Failure (Thất bại ký sinh  trùng muộn); ACPR: Adequate Clinical and  Parasitological Response (Đáp ứng lâm sàng và ký sinh  trùng đầy đủ)

Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng và ký sinh trùng P.  falciparum trên bệnh nhân nghiên cứu

Tổng  số  76  ca  P.  falciparum  điều  trị  bằng

Arterakine    cho  thấy  không  có  thất  bại  điều  trị

TT Đặc điểm nhóm bệnh nhân

sớm (ETF), tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và KST đầy

đủ  (ACPR)  là  rất  cao  (97.4%),  1  (1.3%)  trường

1 Thời điểm bắt đầu nghiên cứu (D0) 51 (67.11%)

hợp  thất  bại  lâm  sàng  muộn  (LCF)  và  1  (1.3%)

thất bại KST muộn (LPF).

20 (26.32%)

5 (6.57%)

Bảng 4. Phân tích các trường hợp thất bại muộn về  lâm sàng và KSTSR

38.60C 2.5 Tuổi Thân nhiệt (0C) - Số bệnh nhân có sốt trên 37.50C - Số ca có sốt trong vòng 48 giờ qua - Không có tiền sử/ hoặc sốt hiện tại - Nhiệt độ trung bình bệnh nhân - Số ngày có sốt trung bình trước D0 Mã bệnh nhân Nam Nữ

11QTAK x Phân loại theo in vivo LCF

Hai  ca  thất  bại  lâm  sàng  (LCF)  và  ký  sinh

trùng (LPF) muộn đều là nữ, thời điểm xuất hiện

33QTAK x LPF Phân loại đến ngày theo dõi D42 Xuất hiện lại KSTSR D42 Xuất hiện lại KSRSR D42

lại KST và/ hoặc kèm theo sốt lại đều vào ngày

D42.

71.5 113/ 87 31.0 34 (44.74%) 42 (55.26%) 28.244 2 Mạch, huyết áp và nhịp thở TB - Mạch - Huyết áp - Nhịp thở Lách lớn 3 - Bệnh nhân có lách lớn - Bệnh nhân không có lách lớn 4 Mật độ KSTSR P. falciparum 8 (10.53%)

Về mặt lâm sàng, phần lớn bệnh nhân có sốt

hoặc tiền sử sốt trước khi nghiên cứu, các thông

- MĐKSTSR thể vô tính/μL - Số bệnh nhân có giao bào ngày D0 - MĐKST thể giao bào 304 (8 - 600)

Phân tích chi tiết trường hợp thất bại điều  trị trên in vivo và phân tích PCR  Bảng 5. Phân tích chi tiết về các trường hợp thất bại  điều trị dựa trên in vivo

số  chức  năng  sống  khác  bình  thường.  Số  bệnh

nhân sốt rét (BNSR) có lách lớn (độ I và II) chiếm

44.74%.  mật  độ  KSTSR  trung  bình  thể  vô  tính  28.244/μL,  mật  độ  trung  bình  giao  bào  304  (8  ‐

600).

11QTAK 65,967 1.400 D42

33QTAK 29,352 384 D42

Phân loại và hiệu chỉnh Mật độ KSTSR D xuất hiện KST Mã bệnh nhân Do D xuất hiện

Phân loại theo PCR Nhiễm mới P. falciparum Nhiễm mới P. falciparum Phân loại theo in vivo LCF (P. falciparum) LPF (P. falciparum)

Hiệu lực phác đồ DHA+PPQ trong điều trị  bệnh nhân sốt rét do P. falciparum  Bảng 3. Phân loại hiệu lực phác đồ  Dihydroartemisinine ‐ piperaquine

Cả 11QTAK và 33QTAK đều có MĐKSTSR

P.  falciparum  ngày  D0 mức  độ  vừa  chứ  không

cao  (65,967/μL  và  29,352/μL).  Cả  2  đều  xuất

c ự

i

n ê r t u ệ

hiện  KSTSR  lại  vào  D42,  đều  nhiễm  đơn  P.

R C P

i

l u ệ H

i l ố S

falciparum  theo  xác  định  lam  máu,  test  nhanh

h n h c u ệ h a ư h c

Chỉ số đánh giá

và PCR cho thấy đó là nhiễm mới P. falciparum.

ETF: Early Treatment Failure (Thất bại điều trị sớm);  LCF: Late Clinical Failure (Thất bại lâm sàng muộn);

ETF LCF LPF ACPR Tổng số phân tích Số lượng Tỷ lệ (%) Ghi chú 0 1.3% 1.3% 97.4% 0 1 1 74 76

221

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

thế cộng với sự chồng cơn sốt liên tục khiến lách  tăng sinh, sưng lách.

Liên  quan  đến  mật  độ  KSTSR  P. falciparum,  thể vô tính P. falciparum khi chưa điều trị khoảng  28.244/μL, số ca có giao bào là 8 (10.53%) với mật  độ giao bào vào D0 304/μL.

lực

phác

đồ

thuốc  piperaquine

Thông số thời gian (giá trị trung bình) 38.60C 28.244/μL 30 giờ (12-48) 36 giờ (12-60)

Hiệu  Dihydroartemisinine  phosphate (DHA+PPQ)

42 giờ (24-60)

Hiệu  lực  cắt  sốt  và  làm  sạch  KSTSR  P.  falciparum của DHA+PPQ  Bảng 6. Hiệu lực cắt sốt và làm sạch KSTSR P.  falciparum của phác đồ DHA+PPQ  Kết quả phân tích Tổng số ca phân tích (n = 76) Nhiệt độ cơ thể trung bình ngày Do Mật độ KSTSR trung bình ngày D0 Thời gian cắt sốt trung bình (FCT) Thời gian sạch KSTSR trung bình (PCT) Thời gian sạch giao bào trung bình (giờ)

Thời  gian  cắt  sốt  trung  bình  là  30  giờ;  hiệu  lực  làm  sạch  KST  chỉ  trong  36  giờ,  số  giao  bào  xuất hiện có thể kéo dài từ D0 đến D5, song trung  bình thời gian sạch giao bào chỉ 42 giờ.

BÀN LUẬN

Đặc  điểm  của  nhóm  bệnh  nhân  tham  gia  nghiên cứu

Qua  phân  tích,  đánh  giá  76  trường  hợp  sốt  rét  do  P.  falciparum  chưa  biến  chứng  điều  trị  bằng thuốc DHA+PPQ (Arterakine ), vì thời gian  bán hủy PPQ dài nên tất cả đều được theo dõi ít  nhất  42  ngày.  Kết  quả  phân  tích  cho  thấy  tỷ  lệ  ACPR  cao  97.4%,  điều  này  cho  thấy  dù  thuốc  DHA+PPQ nói chung và Arterakine  đã dùng tại  xã Xy với mục đích điều trị ca bệnh, cấp tự điều  trị, thậm chí một số cán bộ y tế còn cho cấp dự  phòng,…song hiệu lực đối với P. falciparum vẫn  còn cao, tỷ lệ thất bại chung chỉ có 2.6% (< 10%  theo quy định), trong đó thất bại LCF (1.3%) và  LPF (1.3%), đặc biệt chưa phát hiện trường hợp  nào thất bại điều trị sớm (ETF).

Trong  nhóm  bệnh  nhân  đủ  tiêu  chuẩn  đưa  vào nghiên cứu, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn so  với nữ giới (59.21% so với 40.79%), vấn đề này là  phù  hợp  vì  đa  số  người  đi  rừng,  khai  thác  lâm  sản, săn bắt thú, đi qua rừng Lào một thời gian  dài  phần  lớn  là  nam  giới  trưởng  thành.  Nhóm  tuổi trung bình của bệnh nhân là 34, người cao  tuổi nhất là 63 và thấp tuổi nhất là 5. Trong đó,  nhóm  tuổi  trên  15  chiếm  ưu  thế  với  57  bệnh  nhân  (75%)  và  nhóm  5‐<  15  tuổi  là  25%,  không  thấy ca nào nhóm tuổi dưới 5 đủ tiêu chuẩn vào  nghiên cứu.

tốt  hơn

Sau  khi  hiệu  chỉnh  PCR  để  xác  định  lại  các  ca  thất  bại  LCF  và  LPF,  đã  nâng  tỷ  lẹ  đáp  ứng  lâm  sàng  và  KST  đầy  đủ  (ACPR)  lên  từ  97.4%  đến  100%.  Số  liệu  này  tương  tự  như  một  số  nghiên  cứu  đa  trung  tâm  do  WHO‐Sigma‐Tau  tổng  hợp  qua  14  thử  nghiệm  lâm  sàng  với  DHA+PPQ  với  nhiều  biệt  dược  khác  nhau  (WHO,  2011)  với  cỡ  mẫu  là  2.636  bệnh  nhân  điều  trị  DHA+PPQ,  hiệu  lực  trên  chủng  P.  falciparum đa kháng rất cao, với tỷ lệ chữa khỏi  sau  28  ngày  theo  dõi,  ước  tính  Kaplan‐Meier  ≈  97 ‐ 98% tại Trung Quốc, Campuchia, Myanmar,  Lào, Thái Lan và Việt Nam. Bổ sung vào đó là số  liệu  từ  nghiên  cứu  so  sánh  hiệu  lực  của  thuốc  artesunate  +  DHA+PPQ  amodiaquine. Từ 2007‐2010, một số nghiên cứu  (Grande T và cs., 2007; Karunajeewa HA và cs.,  2008;  Arinaitwe  E  và  cs  2009;  Adam  I  và  cs.,  2010) báo cáo cho kết quả tương tự(1,2,3,8).

Về  mặt  lâm  sàng,  đa  số  BNSR  có  sốt  hoặc  tiền sử sốt trong 48 giờ trước khi vào nghiên cứu  (93.43%), thân nhiệt trung bình 38.30C, nhiều ca  bị hạ thân nhiệt nhẹ, hoặc quá cao 410C. Các dấu  hiệu chức năng sống khác (mạch, huyết áp, nhịp  thở)  bình  thường.  Tiền  sử  chưa  có  bệnh  nhân  nào mắc bệnh tim mạch hoặc suy gan thận. Lách  lớn chủ yếu là độ I và II chiếm 44.74%. Về khía  cạnh  lách  lớn  là  tất  yếu  với  gần  50%  số  ca  (44.75%)  vì  phần  đông  bệnh  nhân  là  dân  địa  phương, thường xuyên bị sốt rét, có năm 3‐4 lần  mắc  sốt  rét,  sống  trong  vùng  SRLH  nặng  như

222

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nhìn  chung,  kết  quả  này  (97.4%)  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  về  hiệu  lực  phác  đồ  DHA+PPQ  đều  cho  kết  quả  tỷ  lệ  chữa  khỏi  ACPR > 95%, với tính dung nạp tuyệt vời trong  điều trị trên cả đối tượng trẻ em và người lớn bị  sốt  rét  P.  falciparum  (Denis  và  cs.,  2002;  Karunajeewa  và  cs.,  2004;  Tangpukdee  và  cs.,  2005; Mayxay và cs., 2006; Hasugian và cs., 2007;  Kamya và cs., 2007). Hai trường hợp thất bại lâm  sàng (LCF) và ký sinh trùng (LPF) muộn đều là  bệnh nhân nữ, mã số nghiên cứu là 11QTAK và  33QTAK và thời điểm xuất hiện lại KST rơi vào  ngày D42.

Ngoài ra, một loạt các thử nghiệm lâm sàng  được báo cáo gần đây với DHA+PPQ trình bày  tại hội nghị lần thứ 59 của Hội y học nhiệt đới và  vệ  sinh  của  Mỹ  (D’Alessandro  U  và  cs.,  2010)  tổng kết 4.116 bệnh nhi châu Phi < 5 tuôi bị sốt  rét  P.  falciparum  chưa  biến  chứng,  điều  trị  với  ACTs:  1.226  bệnh  nhân  với  thuốc  A/L,  1.002  bệnh nhân với AS/AQ, 413 bệnh nhân với CDA  và 1.475 bệnh nhân với DHA/PPQ. Điểm nghiên  cứu  là  10  trong  7  quốc  gia  châu  Phi  (Burkina  Faso, Nigeria,Gabon, Zambia, Uganda, Rwanda  và Mozambique). Tỷ lệ chữa khỏi sau hiệu chỉnh  PCR vào ngày thứ 63 (D63) cho thấy không có sự  khác biệt giữa phác đồ DHA+PPQ, Artemether/  lumefantrine (A/L) và Artesunate/ amodiaquine  (AS/AQ),  trong  khi  đó  3  loại  thuốc  phối  hợp  ACTs so sánh với CDA lại cao hơn nhiều. Tỷ lệ  chữa khỏi lúc chưa hiệu chỉnh PCR vào ngày D63  cho thấy DHA+PPQ cao hơn so với A/L, AS/AQ  (D’Alessandro U và cs., 2010).

Hai  trường  hợp  thất  bại  muộn  đều  có  MĐKSTSR  P.  falciparum  thấp  vào  ngày  D0,  lần  lượt  là  65.967/μL  và  29.352/  μL  máu  ngoại  vi.  Việc lý giải sự xuất hiện lại KST trong quá trình  theo dõi một số nghiên cứu in vivo cho thấy đối  với nhóm artemisinine, artesunate hoặc ACTs có  liên  quan  đến  tình  trạn  “ngủ  đông”  ‐  mà  thuật  ngữ  này  từ  lâu  chỉ  dùng  đối  với  sốt  rét  do  P.  vivax (Michelle  Wykes  và  cs.,  2011).  Do  mật  độ  cả  hai  ca  đều  thấp  và  liều  dùng  DHA+PPQ  ở  đây  theo  liều  khuyến  cáo,  nên  khả  năng  xuất  hiện lại KST do thời gian ngủ đông trong tế bào  hình cây của lách sau một thời gian nằm yên sau  điều trị và tái phát lại do mật độ KSTSR lần đầu  cao  như  một  số  nghiên  cứu  đã  chỉ  ra  là  không  thể.  Một  nghiên  cứu  khác  cũng  đã  cho  thấy  sự  tái  phát  KST  ngủ  quên  (“Dormant  parasite  recrudescence’)  có  liên  quan  và  làm  cho  đánh  giá  nhầm  là  thất  bại  điều  trị  P.  falciparum  (Teuscher  và  cs.,  2011)  sau  điều  trị  bằng  artesunate, P. falciparum thể nhẫn trở nên ngủ và  khoảng 0.001–1.313% phục hồi để phát triển lại  nhưng lệ thuộc vào strain. Trong các nghiên cứu  đó,  KST  phục  hồi  từ  trạng  thái  ‘ngủ  quên’  tìm  thấy  có  liên  quan  đến  lệ  thuộc  liều  dùng  của  thuốc (dose‐dependent)(6).

Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  tương tự như kết quả trong một số thử nghiệm  trên thế giới tại các vùng lưu hành sốt rét; chẳng  hạn,  DHA+PPQ  đã  được  thử  nghiệm  nhiều  nghiên  cứu  lâm  sàng  ở  pha  III  tiến  hành  theo  nhóm  nghiên  cứu  vệ  tinh  của  WHO  trên  các  bệnh nhân sốt rét P. falciparum. Thử nghiệm đầu  tiên  tiến  hành  bởi  Sigma  tau  (2010)  trên  trẻ  em  và bệnh nhân châu Á và nghiên cứu thứ hai trên  các  trẻ  em  châu  Phi  (≥  6  tháng,  ≤  5  tuổi).  Thử  nghiệm  phase  III  tại  châu  Á  (Valecha  N và  cs.,  2010)  là  một  thử  nghiệm  ngẫu  nhiên,  có  đối  chứng  đánh  giá  hiệu  lực  và  tính  an  toàn  của  DHA  +  PPQ  so  sánh  với  phác  đồ  Artesunate  +  Mefloquine (AS + MQ) trên trẻ em và người lớn.  Tổng số 769 bệnh nhân điều trị bằng DHA+PPQ  và  381  bệnh  nhân  dùng  Artesunate  +  Mefloquine (AS + MQ). Kết quả phân tích chỉ ra  tỷ lệ chữa khỏi vào ngày 63 có hiệu chỉnh PCR là  97.0%  đối  với  DHA+PPQ  và  95.3%  đối  với  AS+MQ,  và  98.7%  đối  với  DHA+PPQ  và  and  97.0%  đối  với  AS+MQ,  chỉ  ra  các  kết  quả  cao  ngang nhau về hiệu lực điều trị của hai phác đồ.

Để  khẳng  định  lại  các  ca  11QTAK  và  33QTAK là tái phát hay tái nhiễm, chúng tôi đều  lấy lam máu và giấy thấm cho xác định lại bằng  lam máu soi dưới KHV, test RDTs và PCR. Cả 3  kỹ thuật đều phát hiện KSTSR vào ngày D42 đều

223

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  nhiễm  đơn  loài  P.  falciparum,  đặc  biệt  kết  quả  PCR cho thấy nhiễm mới, nghĩa là tất cả trường  hợp đều đạt ACPR 100%.

đạt 100% trong nhiều nghiên cứu thì liệu rằng có  thể không cần dùng đến thuốc primaquine nữa  hay không?

lực  cắt  sốt  và  cắt  KSTSR  P.

KẾT LUẬN

Hiệu  falciparum của phác đồ DHA+PPQ

Hiệu lực chung của phác đồ DHA+PPQ

Tỷ  lệ  đáp  ứng  lâm  sàng  và  KST  đầy  đủ

(ACPR) sau hiệu chỉnh PCR là 100%.

Tỷ lệ thất bại chung chỉ 2.6% (trong đó LCF

là 1.3% và LPF là 1.3%).

Hai  trường  hợp  LCF  và  LPF  đều  vào  thời

điểm D42 và là nhiễm mới P. Falciparum.

Hiệu lực cắt sốt và làm sạch P. falciparum  của phác đồ DHA+PPQ

Chi  tiết  về  hiệu  lực  làm  sạch  KSTSR  chỉ  trong vòng 36 giờ (chưa đến 2 ngày). Diễn  tiến  cắt ký sinh trùng sốt rét P. falciparum nhanh theo  thời  gian  và  cụ  thể  sau  mỗi  12  giờ,  số  ca  được  làm  sạch  ký  sinh  trùng  P.  falciparum  tăng  lên  đáng kể, cụ thể sau 12 giờ có 28.95% bệnh nhân  sạch KST (cid:198) sau 24 giờ có 46.05% (cid:198) 77.63% (36  giờ) (cid:198) 98.68% (sau 48 giờ) và sau 60 giờ đã làm  sạch 100%. Số liệu này tương tự như nghiên cứu  trên  P.  falciparum  được  điều  trị  DHA+PPQ  (Artekin) cũng cho PCT < 2 ngày (Myint HY và  cs., 2007; Marcus J. Rijken và cs., 2011).

Thời gian cắt sốt trung bình (FCT) là 30 giờ,  tốc độ cắt sốt nhanh và sau 48 giờ không còn ca  sốt trên lâm sàng (khoảng 2 ngày).

Thời  gian  làm  sạch  KSTSR  chỉ  36  giờ,  diễn  tiến làm sạch P. falciparum nhanh theo thời gian  mỗi 12 giờ. Sau 60 giờ đã làm sạch 100% số bệnh  nhân (< 3 ngày).

Thời  gian  làm  sạch  giao  bào  là  42  giờ  (<  2  ngày),  cho  thấy  tỷ  lệ  người  mang  giao  bào  sau  điều trị DHA+PPQ rất thấp và nguy cơ lây lan sẽ  hạn chế.

Diễn tiến về sạch giao bào gián tiếp cũng rất  đặc biệt trên 8 bệnh nhân có giao bào ở ngày D0,  sau  12  giờ  chưa  có  trường  hợp  nào  sạch  giao  bào, đến 24 giờ có 25% số ca sạch giao bào, sau  36 giờ có đến 50% số sạch giao bào, đến 48 giờ  sau đó trên 87.50% số ca sạch và đến giờ thứ 60  toàn bộ 8 ca đều không còn giao bào. Điều này  mở ra một hướng nghiên cứu mới rằng chúng ta  cần  tiếp  tục  hiệu  chỉnh  tăng  liều  điều  trị  phối  hợp  DHA+PPQ  vì  hiện  nay  nhiều  nghiên  cứu  đánh giá hiệu lực của DHA+PPQ tại nhiều quốc  gia  trong  khu  vực  Đông  Nam  Á  (Thái  Lan,  Campuchia,  Myanmar  và  2  tỉnh  thành  có  tình  hình SR kháng thuốc tại Việt Nam là Bình Phước  và Gia Lai) cho thấy tỷ lệ tồn tại và dương tính  KSTSR ngày D3 rất cao(7, 8), với tỷ lệ dao động 7‐ 30%  (H.  H.  Quang  và  cs.,  2011;  T.T.Tĩnh  và  cs.,  2011; Marcus J. Rijken và cs., 2011).

Bên  cạnh  đó,  việc  giao  lưu  biên  giới  giữa  Việt  Nam  và  Lào,  giữa  Lào  và  Campuchia  và  Campuchia với Thái Lan,…có thể làm di chuyển  và  phát  tán  dòng  KSTSR  kháng  sang  quốc  gia  láng  giềng,  kể  cả  Việt  Nam.  Một  lần  nữa,  việc  giám sát hiệu lực thuốc giữa các vùng giáp ranh  như  vậy  sẽ  là  rất  quan  trọng  để  cảnh  báo  sớm  tình  hình  nhạy  kháng  của  thuốc,  đề  ra  chiến  lược phòng chống và thay đổi chính sách thuốc  cũng như phác đồ phù hợp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Adam  I,  et  al  (2010).  Dihydroartemisinin‐piperaquine  versus  artemether‐lumefantrine,  in  the  treatment  of  uncomplicated  Plasmodium  falciparum  malaria  in  central  Sudan.  Ann  Trop  Med Paras; 104(4): 319‐326.  2. D’Alessandro  U,  et  al.

(2010).  Artemisinin

‐  based  combinations  for  treating  uncomplicated  malaria  in  African  children:  the  4ABC  Trial  Presentation  at  the  59th  congress  of  ASTMH.

Theo định nghĩa của WHO mới nhất (2011)  cho  thấy,  nếu  tỷ  lệ  KSTSR  thể  vô  tính  dương  tính  ngày  D3  trên  10%  là  nghi  ngờ  tình  trạng  kháng  thuốc?  Do  đó,  việc  hiệu  chỉnh  liều  tăng  lên  là  cần  thiết  và  khi  đã  hiệu  chỉnh  được  liều  thuốc  cho  phù  hợp  thì  hy  vọng  rằng  thời  gian  làm  sạch  giao  bào  “gián  tiếp”  sẽ  càng  rút  ngắn  hơn,  thậm  chí  chỉ  trong  3  ngày  đầu  dùng  liệu  trình  DHA+PPQ  như  Arterakine  ,  nếu  điều  đó

224

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  3. Harald  N,  Youry  S  et  al.,  (2009).  Evidence  of  Artemisinin‐ Resistant Malaria in Western Cambodia, N. Engl J Med, 2008,  Dec 11; 359 (24) 2619‐20, ePub 2008

7.

5.

(2010).  Application

for

treatment  for  uncomplicated  falciparum  malaria :  A  pilot  study  with  clinical  in  Gia  Lai,  2010.  Journal  of  practical  medicine, ISSN 1859‐1663, vol. 796‐2011: 125‐133  T.N.Trung,  H.H.Quang,  Li  Guoqiao  và  cs.,  (2008).  Đánh  giá  hiệu lực các thuốc ACTs trong điều trị sốt rét chưa biến chứng  do P. falciparum tại các vùng sốt rét lưu hành, miền Trung‐Tây  Nguyên, Việt Nam (2004‐2008). Tạp chí Y học thành phố Hồ  Chí Minh, Vol.12 ‐ phụ bản số 4: 28‐34.

8. WHO  (2010),  Global  report  antimalarial  drugs  efficacy  and

drugs resistance 2000‐2010.

9. WHO  (2009),  Methods  for  surveillance  of  antimalarial  drugs

efficacy 2009

6.

4. Marcus  JR  ,  McGready  R  et  al.,  (2011).  Dihydroartemisinin‐ Piperaquine  Rescue  Treatment  of  Multidrug‐resistant  Plasmodium  falciparum  Malaria  in  Pregnancy:  A  Preliminary  Report. Plos. Medicine 2011   Sigma‐tau  SA  inclusion  of  dihydroartemisinin  plus  piperaquine  (DHA+PPQ)  fixed  dose  combination  tablets.  Application  for  Inclusion  in  the  17th  WHO Model list of essential medicines, 15 november 2010  T.N.Trung,  H.H.  Quang  et  al.,  (2011).  Antimalarial  drugs  efficacy  of  Arterakine    ans  Artequick‐primaquine  in  the

225

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ GIÁM SÁT VẬT CHỦ VÀ VÉC TƠ CỦA BỆNH DỊCH HẠCH  TẠI GIA LAI VÀ ĐĂK LĂK NĂM 2011

Nguyễn Lê Mạnh Hùng*, Đặng Tuấn Đạt*, Phạm Công Tiến*, Phan Đình Thuận*, Trần Lang*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm tối nguy hiểm, tiến triển cấp tính, lây lan mạnh với tỷ lệ  tử vong cao, được xếp vào diện phải kiểm dịch và khai báo quốc tế. Trong công tác phòng, chống bệnh dịch hạch,  việc giám sát định kỳ vật chủ và véc tơ của bệnh dịch hạch là rất quan trọng. Vì thế, nghiên cứu này nhằm đánh  giá  công  tác  giám  sát  vật  chủ  và  véc  tơ  bệnh  dịch  hạch  tại  hai  tỉnh  Gia  Lai  và  Đăk  Lăk  thuộc  khu  vực  Tây  Nguyên trong năm 2011

Mục tiêu: Xác định thành phần loài vật chủ và véc tơ của bệnh dịch hạch, đánh giá chỉ số phong phú của vật

chủ, và xác định tỷ lệ nhiễm bọ chét của vật chủ bệnh dịch hạch tại địa điểm nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu: Dịch tễ học mô tả cắt ngang, đối tượng nghiên cứu là các loài gặm nhấm và bọ  chét thu thập đuợc trong quá trình điều tra, thời gian nghiên cứu được triển khai định kỳ theo quý trong năm  2011, địa điểm nghiên cứu tại 02 tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk.

Kết quả: Tại tỉnh Gia Lai thành phần loài vật chủ dịch hạch là chuột Lắt (Rattus exulans) 53,28%, chuột  Chù (Suncus murinus) 41,8,3%, chuột Bóng (Rattus nitidus) 2,46%, chuột Đồng Lớn (Rattus argentiventer)  1,6%, và chuột Rừng (Rattus rattus) 0,86%. Tại tỉnh Đăk Lăk thành phần loài vật chủ là chuột  Lắt  (Rattus  exulans) 75,2%, chuột Chù (Suncus murinus) 24% và chuột Bóng (Rattus nitidus) 0,8%. Tại xã Iapet, huyện  Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai vào tháng 04 có tỷ lệ nhiễm bọ chét cao nhất là 78,57% và vào tháng 09 có tỷ lệ nhiễm bọ  chét thấp nhất là 9,09%. Tại xã Ea’Hiao, huyện Ea H’leo, tỉnh Đăk Lăk vào tháng 03 có chỉ số phong phú cao  nhất là 16% và vào tháng 05 có chỉ số phong phú thấp nhất là 07%.

Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thành phần loài vật chủ tại hai điểm nghiên cứu ở Tây Nguyên là tương đối  giống  nhau,  chỉ  khác  nhau  về  một  số  thành  phần  nhỏ  các  loài  bán  hoang  dại  như  chuột  Đồng  Lớn  và  chuột  Rừng. Tuy nhiên sự biến động về chỉ số phong phú và tỷ lệ nhiễm bọ chét của vật chủ dịch hạch là tương đối lớn  và khó dự đoán. Do vậy cần tiếp tục giám sát định kỳ vật chủ và véc tơ bệnh dịch hạch với tần suất cao hơn tại  các ổ dịch cũ, những nơi có nguy cơ bùng phát bệnh trở lại, và cần mở rộng một số điểm giám sát mới như là các  điểm hoang dại và bán hoang dại phục vụ cho công tác nghiên cứu, và phòng, chống bệnh dịch hạch ở khu vực  Tây Nguyên.

Từ khóa: Bệnh dịch hạch, vật chủ, véc tơ, chỉ số phong phú, tỷ lệ nhiễm bọ chét.

ABSTRACT

STUDY ON HOST AND VECTOR OF PLAGUE IN GIA LAI AND DAK LAK PROVINCES IN 2011

Nguyen Le Manh Hung, Dang Tuan Dat, Pham Cong Tien, Phan Dinh Thuan, Tran Lang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 227 ‐ 230

Background:  Plague  is  an  infectious  disease,  acute  and  rapid  spread  with  very  high  mortality  rate,  especially plague is classified as quarantine and international declarations. In the plague control and prevention,  the regular supervision of the host and vector of plague is very important. Therefore, this study was to assess the  monitoring host and vector of plague in two provinces of Gia Lai and Dak Lak Central Highlands region in 2011.

* Viện Sốt rét – KST – CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Lê Mạnh Hùng   ĐT: 0905411832  Email: lehungnguyen80@yahoo.com

226

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Objectives:  Determine  the  species  composition  of  host  and  vector  of  plague,  evaluate  host  density,  and

determine the flea index which infected on plague hosts at research sites.

Methods: Epidemiological cross‐sectional  study,  study  subjects  are  rodents  and  fleas  collected  during  the  investigation, research time is deployed quarterly in 2011, local research sites in 02 provinces of Gia Lai and Dak  Lak.

Result:  In  Gia  Lai  province  host  species  of  plague  is  Lat  (Rattus  exulans)  53.28%,  shrews  (Suncus  murinus)  41,8,3%,  cotton  rats  (Rattus  nitidus)  2.46  %,  The  Great  Mouse  (Rattus  argentiventer)  1.6%,  and  forest rats (Rattus Rattus) 0.86%. In Dak Lak province host species are Lat rats (Rattus exulans) 75.2%, shrews  (Suncus murinus) 24% and cotton rats (Rattus nitidus) 0.8%. In Iapet Commune, Dak Doa District, Gia Lai  Province in May flea index was 78.57% the highest, and in September flea index was 9.09% lowest. In EaʹHiao  Commune, Ea Hʹleo District, Dak Lak Province in May has the highest flea index is 16% and at May with the  lowest abundance index is 07%.

Conclusion: Study show that host species composition at two research sites in the Central Highlands are  relatively similar, differing only in a small number of components to sell wild species such as rats and mice The  Great Forest. However, the variation in rodent density and flea index are relatively large and unpredictable. So,  we continue to monitor periodically the host and vector of plague with higher frequency, and extend some new  monitoring points is the wild and sell the wild for research, control, and prevent plague in the Central Highlands.

Keywords: Plague, host, vector, rodent density, flea index.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong  công  tác  phòng,  chống  bệnh  dịch  hạch, việc giám sát định kỳ vật chủ dịch hạch là  rất  quan  trọng.  Vì  thế,  nghiên  cứu  này  nhằm  đánh  giá  công  tác  giám  sát  vật  chủ  bệnh  dịch  hạch tại hai tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk thuộc khu  vực  Tây  Nguyên  trong  năm  2011  với  ba  mục  tiêu cụ thể sau:

‐ Xác định thành phần loại vật chủ bệnh dịch

hạch tại địa điểm giám sát.

‐  Đánh  giá  chỉ  số  phong  phú  của  vật  chủ

bệnh dịch hạch tại địa điểm giám sát.

‐  Xác  định  tỷ  lệ  nhiễm  bọ  chét  của  vật  chủ

bệnh dịch hạch tại địa điểm giám sát.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Các loài gặm nhấm thu thập đuợc trong quá

trình điều tra.

Các loài bọ chét thu thập được trên các loài

gặm nhấm.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Dịch tễ học mô tả

cắt ngang(4).

Dịch  hạch  là  một  bệnh  truyền  nhiễm  tối  nguy hiểm, tiến triển cấp tính, lây lan mạnh với  tỷ lệ tử vong cao, được xếp vào diện phải kiểm  dịch  và  khai  báo  quốc  tế.  Bệnh  do  trực  khuẩn  Yersinia  pestis  gây  ra,  lưu  hành  trong  quần  thể  động vật thuộc những loài gặm nhấm, chủ yếu  là chuột. Từ đó, bệnh lây truyền sang người qua  trung gian là bọ chét nhiễm khuẩn(5).Tại một số  nước  trên  thế  giới  đã  từng  có  bệnh  dịch  hạch  được ghi nhận cho đến nay, thì các loài thuộc bộ  gặm  nhấm  (Rodentia),  trong  đó  họ  chuột  (Muridae)  đóng  vai  trò  chủ  yếu  và  là  vật  chủ  chính. Ở Việt Nam, vật chủ của bệnh dịch hạch  cũng  chủ  yếu  là  các  loài  chuột.  Họ  chuột  có  43  loài phân bố trên toàn lãnh thổ. Trong đó, nhiều  loài chuột mang mầm bệnh dịch hạch và truyền  cho  con  người  thông  qua  các  loài  bọ  chét,  chủ  yếu  là  Xenopsylla  cheopis.  Tại  khu  vực  Tây  Nguyên,  thành  phần  vật  chủ  bệnh  dịch  hạch  trong  nhiều  năm  qua  chủ  yếu  là  chuột  Lắt  (Rattus  exulans),  chuột  Bóng  (Rattus  nitidus),  chuột  Chù  hay  còn  gọi  là  chuột  Xạ  (Suncus  murinus)(2,3,6).

227

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Giám  sát  vật  chủ  và  véc  tơ  dịch  hạch  theo  “Thường  quy  giám  sát  và  phòng,  chống  bệnh  dịch  hạch”  ban  hành  kèm  theo  quyết  định  số  33/2003/QĐ‐BYT ngày 07 tháng 01 năm 2003 của  Bộ Y Tế(1).

Địa điểm nghiên cứu

Gồm 04 xã tại Dak Lak và Gia Lai nơi từng là

những ổ dịch hạch cũ:

Tại  tỉnh  Gia  Lai:  Xã  Iapet,  huyện  Đăk  Đoa;

Kết  quả  giám  sát  vật  chủ  bệnh  dịch  hạch  tại tỉnh Gia Lai  Bảng 01: Thành phần loài vật chủ  Thành phần loài vật chủ Stt 01 Rattus exulans (Chuột Lắt) Suncus murinus (Chuột Chù) 02 Rattus nitidus (Chuột Bóng) 03 04 Rattus rattus (Chuột Rừng) 05 Rattus argentiventer (Chuột Đồng

Xã Ia Kênh, Tp. Pleiku.

Tại  tỉnh  Đăk  Lăk:  Xã  Ea’Hiao,  huyện  Ea

H’leo.

Tổng số Tỷ lệ % 53,28 41,8 2,46 0,86 1,6 65 51 03 01 02 Lớn) Tổng số 122 100

Thời gian nghiên cứu

Triển khai giám sát định kỳ theo  quý  trong

năm 2011.

Nhận  xét:  Kết  quả  giám  sát  tại  xã  Iapet,  huyện  Đăk  Đoa  và  xã  Ia  Kênh,  thành  phố  Pleiku,  tỉnh  Gia  Lai  trong  năm  2011  cho  thấy  thành phần loài vật chủ thu thập được chủ yếu  là  chuột  Lắt  (Rattus  exulans)  53,28%  và  chuột  Chù  (Suncus murinus)  41,8%.  Ngoài  ra,  còn  ghi  nhận  một  số  lượng  nhỏ  sự  có  mặt  của  các  loài  chuột  Bóng  (Rattus  nitidus)  2,46%,  chuột  Đồng  Lớn  (Rattus  argentiventer)  1,6%,  và  chuột  Rừng  (Rattus rattus) 0,86%. Kết quả trên có sự khác biệt  về thành phần loài vật chủ so với kết quả giám  sát của năm 2010.

Bảng 02: Các chỉ số giám sát của vật chủ

Thành phần loài Thời gian Địa điểm CSPP% Tỷ lệ nhiễm BC% Exulans Murinus Rattus Argentiventer

(CSPP%: Chỉ số phong phú)

(Tỷ lệ nhiễm BC%: Tỷ lệ nhiễm bọ chét)

03/ 2011 04/ 2011 07/ 2011 07/ 2011 09/ 2011 09/ 2011 Ia Kênh Iapet Ia Kênh Iapet Ia Kênh Iapet Trung bình 20 09 10 01 13 12 13 05 14 01 12 08 Nitidus 0 0 0 01 0 02 0 0 0 01 0 0 0 0 0 0 0 0 02 0 0 11 07 8,3 01 13,5 7,33 69,69 78,57 44 33,33 11,11 9,09

Kết  quả  giám  sát  vật  chủ  bệnh  dịch  hạch  tại tỉnh Đăk Lăk  Bảng 03: Thành phần loài vật chủ  Stt 01 02 03

Thành phần loài vật chủ Rattus exulans (Chuột Lắt) Suncus murinus (Chuột Chù) Rattus nitidus (Chuột Bóng) Tổng số Tỷ lệ % 75,2 24 0,8 100 94 30 01 125 Tổng số

Nhận xét: Tại các thời điểm giám sát ở xã Ia  Kênh  trong  năm  2011  đều  ghi  nhận  các  chỉ  số  phong  phú  của  vật  chủ  dịch  hạch  >  07.  Tỷ  lệ  nhiễm bọ chét của vật chủ dịch hạch vào những  tháng  mùa  khô  là  cao  hơn  so  với  những  tháng  mùa mưa. Tại các thời điểm giám sát ở xã Iapet  có chỉ số phong phú thấp hơn so với xã Ia Kênh.

Nhận  xét:  Kết  quả  giám  sát  tại  ổ  dịch  xã  Ea’Hiao,  huyện  Ea  H’leo,  tỉnh  Đăk  Lăk  trong  năm 2011 cho thấy thành phần loài vật chủ thu

228

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

đối giống nhau, chỉ khác nhau về một số thành  phần  nhỏ  các  loài  bán  hoang  dại  như  chuột  Đồng Lớn và chuột Rừng.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thập được chủ yếu là chuột Lắt  (Rattus exulans)  75,2% và chuột Chù (Suncus murinus) 24%, ngoài  ra có ghi nhận sự có mặt của chuột Bóng (Rattus  nitidus) nhưng với tỷ lệ rất nhỏ. Từ kết quả giám  sát trên, chúng tôi nhận thấy không có sự khác  biệt  về  thành  phần  loài  vật  chủ  cùng  tại  điểm  điều tra so với năm 2010.

Tại  xã  Iapet,  huyện  Đăk  Đoa,  tỉnh  Gia  Lai  vào tháng 04 có tỷ lệ nhiễm bọ chét cao nhất là  78,57%  và  vào  tháng  09  có  tỷ  lệ  nhiễm  bọ  chét  thấp nhất là 9,09%.

Bảng 04: Các chỉ số giám sát của vật chủ

Tại  xã  Ea’Hiao,  huyện  Ea  H’leo,  tỉnh  Đăk  Lăk vào tháng 03 có chỉ số phong phú cao nhất  là 16% và vào tháng 05 có chỉ số phong phú thấp  nhất là 07%.

CSPP% Thời gian Địa điểm Thành phần loài R. S. R. nitidus murinus exulans

KIẾN NGHỊ

(CSPP%: Chỉ số phong phú)

(Tỷ lệ nhiễm BC%: Tỷ lệ nhiễm bọ chét)

Kết  quả  giám  sát  vật  chủ  dịch  hạch  tại  các  tỉnh  Đăk  Lăk  và  Gia  Lai  trong  năm  2011  cho  thấy sự biến động về chỉ số phong phú và tỷ lệ  nhiễm  bọ  chét  của  vật  chủ  dịch  hạch  là  tương  đối lớn và khó dự đoán. Do vậy cần:

Tiếp tục giám sát định kỳ vật chủ bệnh dịch  hạch  theo  tần  suất  cao  hơn  tại  các  ổ  dịch  cũ,  những nơi có nguy cơ bùng phát bệnh trở lại.

03/2011Ea’Hiao 45 04/2011Ea’Hiao 20 08/2011Ea’Hiao 17 11/2011Ea’Hiao 12 24 Trung bình 03 03 06 08 04 0 0 0 01 0 Tỷ lệ nhiễ m BC% 16 52,08 7,67 65,22 7,67 26,1 40,9 07 9,59 46,08

Nhận  xét:  Tại  điểm  giám  sát  xã  Ea’Hiao  trong năm 2011, tất cả các chỉ số phong phú đều  > hoặc = 07 (Theo Tổ chức Y tế Thế Giới chỉ  số  phong phú > 07% được coi là báo động)(6). Cũng  tại tại điểm giám sát xã Ea’Hiao ngoại trừ tháng  08 có tỷ lệ nhiễm bọ chét là 26,1% là chấp nhận  được, các thời điểm giám sát còn lại đều có tỷ lệ  nhiễm bọ chét tương đối cao.

Mở rộng một số điểm giám sát vật chủ bệnh  dịch hạch mới như là các điểm hoang dại và bán  hoang  dại  phục  vụ  cho  công  tác  nghiên  cứu,  giám sát và phòng, chống bệnh dịch hạch ở khu  vực Tây Nguyên.

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Qua công tác giám sát vật chủ dịch hạch tại  các tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk trong năm 2011 cho  kết quả:

2.

3.

4.

5.

Bộ Y tế (2003). Thường quy giám sát và phòng, chống bệnh dịch  hạch.  Ban  hành  kèm  theo  quyết  định  số  33/2003/QĐ‐BYT  ngày 07 tháng 01 năm 2003 của Bộ Y Tế. Trang 86 – 88.   Cao  Văn  Sung,  Đặng  Huy  Huỳnh,  Bùi  Kính  (1980),  Những  loài  gặm  nhấm  ở  Việt  Nam;  1980,  NXB  Khoa  Học  Kỹ  Thuật,  trang 05 – 68.   Đặng Tuấn Đạt, Phạm Văn Hậu và cs (2002). Một số nhận xét  về  dịch  tễ  học,  giám  sát  và  phòng  chống  dịch  hạch  ở  Việt  Nam từ 1991 đến 2000. Tạp chí Y học Dự phòng 2002;54(3);  Trang 56 – 60.  Dương  Đình  Thiện,  Lê  Vũ  Anh  (2003),  Thực  Hành  Dịch  Tễ  Học. NXB Y học, Hà Nội; Trang 212 – 216.   Nguyễn  Tăng  Ấm,  Cao  Minh  Tân,  Nguyễn  Duy  Thanh  (1982).  Bệnh  dịch  hạch:  Dịch  tễ  học  và  lâm  sàng.  Hà  Nội;  Nhà  Xuất bản Y học; 1982. Trang 03 – 05.

6. World  Health  Organization

(1999).  Plague  Manual:  and  Control.

Tại tỉnh Gia Lai thành phần loài vật chủ dịch  hạch là chuột Lắt (Rattus exulans) 53,28%, chuột  Chù  (Suncus  murinus)  41,8,3%,  chuột  Bóng  (Rattus  nitidus)  2,46%,  chuột  Đồng  Lớn  (Rattus  argentiventer) 1,6%, và chuột Rừng (Rattus rattus)  0,86%. Tại tỉnh Đăk Lăk thành phần loài vật chủ  là  chuột  Lắt  (Rattus  exulans)  75,2%,  chuột  Chù  (Suncus  murinus)  24%  và  chuột  Bóng  (Rattus  nitidus) 0,8%. Cho thấy thành phần loài vật chủ  tại hai điểm nghiên cứu ở Tây Nguyên là tương

Epidemiology,  Distribution,  Surveillance  WHO/CDS/CSR/EDC/99.2; Page 135 – 153.

229

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B VÀ MỘT SỐ YẾU  TỐ LIÊN QUAN CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN   TỈNH GIA LAI VÀ KON TUM, 2010 – 2011

Ngô Thị Hải Vân*, Phạm Thị Thúy Hoa*, Trần Tô Châu*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Viêm gan B (VGB) là một trong những bệnh nguy hiểm ở người do vi rus viêm gan B (HBV).  Trên thế giới, trong số 2 tỉ người nhiễm HBV thì hơn 350 triệu bị mắc VGB mạn tính, có nguy cơ tiến triển xơ  gan và ung thư gan, hàng năm có khoảng 1 triệu trường hợp tử vong (tương đương với 2800 ca mỗi ngày, 115  ca mỗi giờ, hoặc 1‐2 ca mỗi phút) vì ung thư gan hoặc suy gan do HBV. Đây cũng là vấn đề nổi cộm của ngành y  tế.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tình hình hiện nhiễm vi rút viêm gan B và tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ  nghề nghiệp liên quan đến tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B của nhân viên y tế tại bệnh viện tỉnh Gia Lai và Kon  Tum.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 342 nhân viên y tế thuộc bệnh viện tỉnh Gia Lai và bệnh

viện tỉnh Kon Tum, từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011.

Kết quả: Tỷ lệ nhân viên y tế tại bệnh viện tỉnh Gia Lai và Kon Tum dương tính với xét nghiệm HBsAg là  7,3%; anti‐HBs là 14,9% và anti‐HBc là 12,8%; tỷ lệ nhiễm HBV chung là 35,0%; trong đó tỷ lệ nhiễm HBV  cao ở nhóm 30 đến 50 tuổi (38,3% ‐ 44,3%), thấp hơn ở nhóm <30 tuổi (25,0%); nhóm làm việc tại khoa truyền  nhiễm và các khoa hệ ngoại cũng có tỷ lệ nhiễm cao (38,3% ‐ 40,0%). Tỷ lệ nhiễm HBV có sự khác nhau theo thời  gian công tác. Nhóm NVYT bị sự cố nghề nghiệp có  tỷ  lệ  nhiễm  HBV  (47,7%)  cao  hơn  so  với  nhóm  NVYT  không bị sự cố (20,6%) (p <0,001); kết quả cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm HBV của nhóm bị sự cố kim đâm (38,2%)  cao hơn nhóm bị sự cố dính máu và dịch thể của bệnh nhân (7,9%). Tỷ lệ nhân viên y tế thường xuyên làm công  việc rửa dụng cụ (35,0%), chích thuốc, lấy máu (39,4%) có tỷ lệ nhiễm HBV cao hơn nhóm không làm công việc  này (16,3%).

Kết luận: Phòng chống lây nhiễm HBV trong NVYT cần được quan tâm và có hướng dẫn thực hiện cụ thể,  đặc biệt lưu ý đối với các đối tượng có nguy cơ cao gồm: NVYT có thâm niên làm việc lâu năm trong ngành y tế,  NVYT thường xuyên phải thực hiện các công việc có nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn cao như y tá/điều  dưỡng và bác sỹ hay các nhân viên thu gom rác thải y tế.

Từ khóa: Viêm gan B (VGB), vi rus viêm gan B (HBV), nhân viên y tế (NVYT)

ABSTRACT

AN APPRAISAL OF HEPATITIS B VIRUS INFECTION AND RELATING FACTORS IN MEDICAL  WORKERS AT PROVINCIAL HOSPITALS AT GIA LAI AND KON TUM, 2010 – 2011

Ngo Thi Hai Van, Pham Thi Thuy Hoa, Tran To Chau

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 2316 ‐ 236

Background: Hepatitis B is a dangerous human disease caused by hepatitis B virus. In the world, among 2  billion  people  infected  with  hepatitis  B,  more  than  350  million  suffer  from  chronic  hepatitis  B  with  risks  of  cirrhosis and liver cancer. About 1 million people die of liver cancer or liver failure (this represents 2,800 cases a

* Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên  Tác giả liên lạc: BS. Ngô Thị Hải Vân   ĐT: 0914111196  Email: ngovan57@yahoo.com.vn

230

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  day, 115 cases an hour or 1‐2 cases in one minute). This is a problem that the health sector has to cope with.

Objectives: This study is carried out to determine the prevalence of hepatitis B infection and explore factors  relating to professional risks in hepatitis B infection among medical workers at provincial hospitals in Gia Lai and  Kon Tum.

Methodology: Cross‐sectional study of 342 medical workers working at Gia Lai and Kon Tum provincial

hospitals. The survey was done from May 2010 to May 2011.

Results: The prevalence of positive test among medical workers at two hospitals is 7.3% for HBsAg, 14.9%  for anti‐HBs, and 12.8% for HBs; The infection prevalence for HBV is 35.5%. This prevalence is highest among  30‐50 age group (38.3%‐44.3%), lower in the below‐30 age group (25.0%); it is also high among those working  in  the  Department  of  Infectious  Diseases  (38.3%‐40.0%).  It  varies  with  the  length  of  service  rendered.  Those  suffered from work incidents boast higher rate at 47.7% than incident‐free workers at 20.6% (p < 0.001). The  study also shows that this prevalence is higher among those suffering from needle injected incidents at 38.2%  than those suffering from blood and fluid exposure at 7.9%. Those engaged in washing utensils, giving injection,  and taking blood sample have prevalence at 35.0% and 39.4% respectively higher than those who do not have to  do so at 16.3%.

Conclusion:  The  prevention  of  HBV  infection  in  medical  workers  should  receive  greater  attention  and  concrete guidance should be formulated with special attention to high‐risk group which include medical workers  who have served for a long time, those whose regularly tasks at jobs with higher risks of exposing to sharp and  pointed utensils such as medical assistants and doctors or collectors of medical waste.

Keyword: Hepatitis B, Hepatitis B virus (HBV), medical workers

ĐẶT VẤN ĐỀ

đồng thời tránh những nguy cơ lây nhiễm chéo  cho  cộng  đồng.  Từ  thực  tế  đó  chúng  tôi  tiến  hành nghiên cứu với hai mục tiêu sau:

Mục tiêu nghiên cứu

‐ Xác định tỷ lệ hiện nhiễm virus viêm gan B  của nhân viên y tế tại bệnh viện tỉnh Gia Lai và  Kon Tum, năm 2010 – 2011.

‐  Phân  tích  một  số  yếu  tố  nguy  cơ  nghề  nghiệp liên quan đến tỷ lệ nhiễm virus viêm gan  B  của  đối  tượng  này  tại  bệnh  viện  tỉnh  Gia  Lai  và Kon Tum.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

342 nhân viên y tế công tác tại bệnh viện tỉnh

Gia Lai và Kon Tum

Phương pháp nghiên cứu

Mô tả cắt ngang

Các đối tượng nghiên  cứu  được  phỏng  vấn  bằng  bộ  câu  hỏi  soạn  sẵn  với  các  thông  tin  chung và các thông tin về tiếp xúc yếu tố nguy  cơ.  Sau  đó  lấy  5ml  máu/người,  các  mẫu  máu

Viêm gan virus B là một trong những bệnh  nguy hiểm ở người do virus viêm gan B (HBV)  gây  ra  và  là  một  bệnh  phổ  biến  ở  hầu  hết  các  nước trên thế  giới,  những  người  mang  HBV  có  thể chết do viêm gan cấp, viêm gan mạn, xơ gan  và ung thư gan tiên phát. Một đặc điểm rất quan  trọng  là  hơn  90%  ca  nhiễm  HBV  hoàn  toàn  không có biểu hiện lâm sàng và bệnh diễn biến  thầm lặng, chỉ bộc phát khi đã bị nặng hoặc giai  đoạn  cuối.  Tỷ  lệ  nhiễm  HBV  cũng  khác  nhau  giữa  các  nhóm  yếu  tố  nguy  cơ  như:  yếu  tố  gia  đình,  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế  và  thói  quen  sinh  hoạt  (dùng  chung  bàn  chải,  dao  cạo...)...Một  trong  những  nhóm  nguy  cơ  cao  thường  gặp  là  nhân viên y tế. Trong các cơ sở y tế nhân viên y  tế là lực lượng lao động thường xuyên tiếp xúc  với các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp (máu, dịch  thể...của bệnh nhân) với tần suất cao, qua đó có  nguy  cơ  cao  lây  nhiễm  virus  viêm  gan  B.  Như  vậy  công  tác  kiểm  soát  các  trường  hợp  nhiễm  HBV trong nhân viên y tế là cần thiết, góp phần  vào công tác chăm sóc sức khoẻ người lao động,

231

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

10 5,8 16 9,3 24 13,9

Ghi chú: anti‐HBs (+)(*) là của các NVYT chưa tiêm  phòng

25 7,3 51 14,9 44 12,8 Kon Tum (n= 172) Tổng số (n = 342)

Nghiên cứu Y học  được  ly  tâm  tách  bỏ  cục  máu  đông  để  xét  nghiệm tìm các dấu ấn viêm gan B: HBsAg, anti‐ HBs và anti‐HBc, các xét nghiệm này được thực  hiện  bằng  các  bộ  kít  chẩn  đoán  tương  ứng  của  tập đoàn ACON Biotech (với độ nhạy > 99,0% và  độ  đặc  hiệu:  99,7%),  các  xét  nghiệm  không  rõ  ràng (equivocal) được xem như là âm tính.

Bảng 2: Tỷ lệ xuất hiện các dấu ấn HBV phân theo  nhóm tuổi

Các  xét  nghiệm  lần  lượt  được  tiến  hành  như

HBsAg Nhóm tuổi (+) (%) Anti-HBs(*) (%) (+) Anti-HBc (%) (+)

sau

Bước 1: Tìm HBsAg ‐ Nếu :

+  Dương  tính:  Không  xét  nghiệm  tiếp  anti‐

04 3,5 15 13,3 09 8,0

HBs và anti‐HBc

08 8,1 15 15,3 21 21,4

+ Âm tính: Xét nghiệm tiếp anti‐HBs

Bước 2: Tìm anti‐HBs ‐ Nếu :

09 9,0 17 17,1 12 12,1

+  Dương  tính:  Không  xét  nghiệm  tiếp  anti‐

HBc

+ Âm tính: Xét nghiệm tiếp anti‐HBc

Bước 3: Tìm anti‐HBc

04 12,1 04 12,1 02 6,0 < 30 tuổi (n= 112) 30- < 40 tuổi (n= 98) 40 - < 50 tuổi (n= 99) ≥ 50 tuổi (n= 33)

Đánh giá kết quả xét nghiệm

Nhận xét:  Tỷ  lệ  mang  các  dấu  ấn  miễn  dịch  có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi. đặc biệt tỷ  lệ nhiễm anti‐ HBc cao ở nhóm NVYT tuổi từ 30  đến  dưới  40  (21,4%),  thấp  hơn  là  nhóm  40  đến  dưới 50 (12,1%) và nhóm tuổi dưới 30 (8,0%), ở  nhóm ≥ 50 chỉ có 6,0% (p <0,05).

‐  HBsAg  (+):  Là  tình  trạng  mang  HBsAg  trong huyết thanh chứng tỏ đang bị  nhiễm  cấp  hoặc mạn tính với viêm gan B.

44,8%

45

38,3%

40

‐ Anti‐HBs (+): Là tình trạng đã có kháng thể

35

bảo vệ chống tái nhiễm HBV.

30,3%

30

25,0%

‐  Anti‐HBc  (+):  Là  tình  trạng  đã  từng  bị

25

nhiễm HBV.

20

15

10

5

0

< 30

30 - < 40

40 - < 50

>= 50

‐  Nhiễm  virus  viêm  gan  B  (HBV):  Là  tình  trạng  có  1  trong  các  dấu  ấn  miễn  dịch  HBsAg  hoặc anti‐HBs hoặc anti HBc với điều kiện chưa  tiêm vắc xin.

Xử lý số liệu

Dùng EPI INFO 6.4 và các bảng, biểu, đồ họa

Biểu đồ 1: Tỷ lệ nhiễm HBV của 2 bệnh viện phân  theo nhóm tuổi

trong EXCEL

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm HBV cao nhất ở nhóm  tuổi 30 đến dưới 40 (44,8%) tiếp theo là nhóm 40  đến  dưới  50  tuổi  (38,3%),  nhóm  >=  50  tuổi  (30,3%)  và  thấp  nhất  ở  nhóm  dưới  30  tuổi  (25,0%), với p < 0,05.

HBsAg Tỉnh

Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm HBV chung của 2 bệnh viện,  phân theo giới và dân tộc

Tình trạng hiện nhiễm vi rút viêm gan B  Bảng 1: Tỷ lệ xuất hiện từng dấu ấn miễn dịch HBV  của NVYT tại bệnh viện tỉnh Gia Lai và Kon Tum  Anti-HBc (%) (+)

Anti-HBs(*) (%) (+) (%) (+)

15 8,8 35 20,5 20 11,7 Gia Lai (n= 170)

232

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

37,3%

40

33,3% 34,2%

35

31,7%

28,2%

30

25

20

07 11,1 07

08

22 34,9

11, 1

12, 6

15

10

HBsAg Anti-HBc Giới tính – Dân tộc Anti- HBs(*) (+) (%) (+) (%) (+) Nhiễm HBV (%) (+) (%) 1. Giới tính Nam ( n=63)

18 6,4 44 15,7 36 12,9 98 35,1 p > 0,05

5

0

Nữ hộ sinh

Bác sỹ

Kỹ thuật viên

Hộ lý

114 35,4

42

24 7,4 48

Điều dưỡng, y tá

13, 0

01 5,0 03

02 10,0 06 30,0

Nữ ( n= 279) 2. Dân tộc Kinh

14, 9 15, 0 p > 0,05

( n= 322) Dân tộc ( n= 20)

Biểu đồ 3: Tỷ lệ nhiễm HBV của NVYT phân theo  công việc

Nhận  xét:  Tỷ  lệ  của  từng  dấu  ấn  và  tỷ  lệ  nhiễm HBV chung giữa nam và nữ, giữa người  Kinh và người dân tộc thiểu số khác biệt không  có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Tỷ lệ nhiễm HBV theo công việc

40

38,3% 40,0%

Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm HBV cao nhất ở nhóm  điều dưỡng, y tá (37,3%), tiếp theo là nhóm hộ lý  (34,2%), nhóm kỹ thuật viên (33,3%), nhóm bác  sỹ  (31,7%),  thấp  hơn  cả  là  nhóm  nữ  hộ  sinh  (28,2%). Tuy nhiên sự khác biệt tỷ lệ nhiễm HBV  giữa các nhóm phân theo công việc không có ý  nghĩa thống kê, với p > 0,05.

33,7% 33,9%

35

28,0% 29,6%

30

25

20

15

Một số  yếu  tố  nghề  nghiệp  liên  quan  đến  tỷ lệ mang dấu ấn viêm gan B  Bảng 4: Mối liên quan giữa thâm niên công tác với  tỷ lệ mang dấu ấn HBV

10

5

0

Hệ nội

CK lẻ

K/Phòng khác

Xét nghiệm

Hệ ngoại Truyền nhiễm

p HBsAg Anti- HBc Năm công tác Số mẫu (+) (%) Anti- HBs(*) (+) (%) (+) (%) (+) Nhiễm HBV (%) < 5 năm 99 05 5,0 10 12 27 27,2

54 02 3,7 10 07 19 35,1

> 0,05 39 05 12,8 05 07 17 43,5

Biểu đồ 2: Tỷ lệ nhiễm HBV phân theo khoa/phòng  công tác

51 05 9,8 10 07 22 43,1

Nhận xét:  Nghiên  cứu  cho  thấy  tỷ  lệ  nhiễm  HBV  của  NVYT  tại  hai  bệnh  viện:  cao  nhất  ở  khoa truyền nhiễm (40,0%), tiếp theo là các khoa  hệ  ngoại  (38,3%),  chuyên  khoa  lẻ  (33,9%),  các  khoa hệ nội (33,7%), và có tỷ lệ thấp hơn là khoa  xét  nghiệm  (29,6%)  và  các  khoa  phòng  khác  (28,0), sự khác nhau này không có ý nghĩa thống  kê, với p > 0,05.

Nhận xét: Tỷ lệ mang HBV chung phân theo  thâm  niên  công  tác  cho  thấy  tỷ  lệ  cao  nhất  ở  nhóm 15 ‐ 20 năm và nhóm 10 ‐ <15 năm (43,1%  và 43,5%), nhóm > 20 năm và nhóm 5 ‐ < 10 năm  có tỷ lệ thấp hơn (35,3% và 35,1%), thấp nhất ở  nhóm có thâm niên công tác < 5 năm (27,2%), sự  khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, với p >  0,05.

5 - < 10 năm 10 - < 15 năm 15 - 20 năm > 20 năm 99 08 8,0 16 11 35 35,3 10, 1 18, 5 12, 8 19, 6 16, 1 12, 1 12, 9 17, 9 13, 7 11, 1

Bảng 5: Mối liên quan giữa sự cố nghề nghiệp với tỷ  lệ nhiễm HBV

233

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Nhận xét: Nghiên cứu cho thấy sự khác nhau  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  tỉ  lệ  nhiễm  HBV  giữa  NVYT bị sự cố với tỷ lệ 47,8% cao hơn nhiều so  với nhóm NVYT không bị sự cố 20,6%, với p <  0,001.

p Số mẫu Nhiễm HBV Tỷ lệ % 87 47,8 182 p < 0,001 160 33 20,6 Sự cố Có sự cố Không có sự cố

Bảng 6: Mối liên quan giữa việc làm thường xuyên  với tỷ lệ nhiễm HBV

p Anti- HBc Số mẫu HBsAg Anti- HBs(*) Công việc

nghiên cứu khác(7). Tỷ lệ nhiễm HBV của NVYT  có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi cao nhất ở  đối  tượng  từ  30  đến  dưới  40  tuổi  (44,8%),  tiếp  theo  là  nhóm  40  đến  dưới  50  tuổi  (38,3%)  thấp  nhất  là  nhóm  <  30  tuổi,  (p  <  0,05).  Kết  quả  cho  thấy  sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  nam  và  nữ  qua  phát  hiện  cả  3  dấu  ấn  (HBsAg, anti‐HBs(*) và anti‐HBc) của HBV, với p  >  0,05.  Một  số  tác  giả  khác  cũng  cho  kết  quả  tương tự(5,6,1). Tuy nhiên không thấy sự khác biệt  có  ý  nghĩa  giữa  người  Kinh  và  người  dân  tộc  thiểu số. Khi phân tích về tỷ lệ nhiễm HBV phân  theo  khoa/phòng  công  tác  tại  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  phát  hiện  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa thống kê (p > 0,05) (biểu đồ 2), tỷ lệ nhiễm  HBV cao nhất là nhóm y tá, điều dưỡng (37,3%).

261 19 7,3 48 18,3 36 13,7 103 39,4 < 0,01

61 03 4,9 03 4,9 04 6,5 10 16,3 Nhiễm HBV (+) (%) (+) (%) (+) (%) (+) (%) Rửa dụng cụ 20 03 15,0 00 00 04 20,0 07 35,0 Chích thuốc, lấy máu Không thường xuyên

Một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  tỷ  lệ  hiện  nhiễm virus viêm gan B

Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm HBV trong các nhóm  NVYT  theo  nguy  cơ  phơi  nhiễm  với  tính  chất  công  việc  thường  xuyên:  cao  nhất  nhóm  chích  thuốc,  lấy  máu  (39,4%),  sau  đó  đến  nhóm  thường xuyên rửa dụng cụ (35,0%), và thấp nhất  là  nhóm  không  thường  xuyên  làm  những  công  việc  trên  (16,3%),  sự  khác  biệt  giữa  các  nhóm  phơi  nhiễm  thường  xuyên  và  không  thường  xuyên là có ý nghĩa thống kê, với p < 0,01.

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  tỷ  lệ  mang  HBV có xu hướng tăng dần theo thâm niên công  tác và có sự khác biệt giữa nhóm NVYT bị sự cố  nghề nghiệp (47,8%) với nhóm NVYT không bị  sự  cố  (20,6%),  với  p  <  0,001.  Nhóm  thường  xuyên  làm  công  việc  chích  thuốc,  lấy  máu,  rửa  dụng cụ... có tỷ lệ nhiễm HBV là 39,1%, cao hơn  nhóm  không  thường  xuyên  làm  công  việc  này  (16,3%), (p < 0,01), sự sai khác này cũng phù hợp  với một số nghiên cứu khác (5).

BÀN LUẬN

KẾT LUẬN

Tình trạng hiện nhiễm virus viêm gan B:

Qua  nghiên  cứu  342  nhân  viên  y  tế  tại  2  bệnh viện tỉnh Gia Lai và Kon Tum chúng tôi có  một số kết luận sau:

Tỷ lệ mang HBsAg trong NVYT tại hai bệnh  viện  là:  7,3%.  Kết  quả  này  tương  tự  với  nghiên  cứu của trường Đại học Y tế Công cộng (2008),  nhưng  thấp  hơn  so  với  1  số  nghiên  cứu  khác(2,4,3,7). Nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ mang anti‐ HBs là  14,9%,  tỷ  lệ  này  không  bao  gồm  những  người  mang  anti‐HBs  đã  tiêm  phòng  vắc‐xin  viêm gan B, kết quả của chúng tôi thấp hơn của  Nguyễn Quang Tập và cs (2007) nghiên cứu trên  nhóm nhân viên y tế tại một số bệnh viện ở Hải  Phòng với tỷ lệ là 16,4%(5), và cũng thấp hơn so  với nghiên cứu của Viên Chinh Chiến (52,9%)(7).  Về tỷ lệ mang anti‐HBc: nghiên cứu cho thấy tỷ  lệ mang anti‐HBc là 12,8%, cũng thấp hơn so với

Tình trạng nhiễm HBV: Tỷ lệ nhân viên y tế  tại  bệnh  viện  tỉnh  Gia  Lai  và  Kon  Tum  mang  HBsAg là 7,3%; anti‐HBs là 14,9% và anti‐HBc là  12,8%.  Tỷ  lệ  nhiễm  HBV  chung  là  35,0%;  Tỷ  lệ  nhiễm HBV của nhân viên y tế tại Bệnh viện tỉnh  Gia  Lai  (41,1%)  cao  hơn  ở  nhân  viên  y  tế  Bệnh  viện tỉnh Kon Tum (29,0%). Tỷ lệ nhiễm HBV có  sự khác nhau theo từng nhóm tuổi. Không phát  hiện  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  tỷ  lệ  nhiễm HBV theo giới tính, dân tộc. Tỷ lệ nhiễm  HBV cao ở nhóm làm việc tại khoa truyền nhiễm

234

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

2.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  và các khoa hệ ngoại, song không thực sự khác  hẳn so với các khoa phòng khác.

3.

4.

5.

6.

7.

Các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp liên quan  đến tỷ lệ nhiễm HBV trong nhân viên y tế: Tỷ  lệ  nhiễm  HBV  có  sự  khác  nhau  theo  thời  gian  công tác, cao nhất là nhóm có thâm niên công tác  10 ‐ 20 năm, thấp nhất là nhóm dưới 5 năm. Có  sự khác biệt rõ ràng giữa nhóm có và không có  sự cố nghề nghiệp: tỷ lệ nhiễm HBV của nhóm  bị sự cố kim đâm (38,2%) cao hơn nhóm bị sự cố  dính máu và dịch thể của bệnh nhân (7,9%). Tỷ  lệ  nhiễm  HBV  ở  nhân  viên  y  tế  thường  xuyên  làm công việc rửa dụng cụ (35,0%), chích thuốc,  lấy  máu  (39,4%)  cao  hơn  nhóm  không  làm  các  công việc này (16,3%).

Hoàng Công Long (1995) “Tỷ lệ mang HBsAg trong những  nhóm người khác nhau ở tỉnh Lâm Đồng”, Tạp chí Vệ sinh  phòng dịch, Hội VSPD Việt Nam, tập V, số 1(19), tr.74‐76.  Khúc Xuyền, Nguyễn Thị Toán và cộng sự (2003): “Điều tra  cơ  bản  thực  trạng  sức  khỏe  người  lao  động  tiếp  xúc  với  vi  sinh  vật  nguy  hiểm  (vi  rút  viêm  gan  B)”,  đề  tài  NCKH  cấp  Bộ, 2003.  Nguyễn Đình Ứng, Đỗ Ngọc Ánh, Vũ Xuân Nghĩa, Nguyễn  Thị Huyền, Hoàng Văn Lương (2009), “Bước đầu xác định tỷ  lệ nhiễm vi rút viêm gan B ở một số đối tượng trên địa bàn  tỉnh Vĩnh Phúc”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, 2009.  Nguyễn Quang Tập, Phạm Trung Kiên (Bệnh viện Kiến An ‐  Hải  Phòng)  và  Phạm  Văn  Trọng  (Đại  học  Y  ‐  Thái  Bình)  (2007) “Xác định tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B, HBsAg, Anti‐ HBs,  HBeAg  của  cán  bộ  y  tế  tại  một  số  bệnh  viện  Hải  Phòng ’’, Tạp chí Y học thực hành, số 12/2007,tr. 68‐71.  Nuvati  T  (1994)  “  Pective  of  viral  Hepatitis  in  Thailand”,  Proeedings  of  the  ISVHLD,  Tokyo,  May  10‐14,  1993.  Viral  Hepatitis and disease, 1994, 403‐405.  Viên Chinh Chiến, Nguyễn Thị Thế Trâm, Đinh Sỹ Hiền và  cộng sự (1996) “ Điều tra về tình hình nhiễm vi rút viêm gan  B trong nhân viên y tế tại một số tỉnh miền Trung”, Tạp chí  Vệ sinh phòng dịch, tập 6(4)‐1997, tr.34‐39.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Goh KT, Doraisingham S, Tan KL. et al (1989): “The Hepatitis  B  immunization  programe  in  singapore”,  Bulletin  of  WHO,  67(1), 1989, 65‐70.

235

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI MỚI TẠI TỈNH CÀ MAU  NĂM 2009 VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN

Trần Ngọc Dung*, Trần Hiến Khóa**, Nguyễn Văn Sơn**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Công tác quản lý điều trị lao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực, mỗi địa phương phụ thuộc rất nhiều  yếu tố và thay đổi theo từng năm. Việc nghiên cứu sâu vấn đề này có một ý nghĩa rất lớn, giúp hiểu được thực  trạng kết quả điều trị lao tại địa phương.

Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị lao phổi mới và các yếu tố liên quan

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang

Kết quả: Kết quả điều trị 1.020 bệnh nhân lao phổi: thành công 984, chiếm 96,5%. Trong đó, khỏi bệnh của  AFB(+) mới là 759/786 (96,6%), hoàn thành điều trị AFB(‐) mới 225/234 (96,2%). Điều trị không thành công là  36 (3,5%), bao gồm thất bại 01 (0,1%); bỏ trị 04 (0,4%); tử vong 31 (3,0%). Tỷ lệ điều trị không thành công ở  mức thấp.

Các yếu tố liên quan đến điều trị không thành công: tuổi từ 60 trở lên (6,8%); có tác dụng phụ của thuốc

(22,9%); mức sống kinh tế thấp (9,3%); không tuân thủ (9,1%).

Chưa thấy có mối liên quan giữa bệnh kết hợp, thời gian đến khám phát hiện (muộn – không muộn), thói  quen dùng rượu bia, thuốc lá, nơi cư trú, khoảng cách từ nhà đến nơi nhận thuốc điều trị và mức hiểu biết về  điều trị với kết quả điều trị không thành công của lao phổi AFB(+) mới.

Kết luận: Kết quả điều trị lao phổi mới: tỷ lệ điều trị thành công là 96,5%; tỷ lệ điều trị thành công AFB(+)

mới là 96,6%; tỷ lệ hoàn thành điều trị AFB(‐) là 96,2%.

Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị lao phổi AFB(+) mới và AFB(‐) mới: độ tuổi, tác dụng phụ của

thuốc, kinh tế gia đình và tuân thủ trong điều trị

Kiến nghị: Trong quản lý, Dự án phòng chống lao của tỉnh cần chú ý đến các nhóm đối tượng có tỷ lệ điều

trị không thành công cao.

Các ngành chức năng, cộng đồng cần quan tâm giúp đỡ bệnh nhân lao là người nghèo

Từ khóa: AFB(+), kết quả điều trị AFB(+), yếu tố liên quan điều trị bệnh lao

ABSTRACT

STUDY ON RESULTS OF NEWLY PULMONARY TUBERCULOSIS TREATMENT IN   CA MAU PROVINCE IN 2009 AND RELATED FACTORS

Tran Ngoc Dung, Tran Hien Khoa, Nguyen Van Son

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 237 ‐ 244

Background: The management of TB treatment in each country, each region and each locality depends on  many factors and changes every year. Study of TB has a great significance, for understanding the outcome of TB  treatment at local level

Objectives: To study results of newly notified tuberculosis treatment and related factors

Method: Cross‐sectional study.

* Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, ** Trung tâm phòng chống các bệnh Xã hội Cà Mau  Tác giả liên lạc: Ths. Trần Hiến Khóa   ĐT: 0913653361

Email: bshienkhoa@gmail.com

236

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Results:  Results  of  treatment  of  1,020  newly  notified  TB  patients:  984  cases  was  succesful  (96.5%);  in  which  success  of  AFB  (+)  was  759/786  (96.6%),  completed  treatment  of  newly  notified  TB  patients  AFB(‐ )225/234  patients  (96.2%).  Unsuccessful  cases  were  36  patients  (3.5%),  including  failure  1case  (0.1%),  non‐ adherence 4 cases (0.4%), deaths 31 cases (3.0%). The rate of unsuccessful treatment is low.

Factors related to treatment failure are age group of over 60 (6.8%), side effects of drugs (22.9%), low socio‐

economic status (9.3%); not comply with treatment or non‐adherence (9.1%).

There were no relationships between concomitant disease, time of disease detection (late or early), drinking  habit, smoking, place of residence, distance from home to health care facility to get treatment, and knowledge on  treatment with unsuccessful treatment of newly notified pulmonary tuberculosis TB patients AFB (+)

Conclusion:  Result  of  newly  notified  pulmonary  TB  cases  treatment  showed  that  successful  rate  was  96.5%; successful rate for AFB (+) was 96.6%; and successful rate for AFB (‐) was 96.2%. Factors related to  treatment  outcome  of  new  case  TB  AFB  (+)  and  new  case  AFB  (‐)  were  age  group,  side  effects  of  drugs,  households’economy, and adherence to treatment.

Recommendations In management of National TB Program in Ca Mau province the manager should pay  attention to groups with high rate of unsuccess. Hence, the relevant agencies and communities should pay more  attention to poor TB patients

Keywords: AFB(+), outcome of treatment TB with AFB(+), factors related to TB treatment

ĐẶT VẤN ĐỀ

là  do  vi  trùng

Dù xuất hiện trên trái đất từ hàng ngàn năm  trước Công Nguyên và biết rõ nguyên nhân gây  bệnh  lao  (Mycobacterium  tuberculosis hominis) từ 1882, bệnh lao tuởng đã  được  khống  chế,  từng  bước  đẩy  lùi  và  đi  đến  thanh  toán.  Nhưng  đến  nay,  bệnh  lao  vẫn  còn  diễn biến rất phức tạp (3,4,12).

nghiên  cứu  sâu  vấn  đề  này  có  một  ý  nghĩa  rất  lớn, giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách  nắm được thực trạng kết quả điều trị lao tại địa  phương mình để từ đó có các giải pháp phù hợp  nhằm  đạt  được  hiệu  quả  cao  trong  công  tác  chống lao. Từ trước đến nay Cà Mau chưa có đề  tài nghiên cứu về vấn đề điều trị bệnh lao, vì vậy  chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá  kết  quả  điều  trị  lao  phổi  mới  tại  tỉnh  Cà  Mau  năm  2009  và  các  yếu  tố  liên  quan”,  nhằm  các  mục tiêu sau:

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh giá kết quả điều trị lao phổi mới tỉnh

Cà Mau năm 2009

Phân  tích  các  yếu  tố  tác  động  đến  kết  quả

điều trị lao phổi AFB(+) mới.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, số bệnh nhân lao  đã tăng dần qua các năm, báo cáo năm 2007 cho  thấy, có đến 1/3 dân số thế giới (2,2 tỷ người) đã  nhiễm lao. Cũng theo báo cáo này, năm 2006, tỷ  lệ  điều  trị  thành  công  của  lao  phổi  dương  tính  mới toàn cầu đạt 85%. Trong đó, có một số quốc  gia  đạt  tỷ  lệ  cao  như  Trung  Quốc  94%,  Campuchia 93%(13).

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Tất cả bệnh nhân lao phổi mới, được quản lý  điều trị trong mạng lưới chống lao tỉnh Cà Mau  từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009.

Năm  2007,  theo  báo  cáo  của  Dự  án  phòng,  chống lao Quốc gia, tỷ lệ điều trị khỏi của bệnh  nhân  lao  phổi  dương  tính  mới  năm  2006  đạt  89,8% và lao phổi âm tính mới là 91,3%(2). Trong  khi đó, tỷ lệ điều trị thành công tại Cà Mau đã có  sự  biến  động  qua  các  năm  và  có  chiều  hướng  giảm.

Tiêu chí chọn đối tượng nghiên cứu

Bệnh  nhân  sống  thường  trú  trong  tỉnh  Cà  Mau, nếu tạm trú, thì thời gian tạm trú phải > 3  tháng  (tính  đến  thời  điểm  bệnh  nhân  đăng  ký

Công tác quản lý điều trị lao ở mỗi quốc gia,  mỗi  khu  vực,  mỗi  địa  phương  phụ  thuộc  rất  nhiều  yếu  tố  và  thay  đổi  theo  từng  năm.  Việc

237

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

chung Thất bại 1 0,1

Nghiên cứu Y học  điều trị);

Bệnh nhân được xác định là lao phổi mới;

Tử vong 31 3,0 4 0,4

Tiêu chí loại trừ

Bệnh  nhân  không  được  quản  lý  và  điều  trị  trong  mạng  lưới  dự  án  phòng  chống  lao  quốc  gia tại địa phương;

1.020 100

Lao phổi AFB (+) mới 756 1 24 2 96,6 0,1 3,1 0,2

786 100

Phiếu  thu  thập  thông  tin,  phiếu  bệnh  lý,  phiếu theo dõi điều trị không ghi  nhận  đầy  đủ  các  chi  tiết  (do  bệnh  nhân  từ  chối  trả  lời  hoặc  nhân viên điều tra ghi chép không đầy đủ).

225 96,2

Phương pháp nghiên cứu

Lao phổi AFB (-) mới 7 2 3,0 0,4

234 100 Bỏ trị Tổng số đánh giá Khỏi Thất bại Tử vong Bỏ trị Tổng số đánh giá Hoàn thành điều trị Tử vong Bỏ trị Tổng số đánh giá

Thiết kế nghiên cứu  Mô tả cắt ngang

Cỡ mẫu

Chọn  mẫu  toàn  bộ  thỏa  tiêu  chí  chọn  và  không phạm tiêu chí loại trừ. Trong nghiên cứu  này, chọn được cỡ mẫu là 1.025 bệnh nhân (791  lao phổi AFB (+) và 234 lao phổi AFB(‐).

Các thông tin cần thu thập

Trong số 1.025 bệnh nhân lao phổi mới được  thu  nhận  điều  trị  được  phỏng  vấn  thu  thập  thông  tin,  có  1.020  bệnh  nhân  được  theo  dõi,  điều trị liên tục đến liều cuối cùng; 05 bệnh nhân  chuyển đến đơn vị tỉnh bạn tiếp tục điều trị có  phiếu  phản  hồi  tiếp  nhận  của  nơi  bệnh  nhân  đến. Nên trong phần đánh giá, chúng tôi không  phân tích 05 bệnh nhân đã chuyển đi.

Đặc  điểm  chung  (đối  tượng  nghiên  cứu):  tuổi, giới tính, dân tộc, nơi cư trú, nghề nghiệp,  trình  độ  học  vấn,  tình  trạng  kinh  tế,  tình  trạng  hôn nhân, …

Tổng số 1.020 bệnh nhân được điều trị theo  dõi điều trị hết liệu trình (bao gồm 786 AFB(+),  234 AFB(‐)) có kết quả như sau:

Phần liên quan đến điều trị: phát hiện muộn,  chậm trễ trong điều trị, tác dụng phụ của thuốc,  tuân thủ điều trị, bệnh kết hợp…

Đánh  giá  kết  quả  điều  trị  theo  hướng  dẫn

của Dự án phòng, chống lao Quốc gia

Điều trị thành công (bao gồm khỏi và hoàn  thành  điều  trị)  là  984  bệnh  nhân,  chiếm  96,5%.  Trong đó, khỏi bệnh của lao phổi AFB(+) mới là  759/786 bệnh nhân (96,6%), hoàn thành điều trị  AFB(‐)  mới  225/234  bệnh  nhân  (96,2%).  Đây  là  một tỷ lệ thành công khá cao.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả điều trị bệnh nhân lao phổi mới  Bảng 1: Kết quả điều trị của bệnh nhân lao phổi mới  (n=1.020)

Điều trị không thành công là 36 bệnh nhân,  chiếm 3,5%. Bao gồm thất bại 1 (chiếm 0,1%); bỏ  trị 4 (chiếm 0,4%); tử vong 31 (chiếm 3,0%). Tỷ lệ  điều trị không thành công ở mức thấp.

Loại bệnh Tỷ lệ % Kết quả đánh giá Số bệnh nhân Thành công 984 96,5 Lao phổi mới

Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị không thành công của lao phổi AFB(+) mới  Bảng 2. Kết quả điều trị lao phổi AFB(+) mới không thành công, liên quan đến một số đặc trưng về cá nhân của  bệnh nhân

Yếu tố p χ2 Tổng số Kết quả điều trị lao phổi AFB (+) mới Không thành công % Số lượng

238

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tuổi 9,49 < 0,05

Giới 0,02 > 0,05

0,71 > 0,05 Tình trạng hôn nhân

Học vấn 0,01 > 0,05

Nghề nghiệp 2,38 > 0,05

Nơi cư trú 0,05 > 0,05

Có mối liên quan giữa nhóm tuổi và kết quả  điều trị: nhóm tuổi từ 60 trở lên có tỷ lệ không  thành công là 6,8%; trong khi đó nhóm dưới 60  tuổi có tỷ lệ điều trị không thành công là 2,2%.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  <  0,05.

Chưa thấy có mối liên quan giữa các yếu tố  như: giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ học  vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú và khoảng cách từ  nhà đến nơi nhận thuốc điều trị với kết quả điều  trị  không  thành  công  của  lao  phổi  AFB(+)  mới,  với p > 0,05

1,89 > 0,05 Khoảng cách từ nhà đến nơi điều trị < 60 > 60 Nam Nữ Có gia đình Độc thân, goá ≤ Tiểu học ≥ THCS CCVC-HSSV NN-TS Nghề khác Thành thị Nông thôn < 5 Km 5 – 10 Km > 10 Km 13 14 21 6 20 7 18 9 4 12 11 10 17 7 11 9 2,2 6,8 3,5 3,3 3,2 4,5 3,5 3,3 6,8 2,9 3,5 3,6 3,3 3,0 4,8 2,8 580 206 602 184 632 154 517 269 59 416 311 276 510 233 228 325

Bảng 3: Một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị không thành công của bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới

Kết quả điều trị lao phổi AFB (+) mới Yếu tố χ2 p Tổng số

Có Không thành công % 4,9 Số lượng 5 102 0,76 > 0,05 Bệnh Kết hợp

Không Muộn 22 16 3,2 2,9 684 550 1,53 > 0,05 Thời gian đến khám phát hiện

Tác dụng phụ khi dùng thuốc 58,42 < 0,05

Thói quen dùng rượu - bia 1,27 > 0,05

0,00 > 0,05 Thói quen hút thuốc lá

8,68 < 0,05

Kinh tế gia đình Hiểu biết về điều trị lao 1,86 > 0,05

bệnh nhân không có tác dụng phụ của thuốc là  2,2%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p  < 0,05.

Có  mối  liên  quan  giữa  tác  dụng  phụ  của  thuốc  và  kết  quả  điều  trị:  tỷ  lệ  điều  trị  không  thành  công  ở  bệnh  nhân  có  tác  dụng  phụ  của  thuốc là 22,9%, tỷ lệ điều trị không thành công ở

2,87 < 0,05 Tuân thủ điếu trị Không muộn Có Không > 2 lần/tuần < 2 lần/tuần Không dùng Không nghiện Nghiện Nghèo Không nghèo Tốt Chưa tốt Có Không 11 11 16 5 17 5 16 11 7 20 6 21 23 4 4,7 22,9 2,2 2,5 4,1 2,8 3,5 3,4 9,3 2,8 2,2 4,1 3,1 9,1 236 48 738 198 412 176 463 323 75 711 271 515 742 44

239

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Cần Thơ 92,9%; Kiên Giang 93,5% và Bạc Liêu là  90,9%.

Có mối liên quan giữa mức kinh tế gia đình  với  kết  quả  điều  trị:  bệnh  nhân  có  mức  kinh  tế  gia đình thuộc loại nghèo có tỷ lệ điều trị không  thành công là 9,3%; trong khi hộ không nghèo tỷ  lệ không thành công là 2,8%. Sự khác biệt này có  ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Như vậy, kết quả điều trị tại Cà Mau tích cực  hơn so với Quảng Châu và tốt hơn rất nhiều so  với bệnh viện Trường đại học Gondar, Ethiopia  (Châu Phi)

Kết quả điều trị lao phổi AFB (+) mới

Kết quả điều trị lao phổi AFB (+) mới tại Cà

Mau năm 2009

Có  mối  liên  quan  giữa  tuân  thủ  trong  điều  trị  với  kết  quả  điều  trị:  bệnh  nhân  không  tuân  thủ  có  tỷ  lệ  điều  trị  không  thành  công  là  9,1%;  trong  khi  nhóm  bệnh  nhân  tuân  thủ  tốt,  tỷ  lệ  không thành công là 3,1%. Sự khác biệt này có ý  nghĩa thống kê với p < 0,05.

Từ Bảng 2 cho thấy kết quả điều trị của bệnh  nhân lao phổi AFB(+) mới năm 2009 tại Cà Mau  như sau: thành công là 96,6%; thất bại là 0,1%; tử  vong là 3,1%; bỏ trị là 0,2%.

Chưa  thấy  có  mối  liên  quan  giữa  bệnh  kết  hợp,  thời  gian  đến  khám  phát  hiện  (muộn  –  không  muộn),  thói  quen  dùng  rượu  bia,  thuốc  lá, nơi cư trú, khoảng cách từ nhà đến nơi nhận  thuốc điều trị và mức hiểu biết về điều trị với kết  quả  điều  trị  không  thành  công  của  lao  phổi  AFB(+) mới, với p > 0,05.

BÀN LUẬN

Kết quả điều trị lao phổi mới chung

Từ bảng 1 cho thấy tổng số 1.020 bệnh nhân

Tỷ  lệ  khỏi  của  lao  phổi  AFB(+)  mới  tại  Cà  Mau là 96,6% ; của các tỉnh phía Nam là 93,5% ;  một số tỉnh lận cận Cà Mau năm 2008 như sau:  Bạc  Liêu  91,6%;  Kiên  Giang  93,7%;  Sóc  Trăng  96,7% và Hậu Giang 96,5%. Kết quả lành chung  của cả nước qua các năm như sau: 90,6% (2004);  90,2% (2005); 89,8% (2006); 89,2% (2007)(4,6). Như  vậy, kết quả điều trị khỏi của Cà Mau cao hơn tỷ  lệ  chung  của  cả  nước  và  cao  hơn  một  số  tỉnh  bạn.

có kết quả như sau:

Điều trị thành công là 984 bệnh nhân, chiếm  96,5%. Trong đó, khỏi bệnh của lao phổi AFB(+)  mới  là  759/786  bệnh  nhân  (96,6%),  hoàn  thành  điều  trị  AFB(‐)  mới  225/234  bệnh  nhân  (96,2%).  Đây là một tỷ lệ thành công khá cao.

Cà  Mau  không  có  hoàn  thành  điều  trị  của  lao  phổi  AFB(+)  mới.  Trong  khi  đó,  tỷ  lệ  này  ở  một  số  tỉnh  bạn  như  sau :  Kiên  Giang  0,1%  và  Bạc  Liêu  0,2%  (2008) ;  cả  nước  qua  các  năm  là:  2,1%  (2004);  2,1%  (2005);  2,3%  (2006);  2,4%  (2007)(4,5). Như vậy, việc kiểm soát đờm đánh giá  kết quả điều trị ở Cà Mau thực hiện tốt hơn cả  nước và một số tỉnh bạn

Chỉ  có  36  bệnh  nhân  (3,5%)  điều  trị  không  thành  công.  Tỷ  lệ  thất  bị,  bỏ  trị,  tử  vong  đều  ở  mức rất thấp

Kết  quả  nghiên  cứu  của  Qing‐Song‐Bao  tại  Quảng Châu (Trung Quốc) cho thấy: tỷ lệ thành  công là 86%; tử vong 2,8% và bỏ trị 5,9% (13).

Tỷ lệ thất bại của lao phổi AFB(+) mới tại Cà  Mau  là  0,1%.  Năm  2008,  tại  Bạc  Liêu  0,4%  và  Kiên  Giang  0,7%...,  chung  cả  nước  dao  động  0,9% (2004) ‐ 1,1% (2007)(4,6). Như vậy, tỷ lệ thất  bại trong điều trị của lao phổi AFB(+) mới tại Cà  Mau thấp hơn một số tỉnh bạn và cả nước.

Kết  quả  điều  trị  tại  Bệnh  viện  Trường  đại  học Gondar, bắc Ethiopia (Châu Phi) cho thấy tỷ  lệ thành công chung là 29,5%; tử vong 10,1%; bỏ  trị 18,3% (1).

Kết  quả  điều  trị  lao  phổi  mới  tại  các  tỉnh  phía  Nam  năm  2008:  thành  công  là  93,3%.  Một  số  tỉnh  chung  quanh  Cà  Mau  có  kết  quả  như

Tỷ lệ tử vong của Cà Mau là 3,1%. Tỷ lệ này  thấp hơn Cần Thơ 3,9%, và Bạc Liêu 5,0% (2008).  So sánh cho thấy tỷ lệ tử vong lao phổi AFB(+)  mới của Cà Mau thấp hơn  mức  tử  vong  chung  của cả nước là 3,3% (2004 ‐ 2007)(4,6).

240

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tỷ  lệ  bỏ  trị  của  lao  phổi  AFB(+)  mới  tại  Cà  Mau là 0,2%. Tỷ lệ này năm 2008 của Kiên Giang  1,4%;  Bạc  Liêu  là  0,5%;  Cần  Thơ  là  1,5%...  tỷ  lệ  bỏ trị chung của cả nước dao động 1,4% (2004) ‐  1,8% (2007)(4,6). Như vậy, tỷ lệ bỏ trị tại Cà Mau  thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước và một số tỉnh  bạn

trọng  buộc  phải  ngưng  thuốc,  thời  gian  ngưng  thuốc tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng và cận  lâm sàng của bệnh nhân. Có thể ngưng một thời  gian  ngắn,  đôi  khi  phải  đổi  thuốc…Chính  những lý do này làm cho hiệu quả điều trị của  bệnh  nhân  có  tác  dụng  phụ  của  thuốc  không  cao. Do vậy, cần theo dõi sát tác dụng phụ của  thuốc để xử lý kịp thời nhằm hạn chế tối đa kết  quả điều trị không thành công của bệnh nhân(9).

Một số yếu tố liên quan đến kết quả điều  trị  không  thành  công  của  lao  phổi  AFB(+)  mới

Qua kết quả phân tích ở Bảng 2, Bảng 3 cho  thấy có mối liên quan giữa một số yếu tố với kết  quả  điều  trị  không  thành  công  của  lao  phổi  AFB(+) mới:

Về mức kinh tế gia đình và kết quả điều trị  lao: từ kết quả nghiên cứu nhận thấy bệnh nhân  lao  phổi  chung  có  mức  thu  nhập  xếp  vào  loại  nghèo tỷ lệ điều  trị  không  thành  công  là  11,8%  cao hơn nhóm bệnh nhân không nghèo có tỷ lệ  điều trị không thành công là 2,9%. Còn đối với  bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới: nhóm bệnh có  mức sống nghèo, tỷ lệ điều trị không thành công  là  12,3%.  Trong  khi  nhóm  có  mức  sống  không  nghèo, tỷ lệ điều trị không thành công là 2,6% (  p < 0,05). Để điều trị đạt kết quả tốt, ngoài yếu tố  quyết định là thuốc còn có các yếu tố quan trọng  khác  đó  là  dinh  dưỡng  và  nghỉ  ngơi.  Những  bệnh  nhân  thuộc  nhóm  có  mức  sống  thấp  (nghèo)  trong  các  bữa  ăn  thường  không  đảm  bảo đầy đủ dinh dưỡng. Mặt khác, nhóm bệnh  nhân này thường không được nghỉ ngơi hợp lý,  phải lao động sản xuất sớm khi chưa bình phục  hoàn toàn. Chính 2 lý do này làm cho việc điều  trị đạt kết quả không cao.

Về độ tuổi: có mối liên quan giữa độ tuổi và  kết quả điều trị thành công của lao phổi AFB(+)  mới. Nhóm tuổi < 60 tỷ lệ điều trị không thành  công  là  2,2%;  nhóm  tuổi  từ  60  trở  lên  có  tỷ  lệ  điều trị không thành công là 6,8%. Điều này có  thể  lý  giải  là  bệnh  nhân  lớn  tuổi  đáp  ứng  với  thuốc  điều  trị  kém  hơn,  tác  dụng  phụ  nhiều.  Hơn  nữa  người  lớn  tuổi  thường  tiềm  ẩn  hoặc  xuất hiện những bệnh kết hợp, thuốc kháng lao  có thể làm cho các bệnh này bộc phát hoặc nặng  thêm, có khi phải gián đoạn điều trị hoặc bệnh  nhân  tử  vong  (do  suy  kiệt  hoặc  bệnh  kết  hợp).  Chính  những  yếu  tố  này  làm  cho  tỷ  lệ  điều  trị  không thành công ở nhóm bệnh nhân > 60 tuổi  cao hơn.

Về tuân thủ trong điều trị: nhóm bệnh nhân  lao  phổi  AFB(+)  mới  tuân  thủ  điều  trị  có  tỷ  lệ  điều  trị  không  thành  công  là  3,1%,  trong  khi  nhóm  không  tuân  thủ  điều  trị  có  tỷ  lệ  không  thành  công  là  10,5%  (p  <  0,05).  Trong  điều  trị,  yếu tố tuân thủ rất quan trọng. Việc không tuân  thủ  điều  trị  rất  dễ  đưa  đến  bệnh  lao  kháng  thuốc. Lao kháng thuốc điều trị rất tốn kém mà  hiệu quả không cao(7). Tuy nhiên, do nhiều lý do,  số bệnh nhân không tuân thủ trong điều trị còn  cao và tỷ lệ thành công thấp. Do vậy, cần có sự  phối hợp giữa gia đình, nhân viên chống lao và  cộng  đồng  trong  giám  sát  việc  dùng  thuốc  của  bệnh nhân.

Về tác dụng phụ của thuốc: ở bệnh nhân lao  phổi  AFB(+)  mới,  nhóm  có  tác  dụng  phụ  của  thuốc,  tỷ  lệ  điều  trị  không  thành  công  lên  đến  đến 22,9% so với nhóm không có tác dụng phụ  của thuốc, (p < 0,05). Mặc dù kết quả nghiên cứu  này chỉ ghi nhận tỷ lệ tác dụng phụ của thuốc là  6,6%, thấp hơn nghiên cứu của các đồng nghiệp  ở  Bình  Định  là  13,8%  (8),  của  Nguyễn  Thị  Thủy  và  Đào  Uyên  là  34,92%(10),  nhưng  rõ  ràng  tác  dụng phụ của thuốc kháng lao làm cản trở quá  trình điều trị của bệnh nhân. Tùy theo mức độ,  tác  dụng  phụ  của  thuốc  có  thể  làm  bệnh  nhân  chán ăn, mệt mỏi, suy giảm sức đề kháng của cơ  thể,  nên  sự  tuân  thủ  điều  trị  của  bệnh  nhân  không  cao.  Nhưng  nếu  tác  dụng  phụ  nghiêm

241

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Kết quả điều trị lao phổi AFB (‐) mới

tế gia đình và tuân thủ trong điều trị với kết quả  điều  trị  không  thành  công  của  bệnh  nhân  lao  phổi mới.

Qua kết quả phân tích ở Bảng 1, cho thấy tỷ  lệ  hoàn  thành  điều  trị  chiếm  96,2%;  tử  vong  chiếm 2,9% và bỏ trị chiếm 0,9%.

KIẾN NGHỊ

Qua kết quả nghiên cứu đề tài: Đánh giá các  yếu tố tác động đến kết quả điều trị lao phổi mới  tại tỉnh Cà Mau năm 2009, chúng tôi có một số  kiến nghị sau:

Kết  quả  điều  trị  lao  phổi  AFB(‐)  mới  năm  2008 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có  tỷ lệ hoàn thành điều trị 92,2%; tử vong 5,4%; bỏ  trị 1,2%. Một số tỉnh: Bạc Liêu: hoàn thành điều  trị 89,4%; tử vong 7,2% và bỏ trị 0%; Kiên Giang:  hoàn thành điều trị 89,4%; tử vong 4,3% và bỏ trị  1,5%.

Như  vậy,  kết  quả  điều  trị  thành  công  lao  phổi AFB(‐) mới của Cà Mau tốt hơn khu vực và  một số tỉnh bạn.

Kết  quả  điều  trị  không  thành  công  có  mối  liên  quan  đến  tuổi,  tác  dụng  phụ  của  thuốc  và  mức kinh tế gia đình của bệnh nhân và tuân thủ  trong  điều  trị.  Vì  vậy,  trong  quản  lý,  Dự  án  phòng chống lao của tỉnh cần chú ý đến các đối  tượng  này  để  đảm  bảo  điều  trị  đạt  kết  quả  tốt  nhất  nhằm  duy  trì  và  tăng  tỷ  lệ  điều  trị  thành  công của bệnh nhân, góp phần từng bước khống  chế bệnh lao trong cộng đồng tại địa phương.

Đặc biệt các yếu tố nhóm tuổi tác dụng phụ  của  thuốc,  mức  kinh  tế  gia  đình,  tuân  thủ  điều  trị có liên quan đến kết quả điều trị không thành  công của lao phổi AFB(‐) mới và hoàn toàn phù  hợp  với  kết  quả  điều  trị  không  thành  công  của  lao phổi AFB(+) mới tại Cà Mau năm 2009. Điều  này  nói  lên  rằng  kết  quả  điều  trị  lao  phổi  mới  chung  (AFB(+)  và  AFB(‐))  có  liên  quan  đến  các  yếu tố như: nhóm tuổi, tác dụng phụ của thuốc,  mức kinh tế gia đình, tuân thủ trong điều trị

Mức kinh tế gia đình ảnh hưởng đến kết quả  điều  trị,  bệnh  nhân  thuộc  nhóm  nghèo  có  tỷ  lệ  điều trị không thành cao. Do vậy các ngành chức  năng  và  cộng  đồng  cần  có  những  giải  pháp  cụ  thể giúp đỡ các đối tượng này khi họ mắc bệnh  lao  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể kết luận

Belay  T,  Abebe  M,  Assegedech  B,  et  al  (2009),  Treatment  outcome  of  tuberculosis  patients  at  Gondar  University  Teaching  Hospital,  Northwest  Ethiopia.  A  five  –  year  retrospective study, BCM Pulic Health. 2009; 9: 371.

sau:

Kết quả điều trị lao phổi mới tại Cà Mau

2. Chương  trình  chống  lao  quốc  gia  (2008),  Báo  cáo  tổng  kết  Chương trình chống lao quốc gia năm 2007 và phương hướng  hoạt động năm 2008.

3. Chương trình chống lao quốc gia (2008), Hướng dẫn công tác  truyền thông – Huy động xã hội trong Chương trình chống lao  quốc gia, tr. 12 ‐16.

Kết  quả  điều  trị  chung:  Tỷ  lệ  điều  trị  thành  công là 96,5%. Tỷ lệ lệ điều trị không thành công  là:  3,5%  (tử  vong  3,0%;  thất  bại  0,1%;  bỏ  trị  0,4%).

4. Chương trình chống lao quốc gia (2009), Hội nghị tổng kết dự  án phòng, chống lao giai đoạn 2007‐2008. Tổng kết hoạt động  chỉ đạo tuyến 2008 và sinh hoạt khoa học. Hà Nội 01/2009.   5. Chương trình chống lao quốc gia (2009), Hướng dẫn quản lý

bệnh lao, Nxb Y học, Hà Nội.

Kết quả điều trị lao phổi AFB (+) mới: Tỷ lệ điều  trị  thành  công  là  96,6%.  Tỷ  lệ  điều  trị  không  thành công là: 3,4% (thất bại 0,1%, tử vong 3,1%;  bỏ trị 0,2%).

6. Chương  trình  chống  lao  quốc  gia  (2010),  Báo  cáo  tổng  kết  Chương trình chống lao năm 2009 và đánh giá giữa kỳ 2007‐ 2011.

Kết quả điều trị lao phổi AFB (‐) mới: Tỷ lệ hoàn  thành  điều  trị  là  96,2%.  Tỷ  lệ  điều  trị  không  thành công là: 3,8% (tử vong 2,9%; bỏ trị 0,9%).

7. Dự án phòng chống lao quốc gia – Bệnh viện Lao và Bệnh phổi  trung ương, Bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch  (2008),  “Tình  hình  bệnh lao và công tác chống lao tại Việt Nam giai đoạn 2007 –  2011”, Hội thảo tăng cường công tác phòng chống lao khu vực  Đồng bằng sông Cửu Long, tr. 10 – 11.

Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị lao  phổi  AFB(+)  mới  và  AFB(‐)  mới:  có  mối  liên  quan giữa độ tuổi, tác dụng phụ của thuốc, kinh

8. Đinh  Văn  Thông,  Đỗ  Phúc  Thanh,  Nguyễn  Anh  Tuấn  và  cs  (2009),  “Nghiên  cứu  đặc  điểm  tình  hình  tác  dụng  phụ  thuốc  kháng  lao  trên  bệnh  nhân  điều  trị  lao  tại  bệnh  viện  Lao  và  Bệnh phổi Bình Định”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học bệnh phổi

242

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

toàn  quốc  lần  thứ  III,  Hội  lao  bệnh  phổi  Việt  Nam,  tr.  525  –  532.

9. Hoàng Long Phát (2003), Thuốc chữa bệnh Lao, Nxb Y Học Hà

11. Qing  ‐  Song  B,  Yu  –  Hua  D,  Ci  –  Yong  L  (2007),  Treatment  outcome of new pulmonary tuberculosis in Guangzhou, China  1993 – 2002: a register‐based cohort study, BCM Public Health,  2009; 9: 371.

Nội, 2003.

12. Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Lao (2002), Bệnh học Lao,

Nxb Y học, Hà Nội, tr. 68 – 72.

13. WHO (2008), Tuberculosis control in the Western Pacific, p. XI

– XV, 1 ‐ 24

10. Nguyễn  Thị  Thủy,  Đào  Uyên  (2009),  “Đánh  giá  tác  dụng  không  mong  muốn  của  thuốc  chống  lao  và  cách  xử  trí  trên  bệnh nhân điều trị lao tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung  ương”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học bệnh phổi toàn quốc lần thứ  III, Hội lao bệnh phổi Việt Nam, tr. 544 – 553.

243

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TỈ LỆ BỆNH ĐIẾC NGHỀ NGHIỆP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN   TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN TÀU THỦY S.G   TPHCM NĂM 2011

Huỳnh Tấn Tiến*, Huỳnh Bảo Trân**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Tại Tp.HCM trong những năm gần đây, điếc nghề nghiệp là bệnh nghề nghiệp được phát hiện  nhiều nhất, nghiên cứu tỉ lệ bệnh điếc nghề nghiệp và các yếu tố liên quan tại công ty TNHH Tàu Thủy S.G  năm 2011 nhằm đánh giá bệnh điếc nghề nghiệp và các mối liên quan để có biện pháp phòng bệnh một cách chủ  động hiệu quả.

Mục  tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh điếc nghề nghiệp và các yếu tố liên quan ở công nhân làm việc trong môi

trường có tiếng ồn cao tại công ty TNHH một thành viên công nghiệp tàu thuỷ S.G.

Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được tiến hành trên 324 công nhân làm việc trong môi trường

có tiếng ồn cao tại công ty TNHH một thành viên công nghiệp tàu thuỷ S.G 6 tháng đầu năm 2011.

Kết quả: Có 271 công nhân tiếp xúc với tiếng ồn > 85 dBA

Mức độ ô nhiễm tiếng ồn khá cao với 85,2% công nhân làm việc tại 11 bộ phận tiếp xúc với môi trường  tiếng ồn > 85 dBA trong tổng số 19 bộ phận của công ty. Phát hiện 20 người ĐNN, chiếm tỉ lệ 7,3%. Kiến thức  chung  đúng  thấp,  chiếm  49,6%.  Trong  số  đó,  kiến  thức  “ĐNN  không  thể  chữa  được”  đúng  là  thấp  nhất  (69,6%). 100% công nhân được phát nút tai chống ồn nhưng tỉ lệ sử dụng bảo hộ chống ồn đúng thấp, chiếm  49,6%.

Nguyên nhân chủ yếu công nhân không thường xuyên sử dụng nút tai chống ồn là: chỉ đeo khi quá ồn

(80,1%), bảo hộ chống ồn gây khó chịu (43,3%), cản trở công việc (41,9%).

Khuyến nghị : Cần phải tổ chức tập huấn, tuyên truyền và kiểm tra để công nhân tự giác mang các phương

tiện chống ồn để phòng ĐNN hiệu quả hơn.

Từ khóa: điếc nghề nghiệp, môi trường tiếng ồn trên 85 dBA, nút tai chống ồn, tập huấn tuyên truyền và

kiểm tra, phòng ngừa điếc nghề nghiệp.

ABSTRACT

OCCUPATIONAL DEAFNESS AND RELATED FACTORS IN S.G. SHIPYARD COMPANY IN THE  FIRST SIX MONTHS 2011

Huynh Tan Tien, Huynh Bao Tran

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 245‐ 250

Background: Occupational deafness has the highest proportion among the occupational diseases in Ho Chi  Minh city. The research on the percentage of the disease and its relationship with employees was performed in the  first six months 2011 in order to prevent the occupational deafness in the shipyard companies.

Objectives: Find out percentage of the disease and its related factors to prevent the occupational deafness

effectively.

Methods: A cross‐sectional study was conducted on 324 employees who work with noise in the shipyard

* Trung tâm bảo vệ sức khỏe lao động và mội trường TPHCM, **BV đa khoa quận 8 TPHCM  Email: drhuynhtantien@yahoo.com  Tác giả liên lạc: TS Huỳnh Tấn Tiến   ĐT: 0903357523

244

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  company, in the first six months 2011.

Result: There are 271 of 324 employees work with noise exceeds 85 dBA, in 11 /19 workplaces.

There  are  20  patients  with  the  percentage  7.3%.  The  correct  general  knowledge  is  low  (49.6%)  while  the  correct knowledge of “occupational deafness can’t cure “ is the lowest (69.6%). 100% employees receive hearing  protections, but only 49.6 % using correctly. 80.1% employees wear hearing protections only when the noise is  too loud, 43.3% hearing protections cause annoyance, 41.1% of them make working not easy.

Comment:: Employees must be educated, communicated and checked gradually so that all of them can use

hearing protections effectively.

Keywords: Occupational deafness, noise exceeds 85 dBA, hearing protections, be educated, communicated

and checked, prevent the occupational deafness.  ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành  tại Công ty TNHH một thành viên công nghiệp  tàu thủy SG 6 tháng đầu năm 2011.

Công  nhân  trực  tiếp  sản  xuất,  tiếp  xúc  với  tiếng ồn (trên 85 dBA) của Công ty TNHH một  thành viên công nghiệp tàu thuỷ S.G.

Nghiên cứu được tiến hành với kỹ thuật lấy  mẫu toàn bộ trên những công nhân trực tiếp sản  xuất tiếp xúc với tiếng ồn bao gồm 331 lao động.

Phương pháp nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Công  nhân  công  ty  TNHH  một  thành  viên  công nghiệp tàu thuỷ SG làm việc trên các phân  xưởng  tiếp  xúc  tiếng  ồn  đang  hoạt  động  bình  thường.

Hiện  có  28  bệnh  nghề  nghiệp  được  Nhà  nước  công  nhận  và  được  bảo  hiểm.  Ô  nhiễm  tiếng  ồn  là  vấn  đề  cần  được  quan  tâm  vì  môi  trường  ồn  và  bệnh  điếc  nghề  nghiệp  vẫn  còn  nhiều. Không chỉ gây ra sự khó chịu tức thời tại  nơi  làm  việc,  tiếng  ồn  còn  ảnh  hưởng  đến  môi  trường,  hoạt  động  sản  xuất  và  đặc  biệt  là  sức  khoẻ lâu dài của người lao động. Hiện nay, theo  Hội chống tiếng ồn Thế giới số người lao động  làm việc trong các ngành nghề, cơ sở sản xuất có  cường độ tiếng ồn cao đang ngày càng gia tăng  với tỷ lệ lớn. Tại Tp.HCM trong những năm gần  đây, điếc nghề nghiệp là bệnh nghề nghiệp được  phát hiện nhiều nhất. Nghiên cứu tỉ lệ bệnh điếc  nghề nghiệp và các yếu tố liên quan tại công ty  TNHH  Tàu  Thủy  S.G  năm  2011  nhằm  nghiên  cứu bệnh điếc nghề nghiệp và các mối liên quan  để có biện pháp phòng bệnh một cách chủ động.

Làm việc trên 6 tháng.

Mục tiêu nghiên cứu

Đồng ý tham gia nghiên cứu .

Mục tiêu tổng quát

Có  khả  năng  trả  lời  tất  cả  các  câu  hỏi  được

phỏng vấn.

Đồng  ý  cho  nhóm  nghiên  cứu  đo  thính  lực

Xác định tỉ lệ bệnh điếc nghề nghiệp và các  yếu  tố  liên  quan  tại  Công  ty  TNHH  một  thành  viên công nghiệp tàu thuỷ S.G 6 tháng đầu năm  2011.

sơ bộ và hoàn chỉnh nếu được yêu cầu.

Mục tiêu chuyên biệt

Tiêu chuẩn loại trừ

Xác định cường độ tiếng ồn tại Công ty

Công  nhân  công  ty  TNHH  một  thành  viên

công nghiệp tàu thủy SG

Xác định tỉ lệ công nhân bị điếc nghề nghiệp

tại Công ty

Không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Xác định mối liên quan giữa tỉ lệ điếc nghề

Làm việc dưới 6 tháng.

nghiệp và các yếu tố liên quan.

Vắng  mặt  vào  thời  điểm  khảo  sát  sẽ  được  yêu cầu đến TTBVSKLĐMT phỏng vấn và khám

245

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  thính lực. Nếu sau khi mời 2 lần mà công nhân  đó không đến sẽ bỏ qua.

Đặc điểm về kiến thức:  Bảng 4: Kiến thức công nhân:

Kiến thức Tần số Tỉ lệ (%)

KẾT QUẢ

Làm việc trong môi trường ồn lâu ngày gây ĐNN Đúng Sai 252 24 91,3 8,7

Đặc tính yếu tố môi trường:

Đúng 192 69,6

Bệnh ĐNN không thể chữa được Sai 84 30,4

Nghiên cứu trên 324 công nhân làm việc tại  19  bộ  phận  tại  Công  ty  TNHH  một  thành  viên  công nghiệp tàu thuỷ SG 6 tháng đầu năm 2011.  Tỉ lệ ĐNN và các yếu tố liên quan trên 276 công  nhân tiếp xúc với tiếng ồn trên 85dBA.

Đúng 253 91,7 ĐNN có thể phòng được Sai 23 8,3

Đúng 219 79,3

Bảng 1: Phân bố độ ồn theo công nhân tiếp xúc (n =  324)

Thiết bị bảo hộ phòng được ĐNN Sai 57 20,7 Độ ồn (dBA)

Đúng 137 49,6 Kiến thức chung Sai 139 50,1 ≤ 85 > 85 Tổng Tần số 48 276 324 Tỉ lệ (%) 14,8 85,2 100

Nhận  xét:  Tỉ  lệ  công  nhân  có  kiến  thức  chung đúng là 49,6%, thấp hơn kiến thức chung  sai.

Nhận  xét:  Mẫu  ban  đầu  có  324  công  nhân.  Trong  đó  85,2%  công  nhân  làm  việc  trong  môi  trường  >  85  dBA.  14,8%  công  nhân  làm  việc  trong môi trường ≤ 85 dBA

Bảng 2: Phân bố độ ồn tại các bộ phận (n = 19)

Đặc  điểm  về  thực  hành  sử  dụng  bảo  hộ  chống ồn

100% công nhân được cấp bảo hộ chống ồn.  100% được cấp nút tai, 0,4% được cấp cả nút tai  và chụp tai.

Bộ phận

≤ 85 > 85 Tổng Tần số 8 11 19 Tỉ lệ (%) 42,1 57,9 100

Nhận  xét:  Trong  số  19  điểm  đo  tại  các  bộ  phận,  57,9%  vượt  tiêu  chuẩn  cho  phép,  chỉ  có  42,1% đạt tiêu chuẩn.

Kết quả bệnh nghề nghiệp   Bảng 3: Tình hình điếc nghề nghiệp   Tỉ lệ (%) Điếc nghề nghiệp Tần số 7,3

Tổng 20 Tổng 276

Biểu đồ 2: Thói quen sử dụng thiết bị chống ồn trong  công nhân

Nhận  xét:  Tỉ  lệ  công  nhân  sử  dụng  thiết  bị  bảo  hộ  thường  xuyên  và  không  thường  xuyên  xấp xỉ nhau.

Nhóm không bao giờ sử dụng có số lượng ít

nhất.

Biểu đồ 1: Kết quả khám bệnh ĐNN

Bảng 5: Mối liên quan giữa tuổi đời & ĐNN

Nhận  xét: Số lượng công nhân ĐNN chiếm

7,3% tổng số công nhân được khám.

P Tuổi Tổng χ2 Điếc nghề nghiệp Tỉ lệ (%) Tần số

246

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng 20 256 276

22,2 p < 0,05

Nhận  xét:  Sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống kê trong mối liên quan giữa tỉ lệ ĐNN và  trình độ học vấn (p > 0,05).

20 - 30 31 – 40 41 – 50 51 – 60 Tổng 5 5 6 4 20 2,8 10,0 19,4 28,6 7,2 181 50 31 14 276

BÀN LUẬN

Độ ồn trong môi trường làm việc:

Nhận xét:  Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  (p < 0,05) trong mối liên quan giữa tuổi đời và tỉ  lệ điếc nghề nghiệp. Sự khác biệt có tính khuynh  hướng,  những  người  độ  tuổi  từ  20‐30  tuổi  có  nguy  cơ  bị  ĐNN  khi  tiếp  xúc  tiếng  ồn  là  2,8%,  độ tuổi 31‐40 là 10,0%, độ tuổi 41‐50 là 19,4%, độ  tuổi 51‐60 là 28,6%.

Bảng 6: Mối liên quan giữa tuổi nghề và tỉ lệ ĐNN

Kết  quả  có  11/19  điểm  (58%)  có  cường  độ  tiếng  ồn  vượt  TCCP  (>85dBA).  Số  công  nhân  làm việc tại các bộ phận có tiếng ồn vượt chuẩn  khá  cao.  Nghiên  cứu  của  Huỳnh  Chung  tại  các  công ty in mức độ ô nhiễm tiếng ồn là 50%,  số  công nhân tiếp xúc là 56%. Theo nghiên cứu của  Nguyễn  Thị  Thoại  và  cộng  sự  tại  nhà  máy  xi  măng  Hòn  Chông,  tỉ  lệ  này  là  37,1%(4).  Nghiên  cứu của Đặng Xuân Hùng ghi nhận được 64%.

Tổng P χ2 Tuổi nghề

39,2 p < 0,05

Qua  khảo  sát  thực  tế  tại  cơ  sở  nhận  thấy  rằng  mặc  dù  mức  độ  ô  nhiễm  tiếng  ồn  và  tỉ  lệ  công nhân tiếp xúc tiếng ồn cao nhưng công việc  làm tại cơ sở mang tính thời vụ, không liên tục  trong  năm  và  các  bộ  phận  làm  việc  theo  công  đoạn nên tiếp xúc tiếng ồn không liên tục.

1 – 5 6 – 10 11 – 15 16 – 20 ≥ 21 Tổng Điếc nghề nghiệp Tần số 5 4 2 3 6 20 Tỉ lệ 3,2 5,7 12,5 15,0 50 7,2 158 70 16 20 12 276

Đặc tính mẫu nghiên cứu: N = 276

Nghiên cứu trên 276 công nhân (85,2%) trực

tiếp làm việc với tiếng ồn vượt tiêu chuẩn.

Nhận xét:  Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  (p < 0,05) trong mối liên hệ giữa tuổi nghề và tỉ  lệ  ĐNN.  Sự  khác  biệt  có  tính  khuynh  hướng,  công  nhân  có  tuổi  nghề  1‐5  năm  có  nguy  cơ  bị  ĐNN là 3,2%, 6‐10 năm 5,7%, 11‐15 năm 12,5%,  16‐20 năm 15%, ≥ 21 năm 50%.

Bảng 7: Mối liên quan giữa thời gian tiếp xúc và tỉ lệ  ĐNN:

P Tuổi Tổng χ2 Điếc nghề nghiệp Tần số Tỉ lệ(%)

Tuổi đời trung bình của công nhân là 31 tuổi,  khá  trẻ.  Tuổi  nghề  trung  bình  khá  thấp  là  7,2  năm, trong đó nhóm 1‐5 năm chiếm đa số 57,3%.  100%  công  nhân  tham  gia  nghiên  cứu  là  nam.  Dân tộc kinh chiếm đa số với tỉ lệ 97,5%. Trình  độ học vấn chiếm ưu thế là trình độ cấp 3, chiếm  71,4%. Đứng thứ hai là cấp 2 (8,3%), trên cấp 3  chiếm 8,3%. Tỉ lệ công nhân tiếp xúc tiếng ồn 8  giờ một ngày là 60%.

8,5 p < 0,05 8 < 8 Tổng 18 2 20 11,0 1,8 7,2 163 113 276

Tỉ lệ ĐNN

Nhận xét:  Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  (p<  0,05)  trong  mối  liên  quan  giữa  tỉ  lệ  điếc  và  thời gian tiếp xúc tiếng ồn. Nhóm tiếp xúc 8 giờ  có  nguy  cơ  bị  ĐNN  là  11,0%,  cao  hơn  nhóm  <  8giờ, có nguy cơ là 1,8%.

ĐNN Tổng P χ2

Tỉ lệ ĐNN là 7,3%. Tỉ lệ này có khác với một  số tác giả khác, Lê Trung(3) nghiên cứu tại 11 nhả  máy  với  tỉ  lệ  ĐNN  là  10,9%,  Nguyễn  Thị  Toán  nghiên cứu trên 1498 công nhân với tỉ lệ ĐNN là  10%(5). Và kết quả này thấp hơn nghiên cứu của  Huỳnh  Chung  (16,5%),  và  Nguyễn  Đăng  Quốc  Chấn (17%). Điều này được lý giải là tỉ lệ ĐNN  ngoài việc do tiếp xúc tiếng ồn mà nó còn thay

2,2 p > 0,05 5 51 197 1 5 12

23 21 2

Bảng 8: Mối liên quan giữa học vấn và tỉ lệ ĐNN:   Trình độ học Không ĐNN vấn 4 Cấp 1 46 Cấp 2 Cấp 3 185 Từ cấp 3 trở lên

247

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

môi trường tiếng ồn > 85 dBA trong tổng số 19  bộ phận của công ty.

Phát hiện 20 người ĐNN, chiếm tỉ lệ 7,3%.

Nghiên cứu Y học  đổi phụ thuộc vào một số đặc tính của mẫu như  tuổi  đời,  tuổi  nghề,  mức  độ  tiếp  xúc  tiếng  ồn,  mức  độ  sử  dụng  thiết  bị  bảo  vệ  chống  ồn  và  ngành nghề .

Tỉ lệ ĐNN và các yếu tố liên quan:

Có mối liên hệ giữa tuổi đời, tuổi nghề, thời

gian tiếp xúc và tỉ lệ ĐNN .

‐  ĐNN  tập  trung  ở  nhóm  tuổi  từ  41  –  50,  chiếm 30% công nhân và có tính khuynh hướng.

‐  ĐNN  tập  trung  ở  nhóm  tuổi  nghề  ≥  21  năm, chiếm 30% và cũng có tính khuynh hướng.

‐ ĐNN chiếm đa  số  khi  công  nhân  tiếp  xúc

tiếng ồn 8 giờ/ngày, chiếm 90%.

‐ Không có mối liên hệ giữa trình độ học vấn

và tỉ lệ ĐNN.

‐  100%  công  nhân  được  phát  nút  tai  chống  ồn  nhưng  tỉ  lệ  sử  dụng  bảo  hộ  chống  ồn  đúng  thấp, chiếm 49,6%.

ĐỀ XUẤT

Đối với ngành y tế:

Tỉ lệ ĐNN và các yếu tố liên quan: Tuổi đời  có mối liên quan với tỉ lệ ĐNN, sự khác biệt có ý  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05)  và  có  tính  khuynh  hướng.  Tuổi  nghề  có  mối  liên  quan  với  tỉ  lệ  ĐNN, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)  và  có  tính  khuynh  hướng,  tích  lũy  theo  thời  gian, càng tiếp xúc tiếng ồn lâu ngày nguy cơ bị  ĐNN càng tăng. Các nghiên cứu trước đây đều  ghi  nhận  mối  liên  quan  giữa  giới  tính  và  tỉ  lệ  ĐNN.  Tuy  nhiên  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  100%  công  nhân  là  nam.  Sự  khác  biệt  về  thời  gian tiếp xúc tiếng ồn trong ngày và tỉ lệ ĐNN  có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), những người làm  việc  tiếp  xúc  tiếng  ồn  8  giờ  trong  ngày  dễ  bị  ĐNN. Không có sự khác biệt về trình độ học vấn  và tỉ lệ ĐNN, những người có trình độ học vấn  cao  hay  thấp  đều  bị  ĐNN  như  nhau.  Sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  kiến  thức  chung về bệnh ĐNN và tỉ lệ ĐNN (p > 0,05).

Triển khai tốt các qui định hiện hành về môi  trường  lao  động,  vệ  sinh  an  toàn  lao  động  và  chăm sóc sức khỏe người lao động .

Tỉ  lệ  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  trong  công nhân

Phối hợp liên ngành trong việc quản lý, kiểm  tra thường xuyên các công ty, cơ sở nghi ngờ về  mức độ ô nhiễm tiếng ồn và chấp hành các quy  định Nhà nước về an toàn lao động.

Tỉ lệ kiến thức chung đúng thấp (49,6%), tỉ lệ  kiến thức đúng về “bệnh ĐNN không thể chữa  được”  thấp  (69,6%).  Do  đó  cần  nâng  cao  kiến  thức cho NLĐ trong đó tập huấn cần chú trọng  về  kiến  thức  ĐNN  không  thể  chữa  được  dù  ngưng tiếp xúc tiếng ồn .

Tổ  chức  tập  huấn  định  kỳ  cho  các  cơ  sở  về  kiến thức, quy định an toàn lao động, cách thức  và  tầm  quan  trọng  của  việc  phòng  ngừa  bệnh  ĐNN.

Đối với các cơ sở sử dụng lao động:

Tuân thủ các quy định về an toàn lao động,

Công  nhân  100%  đều  được  cấp  bảo  hộ  chống  ồn  nhưng  chỉ  49,6%  công  nhân  sử  dụng  thường  xuyên.  Điều  này  chứng  tỏ  đã  có  khó  khăn trong việc sử dụng thiết bị bảo vệ tai.

tổ chức khám sức khoẻ định kỳ

KẾT LUẬN

Nghiên  cứu  được  tiến  hành  trên  324  công  nhân  trong  đó  có  271  công  nhân  tiếp  xúc  với  tiếng ồn > 85 dBA .

Tổ chức tập huấn an toàn lao động định kỳ,  nâng  cao  kiến  thức  về  bệnh  ĐNN,  tầm  quan  trọng  và  cách  sử  dụng  bảo  hộ  chống  ồn  đúng  cách cho công nhân.

Qua nghiên cứu, chúng tôi đã rút ra một số

Thường  xuyên  kiểm  tra,  nhắc  nhở  công

kết luận như sau:

nhân sử dụng bảo hộ chống ồn.

Lắng nghe ý kiến đóng góp của công nhân,

Mức  độ  ô  nhiễm  tiếng  ồn  khá  cao:  85,2%  công nhân làm việc tại 11 bộ phận tiếp xúc với

quan tâm cải thiện điều kiện sản xuất.

248

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

2.

Đối với người lao động:

3.

Industrial  Injuries  Advisory  Council  (2002).  Occupational  deafness.  Department  for  work  and  pensions  social  security  Administration. [cited 25].  Lê Trung (1997). 21 bệnh nghề nghiệp được bào hiểm: Hà Nội:  Bộ Y Tế, Viện Y Học Lao động và Vệ Sinh môi trường.

Hiểu được tầm quan trọng của việc tuân thủ  quy định an toàn lao động, vai trò phòng ngừa  ĐNN, và tự giác bảo vệ sức khoẻ cho bản thân.

4. Nguyễn Thị Thoại, Trịnh Hồng Lân và Cộng sự (2006). Thực  trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh điếc nghề nghiệp  của  công  nhân  nhà  máy  xi  măng  Hòn  Chông  huyện  Kiên  Lương  tỉnh  Kiên  Giang.  Tạp  chí  Y  học  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh. 10:173 ‐ 78.

Hiểu  vai  trò  của  bảo  hộ  chống  ồn  và  thực  hành sử dụng bảo hộ chống ồn đúng cách  mỗi  khi tiếp xúc tiếng ồn khi làm việc.

Quan tâm đến điều kiện lao động và mạnh

dạn đề xuất những cải thiện hữu dụng.

5. Nguyễn Thị Toán (2003). Tình hình sức nghe của công nhân tại  một số cơ sở vật liệu xây dựng. Hội Nghị khoa học quốc tế Y  học lao động và Vệ sinh môi trường lần 1 nhà xuất bản Y học.  p. 194.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Huỳnh Tấn Tiến (2007). Bệnh điếc nghề nghiệp.Tài liệu nâng  cao  sức  khỏe  nơi  làm  việc.  Trung  tâm  sức  khỏe  lao  động  và  môi trường: Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh; 2007. p. 37 ‐ 38.

249

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ – THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA ĐUỐI NƯỚC  CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ DƯỚI 5 TUỔI   TẠI HUYỆN PHÙ CỪ –TỈNH HƯNG YÊN, NĂM 2011

Doãn Ngọc Định*, Trần Thị Thu Thủy*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đuối nước vẫn đang là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng, là một trong những nguyên  nhân chính gây tử vong, thương tật cho trẻ em. Đoàn Đào là một xã vùng đồng bằng chiêm trũng, địa hình của  xã có nhiều ao hồ, nguy cơ đuối nước luôn thường trực với trẻ nhỏ, đặc biệt là với trẻ dưới 5 tuổi.

Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành của người chăm sóc trẻ chính về phòng chống đuối nước

cho trẻ em dưới 5 tuổi và xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về phòng chống đuối nước.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả cắt ngang. Thông tin thu  thập bằng phỏng vấn bảng hỏi định lượng với 216 người chăm sóc chính của trẻ dưới 5 tuổi kết hợp với bảng  kiểm quan sát hộ gia đình tại xã Đoàn Đào, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên từ 11/2011 đến 5/2012, số liệu được  nhập với phần mềm Epidata 3.1 và được phân tích với phần mềm SPSS 16.0.

Kết quả: Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức đạt về phòng chống đuối nước còn thấp, chỉ đạt 13,9%, tỷ  lệ có thực hành đạt về phòng chống đuối nước là 24,5% trong đó có thực hành rào chắn bờ ao kênh mương là  27,7%, lập cửa ngăn an toàn là 25,7%.

Kết  luận: Tỷ lệ người chăm sóc chính của trẻ có kiến thức, thực hành đạt về phòng chống đuối nước còn  thấp. Kết quả nghiên cứu gợi ý cần phải thiết lập một chương trình truyền thông về các biện pháp phòng chống  đuối nước cho trẻ dưới 5 tuổi.

Từ khóa: Đuối nước, trẻ em dưới 5 tuổi, phòng chống đuối nước

ABSTRACT

KNOWLEDG, ATTITUDE AND PRACTICE OF PRIMARY CAREGIVER OF CHILDREN UNDER 5  YEARS OLD ON DROWNING PREVENTION IN DOAN DAO COMMUNE, PHU CU DISTRICT,  HUNG YEN PROVINCE

Doan Ngoc Dinh , Tran Thi Thu Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 251 ‐ 257

Background:  Drowning  is  a  major  global  public  health  problem  and  a  leading  cause  of  death  and  injury  among children. Doan Dao is located in a low‐lying delta area. The terrain of commune has many water bodies  which are an important risk, the risk of drowning for young children always standing, especially with children  under 5 years old.

Objectives: Describe the knowledge, attitude and practice of primary caregivers of children under 5 years

old and identify some elements related factors

Methods: A cross‐sectional study design was carried out. The quantitative information was collected from  216 primary caregivers by using questionaires and checklists for household observation in Doan Dao commune,

* Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội  Tác giả liên lạc: CN. Doãn Ngọc Định   ĐT: 01696923897  Email: doandinhytc@gmail.com

Phu Cu district, Hung Yen province from 11/2011 to 5/2012.

250

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Result:  The  subjects  with  good  knowledge‐  practice  of  drowning  prevention  was  low,  only  13,9%  had

adequate knowledge on drowning prevention, the rate of good practice on drowning prevention was 24,5%.

Conclusion:  The  rate  of  caregivers  with  good  knowledge‐practice  on  drowning  prevention  was  low.  The  findings suggest the need of a communication program on measures of drowning prevention for children under 5  years old in the commune

Keywords: Drowning, children under 5 years old, prevention of drowning.

ĐẶT VẤN ĐỀ

trẻ  lứa  tuổi  này,  do  đó  sự  hiểu  biết  và  thái  độ  của người trông trẻ về phòng chống đuối nước  cho trẻ đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ sự  an toàn cho trẻ.

Mục tiêu nghiên cứu

Mô  tả  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  của  người chăm sóc trẻ chính về phòng chống đuối  nước cho trẻ em dưới 5 tuổi và xác định một số  yếu  tố  liên  quan  đến  kiến  thức,  thực  hành  về  phòng chống đuối nước.

Đuối nước ở trẻ em là vấn đề y tế công cộng  đáng quan tâm trên toàn thế giới. Theo báo cáo  về  thực  trạng  đuối  nước  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO)  năm  2008  thì  đuối  nước  là  một  trong 13 nguyên nhân gây tử vong cho trẻ dưới  19  tuổi(9),  hàng  năm  toàn  thế  giới  có  khoảng  2  triệu  trẻ  tử  vong  do  đuối  nước.  Số  liệu  từ  các  nghiên cứu được thực hiện tại Đông Nam Á cho  thấy  đuối  nước  chiếm  90%  tổng  số  tử  vong  do  thương tích ở trẻ em từ 1‐4 tuổi.(9)

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên  cứu  được  thực  hiện  bằng  phương  pháp cắt ngang và được tiến hành tại 6 thôn của  xã Đoàn Đào, Phù Cừ, Hưng Yên

Cỡ  mẫu  nghiên  cứu  được  tính  theo  công  thức chọn mẫu của nghiên cứu cắt ngang, tổng  số  có  216  người  chăm  sóc  trẻ  dưới  5  tuổi  được  chọn vào nghiên cứu

Tại  Việt  Nam,  vấn  đề  đuối  nước  ở  trẻ  em  chưa  bao  giờ  lại  nhận  được  sự  quan  tâm  của  cộng đồng như hiện nay. Theo thống kê của Bộ  Y tế trong năm 2007 cả nước đã có 3786 trường  hợp trẻ tử vong do đuối nước (2). Mặc dù đây chỉ  là những số liệu thu thập chưa thực sự đầy đủ  nhưng  nó  cũng  thể  hiện  một  thực  tế  đáng  lo  ngại về vấn đề đuối nước ở trẻ em. Cũng giống  như nhiều quốc gia khác, tần số các trường hợp  tử vong do đuối nước phân bố cao nhất ở nhóm  trẻ dưới 5 tuổi chiếm tới 48% các trường hợp tử  vong do đuối nước của trẻ dưới 19 tuổi.(1)

Tiêu  chuẩn  lựa  chọn  đối  tượng  tham  gia  nghiên cứu là người chăm sóc chính của trẻ, có  thời gian trông nom, chăm sóc trẻ nhiều nhất, đủ  sức  khỏe  trả  lời  phỏng  vấn  và  tự  nguyện  tham  gia nghiên cứu

Điều  tra  viên  sử  dụng  bảng  hỏi  để  phỏng  vấn  người  chăm  sóc  trẻ  và  bảng  kiểm  để  quan  sát thực hành phòng chống đuối nước tại hộ gia  đình

Đặc  điểm  của  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu   Bảng 1: Các đặc tính của người chăm sóc trẻ

Đoàn Đào là một xã của huyện Phù Cừ, tỉnh  Hưng  Yên  với  dân  số  là  10.042  người  trong  đó  tổng  số  trẻ  dưới  5  tuổi  năm  2010  của  xã  là  672  cháu.  Nghề  nghiệp  chính  của  người  dân  trong  xã là làm ruộng và chăn  nuôi.  Vùng  có  mật  độ  ao, hồ khá cao  với  diện  tích  chiếm  tới  gần  20%  diện tích đất tự nhiên của xã. Theo thống kê của  trạm y tế xã trong 3 năm trở lại đây toàn xã có 5  trường  hợp  trẻ  dưới  19  tuổi  tử  vong  do  đuối  nước trong đó có 3 trường hợp trẻ dưới 5 tuổi tử  vong do tai nạn đuối nước đã được ghi nhận.

Nhóm  trẻ  dưới  5  tuổi  là  nhóm  dễ  bị  tổn  thương  bởi  tai  nạn  thương  tích  nói  chung  và  đuối nước nói riêng do đặc điểm tâm sinh lý của

Đặc tính Giới tính Nam Nữ Trình độ học vấn Mù chữ Biết đọc, viết Tần số 72 144 1 4 Tỷ lệ (%) 33,3 66,7 0,5 1,9

251

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Nhận biết về địa điểm xảy ra đuối nước của  người  chăm  trẻ  phù  hợp  với  đặc  điểm  của  địa  bàn nghiên cứu khi gần 20% diện tích tự nhiên  của xã là ao, hồ, sông, kênh

Bảng 3: Kiến thức về nguyên nhân xảy ra đuối nước  Tỷ lệ 66,7

Nguyên nhân NCST thiếu cẩn thận/thiếu chú ý Tần số 144 Đùa nghịch xô đẩy nhau 118 54,6

Trẻ không biết bơi Trẻ không chú ý Không có rào chắn 116 107 87 53,7 49,5 40,3 Trẻ không có người chăm sóc 78 36,1

67 50 31,0 23,1

Nghiên cứu  được  tiến  hành  trên  216  hộ  gia  đình  có  trẻ  em  dưới  5  tuổi  trong  mẫu  nghiên  cứu.  Tỷ  lệ  nữ  trong  nghiên  cứu  cao  hơn  nam  (66,7%  so  với  33,3%);  trình  độ  học  vấn  của  đối  tượng  nghiên  cứu  với  94,0%  các  đối  tượng  nghiên cứu có trình độ từ THCS trở lên; độ tuổi  của  đối  tượng  nghiên  cứu  chủ  yếu  tập  trung  ở  độ tuổi 30‐39; nghề nghiệp chủ yếu là nông dân  chiếm 65,3%; số hộ có sổ hộ nghèo trong nghiên  cứu là 13,4%

Phần  lớn  ĐTNC  cho  rằng  người  lớn  không  chú  ý  là  một  nguyên  nhân  chủ  yếu  gây  đuối  nước  cho  trẻ  (66,7%),  các  nguyên  nhân  khác  được  NCST  đề  cập  như:  do  trẻ  không  biết  bơi  (53,7%),  do  trẻ  đùa  nghịch  xô  đẩy  nhau  xuống  nước  (54,6%),  do  trẻ  không  chú  ý  trượt  ngã  xuống nước (49,5%). Tuy nhiên, tỷ lệ đối tượng  nghiên cứu nhận định rằng “do không có rào chắn  ao  hồ”,“các  dụng  cụ  chứa  nước  không  an  toàn”,  chiếm tỷ lệ còn thấp với lần lượt là: 40,3%,31,0%,  tỷ lệ người dân cho rằng “không có thiết bị bảo hộ  trên các phương tiện giao thông đường thủy” chỉ là  21,8%.

Tiểu học THCS THPT TC/CĐ/ĐH Tuổi <30 30-39 40-49 50-59 >60 Nghề nghiệp Nông dân Công nhân Cán bộ/công chức Kinh doanh/buôn bán Nghề tự do/thất nghiệp Khác 47 21,8 Sổ hộ nghèo Các dụng cụ chứa nước không an toàn. Không có biển báo xung quanh các ao, hồ. Không có thiết bị bảo hộ trên các phương tiện giao thông đường thủy Không biết/không ý kiến 1 0,5 Có Không 8 99 73 31 55 73 22 45 21 141 31 15 9 12 8 29 187 3,7 45,8 33,8 14,4 25,5 33,8 10,2 20,8 9,7 65,3 14,4 6,9 4,2 5,6 3,7 13,4 86,6

Bảng 4: Kiến thức về các biện pháp phòng chống  đuối nước

Kiến  thức  của  đối  tượng  nghiên  cứu  về  phòng chống đuối nước  Bảng 2: Kiến thức về địa điểm xảy ra đuối nước   Tỷ lệ 96,3 62,0 54,6 53,7 48,6

Địa điểm Ao hồ Sông, mương Bể nước Bồn tắm Dụng cụ chứa nước Tần số 208 134 118 116 105 Tần số 119 126 150 77 51 Tỷ lệ 55,1 58,3 69,4 35,6 23,6

Địa điểm xảy ra đuối nước được người chăm  sóc  chính  của  trẻ  đều  biết  nhiều  nhất  là  ao,  hồ  với  (96,3%)  tiếp  đến  là  sông,  mương  máng  (62,0%)

Tỷ  lệ  đối  tượng  nghiên  cứu  có  kiến  thức  đúng  về  những  biện  pháp  phòng  chống  đuối  nước còn thấp: 69,4% biết được về biện pháp lập  hàng rào xung quanh ao hồ; 58,3% biết được về  biện  pháp  đậy  nắp  các  dụng  cụ  chứa  nước;  55,1%  biết  được  về  biện  pháp  dạy  bơi  cho  trẻ;

Biện pháp phòng chống Dạy bơi cho trẻ trên 4 tuổi. Đậy nắp dụng cụ chứa nước Lập hàng rào xung quanh ao, hồ Đặt biển báo Lấp ao/hồ và các hố vôi xung quanh nhà. Không biết/không ý kiến 11 5,1 Hố vôi Bể bơi Khác 95 88 2 44,0 40,7 0,5

252

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Thái  độ  của  NCST  về  vấn  đề  đuối  nước  tại  địa  phương  có  tác  động  đến  thực  hành  của  NCST, họ sẽ chú trọng hơn vào những hành vi  để  bảo  vệ  con,  cháu  của  họ  khỏi  nguy  cơ  ngã  xuống nước

Bảng 7: Sự sẵn sàng tham gia của NCST với các  chương trình phòng chống đuối nước tại địa phương

Tỷ lệ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  35,6% biết được về biện pháp đặt biển cảnh báo;  23,6%  biết  được  về  các  biện  pháp  lấp  ao  hồ  và  các hố vôi xung quanh.  Bảng 5: Thái độ của đối tượng nghiên cứu về phòng  chống đuối nước   Nghe đến vấn đề đuối nước Đã từng nghe đến Chưa nghe đến bao giờ Không nhớ

Tần số 164 45 7 Tỷ lệ 75,9 20,8 3,2

Tỷ lệ NCST nghe đến vấn đề đuối nước tại  địa phương là 75,9%, điều này là hợp lý do vấn  đề đuối nước của trẻ nhỏ thật sự là một vấn đề y  tế  công  cộng  đáng  quan  tâm  của  vùng,  theo  thống kê của trạm y tế xã trong 3 năm 2008‐2011  có 5 trường hợp trẻ tử vong do đuối nước, trung  bình  hằng  năm  xã  có  từ  1‐2  trường  hợp  trẻ  tử  vong do đuối nước, không kể các trường hợp trẻ  suýt đuối nước và đuối nước được cứu sống.

Mặc  dù  tỷ  lệ  NCST  biết  đến  chương  trình  truyền  thông  phòng  tránh  tai  nạn  thương  tích/đuối  nước  là  thấp  (38,4%).  Tuy  nhiên  khi  được  hỏi  “nếu  có  chương  trình  phòng  chống  đuối  nước,  anh/chị  có  tham  gia  không?”  thì  62,5%  các  ĐTNC đều sẵn sàng tham gia và 24,5% sẽ tham  gia nếu có thời gian, tỷ lệ từ chối tham gia được  xác định là 13,0%.

Sự sẵn sàng tham gia chương trình của ĐTNC Rất sẵn sàng Tham gia nếu có thời gian Không tham gia 62,5 24,5 13,0

Bảng 8: Thực hành của đối tượng nghiên cứu về  phòng chống đuối nước

Tuy  nhiên,  những  thông  tin  mà  NCST  thu  nhận  được  lại  xuất  phát  từ  chủ  yếu  những  trường  hợp  trẻ  chết  đuối  xuất  hiện  tại  địa  phương, thậm chí còn có một số thông tin thiếu  tính  khoa  học,  thiếu  cơ  sở  do  đó  có  thể  ảnh  hưởng  tiêu  cực  đến  kiến  thức  của  NCST  về  phòng chống đuối nước.

Thực hành trông trẻ Không phải làm việc khác Để trẻ tự chơi một mình Để trẻ trong tầm quan sát Khác Tỷ lệ 8,8 20,4 73,1 1,8

Bảng 6: Nhận định của đối tượng nghiên cứu về vấn  đề đuối nước tại địa phương  Vấn đề đuối nước tại địa phương Tần số

Đa  số  các  ĐTNC  chọn  hành  động  để  trẻ  trong tầm quan sát trong  khi  phải  kết  hợp  việc  trông trẻ với việc khác (73,1), tuy nhiên có 20,4%  ĐTNC chọn hành động để trẻ tự chơi một mình  khi phải có việc khác.

Rất nghiêm trọng Nghiêm trọng Ít nghiêm trọng Không nghiêm trọng 132 67 12 4 Tỷ lệ 61.1 31.0 5.6 1.9

Bảng 9: Thực hành các biện pháp phòng chống đuối  nước

Tỷ lệ ĐTNC cho rằng đuối nước rất nghiêm  trọng  (61,1%),  nghiêm  trọng  (31,0%),  ít  nghiêm  trọng (5,6%), không nghiệm trọng (1,9%). Nhận  định trên của NCST phù hợp với tình hình đuối  nước tại địa bàn nghiên cứu và các yếu tố nguy  cơ đuối nước luôn thường trực trong môi trường  sống của trẻ.

Từ thực tế cho thấy, vấn đề đuối nước tại địa  phương  thật  sự  là  một  vấn  đề  y  tế  công  cộng  đáng quan tâm tại địa phương với con số trẻ tử  vong do đuối nước trung bình hằng năm từ 1‐2  trẻ và mật độ ao, hồ, sông luôn ở mức cao.

Biện pháp phòng chống Trong nhà Đậy nắp các dụng cụ chứa nước. Không để trẻ tự tắm một mình Bể nước/giếng khơi làm nắp đậy an toàn. Lập hàng rào xung quanh ao/hồ Không biết/không ý kiến Ngoài nhà Dạy bơi cho trẻ (trẻ >4 tuổi) Rào chắn ao, hồ, hố vôi/ hố do người đào Đặt biển cảnh báo Lấp ao hồ, hố vôi Khác Tỷ lệ 69,4 67,1 66,7 49,5 56,0 57,9 32,9 21,3 0

253

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Các yếu tố liên quan

Về  thực  hành  các  biện  pháp  phòng  tránh  đuối nước của ĐTNC, 69,4% các ĐTNC thường  xuyên  đập  nắp  các  dụng  cụ  chứa  nước  ;  67,1%  các ĐTNC không để trẻ tự tắm một mình; 66,7%  ĐTNC làm nắp đậy an toàn bể nước, giếng khơi;  57,9% tiến hành rào chắn ao, hồ, hố vôi do người  đào;  56,0%  dạy  bơi  cho  trẻ;  49,5%  lập  hàng  rào  xung  quanh  ao,  hồ;  32,9%  đặt  biển  cảnh  báo  ở  những  nơi  nước  sâu,  nguy  hiểm;  21,3%  lấp  ao  hồ, hố vôi.

36.10%

63.90%

Có dạy bơi cho trẻ

Không dạy bơi cho trẻ

Nghiên cứu xác định có mối liên quan giữa  nghề nghiệp của ĐTNC với kiến thức về phòng  chống  đuối  nước  OR=  1,9  với  95%CI  (1,2‐2,9);  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  với  thực  hành  về  phòng  chống  đuối  nước  của  NCST  OR=  13,75  với  95%CI  (  5,6‐33,6);  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức về các biện pháp phòng chống đuối nước ở  trẻ  nhỏ  với  thực  hành  các  biện  pháp  đó  của  người chăm sóc trẻ; kiến thức về dạy bơi và thực  hành  dạy  bơi  cho  trẻ  OR=  16,8  với  95%CI  (8,5‐ 33,1); mối liên quan giữa kiến thức về lập hàng  rào  và  thực  hành  lập  hàng  rào  OR=12,0  với  95%CI  (5,9‐24,4);  mối  liên  quan  giữa  đậy  nắp  dụng cụ chứa nước và thực hành đậy nắp dụng  cụ chứa nước OR= 4,09 với 95%CI (2,2‐7,5); kiến  thức  về  lấp  ao/hồ  hoặc  các  hố  vôi  xung  quanh  với  thực  hành  lấp  hố  vôi,  ao  hồ  OR=  12,0  với  95%CI (5,9‐24,4)

BÀN LUẬN

Biểu đồ 1: Thực hành dạy bơi cho trẻ của ĐTNC

Dạy  bơi  cho  trẻ  là  một  trong  những  biện  pháp  dự  phòng  đuối  nước  được  khuyến  nghị  trong  những  can  thiệp  về  phòng  chống  đuối  nước.  Trong  nghiên  cứu  này,  63,9%  ĐTNC  đã  từng dạy bơi cho con mình khi trẻ >4 tuổi. Tuy  nhiên,  tỷ  lệ  hộ  gia  đình  không  dạy  bơi  cho  trẻ  vẫn còn khá cao chiếm 36,1%.

Bảng  10: Thực hành các biện pháp giảm thiểu nguy  cơ đuối nước từ môi trường

Nghiên  cứu  đươc  tiến  hành  trên  216  người  chăm sóc chính trẻ dưới 5 tuổi tại hộ gia đình ở  xã  Đoàn  Đào,  huyện  Phù  Cừ,  tỉnh  Hưng  Yên.  Điều tra viên tiến hành phỏng vấn người chăm  sóc chính tại hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi. Đây  là  những  người  có  thời  gian  trông  nom,  chăm  sóc  bên  trẻ  nhiều  nhất  chính  vì  vậy  họ  có  ảnh  hưởng  nhiều  nhất  không  chỉ  tới  trẻ  mà  còn  tới  các thành viên khác trong gia đình. Đây cũng là  điểm  khác  biệt  so  với  một  số  nghiên  cứu  về  phòng  chống  tai  nạn  thương  tích  cho  trẻ:  chủ  yếu tập trung vào đối tượng mẹ của trẻ  (8,5) như  thế sẽ bỏ sót một nhóm khá lớn NCST là ông, bà  hoặc bố của trẻ.

Kết  quả  qua  tiến  hành  quan  sát  bảng  kiểm,  thực hành đậy nắp các dụng cụ chứa nước được  thực  hành  phổ  biến  nhất  tại  các  hộ  gia  đình  có  trẻ  dưới  5  tuổi  (76,2%);  thực  hành  được  thực  hiện ít nhất là lập cửa ngăn an toàn (25,7%).

Kiến thức chung về phòng chống đuối nước  của  ĐTNC  còn  thấp,  trong  tổng  số  216  ĐTNC  chỉ có 30 đối tượng (13,9%) có kiến thức đạt về  phòng tránh tai nạn đuối nước cho trẻ. Kết quả  nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của  Đoàn Hồng Minh chỉ có 4% kiến thức tốt, 10,5%  có kiến thức khá, 85,5% có kiến thức trung bình  và kém(5). Điều này có thể lý giải do nghiên cứu  của chúng tôi tập trung vào một tai nạn thương  tích  cụ  thể  là  đuối  nước  vì  thế  có  thể  khai  thác

Thực hành Rào chắn bờ ao, kênh mương Lập cửa ngăn an toàn Lập lan can Rào lấp hố vôi Xây cao/đậy nắp giếng Đậy nắp các dụng cụ chứa nước Tỷ lệ 27,7% 25,7% 46,3% 26,4% 32,4% 76,2%

254

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

KHUYẾN NGHỊ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  sâu hơn kiến thức của ĐTNC về vấn đề này do  đó tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đạt không cao.

Tăng  cường  truyền  thông,  phổ  biến  các  thông  tin  về  phòng  chống  tai  nạn  thương  tích/đuối nước cho đối tượng người chăm sóc trẻ  dưới  5  tuổi  tại  địa  phương.  Lồng  ghép  những  nội  dung  phòng  chống  đuối  nước  với  các  nội  dung  nằm  trong  chương  trình  của  các  hội  phụ  nữ, đoàn thanh niên.

Thiết  lập  một  bộ  phận  thuộc  trạm  y  tế  xã  phụ trách các vấn đề về tai nạn thương tích/đuối  nước.

Trong  thực  hành  phòng  chống  đuối  nước,  thực  hành  các  biện  pháp  rào  chắn  bờ  ao  kênh  mương  chỉ  chiếm  27,7%  số  hộ  gia  đình  trong  nghiên  cứu  thực  hành  biện  pháp  này.  Kết  quả  của nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu  của  Đặng  Văn  Chính(4)  với  tỷ  lệ  là  24,0%;  điều  này  cũng  tương  đồng  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Ngọc  Duy  với  tỷ  lệ  là  27%(6),  tuy  nhiên  tỷ  lệ  này  lại  thấp  tỷ  lệ  này  trong  nghiên  cứu của Dương Khánh Vân với tỷ lệ là 38,2%.

Hằng  năm  cần  có  một  chiến  dịch  về  giảm  thiểu những yếu tố nguy cơ gây đuối nước xung  quanh môi trường sống của trẻ.

Tăng cường các chương trình tập huấn, nâng  cao kỹ năng sơ cấp cứu ban đầu cho người dân  trong  xã,  đặc  biệt  là  với  đối  tượng  người  chăm  sóc chính của trẻ.

Tỷ  lệ  thực  hành  rào  chắn  bờ  ao,  kênh,  mương trong nghiên cứu còn thấp, chưa đủ để  có thể xây dựng một môi trường an toàn về đuối  nước cho trẻ. Trong khi thực tế tỷ lệ các hộ gia  đình gần ao/kênh/hồ nước sâu trong nghiên cứu  này chiếm tới 83,8% thì tỷ lệ có thực hành phòng  ngừa nguy cơ chỉ đạt 1/3 tổng số hộ gia đình có  yếu tố nguy cơ về gần ao/kênh/hồ nước sâu

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

Thực  hành  rào  chắn  bờ  ao/kênh/mương  đã  được  đánh  giá  là  một  biện  pháp  phòng  ngừa  đuối nước hữu hiệu. Trong một nghiên cứu của  Phan  Thanh  Hòa  về  “Khảo  sát  thực  trạng  đuối  nước tại đồng bằng sông Cửu Long” đã chỉ ra rằng  nơi bị đuối nước đa số là không có rào chắn 97%  và có rào chắn một phần chiếm 3% (7).

KẾT LUẬN

Bộ Lao Động‐Thương Binh Xã Hội & Unicef (2010), “Báo cáo  tổng  hợp  về  phòng  chống  tai  nạn  thương  tích  trẻ  em  ở  Việt  Nam”  Bộ  Y  tế  (2008),  Báo  cáo  về  tình  hình  tai  nạn  thương  tích  của  toàn quốc năm 2007  Brenner  RA  (2003),  “Prevention  of  drowning  in  Infants,  children, and adolescent”, Prediatrics, 112(2), pp.440‐445  4. Đặng  Văn  Chính  và  cs,  (2008),  “Kiến  thức,  thái  độ  và  thực  hành  của  người  dân  về  chết  đuối  trẻ  em  ở  vùng  đồng  bằng  sông Mekong”, Tạp chí Y học TP.Hồ Chí Minh, 12(4), tr.108  5. Đoàn Hồng Minh (2004), “Mô tả kiến thức, thực hành của các  bà mẹ về dự phòng chấn thương trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện  Thanh Miện, tỉnh Hải Dương năm 2004”, luận văn thạc sĩ y tế  công cộng, trường đại học Y tế Công cộng Hà Nội

Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về phòng  chống  đuối  nước  cho  trẻ  còn  thấp,  tỷ  lệ  đạt  về  kiến thức chỉ chiếm 13,9%. Kiến thức của người  dân về đuối nước chưa toàn diện.

7.

8.

6. Nguyễn  Ngọc  Duy  và  cs  (2011),  “Kiến  thức,  thực  hành  cửa  NCST dưới 11 tuổi về phòng chống đuối nước tại huyện An  Phú, tỉnh An Giang”, 2011, luận văn thạc sĩ Y tế công cộng, đại  học Y.Dược TP.Hồ Chí Minh.  Phan Thanh  Hòa  và  cs  (2011),  “Thực  trạng  và  một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  đuối  nước  trẻ  em  dưới  18  tuổi  tại  vùng  đồng  bằng sông Cửu Long, năm 2010”, luận văn thạc sĩ y tế Công  cộng Hà Nội, đại học Y tế Công cộng Hà Nội.  Trần Tuấn Anh, (2007), “Factors related to Preventive Behavior  on  home  injury  among  mothers  with  children  under  5  years  old at communes of Hungyen province, Vietnam”, Journal of  Public Health and Development, 5 No.2

9. WHO, (2008), “Báo cáo thế giới về phòng chống thương tích ở

Thực hành loại bỏ/giảm thiểu nguy cơ đuối  nước  từ  môi  trường  của  NCST  còn  thấp,  chưa  đủ để tạo môi trường an toàn đuối nước cho trẻ.  Thực hành đậy nắp các dụng cụ chứa nước được  NCST  thực  hiện  nhiều  nhất  với  76,2%,  thực  hành ít được thực hiện nhất là lập cửa ngăn an  toàn  tại  cầu  ao/nơi  gần  nguồn  nước  với  chỉ  25,7%.

trẻ em”,   www.who.int/violence.../Cover_and_front_matter_vietnamese .pdf

255

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

XÂY DỰNG QUI RÌNH PHÁT HIỆN NOROVIRUS   BẰNG KỸ THUẬT REAL‐TIME PCR

Nguyễn Đỗ Phúc*, Nguyễn An Huy*, Phạm Hùng Vân*

TÓM TẮT

Đặt  vấn  đề:  Norovirus  là  một  trong  những  tác  nhân  gây  tiêu  chảy  ở  người.  Hiện  nay  việc  phát  hiện  Norovirus bằng kỹ thuật sinh học phân tử đã được ứng dụng ở nhiều phòng kiểm nghiệm trên thế giới. Kỹ thuật  Real‐Time PCR phát hiện Norovirus vẫn chưa được triển khai tại các phòng kiểm nghiệm vi sinh vật thực phẩm  tại Việt Nam. Đáp ứng nhu cầu này chúng tôi nghiên cứu xây dựng quy trình Real‐Time PCR để phát hiện  Norovirus týp GI và GII là hai týp gây bệnh tiêu chảy chính ở người với mục đích giám sát và xác định các mối  nguy về ô nhiễm Norovirus trong các vụ ngộ độc thực phẩm.

Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng qui trình Real‐Time PCR phát hiện Norovirus.

Phương pháp nghiên cứu: Lựa chọn các cặp mồi thích hợp, tạo chứng dương, chiết tách RNA, tạo cDNA

với các thành phần và qui trình của phản ứng Real Time PCR thích hợp để phát hiện Norovirus nhóm GI và GII.

Kết quả nghiên cứu: Đã lựa chọn được các cặp mồi và tạo chứng dương thích hợp với các thành phần của  phản ứng Real‐Time PCR để phát hiện Norovirus trong các nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Kết quả ứng dụng qui  trình Real‐Time PCR ban đầu cho thấy có 12/40 mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ phát hiện Norvirus nhóm GI và  GII.

Kết  luận: Đã thiết lập được qui trình Real‐Time PCR để phát hiện Norovirus trong các nhuyễn thể hai

mảnh vỏ.

Keyword: Real‐Time PCR, Norovirus

ABSTRACT

SET UP THE PROCEDURE FOR DETECTION NOROVIRUS BY REAL‐TIME PCR TECHNIQE

Nguyen Do Phuc, Nguyen An Huy, Pham Hung Van

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 258 ‐ 264

Background:  Norovirus  is  the  one  of  common  agents  causing  gastroenteritis  in  humans.  Recently,  the  diagnostic methods base on the molecular technique applying in many labs in  the  world.  The  Real‐Time  PCR  used for detection Norovirus is not still applied in labs at Việt Nam. That’s the reasons, We study to set up the  procedure of Real‐Time PCR for detection Norovirus genogroup GI and GII that two groups relevant to human  disease with purpose of monitoring and determine the cause of food poisoning outbreaks.

Objectives: Set up the procedure for detection Novorirus by Real‐Time PCR technique.

Method:  Selection of specific primer, producton positive control and extraction RNA and make cDNA for

running Real‐Time PCR for detection Norovirus group GI and GII in molluse of two shell.

Results:  Procedure  of  detection  Norovirus  have  already  set  up  and  applied  for  detection  Norovirus  in  molluse of two shell. The results show that 12/40 samples of molluse of two shell contaiminated Norvirus GI and  GII.

Conclusion: To be sucessful for set up procedure of detection Norovirus GI and GII by Real Time PCR in

molluse of two shell.

* Viện Vệ sinh – Y tế công cộng TPHCM  Tác giả liên lạc: TS Nguyễn Đỗ Phúc   ĐT: 0907669008

Email: nguyendophuc@ihph.org.vn

256

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Keyword: Real‐Time PCR, Norovirus

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thiết kế thành phần bộ kít Real‐Time PCR  phù hợp và sử dụng chứng dương để kiểm tra  quy  trình  Real‐Time  PCR  phát  hiện  NoVs  GI  và GII.

Thiết  lập  qui  trình  Real‐Time  PCR  và  ứng  dụng  khảo  sát  đánh  giá  khả  năng  phát  hiện  NoVs trên các mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ với  qui trình Real‐Time PCR đã được thiết lập.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Vật liệu nghiên cứu

Mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Mẫu  nhuyễn  thể  hai  mảnh  vỏ  mua  từ  các  chợ  tại  TP.HCM  với  số  lượng  trên  một  mẫu:  300g/mẫu. Chọn 50 mẫu các loại, mỗi loại 5 mẫu,  bao  gồm:  Nghêu,  Sò  huyết,  Sò  lông,  Sò  đá,  Sò  vẹo, Hàu, Chem chép, Móng tay.

Các  cặp  Primer  được  được  đưa  vào  lựa  chọn

trong nghiên cứu

Dựa vào trình tự các cặp mồi đã công bố trên  Gen  Bank  với  các  mã  hiệu:  NoVs  GI:  M87661,  GII: X 86557

Thiết kế chứng dương

Noroviruses  (NoVs)  được  phát  hiện  lần  đầu  tiên  bởi  Kapikian  và  cộng  sự  vào  năm  1972(3).  NoV  được  coi  là  nguyên  nhân  chính  gây  viêm  dạ dày ruột cấp tính ở trẻ em và người lớn. Bệnh  do  NoV  thường  xảy  ra  và  tìm  thấy  ở  các  nơi  khác nhau: nhà hàng, trường học, các trung tâm  chăm sóc sức khỏe, bệnh viện, nhà điều dưỡng,  và tàu du lịch. Hằng năm có hơn 267 triệu nhiễm  do NoV trên toàn thế giới(6,7). Con đường truyền  chính  của  virus  này  thường  lan  truyền  qua  đường  thực  phẩm,  đường  nước,  không  khí,  và  lan  truyền  từ  người  sang  người(1,4,5).  Hiện  nay,  NoVs được phân loại thành năm nhóm gen khác  nhau: GI đến GV(2). NoVs ở người thuộc GI, GII  và  GIV,  nhưng  hầu  hết  các  chủng  gây  bệnh  ở  người  thuộc  đều  thuộc  nhóm  gen  GI  và  GII.  Triệu  chứng  chung  của  bệnh  do  NoVs  là  nhức  đầu,  nôn  mửa,  đau  bụng,  tiêu  chảy,  đau  nhức  các bắp cơ, sốt nhẹ và nóng  lạnh.  Bệnh  thường  khỏi  sau  hai  ba  ngày.  Trẻ  em  thường  nôn  mửa  nhiều hơn người lớn. Norovirus có khả năng lây  nhiễm rất cao. Virus hiện diện cả trong phân và  nước ói mửa của bệnh nhân.

Trong  nghiên  cứu  này,  sử  dụng  phần  mềm  BioEdit  sequence  Alignment  Editor  ver  7.5  để  tạo  chứng  dương.  Trên  cơ  sở  trình  tự  Primer  được lựa chọn, sử dụng primer này để tìm kiếm  trên  ngân  hàng  gen  NCBI  đoạn  RNA  chứng  dương cho NoVs GI và GII, sử dụng phần mềm  Blast để kiểm chứng.

Thiết kế Probe dùng trong phản ứng Real‐ Time PCR

Hiện  nay  các  phương  pháp  dùng  để  phát  hiện NoVs vẫn chưa áp dụng tại Việt Nam, với  mục  đích  tìm  hiểu  và  thiết  lập  qui  trình  Real‐ Time PCR để phát hiện Norovirus trong nhuyễn  thể hai mảnh vỏ, đáp ứng cho công tác giám sát  các  bệnh  tiêu  chảy  cấp  và  ngộ  độc  thực  phẩm,  Trung Tâm Kiểm nghiệm ATVSTP khu vực phía  Nam‐ Viện Vệ sinh Y tế Công cộng TP. Hồ Chí  Minh  tiến  hành  đề  tài  nghiên  cứu:  “Xây  dựng  quy  trình  phát  hiện  Norovirus  bằng  kỹ  thuật  Real‐Time  PCR”,  với  các  nội  dung  nghiên  cứu  sau:

Chọn  các  cặp  mồi  phù  hợp  cho  phản  ứng

Real‐Time PCR phát hiện NoVs GI và GII.

Tạo chứng dương (kiểm tra qui trình và thay  thế như một chủng chứng), thiết kế probe phát  hiện NoVs GI và GII.

Probe  là  những  oligonucleotide  có  trình  tự  bổ  sung  với  một  trình  tự  đặc  hiệu  trên  cDNA  đích  (dựa  trên  trình  tự  RNA  của  NoVs  GI  và  GII).  Đầu  5’  của  các  probe  có  gắn  chất  phát  huỳnh  quang  (FAM/HEX)  còn  đầu  3’  có  gắn  chất hấp phụ tương ứng để hấp phụ được  ánh  sáng  huỳnh  quang  phát  ra  từ  đầu  5’  (BHO).  Đoạn Probe gắn màu huỳnh quang FAM sẽ bắt  cặp đặc hiệu để phát hiện NoVs GI và Probe gắn

257

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  màu  huỳnh  quang  HEX  sẽ  bắt  cặp  đặc  hiệu  để  phát hiện NoVs GII.

Tạo clone chứng dương

Chứng dương sau khi thiết kế, sử dụng quy  trình  Real‐Time  PCR  để  thu  được  lượng  sản  phẩm DNA, theo thành phần mix :

Phương pháp này sử dụng mồi ngẫu nhiên 6  nucleotides  (Random  hexamer  primers)  mà  không cần dùng mồi đặc hiệu để tổng hợp toàn  bộ RNA từ mẫu thử thành cDNA từ RNA nhờ  men  Reverse  Transcriptase.  Ngoài  ra  trong  hệ  thống phản ứng còn có men RNAse H để cắt bỏ  RNA  bị  bắt  cặp  vào  cDNA  sau  khi  phiên  mã  ngược thành cDNA.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả lựa chọn mồi và chứng dương

Real ‐Time PCR‐mix phát hiện NoVs GI và  GII:  PCR  master  mix  2X  (1x),  mồi  GI:  JJ‐V1  F  (12pm), mồi JJ‐V1 R (12pm), JJ V1‐ Probe (5pm),  mồi  GII  JJ‐V2  F  (12pm),  mồi  CO‐G2  R  (12pm),  RIN‐G2‐  Probe  (5pm),  MgCl2  (3,5μM),  Fluo  (10mM),  UNG  (0,1U/μl),  miliQ  water  vừa  đủ  20μl.

Chu  trình  nhiệt  chạy  Real‐Time  PCR  được  thiết lập: 1 chu kỳ 960C trong 3 phút, tiếp theo là  40  chu  kỳ  ở  950C  trong  15  giây,  600C  trong  1  phút và chụp Real Time.

Qui trình kỹ thuật Real‐Time PCR

Mồi được lựa chọn trên cơ sở các công trình  nghiên cứu về NoVs của nhiều tác giả đã được  công  bố  như  đã  đề  cập  ở  phần  phương  pháp.  Sau  khi  lựa  chọn  các  cặp  mồi  cho  phù  hợp  với  nghiên cứu,  chúng  tôi  đã  sử  dụng  cặp  mồi  của  Narayanan  Jothikumar  và  cs  (2004)(8)  có  sửa  chữa bổ sung cho phù và được kiểm chứng kết  quả  trên  ngân  hàng  gen  phát  hiện  NoVs  nhóm  GI và GII như sau:

Chuẩn bị cDNA từ mẫu thực phẩm phát hiện

NoVs

GI JJ_V1R

GIIJJ_V2F GII

GIJJ_V1F GCC ATG TTC CGI TGG ATG TCC TTA GAC GCC ATC ATC AT CAA GAG TCA ATG TTT AGG TGG ATG AG TCG ACG CCA TCT TCA TTC ACA CO_G2Ra

Các mẫu được tách chiết riêng biệt, số lượng  tối thiểu 5 con/mẫu, được cắt nhỏ, cho vào máy  nghiền, dập đều mẫu để giải phóng hạt virus ra  khỏi  tế  bào.  Hút  dịch  lỏng  của  mẫu  200μl,  cho  vào ống eppendorf loại 1,5ml và tiến hành tách  chiết mẫu thu RNA bằng bộ kít chiết tách mẫu  NKRNAPREP của Công ty Nam Khoa.

Tách chiết RNA toàn phần bằng bộ thuốc thử

NKRNAPREP

Trình tự chứng dương được thiết lập trên cơ  sở  trình  tự  các  mồi  xuôi  và  mồi  ngược  để  phát  hiện  NoVs  nhóm  GI  và  GII  đã  công  bố  trên  NCBI  bằng  chương  trình  Blast  search  để  xác  định  độ  tương  đồng  với  các  trình  tự  gen  cho  NoVs  GI  và  GII  được  xác  định  tại  vi  trí  nucleotide  cho  trình  tự  gen  virus  Norwalk  GI  (M87661)  và  Lordsdale  GII  (X86557).  Kết  quả  như sau:

Trình tự chứng dương để phát hiện NoVs GI

GCCATGTTCCGCTGGATGCGCTTCCAT GACCTCGGATTGTGGACAGGAGATCGCAA TCTCCTGCCCGAATTCGTAAATGATGATG GCGTCTAAGGA

Dựa trên phương pháp do Chomczynski và  Sacchi sáng chế. Nguyên tắc là dùng guanidine  14M  và  ure,  phối  hợp  với  phenol  và  chất  tẩy  khác  để  làm  các  chất  gây  biến  tính  các  protein,  kết  quả  là  các  protein  trong  mẫu  thử  sẽ  bị  vón  lại, DNA sẽ tan trong pha phenol, còn RNA thì  nằm trong phase nước và sẽ được tách khỏi pha  phenol nhờ thêm vào chloroform và quay ly tâm  lắng  tách.  RNA  trong  phase  nước  sau  đó  sẽ  được kết tủa nhờ isopropanol.

Trình tự chứng dương để phát hiện NoVs GII

Tổng  hợp  cDNA  bằng  bộ  thuốc  thử  NKcDNA

synthesis

CAAGAGCCAATGTTCAGATGGATGA GATTCTCAGATCTGAGCACGTGGGAGGGC

258

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 1: Kết quả Ct khi kiểm tra các nồng độ chứng  dương chèn vào plasmid

GATCGCAATCTGGCTCCCAGCTTTGTGAA TGAAGATGGCGTCGA

Kết quả thiết kế Probe

Trên  cơ  sở  chứng  dương  được  thiết  lập,  Probe để phát hiện NoVs GI có đầu gắn huỳnh  quang FAM và probe để phát hiện NoV  GII  có  đầu gằn huỳnh quang HEX, có trình tự sau:   Vị trí Genogroup Oligonucleot

Nồng độ pha loãng 10-4 10-5 10-6 10-7 10-8 10-9 Ct chứng (+) NoVs GI 23,40 26,59 30,03 32,44 35,27 35,30 Ct chứng (+) NoVs GII 23,58 27,09 30,17 32,87 34,04 34,86

10-4

GI ide JJV1P 5319 – 5341

10-5

10-6

GII RING2-P 5048 – 5067 Trình tự (5' - 3') TGT GGA CAG GAG ATC GCA ATC TC TGG GAG GGC GAT CGC AAT CT

Kết quả tạo dòng chứng dương

10-7

Kết quả tổng hợp đoạn trình tự đích NoV GI

và GII

Trình  tự  chứng  dương  cho  NoVs  GI  và  GII  được  khuyếch  đại  để  tạo  sản  phẩm  DNA,  và  kiểm tra độ tinh sạch và đúng kích thước trước  khi chèn vào plasmid và tạo dòng. Kết quả kiểm  tra sản phẩm PCR của chứng dương.

96bp (NoV GI)

98bp (NoV GII)

Hình 2. Chứng dương NoVs GI, GII đã clone vào  plasmid khi sử dụng mồi đơn

Hình 1. Kết quả điện di của chứng dương

NoVs GI và NoV GII

Kết quả điện di hình 1 cho thấy 2 band: band  96bp  tương  ứng  với  chứng  dương  NoVs  GI  và  band  98bp  tương  ứng  với  chứng  dương  NoV  GII như đã thiết kế.

Chứng  dương  NoVs  GI  và  GII  với  độ  pha  loãng từ 10‐4 cho đến 10‐7, cho kết quả Ct tốt theo  đúng nồng độ pha loãng, có thể chọn các nồng  độ  này  làm  chứng  dương  trong  quá  trình  xét  nghiệm NoVs nhiễm trong thực phẩm. Nồng độ  DNA  chứng  dương  được  xem  là  1  copy  tại  độ  pha loãng trên một nồng độ cho kết quả Ct âm  tính, từ đó có thể tính được số lượng copy  ban  đầu của chứng dương.

Kết quả kiểm tra end point chứng dương

Chứng dương được pha từ nồng độ 10‐4 cho  đến 10‐9, và kiểm tra khả năng phát hiện của bộ  kít Real ‐Time PCR, kết quả trình bày bảng 1.

259

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Qui trình Real‐Time PCR phát hiện NoVs trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Mẫu nhuyễn thể

10 con/mẫu, nghiền nát, sử dụng 200µl

Tách RNA

NKRNAPREP của Công ty Nam Khoa

Tổng hợp cDNA

Real Time PCR

NKcDNA synthesis Công ty Nam Khoa - 5 phút: 25oC, -30 phút: 42oC, -5 phút: 85oC, - Giữ 4oC - 3 phút 94oC Chạy 40 chu kỳ - 15 giây 96oC - 60 giây 60oC Chụp Real Time Giữ 4oC

Sò lông (5)

Sò vẹo (5) Sò đá (5)

3 4 Chem chép (5) 5 6 7 Móng tay (5) 8 Hàu (5) 1/5 0/5 1/5 0/5 0/5 1/5 1/5 0/5 1/5 0/5 0/5 4/5 1/5 0/5 1/5 0/5 0/5 4/5 (*)

Kết  quả  phân  tích  NoVs  GI  và  GII  mẫu  nhuyễn thể hai mảnh vỏ  Bảng 2: Kết quả phát hiện NoVs GI, GII trên các nền  mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ  TT Mẫu (tổng số

Ghi chú: 4/5 (*) trong đó có 1 mẫu phát hiện đồng  thời NoVs GI và GII

mẫu)

1 2 Nghêu (5) Sò huyết (5) GI (Số mẫu +/tổng số mẫu) 3/5 3/5 GII (Số mẫu +/tổng số mẫu) 3/5 3/5 GI+GII (Số mẫu +/tổng số mẫu) 3/5 3/5

260

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghêu

Sò huyết

Sò lông

Chem chép

Sò vẹo

Móng tay

Sò đá

Hàu

Hình 3. Kết quả xét nghiệm NoVs trên mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Nhận  xét:  Ứng  dụng  qui  trình  Real‐Time  PCR đã thiết lập để xét nghiệm 40 mẫu nhuyễn  thể hai mảnh vỏ, kết quả cho thấy:

Trong  số  40  mẫu  đưa  vào  xét  nghiệm,  cho

Trong  đó  số  mẫu  có  nhiễm  NoVs  nhóm  GI  và  GII  là:  Nghêu,  Sò  huyết,  Sò  lông  và  Sò  vẹo.  Riêng  mẫu  Hào,  có  1  mẫu  nhiễm  Norovirus  nhóm GI và GII và 3 mẫu chỉ nhiễm Norovirus  nhóm GII.

thấy có 12/40 mẫu phát hiện NoVs.

261

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Các mẫu không tìm thấy NoVs : Chem chép,

KIẾN NGHỊ

Sò đá, Móng tay.

KẾT LUẬN

Thử nghiệm đánh giá so sánh khả năng phát  hiện NoVs bằng kỹ thuật Real‐Time PCR tại một  số phòng thí nghiệm.

Giải trình tự các mẫu phát hiện nhiễm NoVs  nhóm GI và GII để xác định giá trị phương pháp.

Đã lựa chọn được các cặp mồi đặc hiệu dùng  để phát hiện NoVs GI và GII cho phản ứng Real‐ Time PCR.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Galllimore,  et  al.  (2005),  Multiple  norovirus  genotypes  from  an  oyster‐associated  outbreak  of

characterised  gastroenteritis, Int, J.Food. Microbiol., 103, 323.

Đã  tạo  được  chứng  dương.  Các  chứng  dương chèn vào plasmid có độ pha loãng từ 10‐4  đến 10‐7 cho tín hiệu Real‐Time PCR tuyến tính  giữa các nồng độ. Có thể sử dụng chứng dương  trong  phản  ứng  Real‐Time  PCR  để  phát  hiện  hoặc định lượng NoVs GI và GII.

2. Green YK., Caliciviridae (2007), The noroviruses, Chapter 28 in  Fields  Virology,  eds.  B.  N.  Fields,  D.  M.  Knipe,  and  P.  M.  Howley  .Wolters  Kluwer  Health/Lippincott  Williams  &  Wilkins, Philadelphia, PA.

Xây  dựng  qui  trình  phát  hiện  NoVs  GI  và

GII trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ.

4.

3. Kapikian  AZ,  et  al.(1972),  Visualization  by  immune  electron  microscopy of a 27‐nm particle associated with acute infectious  nonbacterial gastroenteritis, J. Virol., 10, 1075.  Lopman  B,  et  al.  (2004),  Increase  in  viral  gastroenteritis  outbreaks  in  Europe  and  epidemic  spread  of  new  norovirus  variants, Lancet, 363, 682.

5. Marks  PJ,  et  al.(2000),  Evidence  for  airbone  transmission  of  Norwalk‐like (NLV) in a hotel restaurant, Epidemiol. Infect., 120,  481.

6. McEvoy M, et al. (1996), An outbreak of viral gastroenteritis on

a cruise ship, Commun. Dis. Rep. CDR. Rev., 6, 188.

7. McIntyre L et al.(2002), Gastrointestinal outbreaks asscociated  with  Norwalk  virus  in  restaurants  in  Vancouver,  British  Columbia, Can. Commun. Dis. Rep., 28, 197.

Ứng  dụng  qui  trình  Real‐Time  PCR  và  xét  nghiệm  40  mẫu  nhuyễn  thể  hai  mảnh  vỏ,  kết  quả  cho  thấy  có  12/40  mẫu  phát  hiện  NoVs.  Trong  đó  các  mẫu  Chem  chép,  Sò  đá  và  Móng  tay không tìm thấy ô nhiễm NoV. Nghêu và Sò  huyết có số mẫu nhiễm NoVs cả hai nhóm GI và  GII là 3/5; Sò lông và Sò vẹo có số mẫu nhiễm cả  hai lọai NoVs GI và GII là 1/5. Đối với mẫu hàu  có số mẫu nhiễm NoV là 4/5, trong đó có 1 mẫu  nhiễm cả hai loại NoVs GI và GII và 3 mẫu chỉ  tìm thấy ô nhiễm NoVs GII.

8. Narayanan  J,  James  AL,  Kathleen  H,  David  NL,  Vincent  RH  and Fan V (2004), Rapid and Sensitive detection of Norovirus  by  using  Taqman‐Based  one‐step  RT‐PCR  assay  and  Aplication  to  naturally  contaminated  Shellfish  samples.  Applied and Environmental. Microbiology, p. 1870‐1875.

262

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH TRẠNG NHÂN LỰC Y TẾ VÀ CÔNG SUẤT SỬ DỤNG   GIƯỜNG BỆNH CỦA BỆNH VIỆN TUYẾN HUYỆN

Nguyễn Bích Hà*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh viện (BV) huyện là đơn vị y tế thuộc tuyến y tế cơ sở có nhiệm vụ chủ yếu là khám chữa  bệnh và phần lớn lượng bệnh nhân (BN) được tập trung tại đây. Tuy nhiên, hiện đang nổi cộm tình trạng quá  tải BN ở các BV tuyến tỉnh và tuyến trung ương nên cần thiết phải đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và công  suất hoạt động của BV huyện.

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá thực trạng nhân lực y tế và công suất sử dụng (CSSD) giường bệnh (GB)

của BV tuyến huyện.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, lấy mẫu toàn bộ 44 BV huyện thuộc 5 tỉnh lân

cận TP.HCM. Hồi cứu số liệu kiểm tra BV năm 2010.

Kết quả nghiên cứu: Phần lớn BV tuyến huyện không đạt yêu cầu về tỷ lệ và cơ cấu nhân lực y tế: 84,1%  không đạt tỷ số nhân viên y tế (NVYT)/giường bệnh kế hoạch (GBKH) và 93,1% không đạt NVYT/giường bệnh  thực kê (GBTK); Từ 75 – 93,2% không đạt về tỷ lệ các khối chuyên môn. Tỷ lệ khối lâm sàng (LS) thường vượt  mức quy định trong khi khối hành chính giảm tỷ lệ và khối cận lâm sàng (CLS)– dược thiếu nghiêm trọng. Tỷ số  bác sĩ (BS) và điều dưỡng (ĐD)– nữ hộ sinh (NHS) – kỹ thuật viên (KTV) không đạt và vượt mức quy định  chiếm tỷ lệ cao trong khi tỷ số dược sĩ (DS) đại học và BS rất thấp. CSSD GB phần lớn không đạt ở mức tối ưu  (85% ‐ 90%). Có 56,8% dưới mức này và 25% vượt mức (CSSD GBTK). Có một tỷ lệ đáng kể (29,5%) BV  huyện chưa triển khai phòng mổ hoặc có phòng mổ nhưng không thực hiện được mổ đẻ. Tỷ lệ phẫu thuật rất  thấp. Thủ thuật được thực hiện nhưng phần lớn ở mức độ 3, ở mức độ cao hơn thì tỷ lệ thực hiện thấp.

Kết luận: Cần ưu tiên tập trung nguồn lực để đầu tư cho BV tuyến huyện, không chỉ đối với BS mà kể cả  DS, KTV. Các BV tuyến huyện cần phát triển cơ bản về ngoại khoa và hồi sức cấp cứu để đáp ứng cứu chữa tốt  giai đoạn đầu của những tình trạng sức khỏe xấu cũng như tăng cường chất lượng khám chữa bệnh đa khoa ban  đầu nhằm thu hút bệnh nhân, giảm tình trạng vượt tuyến gây quá tải ở BV tuyến trên.

Từ khóa: tình trạng nhân lực y tế, bệnh viện huyện, công suất sử dụng giường bệnh

SUMMARY

HEALTH WORKER RESOURCES AND CAPACITY OF SICKBED UTILIZATION   OF DISTRICT HOSPITALS

Nguyen Bich Ha* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 265 ‐ 274

Background: A district hospital is a unit belonging to the basic level of the health system. The essential tasks  of a district hospital are examination and treatment, thus, a great amount of patients ought to have concentrated  in  there.  However,  there  is  status  of  the  overloads  of  patients  in  the  province  and  central  hospitals  recently.  Therefore, a study of health worker resources and capacity of sickbed utilization of district hospitals is necessary.

Objectives:  To  evaluate  the  situation  of  health  workers  and  capacity  of  sickbed  utilization  of  district

hospitals.

Method: Cross‐sectional descriptive study, taking the entire sample of 44 district hospitals in five provinces

* Viện Vệ sinh Y tế công cộng TPHCM  Tác giả liên lạc: Ths.Nguyễn Bích Hà   ĐT: 0908877820  Email: nguyenbichha@ihph.org.vn

263

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  around Ho Chi Minh city.

Results: Most of district hospitals did not meet requirement of the ratios and structure of health staffs: the  ratio between health staffs and sick beds in planned number (84,1%) and in the real bed number (93,1%); the  ratio among special groups (75‐93,2%). The rate of clinical group usually exceeded the regulations whereas the  rate of administrative group and of paraclincal and pharmaceutical group did not reach regulation standards. The  ratio between doctors and nurses – midwives – technicians exceeded the standards and was high, while the ratio  between pharmacists and doctors was quite low. The capacity of sickbed utilizations in most of these hospitals did  not achieve at optimal performance (85% ‐ 90%). There was 56.8% hospitals lower and 25% upper than this  level (for the real bed numbers). There was a noticeable rate of 29.5% hospitals not getting operating rooms or  performing to caesarean section. Surgery rate was very low. Most of medical skills performed were in the grade 3.

Conclusion: Prioritizing to develop district hospitals in terms of human and financial resources including  pharmacists  and  technicians.  The  district  hospitals  should  be  invested  basically  in  surgery  and  emergency  resuscitation skills to early diagnose and treat the worse health problems. Besides, the district hospitals should be  rainforced the quality of primarily general practices to attract local patients, that might reduce the overload of  upper level hospitals.

Key words: status of health worker, district hospital, capacity of sickbed utilization

ĐẶT VẤN ĐỀ

nhiệm vụ khám chữa bệnh đa khoa ban đầu như  thế nào? Thực trạng các kỹ thuật y tế được triển  khai  ra  sao?  Và  thực  tế  công  suất  sử  dụng  giường bệnh ở tuyến huyện là bao nhiêu?

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh  giá  tình  trạng  nhân  lực  y  tế  tại  bệnh  viện tuyến huyện về số  lượng  và  phân  bố  theo  các khối chuyên môn.

Đánh giá công suất sử dụng giường bệnh và  các  hoạt  động  khám  chữa  bệnh  của  bệnh  viện  tuyến huyện năm 2010.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Các bệnh viện tuyến huyện và tương đương  thuộc các tỉnh khu vực phía Nam lân cận TP. Hồ  Chí Minh.

Thiết kế nghiên cứu

Mô  tả  cắt  ngang.  Lấy  mẫu  toàn  bộ,  gồm  44  bệnh  viện  tuyến  huyện  tại  5  tỉnh:  2  tỉnh  miền  Đông và 3 tỉnh miền Tây được chọn ngẫu nhiên  từ  8  tỉnh  lân  cận  TP.Hồ  Chí  Minh.  Hồi  sứu  số  liệu nhân sự và công suất giường bệnh và hoạt  động bệnh viện từ bản kiểm tra bệnh viện năm  2010 do Sở Y tế cung cấp.

Khám  chữa  bệnh  là  cấu  phần  quan  trọng  trong  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe  nhân  dân.  Theo mô hình tổ chức của ngành y tế Việt Nam,  tuyến y tế cơ sở là gần dân nhất và có số lượng  nhân  viên  y  tế  và  cơ  sở  vật  chất  tại  chỗ  nhiều  nhất và trải rộng theo đơn vị hành chính nhằm  đáp ứng khối lượng công việc khám chữa bệnh  ban đầu ở đây(10). So với trạm y tế xã phường có  nhiệm  vụ  tổng  hợp  vừa  khám  chữa  bệnh  vừa  làm các chương trình y tế thì BV đa khoa huyện  (hoặc bộ phận chức năng khám và điều trị nằm  trong  trung  tâm  y  tế  (TTYT)  huyện,  sau  đây  được gọi chung là BV huyện) có nhiệm vụ chính  là  khám  chữa  bệnh.  Tại  BV  tuyến  huyện  phải  khám chữa khỏi được bệnh thông thường ở các  cơ  quan  bộ  phận  cơ  thể  bằng  điều  trị  nội  khoa  hoặc ngoại khoa. Bên cạnh đó, theo quy định BV  tuyến huyện và các trạm y tế xã phường là nơi  đăng ký khám chữa bệnh ban đầu cho phần lớn  đối  tượng(1),  nên  lẽ  ra  số  người  dân  đến  khám  chữa bệnh thông thường ở bệnh viện sẽ cao. Tuy  nhiên, trên thực tế tình trạng quá tải ở BV truyến  trên  vẫn  kéo  dài,  lượng  người  dân  vượt  tuyến  chỉ để khám chữa những bệnh thông thường mà  tuyến  trước  có  thể  giải  quyết  được  chiếm  đến  67,7%(7). Vấn đề đặt ra là: BV tuyến huyện hiện  nay  có  một  lực  lượng  cán  bộ  y  tế  để  thực  hiện

264

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

26 50 290 120

Bảng 1. Số lượng các BV huyện và TTYT huyện  được khảo sát

44 30 290 109 Tổng 18 30 216 108

4.4

50

53.9

26 36 290 110 huyện Bệnh viện huyện Số giường thực kê Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện Tổng Số lượng 18 26 44 Tỷ lệ % 40,9 59,1 100

90

40.9

34.6

Bằng Tăng Giảm

11.5

5.6

9.1

100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

n=44

n=18

n=26

Trung tâm

tế

Bệnh viện Huyện

BV huyện và TTYT

Biểu đồ 1. Phân tích tỷ lệ thay đổi giường bệnh theo  loại hình tổ chức

Bảng 3. Mức độ thay đổi số giường thực kê so với kế  hoạch tính theo tỷ lệ %

Tối đa

Từ  2005,  theo  thông  tư  11/2005  của  liên  bộ  BYT và Bộ Nội vụ, các trung tâm y tế huyện tách  ra thành BV huyện và trung tâm y tế dự phòng  huyện. Sau đó thông tư 03/2008/BYT‐Bộ Nội vụ  tiếp tục hướng dẫn các huyện thị tùy tình trạng  thích  hợp  về  mô  hình  bệnh,  địa  lý,  nhân  sự  để  giữ  tổ  chức  là  trung  tâm  y  tế  hay  bệnh  viện  huyện, trong đó trung tâm y tế hoặc trung tâm y  tế  dự  phòng  quản  lý  các  trạm  y  tế  và  phòng  khám  khu  vực.  Do  vậy,  tại  các  tỉnh  được  khảo  sát có sự đan xen cả 2 mô hình tổ chức này. Có  tỉnh tách toàn bộ TTYT huyện thành bệnh viện  huyện và trung tâm y tế dự phòng (Đồng Nai),  có tỉnh giữ nguyên các TTYT huyện (Tây Ninh),  có  tỉnh  đã  tách,  sau  lại  sáp  nhập  lại  1  số  trung  tâm, một số là BV và TTYT chức năng dự phòng  (Long  An,  Tiền  Giang,  Bến  Tre).  Một  số  huyện  xa trung tâm, bên cạnh TTYT còn có BV khu vực  phụ  trách.  BV  khu  vực  có  quy  mô  lớn  hơn  BV  huyện  (trên  200  giường)  nhưng  có  BV  khu  vực  là cấp tỉnh (hạng II), có BV khu vực cấp huyện  (hạng  III).  Các  BV  khu  vực  hạng  III  cũng  được  khảo sát trong nghiên cứu này. Có 26 BV huyện  và 18 TTYT trong tổng số 44 đơn vị, đạt 100% số  đơn  vị  là  đối  tượng  nghiên  cứu.  Trong  đó  có  những BV và TTYT nằm ở thủ phủ của tỉnh hoặc  có đường thuận tiện để tới trung tâm thành phố  Hồ Chí Minh.

Giảm Tăng Bằng Số lượng 4 18 22 Tối thiểu 23.00 2 38,00 100 Trung bình 29,6 31,2

Bảng 2. Số giường kế hoạch và số giường thực kê

n Thấp nhất Cao nhất Bình quân

44 30 290 103

Theo  bảng  2  và  biểu  đồ  1,  số  giường  bệnh  thực kê của 50% BV và TTYT có thay đổi, chỉ 9%  giảm  số  giường  còn  41%  là  tăng;  mức  giảm  và  tăng cũng xấp xỉ nhau (29,6  và  31,2%  so  với  số  giường kế hoạch theo bảng 3). Việc tăng số GB  thường  để  đáp  ứng  lượng  BN  ngày  càng  tăng,  cũng  thể  hiện  khả  năng  hoạt  động  tốt  của  BV.  Tuy  nhiên,  thực  tế,  các  BV  có  số  giường  tăng  không hẳn vì lý do BN nằm viện đông mà còn  do BV được xây mới rộng hơn, kê giường nhiều  lên để đón đầu nhưng số giường KH chưa được  duyệt  điều  chỉnh  kịp;  ngược  lại,  các  BV  hoặc  TTYT  giảm  giường  (4  BV  và  TTYT)  thường  chỉ  do  việc  xây  mới  và  được  duyệt  GB  tăng  lên  nhưng bệnh  viện  vẫn  duy  trì  số  GB  thực  kê  cũ  phù hợp với mức hoạt động hiện tại.

18 30 130 78 Số giường kế hoạch Trung tâm y tế

Tình trạng nhân lực y tế

Tỷ số và cơ cấu nhân viên y tế

265

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tỷ lệ không NVYT/GBTK

Tỷ lệ không đạt tỷ số NVYT/GBKH

60-65%

96.1

84.6

Bệnh viện huyện

88.9

83.

18-20%

Trung tâm y tế huyện

Bệnh viện huyện Trung tâm y tế h ệ

84.

93.1

15-22%

Bv huyện và TTYT huyện

Bv huyện và TTYT huyện

82.

8

83.5

8

84.

8

9

84

86

88

90

92

94 96

Biểu đồ 2. a,b: Tỷ lệ không đạt tỷ số NVYT/GB so với quy định BV hạng 3 khu vực ĐBSCL

Biểu đồ 3. Tỷ lệ khối lâm sàng, khối hành chính, khối  CLS và dược so với quy định

Về cơ cấu NVYT theo các bộ phận, khối lâm  sàng có tỷ lệ trung bình cao (73,21%) và mức này  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu  BV  tư  nhân  tại  TP.HCM  (trung  bình  61,75%)(4).  Các  BV  tuyến  huyện  có  tỷ  lệ  cao  (93,2%)  không  đạt  và  vượt  quy  định  chứng  tỏ  có  sự  chú  trọng  nhiều  tới  nhân lực làm chuyên môn lâm sàng.

Bảng 4. Phân tích số lượng không đạt về tỷ lệ lâm  sàng, hành chính, CLS và dược

Không đạt và vượt quy định Không đạt và kém quy định n Quy định Số lượng Tỷ lệ % Tỷ lệ % Số lượng

41 41 100,0 0 0,0 (60 – 65%)

Về  tỷ  số  NVYT/GB,  vì  có  sự  khác  biệt  về  chức  năng  của  BV  huyện  và  TTYT  huyện  có  giường bệnh nên phải xét đến sự khác nhau về  tỷ  số  này.  Theo  bảng  4,  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  <  0,05:  tỷ  số  NVYT/GB  ở  TTYT huyện thì cao hơn ở BV huyện. Đáng chú  ý là tỷ lệ không đạt và kém quy định cũng cao  tuyệt  đối  ở  BV  huyện.  Như  vậy  nếu  chỉ  xét  tổ  chức BV huyện thì chỉ có dưới 5% số BV huyện  đạt yêu cầu quy định về tỷ số NVYT/GB, đa số  còn lại chưa thể theo kịp quy định của thông tư  08/2007  của  BYT.  Điều  này  chắc  chắn  làm  hạn  chế  cho  việc  thực  hiện  nhiệm  vụ  trong  đó  có  công tác khám chữa bệnh của bệnh viện. Tỷ số  NVYT/GBKH  trong  nghiên  cứu  này  (từ  0,79  –  1,92)  thì  thấp  hơn  trong  nghiên  cứu  các  BV  tư  nhân  ở  TP.HCM  (trung  bình  NVYT/GB  2,39)(4),  tuy vậy có khả quan hơn so với nghiên cứu của  Khương  Anh  Tuấn  năm  2007  tại  một  số  BV  tuyến TW nơi chỉ đạt 0,57 – 1,09(3).

40 3 7,5 37 92,5 (18 – 20%)

33 0 0,0 33 100,0 (15 – 22%)

Tỷ  lệ  khối  lâm  sàng,  khối  hành  chính,  khối

Khối lâm sàng Khối hành chính Khối CLS và dược

CLS và dược

9.

6.

10

2

8

6

93.2

Đạt

90.9

7

4

Không đạt

2

0

Khối hành

Khối lâm sàng

chín

Khối CLS và Dược

Ngược  lại  tỷ  lệ  khối  hành  chính  (đạt  trung  bình 13,78%) thiếu nhân lực đến 92,5% trong số  90,9  các  đơn  vị  không  đạt.  Kết  quả  này  hoàn  toàn  khác  với  BV  tư  nhân  có  khối  hành  chính  quản  lý  trung  bình  vượt  quy  định  (đạt  25,8  so  với quy định 18‐20%)(4). Khối CLS và dược trung  bình  đạt  13,06%  và  có  75%  số  BV  thiếu  so  quy  định  cũng  tương  tự  như  nghiên  cứu  tại  BV  tư  nhân TP.HCM (trung bình 12,46)(4). Như vậy bên  cạnh  việc  ít  nhân  lực  hành  chính  vì  lực  lượng  này có thể được hợp đồng công việc với tổ chức

266

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  ngoại  viện  thì  nhân  lực  chuyên  môn  CLS  và  dược thiếu tương đối so với khối lâm sàng.

Biểu đồ 4. Tỷ lệ đạt các cơ cấu các chức danh chuyên  môn so với quy định

Cơ cấu các chức danh chuyên môn

6.8

18.2

20.5

100 90 80

70 60 50

93.2

81.8

79.5

Đạtt Không đạt

40 30

20 10 0

Tỷ số BS:   ĐD‐NHS‐ KTV

Tỷ số DS đại   học: Ds trung  học

Tỷ số DS   đại học:  BS

Bảng 5. Phân tích số lượng có tỷ số cơ cấu chuyên môn không đạt

Quy định n

thấp là 2,45(4). Từ các số liệu trên cho thấy tại BV  huyện  lượng  bác  sĩ  tuy  thiếu  nhưng  vẫn  nhiều  tương  đối  so  với  các  chuyên  môn  hỗ  trợ  bác  sĩ  khám và điều trị bệnh. Nếu thiếu lượng chuyên  môn  này  đồng  thời  với  thiếu  nguồn  lực  khác  (thiết bị, hạ tầng) thì một số kỹ thuật cũng khó  được  triển  khai  và  BS  phải  vận  dụng  kỹ  năng  lâm sàng là chính, các trường hợp cần can thiệp  phẫu thhuật, thủ thuật hay kỹ thuật chẩn đoán  tốt hơn đương nhiên không giải quyết được tại  BV huyện.

Sự mất cân đối trên cũng thể hiện  ở  cơ  cấu  các  chức  danh  chuyên  môn  (bảng  6  và  biểu  đồ  5): tỷ số BS : dược sĩ đại học khá cao, trung bình  là  13,67,  trong  khi  quy  định  là  từ  1,5  –  8,  thậm  chí có 8 đơn vị không có dược sĩ đại học (chiếm  18,2%), tuy nhiên tỷ số này còn thấp hơn trong  nghiên cứu BV tư nhân (trung bình đạt 21,37)(4);  tỷ số điều dưỡng‐nữ hộ sinh‐kỹ thuật viên: bác  sĩ lại thấp, chỉ đạt trung bình 2,81 trong khi quy  định từ 3‐3,5, số liệu này thì tương ứng với BV  tư nhân tại TP.HCM cũng có trung bình đạt mức

Tỷ số dược sĩ đại học : BS Tỷ số DS đại học : DS trung học 1/8 – 1/1,5 1/2 – 1/2,5 Tỷ số BS : điều dưỡng-nữ hộ sinh-KTV 1/3 – 1/3,5 35 41 36 Không đạt và vượt quy định Không đạt và kém quy định Tỷ lệ % 100,0 90,2 16,7 Số lượng 0 4 30 Số lượng 35 37 6 Tỷ lệ % 0,0 9,8 83,3

Các chỉ số khác về nhân lực y tế  Bảng 6. Các tỷ số khác về tình trạng nhân lực y tế

n Tối thiểu Tối đa Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên (%)

26 1,0 41,1 14,5 11 10,46 72,14

34 44 0.08 16,7 2.21 71,4 0.86 45,4 0,8 42,1 0.62 12,65 72,09 27,86

đồng  thay  đổi  khá  rộng  từ  1%  đến  41,1%,  đạt  trung bình 14,5% ; tuy nhiên trung vị là 11%. Tỷ  lệ  cán  bộ  chuyên  môn  hợp  đồng  càng  thấp  thì  nhân lực BV càng ổn định, tạo tiền đề hoạt động  tốt. Mặt khác, có một lượng cán bộ chuyên môn

Trong nghiên cứu cũng khảo sát một số tỷ lệ  khác  gắn  liền  với  thực  tế  hoạt  động  của  bệnh  viện,  số  liệu  trong  bảng  7.  Theo  đó  các  BV  thường  phải  hợp  đồng  với  một  lượng  cán  bộ  chuyên  môn,  số  này  cũng  được  tính  trong  số  nhân  lực  y  tế.  Tỷ  lệ  cán  bộ  chuyên  môn  hợp

39 0,1 51,1 7,9 6,6 8,26 104,56 Tỷ lệ nhân viên chuyên môn hợp đồng Tỷ số y sĩ : bác sĩ Tỷ lệ bác sĩ sau đại học Tỷ lệ đại học điều dưỡng, hộ sinh và KTV

267

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  hợp đồng cũng chứng tỏ sự linh hoạt thích ứng  của BV trong bối cảnh chung thiếu nhân lực y tế.

117,3%,  tuyến  tỉnh  đạt  105,2%  và  tuyến  huyện  đạt 103,6%(8). Tuy nhiên kết quả dưới tải đối với  giường thực kê của BV tuyến huyện cũng tương  tự với BV tư nhân tại TP.HCM(4).

90

80

81.8

70

77.3

60

50

CSSD GBKH CSSD GBTK

40

30

20

22.

18.2

10

0

Không đạt

Đạt (85 - 90%)

Biểu đồ 5. Tỷ lệ BV tuyến huyện có CSSD giường  bệnh đạt mức 85 – 90%

Tỷ lệ bác sĩ sau đại học khá cao, trung bình  đạt  45,4%,  và  đây  cũng  chính  là  lượng  bác  sĩ  chức danh quản lý và là chủ chốt của các khoa  phòng hoặc trong ban lãnh đạo. Mặc dù đây là  một chỉ báo đáng mừng cho trình độ bác sĩ ở BV  tuyến  huyện  cũng  như  tuyến  y  tế  cơ  sở  nói  chung,  nhưng  các  bác  sĩ  một  khi  đã  phân  hóa  chuyên  khoa  rõ  ràng  (từ  CK1  trở  lên)  sẽ  chỉ  muốn  làm  ở  chuyên  khoa  đó,  trong  khi  nhiệm  vụ của một BV huyện là khám chữa bệnh tuyến  đầu, cần kiến thức vững vàng về đa khoa. Nếu  có  một  lượng  bác  sĩ  chuyên  khoa  mà  thiếu  sự  đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thì cũng khó  khăn để họ phát huy năng lực chuyên môn của  mình.

Bảng 8. Phân tích số BV, TTYT có công suất sử  dụng giường bệnh không đạt

Không đạt và vượt 90% Không đạt và dưới 85%

n Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng

34 18 52,9 16 47,1

Bên  cạnh  đó  số  điều  dưỡng  đại  học,  nữ  hộ  sinh  đại  học  và  kỹ  thuật  viên  đại  học  cũng  có  mặt trong 39/44 BV. Số lượng các NVYT đại học  này ở tuyến huyện tuy chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ  nhưng  rất  quý  giá,  vì  chính  họ  có  năng  lực  tốt  hơn  để  giúp  nâng  cao  chất  lượng  khám  chẩn  đoán, điều trị và chăm sóc bệnh.

36 11 30,6 25 69,4 CSSD GBKH CSSD GBTK

Công suất sử dụng giường bệnh   Bảng 7. Công suất sử dụng giường bệnh kế hoạch và  giường bệnh thực kê

Phân tích tỷ lệ không đạt cho thấy CSSD GB  dưới mức 85% chiếm tỷ lệ 69,4% (CSSD GBTK)  còn trên mức 90% chiếm tỷ lệ 30,6%. Các con số  chứng tỏ 1 thực tế đa dạng về mức độ hoạt động  của các BV huyện. Có những BV huyện vẫn quá  tải  bên  cạnh  phần  lớn  những  BV  dưới  tải  và  trong mức tải bình thường.

n Tối đa Tối thiểu Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên (%)

44 42,0 152,3 87,65 88,3 23,74 27,08

Bảng 9. CSSD GBKH tại các BV tuyến huyện có  thay đổi GB

44 42,0 123,7 80,48 82,2 19,04 23,66 CSSD GBKH CSSD GBTK n Tối đa Tối thiểu Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn

4 44,8 86 58,85 55,6 18,6

18 52,9 152,3 95,41 93,4 23,7

22 42 126,7 86,99 88,3 20,9

CSSD  GBKH  trung  bình  đạt  87,65%  là  mức  tốt,  riêng  CSSD  GBTK  trung  bình  và  trung  vị  đều dưới 85% tức thể hiện sự dưới tải. So với các  BV  tuyến  tỉnh  và  trung  ương  thì  CSSD  GB  của  BV  tuyến  huyện  thấp  hơn  nhiều.  Theo  nghiên  cứu  năm  2009  của  Viện  Chiến  lược  và  Chính  sách y tế thì CSSD GB BV tuyến trung ương từ  165  –  200%(3),  theo  kết  quả  triển  khai  thực  hiện  chỉ  thị  06  về  chống  quá  tải  BV  thì  CSSD  GBTK  tính trung bình trên toàn quốc BV tuyến TW đạt

CSSD  GBKH  trung  bình  của  các  BV  giảm  giường  là  thấp  (58,9%)  hơn  nhiều  so  với  mức

Các BV, TTYT giảm GB Các BV, TTYT tăng GB Các BV, TTYT không thay đổi số GB

268

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  85%, còn CSSD GBKH của các BV tăng giường,  trung bình là 95,4% ‐ cao hơn mức 90%.

là lân cận TP.HCM, người dân khi bị bệnh phải  nằm  viện  thường  vượt  tuyến  để  điều  trị  ở  BV  tỉnh hoặc các BV lớn ở TP.HCM. Nghiên cứu của  Nguyễn Văn Cư cho biết có từ 43,6 – 77,1% BN  đến  khám  tại  một  số  BV  lớn  ở  TP.HCM  có  thể  điều  trị  được  ở  tuyến  cơ  sở(7).  Nghiên  cứu  của  Viện chiến lược và Chính sách y tế thì có từ 60 –  95%  BN  đến  thằng  BV  tuyến  TW  mà  không  có  giấy  chuyển  bệnh  của  tuyến  trước(3).  Chính  vì  thế mà tỷ lệ khỏi bệnh nội trú rất cao và tỷ lệ tử  vong  rất  thấp  tại  các  BV  tuyến  huyện  trong  nghiên  cứu  này  không  thể  nói  được  là  chất  lượng điều trị tốt.

Như  vậy  CSSD  GB  tuyến  huyện  trong  nghiên cứu này thấp hơn kể cả so với trung bình  tuyến  huyện  trên  toàn  quốc.  Thực  tế  các  BV  tuyến  huyện  thường  nằm  ở  trung  tâm  một  địa  giới hành chính cấp huyện, tại khu vực các tỉnh  nghiên cứu trung tâm huyện có bán kính gần tới  các  khu  dân  cư  chỉ  dưới  10km,  nhờ  đó  người  dân có thể thuận lợi tới BV hoặc TTYT huyện và  đi về trong ngày, nên có thể BN không lựa chọn  nằm  viện  nhiều.  Đó  chỉ  là  một  khả  năng  bên  cạnh khả năng lớn nhất là 5 tỉnh được khảo sát

Bảng 10. Một số chỉ số về kết quả hoạt động khám chữa bệnh

Tỷ lệ khỏi bệnh nội trú (%) n Tối thiểu Tối đa Trung bình Trung vị

6.8

22.6

29.5

41.5

45.2

93.2

77.4

70.5

58.5

54.8

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

n=44

n=31

n=31

n=44

n=41

Đẻ

Phẫu thuật

Th thuật

FT loai 2,1,đặc biệt

Th thuật 2,1,đặc biệt

có thực hiện

không thực hiện

Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện BV và trung tâm y tế Tỷ lệ tử vong thô (%) Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện BV và trung tâm y tế Số ngày điều trị trung bình của BN nội trú Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện BV và trung tâm y tế 17 26 43 14 17 31 18 26 44 28,3 36,3 28,3 0.01 0,01 0,01 2,02 2,75 2,02 96,5 90,7 96,5 0.31 0,30 0.31 8,50 8,75 8,75 64,17 66,76 65,74 0.09 0,09 0,09 4,96 5,76 5,43 Độ lệch chuẩn 18,50 16,84 17,34 0.08 0,08 0.08 1,44 1,40 1,46 Hệ số biến thiên (%) 28,83 25,22 26,38 88,89 88,89 88,89 29,03 24,31 26,89 61,2 66,0 65,4 0.05 0.06 0,06 4,90 5,72 5,30

Biểu đồ 6. Tỷ lệ BV huyện thực hiện phẫu thuật, thủ  thuật và đẻ mổ

Tỷ  lệ  khỏi  bệnh  nội  trú  trung  bình  đạt  65,74%, tỷ lệ tử vong thô là 0,09%, trong khi đó  theo số liệu kết quả điều trị năm 2009 trên toàn  quốc các tỷ lệ này là 64,8% và 0,26%(8). Số ngày  điều  trị  trung  bình  của  BN  nội  trú  ở  nghiên  cứu  này  cũng  thấp  (5,43  ngày)  so  với  số  liệu  quốc  gia  BV  huyện  (6,2  ngày  năm  2008)(2).  Ngày điều trị trung bình BN nội trú thấp nhìn  chung được coi là tốt, nếu tính riêng từng loại  bệnh  thì  chứng  tỏ  sự  tiến  bộ  trong  điều  trị  bệnh,  tuy  nhiên  nếu  xét  trên  bình  diện  một  khu vực và cho tất cả các loại bệnh thì có thể là  do mô hình các bệnh vào viện là cấp tính, nhẹ,  dễ chữa trị ở tuyến này (BV huyện).

Về  phẫu  thuật,  theo  danh  mục  phân  tuyến  kỹ  thuật  kèm  quyết  định  23/2005  của  BYT,  BV  huyện  phải  mổ  được  lấy  thai  lần  đầu,  phẫu  thuật  cấp  cứu  viêm  ruột  thừa,  thủng  dạ  dày,  thoát  vị  bẹn  nghẹt,  cắt  lách  chấn  thương  v.v...  Theo biểu đồ 6, có  đến  29,5%  BV  huyện  không

269

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  có thực hiện phẫu thuật nào trong 1 năm, chứng  tỏ chưa triển khai được phòng mổ. Trong số 31  BV huyện có thực hiện được phẫu thuật thì chỉ  24 BV (chiếm 77,4%) thực hiện được phẫu thuật  từ loại 2 trở lên và 17 BV (chiếm 54,8%). Mổ đẻ

theo  chỉ  định  thông  thường  là  một  cấp  cứu  tương  đương  phẫu  thuật  loại  2,  nếu  BV  huyện  không sẵn sàng thì người dân sẽ chuẩn bị đẻ ở  tuyến cao hơn để được yên tâm về sự cố nếu có  của cuộc đẻ.

Bảng 11. Tỷ lệ các ca phẫu thuật, thủ thuật và đẻ mổ

n Tối thiểu Tối đa Trung vị

7

6

65.

5

52.

4

Tại  các  BV  huyện  có  thực  hiện  mổ  đẻ  thì  trung vị đạt tỷ lệ 8,8% số ca đẻ, tỷ lệ này rất thấp  so với số liệu quốc gia năm 2009 là 26,6%(8), tuy  nhiên  các  BV  này  đã  thực  hiện  được  cơ  bản  nhiệm vụ của BV tuyến huyện.

3

33.

2

1

0

Trung tâm y tế huyện

Bệnh viện huyện

BV huyện và TTYT huyện

Tỷ lệ phẫu thuật Tỷ lệ phẫu thuật loại 2,1và đặc biệt (%) Tỷ lệ đẻ mổ (%) Tỷ lệ thủ thuật Tỷ lệ thủ thuật 2,1và đặc biệt (%) 31 24 17 41 24 0,001 2,8 0,3 0,007 5,7 0,50 99,9 27,2 1,66 67,2 Trung bình 0,09 40,08 10,58 0,33 30,49 0,02 22,3 8,8 0,21 26,8 Độ lệch chuẩn 0,14 35,73 9,05 0,34 17,71 Hệ số biến thiên (%) 155,56 89,15 85,54 103,03 58,08

Biểu đồ 7. Phân bố tỷ lệ BV và TTYT có nội soi chẩn  đoán

Tương  tự  như  vậy  đối  với  những  bệnh  điều  trị  ngoại  khoa  ở  tuyến  huyện  nhưng  BV  viện  chưa  thực  hiện  được  hoặc  chưa  được  sự  tin  tưởng  của  BN  nên  số  lượng  và  tỷ  lệ  thực  hiện  rất  thấp:  trong  100  ca  nằm  viện  trung  bình chỉ có 9 ca phẫu thuật nhưng trung vị là 2  ca. Kết quả này cũng tương đương với nghiên  cứu của Nguyễn Thị Huyền Linh năm 2004 tại  Ninh  Bình  và  của  Nguyễn  Thị  Thanh  Hương  năm  2005  ở  Lào  Cai(6,5).  Có  một  số  BV  huyện  tuy  số  lượng  và  tỷ  lệ  phẫu  thuật  thấp  nhưng  trong  đó  phẫu  thuật  loại  2  trở  lên  rất  cao  (tối  đa  là  99,9%)  có  thể  do  đơn  vị  này  mới  triển  khai một số kỹ thuật và được sự hỗ trợ chuyên  môn  từ  tuyến  trên  theo  chương  trình  dự  án  1816,  điều  quan  trọng  là  việc  duy  trì  tiếp  tục  các kỹ thuật đó trong thời gian sau.

Cũng theo danh mục kỹ thuật tại quyết định  23/2005  của  BYT,  tại  BV  huyện  phải  thực  hiện  được nội soi chẩn đoán một số phần cơ bản của  ống tiêu hóa và mũi xoang. Có thể nói nội soi là  một đại diện cho các kỹ thuật lâm sàng mới, đòi  hỏi  đầu  tư  đáng  kể  về  thiết  bị  và  con  người  ở  tuyến  huyện.  Nếu  BV  huyện  triển  khai  được  chẩn  đoán  nội  soi  và  duy  trì  tốt  thì  chất  lượng  chẩn đoán sẽ được nâng cao và có uy tín hơn với  người dân. Có 33,3% TTYT huyện và 65,4% BV  huyện có nội soi chẩn đoán.

Về thủ thuật cũng được đánh giá tương tự,  có BV tỷ lệ thủ thuật khá cao đạt 1,66 thủ thuật  trên 1 BN nhưng mức trung bình chỉ là 0,33 và  trung vị lệch trái bằng 0,21.

Bảng 12. Số ca nội soi chẩn đoán

Tối thiểu Tối đa Trung bình Trung vị n

Trung tâm y tế Bệnh viện BV và TTYT 23 5 5 5409 6036 6036 1151,3 445,8 629,9 621 79 84 6 17 23 Độ lệch chuẩn 2104,1 1443,7 1619,3 Hệ số biến thiên (%) 182,79 324,26 257,39

270

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Số lượng nội soi của 1 số BV còn rất khiêm  tốn,  chỉ  vài  ca  đến  vài  chục  ca  1  năm,  nhưng  cũng có BV và TTYT đạt hàng nghìn ca, chứng  tỏ sự hoạt động ổn định và đáp ứng tốt nhu cầu  khám bệnh.

84.1

Cận lâm

Lâm sàng

88.6

81

82

83

84

85

86

87

88

89

Mức độ khám chữa bệnh bằng BHYT ở các  BV  và  TTYT  huyện  khá  cao,  đạt  trung  bình  51,8%.  BHYT  là  một  trong  những  nguồn  thu  chính để đảm bảo tài chính BV. Tuy nhiên, mức  này  ở  TTYT  huyện  thì  thấp  hơn  ở  BV  huyện  nhưng  không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Những  BV  huyện  thường  ở  vùng  phát  triển  công  nghiệp,  dịch vụ, nơi người dân có BHYT theo các tổ chức  xã  hội,  nghề  nghiệp  nhiểu  hơn,  còn  các  TTYT  huyện  thường  ở  các  huyện  địa  bàn  rộng,  xa,  phát triển nông nghiệp và người dân có BHYT ít  hơn,  chủ  yếu  là  đối  tượng  chính  sách.  Tỷ  lệ  khám chữa bệnh BHYT cũng phù hợp với tỷ lệ  người dân có BHYT ở khu vực Đồng bằng sông  Cửu Long là dưới 50%(9).

Biểu đồ 8. Tỷ lệ các BV và TTYT có triển khai kỹ  thuật mới

KẾT LUẬN

n Trung vị Trung bình Tối thiểu Tối đa Độ lệch chuẩn

Bảng 13. Số kỹ thuật mới được triển khai trong năm  Hệ số biến thiên (%)

Phần lớn BV huyện không đạt yêu cầu về tỷ  lệ và cơ cấu nhân lực y tế. 84,1% không đạt tỷ số  NVYT/GBKH và 93,1% không đạt NVYT/GBTK;  Từ  75  –  93,2%  không  đạt  về  tỷ  lệ  các  khối  chuyên môn.

39 1 8 5,21 5 1,69 32,44

37 1 9 4,84 5 1,80 37,19

Tỷ  lệ  khối  lâm  sàng  thường  vượt  mức  quy  định  trong  khi  khối  hành  chính  giảm  tỷ  lệ  và  khối cận lâm sàng – dược thiếu nghiêm trọng.

Tỷ  số  bác  sĩ  và  điều  dưỡng  –  hộ  sinh  –  kỹ  thuật  viên  không  đạt  và  vượt  mức  quy  định  chiếm tỷ lệ cao trong khi tỷ số dược sĩ đại học và  bác sĩ rất thấp.

Công  suất  sử  dụng  giường  bệnh  phần  lớn  không đạt ở mức tối ưu. Có 56,8% dưới mức này  và 25% vượt mức (CSSD giường bệnh thực kê).

Tình trạng triển khai các kỹ thuật mới về lâm  sàng  và  cận  lâm  sàng  trung  bình  mỗi  BV  và  TTYT  đạt  từ  5  –  6  kỹ  thuật.  Việc  triển  khai  kỹ  thuật  mới  đang  được  sự  giúp  sức  từ  chương  trình  dự  án  1816  nhưng  cũng  do  sự  chủ  động  phát  triển  năng  lực  của  mỗi  đơn  vị.  Vẫn  có  những BV hoặc TTYT không triển khai được kỹ  thuật nào trong 1 năm qua (biểu đồ 8).

Số kỹ thuật lâm sàng mới Số kỹ thuật cận lâm sàng mới

Bảng 14. Tỷ lệ BN khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y  tế ở BV huyện

Có một tỷ lệ đáng kể (29,5%) BV huyện chưa  triển khai  phòng  mổ  hoặc  có  phòng  mổ  nhưng  không thực hiện được mổ đẻ. Tỷ lệ phẫu thuật  rất thấp. Thủ thuật được thực hiện nhưng phần  lớn ở mức độ 3. Ở mức độ cao hơn thì tỷ lệ thực  hiện thấp.

n P Tối thiểu Tối đa Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên (%)

18 15,4 78,9 47,41 38,3 22,81 48,11

KIẾN NGHỊ

0,0985

26 21,4 88,7 54,84 53,9 14,88 27,13

Các địa phương cần ưu tiên tập trung nguồn  lực  để  tăng  cường  đầu  tư  cho  BV  huyện:  đẩy  mạnh đào tạo nguồn nhân lực y tế theo địa chỉ  đối  với  đầu  ra  là  bác  sĩ  cũng  như  dược  sĩ,  kỹ  thuật viên; dành các ưu đãi về cơ hội môi trường

44 15,4 88,7 51,80 53,1 18,66 36,02 Trung tâm y tế huyện Bệnh viện huyện BV và trung tâm y tế

271

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  làm việc cũng như thu nhập tốt cho nhân viên y  tế.

3. Khương Anh Tuấn (2007). Đánh giá tình trạng quá tải của một  số bệnh viện tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và đề xuất giải  pháp khắc phục. www.hspi.org.vn

4. Nguyễn  Bích  Hà  (2010).  Công  suất  hoạt  động  bệnh  viện  tư  nhân  tại  TP.HCM.  Bản  tin  các  yếu  tố  xã  hội  quyết  định  sức  khỏe. WHO. Tập 3, 2011

5. Nguyễn Thị Huyền Linh (2004). Nghiên cứu nguồn nhân lực y  tế và hoạt động của các bệnh viện huyện của Ninh Bình trong  4  năm  (2000  –  2003).  Luận  văn  tốt  nghiệp  cử  nhân  y  tế  công  cộng. Trường Đại học Y Hà Nội

Các BV huyện cần phát triển cơ bản về ngoại  khoa  và  hồi  sức  cấp  cứu  để  đáp  ứng  cứu  chữa  tốt giai đoạn đầu của những tình trạng sức khỏe  xấu,  đồng  thời  tăng  thu  hút  người  bệnh  bằng  chất  lượng  thực  sự  khám  chữa  bệnh  đa  khoa  ban  đầu  nhằm  tăng  CSSD  GB,  giảm  tình  trạng  vượt tuyến gây quá tải ở các BV tuyến trên.

6. Nguyễn Thị Thanh Hương  (2005).  Nghiên  cứu  nguồn  lực  và  hoạt  động  của  các  bệnh  viện  huyện  ở  Lào  Cai  trong  5  năm  (1999  –  2003).  Luận  văn  tốt  nghiệp  cử  nhân  y  tế  công  cộng.  Trường Đại học Y Hà Nội

7. Nguyễn Văn Cư (2004). Xác định nguyên nhân và đề xuất biện  pháp giải quyết quá tải bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh.  Luận án tiến sĩ y học, đại học Y dược Tp.HCM

8. Viện công nghệ thông tin – thư viện y học trung ương (2009).

Thống kê năm 2009.  http://www.cimsi.org.vn/THONGKE.aspx?action=thongke&la ng=vi

Lời cảm ơn: Chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự cho phép tiếp  cận số liệu của ban lãnh đạo Sở Y tế các tỉnh Đồng Nai, Tây  Ninh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre và sự cộng tác nhiệt tình  của  các  cán  bộ  chuyên  viên  của  Sở  đã  giúp  chúng  tôi  hoàn  thành được báo cáo này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

9. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2010).Thực trạng an sinh

Bộ Y tế (2009). Thông tư số 10/2009/TT‐BYT Ngày 14 tháng 08  năm 2009 về Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban  đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.  2. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2008). Số liệu hoạt động bệnh

xã hội 2001‐2010.   http://www.ilssa.org.vn/NewsDetail.asp?NewsId=129&CatId= 32

10. Vụ  khoa  học  và  đào  tạo  (2006).  Quản  lý  và  tổ  chức  y  tế.  Hệ

thống tổ chức ngành y tế Việt Nam. NXB Y học. 2006

viện 2007‐ 2008.  http://www.kcb.vn/ShowNews.aspx?lang=vn&cat=027&nid=7 0

272

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KHẢO SÁT BƯỚC ĐẦU VỀ MỨC ĐỘ KHỐI LƯỢNG VÀ ÁP LỰC CÔNG  VIỆC, TÌNH TRẠNG ĐÀO TẠO LIÊN TỤC VỀ CHUYÊN MÔN Y ĐỐI VỚI  CÁC Y SĨ, BÁC SĨ TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN HUYỆN

Nguyễn Bích Hà*, Nguyễn Thị Thùy*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh viện huyện là đơn vị y tế có chức năng khám chữa bệnh đa khoa cả ngoại trú và nội trú  cao nhất của tuyến y tế cơ sở, có khả năng tạo ra những áp lực nhất định về khối lượng cũng như chất lượng  công việc. Tuy nhiên với thực trạng công suất sử dụng giường bệnh thấp và thiếu nhân lực y tế tại các bệnh viện  huyện thì các y, bác sĩ ở đây có nhận định như thế nào về khối lượng và áp lực công việc cũng như tình trạng  được đào tạo liên tục về chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc.

Mục tiêu: Khảo sát mức độ khối lượng và áp lực công việc và tình trạng đào tạo liên tục về chuyên môn của

đội ngũ y, bác sĩ tại một số bệnh viện huyện.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Lấy mẫu toàn bộ các đối tượng là y sĩ, bác sĩ làm việc tại bệnh

viện huyện. Số liệu được thu thập thông qua bản câu hỏi tự điền khuyết danh.

Kết quả: Có 284/335 y, bác sĩ của 12 bệnh viện huyện được khảo sát. Độ tuổi trung bình của y, bác sĩ khá  cao, trung vị là 44 tuổi (nữ) và 46 tuổi (nam). Có 70% y, bác sĩ cho rằng khối lượng công việc nhiều hoặc quá  nhiều và 62% cho rằng áp lực công việc là căng thẳng hoặc rất căng thẳng. Có 21,8% y, bác sĩ được đào tạo liên  tục trong vòng 1 năm qua, trong đó chủ yếu là đào tạo dài hạn đại học hoặc sau đại học (88,7%). Hiện có 20,8%  bác sĩ và 27% y sĩ là đa khoa, còn lại là chuyên khoa từ sơ bộ trở lên, riêng bác sĩ có 50,3% có học vị sau đại học  từ CK1 trở lên. Trong số các y sĩ, bác sĩ đang công tác và chưa đi học trong một năm qua thì 51% có nhu cầu học  nâng cao lên 1 học vị hoặc học chuyên khoa sâu, 32% mong muốn học chuyên khoa sơ bộ hoặc học ngắn hạn cập  nhật chuyên môn và ngoại ngữ.

Kết luận: Nên có nghiên cứu sâu hơn về mức độ đầu tư đào tạo chuyên khoa cho BV tuyến huyện ở khía  cạnh lợi ích cộng đồng. Khảo sát thêm về các khía cạnh áp lực và mức độ hài lòng trong công việc, đồng thời cần  củng cố mạnh mẽ vai trò khám chữa bệnh đa khoa tuyến ban đầu của các bệnh viện huyện.

Từ khóa: Y bác sĩ, bệnh viện huyện, khối lượng, áp lực công việc, đào tạo liên tục, chuyên môn y

ABSTRACT

PRIMARY SURVEY ON WORKLOAD, WORK PRESSURE AND STATUS OF TRAINING  CONTINUOUSLY MEDICAL SKILLS FOR PHYSICIANS AND MEDICAL DOCTORS IN SOME  DISTRICT HOSPITALS

Nguyen Bich Ha, Nguyen Thi Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 275 ‐ 282

Background: The district hospital is a medical agency functions to exam and treat generally both outpatient  and inpatien ultimately of basic medical level. Thus, it is propably made the particular pressure of workload and  work quality. However, as the status of capacity of utilization of sick beds in low rate and insufficience of health  workers in district hospitals, therefore the physicians and medical doctors there consider how about the volume  and  pressure  of  works  as  well  as  the  status  of  training  continuously  medical  skills  to  meet  to  demands  of  the

* Viện Vệ sinh Y tế công cộng TPHCM  Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Bích Hà   ĐT: 0908877820  Email: nguyenbichha@ihph.org.vn

273

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  missions..

Objectives: To survey the volume and pressure of works, the status of training continuously medical skills

for physicians and medical doctors in some district hospitals.

Methods: Descriptive cross‐sectional study. Subjects are physicians and medical doctors working in district

hospitals. Interviewing through anonymous questionairs. Sampling totally in 12 hospitals.

Result: There were 284 of 335 health staff working for 12 district hospitals enrolled in this study. The age of  these subjects was relatively high; the median age was 45 years. There were 70% of health staff reported that their  workload was heavy or extremely heavy and 62% claimed that the working pressure was high or extremely high.  There were 50% of medical doctors get I specialist degree or above, 51% of medical doctors who did not be trained  within one last year want to study higher academic title or advanced speciality, and 32% of them wanted to be  trained on primary speciality or attended short courses on their speciality or English.

Conclusion: It should be done more detailed study of level of investment to education speeciality for medical  doctors in district hospitals at aspect of community usefulness. Need to survey more about the sides of pressure  and  not  satisfied  with  works  simultaneously  need  to  consolidate  strengthly  functional  role  to  exam  and  treat  primariety for patients of district hospital level.

Keywords: Physicians, medical doctors, district hospitals, training medical skills, pressure of works

ĐẶT VẤN ĐỀ

những cải tiến phù hợp để sử dụng nhân lực y tế  hợp lý và đảm bảo chất lượng công việc tốt hơn.

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh  giá  mức  độ  tham  gia  các  hoạt  động  khám  chữa  bệnh  về  khối  lượng  ở  một  số  vị  trí  làm việc của y sĩ, bác sĩ.

Đánh giá mức độ áp lực từ khối lượng công  việc khám chữa bệnh cũng như toàn bộ các công  việc khác mà y sĩ hoặc bác sĩ đảm trách.

Xác  định  tình  trạng  đào  tạo  liên  tục  về  chuyên môn y và nhu cầu được đào tạo của các  y sĩ, bác sĩ.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Toàn bộ nhân viên y tế là y sĩ, bác sĩ làm việc

tại các BV huyện

Thiết kế nghiên cứu

Mô tả cắt ngang. Thời gian: tháng 8 – tháng  11/2011.  Địa  điểm:  Các  BV  huyện  tại  các  tỉnh  Đồng  Nai,  Tây  Ninh,  Long  An,  Tiền  Giang  và  Bến Tre.

Bệnh  viện  (BV)  huyện  là  đơn  vị  y  tế  thuộc  tuyến  y  tế  cơ  sở.  Nhiệm  vụ  chủ  yếu  của  BV  huyện là khám chữa bệnh đa khoa ban đầu, giải  quyết các vấn đề cơ bản về các trường hợp cấp  cứu nội và ngoại khoa. Một bác sĩ điều trị tại BV  huyện  đòi  hỏi  phải  có  khả  năng  chuyên  môn  rộng  để  thực  hiện  tốt  nhiệm  vụ  trên.  Bên  cạnh  đó,  quy  định  BV  huyện  và  các  trạm  y  tế  xã  phường  là  nơi  đăng  ký  khám  chữa  bệnh  ban  đầu cho phần lớn đối tượng(1), nên số người dân  đến khám chữa bệnh thông thường ở BV huyện  sẽ cao. Vì thế sẽ có áp lực nhất định do yêu cầu  phải  đảm  bảo  cả  số  lượng  và  chất  lượng  khám  chữa  bệnh  đặt  lên  vai  các  bác  sĩ  điều  trị.  Bên  cạnh đó, tình trạng thiếu nhân lực y tế chủ chốt  và một số bác sĩ vừa làm công tác chuyên môn  vừa làm công tác quản lý thường xảy ra ở các BV  tuyến  huyện  đã  gây  khó  khăn  trong  việc  hoàn  thành tốt nhiệm vụ khám chữa bệnh. Mặt khác  nhu cầu cần được đào tạo nâng cao và cập nhật  thường  xuyên  về  chuyên  môn  thì  chưa  được  triển  khai  mạnh  mẽ  cho  các  đối  tượng  này.  Do  vậy, thực tế khối lượng và áp lực công việc cũng  như nhu cầu đào tạo liên tục của các y sĩ, bác sĩ  tại BV huyện là một vấn đề cần được lượng giá.  Nhờ  đó  giúp  cho  người  quản  lý  bệnh  viện  có

Mỗi  tỉnh  miền  Tây  chọn  ngẫu  nhiên  2  BV  huyện, mỗi tỉnh miền Đông chọn ngẫu nhiên 3  BV huyện (BV huyện có thể thuộc trung tâm y tế  huyện). Tổng cộng được 12 BV huyện với số y sĩ,  bác  sĩ  là  335.  Lấy  mẫu  toàn  bộ  và  số  mẫu  sau

274

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

100,0 Chuyên khoa

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  cùng là 284 y sĩ, bác sĩ, đạt 85%, số còn lại đi học  xa, đi công tác, nghỉ ốm, nghỉ hậu sản.

47 29 27,8 17,2

Thiết kế bộ câu hỏi tự điền khuyết danh về  tình  trạng  chuyên  môn  được  đào  tạo  và  nhận  định  của  họ  về  khối  lượng  và  áp  lực  các  công  việc theo nhiệm vụ. Gửi bản câu hỏi tới y sĩ, bác  sĩ  theo  danh  sách  của  12  bệnh  viện  được  chọn,  sau đó nhóm nghiên cứu tới từng bệnh viện để  giám sát, hướng dẫn điền đầy đủ các thông tin  và thu nhận bản trả lời đã hoàn chỉnh.

Nội, Nhi, Nhiễm Ngoại, sản, chấn thương chỉnh hình Gây mê, hồi sức cấp cứu Cận lâm sàng TMH, RHM, đông y, da liễu Quản lý y tế, y tế công cộng Không chuyên khoa (đa khoa) 2 7 37 12 35 1,2 4,1 21,9 7 20,8 100,0 Học vị

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bác sĩ, chuyên khoa sơ bộ Chuyên khoa I, thạc sĩ Chuyên khoa II 84 83 2 49,7 49,1 1,2 100,0

Bảng 4. Phân loại theo chuyên khoa của Y sĩ

n Tối đa Chuyên khoa Y sĩ

Các đặc tính của mẫu nghiên cứu  Bảng 1. Tuổi của y sĩ, bác sĩ được phỏng vấn  Trung vị 45 45

Đối tượng Bác sĩ 169 115 Trung bình 44,18 39.4 Tối thiểu 22 21 59 59 Y sĩ Độ lệch chuẩn 6.14 11.23

Đa khoa Sản Nha Tai mũi họng Đông y Khác Tần suất (n=115) 31 22 10 6 20 26 Tỉ lệ (%) 27 19 8,8 5,3 17,3 22,6 100,0

Bảng 5. Phân bố vị trí làm việc của y sĩ, bác sĩ  (n=284)

Bác sĩ Y sĩ Cộng Thuộc khoa phòng Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

39 23,1 9 7,8 48

Biểu đồ 1. Phân bố tuổi của y sĩ, bác sĩ được phỏng  vấn

Bảng 2. Giới tính của y sĩ, bác sĩ được phỏng vấn

15 8,9 10 8,7 25 Nam Nữ Đối tượng Tổng % 34 20,1 22 19,1 56

Tần suất 123 Tỷ lệ (%) 43,3 Tần suất 161 Tỷ lệ (%) 56,7 284 100,0 28 16,6 18 15,6 46

33 19,5 35 30,4 68 Y sĩ và Bác sĩ Y sĩ Bác sĩ 34 89 29,6 52,7 81 80 70,4 47,3 115 100,0 169 100,0

8 4,7 7 6,1 15

12 7,1 14 12,2 26

Bảng 3. Phân loại theo chức danh, chuyên môn và  học vị của bác sĩ  Phân loại chức danh, chuyên môn, học vị

Tần suất (n=169) Tỉ lệ (%) Ban lãnh đạo và các phòng chức năng Khoa hồi sức cấp cứu Khoa nội, nhi, nhiễm, đông y Khoa ngoại sản, chấn thương chỉnh hình Khoa khám bệnh Khoa cận lâm sàng Y tế dự phòng, phòng chống nhiễm khuẩn Cộng 169 100,0 115 100,0 284 Chức danh quản lý

Ban lãnh đạo Trưởng/Phó khoa chuyên môn Trưởng/Phó phòng chức năng Bác sĩ nhân viên 27 90 12 40 16 53,2 7 23,8

275

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Khối lượng công việc của y sĩ, bác sĩ

1.7

Y

44

n=115

8.7

Y sĩ

40.7

23.5

n=115

13.5

47.8

0

22.5

Bác sĩ nhân viên

Bác sĩ nhân viên n=4

25

70

57.5

n= 40

7.5

87.5

0

16.7

Trưởng/ phó phòng

Trường phó phòng n= 12

33.3

66.7

58.3

n= 12

16.7

83.3

0

Trường phó khoa

18

n= 90

35.6

38.5

43.6

61.1

Trưởng/ phó phòng n= 90

73.3

0

Lãnh đạo

7.4

n= 27

14.8

44.4

Lãnh đạo

48.2

70.4

n= 27

63

0

10

20

30

40

50

60

70

80

0

20

40

60

80

100 (%)

Quá nhiều

Nhiều

Vừ

Ít

Khám bệnh và điều trị ngoại trú

Điều trị nội trú

Hối sức cấp cứu

Biểu đồ 4. Tự nhận xét về mức độ khối lượng công  việc của theo chức danh

Biểu đồ 2. Tỷ lệ tham gia khám chữa bệnh trong số y  sĩ, bác sĩ được phỏng vấn (n=284)

Bảng 7. Số BN trung bình mà y sĩ, bác sĩ phụ trách  khám điều trị trong 1 ngày có tham gia KCB

22

Hành chính

33

Điều

7

Cận lâm sàng

8.7

Hồi sức cấp cứu

23.5

Điều trị nội trú

n Tối thiểu Tối đa Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên (%)

47.8

Khám và điều trị ngoại trú

60 (%)

0

10

20

30

40

50

120 5 200 62,11 55 45,81 73,76

102 2 55 20,91 20 12,20 58,35

Biểu đồ 3. Tỷ lệ y sĩ tham gia các loại công việc khác  nhau (n=115)

Số BN khám điều trị ngoại trú trung bình một ngày Số BN điều trị nội trú hoặc hồi sức cấp cứu

Bảng 6. Tự nhận xét về mức độ khối lượng công việc  của y, bác sĩ

Mức độ khối lượng công việc Tỉ lệ (%)

Mức độ áp lực công việc đối với y sĩ, bác sĩ  Bảng 8. Tự đánh giá mức độ áp lực công việc của y  sĩ, bác sĩ (n=284)  Mức độ Rất căng thẳng Căng thẳng Vừa phải Không áp lực gì

Tỷ lệ (%) 15,1 46,8 34,9 3,2 Tần số 43 133 99 9 Dưới 25% Từ 25 – dưới 50% Từ 50 – dưới 75% Từ 75- 100%

26,1 44 1 28,9 100,0

Tần suất (n=284) Thời lượng khám chữa bệnh so với tổng lượng công việc 4,4 13 12,4 35 27,5 78 55,8 158 100,0 Tự nhận xét về tổng khối lượng công việc chung 74 Quá nhiều 125 Nhiều 3 Ít việc 82 Vừa Mức độ áp lực công việc chung 43 133 99 9 Rất căng thẳng Căng thẳng Vừa phải Không áp lực gì 15,2 46,8 34,8 3,2 100,0

276

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

5.2

Y sĩ

45.2

n=115

40.9

8.7

Bảng 12. Các lý do chính khiến y sĩ, bác sĩ không  tham gia học nâng cao

7.5

30

Bác sĩ nhân viên n=40

55

7.5

0

33.3

Trưởng phó phòng n=12

50

16.7

0

27.8

Trưởng phó khoa n=90

46.7

25.5

Lãnh đạo

0

22.2

n=27

55.6

22.2

0

10

20

30

40

50

60 (%)

Lý do Tỷ lệ (%)

Rất căng thẳng

Căng

Vừa phải

Không áp lực gì

Chưa đủ thâm niên, lớn tuổi Hoàn cảnh riêng Công việc quá nhiều Không có khóa học thích hợp Lý do khác Tần số (n=222) 71 51 56 13 31 32,0 23,0 25,2 5,8 14,0 100,0

Bảng 13. Các loại hình đạo tạo cần thiết theo nhu cầu  công việc của các y sĩ, bác sĩ  Loại hình đào tạo

Tỷ lệ (%)

Biểu đồ 5. Tự đánh giá mức độ áp lực công việc theo  chức danh

Tần số (n=154) 25 16,2

Bảng 9. Tự đánh giá mức độ khả năng đảm nhiệm  công việc KCB được giao  Khả năng đảm nhiệm

Tỷ lệ (%)

54 25 30 20 35,1 16,2 19,5 13,0

100,0 Ngắn hạn cập nhật chuyên môn, ngoại ngữ Nâng lên một học vị Nhiều loại chuyên khoa sơ bộ Một số chuyên khoa sâu Quản lý y tế/quản lý nhà nước/y tế dự phòng Dưới 25% Từ 25 – dưới 50% Từ 50 – dưới 75% Từ 75 – 100% Tần số (n=284) 17 20 65 182 6,0 7,0 22,9 64,1 100,0

BÀN LUẬN

Các y sĩ, bác sĩ được phỏng vấn

Tình trạng y sĩ, bác sĩ được học nâng cao và  nhu cầu được đào tạo liên tục  Bảng 10. Phân tích tỷ lệ y sĩ, bác sĩ có tham gia học  nâng cao chuyên môn

Không Có Đối tượng Tổng % Tần số Tần số Tỷ lệ % Tỷ lệ %

20 74,1 7 25,9 27 100,0

68 75,6 22 24,4 90 100,0

11 91,7 1 8,3 12 100,0

Lãnh đạo BV/TTYT Trưởng/Phó khoa chuyên môn Trưởng/Phó phòng chức năng Bác sĩ nhân viên 23 57,5 100 86,9 222 78,2 Y sĩ Cộng 17 15 62 42,5 40 100,0 13,1 115 100,0 21,8 284 100,0

Bảng 11. Tỷ lệ các loại khóa học chính được tham gia

Có 284 y sĩ, bác sĩ được tham gia nghiên cứu  trên tổng số 335 y sĩ, bác sĩ của 12 BV và TTYT  được chọn, đạt 85% lượng mẫu cần lấy. Bác sĩ có  tuổi  trung  bình  cao  hơn  40  và  trung  vị  quá  45,  đây  là  lứa  tuổi  có  năng  lực  làm  việc  ổn  định,  kinh nghiệm tốt nhưng mức tuổi trẻ dưới 30 tuổi  có ít (bảng 1 và biểu đồ 1) cũng chứng tỏ thiếu  lớp  thừa  kế  và  tiếp  cận  kỹ  thuật  mới.  Kết  quả  này  cũng  gần  giống  như  nghiên  cứu  của  Đỗ  Phương Thảo tại 3 BV huyện của Hà Nội(2). Y sĩ  có tuổi trung bình thấp hơn nhưng có 2 đỉnh của  đa giác tần số: một ở mức trẻ <25 tuổi và một ở  mức  quá  trung  niên  >45  tuổi.  Như  vậy,  vẫn  có  một lượng khá nhiều y sĩ trẻ được về làm việc ở  tuyến huyện, đây là lưc lượng có khả năng học  chuyên tu lên thành BS đáp ứng nhu cầu tại địa  phương.

Khóa học Tỷ lệ (%)

Giới tính của bác sĩ tương đối đều trong khi  y sĩ là nữ giới nhiều hơn so với nam giới (70,4%  và  29,6%)  (bảng  2).  Y  sĩ  là  nữ  chiếm  tỷ  lệ  cao  cũng phù hợp với đặc trưng khi lựa chọn nghề  nghiệp.

Thực tập sinh tuyến trên Chuyên khoa sơ bộ Đại học (BS chuyên tu) Chuyên khoa I/cao học Chuyên khoa II/NCS Tần số (n=62) 7 16 6 30 3 11,3 25,8 9,7 48,4 4,8 100,0

277

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Theo  số  liệu  ở  bảng  3,  bác  sĩ  có  chức  danh  quản  lý  nhiều  nhất  ở  các  khoa  chuyên  môn  (53,2%) đây là nhóm chức danh có vị trí nòng cốt  về  cả  chuyên  môn  và  quản  lý;  BS  có  chuyên  khoa chiếm phần lớn trong khi chỉ có 20,8% bác  sĩ là đa khoa; riêng học vị của BS là chuyên khoa  1 hoặc thạc sĩ chiếm 49,1%, chuyên khoa 2 là 1%,  không  có  tiến  sĩ.  Như  vậy  bác  sĩ  chuyên  khoa  sau  đại  học  chiếm  đến  50%,  đây  là  nhóm  có  năng lực chuyên môn cao để đảm nhiệm tốt các  nhiệm vụ tuyến BV huyện xét về khía cạnh nhân  lực.

khác  biệt  giữa  các  chức  danh:  Cho  rằng  công  việc  “quá  nhiều”  có  tỷ  lệ  cao  nhất  là  ban  lãnh  đạo,  sau  đó  giảm  dần  tới  các  trưởng  phó  khoa  chuyên  môn,  giảm  nhanh  ở  trưởng  phó  phòng  chức năng, tới y sĩ rồi đến bác sĩ; cho rằng công  việc  “nhiều”  chiếm  tỷ  lệ  cao  ở  mọi  chức  danh;  cho rằng công việc “vừa phải” thì nhiều nhất là  y  sĩ  rồi  giảm  dần  ở  bác  sĩ  và  thấp  nhất  là  ban  lãnh  đạo,  đặc  biệt  chỉ  có  1,7%  y  sĩ  cho  là  có  “ít  việc”. Tuy nhiên sự nhận định này không chỉ là  khối lượng công việc thực tế mà còn phụ thuộc  khả năng sắp xếp giải quyết công việc của từng  cá nhân.

Chỉ 27% y sĩ là đa khoa, còn lại là các chuyên  khoa,  các  y  sĩ  được  bố  trí  nhiều  nhất  ở  phòng  khám, bộ phận đông y của khoa nội và ở khoa  ngoại sản; các vị trí của y sĩ cũng tương ứng với  chuyên  khoa  lẻ  của  họ  được  sử  dụng  để  khám  bệnh (bảng 4).

Về khối lượng công việc của y sĩ, bác sĩ

Thực  tế  tại  BV  tuyến  huyện  đa  số  BN  đế  khám bệnh vào buổi sáng. Các y sĩ bác sĩ trong 1  ngày tham gia khám bệnh có thể còn dành thời  gian  làm  những  công  việc  khác  sau  khi  lượng  bệnh  đã  hết.  Lượng  bệnh  mỗi  ngày  do  người  được phỏng vấn ước tính khi làm nhiệm vụ tại  phòng  khám  hoặc  bệnh  phòng  như  trong  bảng  7. Sự ghi nhận này tuy không phải là con số đo  đếm tuyệt đối nhưng cũng cho biết mức độ lưu  lượng bệnh nhân và khối lượng công việc tại B  tuyến huyện. Con số trung vị của khám điều trị  bệnh ngoại trú là 55 và của nội trú là 20. Trong  điều  kiện  bình  thường  thì  đây  là  lượng  bệnh  nhân  lý  tưởng  cho  bác  sĩ  có  đủ  thời  gian  xem  bệnh  cặn  kẽ,  tìm  hiểu  lựa  chọn  phương  án  tốt  cho điều trị, tư vấn cho bệnh nhân (một giờ BS  chỉ nên khám và điều trị từ 4 đến 8 BN(5)). Tuy  nhiên, trong tình trạng quá tải ở các BV tỉnh và  trung  ương  như  hiện  nay  mỗi  BS  khám  hàng  trăm  BN  một  ngày  (chỉ  3  –  5  phút  1  BN(3),  thì  lượng  BN  hàng  ngày  1  BS  khám  ở  BV  tuyến  huyện là khá thấp).

Việc  tham  gia  công  tác  KCB  không  chỉ  có  chức  danh  bác  sĩ,  các  bác  sĩ  trưởng  phó  khoa  chuyên  môn  mà  còn  có  ban  lãnh  đạo  và  các  trưởng  phó  phòng  (biểu  đồ  2).  Trong  đó  việc  KCB ngoại trú được tham gia nhiều nhất ở hầu  hết  các  chức  danh  ngoại  trừ  ban  lãnh  đạo  thì  thấp  hơn.  Bác  sĩ  trong  ban  lãnh  đạo  tham  gia  điều  trị  nội  trú  ở  tỷ  lệ  cao  (70,4%)  và  có  người  tham gia cả hồi sức cấp cứu (14,8%). Các bác sĩ  trưởng phó phòng chức năng cũng có tham gia  KCB giống như các khoa chuyên môn. Như vậy  dù ở vị trí hành chính, quản lý nhưng các cán bộ  chuyên  môn  y  vẫn  tham  gia  trực  tiếp  công  tác  KCB. Các y sĩ tham gia KCB với tỷ lệ ít hơn, có  một  lượng  y  sĩ  làm  công  việc  như  điều  dưỡng  hoặc chỉ làm hành chính (biểu đồ 3).

Xét về thời lượng công việc thì chỉ có 55,8%  số  y  sĩ,  bác  sĩ  cho  rằng  công  việc  chuyên  môn  KCB chiếm từ 75 – 100%, và 27,4% cho rằng KCB  chiếm 50 – 75% công việc (bảng 6). Số còn lại cho  rằng công việc KCB chỉ chiếm 1 phần dưới 50%  và tất  nhiên  họ  có  những  công  việc  khác  thuộc  quản lý hoặc hành chính.

Tuy lượng BN ít nhưng đa số y sĩ, bác sĩ vẫn  cho  rằng  khối  lượng  công  việc  là  “nhiều”  và  “quá  nhiều”  do  tình  trạng  tỷ  số  nhân  viên  y  tế  chia cho giường bệnh không đạt kém quy định  là  phổ  biến,  với  90,3%  số  bệnh  viện  của  5  tỉnh  khảo  sát  không  đạt  tỷ  số  này  đối  với  giường  bệnh  thực  kê(4).  Có  thể  vì  lý  do  này  mà  một  người  nhân  viên  y  tế  phải  làm  nhiều  việc  để  hoàn thành nhiệm vụ chung. Đây có thể cũng là

Về tự đánh giá khối lượng công việc của y sĩ,  bác  sĩ  theo  số  liệu  bảng  6  có  sự  biến  thiên  rất

278

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  một  sức  ép  tâm  lý  đối  với  y  sĩ  bác  sĩ  nên  tỷ  lệ  căng thẳng và rất căng thẳng cao và họ ít có cơ  hội dành toàn thời gian thực sự cho bệnh nhân  và  tự  trau  dồi  chuyên  môn  để  nâng  cao  chất  lượng điều trị.

Về áp lực công việc đối với y sĩ, bác sĩ

nhất) trong số 22% kể  trên  là  được  đào  tạo  cao  học  và  chuyên  khoa  I  và  4,8%  được  đào  tạo  chuyên khoa II (bảng 11). Tỷ lệ này là rất tốt cho  việc  nâng  cao  chất  lượng  nguồn  nhân  lực  y  tế  của  BV  tuyến  huyện.  Cùng  với  đó  là  các  hình  thức  đào  tạo  chuyên  khoa  sơ  bộ,  bác  sĩ  chuyên  tu,  thực  tập  sinh  với  BV  tuyến  trên.  Tuy  nhiên  trong nghiên cứu này chưa thống kê được lượng  nhân viên y tế chuyển đi khỏi cơ sở sau khi được  đào tạo nâng cao học vị khiến BV huyện lại trở  nên thiếu nhân sự, cũng là một bức xúc lớn của  địa phương.

Tương  tự  đối  với  tỷ  lệ  tự  nhận  định  về  áp  lực công việc của y sĩ, bác sĩ (biểu đồ 5 và bảng  8):  có  một  tỷ  lệ  bác  sĩ  chức  danh  lãnh  đạo  (22,2%) cho rằng áp lực công việc vửa phải và tỷ  lệ  tăng  dần  tới  các  trưởng  phó  khoa,  các  bác  sĩ  đến các trưởng phó phòng và y sĩ; có một tỷ lệ  nhỏ bác sĩ và y sĩ cho rằng không hề có áp lực gì,  ngược lại có một tỷ lệ đa số các chức danh cho  rằng  công  việc  là  căng  thẳng  (từ  45,2  –  55,6%)  cộng với một tỷ lệ ít hơn cho rằng  công  việc  là  rất căng thẳng (từ 7,5 – 22,2%). Đây cũng là đặc  trưng tính chất công việc ngành y không ngoại  trừ BV tuyến huyện.

Đối  với  các  y  sĩ,  bác  sĩ  không  tham  gia  học  nâng cao trong thời gian kể trên, ngoại trừ lý do  chưa đủ thâm niên hoặc quá tuổi thì lý do công  việc quá nhiều chiếm tỷ lệ cao nhất (25,2%) sau  mới  đến  hoàn  cảnh  riêng,  không  có  khóa  thích  hợp và lý do khác. Điều này cũng phù hợp với  nhận định khối lượng công việc của y sĩ, bác sĩ ở  trên (bảng 12).

Tự  đánh  giá  mức  độ  khả  năng  đảm  nhiệm  công  việc  khám  chữa  bệnh  được  giao  thì  đa  số  (64%) cho rằng đảm nhiệm tốt từ 75 – 100%, có  23% số trả lời cho rằng đảm nhiệm tốt được 50 –  75%,  số  còn  lại  (13%)  cho  rằng  chỉ  đảm  nhiệm  tốt  dưới  50%  (bảng  9).  Tâm  lý  không  thể  đảm  nhiệm  tốt  hoàn  toàn  công  việc  chuyên  môn  sẽ  thúc  đẩy  người  ta  luôn  phải  học  hỏi  nâng  cao  khả  năng  để  theo  kịp  yêu  cầu  của  đối  tượng  phục vụ. Do vậy, việc đào tạo liên tục nhân viên  y tế là không thể thiếu trong ngành y. Rất nhiều  hình thức đào tạo cho các bậc học được duy trì  để đáp ứng nhu cầu đó.

Về  đào  tạo  liên  tục  để  nâng  cao  năng  lực  chuyên môn

Nhu  cầu  được  đào  tạo  nâng  lên  1  học  vị  là  cao nhất (bảng 13), sau đó đến được đào tạo một  số  chuyên  khoa  sâu  như  hồi  sức  nội  khoa,  tim  mạch  can  thiệp,  phẫu  thuật  nội  soi,  phẫu  thuật  mắt  Phaco  …,  chứng  tỏ  phần  đông  các  bác  sĩ  mong muốn tiến xa hơn theo một chuyên khoa  nhất định. Điều này không giống như cách tiếp  cận lý thuyết về chức năng nhiệm vụ BV tuyến  huyện là khám chữa bệnh đa khoa ban đầu, giải  quyết các ca bệnh thông thường và nhận biết các  ca  khó  để  chuyển  BV  chuyên  khoa  hoặc  tuyến  trên.  Bản  thân  nhu  cầu  của  người  trong  cuộc  cũng  có  khả  năng  tạo  ra  1  hướng  đi  khác  với  thiết kế ban  đầu  của  tổ  chức,  hướng  đó  có  làm  cho  tổ  chức  BV  huyện  phù  hợp  với  cộng  đồng  hay không trong tương lai thì còn phải có những  nghiên cứu tiếp theo.

Theo bảng 10, có 21,8% y sĩ, bác sĩ trả lời có  tham  gia  học  nâng  cao,  cập  nhật  chuyên  môn  với  các  khóa  học  từ  3  tháng  trở  lên  kể  từ  năm  2010 tới thời điểm điều tra. Bác sĩ điều trị có tỷ lệ  được  đào  tạo  cao  nhất,  sau  đến  ban  lãnh  đạo,  trưởng phó khoa chuyên môn, y sĩ và thấp nhất  là trưởng phó phòng chức năng. Như vậy bác sĩ  điều  trị  vẫn  được  chú  trọng  nâng  cao  năng  lực  chuyên  môn  nhiều  nhất.  Có  đến  48,4%  (cao

Bên cạnh đó có khoảng 16,2% các y sĩ, bác sĩ  có nhu cầu học ngắn hạn cập nhật chuyên môn,  ngoại ngữ hoặc nhiều CK sơ bộ, cách này có thể  phù hợp hơn để đảm bảo nhiệm vụ cơ bản của  BV tuyến huyện hiện nay cũng như dễ tiếp cận  hơn  đối  với  mỗi  cá  nhân.  Đặc  biệt  có  13%  đối  tượng trả lời có nhu cầu được đào tạo về quản lý

279

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  y tế, y tế dự phòng và quản lý nhà nước, chứng  tỏ công tác quản lý, y tế dự phòng cũng rất được  quan  tâm  để  phát  triển  ở  BV  huyện  và  TTYT  huyện.

KẾT LUẬN

Độ  tuổi  trung  bình  của  bác  sĩ,  y  sĩ  cao  đạt

trung vị 45 tuổi.

tuyến  BV  này.  Đồng  thời  cần  có  thêm  những  khảo  sát  về  các  khía  cạnh  của  công  việc  tạo  những  áp  lực  hay  những  sự  không  thỏa  mãn  của y sĩ, bác sĩ cũng như các nhân viên y tế khác.  Nhờ đó đề ra các giải pháp tổ chức quản lý phù  hợp  hơn  để  thu  hút  cán  bộ  y  tế  làm  việc  tại  tuyến  y  tế  cơ  sở  nói  chung  và  ở  BV  huyện  nói  riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Có 70% bác sĩ, y sĩ cho rằng khối lượng công  việc  nhiều  hoặc  quá  nhiều  và  62%  cho  rằng  áp  lực công việc là căng thẳng hoặc rất căng thẳng.

2.

3.

4.

Có  50%  các  bác  sĩ  có  học  vị  sau  đại  học  từ  CK1  trở  lên.  Có  51%  các  y  sĩ,  bác  sĩ  đang  công  tác  và  chưa  đi  học  trong  thời  gian  điều  tra  có  nhu  cầu  học  nâng  cao  lên  1  học  vị  hoặc  học  chuyên khoa sâu, 32% mong muốn học chuyên  khoa sơ bộ hoặc học ngắn hạn cập nhật chuyên  môn, ngoại ngữ.

5.

Bộ Y tế (2009). Thông tư số 10/2009/TT‐BYT Ngày 14 tháng 08  năm 2009 về Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban  đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.  Đỗ Thị Phương Thảo (2011). Nghiên cứu thực trạng nhân lực  y  tế  và  hoạt  động  khám  chữa  bệnh  của  một  số  bệnh  viện  huyện năm 2008 – 2010. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa.  Trường Đại học Y Hà Nội  Khương  Anh  Tuấn  (2007).  Đánh  giá  tình  trạng  quá  tải  của  một số bệnh viện tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và đề xuất  giải pháp khắc phục. www.hspi.org.vn  Nguyễn Bích Hà (2011). Tình trạng nhân lực y tế và công suất  sử dụng giường bệnh của bệnh viện tuyến huyện. Đề tài cấp  cơ sở Viện Vệ sinh Y tế công cộng TP.HCM  Nguyễn  Phi  Hùng  (2009).  Các  chỉ  số  đánh  giá  hoạt  động  bệnh viện. Bài giảng Tổ chức quản lý Y  tế.  Đại  học  Y  dược  TP.HCM

Nên có nghiên cứu sâu hơn về mức độ đầu  tư chuyên khoa cho BV tuyến huyện ở khía cạnh  lợi  ích  cộng  đồng.  Trước  đó  cần  củng  cố  mạnh  mẽ vai trò khám chữa bệnh đa khoa ban đầu của

280

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG   CÔNG TY THUỐC LÁ SÀI GÒN (2005 – 2009)

Nguyễn Bích Hà*, Nguyễn Thị Thùy*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sản xuất thuốc lá làm phát sinh các yếu tố có hại đến môi trường xung quanh và tác động đến  sức khỏe của người lao động. Tác hại đặc trưng là gây bệnh nhiễm độc Nicotin nghề nghiệp, ngoài ra còn các tác  hại sức khỏe khác.

Mục tiêu: Xác định tình trạng môi trường lao động và sức khỏe bệnh tật của người lao động công ty thuốc

lá Sài Gòn trong các năm 2005 – 2009.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Hồi cứu số liệu hồ sơ khám sức khỏe định kỳ, hồ sơ khám bệnh  nghề nghiệp của người lao động, kết quả đo môi trường của công ty thuốc lá Sài Gòn (cơ sở 1) từ năm 2005 –  2009.

Kết  quả: Môi trường lao động có sự cải thiện đáng kể nhờ những can thiệp kịp thời của công ty qua các  năm như: nồng độ Nicotin không khí nằm trong giới hạn cho phép, các yếu tố vi khí hậu, ánh sáng, bụi đạt tiêu  chuẩn vệ sinh lao động, riêng yếu tố tiếng ồn vẫn chưa được khắc phục. Tình trạng sức khỏe người lao động dần  dần được cải thiện so với các năm trước. Hầu hết người lao động mắc các bệnh thuộc nội tổng quát: tuần hoàn  (36 – 61%); tiêu hóa, gan mật (13 – 61%); cơ‐ xương‐ khớp (8,7 – 13,5%); tai – mũi – họng và hô hấp (dưới  8%). Phân loại sức khỏe phần lớn ở loại I (7‐16%) và loại II (44‐51%). Tình trạng mắc bệnh nghề nghiệp cũng  có xu hướng tốt lên: bệnh sạm da nghề nghiệp, điếc nghề nghiệp và bệnh nhiễm độc Nicotin thấp so với những  năm trước và giảm thính lực hai tai chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp dưới 4%.

Kết luận: Kết quả đo môi trường và tình trạng sức khỏe của người lao động được cải thiện rất nhiều so với  những nghiên cứu trước. Điều này phản ảnh việc thực hiện công tác cải tạo môi trường và trang bị bảo hộ lao  động cho người lao động rất tốt. Tuy nhiên nhà máy cần phải tiến hành áp dụng những kỹ thuật hiện đại hơn  trong sản xuất để hạn chế tiếng ồn.

Từ khóa: Tình trạng sức khỏe người lao động, thuốc lá ảnh hưởng sức khỏe công nhân

ABSTRACT

STATUS OF HEALTH OF EMPLOYEES IN SAI GON TOBACCO COMPANY FROM 2005 – 2009

Nguyen Bich Ha, Nguyen Thi Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 283 ‐ 292

Background: Production of tobacco releases harmful factors into surrounding environment and has adverse  effects  on  workers’  health.  Nicotine  in  cigarettes  causes  occupational  Nicotine  poisonning  and  other  adverse  effects in tobacco workers.

Objectives: To identify conditions of working environment and health status of workers of Sai Gon tobacco

company from 2005 to 2009.

Methods: Cross–sectional study. retrospect data of periodic health examination records, occupational health  examination records, and environmental measurement results of Saigon tobacco company (base 1) from 2005 to  2009.

* Viện Vệ sinh Y tế công cộng TPHCM  Tác giả liên lạc: Th.s Nguyễn Bích Hà   ĐT: 0908877820  Email: nguyenbichha@ihph.org.vn

281

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Result: The working environment was improved significantly over years,. The Nicotine concentration in the  air  was  in  acceptable  limits  and  the  elements  of  microclimate  the  light,  and  dust  met  the  occupational  health  criteriaHowever  the  noise  was  not  improved  yet.  The  health  conditions  of  workers  has  gradually  improved  compared with several years ago. Most workers suffered general diseases, namely circulatory diseases (36‐61%);  gastrointestinal and hepatobiliary (13‐61%), musculoskeletal disease (8.7 – 13, 5%), ear,nose and throat diseases  and respiratory diseases (less than 8%). The proportions of workers who had health status classified into first and  second class were relatively high: first classs occupied 7‐16% and second class ocuupied 44‐51%. Occupational  diseases  among  workers  also  decreased:  the  proportions  of  occupational  sunburnt,  occupational  deafness,  and  Nicotine poisoning were low compared with previous years and the proportion of ears malfunction was under 4b

Conclusion:  The  results  of  environmental  measurement  and  the  health  conditions  of  workers  were  significantly  improved  compared  with  preceding  studies.  These  showed  that  environmental  improvement  and  provision of labor protection equipments for workers had been done well. However, the company should apply  more modern techniques to reduce noise.

Keywords: health conditions of workers, tobacco effects workers’ health

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người lao động của công ty thuốc lá Sài Gòn

(cơ sở I) từ năm 2005 – 2009.

Môi  trường  lao  động  của  các  xí  nghiệp  sản

xuất thuộc Công ty thuốc lá Sài Gòn.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Lấy mẫu toàn  bộ đối với người lao động có tham gia khám sức  khỏe  định  kỳ  và  khám  bệnh  nghề  nghiệp  từ  2005 – 2009.

Hồi cứu số liệu theo từng năm từ năm 2005

đến năm 2009.

Nội dung những số liệu hồi cứu:

‐ Hồ sơ khám sức khỏe định kỳ trong 5 năm

‐ Hồ sơ vệ sinh lao động xí nghiệp

‐ Kết quả đo điện tâm đồ, siêu âm tổng quát,  đo  thính  lực  và  đo  chức  năng  hô  hấp  trong  5  năm.

Sản xuất thuốc lá gây ra tình trạng ô nhiễm  môi  trường,  tình  trạng  thâm  nhiễm  và  nhiễm  độc Nicotin mạn tính cùng với các rối loạn chức  năng  sinh  lý  cơ  thể  của  công  nhân  sản  xuất  thuốc  lá  từ  khâu  hái  đến  thành  phẩm  xuất  xưởng. Bất chấp những bất lợi của nó, việc trồng  và  sản  xuất  thuốc  lá  vẫn  tăng  lên  hàng  năm  vì  những  lợi  ích  kinh  tế  trực  tiếp  và  cả  vấn  đề  không  triệt  để  của  chính  sách  cấm  thuốc  lá.  Nhiều bệnh nghề nghiệp và các vấn đề liên quan  phát sinh từ tiếp xúc với các chất ô nhiễm không  khí như khói bụi, tiếng ồn, độ ẩm, nấm mốc, và  đặc biệt là các hóa chất độc hại trong môi trường  làm việc vẫn tiếp tục tồn tại. Bụi thuốc lá là yếu  tố gây nên các bệnh về hô hấp cấp tính và mãn  tính, nhiễm độc qua da do các độc chất có trong  nó(6). Nghiên cứu mô hình sức khỏe bệnh tật của  người lao động sản xuất thuốc lá là cần thiết để  có thể cung cấp thêm thông tin về một cách tổng  quát  và  nhận  định  thêm  về  cán  cân  lợi  hại  của  việc đầu tư nhiều vào ngành sản xuất thuốc lá.

‐ Kết quả phân tích Nicotin trong nước tiểu

trong 5 năm.

Mục tiêu nghiên cứu

KẾT QUẢ

Đánh giá một số yếu tố môi trường lao động  đặc trưng tại nơi sản xuất thuộc Công ty thuốc lá  Sài Gòn từ 2005‐ 2009.

PHẦN  I:  CÁC  YẾU  TỐ  MÔI  TRƯỜNG  NƠI LÀM VIỆC

Hơi Nicotin trong không khí

Xác  định  tỷ  lệ  các  bệnh  thường  mắc  của  người lao động Công ty thuốc lá Sài Gòn từ 2005  – 2009.

282

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 1. Kết quả đo hơi Nicotin trong không khí qua  các năm

2005 2006 2007 2008 2009 TCVS LĐ

nhãn  “555”  và  khu  vực  xung  quanh  nhà  máy  đều  nằm  trong  giới  hạn  cho  phép  theo  tiêu  chuẩn  vệ  sinh  lao  động.  Hơi  Nicotin  trong  không  khí  có  chiều  hướng  giảm  dần  trong  những năm tiếp theo. Tuy nhiên tại khu vực cấp  liệu và phân xưởng sợi hơi Nicotin vượt giới hạn  cho phép nhưng không đáng kể dưới 0,1.

Nhìn  chung  các  kết  quả  đo  ở  các  phân  xưởng  bao  mềm,  bao  cứng,  phân  xưởng  bao

0,5 0,54 0,33 Kết quả đo hơi Nicotin Trong nhà máy Khu vực cấp liệu 0,27 0,56 Phân xưởng sợi 0,58 0,37

Yếu tố môi trường ở các phân xưởng  Bảng 2 Kết quả đo yếu tố vi khí hậu

Vi khí hậu Yếu tố 2006 2007 2008

Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo

Mẫu vượt TCVS (%) 29 (33,33) 51 Mẫu vượt TCVS (%) 0 (0,00) 2009 Mẫu vượt TCVS (%) 8 (33,33) 57 Mẫu vượt TCVS (%) 15 (26,31) 87 24

20 (21,50) 153 0 (0,00) 1 (1,88) 87 7 (8,04) 93 53

18 (25,00) 117 0 (0,00) 0 (0,00) 75 0 (0,00) 72 31

1 (6,66) 0 (0,00) 15 7

21 0 (0,00) 30 0 (0,00) Sợi Vấn điếu và đóng gói bao mềm Vấn điếu và đóng gói bao cứng Vấn điếu và đóng gói bao nhãn “555” Vấn điếu và đóng gói bao nhãn “Marboro”

Bảng 3 :Kết quả đo yếu tố tiếng ồn

Tiếng ồn Yếu tố 2006 2007 2008 2009

Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo

17 26 17 Mẫu vượt TCVS (%) 2 (11,76) Mẫu vượt TCVS (%) 7 (26,92) Mẫu vượt TCVS (%) 2 (11,76) Mẫu vượt TCVS (%) 5 (16,12) 31

29 26 46 24 (82,75) 25 (96,15) 42 (91,30) 43 (81,13) 53

20 29 33 20(100,00) 22 (75,86) 24 (72,72) 36 (90,00) 40

3 2 (66,67) 5 (62,50) 8

5 5 (100,00) 11 10 (90,90) Sợi Vấn điếu và đóng gói bao mềm Vấn điếu và đóng gói bao cứng Vấn điếu và đóng gói bao nhãn “555” Vấn điếu và đóng gói bao nhãn “Marboro”

Bảng 4 Kết quả đo các yếu tố hóa học khác

2006 Yếu tố hóa học khác 2008 2007 Yếu tố Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo

13 Mẫu vượt TCVS (%) 0 (0,00) 21 Mẫu vượt TCVS (%) 12 (57,14) Mẫu vượt TCVS (%) 0 (0,00) 16 0 2009 Mẫu vượt TCVS (%) 0 (0,00)

24 0 (0,00) 15 9 (60,00) 0 (0,00) 16 10 0 (0,00)

12 0 (0,00) 13 8 (61,53) 0 (0,00) 12 6 0 (0,00)

2 1 (50,00) 2 0 (0,00)

0 (0,00) 4 3 0 (0,00) Sợi Vấn điếu và đóng gói bao mềm Vấn điếu và đóng gói bao cứng Vấn điếu và đóng gói bao nhãn “555” Vấn điếu và đóng gói

283

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

là 33 – 47 tuổi chiếm tỷ lệ từ 61 – 67%, nhóm tuổi  chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm 18 – 32 tuổi dao  động từ 16 – 20%.

2006 Yếu tố hóa học khác 2008 2007 Yếu tố Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo Mẫu đo Mẫu vượt TCVS (%) Mẫu vượt TCVS (%) Mẫu vượt TCVS (%) 2009 Mẫu vượt TCVS (%) bao nhãn “Marboro”

Tình  trạng  sức  khỏe  của  người  lao  động  qua

từng năm

Bảng 6 Các bệnh về mắt của người lao động, tần số  (%)

2009 (n = 1911) 2005 (n = 1496)

Nhìn chung, kết quả đo về yếu tố ánh sáng  và bụi tại các phân xưởng này đều đạt theo tiêu  chuẩn vệ sinh lao động. Yếu tố vi khí hậu, ồn và  yếu tố hóa học khác không đạt theo tiêu chuẩn  vệ sinh. Tại phân xưởng vấn điếu‐đóng gói bao  mềm,  bao  cứng,  phân  xưởng  nhãn  quốc  tế  “Marboro”  tiếng  ồn  chiếm  tỷ  lệ  không  đạt  rất  cao hơn 61% và có thể cao gần như đến mức tối  đa 100 %. Riêng phân xưởng sợi thì yếu tố tiếng  ồn  dưới  27%.  Tình  trạng  tiếng  ồn  tại  các  phân  xưởng  có  cải  thiện  nhưng  không  đáng  kể  qua  các năm điều tra.

Tình trạng về mắt Bình thường 1905 (99,69) 1467 (98,06)

Tình trạng bệnh về mắt của người lao động  chiếm tỷ lệ rất thấp chủ yếu là mộng thịt từ 0,1 –  2%, kế tiếp là bệnh về giác mạc tỷ lệ từ 0,05 – 1%  qua từng năm. Những bệnh còn lại rất hiếm xảy  ra.

Qua  các  năm  tại  các  phân  xưởng  thì  năm  2007 có yếu tố vi khí hậu chiếm tỷ lệ dưới 30%,  các  yếu  tố  hóa  học  khác  chiếm  tỷ  lệ  không  đạt  cao dao động từ 50 – 62% và hai chỉ tiêu này đạt  tiêu chuẩn ở hai năm tiếp theo 2008, 2009. Điều  này cho thấy hiệu quả của sự can thiệp cải thiện  môi trường.

Bệnh về mắt 29 (1,94) 2006 (n = 1920) 1896 (98,75) 24 (1,25) 2007 (n = 1932) 1904 (98,55) 28 (1,45) 2008 (n = 1967) 1947 (98,98) 20 (1,02) 6 (0,31)

PHẦN  II.  TÌNH  TRẠNG  SỨC  KHỎE  NGƯỜI LAO ĐỘNG

2005 (n = 1496) 2006 (n = 1920) 2007 (n = 1932) 2008 (n = 1967) 2009 (n = 1911)

Bảng 7 Các bệnh về tai – mũi – họng của người lao  động, tần số (%)   Tình trạng về tai – mũi – họng

Tình trạng về tai Bình thường

Đặc tính mẫu nghiên cứu   Bảng 5 Đặc tính mẫu nghiên cứu, tần số (%)  2006 (n=1920)

2008 (n= 1967) 2007 (n=1932) 2005 (n=1496) 2009 (n= 1911) 1878 (97,81) 1865 (96,53) 1896 (96,39) 1861 (97,38) Giới 1451 (96,99) 29(1,94) 21(1,09) 35(1,81) 45(2,29) 35(1,83) Nam 0 (0,00) 1(0,05) 3(0,16) 4(0,20) 9(0,47) Nữ Viêm tai Giảm thính lực Bệnh khác 757 (50,60) 739 (49,40) 966 (50,31) 954 (49,69) 994 (51,45) 938 (48,55) 1023 (52,01) 944 (47,99) 1006 (52,64) 905 (47,36) 16(1,07) 20(1,04) 29(1,50) 6(0,31) 22 (1,12) Tuổi

Qua  từng  năm,  sự  phân  bố  giới  tính  giữa

nam và nữ không khác nhau nhiều.

Về nhóm tuổi của người lao động qua bảng  số liệu trên ta thấy nhóm tuổi lao động chủ yếu

Bình thường 1363 (91,11) Tình trạng về mũi 1735 (90,36) 1786 (90,80) 1786 (93,46) Bệnh về mũi 181 (9,2) 125 (6,54) 1133 (8,89) 185 (9,64) 18 – 32 tuổi 33 – 47 tuổi ≥ 48 tuổi 245 (16,38) 1000 (66,84) 251 (16,78) 375 (19,53) 1194 (62,19) 351 (18,28) 331 (17,13) 1184 (61,28) 417 (21,58) 316 (16,07) 1176 (59,79) 475 (24,15) 315 (16,48) 1071 (56,04) 525 (27,47) Bình thường 1376 (91,98) Bệnh 193 (9,99) 9120 (8,02) 1718 (87,34) 249 (12,66) 1709 (89,43) 202 (10,57) 1726 (89,34) 206 (10,6) Tình trạng về họng 1739 1731 (90,16) (90,01) 189 (9,84)

284

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tình  trạng  thính  lực  của  người  lao  động  tương  đối  tốt  trên  khám  lâm  sàng,  tỷ  lệ  giảm  thính  lực  một  tai  hoặc  hai  tai  rất  thấp  <  1%  và  chủ yếu là bị viêm tai chiếm tỷ lệ < 3%. Trong số  những  người  lao  động  bị  viêm  tai  thì  vị  trí  bị  viêm chủ yếu là tai giữa chiếm tỷ lệ > 90%.

tuần  hoàn  từ  34,97‐  58,38%  và  có  hiện  tượng  tăng dần ở những năm tiếp theo. Kế đến là bệnh  về  tiêu  hóa,  gan  mật  chiếm  tỷ  lệ  dao  động  từ  13,47  –  35,20%,  giảm  dần  ở  những  năm  tiếp  theo. Bệnh về cơ xương khớp và nội tiết chiếm tỷ  lệ thấp từ 8,74 – 13,17%. Trong đó bệnh chiếm tỷ  lệ thấp nhất là hô hấp, tâm thần – thần kinh và  tiết niệu dưới 9%.

Bệnh cụ thể theo phân khoa nội tổng quát của

người lao động từ năm 2005‐2009

Tình trạng về mũi thì đa số người lao động  thường chiếm tỷ lệ gần > 90%. Chỉ có số ít là bị  bệnh  viêm  mũi  dị  ứng  và  vẹo  vách  ngăn  dao  động trong khoảng 3 – 6%. Những bệnh khác về  mũi khác cũng chiếm tỷ lệ không đáng kể.

Tình trạng bệnh về họng của người lao động  thì có một số ít là bị bệnh viêm họng mãn tính và  viêm amydale chiếm tỷ lệ < 8%.

Bảng 8 Tình trạng mắc các bệnh về tiêu hóa, gan,  mật, tần số (%)  Bệnh về tiêu hóa, gan, mật

2008 (N= 73)

Biểu đồ 1 Tình trạng mắc các bệnh về nội tổng quát  của người lao động

100

90

83,25%

80,63%

77,80%

80

75,10%

71,79%

70

Hội chứng dạ dày Viêm/loét dạ dày 2006 (N=128 ) 92 (71,88) 26 (20,31) 41 (56,16) 25 (34,25)

60

Viêm gan Sỏi túi mật

)

%

50

( ệ l ỉ

T

40

28,1%

30

24,90%

22,20%

19,37%

16,75%

20

10

0

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Bình thường Bất thường

Trong  số  người  lao  động  bệnh  về  tiêu  hóa,  gan mật thì trong đó tỷ lệ mắc bệnh hội chứng  dạ dày cao nhất chiếm trên 50%, bệnh viêm/loét  dạ dày chiếm tỷ lệ dao động từ 20 – 35%. Những  bệnh khác còn lại thì chiếm tỷ lệ không cao dưới  9%.

Qua biểu đồ trên ta thấy có sự giảm dần về  tỷ lệ mắc bệnh nội tổng quát theo từng năm điều  tra. Năm 2005  chiếm  tỷ  lệ  28,1%  đến  năm  2009  tỷ lệ này chỉ còn 16,75%.

2009 2005 2007 (N = (N=157 (N=132 45) ) ) 87 70 23 (55,41) (53,03) (51,11) 54 49 15 (33,33) (37,12) (34,39) 2(1,27) 2(1,56) 3(2,27) 1(1,37) 4 (8,8) 0 (0,00) 1(0,78) 1 (0,76) 3 (4,11) 0 (0,00) Viêm đại tràng 6 (3,82) 3 (2,34) 5 (3,79) 2 (2,74) 3 (6,67) Gan nhiễm mỡ 5 (3,18) 3 (2,34) 2 (1,52) 1 (1,37) 0 (0,00) 3 (1,91) 1 (0,78) 2 (1,52) 0 (0,00) 0 (0,00) Bệnh khác

Bảng 9 Tình trạng mắc các bệnh thuộc hệ tuần hoàn,  tần số (%)

Biểu đồ 2. Những bệnh lý theo phân khoa nội tổng  quát của người lao động

100

2006 (N = 254) 2007 (N = 181) 2008 (N= 193)

80

Bệnh về tuần hoàn Cao huyết áp 2005 (N = 156) 100 (61,10) 141 (55,51) 129 (71,27) 127 (65,80) 2009 (N = 195) 106 (54,36)

%

60

7 (4,49) 2 (0,79) 7 (3,87) 5 (2,59) 2 (1,03)

ệ l ỷ T

40

20

Rối loạn nhịp tim Suy tim

0

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

1 (0,64) 2 (0,79) 0 (0,00) 0 (0,00) 1 (0,51)

Tiêu hóa, gan mật

Tuần hoàn

Tâm thần- TK

Hô hấp

Tiết niệu

Cơ, xương,khớp

Nội tiết

1 (0,64) 0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00)

Trong  số  những  người  mắc  bệnh  nội  tổng  quát  thì  tỷ  lệ  bệnh  chiếm  cao  nhất  là  bệnh  về

0 (0,00) 1 (0,39) 0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00) Bệnh van tim 2 (1,28) 3 (1,18) 2 (1,10) 2 (1,04) 1 (0,51) Thiếu máu cơ tim Bệnh về thiếu máu Dãn tĩnh mạch chi 104 (40,94) 40 (22,10) 41 (26,28) 58 (30,05) 85 (43,59) Bệnh khác 4 (2,56) 1 (0,39) 3 (1,66) 1 (0,52) 0 (0,00)

285

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

theo dõi sỏi thận

0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00)

Trong  số  những  người  mắc  bệnh  về  tuần  hoàn thì chủ yếu là bệnh cao huyết áp chiếm tỷ  lệ hơn 50%; bệnh dãn tĩnh mạch chi chiếm tỷ lệ  dao  động  từ  22  –  44%  và  những  bệnh  khác  chiếm tỷ lệ thấp không đáng kể dưới 1%.

Nang thận 2(22,22) 0 (0,00) 0 (0,00) 0 (0,00) 1(33,33) Sỏi bàng quang Bệnh khác 0 (0,00) 1 (9,09) 0 (0,00) 0 (0,00) 1 (14,29) 2 (28,57)

Phần  lớn  người  lao  động  mắc  bệnh  về  tiết  niệu chủ yếu là sỏi thận và cần theo dõi sỏi thận  chiếm  tỷ  lệ  dao  động  trong  khoảng  57  –  100%.  Những bệnh khác chiếm tỷ lệ thấp không đáng  kể.

2007 (N = 12) 2006 (N = 11) 2005 (N = 21) 2009 (N = 5) 2008 (N= 9)

10(47,62) 4(36,36) 1(8,33) 4(44,44)2(40,00)

3(14,29) 3(27,27) 4(33,33)2(22,22)1(20,00)

3(14,29) 2(18,18) 6(50,00)2(22,22)1(20,00) 2008 (N= 49) 2009 (N = 44) 2005 (N = 39) 2006 (N = 45) 2007 (N = 53)

Bảng 10 Tình trạng mắc các bệnh về tâm thần – thần  kinh, tần số (%)   Bệnh về tâm thần – thần kinh Rối loạn tiền đình Hội chứng suy nhược thần kinh Viêm dây thần kinh

Bệnh khác 5(23,81) 2(18,18) 1(8,33) 1(11,11)1(20,00) 6(15,38) 8(17,78) 19(35,85)14(28,57) 5(11,36)

19(48,72)28(62,22) 1 (35,85) 25(51,02)17(38,64)

6(15,38) 6(13,33) 1 (18,87) 9(18,37) 18(40,91)

Bảng 13 Tình trạng mắc các bệnh về cơ – xương –  khớp, tần số (%)  Bệnh cơ – xương – khớp Thoái hóa cột sống Đau khớp/viêm khớp Thoái hóa khớp Đau cơ 1(2,56) 1 (2,22) 2 (3,77) 0 (0,00) 3(6,82) Bệnh khác 7(17,95) 2 (4,44) 3 (5,66) 1 (2,04) 1 (2,27)

Trong  số  người  lao  động  mắc  bệnh  về  tâm  thần – thần kinh thì chủ yếu là bệnh rối loạn tiền  đình chiếm tỷ lệ trên 37%, hội chứng suy nhược  thần  kinh  chiếm  tỷ  lệ  dao  động  từ  14  –  34%,  bệnh  viêm  dây  thần  kinh  và  một  số  bệnh  khác  thì chiếm tỷ lệ dao động từ 8 – 24%, riêng năm  2007  tỷ  lệ  bệnh  viêm  dây  thần  kinh  chiếm  đến  50%.

Hầu  hết  người  lao  động  mắc  bệnh  đau  khớp/viêm khớp chiếm tỷ lệ cao dao động từ 35  –  63%,  bệnh  thoái  hóa  cột  sống  và  thoái  hóa  khớp  cũng  là  bệnh  thường  mắc  của  người  lao  động chiếm tỷ lệ dao động từ 11 – 41%.

Bảng 11: Tình trạng mắc các bệnh về hô hấp, tần số  (%)  Bệnh về hô hấp

100

90

2007 (N = 34) 2006 (N = 22) 2008 (N= 23) 2009 (N = 14) Lao phổi 8(36,36) 7(20,59) 8 (34,78) 7(50,00) 2005 (N = 22) 11 (50,00)

78,79%

75,00%

73,91%

72,46%

71,93%

80 70

60

9(40,91) 23(67,65) 11(47,83) 5(35,71) 1 (50,00)

0 (0,00) 1 (4,55) 2 (5,88) 0 (0,00) 2 (14,29)

%)

50

Hen phế quản Viêm phế quản

( ệ l ỉ

T

40

28,07%

27,54%

26,09%

25,00%

21,21%

30 20

10

0

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Tiểu đường Bệnh về tuyến giáp

Bệnh khác 2 (9,09) 2 (9,09) 2 (5,88) 4 (17,39) 0 (0,00)

Biểu đồ 3 Tình trạng mắc các bệnh về nội tiết

Nhìn  chung  phần  lớn  người  lao  động  bệnh  hô hấp chủ yếu là hen phế quản, chiếm tỷ lệ dao  động từ 20 – 50%. Kế đến là lao phổi chiếm tỷ lệ  dao động trong khoảng từ 36 – 68%. Bệnh viêm  phế  quản  chiếm  tỷ  lệ  không  đáng  kể  dưới  6%,  riêng năm 2009 chiếm tỷ lệ 14,29%.

Nhìn vào biểu đồ ta thấy tỷ lệ mắc bệnh về  tuyến giáp của người lao động rất cao trên 71%.  Trong  số  người  mắc  bệnh  nội  tiết,  bệnh  tiểu  đường chiếm tỷ lệ từ 21 – 29%.

Bảng 12 Tình trạng mắc các bệnh về tiết niệu, tần số  (%)  Bệnh về tiết niệu

2008 (N= 11) 2007 (N = 9) 2005 (N = 9) 2006 (N = 7) 2009 (N = 3) Sỏi thận hoặc 7(77,78) 4(57,14)9(100,00) 10(90,91) 2(66,67)

286

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

tiếp theo. Tỷ lệ người lao động thuộc nhóm sức  khỏe loại III cũng khá cao dao động từ 31 – 43%.

2006 (N = 44) 2007 (N = 37) 2005 (N = 42) 2009 (N = 28) 2008 (N= 41)

Kết  quả  đo  chức  năng  hô  hấp,  thính  lực,

Nicotin niệu

36 (81,82) 29 (78,38) 36 (87,80) 23 (82,15) 30 (71,43)

Bảng 17 Kết quả đo chức năng hô hấp, tần số (%)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 14 Kết quả bệnh về tuyến giáp, tần số (%)   Bệnh cụ thể về Tuyến giáp Bướu giáp đơn thuần/ theo dõi bướu giáp Nhân giáp

Kết quả 2006 (N=1729) Cường giáp Bình thường 10 (23,81) 2 (4,76) 4 (9,09) 4 (9,09) 2 (5,40) 6 (16,22) 2 (4,87) 3 (7,31) 2 (7,14) 3 (10,71) 2005 (N=1365 ) 1297 (95,02) 1696 (98,10) 2007 (N =1495) 1437 (96,12) 2008 (N=1254 ) 1199 (95,63) 2009 (N=1270 ) 1229 (96,78)

Trong  số  những  người  mắc  bệnh  về  tuyến  giáp  thì  chủ  yếu  là  bệnh  bướu  giáp  đơn  thuần  hoặc trong tình trạng theo dõi bướu giáp chiếm  tỷ lệ trên 71%.

Nhìn  vào  bảng  trên  nhận  thấy  phần  lớn  người  lao  động  chủ  yếu  bị  rối  loạn  thông  khí  hạn chế và chiếm tỷ lệ rất thấp dưới 5%..

68 (4,98) 33 (1,90) 58 (3,88) 55 (4,37) 41 (3,22) Rối loạn thông khí hạn chế

Bảng 18  Kết quả đo thính lực, tần số (%)

Bảng 15 Tình trạng mắc các bệnh về da liễu, tần số  (%)  Bệnh về da liễu

Kết quả 2008 (n=1967) 2006 (n=1920) 2008 (N=1224) 2009 (N=1273) 2005 (N=1313) 2009 (n=1911 ) 2005 (n=1496 ) 2006 (N=1656 ) 2007 (N=1215 )

Bình thường 1409 (94,18) 1809 (94,22) 1890 (96,09) 2007 (n=1932 ) 1864 (96,48) Bình thường 1612 (97,34) 1180 (96,05) 1167 (95,30) 1189 (93,38) 1250 (95,20) 1862 (97,44) Sạm da 14 (0,94) 11 (0,57) 2 (0,10) 2 (0,10) 1 (0,05) 0 (0,00) 0 (0,00) 23 (1,90) 36 (2,82 ) Bệnh khác 73 (4,88) 100(5,21) 75(3,81) 48(2,51) 63 (4,80) 66 (3,42) 44 (2,66) 48 (3,95) 34 (2,80) 48 (3,80 ) Giảm thính lực 1 tai Giảm thính lực 2 tai N = 39 N = 39

Về  bệnh  này  nhìn  chung  thì  tỷ  lệ  mắc  của  người  lao  động  rất  thấp  dưới  5%,  riêng  bệnh  sạm da nghề nghiệp chiếm tỷ lệ thấp và có chiều  hướng giảm dần ở những năm tiếp theo.

17 (43,58) 19 (48,71)

4 (10,27) 17 (43,58)

Bảng 16 Kết quả phân loại sức khỏe của người lao  động, tần số (%)

3 (7,71) 18 (46,15) Điếc nghề nghiệp Chưa phát hiện điếc nghề nghiệp Theo dõi giảm sức nghe do ồn

2005 (n = 1496) 2006 (n = 1920) 2007 (n = 1932) 2008 (n = 1967) 2009 (n = 1911)

Trong  số  những  người  lao  động  được  đo  thính lực thì tỷ lệ bị giảm thính lực chiếm tỷ lệ  thấp và số người giảm thính lực hai tai chiếm tỷ  lệ  từ  2  –  4%  cao  hơn  so  với  số  người  bị  giảm  thính lực một tai chiếm tỷ lệ từ 1 – 3%.

Phân loại sức khỏe Loại I 171(11,43 149(7,71) 189(9,61) ) Loại II 719(48,06 ) Loại III 548(36,63 ) 265(13,80 ) 845(44,01 ) 750(39,06 ) 906(46,89 ) 820(42,44 ) 948(48,20 ) 764(38,84 ) 290(15,18 ) 965(50,50 ) 598(31,29 )

Về điếc nghề nghiệp trong số 39 bệnh nhân  được  đo  điếc  nghề  nghiệp  thì  tỉ  lệ  mắc  bệnh  chiếm rất cao dao động trong khoảng 43 – 49%.  Bên cạnh đó thì tỷ lệ theo dõi giảm sức nghe do  ồn năm 2009 cao hơn năm 2008.

Loại IV 47(3,14) 58(3,02) 55(2,85) 47 (2,39) 41(2,15) Loại V 11(0,74) 2(0,10) 2 (0,10) 19 (0,97) 17(0,89)

Bảng 19  Kết quả xét nghiệm Nicotin niệu, tần số  (%)

Về  phân  loại  sức  khỏe  người  lao  động  qua  các năm ta nhận thấy tình trạng sức khỏe loại I  chỉ  chiếm  tỷ  lệ  dao  động  trong  khoảng  từ  7  –  16%.  Phần  lớn  người  lao  động  tập  trung  trong  nhóm sức khỏe loại II chiếm tỷ lệ dao động từ 44  – 51% và có chiều hướng tăng dần ở những năm

Kết quả 2005 (N=144) 2006 (N=611) 2008 (N=346) 2009 (N= 847)

287

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Bình thường 708 (83,59) 407 (66,61)

Bính  giai  đoạn  1985  –  1995  thì  tỷ  lệ  bệnh  này  được  thống  kê  là  rất  cao  56  –  71%(6)  và  kết  quả  của  Mai  Tuấn  Hưng  thì  kết  quả  này  là  14,3%  công nhân mắc bệnh về tai mũi họng. Như vậy  việc áp dụng các trang bị bảo hộ lao động và cải  tiến môi trường đem lại hiệu quả đáng kể trong  việc bảo vệ sức khỏe của người lao động

Đa  số  những  người  lao  động  được  xét  nghiệm Nicotin trong nước tiểu không đều giữa  các  năm.  Trong  đó  tỷ  lệ  người  lao  động  có  kết  quả  vượt  mức  bình  thường  chiếm  tỷ  lệ  từ  14  –  34%.

Vượt mức bình thường 139 (16,41) 204 (33,39) 297 (85,84) 49 (14,16) 96 (66,67) 48 (33,33)

BÀN LUẬN

Yếu tố môi trường

Kết quả đo Nicotin trong không khí cho thấy  phần lớn các phân xưởng đều đạt tiêu chuẩn vệ  sinh lao động và có nồng độ Nicotin nằm trong  giới  hạn  cho  phép.  Riêng  phân  xưởng  sợi  thì  nồng  độ  vượt  giới  hạn  cho  phép  năm  2005  và  giảm  dần  đến  ngưỡng  cho  phép  ở  những  năm  tiếp theo. So với kết quả điều tra của Hoàng Văn  Bính từ năm 1985 đến 1995 thì nồng độ Nicotin  phân xưởng này luôn luôn cao hơn nồng độ cho  phép  và  nồng  độ  Nicotin  trong  không  khí  cao  gấp 2 – 3 lần tiêu chuẩn quy định, nồng độ bụi ở  thời điểm nghiên cứu rất cao gấp 5 – 10 lần tiêu  chuẩn cho phép(1,6). Kết quả đo yếu tố tiêu vi khí  hậu, tiếng ồn và yếu tố hóa học khác không đạt  ở các phân xưởng.

Tình trạng sức khỏe của người lao động

Bệnh  về  nội  tổng  quát  mà  người  lao  động  mắc  nhiều  nhất  là  bệnh  tuần  hoàn  chiếm  tỷ  lệ  cao dao động từ 34,97 – 58,38% và có hiện tượng  tăng dần ở những năm tiếp theo. Bệnh cụ thể là  cao  huyết  áp  trên  50%  và  kế  đến  là  giãn  tĩnh  mạch chi chiếm tỷ lệ dao động từ 22 – 44 trong  số những người mắc bệnh tim mạch. So với kết  quả khảo sát của Hoàng Văn Bính thì tỷ lệ bệnh  tim  mạch  nói  chung  cao  hơn  giai  đoạn  ông  thống kê chỉ chiếm tỷ lệ từ 32 – 45% số người lao  động mắc bệnh này. Kế đến là bệnh về tiêu hóa,  gan  mật  chiếm  tỷ  lệ  dao  động  từ  13  –  36%  và  giảm dần ở những năm tiếp theo. Bệnh chủ yếu  là  hội  chứng  dạ  dày  trên  51%  và  viêm  loét  dạ  dày  chiếm  tỷ  lệ  từ  20  –  38%  trong  số  người  bị  mắc  bệnh  về  tiêu  hóa,  gan  mật.  So  với  kết  quả  của Hoàng Văn Bính giai đoạn 1985 – 1995 thì tỷ  lệ này là 14 – 23%. Nhìn chung người lao động  có khuynh hướng bệnh về tim mạch và tiêu hóa,  gan  mật  rất  cao  và  có  chiều  hướng  gia  tăng.  Bệnh  về  tâm  thần  –  thần  kinh  chủ  yếu  là  bệnh  rối  loạn  tiền  đình  chiếm  tỷ  lệ  dưới  40%  và  suy  nhược thần kinh chiếm tỷ lệ dưới 34% trong số  những người lao động mắc bệnh này(6).

Về bệnh hô hấp ở người lao động chỉ chiếm  tỷ lệ dưới 8% trong đó số người mắc bệnh về hô  hấp chủ yếu là hen phế quản chiếm tỷ lệ từ 35 –  68% và lao phổi chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Ngoài  ra  kết  quả  đo  chức  năng  hô  hấp  còn  cho  thấy  phấn  lớn  người  lao  động  bị  rối  loạn  thông  khí  hạn chế chiếm tỷ lệ dưới 4%.

Bệnh  về  nội  tiết  thì  đa  số  người  lao  động  mắc  bệnh  tiểu  đường  chiếm  tỷ  lệ  khá  cao  trên  73% và có chiều hướng tăng dần ở những năm  tiếp theo. Ngược lại, bệnh về tuyến giáp có chiều  hướng  giảm  dần  tỷ  lệ  mắc  bệnh  cao  nhất  là  28,07% năm 2005; chủ yếu là bị  bướu  giáp  đơn

Bệnh  về  mắt  chủ  yếu  là  các  bệnh  thông  thường viêm kết mạc, mộng thịt và cũng chiếm  tỷ lệ rất thấp không đáng kể dưới 1% so với kết  quả  nghiên  cứu  của  Phan  Bá  Nhuận  và  Hoàng  Văn  Bính  thì  tình  trạng  giảm  thị  lực  và  bệnh  viêm  kết  mạc  lâu  khỏi  từ  16  –  26%(6)  và  so  với  năm  1995  thì  tỷ  lệ  bệnh  này  là  13,2%(2).  Ở  một  nghiên cứu khác trên đối tượng 203 công nhân ở  công  ty  cổ  phần  giầy  Hải  Dương  thì  bệnh  mắt  chiếm  tỷ  lệ  rất  cao  trong  đó  viêm  kết  mạc  là  82,1% và mộng mắt 7,7%(5). Bệnh mũi chủ yếu là  viêm mũi dị ứng và vẹo vách ngăn mũi chiếm tỷ  lệ không cao dưới 6% và giảm dần ở những năm  tiếp  theo;  tương  tự  bệnh  về  họng  chủ  yếu  là  viêm  họng  mạn  tính  và  viêm  amydal  dưới  8%,  có  khuynh  hướng  giảm  dần  ở  những  năm  tiếp  theo so với kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn

288

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thuần hoặc trong tình trạng theo dõi bướu giáp  và  kế  đến  là  cường  giáp  so  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Mai  Lệ  Hiệp(4)  thì  tỷ  lệ  bệnh  về  tuyến  giáp giảm đáng kể.

theo dõi điếc nghề nghiệp này tính trên tổng số  công  nhân  đo  thính  lực  thì  tỷ  lệ  lần  lượt  là  0,013%,  0,014%  năm  2009  và  0,015%,  0,002%  năm  2008  thấp  so  với  kết  quả  của  Mai  Tuấn  Hưng tỷ lệ điếc nghề nghiệp là 0,5 % và theo dõi  điếc nghề nghiệp là 5,1%.(5)

KẾT LUẬN

Bệnh về da liễu chủ yếu là dị ứng da và nấm  da  chiếm  tỷ  lệ  thấp  dưới  3,  riêng  bệnh  sạm  da  nghề  nghiệp  chiếm  tỷ  lệ  dưới  1%,  tỷ  lệ  này  so  với kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Bính và  Phan  Bá  Nhuận  thì  tình  trạng  sạm  da  nghề  nghiệp  đã  giảm  đáng  kể  với  tỷ  lệ  4,2%  năm  2005(6). Và so với các nhà máy khác thì tỷ lệ sạm  da  nghề  nghiệp  của  công  ty  này  vẫn  rất  thấp  (nhà máy Lotaba sạm da nghề nghiệp là 12,97%,  nhà  máy  Thăng  Long  12,5%,  nhà  máy  Bắc  Sơn  12,5%)(6).

Về môi trường lao động có sự cải thiện đáng  kể, nồng độ Nicotin trong không khí nằm trong  giới hạn cho phép, có một vài khu vực chưa đạt  nhưng  tỷ  lệ  vượt  giới  hạn  rất  thấp  so  với  tiêu  chuẩn. Một số chỉ tiêu về vi khí hậu, ánh sáng,  bụi  cải  thiện  rõ  rệt  qua  những  năm  điều  tra,  riêng  chỉ  tiêu  tiếng  ồn  chưa  đạt  tiêu  chuẩn  vệ  sinh lao động

Tình hình sức khỏe của người lao động dần  dần  được  cải  thiện  so  với  những  năm  trước.  Trong đó bệnh thường mắc chủ yếu là bệnh về  tuần hoàn chiếm tỷ lệ 36 – 61% và tiêu hóa gan  mật chiếm tỷ lệ 13 – 36%. Kế đến là bệnh về cơ  xương khớp. Bệnh nội tiết chiếm tỷ lệ dưới 12%.  Bệnh về tai – mũi – họng cũng thường khá phổ  biến ở đối tượng này chiếm tỷ lệ dưới 8%, bệnh  về hô hấp thì chiếm tỷ lệ rất thấp dưới 8%. Riêng  về bệnh sạm da nghề nghiệp, điếc nghề nghiệp  và  bệnh  nhiễm  độc  Nicotin  cũng  thấp  so  với  những  năm  trước.  Tình  trạng  sức  khỏe  được  đánh  giá  chung  của  người  lao  động  thông  qua  việc phân loại sức khỏe thì sức khỏe thuộc loại I  chiếm tỷ lệ 7‐16% và II chiếm tỷ lệ 44‐51%.

KIẾN NGHỊ

Phân loại sức khỏe của người lao động qua  số liệu tổng hợp được nhìn chung thì sức khỏe  loại I chiếm tỷ lệ dưới 16%, chủ yếu tập trung ở  loại II chiếm tỷ lệ từ 44 – 51% và loại III từ 31 –  40% giảm so với kết quả điều tra của Hoàng Văn  Bính giai đoạn 1985 – 1995 sức khỏe loại I và loại  II  chiếm  85,73%  và  thể  lực  loại  A  và  B  chiếm  86,74%(2,1) và so với kết quả của Mai Tuấn Hưng  thì tỷ công nhân có sức khỏe loại I rất thấp 2,0%,  loại  II  50,7%.(5)  Qua  kết  quả  này  cho  thấy  nếu  phân tích từng bệnh cụ thể của người lao động  thì  tình  trạng  sức  khỏe  của  họ  được  cải  thiện  đáng kể so với thời kỳ khảo sát giai đoạn 10 năm  của Hoàng Văn Bính nhưng nếu đánh giá tổng  thể thì tình trạng sức khỏe chung thì giảm nhiều  so  với  giai  đoạn  trước  vì  tiêu  chuẩn  đánh  giá  tình  trạng  sức  khỏe  hiện  tại  khác  hơn  thời  kỳ  trước đó.

Tỷ lệ nhiễm Nicotin ở những người lao động  được  xét  nghiệm  Nicotin  niệu  cho  thấy  tỷ  lệ  bị  nhiễm độc là 14 – 34% so với kết quả năm 1985 –  1995 tỷ lệ này là 33,9%(1,6).

Về môi trường những nơi mang tính độc hại  cao cần theo dõi chặt chẽ và đánh giá hiệu quả  các biện pháp cải thiện môi trường làm việc một  cách  kịp  thời  để  có  những  định  hướng  khắc  phục hoặc phát huy.

Kết quả đo thính lực: chủ yếu là giảm thính  lực hai tai dưới 5% và bệnh điếc nghề nghiệp thì  số liệu chỉ thống kê được vào năm 2008 và 2009,  trong 39 công nhân giảm thính lực hai tai được  đo  thì  tỷ  lệ  điếc  nghề  nghiệp  lần  lượt  48,71%,  43,58%  và  theo  dõi  giảm  sức  nghe  do  ồn  là  46,15% năm 2009. Kết quả điếc nghề nghiệp và

Cần đưa ra những chính sách và biện pháp  chăm  sóc  sức  khỏe  dành  cho  những  lao  động  thường xuyên tiếp xúc với các yếu độc hại như  tiếng  ồn,  Nicotin,  bụi  và  những  lao  động  mắc  bệnh điếc nghề nghiệp, theo dõi giảm sức nghe  do  ồn  và  những  lao  động  có  nồng  độ  Nicotin  niều  vượt  mức  bình  thường;  nên  tuyên  truyền

289

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

3.

Nghiên cứu Y học  và tập huấn cho họ một số biện pháp tự giữ gìn,  bảo vệ sức khỏe cho riêng mình.

Journal  of  Occupational  Health.(2005),  http://joh.med.uoeh‐ u.ac.jp/pdf/E47/E47_2_13.pdf, ngày truy cập 22/10/2010.   4. Mai Lệ Hiệp và các cộng sự (1992), “Tình hình bướu cổ công  nhân nhà máy thuốc lá Sài Gòn”. Hội nghị khoa học kỹ thuật  1991  ‐1992,  Viện  Vệ  sinh  Y  tế  Công  cộng  TP.Hồ  Chí  Minh,  trang 30.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Hoàng Văn Bính và cộng tác viên (1992) “Môi trường lao động  và sức khỏe công nhân nhà máy thuốc lá Sài Gòn sau khi đổi  mới”, Hội nghị khoa học kỹ thuật 1991 – 1992, Viện vệ sinh Y  tế Công cộng TP.Hồ Chí Minh, trang 12.

6.

2. Hoàng  Văn  Bính  và  cộng  tác  viên  (1996)  “  Đánh  giá  môi  trường lao động và sức khỏe công nhân nhà máy thuốc lá Sài  Gòn trong 10 năm qua (1985 – 1995)”, Hội nghị khoa học kỹ thuật  1995‐1996, Viện vệ sinh Y tế Công cộng TP.Hồ Chí Minh, trang  1‐10.

5. Mai  Tuấn  Hưng  (2011),  Thực  trạng  môi  trường  và  tình  hình  sức khỏe công nhân tiếp xúc với dung môi hứu cơ tại công ty  cổ phần Hải Dương năm 2010, luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa  khoa 2005 ‐2011, trường Đại Học Y Hà Nội,   Trung tâm y tế ‐ Vệ sinh lao động Bộ công nghiệp nhẹ (1995),  “Công  nghiệp  thuốc  lá  Việt  Nam,  vấn  đề  thâm  nhiễm  và  nhiễm độc Nicotin mãn tính”, Hội thảo quốc gia về chiến lược  phòng chống tác hại thuốc lá lần thứ 3.

290

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

XÂY DỰNG QUY TRÌNH XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG ACID AMIN   TRONG NƯỚC MẮM BẰNG SẮC KÝ LỎNG HIỆU NĂNG CAO

Châu Vĩnh Thị*, Trần Đại Nghĩa*, Phan Nguyễn Thị Trung Hương*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hiện nay, chất lượng của nước mắm được đánh giá bằng chỉ tiêu nitơ tổng, thường được gọi  là độ đạm của nước mắm(6). Cách đánh giá như vậy chưa phản ánh chính xác chất lượng của nước mắm và có thể  bị lợi dụng để làm giả các mức chất lượng này bằng cách thêm vào các chất có chứa nitơ không phải protein (ure,  melamin…).

Mục tiêu:  Xây dựng quy trình xác định hàm lượng acid amin trong nước mắm để nghiên cứu đúng giá trị

dinh dưỡng của sản phẩm này.

Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát việc tách 20 loại acid amin L‐alanine(Ala), L‐arginine(Arg), L‐aspartic  acid(Asp),  L‐cystine(Cyt),  L‐glutamicacid  (Glu),  L‐glycine  (Gly)  L‐Histidine  (His),  L‐isoleucine  (Ile),  L‐ leucine(Leu),  L‐lysine(Lys),  L‐methionine(Met),  L‐phenylalanine(Phe),L‐proline(Pro),  L‐serine(Ser),  L‐ threonine(Thr), L‐tyrosine (Tyr),L‐valine(Val), L‐Cystein (Cys), L‐Tryptophan (Try), Taurin(Tau) trong nước  mắm bằng cột Primesep 100 trên hệ sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) kết nối đầu dò MS. Sau đó, khảo sát  phương pháp xử lý mẫu loại tạp trong nước mắm và thẩm định quy trình phân tích.

Kết quả: Xây dựng được quy trình phân tích 20 acid amin trong nước mắm có các giá trị  hiệu năng như  sau:  khoảng  làm  việc  từ  vài  ppm  cho  đến  100  ppm,  riêng  Cystin  (3  ‐21  ppm);  giới  hạn  phát  hiện  trên  máy  (ILOD) từ vài ppb (Arginin) đến 400 ppb (Serin),  tỷ lệ phục hồi đều lớn hơn 88%, độ lệch thực nghiệm của  từng acid amin dao động từ 2% cho đến 12% (lysin).

Kết luận: Có thể ứng dụng cột Primesep 100 phân tích cùng một lúc 20 acid amin trong nước mắm trên hệ

thống sắc ký lỏng hiệu năng cao ghép nối với đầu dò MS.

Từ khóa: Xây dựng quy trình, hàm lượng acid amin, nước mắm, sắc ký lỏng hiệu năng cao

ABSTRACT

DEVELOPMENT OF HIGH PERFORMANCE LIQUID CHROMATOGRAPHY WITH MS DETECTOR  METHOD TO DETERMINE ACID AMINS CONCENTRATION IN FISH SAUCE

Chau Vinh Thi, Tran Dai Nghia, Phan Nguyen Thi Trung Huong

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 293 ‐ 305

Background:  Nowadays,  the  quality  of  fish  sauces  quality  is  evaluated  by  the  concentration  of  total  nitrogen, also called the protein level in fish sauce. This criterion could not evaluate properly the quality of fish  sauces and could be couterfeited by adding nonprotein subtances (urea, melamin…).

Objectives: To develop a new method for identifying concentration of 20 acid amin contained in fish sauce

in order evaluate properly the quality  of this product.

Methods: evaluate the separation of 20 amino acids  including: L‐alanine(Ala), L‐arginine(Arg), L‐aspartic  acid(Asp),  L‐cystine(Cyt),  L‐glutamicacid  (Glu),  L‐glycine  (Gly)  L‐Histidine  (His),  L‐isoleucine  (Ile),  L‐ leucine(Leu),  L‐lysine(Lys),  L‐methionine(Met),  L‐phenylalanine(Phe),L‐proline(Pro),  L‐serine(Ser),  L‐ threonine(Thr),  L‐tyrosine  (Tyr),L‐valine(Val),  L‐Cystein  (Cys),  L‐Tryptophan  (Try),  Taurin(Tau)  using

* Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng Thành Phố Hồ Chí Minh   ĐT: 0983723529  Tác giả liên lạc: Ths.DS. Châu Vĩnh Thị

Email: chauvinhthi@yahoo.com.vn

292

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Primesep 100 colunm combine with  high performance liquid chromatography (HPLC) and MS detector. After  that,  investigate  sample    processing  method  to  eliminate  interference  subtances  and  validate  the  establishing  method.

Result: Estabishing a method to analyze 20 amino acid contained in fish sauce with following efficiencies:  working range was from 2 ppm 100ppm vary depent each acid amin; the linearity of response ranged from 5 ppm  to 100 ppm (especially Cystin (3‐21 ppm), instrument limit of detection (LOD) was  1 ppb (Arginin) to 400 ppb  (Serin), method experimental bias are vary depent on each acid amin from 2% to 12% percent (Serin), method  accuracy was 2.10 percent and method recovery was 97.90 percent.

Conclusion: This study established a method to analyze 20 amino acid simultaneously in fish sauces using

Primesep 100 colunm combine with  high performance liquid chromatography (HPLC) and MS detector.

Keywords:    fish  sauce,  acid  amin,  to  develop  method  analysis,  high  peformance  liquid

chromatography.

ĐẶT VẤN ĐỀ

(Try),  Taurin(Tau)  được  phân  tích  trong  mẫu  nước mắm bằng kỹ thuật sắc ký lỏng hiệu năng  cao (HPLC) với đầu dò MS, cột Primesep 100.

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nguyên liệu

Chất chuẩn  Bảng 1: Hỗn hợp chuẩn gốc của các acid amin và  nồng độ từng acid amin Hãng sản xuất: Sigma ; Mã  số: AA‐S‐18

Nước  mắm  là  một  sản  phẩm  truyền  thống  được sử dụng rộng rãi trong bữa ăn hằng ngày ở  Việt Nam. Theo các tài liệu nghiên cứu cho biết  thành  phần  tổng  quát  của  nước  mắm  bao  gồm  các chỉ tiêu cơ bản như(3) pH (từ 5,5‐6,5), muối ăn  (18‐23 g/100 ml), độ ẩm (từ 60%‐70%). Ngoài ra  trong nước mắm còn có hơn 20 acid amin tự do  như  taurine,  aspartate,  threonine,  glutamate,  methionine, tyrosine, phenylalanine, tryptophan  và lysine…

Hiện  nay  trong  công  tác  kiểm  tra  đánh  giá  chất lượng nước mắm chỉ dựa trên chỉ tiêu hàm  lượng  nitơ  tổng  được  công  bố  là  độ  đạm  của  nước  mắm.  Giá  trị  này  càng  cao  thì  nước  mắm  càng  đắt  tiền.  Tuy  nhiên  nếu  dựa  vào  chỉ  tiêu  này  thì  chưa  phản  ánh  chính  xác  giá  trị  dinh  dưỡng  của  nước  nắm  và  có  thể  bị  lợi  dụng  để  đưa vào các chất chứa nito không phải đạm (ure,  melamin…) để nâng cao giá trị này.

Các loại acid amin

acid(Asp),

l-alanine l-arginine l-aspartic acid l-cystine l-glutamic acid glycine l-histidin l-isoleucine l-leucine l-methionine l-phenylalanine l-proline l-serine l-threonine l-tyrosine l-valine Nồng độ (µmol/ml) (±4%) 2,50 2,50 2,50 1,25 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 2,50 89,09 174,2 133,1 240,3 147,1 75,07 155,2 131,2 131,2 149,2 165,2 115.1 105,1 119,1 181,2 117,2

Đối tượng nghiên cứu  ‐  Nước  mắm  cốt  do  công  ty  Việt  Hương  Hải  (Nguyễn Duy, Phường 9, Quận 8, TP HCM)

Dụng cụ, trang thiết bị, hóa chất

Dụng cụ

Do  đó,  chúng  tôi  xây  dựng  quy  trình  xác  định hàm lượng acid amin trong nước mắm để  nghiên  cứu  đúng  giá  trị  dinh  dưỡng  của  sản  phẩm  này.  20  loại  acid  amin  L‐alanine(Ala),  L‐ L‐aspartic  arginine(Arg),  L‐ cystine(Cyt),  L‐glutamicacid  (Glu),  L‐glycine  (Gly)  L‐Histidine  (His),  L‐isoleucine  (Ile),  L‐ leucine(Leu),  L‐lysine(Lys),  L‐methionine(Met),  L‐phenylalanine(Phe),L‐proline(Pro),  L‐ serine(Ser), L‐threonine(Thr), L‐tyrosine (Tyr),L‐ (Cys),  L‐Tryptophan  valine(Val),  L‐Cystein

293

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Khảo sát các thông số sắc ký:

Các  dụng  cụ  thủy  tinh  và  không  thủy  tinh

thường sử dụng trong phòng thí nghiệm.

Các thông số cố định

Trang thiết bị

Hệ pha động:

Máy cất nước 2 lần

Pha  động  A:  Acetonitrile  ‐  H2O  (30:70),  bổ

sung TFA = 0,05%

Cân  phân  tích  4  số  lẻ  (độ  nhạy  0,1  mg)

Sartorius

Pha  động  B:  Acetonitrile  ‐  H2O  (30:70),  bổ

sung  TFA = 0,3%

Máy ly tâm

Tốc độ dòng: 1,2 mL/phút

Hệ  thống  máy  sắc  ký  lỏng  hiệu  năng  cao:

Hiệu Shimadzu

Cột    phân  tích:  Cột  Primesep  100:  250x  4,5

mm, đường kính hạt 5μm.

+ Bơm LC – 20AD XR

Thể tích tiêm:10 mcl

+ Autosampler SIL – 20AD XR

Các thông số khảo sát:

+ Degasser DGU – 20 A5

Khảo sát 2 chương trình gradient nồng độ:

+ Interface CBM – 20A

Bảng 3: Chương trình gradient nồng độ thứ 1

+  Cột  sắc  ký  phân  tích:  Cột  chuyên  dụng  phân tích acid amin Primesep 100 (250 x 4,6 mm)

+ Đầu dò khối phổ 1 lần (MS) Shimazdu

+ Đầu dò EDSL

Hóa chất

Thời gian (Phút) Sự kiện Tỉ lệ thể tích (%) 0.01 Dòng A 100

Bảng 2: Các dung môi, hóa chất sử dụng trong  nghiên cứu

Độ tinh khiết Hãng sản xuất 22.00 22.01 30.00 30.00 Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Kết thúc 0 0 100 100 0 100 0

Bảng 4: Chương trình gradient nồng độ thứ 2

Dung môi, hóa chất Methanol Acetonitrile Trifluoracetic acid Nước cất 2 lần HPLC grade HPLC grade AR grade J.T.Baker J.T.Baker Merck

Phương pháp nghiên cứu

Bước 1: Khảo sát và tối ưu hóa các điều kiện  để tách các acid amin trên hệ thống sắc ký lỏng  cột Primesep 100, đầu dò EDSL.

Bước  2:  Khảo  sát  hai  quy  trình  xử  lý,  tách

chiết các acid amin trên nền mẫu nước mắm.

Bước 3: Thẩm định quy trình định lượng các

acid amin bằng các phương pháp thống kê

Bước  4:  Áp  dụng  phương  pháp  được  xây  dựng phân tích 6 mẫu nước mắm trên thị trường

Thời gian (Phút) 0.01 5.00 20.00 22.00 22.01 30.00 30.00 Sự kiện Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Dòng A Dòng B Kết thúc Tỉ lệ thể tích (%) 100 0 100 0 0 100 0 100 100 0 100 0

Khảo sát các thông số khối phổ

Khảo  sát  các  thông  số  pha  động  trên  hệ

Các thông số cố định

thống HPLC –EDSL

Chế  độ  chạy:  API  (+),API  (‐);  Curtain  Gas:

Các thông số cố định:

2,5l/phút; Hiệu điện thế: 15 KV

Đầu  dò  EDSL:  nhiệt  độ:  750C,  gas  flow:

1,5l/phút; Gain: 4

294

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Interface

temperature:

4000C;

CDL

Các bước thực hiện chung cho các quy trình:

temperature: 2500C

Chạy  mẫu  nước  mắm  thực  tế  xử  lý  theo  từng quy trình tách chiết, chạy mẫu với cột phân  tách  để  xác  định  hiệu  quả:  hiệu  quả  phân  tách  tạp chất, hiệu suất thu hồi, độ lặp lại, độ ổn định  của phương pháp.

Khảo  sát  các  thông  số  về  thời  gian  lưu  của  các mảnh ion của các acid amin: bơm từng acid  amin vào hệ phân tích để khảo sát thời gian lưu  của các mảnh ion đặc trưng.

Bảng 5: Các thông số về phổ khối lượng

Quy trình khảo sát tách acid amin trong nước

Q1(m/z) Event ID

mắm:

Khảo sát 2 quy trình:

Quy trình 1

Bình định mức 50ml

Nước mắm 2ml + HCl 0,1N 30 ml

Cho đến hết tủa

Nhỏ từng giọt acid triclo acetic 10%

+ HCl 0,1N vừa đủ 50 ml

Hút 10 ml + 30 ml Ethanol

Ly tâm 5000 vòng/phút trong 10 phút

Tủa trắng

ống nghiệm có nắp

Ly tâm

Lấy dịch trong lọc qua màng lọc 0,45 µm

Vial: dịch đem phân tích

Arg 175 1 His 156 1 Leu 132 1 Ile 132 1 Lys 147 1 Met 150 1 Phe 166 1 Thr 120 1 Val 118 1 Gly 76 1 Ala 90 1 Ser 106 1 Pro 116 1 Asp 134 1 Glu 148 1 Tyr 182 1

Quy trình 2

Bình định mức 50ml

Nước mắm 2ml + HCl 0,1N 30 ml

Cho đến hết tủa

Nhỏ từng giọt acid triclo acetic 10%

+ HCl 0,1N vừa đủ 50 ml

Hút 10 ml + 30 ml Methanol

Ly tâm 5000 vòng/phút trong 10 phút

Trp 188 1 Cys 122 1 Cyt 241 1 Tau 124 2

Khảo  sát  các  quy  trình  loại  tạp  trong  nước

Tủa trắng

mắm

ống nghiệm có nắp

Ly tâm

Lấy dịch trong lọc qua màng lọc 0,45 µm

Vial: dịch đem phân tích

Thuyết minh 2 quy trình :

Để phân tích các acid amin trong nước mắm  chúng  ta  phải  loại  bỏ  các  tạp  chất  trong  nước  mắm  để  mẫu  phân  tích  được  sạch,  tránh  làm  thoái hóa cột phân tích, tránh các hiện tượng ảnh  hưởng nền (matrix effect) như hiện tượng giảm  ion (ion suppression)  đến quá trình phân tích

Hút 2ml mẫu nước mắm cần phân tích vào

Các  tạp  chất  có  trong  nền  mẫu  nước  mắm

bình định mức 50ml thêm 30ml HCl 0,1N.

cần phải loại bỏ:

Thêm  từ  từ  dung  dịch  tricloacetic  10%,  vừa

Các protein, các peptit còn sót trong lại trong

lắc cho đến khi nào thấy hết tủa trắng

quá trình thủy phân.

Định  mức  tới  50  mL  bằng  dung  dịch  HCl

0,1N.

Ly tâm ở 5000 vòng/phút trong 10 phút.

Các  hợp  chất  béo  trong  cá  còn  sót  lại.,  các  hợp  chất  màu,các  loại  phụ  gia  tạo  vị,  chất  bảo  quản, các loại muối

295

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Độ chính xác (Precision)

Độ đúng (Accuracy)

Giới hạn phát hiện và giới hạn của phương

Hút  10ml  dịch  trong  sau  ly  tâm  thêm  30  Ethanol  hoặc  Methanol  sẽ  thấy  xuất  hiện  tủa  trắng tiếp tục ly tâm.  1. Lọc dung dịch qua filter 0,45 μm vào vial.

pháp (MLOD, MLOQ)

Tóm tắt quy trình :

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Kết quả tách các acid amin bằng 2 chương  trình gradient pha động:

Sau  khi  chạy  khảo  sát  2  chương  trình  gradient  trên  chuẩn  hỗn  hợp  các  acid  amin  với  cột phân tích Primesep 100, kết quả thu được là  các sắc ký đồ

Mẫu  nước  mắm  được  hòa  tan  trong  dung  dịch dung dịch HCl 0,1N để tăng tính phân cực  của  các  acid  amin.  Thêm  acid  tricloacetic  10%,  mục  đích  là  tạo  tủa  protein  và  peptid.  Sau  đó  mẫu được loại tủa bằng ly tâm. Dịch trong được  tiếp tục loại muối bằng cồn ethanol và methanol.  Tiếp  tục  ly  tâm  và  đem  dịch  lọc  đi  phân  tích.  Vấn đề ở đây là khảo sát loại muối bằng ethanol  hay methanol thì hiệu suất thu hồi tốt hơn.

Thẩm  định  quy  trình  định  lượng  bằng  các

phương pháp thống kê

Chương  trình  1:  Theo  chương  trình  này  đã  tách được 20 acid amin cần quan tâm từ khoảng  thời gian từ 6 phút đến 20 phút nhưng kết quả  cho ra 16 peak. Như vậy có 3 cặp acid amin còn  chồng lên nhau.

Khoảng tuyến tính (Linear range)

Hình 1: Sắc ký đồ của 20 acid amin phân tích bằng chương trình gradient 1

Chương trình 2: Theo chương trình này, đã  tách được hết 20 acid amin thành 18 peak. Như  vậy  có  02  cặp  acid  amin  còn  chồng  lên  nhau.

296

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Hình 2: Sắc ký đồ của 20 acid amin phân tích bằng chương trình gradient 2

lại  thành  01  peak  nên  không  thể  định  lượng  bằng đầu dò EDSL được:  − Asp – Ser  − Cys‐Cyt

Áp dụng chương trình chạy thứ 2 chạy riêng  từng chuẩn acid amin để xác định thời gian lưu  của từng acid amin trong sắc ký đồ kết quả thứ  tự các acid amin như sau:  Bảng 6: Thời gian lưu của 20 acid amin chạy bằng chương  trình gradient thứ 2

Do đó, phải sử dụng đầu dò MS và kỹ thuật  select  ion  để  chọn  từng  ion  mới  có  thể  định  lượng một lúc 20 acid amin

Rt (phut) TT ACID AMIN 1 Taurin (124) 2,292 2 Aspartic(134) 5,419

Kết quả sắc ký đồ của các ion trên đầu dò  MS

3 Serine(106) 5,44 4 Threonin(120) 5,764 5 Glutamic(148) 5,918

Sắc ký đồ select ion của 20 acid amin chuẩn  Hình 3: Sắc ký đồ của các mảnh ion của 20 acid amin

Kết  quả  sắc  ký  đồ  EDSL  vẫn  còn  các  cặp  peak mặc dù có thời gian lưu khác nhau nhưng  quá sát nên các cặp peak sau đây vẫn còn chập

6 Glycin(76) 6 7 Alanine (90) 6,599 8 Proline(116) 7,007 9 Valine(118) 8,5 10 Tyrosine(182) 8,937 11 Methionin(150) 9,17 12 Isoleucin(132) 11,196 13 Leucin(132) 11,679 14 Cystein(122) 12,5 15 Cystin(241) 12,511 16 Phenylalanin(166) 12,868 17 Histidin(156) 17,783 18 Tryptophan (188) 18,337 19 Lysine(147) 18,338 20 Arginin(175) 19,988

297

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

298

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Độ ổn định của các mảnh ion đặc trưng cho từng acid amin.  Bảng 7: Độ ổn định thời gian lưu của các mảnh ion trong 6 lần phân tích  TT

Thời gian lưu của 6 lần chạy chuẩn Acid amin SD RSD% Trung bình

2 6,567 19,95 5,41

1 6,599 19,988 5,419 12,511 12,484 5,899 5,918 6 6

17,783 17,835 11,196 11,147 11,679 11,648 18,338 18,332 Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Cystin(241) Glutamic(148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin(150) 9,13 9,17

chuẩn  tương  đối  đều  dưới  2%  (trừ  isoleucin  2,567%). Điều này cho thấy hệ thống sắc ký như  trên ổn định để phân tích 20 acid amin.

Nhận xét: ‐ Hệ thống sắc ký với các thông số  sắc ký và đầu dò khối phổ cho các sắc ký đồ của  từng ion có thời gian lưu rất ổn định có độ lệch

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Phenylalanin(166) 12,868 12,801 6,999 13 7,007 5,428 14 5,44 5,749 15 5,764 8,937 16 8,906 15,518 15,433 17 2,267 2,292 18 18,337 18,309 19 17,867 17,833 20 Proline(116) Serine(106) Threonin(120) Tyrosine(182) Valine(118) Taurin (124) Tryptophan (188) Cystein(122) 3 6,567 19,955 5,4 12,5 5,9 6,033 17,837 11,199 11,678 18,342 9,131 12,833 6,993 5,433 5,755 8,875 15,433 2,267 18,321 17,867 4 6,567 19,988 5,419 12,511 5,918 6 17,8 11,896 11,67 18,33 9,16 12,86 7 5,442 5,758 8,905 15,467 2,28 18,32 17,8 5 6,593 19,998 5,436 12,551 5,938 6,033 17,9 11,249 11,758 18,342 9,202 12,922 7,043 5,46 5,779 8,988 15,589 2,294 18,336 17,9 6 6,764 19,933 5,424 12,499 5,884 6,067 17,774 11,151 11,656 18,2 9,124 12,744 6,754 5,443 5,789 8,873 15,367 2,297 18,2 17,8 6,610 19,969 5,418 12,509 5,910 6,022 17,822 11,306 11,682 18,314 9,153 12,838 6,966 5,441 5,766 8,914 15,468 2,283 18,304 17,845 0,077 0,026 0,012 0,023 0,019 0,027 0,046 0,291 0,039 0,056 0,030 0,061 0,105 0,011 0,015 0,043 0,077 0,014 0,052 0,040 1,166 0,131 0,226 0,181 0,322 0,453 0,261 2,576 0,338 0,306 0,331 0,476 1,513 0,201 0,266 0,485 0,499 0,594 0,284 0,227

299

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Kết  quả  khảo  sát  các  quy  trình  xử  lý  loại  tạp

Phân  tích  cùng  một  mẫu  nước  mắm  Việt  Hương  Hải  với  2  quy  trình  xử  lý  mẫu,  kết  quả  cho thấy:

Nhận xét:  Khi sử dụng dung môi methanol pha loãng thể  tích cuối cùng với mục đích loại muối thì kết quả  phân tích các acid amin cao hơn so với sử dụng  ethanol.  Do  đó  quy  trình  sử  dụng  methanol  được chọn.

Acid amin (ppm) Threonin(120) Tyrosine(182) Valin (118) Taurin (124) Tryptophan (188) Cystein(122) Tổng cộng Methanol 8.004,17 2.176,48 25.028,14 1.142,54 193,64 396,16 124.922,53 Ethanol 6.370,69 2.447,02 23.869,20 939,33 204,94 434,55 106.967,63

Thẩm định quy trình định lượng

Khoảng tuyến tính

Dung dịch chuẩn của 20 acid amin được pha  loãng các nồng độ khác nhau từ thấp đến cao có  nồng độ theo bảng:

Bảng 8: Kết quả hàm lượng các acid amin của quy  trình 1 và quy trình 2   Acid amin (ppm) Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Glutamic(148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin(150) Phenylalanin(166) Proline(116) Serine(106)

Methanol 11.545,53 2.409,12 11.668,69 15.055,77 2.020,75 7.114,58 2.490,72 2.492,35 19.098,60 2.967,10 6.638,66 1.112,44 3.367,10 Ethanol 11.637,62 918,94 4.874,19 9.745,86 1.185,27 6.454,91 2.790,49 2.773,25 16.562,15 2.791,69 6.540,04 603,46 2.824,02

Bảng 9: Dãy chuẩn các acid amin dùng để xác định khoảng tuyến tính

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

1,34 4,36 3,00 3,68 1,88 3,88 3,28 3,28 3,66 3,73 4,13 2,88 2,63 2,98 4,53 2,93 5 5 5

TT Acid amin

6,68 4,01 13,07 9,01 11,03 5,63 11,64 9,84 9,84 10,97 11,19 12,39 8,63 7,88 8,93 13,59 8,79 15 15 15

11,13 6,69 21,78 15,02 18,39 9,38 19,40 16,40 16,40 18,28 18,65 20,65 14,39 13,14 14,89 22,65 14,65 25 25 25

37,08 22,29 72,58 50,06 61,29 31,28 64,67 54,67 54,67 60,92 62,17 68,83 47,96 43,79 49,63 75,50 48,83 70 70 70

59,33 35,66 116,13 80,10 98,07 50,05 103,47 87,47 87,47 97,47 99,47 110,13 76,73 70,07 79,40 120,80 78,13 90 90 90

NỒNG ĐỘ (PPM) 29,67 17,83 58,07 40,05 49,03 25,02 51,73 43,73 43,73 48,73 49,73 55,07 38,37 35,03 39,70 60,40 39,07 60 60 60

74,17 44,58 145,17 100,13 122,58 62,56 129,33 109,33 109,33 121,83 124,33 137,67 95,92 87,58 99,25 151,00 97,67 100 100 100

15,58 Arginin(175) 9,36 Aspartic(134) 30,49 Cystin(241) 21,03 Glutamic(148) 25,74 Glycin(76) 13,14 Histidin(156) 27,16 Isoleucin(132) 22,96 Leucin(132) 22,96 Lysine(147) 25,59 Methionin(150) 26,11 Phenylalanin(166) 28,91 Proline(116) 20,14 Serine(106) 18,39 Threonin(120) 20,84 Tyrosine(182) 31,71 Valine(118) 20,51 Taurin (124) 35 Tryptophan (188) 35 Cystein(122) 35 Các dung dịch chuẩn được lần lượt bơm  vào máy để đo diện tích peak và tính độ tuyến  tính theo phương trình hồi quy kết  quả  cho  độ  tuyến tính theo dãy nồng độ trên.Chỉ có Cystin

22,25 44,50 13,37 26,75 43,55 87,10 30,04 60,08 36,78 73,55 18,77 37,54 38,80 77,60 32,80 65,60 32,80 65,60 36,55 73,10 37,30 74,60 41,30 82,60 28,78 57,55 26,28 52,55 29,78 59,55 45,30 90,60 29,30 58,60 50 80 50 80 50 80 có khoảng tuyến tính rất ngắn từ 3 ppm đến  21  ppm còn các acid amin còn lại có khoảng tuyến  tính rất rộng từ vài ppm cho đến trên dưới 100  ppm

300

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

do tuyen tinh Alanin

Do tuyen tinh Aspartic

600000

500000

y = 6650,4x + 29054 R2 = 0,987

k a e p

3000000 2000000

400000

y = 14569x - 96814 R2 = 0,9965

300000

h c i t

200000

n e i

1000000 0

k a e p h c i t n e i D

D

100000

0

50

100

150

200

0

0

20

40

60

80

Ham luong (ppm)

Ham luong (ppm)

Hình 4: Đồ thị biểu diễn khoảng tuyến tính của 2 acid amin

Độ lặp lại của phương pháp

mẫu  nước  mắm  6  lần    số  liệu  thu  được  dùng  tính chính xác, độ sai lệch RSD (%). Kết quả thu  được theo bảng:

Trên  mẫu  nước  mắm  Việt  Hương  Hải,  tiến hành áp dụng phương pháp thử phân tích

Bảng 10: Kết quả độ lặp lại

ACID AMIN SD Độ tin RSD % cậy Hàm lượng của các acid amin (ppm) Lần 4 Lần 3 Lần 6 Trung bình 9.983,97 9.416,64 Lần 5 8.945,15 10,26 Lần 1 9.751,09 9,76 Lần 2 9.951,17 9,04 9,71 0,43 9,86 9,97 9.303,05 9,40

9.244,28 2.777,01 7.066,80 5.061,60 5.665,26 6.768,74 3.713,26 8.793,31 2.821,51 6.972,27 5.038,04 5.655,02 6.415,99 3.778,23 9.036,79 3.063,66 6.587,75 5.041,87 5.212,30 5.851,63 3.601,58 9.105,43 8.385,54 2.979,97 2.775,36 6.775,02 6.660,45 4.959,91 4.959,91 5.285,07 5.714,11 6.261,81 6.205,58 3.701,10 3.663,64

Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Glutamic (148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin Phenylalanin Proline(116) Serine(106) 5.519,73 5.468,83 8.750,71 9.127,69 5.573,29 8.670,52 5.625,79 8.872,30 5.521,33 8.705,92

813,96 1.827,04 369,37 729,75 550,88 115.640,25 830,84 1.758,83 373,91 705,01 538,03 115.349,72 804,36 1.773,10 383,70 725,87 558,39 115.687,31 882,85 1.628,69 364,41 732,88 524,52 115.984,34 863,72 1.852,50 355,85 723,16 523,52 116.651,11 9.558,51 408,38 428,48 0,45 20.679,80 21.294,66 21.254,72 19.504,42 20.767,38 20.925,63 20.737,77 653,92 686,09 8.969,59 331,80 348,13 9.252,19 2.876,51 118,41 124,24 2.841,53 6.791,46 188,92 198,21 6.686,49 5.010,76 5.003,22 43,65 45,79 5.474,37 226,55 237,70 5.314,47 6.287,49 299,95 314,71 6.221,17 3.784,42 69,48 72,90 3.707,04 13.054,41 13.592,56 13.131,22 12.729,88 13.776,37 13.651,60 13.322,67 411,56 431,81 5.561,58 5.660,49 72,13 75,68 8.902,91 252,00 264,40 9.290,33 Threonin(120) 14.301,63 13.955,06 14.244,93 13.298,70 13.877,61 13.918,49 13.932,73 357,57 375,16 38,33 40,21 839,32 Tyrosine(182) 780,84 89,08 93,47 1.799,30 1.672,37 Valin (118) 14,24 14,94 374,28 395,84 Taurin (124) 35,64 37,40 659,18 659,20 Tryptophan Cystein(122) 18,02 18,91 553,27 517,58 111.960,65 116.174,68 TỔNG

4,27 4,46 3,15 3,70 4,12 2,78 0,87 4,14 4,77 1,87 3,09 1,30 2,83 2,57 4,61 5,06 3,81 5,06 3,35 tích các acid amin để tính độ thu hồi so với giá  trị lý thuyết. Mỗi nồng độ được phân tích 3 lần,  tính độ sai lệch RSD (%) và độ lệch thực nghiệm  (experimental bias)

Kết quả của 6 lần phân tích trên mẫu nước  mắm Việt Hương Hải trong cùng một ngày cho  ra  hàm  lượng  của  19  loại  acid  amin  (không  có  cystin) có độ lệch chuẩn tương đối (RSD) trong  khoảng từ 0,87% đến 5,06%

Xác định tỷ lệ thu hồi, độ đúng của phương  pháp

Từ  mẫu  nước  mắm  Việt  Hương  Hải  được  pha loãng ra ở nồng độ 80% và 60% đem phân

301

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Bảng 11: Kết quả hàm lượng acid amin phân tích trên mẫu pha loãng 80% và 60%

Acid amin HL lý thuyết 80% HL lý thuyết 60% Mẫu 1 Hàm lượng mẩu 80% Mẫu 2

5,86 5,70 7,41 7,81

Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Glutamic(148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin(150)

hồi và độ lệch thực nghiệm được trình bài trong  bảng 12.

Dựa  vào  các  kết  quả  phân  tích  này  để  tính  toán  tỷ  lệ  phục  hồi  (recovery)  và  độ  lệch  thực  nghiệm của từng acid amin. Kết quả tỷ lệ phục

Hàm lượng mẩu 60% Mẫu 2 Mẫu 3 Mẫu 1 7.800,87 8.159,96 7.887,34 5.850,65 6.269,24 7,79 16.543,84 17.461,62 16.791,23 12.407,88 13.415,63 7.401,75 7.410,17 7.193,29 5.551,31 5.693,18 2.273,23 2.512,20 2.354,17 1.704,92 1.930,11 5.349,19 5.401,96 5.352,26 4.011,89 4.150,28 4.002,57 4.134,33 3.918,33 3.001,93 3.176,38 4.251,58 4.274,09 4.175,20 3.188,68 3.283,75 4.464,96 4.491,15 4.434,85 3.527,91 3.276,95 3.027,54 2.953,30 2.923,87 2.270,65 2.269,00 Phenylalanin(166) 10.443,53 11.145,90 10.373,67 7.832,65 8.563,31 4.528,39 4.570,10 4.360,59 3.396,29 3.511,18 7.432,27 7.109,83 6.913,06 5.574,20 5.462,43 11.441,30 11.443,15 11.253,49 8.580,98 8.791,69 506,75 663,06 659,58 706,28 1.117,05 1.302,95 1.453,94 1.421,45 241,73 312,71 314,64 291,53 457,30 520,77 595,21 586,30 351,79 408,88 457,88 419,61 Proline(116) Serine(106) Threonin(120) Tyrosine(182) Valin (118) Taurin (124) Tryptophan (188) Cystein(122) Mẫu 3 5.790,70 5,72 12.327,74 5.281,15 1.728,38 3.929,51 2.876,75 3.065,34 3.222,27 2.146,64 7.616,11 3.201,44 5.075,41 8.262,06 486,81 1.043,59 229,59 382,34 300,19 529,71 977,21 218,65 439,73 314,71 7.646,81 7,77 16.590,21 7.175,67 2.301,20 5.433,17 4.008,61 4.379,50 5.029,99 2.965,63 10.658,14 4.449,26 7.122,33 11.146,19 664,67 1.407,07 299,13 564,00 430,42 5.735,11 5,83 12.442,66 5.381,76 1.725,90 4.074,88 3.006,45 3.284,62 3.772,49 2.224,22 7.993,60 3.336,95 5.341,75 8.359,64 498,51 1.055,30 224,35 423,00 322,82

Bảng 12: Kết quả tỷ lệ thu hồi và độ lệch thực nghiệm

Acid amin Độ lệch mẫu 80% Độ lệch mẫu 60% Độ lệch Tỷ lệ phục hồi mẩu 80% Tỷ lệ phục hồi mẩu 60% Tỷ lệ phục hồi tb thực nghiệm Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3

Aspartic Glutamic Glycin(76) Histidin Isoleucin

Taurin

Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Alanine -90 102,01 106,71 103,15 102,01 109,31 100,97 104,03 2,01 6,71 3,15 2,01 9,31 0,97 Arginin-175 100,47 95,38 100,27 100,47 97,70 98,15 98,74 0,47 4,62 0,27 0,47 2,30 1,85 99,72 105,25 101,21 99,72 107,82 99,08 102,13 0,28 5,25 1,21 0,28 7,82 0,92 103,15 103,27 100,25 103,15 105,79 98,13 102,29 3,15 3,27 0,25 3,15 5,79 1,87 98,78 109,17 102,30 98,78 111,83 100,14 103,50 1,22 9,17 2,30 1,22 11,8 0,14 98,45 99,43 98,51 98,45 101,85 96,43 98,85 1,55 0,57 1,49 1,55 1,85 3,57 99,85 103,14 97,75 99,85 105,65 95,69 100,32 0,15 3,14 2,25 0,15 5,65 4,31 Leucin (132) 97,08 97,59 95,34 97,08 99,97 93,32 96,73 2,92 2,41 4,66 2,92 0,03 6,68 Lysine(147) Methionin 102,09 99,58 98,59 102,09 102,01 96,51 100,15 2,09 0,42 1,41 2,09 2,01 3,49 Phenyalanin 97,99 104,58 97,33 97,99 107,13 95,28 100,05 2,01 4,58 2,67 2,01 7,13 4,72 Proline-116 101,78 102,72 98,01 101,78 105,22 95,94 100,91 1,78 2,72 1,99 1,78 5,22 4,06 Serine(106) 104,35 99,82 97,06 104,35 102,26 95,01 100,48 4,35 0,18 2,94 4,35 2,26 4,99 102,65 102,66 100,96 102,65 105,17 98,83 102,15 2,65 2,66 0,96 2,65 5,17 1,17 Threonin Tyrosine 106,26 99,23 99,76 106,26 101,65 97,65 101,80 6,26 0,77 0,24 6,26 1,65 2,35 Valin (118) 92,60 103,33 101,02 92,60 105,85 98,89 99,05 7,40 3,33 1,02 7,40 5,85 1,11 97,46 105,19 104,54 97,46 107,75 102,34 102,46 2,54 5,19 4,54 2,54 7,75 2,34 Tryptophan 103,95 105,53 92,33 103,95 108,11 90,39 100,71 3,95 5,53 7,67 3,95 8,11 9,61 97,49 106,38 95,00 97,49 108,98 92,99 99,72 2,51 6,38 5,00 2,51 8,98 7,01 4,03 1,66 2,63 2,91 4,31 1,76 2,61 3,27 88,77 89,29 88,17 93,52 86,86 85,41 88,67 11,2 10,7 11,8 6,48 13,1 14,6 11,33 1,92 3,85 2,92 3,18 2,54 2,92 4,35 4,15 6,47 5,40 Cystein

302

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kết  quả  xác  định  giới  hạn  phát  hiện  LOD  và  giới  hạn  định  lượng  của  thiết  bị  phân  tích  và  của phương pháp.

hệ thống sắc ký để chạy các 6 sắc ký đồ cho từng  loại ion của từng acid amin. Sử dụng phần mềm  của máy sắc ký để tính tỷ lệ tín hiệu/nhiễu (S/N)  của 6 lần chạy mẫu, sau đó tính trung bình tỷ lệ  S/N. Dùng giá trị trung bình này để tính giới hạn  phát hiện và giới hạn định lượng trên thiết bị và  của phương pháp. Kết quả như sau theo bảng:

Sử dụng mẫu nước mắm Việt Hương Hải đã  phân tích biết được hàm lượng từng acid amin,  tính  toán  pha  loãng  đến  hàm  lượng  khoảng  1‐ 2ppm cho mỗi loại xử lý mẫu và bơm 6 lần vào

Bảng 13: Kết quả giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng  ACID AMIN Hàm lượng

22,96

2,23

0,29

0,97

21,8

72,6

1,34

914,30

932,59

941,73

886,87

950,87

850,30

912,78

0,00

0,01

0,33

1,10

4,36

36,79

37,53

37,89

35,69

38,26

34,21

36,73

0,36

1,19

26,6

88,9

3,68

122,64

125,09

126,32

118,96

127,55

114,06

122,44

0,09

0,30

6,76

22,5

1,88

18,23

18,59

18,78

17,68

18,96

16,95

0,31

1,03

23,2

77,3

18,20

3,88

52,85

53,91

54,44

51,26

54,96

49,15

0,22

0,74

16,5

55,1

52,76

3,28

113,72

115,99

117,13

110,31

118,27

105,76

0,09

0,29

6,50

21,6

113,53

3,28

113,72

115,99

117,13

110,31

118,27

105,76

0,09

0,29

6,50

21,6

113,53

3,66

98,50

100,47

101,46

95,55

102,44

91,61

0,11

0,37

8,36

27,8

98,34

3,73

203,89

207,97

210,01

197,77

212,05

189,62

0,05

0,18

4,12

13,7

203,55

4,13

157,49

160,64

162,21

152,77

163,79

146,47

0,08

0,26

5,91

19,7

157,23

2,88

76,55

78,08

78,85

74,25

79,61

71,19

0,11

0,38

8,47

28,2

76,42

2,63

19,90

20,30

20,50

19,30

20,70

18,51

0,40

1,32

29,7

99,1

19,87

2,98

48,27

49,24

49,72

46,82

50,20

44,89

0,19

0,62

13,9

46,3

48,19

4,53

159,21

162,39

163,99

154,43

165,58

148,07

158,94

0,09

0,29

6,41

21,3

2,93

50,00

51,00

51,50

9,91

52,00

9,50

37,32

0,24

0,79

17,6

58,8

0,50

184,27

187,96

189,80

178,74

191,64

171,37

183,96

0,01

0,03

0,61

2,04

0,50

94,12

96,00

96,94

91,30

97,88

87,53

0,02

0,05

1,20

3,99

93,96

0,50

6,98

7,12

7,19

6,77

7,26

6,49

0,22

0,72

16,1

53,8

6,97

(ppm) ILOD (ppm) ILOQ (ppm) MLOD (ppm) MLOQ (ppm) lần 1 Lần 2 23,46 23,00 lần 3 23,69 TỶ LỆ S/N lần 4 22,31 lần 5 23,92 lần 6 Trung bình 21,39

nước mắm phải chú ý điều chỉnh độ pha loãng  sau  cho  nồng  độ  chất  phân  tích  nằm  trên  giới  hạn định lượng của thiết bị.

Nhận xét: ‐ Giới hạn phát hiện trên  máy của  các  acid  amin  khác  nhau  từ  vài  chục  đến  cao  nhất là Aspartic acid 360 ppb.

Giới  hạn  phát  hiện  của  phương  pháp  tùy  thuộc vào hệ số pha loãng mẫu, do đó tùy loại

Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Glutamic(148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin(150) Phenylalanin Proline(116) Serine(106) Threonin(120) Tyrosine(182) Valin (118) Taurin (124) Tryptophan Cystein(122)

Áp dụng quy trình định lượng các acid amin trong một số mẫu nước mắm  Bảng 14: Kết quả phân tích hàm lượng các acid amin trong 6 mẫu nước mắm

ACID AMIN (mg/l) Alanine (90) Arginin(175) Aspartic(134) Glutamic(148) Glycin(76) Histidin(156) Isoleucin(132) Leucin(132) Lysine(147) Methionin(150) Phenylalanin(166) Hoà Hiệp 859,42 56,18 3.266,25 604,46 165,84 338,29 956,31 1.136,88 1.078,84 220,20 350,88 Mộc nhỉ 7.330,12 3,08 514,97 8.322,02 63,10 1.804,34 1.296,03 2.245,55 3.030,32 726,88 1.000,88 Y Phụng 2.626,78 14,24 3.787,05 702,05 178,24 4.014,34 3.530,40 5.446,51 6.411,27 2.077,76 2.450,17 Hồng hạnh 10.586,75 52,52 8.479,83 1.765,53 787,10 15.020,06 6.285,92 7.220,26 20.695,06 4.493,47 7.070,88 Hưng thịnh 11.240,67 71,78 8.044,97 1.991,18 801,07 18.554,69 6.242,95 6.761,37 21.863,74 4.799,38 7.498,86 Nam ngư 8.355,45 13,19 6.384,41 4.327,95 154,43 204,76 1.851,34 2.092,11 8.274,02 1.273,30 2.213,33

303

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ACID AMIN (mg/l) Proline(116) Serine(106) Threonin(120) Tyrosine(182) Valin (118) Taurin (124) Tryptophan (188) Cystein(122) TỔNG CÔNG Hoà Hiệp 300,87 3.841,31 247,70 339,41 2.992,07 48,48 3,53 0,00 16.806,91 Mộc nhỉ 22,77 3.068,88 935,20 180,22 1.461,14 24,89 10,76 0,00 32.041,15 Y Phụng 546,77 1.319,90 2.290,51 408,23 3.897,63 64,84 67,88 163,85 39.998,40 Hồng hạnh 4.912,79 5.464,23 7.969,12 835,78 13.625,89 169,01 152,06 908,00 116.494,28 Hưng thịnh 5.930,82 5.777,86 9.658,76 1.108,31 16.032,22 136,24 200,53 1.761,74 128.477,12 Nam ngư 1.720,19 2.834,34 3.560,52 296,03 4.732,51 49,37 44,43 116,03 48.497,72

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Từ các kết quả thu được ở trên, chúng tôi đề  xuất  quy  trình  định  lượng  các  acid  amin  trong  nền mẫu nước mắm trên máy LC/MS như sau:

Đề  nghị:  Từ  kết  quả  phân  tích  trên  nước  mắm sẽ triển khai thêm các quy trình phân tích  acid  amin  trong  các  dạng  mẫu  khác  như  sữa,  thực  phẩm  chức  năng  và  các  dạng  sản  phẩm  dinh dưỡng khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Mẫu  nước  mắm  được  làm  sạch  với  dung  dịch  acid  tricloroacetic  10%  và  methanol  trước  khi đem phân tích trên máy.

2.

Sử  dụng  pha  động  Acetonitrile  –  nước  cất  (70:30)  bổ  sung  TFA  cùng  với  chương  trình  gradient nồng độ để tách các acid amin trên cột  phân tích Primesep 100.

Sử dụng đầu dò MS thu nhận tín hiệu ở chế

3.

độ SIM MODE APCI(–) (+).

Kết  quả  của  việc  thẩm  định  quy  trình  định

4.

lượng, chúng tôi thu được như sau:

5.

Khoảng  tuyến  tính:  1,34ppm  cho  đến  137  ppm  trừ  cystin  có  khoảng  tuyến  tính  rất  ngắn.

Giới  hạn  phát  hiện  của  thiết  bị  từ  0,04ppp

cho đến 136ppp

6.

Bộ  Thuỷ  Sản  (2005).  Quyết  định  số  18/2005/QĐ‐BTS  ngày  116/5/2005 của Bộ Thủy Sản về việc ban hành quy định tạm  thời 28 TCN230:2006 về sản xuất nước mắm mang tên gọi  xuất xứ Phú Quốc.  Clark  S  (2007),  Determination  of  urea  using  HPLC  with  fluorescence  detection  after  automated  derivatisation  with  xanthydrol,  Journal  of  Chromatography  A,  Volume  1161,  pp,207‐213,  Jiang JJ, Zeng QX, Zhu ZW and Zhang LY (2007), Chemical  and  sensory  changes  associated  Yu‐lu  fermentation  process‐A  traditional  Chinese  fish  sauce,  Food  Chemistry,  Volume  104,  Issue 4, pp,1629‐1634.  Masudo  T  (1995  ),  Determination  of  urea  and  citrulline  in  fermented food and beverages, Journal of Bioscience Biotechnology  Biochemistry, Volume 59, Issue 5 pp,827‐830,  Park JN, Fukumoto Y, Fujita E, Tanaka T, Washio T, Otsuka  S,  Shimizu  T,  Watanable  K  and  Abe  H  (2001),  Chemical  composition  of  fish  sauces  produced  in  southeast  and  east  Asian  country,    Journal  of  Food  Composition  and  Analysis,  Volume 14, Issue 2, pp, 113‐125.  Trương  Thế  Kỷ  (1999),  Amino acid, peptid, protid,  Hóa  Học  Hữu Cơ,  tr,45‐58.

Độ chính xác và độ đúng dưới 20%.

Hiệu  suất  thu  hồi  các  acid  amin  đều  trên

85%.

304

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN  THỰC PHẨM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG THỨC ĂN ĐƯỜNG PHỐ   TẠI THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG NĂM 2011

Âu Hiền Sĩ*, Bùi Thị Thúy Ngân*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Thức ăn đường phố (TAĐP) tiềm ẩn những nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, đe dọa đến sức

khỏe và tính mạng của người sử dụng.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về an toàn thực phẩm của người

sử dụng TAĐP, và xác định mối tương quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành của người sử dụng TAĐP.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, điều tra 577 người tiêu dùng thức ăn đường phố tại thành

phố Sóc Trăng, từ tháng 10/2011 đến tháng 12/2011.

Kết quả nghiên cứu: Kết quả cho thấy, người sử dụng thức ăn đường phố có kiến thức đúng về vệ sinh an  toàn thực phẩm chiếm tỷ lệ khá tốt với 77,8%, tuy nhiên, thái độ và thực hành có tỷ lệ không cao với thái độ  đúng là 50,4%, thực hành đúng là 50,8%. Có sự tương quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành của người sử  dụng TAĐP.

Kết luận: Cần nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của người sử dụng

TAĐP.

Từ khóa: Kiến thức, thái độ, thực hành đúng, người sử dụng thức ăn đường phố

ABSTRACT

SURVEY OF KNOWLEDGE, ATTITUDE, AND PRACTICE ON FOOD HYGIENE AND SAFETY OF  STREET FOOD USERS IN SOC TRANG CITY, SOC TRANG PROVINCE  IN 2011

Au Hien si, Bui Thi Thuy Ngan

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 306 ‐ 310

Background: Street food entails the risk of food poisoning that threat to the health and lives of users.

Objectives: To indentify the proportion of street food users having right knowledge, attitude, and practice of

hygiene and food safety relationships between the knowledge, attitude, and practice of street food users.

Method:  A  cross‐sectional  method  was  conducted  among  577  of  street  food  users  in  Soc  Trăng  city

from 10/2011 to 12/2011.

Results:  The  results  showed  that  the  percentage  of  77.8%  having  right  knowledge  were  quite  high,  accounting  for  77.8%.  However,  the  proportion  of  street  food  users  having  right  attitude  (50.4%)  and  right  practice (50.8%) were not high. There is correlation of  knowledge, attitude, practice of street food users .

Conclusion: Need to enhance knowledge, attitude and practice on food hygiene and safety of street

food users.

Keywords: right  knowledge, attitude, practice, street food users

∗ Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Sóc Trăng  Tác giả liên lạc: Ths. Bùi Thị Thúy Ngân  ĐT: 0918.410404

Email: thuynganks@yahoo.com.vn

305

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trung  bình  mỗi  cụm  phỏng  vấn  từ  19  –  20  người, đến khi đủ cỡ mẫu 577 người sử dụng.

Phương pháp thu thập và xử lý số liệu dữ liệu:   Số  liệu  được  thu  thập  qua  phỏng  vấn  trực  tiếp bằng bảng câu hỏi. Trong thời gian nghiên  cứu từ tháng 10/2011 đến 12/2011.

Phương pháp xử lý số liệu: Nhập và xử lý số

liệu bằng phần mềm Epi Info 2002.

Phương pháp kiểm soát sai lệch thông tin:

Tập huấn điều tra viên để thống nhất về nội  dung  điều  tra  và  kỹ  thuật  phỏng  vấn.  Điều  tra  viên phải phỏng vấn khách quan, không gợi ý.

Thành  phố  Sóc  Trăng  là  trung  tâm  kinh  tế,  văn  hóa,  xã  hội  của  tỉnh  Sóc  Trăng,  do  đó  tập  trung  phần  lớn  công  ty,  xí  nghiệp,  trường  học,  cơ  sở  sản  xuất,  các  hộ  kinh  doanh  buôn  bán   phân  phối...  của  tỉnh,  nên  lượt  người  làm  việc,  học tập, kinh doanh, đi lại và lưu trú mỗi ngày  rất  lớn,  dẫn  đến  nhu  cầu  về  thức  ăn  nhất  là  TAĐP  cũng  tăng  theo.  Tuy  nhiên,  do  tập  quán  sản xuất nhỏ lẻ, di động, bày bán ở những nơi có  nguồn ô nhiễm cao..., gây khó khăn trong quản  lý và kiểm soát, dẫn đến nguy cơ ngộ độc thực  phẩm, đe dọa sức khỏe cho người sử dụng.

Thực hiện điều tra thử 5%  tổng  số  mẫu,  để  rút kinh nghiệm và hiệu chỉnh câu hỏi cho phù  hợp trước khi điều tra chính thức.

Bố trí giám sát viên trong quá trình thu thập

thông tin.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Vì vậy, Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm  tỉnh Sóc Trăng, tiến hành khảo sát kiến thức, thái  độ, thực hành của người sử dụng thức ăn đường  phố  tại  thành  phố  Sóc  Trăng,  nhằm  nâng  cao  kiến thức, thái độ, thực hành của người sử dụng  TAĐP,  đồng  thời  đưa  ra  những  biện  pháp  cải  thiện vệ sinh an toàn thực phẩm TAĐP.

Đặc  điểm  chung  của  người  sử  dụng  thức  ăn  đường phố

Mục tiêu nghiên cứu:

Bảng 1: Đặc điểm chung của người sử dụng thức ăn  đường phố (n=577)

Xác định tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành  đúng  của  người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc trăng, tỉnh Sóc Trăng năm 2011.

Xác định mối tương quan giữa kiến thức và

thái độ, thực hành của người sử dụng TAĐP.

Tần số Tỷ lệ (%)

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu:

Người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc

Trăng, từ 16 tuổi trở lên.

Phương pháp nghiên cứu:

Thiết kế nghiên cứu:   Cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu:

Cỡ mẫu được tính theo công thức mẫu ngẫu

nhiên đơn với hệ số thiết kế k = 1,5, với n = 577.

Kỹ thuật chọn mẫu: Chọn 30 cụm tập trung  nhiều  người  tiêu  dùng  tại  các  khu  vực  chợ,  trường học, công ty… tại thành phố Sóc Trăng.

Đặc tính Nhóm tuổi Giới tính Trình độ học vấn Dân tộc Nghề nghiệp Trả lời Từ 16 – 29 tuổi Từ 30 – 55 tuổi Từ 56 tuổi trở lên Nam Nữ Mù chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 TC, CĐ, ĐH, SĐH Kinh Hoa Khmer Khác Làm ruộng, vườn Làm thuê Công nhân Buôn bán, dịch vụ Học sinh, sinh viên CBCNV Khác 290 204 83 260 317 7 97 192 194 87 395 73 108 1 13 32 113 157 142 48 72 50,3 35,3 14,4 45,1 54,9 1,2 16,8 33,3 33,6 15,1 68,4 12,7 18,7 0,2 2,3 5,5 19,6 27,2 24,6 8,3 12,5

306

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

điều tra cũng cho thấy hầu hết thức ăn đều được  bày bán trong tủ kính, đây cũng là nổ lực của các  ngành  quản  lý  công  tác  ATVSTP  tại  thành  phố  Sóc Trăng.

Kết quả bảng 1 cho thấy, đa số người được  điều tra phần lớn trong độ tuổi lao động từ 16 ‐  55 tuổi chiếm 85,6%, nữ giới chiếm 54,9%, trình  độ học vấn cấp 2 (33,3%) và cấp 3 (33,6%) chiếm  ưu thế, mù chữ chiếm tỷ lệ thấp nhất (1,2%), đây  là  điều  kiện  thuận  lợi  cho  việc  phổ  biến  tuyên  truyền,  cập  nhật  kiến  thức  ATVSTP  và  nghề  nghiệp  tập  trung  là  buôn  bán  dịch  vụ  (27,2%),  học sinh, sinh viên (24,6%) và công nhân.

Kiến  thức  về  vệ  sinh  an  toàn  thực  phẩm  (VSATTP) của người sử dụng TAĐP   Bảng 2: Kiến thức về VSATTP của người sử dụng  thức ăn đường phố (n=577)

Tần số Tỷ lệ (%) 510 88,4

Nội dung Nơi bày bán thức ăn gần nguồn ô nhiễm (cống, rãnh...) không đảm bảo vệ sinh Nơi bày bán cần dụng cụ đựng rác

Ngoài  ra,  88,4%  người  tiêu  dùng  biết  rằng  nơi  bày  bán  thức  ăn  gần  nguồn  ô  nhiễm  (như  cống,  rảnh,  nhà  vệ  sinh,  bụi  bẩn...)  thì  không  đảm  bảo  VSATTP,  số  liệu  tương  đương  với  nghiên  cứu  của  Lý  Thành  Minh,  khi  điều  tra  người sử dụng TAĐP tại thị xã Bến Tre, tỉnh Bến  Tre năm 2007, với 87,1%, 85,6% cho rằng thức ăn  cần bày trên bàn, giá cao cách mặt đất ít nhất 60  cm,  gần  bằng  với  nghiên  cứu  của  Lý  Thành  Minh  (2007)  với  88,8%;  và  98,1%  cần  dụng  cụ  đựng rác thải, cao hơn nghiên cứu của Lý Thành  Minh (2007) với 83,2%. Các kết quả nghiên cứu  cho  thấy,  một  số  kiến  thức  của  người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc  Trăng  không  chênh  lệch nhiều so với người tiêu dùng tại thị xã Bến  Tre theo nghiên cứu của Lý Thành Minh (2007).

566 529 98,1 91,7

394 68,3

Người bán dùng tay bốc thức ăn không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm Người bán dùng chung dụng cụ (dao, thớt, gắp thức ăn…) cho thực phẩm chín và sống, gây ô nhiễm thực phẩm Người bán thức ăn chín cần mặc đồ bảo hộ (găng tay, tạp dề, khẩu trang...)

488 566 84,6 98,1

Người bán cần phải rửa tay bằng nước sạch và xà phòng trước khi chế biến và bán thức ăn Người bán cần kiểm tra sức khỏe định kỳ

Người bán cần tập huấn về kiến thức ATVSTP

418 448 545 494 72,4 77,6 94,5 85,6

Tuy nhiên, kiến thức về người bán cần kiểm  tra  sức  khỏe  định  kỳ  chiếm  tỷ  lệ  72,4%,    77,6%  cần tập huấn kiến thức VSATTP và TAĐP có thể  gây ngộ độc thực phẩm đạt 77,6%,  chiếm tỷ lệ  thấp so với những kiến thức khác, đặc biệt thấp  nhất  là  kiến  thức  về  người  bán  dùng  chung  dụng  cụ  cho  thực  phẩm  chín  và  sống  gây  ô  nhiễm  thực  phẩm  chiếm  68,3%,  đây  là  nguyên  nhân dẫn đến tỷ lệ kiến thức đúng của người sử  dụng  đạt  77,8%.  Vì  vậy,  để  nâng  cao  hơn  nữa  kiến  thức  của  người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc  Trăng,  cần  tập  trung  tác  động  tích  cực  vào những kiến thức này.

Thức ăn chín cần bày trong tủ kính Thức ăn chín cần bày trên giá cao > 60 cm Sử dụng nước sạch để chế biến, đảm bảo ATVSTP 98,6 77,6 TAĐP có thể gây ra ngộ độc thực phẩm (đau bụng, nôn ói, tiêu chảy...)? 569 448 449 77,8 Kiến thức đúng (trả lời đúng từ 10 câu trở lên)

Thái  độ  về  VSATTP  của  người  sử  dụng  thức ăn đường phố   Bảng 3: Thái độ về VSATTP của người sử dụng  thức ăn đường phố (n = 577)

Nội dung

Tần số 504 Tỷ lệ (%) 87,4

530 91,9

Qua kết quả bảng 2 cho thấy, người sử dụng  có kiến thức đúng về VSATTP TAĐP chiếm tỷ lệ  khá tốt với 77,8%, trong đó kiến thức về sử dụng  nước sạch trong chế biến, nơi bày bán cần dụng  cụ đựng rác, rửa tay sạch trước khi chế biến, bán  thức  ăn  chiếm  tỷ  lệ  rất  tốt  trên  90%.  Mặc  khác,  kiến thức về nơi bày bán thức ăn cần bày trong  tủ  kính  chiếm  tỷ  lệ  cao  (94,5%),  vì  trong  cuộc

Khi sử dụng TAĐP, có quan tâm đến tình trạng vệ sinh của người chế biến và phục vụ Khi sử dụng TAĐP, có quan tâm đến tình trạng vệ sinh của phương tiện phục vụ Không an tâm khi sử dụng TAĐP 32 55,6

307

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

là 50,8%, đạt tỷ lệ trung bình. Trong đó, người  sử  dụng  TAĐP  thực  hành  tốt  về  việc  chọn  quán ăn sạch sẽ, vệ sinh với 87,2%, đến 87,5%  không  ăn  thức  ăn  tươi  sống,  đến  90,3%  xem  nhãn  mác  trước  khi  sử  dụng  thực  phẩm  bao  gói, 95% không sử dụng thực phẩm có mùi vị  lạ, đây là những thực hành tích cực của người  sử dụng.

Kết  quả  ở  bảng  3  cho  thấy,  tỷ  lệ  người  sử  dụng  TAĐP  có  thái  độ  đúng  về  VSATTP  là  50,4% chỉ đạt mức trung bình. Trong đó, người  sử  dụng  có  thái  độ  rất  tốt  khi  quan  tâm  đến  tình trạng vệ sinh của người chế biến và phục  vụ với 87,6% và tình trạng vệ sinh của phương  tiện  phục  vụ  đến  91,9%.  Tuy  nhiên,  chỉ  có  55,6%  người  sử  dụng  không  an  tâm  khi  sử  dụng  TAĐP,  thấp  hơn  nghiên  cứu  của  Lý  Thành  Minh  (2007)  ở  thị  xã  Bến  Tre,  tỉnh  Bến  Tre với 74,1%, đây là thái độ cần phải được cải  thiện  của  người  sử  dụng  TAĐP  ở  thành  phố  Sóc  Trăng,  qua  đó  cho  thấy  việc  sử  dụng  TAĐP  đã  trở  thành  thói  quen  hàng  ngày,  không  thể  thiếu  trong  cuộc  sống  hàng  ngày  của người thành thị, với những ưu điểm về sự  thuận  tiện,  giá  cả  phù  hợp(1)(2),  nên  một  bộ  phận người sử dụng cảm thấy bình thường khi  sử  dụng  TAĐP.  Vì  vậy,  để  nâng  cao  thái  độ  của  người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc  Trăng, cần tác động tích cực vào những thái độ  này.

Thái độ đúng (trả lời đúng từ 3 câu trở lên) 291 50,4

Thực hành về VSATTP của người sử dụng  thức ăn đường phố (Bảng 4)  Bảng 4: Thực hành về VSATTP của người sử dụng  thức ăn đường phố (n = 577)

Tuy nhiên, thực hành rửa tay trước khi sử  dụng  thức  ăn  chiếm  tỷ  lệ  thấp  chỉ  đạt  57,7%,  do  ý  thức  của  người  sử  dụng,  chưa  tạo  được  thói  quen  rửa  tay  sạch  trước  khi  ăn  uống.  Ngoài  ra,  tỷ  lệ  thấp  nhất  là  52,2%  người  sử  dụng  khi  người  bán  dùng  tay  trực  tiếp  bốc  thức ăn, đã góp phần làm giảm tỷ lệ thực hành  đúng của  người  sử  dụng  sử  dụng  TAĐP,  đây  cũng là tỷ lệ phản  ánh  được  thực  tế  khác  biệt  giữa  thực  hành  và  kiến  thức  của  người  sử  dụng  TAĐP,  với  kiến  thức  có  91,7%  người  sử  dụng  biết  rằng  người  bán  dùng  tay  trực  tiếp  bốc  thức  ăn  để  bán  thì  không  đảm  bảo  VSATTP  (bảng  1),  nhưng  khi  thực  hành  ăn  uống thì không thể thực hành đúng, do người  sử dụng không có thực hành kiên quyết khi sử  dụng  TAĐP.  Vì  vậy,  để  nâng  cao  thực  hành  đúng  của  người  sử  dụng  TAĐP,  cần  đưa  ra  được  những  tác  hại  cụ  thể  của  việc  gây  ô  nhiễm  thức  ăn,  gây  bệnh  cho  người  sử  dụng  khi  không  thực  hành  tốt  bàn  tay  trước  khi  ăn  uống hay bán thức ăn.

Tần số 503 505 Tỷ lệ (%) 87,2 87,5

Nội dung Chọn quán ăn sạch sẽ, vệ sinh Không ăn thức ăn tươi sống trong các quán TAĐP (tiết canh, hải sản, gỏi cá…) Xem nhãn mác trước khi sử dụng thức ăn đóng gói, thức uống thức uống đóng chai

Mối  tương  quan  giữa  kiến  thức,  thái  độ,  thực hành của người sử dụng TAĐP   Bảng 5: Mối tương quan giữa kiến thức và thái độ  của người sử dụng TAĐP

Thái độ Không sử dụng, khi phát hiện TAĐP có mùi vị lạ Kiến thức

p < 0,05 Đúng Không đúng Đúng 271 (60,4%) 20 (15,6%) Không đúng 178 (39,6%) 108 (84,4%) 521 548 427 301 90,3 95 74 52,2

Không sử dụng thức ăn có màu sắc quá sặc sở Không sử dụng thức ăn, khi người bán dùng tay bốc trực tiếp để bán Có rửa tay trước khi sử dụng TAĐP

Có mối tương quan giữa kiến thức và thái  độ về VSATTP của người sử dụng TAĐP,  với  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  (P  <  0,05),  người  có  kiến  thức  đúng  thì  có  thái  độ  đúng  cao hơn.

Qua kết quả ở bảng 4 cho thấy, tỷ lệ người  sử dụng có thực hành đúng về VSATTP TAĐP

333 293 57,7 50,8 Thực hành đúng (trả lời đúng từ 6 câu trở lên)

308

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 6: Mối tương quan giữa kiến thức và thực  hành của người sử dụng TAĐP

thành phố Sóc Trăng, kết quả có ý nghĩa thống  kê (P < 0,05).

Thực hành Kiến thức

KIẾN NGHỊ

Cần duy trì và nâng cao tỷ lệ kiến thức đúng  về  VSATTP  TAĐP,  bằng  cách  tuyên  truyền  thường  xuyên  kiến  thức  VSATTP  trên  các  phương  tiện  truyền  thông,  kết  hợp  với  các  ban  ngành  đoàn  thể  tổ  chức  các  lớp  tập  huấn,  nói  chuyện về chuyên đề ATTP cho mọi người.

Có  mối  tương  quan  giữa  kiến  thức  và  thực  hành  của  người  sử  dụng  với  sự  khác  biệt  có  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05),  người  có  kiến  thức  đúng thì thực hành đúng cao hơn.

p < 0,05 Đúng Không đúng Đúng 290 (64,4%) 3 (2,3%) Không đúng 159 (35,4%) 125 (97,7%)

Bảng 7: Mối tương quan giữa thái độ và thực hành  của người sử dụng TAĐP

Thực hành Thái độ

Có  mối  tương  quan  giữa  thái  độ  và  thực  hành của người sử dụng TAĐP với sự khác biệt  có  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05),  người  có  thái  độ  đúng thì thực hành đúng cao hơn.

Đặc biệt, cần nâng cao tỷ lệ thái độ đúng và  thực  hành  đúng  về  VSATP  của  người  sử  dụng  TAĐP  tối  thiểu  khoảng  70%,  bằng  cách  đưa  ra  những  khuyến  cáo,  cảnh  báo  những  mối  nguy  của TAĐP về nơi bày bán, phương tiện phục vụ,  con người..., các phương pháp hướng  dẫn thực  hành cụ thể như thực hành tốt bàn tay... khi sử  dụng thực phẩm, kết hợp công tác truyền thông  giáo  dục  VSATTP  để  nâng  cao  kiến  thức,  vì  nâng  cao  kiến  thức  là  tất  yếu  trong  việc  góp  phần  nâng  cao  thái  độ  đối  với  TAĐP,  và  để  người tiêu dùng thực hành đúng và kiên quyết  hơn, không sử dụng những TAĐP kém vệ sinh.

Kết quả tổng hợp ở bảng 5, 6, 7 cho thấy, có  mối tương quan giữa kiến thức, thái độ và thực  hành VATTP của người sử dụng thức ăn đường  phố,  người  sử  dụng  có  kiến  thức  đúng  thì  có  thái độ đúng và thực hành đúng cao hơn, đồng  thời người có thái độ đúng thì thực hành đúng  về sử dụng TAĐP cũng cao hơn.

p < 0,05 Đúng Không đúng Đúng 290 (64,4%) 3 (2,3%) Không đúng 159 (35,4%) 125 (97,7%)

KẾT LUẬN

Thực hiện đề tài điều tra KAP mở rộng trên  toàn tỉnh Sóc Trăng, không những cho đối tượng  người tiêu dùng mà cả người kinh doanh TAĐP,  qua đó có thể đánh giá cụ thể kiến thức, thái độ,  thực  hành  về  VSATTP  của  người  sử  dụng  và  người  kinh  doanh,  đồng  thời  đưa  ra  những  phương  pháp  cải  thiện  hiệu  quả  hơn,  vì  người  kinh doanh TAĐP có kiến thức, thái độ và thực  hành đúng về VSATTP thì TAĐP sẽ ngày càng  an toàn hơn, góp phần nâng cao kiến thức, thái  độ và thực hành của người sử dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Kết  quả  điều  tra,  khảo  sát  về  VSATTP  của  người  sử  dụng  TAĐP  tại  thành  phố  Sóc  Trăng  cho  thấy  kiến  thức  đúng  của  người  sử  dụng  TAĐP khá tốt chiếm tỷ lệ 77,8%, tuy nhiên thái  độ và thực hành chiếm tỷ lệ không cao, người có  thái độ đúng về VSATTP TAĐP chiếm 50,4% và  50,8% là tỷ lệ người sử dụng có thực hành đúng  về VSATTP TAĐP.

Trần  Đáng  (2006),  Thức  ăn  đường  phố  và  đời  sống  văn  hóa  sức khỏe, Nhà xuất bản Hà Nội.  Trần Đáng (2007), An toàn thực phẩm, Nhà xuất bản Hà Nội

2.

Có  mối  tương  quan  giữa  kiến  thức  và  thái  độ,  kiến  thức  và  hành  động,  thái  độ  và  hành  động về VSATTP của người sử dụng TAĐP tại

309

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM BỆNH TAY CHÂN MIỆNG TẠI TỈNH ĐỒNG NAI NĂM 2011

Trần Minh Hòa* Cao Trọng Ngưỡng*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Dịch tay chân miệng bùng phát tại khu vực phía Nam Việt Nam năm 2011 với 67.396 ca mắc  và 145 ca tử vong( 2). Tại Đồng Nai cũng đã có hơn 5000 ca mắc bênh tay chân miệng (TCM) và 26 ca tử vong(7).  Các biện pháp phòng chống tỏ ra chưa hiệu quả. Tính từ đầu vụ dịch tới nay chưa có nghiên cứu nào về đặc điểm  lâm sàng, cận lâm sàng, dịch tễ bệnh TCM được công bố. Do chưa có nghiên cứu rõ về bệnh TCM nên các biện  pháp phòng chống chưa hiệu quả. Nghiên cứu này giải quyết vấn đề cấp bách để nhanh chóng góp phần khống  chế bệnh TCM, bảo vệ sức khỏe tính mạng người dân, đặc biệt là trẻ em.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của ca bệnh TCM tại Đồng Nai năm

2011.

Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả. 1.025 hồ sơ được chọn từ toàn bộ 5.125 bệnh nhân TCM tại  bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai để hồi cứu, thu thập thông tin về dịch tễ, lâm sàng, xét nghiệm. Các biến số được  mô tả bằng tần số và tỉ lệ phần trăm, các tỉ lệ được so sánh bằng phép kiểm chi bình phương.

Kết quả: Có 99% bệnh nhân TCM ở nhóm tuổi ≤ 6. Tỷ lệ mắc bệnh TCM cao nhất ở nhóm 2 tuổi. Giới tính  nam mắc bệnh TCM cao hơn nữ. Thời gian trung bình từ khi khởi phát đến khi nhập viện là 1,91 ± 1,42 ngày.  Gần 10% bệnh nhân TCM có địa chỉ nơi ở ngoài tỉnh. Bố mẹ làm công nhân có con mắc TCM chiếm tỷ lệ cao  nhất. Các triệu chứng lâm sàng chính của bệnh TCM là phát ban dạng phỏng nước, sốt, giật mình lúc ngủ. Các  triệu chứng lâm sàng ít gặp là rung giật, đi đứng loạng choạng, thất điều, giật mình lúc khám, rung chi. Các xét  nghiệm thường gặp nhất ở ca được chẩn đoán TCM là bạch cầu tăng, phản ứng CPR, đường huyết tăng.

Kết luận: Trong phòng chống TCM cần tập trung vào nhóm ≤ 6 tuổi, các khu nhà trọ công nhân. Cần khai  thác kỹ phần hành chính, nơi cư trú để tiếp cận triển khai chống dịch tránh bỏ sót đối tượng. Mặc dù TCM là  bệnh được cho là dễ chẩn đoán nhưng thực tế không phải như vậy do các triệu chứng không đầy đủ ở tất cả các  bệnh nhân, không điển hình. Cần thực hiện xét nghiệm nhanh để chẩn đoán xác định.

Từ khóa: Bệnh tay chân miệng, đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, xét nghiệm

ABSTRACT

CHARACTERISTICS OF THE HAND FOOT AND MOUTH DISEASE AT DONG NAI PROVICE IN  2011

Tran Minh Hoa, Cao Trong Nguong

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 311 ‐ 317

Background: In 2011, the epidemic of hand foot and mouth disease (HFMD) has outbreak in southern of  Vietnam with 67.396 cases and 145 deaths( 2). Đong Nai province has more than 5.000 cases of HFMD and 26  deaths(7). The prevention measures are not effective. From the begin of the outbreak until now, there is not any  research about clinical, para‐clinical tests, epidemiology of HFMD has published.

Because  there  are  no  specific  studies  about  this  disease,  therefore,  prevention  measures  are  not  very

* Trung tâm Y tế Dự phòng Đồng Nai   Tác giả liên lạc: BS.Trần Minh Hòa      ĐT: 0903714702    Email: ckdn04@gmail.com

310

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  effective. This study aims to solve the urgent issues in order to contribute to HFMD control, to  protect health  and lives of citizens, especially children.

Objectives: Identity the proportion of epidemiological characteristics, clinical, para‐clinical tests of HFMD

cases in 2011 in  Dong Nai province.

Methods:  Cross‐sectional  study,  1.025  records  were  selected  from  5.125  patients’  records  at  Dong  Nai  Childrenʹs Hospital for retrospective descriptive study. Information was collected on epidemiological, clinical, and  para‐clinical. Variables are described by frequencies and percentages, ratios were compared by chi‐squared test.

Results: About 99% of HFMD cases were 6 years of age or younger. The age‐specific incidence rate was  highest in those aged at or less than 2 years. Boy incidence was higher than that of girl. The median time from the  onset of symptoms to hospital admission was 1.91 ± 1.42 days. Nearly 10% of HFMD cases were originated from  people with their addresses outside of Dong Nai province. The highest incidence rate was found in children whose  parents were workers. The main clinical symptoms of HFMD were fever, rash with vesicles, and sleeping startle.  Rarer  clinical  features  are  limb  shaking,  limb  cramps,...Test  results  of  HFMD  cases  showed  that  the  most  frequent characteristics were positive  CPR, increased white blood cell,s and high blood glucose.

Conclusions: In order to manage HFMD, it is important to focus intervention measures mainly on children  under six years old and those who live in workers’ rented rooms. HFMD is supposed to be easily diagnosed. In  fact, it is notthat easy because no specific clinical features was identified to reliably diagnose  and  not  all  cases  presented with typical HFMD syndromes. Therefore, it is necessary to use tests as early as possible to diagnose  HFMD.

Key words: Hand foot and mouth disease, characteritics epidemiology, clinic, para‐clinical tests.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Dân số chọn mẫu:  5.125 trẻ em tại tỉnh Đồng  Nai bị bệnh TCM năm 2011 được nhập viện điều  trị tại Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai có đầy đủ  hồ sơ bệnh án.

2

Z

p

)

n

=

1( p

) ( 1 2/ − α 2 ε

Dịch  Tay  chân  miệng  tại  Việt  Nam  bùng  phát mạnh từ tháng 5 năm 2011, mắc và chết do  TCM  vẫn  tiếp  tục  tăng  lên  một  cách  báo  động.  Đã có hàng chục ngàn ca mắc và hàng trăm ca tử  vong do TCM(2). Các biện pháp phòng chống tỏ  ra  chưa  hiệu  quả.  Tính  từ  đầu  vụ  dịch  tới  nay  chưa có nghiên cứu nào về đặc điểm lâm sàng,  cận lâm sàng, dịch tễ bệnh TCM được công bố.

Cỡ  mẫu:  Theo  công  thức  sử  dụng  để  ước  lượng cỡ mẫu cho một nghiên cứu mô tả với kỹ  thuật chọn mẫu ngẫu nhiên:             Trong đó z là trị số từ phân phối chuẩn, z = 1.96

α: Xác suất sai lầm loại I, chọn α = 0,05.

p: Trị số mong muốn của tỷ lệ, p = 0,60  ε:  Sai số tương đối, ε = 0,05   n = 1.025

Do chưa có nghiên cứu rõ về bệnh TCM nên  các  biện  pháp  phòng  chống  chưa  hiệu  quả.  Nghiên  cứu  này  giải  quyết  vấn  đề  cấp  bách  để  nhanh  chóng  góp  phần  khống  chế  bệnh  TCM,  bảo vệ sức khỏe tính mạng người dân, đặc biệt  là trẻ em.

Kỹ thuật chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên.

Phương pháp thu thập dữ kiện: Hồi cứu hồ

Mục tiêu: Xác định các đặc điểm dịch tễ, lâm  sàng, cân lâm sàng của bệnh TCM tại Đồng Nai,  năm 2011.

sơ, ghi vào phiếu điều tra soạn sẵn.

Sử  dụng  Epi‐data  nhập  dữ  liệu,  sử  dụng

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.

Đối tượng nghiên cứu

Stata 8, SPSS xử lý số liệu.   Tần số và phần trăm là những số thống kê cần  tính để mô tả về tỉ lệ các đặc điểm về dịch tễ của

Dân số mục tiêu: trẻ em tỉnh Đồng Nai

311

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ % χ2 (p value)

Nghiên cứu Y học  mẫu nghiên cứu, tỉ lệ các triệu chứng lâm sàng,  tỉ lệ các đặc điểm cận lâm sàng.  Phép kiểm χ2 với mức ý nghĩa 5% được dùng để  so sánh các tỉ lệ, giữa các nhóm tuổi, giới, nơi cư  trú, nơi học, dân tộc, nghề nghiệp bố mẹ...

Biến số về dịch tễ bệnh tay chân miệng gồm  tuổi, giới, dân tộc, nơi cư trú, nghề nghiệp, học  vấn bố mẹ, ngày khởi phát, ngày vào viện, “thời  gian vàng”.

Biến số về lâm sàng bệnh TCM gồm có: sốt,  nôn, tiêu chảy, loét miệng, phát ban dạng phỏng  nước, rung giật, đi đứng loạng choạng, nhịp tim  nhanh.

Nghề nghiệp bố

Biến số về xét nghiệm bệnh tay chân miệng,  gồm có : số lượng bạch cầu, protein C phản ứng  (CRP), đường huyết, khí máu, điện tim, X‐quang  phổi,  chức năng thận,  RT‐PCR, PLVR.

Nghề nghiệp mẹ

Định Quán Long Khánh Long Thành Nhơn Trạch Tân Phú Thống Nhất Trảng Bom Vĩnh Cửu Xuân Lộc Nơi khác Công nhân Nông dân Giáo viên Công chức Khác Công nhân Nông dân Giáo viên Công chức Khác 52 18 55 8 11 80 200 85 58 100 472 198 30 21 304 503 249 41 19 313 5,1 1,8 5,4 0,8 1,1 7,8 19,5 8,3 5,7 9,8 46 19,3 2,9 2,0 29,7 49,1 14,5 4,0 1,9 30,5

KẾT QUẢ

Bảng 1: Đặc điểm về dịch tễ (n=1025)

Đặc điểm Tần số Tỉ lệ % χ2 (p value)

Tuổi: 2,73 ± 1,16

Nhận xét: Nhóm 2 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (41,2%),  ≤ 3 tuổi chiếm 79,4%, ≤ 5 tuổi (98,1%) và ≤ 6 tuổi là  99%.  Sự  khác  biệt  giữa  các  nhóm  tuổi  có  ý  nghĩa  thống kê. Tỷ lệ nam mắc TCM cao hơn nữ. Sự khác  biệt  giữa  2  giới  về  tỷ  lệ  mắc  bệnh  TCM  có  ý  nghĩa  thống kê. Thời gian trung bình từ lúc khởi phát đến  khi nhập viện là  1,91 ± 1,42, sớm nhất là nhập viện  trong ngày, muộn nhất là 9 ngày.

χ2 = 2234,98 (p<0,01)

Dân  tộc  Kinh  chiếm  đa  số,  tiếp  theo  là  dân  tộc Hoa và Biên Hòa có số ca TCM nhiều nhất,  có gần 10% ca bệnh TCM có hộ khẩu ngoài tỉnh  Đồng Nai. Những trẻ có bố làm nghề công nhân,  con bị bệnh TCM chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo  là  nông  dân;  mẹ  làm  nghề  công  nhân,  con  bị  bệnh TCM  tỷ lệ cao nhất.

Giới

Thời gian vàng (T): 1,91 ± 1,42

Bảng 2:  Đặc điểm về lâm sàng (n=1025)

Dân tộc

Nơi cư trú Nội dung Sốt Nôn Tiêu chảy Loét miệng Phát ban Rung giật Giật mình lúc ngủ Giật mình lúc khám Rung chi Thất điều Tần số 726 82 46 714 872 0 688 44 17 2 Tỉ lệ % 70,8 8,0 4,5 69,7 85,1 0 67,1 4,3 1,7 0,2 Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6 Nhóm 7 Nhóm 8 Nhóm 9 Nhóm 10 Nhóm 11 Nam Nữ T =0 T =1 T =2 T =3 T =4 T =5 T >5 Kinh Hoa Choro Tày Khác Biên Hòa Cẩm Mỹ 84 422 307 150 42 9 5 3 1 1 1 577 448 205 154 373 191 64 22 16 966 39 2 4 14 323 35 8,2 41,2 30,0 14,6 4,1 0,9 0,5 0,3 0,1 0,1 0,1 56,3 43,7 20 15 36,4 18,6 6,2 2,1 1,6 94,2 3,8 0,2 0,4 1,4 3,15 3,4 χ2 = 16,24 (p < 0,01)

312

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

con  số  thực  tế  trong  nghiên  cứu  này  có  thấp  hơn(6,4,9).

Tần số 8 Tỉ lệ % 0,8

Tại Trung Quốc, năm 2008, trong số 6.049 ca  TCM thì tỷ số nam/nữ là 1,9:1 và trong năm 2009  tỷ số này là 1,8:1 (n=1.155.525).

Nội dung Đi đứng loạng choạng Nhịp tim nhanh 56 5,5

Nhận xét: hay gặp nhất ở bệnh nhân TCM là triệu  chứng phát ban, tiếp đó là sốt, giật mình lúc ngủ.  Triệu chứng rung giật không ghi nhận ở ca nào

Tại  Đài  Loan,  năm  1998,  trong  số  1.548  ca  TCM  thì  tỷ  số  nam/nữ  =  1,5:1  và  tại  Malaysia  năm 2005, tỷ số nam/nữ là 1,4:1 (n = 4.290).  Theo  Đoàn  Thị  Ngọc  Điệp,  tỷ  số  nam/nữ  là  1,45/1(6).

Như vậy giữa nam và nữ vẫn có sự khác biệt  về  khả  năng  mắc  TCM  song  tại  Việt  Nam  sự  chênh lệch về tỷ số này thấp hơn các nước khác.

Thời gian từ khi khởi phát đến khi vào viện

Bảng 3: Các đặc điểm về cận lâm sàng    Tần số 244 143 119 1 5 29 1 2 10

Nội dung Bạch cầu tăng Protein C phản ứng (CRP) Đường huyết tăng Khí máu thay đổi Siêu âm tim X-Quang phổi thay đổi Chức năng thận thay đổi RT-PCR PLVR Tỉ lệ % 23,8 14 11,6 0,1 0,5 2,8 0,1 0,2 1

Nhận xét: hay gặp nhất là triệu chứng bạch cầu  tăng, tiếp đó là phản ứng CRP.

BÀN LUẬN

Có 90% ca bệnh TCM nhập viện trong vòng  3  ngày  kể  từ  ngày  khởi  phát  triệu  chứng  đầu  tiên, đặc biệt có 20% số ca TCM nhập viện ngay  trong ngày đầu tiên khởi phát triệu chứng. Điều  này chứng tỏ bệnh TCM đã rất được quan tâm  do tính chất lây lan và tử vong nhanh của bệnh  và do công tác truyền thông về bệnh này đã đến  được người dân. Khi phát hiện triệu chứng nghi  bệnh TCM, bệnh nhân được nhập viện sớm. Tuy  nhiên,  vẫn  có  những  trường  hợp  bệnh  TCM  được nhập viện trễ sau khi khởi phát 9 ngày mới  nhập viện điều trị(8).

Dân tộc

Tuổi : Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc  bệnh  TCM  ở  các  nhóm  tuổi  có  khác  biệt  rõ  rệt,  sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nhóm 2 tuổi có  tỷ  lệ  mắc  TCM  cao  nhất,  chiếm  41,2%.    Bệnh  nhân  ≤  6  tuổi  chiếm  tỷ  lệ  99%  số  ca  mắc  TCM.  Càng  lớn  tuổi,  tỷ  lệ  mắc  TCM  càng  giảm.  Kết  quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các  tác  giả  khác  tại  Singapore,  Malaysia,  Đài  Loan,  Trung  Quốc(5,4).  Theo  Đoàn  Thị  Ngọc  Điệp,  91  % bệnh nhân TCM dưới 3 tuổi(6)

Tỷ  lệ  ca  bệnh  TCM  thuộc  dân  tộc  Kinh  chiếm đa số, điều này cũng phù hợp với cơ cấu  dân số trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú

So  sánh  với  các  nghiên  cứu  khác  về  bệnh  TCM,  nhóm  ≤  5  tuổi  trong  nghiên  cứu  này  có  cao hơn.

Quốc gia Năm nghiên

Nhật

Trung Quốc

Ca  bệnh  TCM  phân  bổ  theo  nơi  cư  trú  tại  Biên  Hòa  cao  nhất,  kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với  qui  mô,  mật  độ  dân  số  từng  địa  phương.  Điều  này  cũng  phù  hợp  vì  bệnh  TCM  là  bệnh  truyền nhiễm, lây trực tiếp người‐người do tiếp  xúc. Những nơi có mật độ dân cư cao, tiếp xúc  nhiều sẽ có nguy cơ mắc cao hơn nơi khác. Biên  Hòa cũng là nơi có nhiều công nhân nhất tỉnh.

cứu 2003-2005 2007 2008 2009 2011 Số ca TCM (n) Tỷ lệ ≤ 5 tuổi (%) 90 84,4 92 93 98,1 378.024 1.149 34.539 1.155.525 1.025 Đồng Nai-VN

Về giới tính

Điều đáng quan tâm là có đến gần 10% số ca  TCM tại Đồng Nai có địa chỉ nơi ở là ngoại tỉnh,  đây là điều rất khó khăn cho công tác điều tra,  xử  lý  dịch(7).  Mặc  dù  bố,  mẹ  làm  công  nhân  và

Giới tính nam có tỷ lệ mắc TCM cao hơn nữ,  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Kết  quả  này  tương  tự  với  kết  quả  các  nghiên  cứu  khác  tại  Trung Quốc, Đài Loan và Malaysia tuy nhiên về

313

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  sinh con ở Đồng Nai đã lâu nhưng hộ khẩu, địa  chỉ của con vẫn ở tỉnh khác để được chuyển bảo  hiểm y tế theo phân bổ.

chứng  viêm  não  ‐  màng  não,  kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Đoàn  Thị  Ngọc Điệp(6).

Nghề nghiệp của bố, mẹ

Thứ  nhất,  để  phát  hiện  những  triệu  chứng  này cần theo dõi sát bệnh nhân vì đây là những  dấu hiệu được cho là quan trọng để đánh giá có  chuyển độ, biến chứng thần kinh, tuy nhiên do  quá tải bệnh viện, nhất là trong thời điểm đỉnh  dịch, thực hiện việc này rất khó khăn.

Các ca TCM có bố mẹ  làm  nghề  công  nhân  chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là nông dân. Điều  này có thể do tại Đồng Nai tỷ lệ công nhân cao  hơn ngành khác hơn nữa công nhân đa số công  nhân từ nơi khác đến, thường ở trọ, thiếu thốn  các  điều  kiện  vệ  sinh,  sức  đề  kháng  thấp,  điều  kiện chăm sóc con cái chưa thật sự tốt.

Triệu chứng lâm sàng

Thường gặp nhất ở bệnh nhân TCM(3,1)

Thứ hai, bản thân việc định nghĩa các từ ngữ  mô  tả  triệu  chứng  như  thất  điều,  rung  chi,  đi  đứng  loạng  choang  cũng  khó  hiểu,  khó  mô  tả,  khó đo lường do vậy việc ghi nhận sẽ khó khăn  và có thể bị bỏ qua.

Đó là phát ban, tiếp theo là sốt, giật mình lúc

ngủ.

Cần thiết phải có nghiên cứu sâu thêm, thậm  chí  chỉnh  sửa  để  có  định  nghĩa  ca  bệnh  chuẩn  cho TCM.

Các xét nghiệm thường gặp nhất ở ca được

chẩn đoán TCM

Đó là bạch cầu tăng, phản ứng CPR, đường

huyết tăng

Theo  Đoàn  Thị  Ngọc  Điệp,  các  triệu  chứng  nặng, hay gặp và dễ tử vong của bệnh TCM là  sốt  cao  và  ói.  Có  66,4%  trẻ  khởi  phát  bệnh  với  triệu chứng sốt. Sang thương da niêm là các dấu  hiệu  rõ  ràng  để  nhận  diện  bệnh  nhưng  chỉ  có  23,2% trẻ khởi phát là sang thương da và 7,4% là  bỏ ăn hay lở miệng(6).

Mặc  dù  bệnh  tay  chân  miệng  là  một  bệnh  truyền  nhiễm  lây  lan  nhanh,  tỷ  lệ  tử  vong  cao  nhưng  triệu  chứng  lâm  sàng  như  mô  tả  của  y  văn thường không đầy đủ.

Mặc  dù  không  phải  là  tiêu  chuẩn  vàng  để  chẩn đoán xác định ca TCM nhưng thường gặp  hơn các xét nghiệm khác có thể do đây là những  xét  nghiệm  dễ  dàng  thực  hiện  tại  chỗ,  kết  quả  nhanh, đáp ứng kịp thời cho điều trị nên thường  được làm nhiều(8,7).

Các  triệu  chứng  cơ  năng  thường  ít  gặp  lúc  khám, chỉ ghi nhận qua lời khai của người nhà  bệnh nhân có thể có sai lệch, phụ thuộc vào kiến  thức của họ.

Các triệu chứng thực thể thường không đầy

đủ, không điển hình, xuất hiện muộn.

Đây  là  những  khó  khăn  trong  công  tác  khám, chẩn đoán, phát  hiện  sớm  ca  bệnh  TCM  làm cho kết quả điều trị bị hạn chế.

Các  triệu  chứng  lâm  sàng  có  mô  tả  trong  y

văn nhưng ít hoặc không gặp.

Đó là rung giật, đi đứng loạng choạng, thất

điều, giật mình lúc khám, rung chi.

Các  xét  nghiệm  đặc  hiệu  cho  chẩn  đoán  TCM  Theo  qui  định,  các  ca  chẩn  đoán  xác  định  là  TCM  cần  có  xét  nghiệm  RT‐PCR  hoặc  PLVR(3).  Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy các xét  nghiệm này lại rất ít được thực hiện, đối với RT‐ PCR là 0,2% và PLVR là 1%. Kết  quả  này  chưa  cho thấy tỷ lệ các type EV gây bệnh ở khu vực.  Theo báo cáo thì tỷ lệ EV 71 là 72%, EV khác là  13%  và  có  15%  mẫu  xét  nghiệm  có  kết  quả  âm  tính(2).  Còn  theo  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong các vụ dịch TCM, EV 71 cũng chiếm tỷ lệ  cao, tình trạng lâm sàng nặng, tỷ lệ tử vong cao  hơn so với Coxsackievirus A16 và các EV khác(9).

Tỷ  lệ  bệnh  nhân  TCM  có  triệu  chứng  rung  giật  ở  nghiên  cứu  này  là  0%,  cho  thấy:  co  giật  không phải là biểu hiện nổi bật ở trẻ TCM biến

314

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Theo  Vũ  Thị  Quế  Hương,  Trương  Hữu  Khanh  tỷ  lệ  dương  tính  với  EV  71  ở  các  trường  hợp  TCM cao hơn so với các EV khác(8)

Các  xét  nghiệm  đặc  hiệu  cho  chẩn  đoán  TCM là RT‐PCR hoặc PLVR rất ít được thực hiện  tại tuyến tỉnh.

Kiến nghị

Theo  qui  định  những  ca  nặng  từ  độ  2b  trở  lên, những ca tử vong phải được lấy mẫu để làm  xét  nghiệm  nhưng  do  các  ca  nặng  thường  diễn  biến nhanh, không kịp lấy mẫu.

Các biện pháp phòng chống bệnh TCM cần  tập trung vào nhóm ≤ 6 tuổi, đặc biệt nhóm từ 3  tuổi trở xuống.

Cần khai thác rõ địa chỉ nơi ở hiện tại của các

ca TCM.

Mặt  khác,  tại  bệnh  viện  chưa  triển  khai  các  xét  nghiệm  này  mà  phải  chuyển  mẫu  đến  labo  của Viện Pasteur TP.HCM quãng đường khá xa  và cũng phải mất 2‐3 ngày thậm chí lâu hơn, kết  quả xét nghiệm về thì bệnh nhân đã ra viên hoặc  tử vong vì vậy bệnh viện không thực sự tích cực  trong việc lấy mẫu.

Quan  tâm,  chăm  sóc  tốt  hơn  nữa  đời  sống  cho công nhân, đặc biệt là vấn đề cung cấp nước  sạch,  vệ  sinh  môi  trường  có  thể  góp  phần  làm  giảm  nguy  cơ  mắc  bệnh  TCM  cho  con  em  của  họ.

KẾT LUẬN

Kết  quả  điều  tra  của  nghiên  cứu  này  cho

thấy như sau :

Tránh  các  trường  hợp  nhập  viện  trễ  bằng  cách phát hiện sớm dấu hiệu bệnh, truyền thông  rộng rãi hơn cho người dân về dấu hiệu bệnh.

Cần  theo  dõi  bệnh  nhân  TCM  sát  sao,  kỹ  lưỡng  tránh  bỏ  sót  các  triệu  chứng.  Đặc  biệt  quan  tâm  các  trường  hợp  có  phát  ban  dạng  phỏng nước, sốt, giật mình lúc ngủ.

Tuổi  trung  bình  các  bệnh  nhân  TCM  là  2,73 ± 1,16. Có 99% bệnh nhân TCM ở nhóm tuổi  ≤  6.  Tỷ  lệ  mắc  bệnh  TCM  cao  nhất  ở  nhóm  2  tuổi.  Các  nhóm  tuổi  khác  nhau  thì  tỷ  lệ  mắc  TCM khác nhau, sự khác biệt có ý nghĩa thống  kê.

Giới  tính  nam  mắc  bệnh  TCM  cao  hơn  nữ,

Đề nghị các bệnh viện cần tăng cường thực  hiện xét nghiệm RT‐PCR, PLVR nhiều hơn nữa  để chẩn đoán xác định ca bệnh TCM.

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Thời  gian  trung  bình  từ  khi  khởi  phát  đến  khi  nhập  viện  là  1,91 ± 1,42  ngày,  sớm  nhất  là  nhập viện trong ngày, muộn nhất là 9 ngày.

Đề  nghị  Bộ  Y  tế  sớm  có  Hướng  dẫn  chẩn  đoán, điều trị TCM, Hướng dẫn giám sát, phòng  chống bệnh TCM, Hướng dẫn xử lý ổ dịch TCM  mới, phù hợp thực tế và hiệu quả hơn.

Gần  10%  bệnh  nhân  TCM  có  địa  chỉ  nơi  ở

ngoài tỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Bố  mẹ  làm  công  nhân  có  con  mắc  TCM

chiếm tỷ lệ cao nhất.

2.

3.

Các  triệu  chứng  lâm  sàng  không  đầy  đủ,  không  điển  hình,  hay  gặp  nhất  ở  các  ca  được  chẩn đoán TCM là phát ban dạng phỏng nước,  sốt, giật mình lúc ngủ.

4.

Các triệu chứng lâm sàng ít gặp là rung giật,  đi  đứng  loạng  choạng,  thất  điều,  giật  mình  lúc  khám, rung chi.

5.

6.

Bộ  Y  tế  (2008),  Hướng  dẫn  chẩn  đoán,  điều  trị  bệnh  tay‐chân‐ miệng, ban hành kèm theo Quyết định số 1732/QĐ‐BYT ngày  16/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Hà Nội.  Bộ  Y  tế  (2011),  Báo cáo tổng kết công tác phòng chống dịch năm  2011,  tài  liệu  hội  nghị  ngày  08  tháng  02  năm  2012  tại  Viện  Pasteur TP.HCM. TP. Hồ Chí Minh.  Bộ  Y  tế  (2011),  Hướng  dẫn  chẩn  đoán,  điều  trị  bệnh  tay‐chân‐ miệng,  ban  hành  kèm  theo  Quyết  định  số  2554,  ngày  10.07.2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Hà Nội.  Centers  for  Disease  Control  and  Prevenetion  (1984),  Deaths  among  children  during  an  outbreak  of  hand,  foot,  and  mouth  disease.Taiwan,  Republic  of  China,  April‐July  1998,  MMWR  Morb. Mortal. Wkly. Rep. 1998;47:629‐32.  Chen KT, Chang HL et al (2007), Epidemiologic features of hand  – foot – mouth disease and Herpagina caused by Enterovirus 71 in  Taiwan, 1998 – 2005. Pediatrics August 2007,120:e253‐e261  Đoàn Thị Ngọc Điệp, Trương Hữu Khanh, Trương Thị Chiết  Ngự  (2007),  Đặc điểm bệnh TCM tại bệnh viện Nhi đồng I năm

Các xét nghiệm thường gặp nhất ở ca được  chẩn  đoán  TCM  là  bạch  cầu  tăng,  phản  ứng  CPR, đường huyết tăng.

315

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

7.

Kouichi M (2006), Bệnh viêm não – màng não cấp do vi rút ở trẻ  em tại Bệnh viện Nhi Đồng I TP.HCM, năm 2005,  Báo  cáo  hội  nghị khoa học năm 2006, Viện Pasteur TP. HCM. Trang 22.

9. WHO (2011), A Guide to Clinical Management and Public Health

respons for Hand, Foot and Mouth Disease. WHO publication.

8.

2007. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 11, số 4‐2007,  tr.35‐44..  Trung  tâm  Y  tế  dự  phòng  Đồng  Nai  (2011),  Báo cáo tổng kết  công tác phòng chống dịch  năm 2011, tài liệu hội nghị ngày 16  tháng 02 năm 2012 tại Đồng Nai. Đồng Nai.  Vũ  Thị  Quế  Hương,  Huỳnh  Thị  Kim  Loan,  Phan  Văn  Tú,  Nguyễn  Thị  Thanh  Thảo,  Trương  Hữu  Khanh,  Vincent  D,

316

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA PHỤ NỮ MANG THAI VỚI SANH NON TẠI  BÌNH PHƯỚC TỪ 01/2011 ĐẾN 07/2011

Nguyễn Văn Khoa*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sanh non hiện vẫn là một nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề trầm trọng thậm chí tử vong con  cao. Tìm ra được các yếu tố nguy cơ ở từng vùng miền khác nhau là cần thiết để hạn chế phần nào tỉ lệ sanh non.

Mục tiêu: Xác định các yếu tố nguy cơ của phụ nữ mang thai với sanh non tại tỉnh Bình Phước từ tháng 1

năm 2011 đến tháng 7 năm 2011.

Thiết kế nghiên cứu: Bệnh chứng

Phương  pháp: Nghiên cứu trên 244 thai phụ đến sanh tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước từ tháng  01/2011 đến 7/2011. Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Nhóm bệnh: Tất cả các sản phụ sanh non do chuyển dạ tự  nhiên tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước từ tháng 01/2011 đến 7/2011. Nhóm chứng: Ứng với mỗi sản phụ  sanh non, chúng tôi chọn một sản phụ sanh đủ tháng trong cùng thời điểm.

Kết quả: Các yếu tố ảnh hưởng đến sanh non được ghi nhận: tuổi mang thai dưới 20 thì nguy cơ sanh non  cao gấp 3,3 lần (OR=3,3 với KTC95%(1,20‐10,80)), sản phụ có tiền sử sanh non thì nguy cơ cao gấp 3,16 lần  (OR=3,16 với KTC95%(1,13‐10,16)), sản phụ có nghề nghiệp làm rẫy thì nguy cơ sanh non cao gấp 3,48 lần  (OR=3,48 với KTC95%(1,92‐6,34)), những sản phụ làm đêm thì nguy cơ sanh non cao gấp 3,81 lần (OR=3,81  với KTC95%(1,63‐9,66)).

Kết luận: Cần có sự hỗ trợ hơn nữa cho những sản phụ có nghề nghiệp làm rẫy, trong thời gian mang thai  không nên đi làm ban đêm. Những sản phụ mang thai quá sớm hoặc có tiền sử sanh non nên có chế độ chăm sóc  tiền thai đặc biệt nhằm giảm nguy cơ sanh non.

Từ khóa: Sanh non, yếu tố nguy cơ

ABSTRACT

RISK FORTORS OF PREGNANT WOMEN WITH PRETERM BIRH   IN BINH PHUOC BETWEEN JAN, 2011 AND JUL, 2011

Nguyen Van Khoa

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 318 ‐ 323

Background: Preterm birth is a major cause for serious health problems or even be fatal for the baby. Finding

the risk factors of premature birth in each region is essential for reducing preterm prevalence.

Objective: To determine factors associated with preterm labor in Binh Phuoc province from January, 2011

to July, 2011.

Design:  Case ‐ control study  Methods: Case – control study in which interviewed 224 pregnant women in Binh Phuoc General hospital  delivered from January, 2011 till July, 2011. In which 112 pregnant women were having gestation age under 37  weeks and 112 pregnant women having gestation age from 37 to 41weeks. Sample size was selected randomly  systematic.

Results:  Risk  factors  associated  with  preterm  in  Binh  Phuoc  consist  of:  age  of  mother  under  20  OR=3.3

∗ Trường trung cấp Y tế Bình Phước  Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Nguyễn Văn Khoa      ĐT: 0914101263    Email: bacsikhoa@gmail.com

317

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  CI95%(1.20‐10.80), history of preterm birth OR=3.16 CI95%(1.13‐10.16), farmer OR=3.48 CI95%(1.92‐6.34),  night working in pregnant time OR=3.81 CI95%(1.63‐9.66).

Conclusion:   There is a great need  to  support  pregnant  farmers,  not  to  do  night  work  in  pregnant  time.  There  should  be  special  prenatal  care  for  young  mothers  and  preterm‐hystory    women  to  reduce  the  risk  of  preterm labor.

Keyword: Preterm birth, risk factors

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sanh non hiện vẫn là một nguyên nhân gây  ra nhiều vấn đề trầm trọng thậm chí tử vong con  cao. Trẻ sơ  sinh  non  tháng  có  tỉ  lệ  tử  vong  chu  sinh cao hơn so với trẻ sơ sinh đủ tháng. Vấn đề  về sức khỏe cũng như sự phát triển về tinh thần  sau này cũng có nhiều hạn chế. Các biến chứng  của sanh non rất nhiều, nhưng đáng kể nhất là  các biến chứng suy hô hấp sau sinh, bị ngạt do  thiếu  chất  Surfactan  gây  bệnh  màng  trong,  ảnh  hưởng  di  chứng  thần  kinh  kéo  dài,  chỉ  số  IQ  thấp,  nhiễm  trùng  sơ  sinh  cao(4,5,6,13)…  Đây  là  gánh nặng cho gia đình và xã hội.

một số dân tộc thiểu số còn rất lạc hậu. Cơ sở hạ  tầng,  giao  thông  đi  lại  còn  khó  khăn,  điều  kiện  làm việc của đại đa số người dân còn nhiều hạn  chế.  Là  một  tỉnh  mà  tỉ  lệ  một  số  bệnh  còn  lưu  hành khá cao như sốt rét, lao, bướu cổ(15), tỉ lệ trẻ  em  suy  dinh  dưỡng  dưới  5  tuổi  năm  2007  là  23,5%(14), tỉ lệ sanh còn ở mức cao 2,1%(14). Hiện  nay tại tỉnh Bình Phước, tỉ lệ sanh non vẫn còn  cao(14).  Yếu  tố  nguy  cơ  nào  liên  quan  đến  sanh  non tại Bình Phước? Trong đó yếu tố nào có tác  động  mạnh  và  có  thể  can  thiệp?  Biết  được  những điều này, chúng tôi có thể điều chỉnh cho  việc quản lý thai nghén được tốt hơn. Vì những  lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:  Các  yếu  tố  nguy  cơ  liên  quan  đến  sanh  non  ở  phụ  nữ  tỉnh  Bình  Phước  từ  tháng  1  năm  2011  đến tháng 7 năm 2011.

Tỉ  lệ  sanh  non  trên  thế  giới  hiện  vẫn  còn  cao  và  khác  nhau  tùy  theo  từng  quốc  gia  và  vùng lãnh thổ(1,9). Tại các nước thuộc châu Mỹ  La  tinh  năm  2003  là  khoảng  9%,  tại  Mỹ  năm  2004 là 12,5%.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục  tiêu  tổng  quát:  Xác  định  các  yếu  tố  nguy cơ liên quan đến sanh non tại Bình Phước.

Mục  tiêu  chuyên  biệt:  Xác  định  các  yếu  tố  nguy  cơ  mang  tính  đặc  thù  tại  Bình  Phước  với  sanh  non  như:  nghề  nghiệp  của  thai  phụ,  tính  chất của công việc, tuổi mang thai, thời gian làm  việc trong thai kỳ, làm việc vào ban đêm…

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế nghiên cứu:

Bệnh ‐ chứng

Đối tượng nghiên cứu

Một số nguyên nhân dẫn đến sanh non như:  hở eo tử cung, mẹ bị tiền sản giật nặng, tử cung  dị  dạng,  đa  thai,  nhiễm  trùng  ối(1,4,2)…  Tuy  nhiên còn khoảng 40% đến 50%  các trường hợp  sanh non không tìm ra nguyên nhân mà chỉ có  các yếu tố nguy cơ liên quan đến sanh non như:  tuổi mẹ, tiền sử sanh non, tình hình kinh tế gia  đình, cân nặng mẹ, trình độ học vấn, công việc,  tính chất công việc(1,4,3,7)… Tìm  ra  được  các  yếu  tố nguy cơ ở từng vùng miền khác nhau là cần  thiết để hạn chế phần nào tỉ lệ sanh non, qua đó  cải thiện cuộc sống cho trẻ em và phụ nữ, góp  phần  cải  thiện  chất  lượng  cuộc  sống  cho  gia  đình và xã hội.

Dân số mục tiêu:

Tất cả các sản phụ sau sanh tại Bệnh viện đa  khoa  tỉnh  Bình  Phước  từ  tháng  01/2011  đến  tháng 7/2011

Dân số chọn mẫu

Bình  Phước  là  một  tỉnh  miền  núi,  dân  tộc,  biên  giới  có  diện  tích  6.853,35  km2.  Dân  số  894.172 người, trong đó có 41 dân tộc sinh sống,  dân  tộc  ít  người  chiếm  20%  dân  số,  tỉ  lệ  người  nghèo 10% dân số(15). Tình hình kinh tế,  văn hóa  xã hội còn ở mức thấp, phong tục tập quán của

318

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

định,  tình  trạng  sức  khỏe  cho  phép  tiến  hành  cuộc phỏng vấn, chấp nhận tham gia vào nghiên  cứu.

Nhóm bệnh: Tất cả các sản phụ có trẻ sanh  non  do  chuyển  dạ  tự  nhiên  tại  Bệnh  viện  đa  khoa  tỉnh  Bình  Phước  từ  tháng  01/2011  đến  tháng 7/2011

Tiêu chuẩn loại trừ

Nhóm  chứng:  Ứng  với  mỗi  sản  phụ  sanh  non  chúng  tôi  chọn  ngẫu  nhiên  một  sản  phụ  sanh đủ tháng vào cùng thời điểm

Cỡ mẫu được tính theo công thức sau:

{

Z

2[

1(

)]

Z

1(

)

1(

]})

+

+

1(

)2/

P 2

P 2

P 1

P 2

P 2

α −

n

=

P [ 1 2

)

(

) 1( β − P − 2

P 1

OR. P 2

=

P 1

Tất cả các sản phụ có trẻ sanh ra không xác  định được chính xác tuổi thai (không nhớ ngày  kinh cuối hoặc không có kết quả siêu âm 3 tháng  đầu  thai  kỳ),  những  trẻ  đẻ  non  không  phải  do  chuyển  dạ  tự  nhiên  mà  vì  những  lý  do  khác  2 như:  thai  dị  dạng,  thai  chết  lưu,  tiền  sản  giật    nặng,  đa  thai,  đa  ối,  nhau  tiền  đạo,  nhau  bong  non…

( 1

+

OR. P 2

2 ) P

Với  Z: trị số từ phân phối chuẩn

α: xác suất sai lầm loại I

β: xác suất sai lầm loại II

Kiểm soát sai lệch  Chúng  tôi  huấn  luyện  cho  2  nữ  hộ  sinh  để  phỏng  vấn  sản  phụ,  hai  nữ  hộ  sinh  này  không  biết mục tiêu nghiên cứu mà chỉ phỏng vấn dựa  trên bảng câu hỏi.

1 ‐ β: sức mạnh của phép kiểm

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

P1 = xác suất phơi nhiễm trong nhóm bệnh

P2 = xác suất phơi nhiễm trong nhóm chứng

OR: tỷ số chênh

Biến số

Với α  = 0,05; Z0,975 = 1,96; 1 ‐ β = 0,80; Z0,8 =

0,84; OR = 2; P2  = 0,25; P1  = 0,4

Tuổi

Tính được n = 122 trường hợp cho mỗi nhóm

Dân tộc

Số lần sanh

Chúng  tôi  lấy  p2 =  0,25  vì  theo  nghiên  cứu  của  tác  giả  Ellen  L.  Mozurkewich  tỉ  lệ  sanh  non  do  thời  gian  đứng  làm  việc  trong  nhóm  chứng là 22,2%.

Tiền sử sanh non

Dưới 20 20-30 Trên 30 Kinh Khác Con so Con rạ Có Không Làm rẫy

Kỹ thuật chọn mẫu

Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ

thống

Công việc lúc mang thai

Tiêu chí chọn mẫu

Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n=224)  Tần suất/Tỷ lệ Dịch tễ (n=224) 24 (10,71) 161 (71,87) 39 (17,42) 177 (79,00) 47 (21, 00) 25 (11,16) 199 (88,84) 23 (10,27) 201 (89,73) 95(42,41) Làm trong khu công nghiệp 23 (10,27) 31 (13,84) 46 (20,54) 29 (12,95) 94 (41,96) 130 (58,04)

Công nhân viên chức Nội trợ Khác Dưới 3 tháng Từ 3 tháng trở lên

Thời gian làm việc trong thai kỳ Thời gian làm việc trong tuần

Thời gian đến nơi làm việc trong ngày

Làm việc ban đêm

Đối với nhóm bệnh chúng tôi chọn tất cả các  sản  phụ  sinh  sống  tại  Bình  Phước  có  trẻ  sanh  non (tuổi thai từ tuần thứ 22 đến trước tuần thứ  37  được  tính  theo  kinh  cuối  hoặc  siêu  âm  3  tháng  đầu)(11,8)  đến  sanh  tại  bệnh  viện  đa  khoa  tỉnh  Bình  Phước  từ  tháng  01  năm  2011  đến  tháng  7  năm  2011.  Đối  với  nhóm  chứng  chúng  tôi chọn các sản phụ có trẻ sanh đủ tháng (tuổi  thai từ tuần thứ 37 đến hết tuần 41). Những sản  phụ  trong  cả  hai  nhóm  phải  có  tinh  thần  ổn

Thời gian đứng làm việc trong Từ 40 giờ trở xuống Trên 40 giờ Dưới 60 phút Từ 60-120 phút Trên 120 phút Có Không Dưới 2 giờ Từ 2 – 6 giờ 120 (53,57) 104 (46,43) 139 (62,05) 62 (27,68) 23 (10,27) 37 (16,52) 187 (83,48) 93 (41,52) 97 (43,30)

319

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Biến số Dịch tễ

ngày

Công việc có mang vật nặng

Làm việc theo dây chuyền

Mức độ hài lòng với công việc

(10,27%).  Nghề  nghiệp  làm  rẫy  chiếm  đa  số  (42,41%). Thời gian làm việc trong thai kỳ từ 3  tháng  trở  lên  (58,04%).  Thời  gian  làm  việc  trong tuần trên 40 giờ (46,43%). Thời gian đến  nơi  làm  việc  dưới  60  phút  (62,05%).  Sản  phụ  trong  mẫu  nghiên  cứu  đi  làm  vào  ca  đêm  (16,52%). Thời gian đứng làm việc từ trên 6 giờ  trong  ngày  (15,18%).  Số  sản  phụ  trong  mẫu  nghiên cứu phải mang vật nặng từ 5kg – 50kg  trong công việc của mình (63,39%), mang trên  50  kg  (36,61%).  Làm  việc  theo  dây  chuyền  (7,59%).  Không  hài  lòng  với  công  việc  (16,52%).

Nhận xét: Tuổi chủ  yếu  tập  trung  ở  nhóm  20–30  (60,99%).  Số  sản  phụ  sanh  con  lần  đầu  (11,16%).  Tỉ  lệ  người  Kinh  (79%)  cao  hơn  so  với  dân  tộc  thiểu  số  (21%).  Tiền  sử  sanh  non

Trên 6 giờ Dưới 5 kg Từ 5 – 50 kg Trên 50 kg Có Không Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng Tần suất/Tỷ lệ (n=224) 34 (15,18) 0 (0) 142 (63,39) 82 (36,61) 17 (7,59) 207 (92,41) 55 (24,55) 132 (58,92) 37 (16,52)

Bảng 2: Các yếu tố nguy cơ đối với sanh non (n=224)

Yếu tố Tần suất/Tỉ lệ% OR(KTC95%)

Tuổi 3,3 (1,21-10,79)

Dân tộc 1,06 (0,53-2,12)

Số lần sanh 1,09 (0,44-2,76)

Tiền sử sanh non 3,16 (1,13-10,16)

Nghề nghiệp 3,48 (1,92-6,34)

0,93 (0,53-1,64) Thời gian làm việc trong thai kỳ

Thời gian làm việc trong tuần 1,54 (0,88-2,71)

Thời gian đến nơi làm việc 0,61 (0,34-1,09)

Làm việc ban đêm 3,81 (1,63-9,66)

Thời gian đứng làm việc 0,96 (0,55-1,70)

Mang vật nặng 0,93 (0,52-1,65)

Hài lòng với công việc 1,49 (0,69-3,34) <20 ≥20 Kinh Khác Con so Con rạ Có Không Làm rẫy Nghề khác Dưới 3 tháng > 3 tháng < 40 giờ >40 giờ < 60 phút > 60 phút Có Không <2 giờ > 2 giờ 5–50 kg >50 kg Có Không Sanh non 18 (75,00) 94 (47,00) 24 (51,06) 88 (49,72) 13 (52,00) 99 (49,75) 17 (73,91) 95 (47,26) 64 (67,37) 48 (37,21) 46 (48,94) 66 (50,77) 66 (55,00) 46 (44,23) 63 (45,32) 49 (57,65) 28 (75,68) 84 (44,92) 46 (49,46) 66 (50,38) 70 42 89 14 Sanh đủ tháng 6 (25,00) 106 (53,00) 23 (48,94) 89 (50,28) 12 (48,00) 100 (50,25) 6 (26,09) 106 (52,74) 31 (32,63) 81 (62,79) 48 (51,06) 64 (49,23) 54 (45,00) 58 (55,77) 76 (54,67) 36 (42,35) 9 (24,32) 103 (55,08) 47 (50,54) 65 (49,62) 72 40 98 23

BÀN LUẬN

Nhận  xét:  Theo  phân  tích  cho  thấy  trong  các yếu tố được lựa chọn để nghiên cứu thì các  yếu  tố  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  về  phương  diện thống kê là: tuổi mang  thai,  tiền  sử  sanh  non, làm rẫy, làm việc vào ban đêm với OR lần  lượt là 3,3; 3,16; 3,48 và 3,81.

Hiện  nay,  độ  tuổi  sanh  đẻ  được  khuyến  cáo  là  từ  20  đến  30  tuổi,  sanh  quá  sớm  hoặc  quá muộn đều có những nguy cơ cho cả mẹ và  con(10). Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi  chia  tuổi  của  sản  phụ  ra  làm  ba  nhóm  đó  là

320

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Theo  tác  giả  Nguyễn  Xuân  Vũ  khi  nghiên  cứu  một  số  yếu  tố  nguy  cơ  sanh  non  tại  địa  bàn Thành phố Hồ Chí Minh  cho  thấy  những  sản  phụ  có  làm  ca  đêm  thì  tỉ  lệ  sanh  non  cao  hơn  so  với  nhóm  không  làm  ca  đêm(9).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thì  tỉ  lệ  sản  phụ  có  làm  ca  đêm  chiếm  16,52%,  những  người  này  thường phải đi làm từ 2 giờ sáng mỗi ngày do  đặc thù của công việc cạo mủ cao su. Tỉ lệ sanh  non ở nhóm có đi làm ban đêm cao hơn so với  nhóm còn lại. Kiểm định có ý nghĩa về phương  diện thống kê (OR=3,81; KTC95%: 1,63‐9,66).

KẾT LUẬN

Qua  nghiên  cứu  bệnh  chứng  trên  224  sản  phụ  sau  sanh,  chúng  tôi  tìm  ra  một  số  yếu  tố  nguy cơ đối với sanh non ở Bình Phước là:

Những  thai  phụ  sanh  ở  tuổi  dưới  20

(OR=3,3; KTC95%: 1,21‐10,79).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  dưới 20 tuổi, từ 20 đến 30 tuổi và trên 30 tuổi.  Trong nghiên cứu của chúng tôi, lứa tuổi dưới  20 chiếm tỉ lệ khá cao (10,71%), đây là vấn đề  phổ  biến  ở  Bình  Phước  do  tình  trạng  kết  hôn  từ  khá  sớm  của  các  cô  gái  ở  lứa  tuổi  vị  thành  niên, ở lứa tuổi này cơ thể của các bà mẹ chưa  đáp ứng đầy đủ cho sự phát triển của bào thai,  họ  chưa  đủ  kiến  thức  cũng  như  kinh  nghiệm  trong việc chăm sóc thai, ngoài ra các bà mẹ trẻ  tuổi ở Bình Phước còn phải làm việc rất nhiều  trong quá trình mang thai, họ phải làm những  công  việc  nặng  nhọc  mà  lẽ  ra  không  nên  làm  trong quá trình mang thai như cạo mủ cao su,  phun thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu…. Tỉ lệ sanh  non  ở  nhóm  sản  phụ  có  độ  tuổi  dưới  20  cao  hơn hẳn so với 2 nhóm còn lại. Phân tích thống  kê cho thấy những sản phụ ở nhóm tuổi dưới  20  thì  tỉ  lệ  sanh  non  cao  gấp  3,3  lần  so  với  nhóm còn lại (OR=3,3; KTC95%: 1,21‐10,79).

Những  sản  phụ  có  tiền  sử  sanh  non

(OR=2,97; KTC95%: 1,05‐9,63).

Sản  phụ  có  công  việc  trong  thai  kỳ  là  làm

rẫy (OR=3,48; KTC95%: 1,92‐6,34).

Sản  phụ  làm  việc  ban  đêm  (OR=3,81;

KTC95%: 1,63‐9,66).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Nguy cơ tái phát sanh non chiếm 25 – 50%.  Nguy cơ càng cao nếu càng có nhiều lần sanh  non trước đó(1) . Trong nghiên cứu này tỉ lệ sản  phụ  có  tiền  sử  sanh  non  là  10,27%.  Tỉ  lệ  sanh  non ở nhóm có tiền sử sanh non cao hơn nhiều  so  với  nhóm  còn  lại  (72,74%  so  với  47,26%).  Phân  tích  thống  kê  cho  thấy  nhóm  có  tiền  sử  sanh non thì tỉ lệ sanh non cao gấp 2,97 lần so  với  nhóm  còn  lại  (OR=2,97;  KTC95%:  1,05‐ 9,63).

2.

3.

4.

Goldenberg  RL,  Culhane  JF,  Iams  JD,  Romero  R  (2008).  ʺEpidemiology  and  causes  of  preterm  birthʺ. The  Lancet 371:  pp  75–84.    Huỳnh  Nguyễn  Khánh  Trang  (2006)  Lá nhau ‐ dây rốn ‐ thai  non tháng, Sản Phụ Khoa tập I, Nhà xuất bản Y Học TP. Hồ  Chí Minh, tr. 69‐80.  Kaempf  JW,  Tomlinson  M,  Arduza  C, et  al. (2006).  ʺMedical  staff guidelines for periviability pregnancy counseling and medical  treatment of extremely premature infantsʺ. Pediatrics 117: pp.  22– 29.   Lê  Diễm  Hương  (2006)  Trẻ sơ sinh non tháng,  Sản  Phụ  Khoa  tập II, Nhà xuất bản Y Học TP. Hồ Chí Minh, tr. 565‐570.  5. Mathew TJ, MacDorman MF (2006). ʺInfant Mortality Statistics  from  the  2003  period  linked  birth/infant  death  data  setʺ. National  Vital Statistics Reports 54.

7.

8.

6. Morgan MA, Goldenberg RL, Schulkin J (2008). ʺObstetrician‐ gynecologistsʹ  practices  regarding  preterm  birth  at  the  limit  of  viabilityʺ. Journal  and  Neonatal  of  Maternal‐Fetal  Medicine 21, pp.123‐134.   Nguyễn  Đỗ  Nguyên.(2005)  Phương  pháp  nghiên  cứu  khoa  học  trong y khoa, tr.34‐51.  Nguyễn  Duy  Tài  (2006)  Định tuổi thai, Sản  Phụ  Khoa  tập  II,  Nhà xuất bản Y Học TP. Hồ Chí Minh, tr.370‐376.

Tỉ lệ sanh non cao ở nhóm sản phụ có tình  trạng  kinh  tế  ‐  xã  hội  thấp,  công  việc  có  tính  chất  nặng  nhọc,  cực  khổ(5,10).  Công  việc  có  những  tính  đặc  thù  riêng,  ở  Bình  Phước  công  việc  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  là  làm  rẫy  (42,41%).  Những người làm rẫy thường phải làm những  công việc nặng nhọc và thời gian làm việc kéo  dài,  họ  thường  làm  công  việc  cạo  mủ  cao  su,  khai  hoang  đất,  trồng  trọt….Họ  là  những  người  thường  tiếp  xúc  với  những  yếu  tố  độc  hại cho sức khỏe như thuốc trừ sâu, thuốc diệt  cỏ, muỗi đốt… Tỉ lệ sanh non trong nhóm các  sản phụ làm rẫy cao hơn so với các nhóm khác.  Kiểm  định  có  ý  nghĩa  về  phương  diện  thống  kê (OR=3,48; KTC95%: 1,92‐6,34).

321

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  9.

12.

Steer  P  (2005).  ʺThe  epidemiology  of  preterm  labourʺ. British  Journal of Obstetrics & Gynaecology 112, pp. 1571 ‐ 5585.  13. Trần Thị Lợi (2006) Thai non tháng, Sản Phụ Khoa tập I, Nhà

Nguyễn  Xuân  Vũ  (2009)  Mối  liên  quan  giữa  công  việc  và  tính  chất công việc với sanh non tại một số khu công nghiệp trên địa bàn  TP.HCM, Luận văn tốt nghiệp Bác Sĩ nội trú Y khoa, Đại học  Y dược TP. Hồ Chí Minh, tr. 52‐54.

xuất bản Y Học TP. Hồ Chí Minh, tr. 412‐ 415.

14. Trung  tâm  chăm  sóc  sức  khỏe  sinh  sản  tỉnh  Bình  Phước

(2010), Báo cáo năm 2010. Tỉnh Bình Phước.

11.

10. Reichman  NE,  Pagnini  DL  (1997),  Maternal  age  and  birth  outcomes:  data  from  New  Jersey.  Fam.  Plann.  Perspect.  1997  Nov‐Dec, pp.268‐72, 295.  Simhan  HN,  Caritis  SN  (2007).  ʺPrevention  of  Preterm  Deliveryʺ. New England Journal of Medicine 357: pp. 477–487.

15. Trung  tâm  phòng  chống  các  bệnh  xã  hội  tỉnh  Bình  Phước  (2010), Báo cáo phòng chống các bệnh xã hội tỉnh Bình Phước  năm 2010. Tỉnh Bình Phước.

322

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG HIẾN THẬN Ở MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG   TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Hoàng Thị Diễm Thúy*, Trần Ngọc Sinh, Lê Hoàng Ninh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Trong bối cảnh chung của nền y tế thế giới, Việt Nam cũng đang gánh chịu hậu quả của các  bệnh mạn tính đưa đến suy thận giai đoạn cuối. Tuy nhiên, kiến thức, thái độ và hành vi về hiến thận của người  dân còn nhiều hạn chế, đưa đến sự mất cân bằng cung cầu trầm trọng.

Mục tiêu: phân tích kiến thức, thái độ, hành vi về hiến thận và các yếu tố có liên quan với hành vi hiến thận

ở người trên 18 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu: Phỏng vấn 1068 người trên 18 tuổi dựa vào bộ câu hỏi tự điền .

Kết quả: 77% đồng ý hiến thận sau chết, và 63,8% đồng ý hiến thận người thân sau chết. Tỉ lệ người có  kiến thức chưa đúng về bệnh thận và chết não chiếm 5‐36%; 21% còn có thái độ không tích cực. Các yếu tố có  tương quan với hành vi hiến thận: nghề nghiệp, kinh tế, kiến thức đúng về sự thiếu hụt nguồn hiến tạng, về chết  não, quan điểm nhân đạo tích cực, việc bàn bạc với người thân. Lí do chính của việc từ chối hiến là sợ người nhà  không đồng ý. Yêu cầu chính sau khi hiến là sự công bằng.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân ủng hộ hiến thận, các chiến lược tuyên truyền, can

thiệp là rất cần thiết, và là nền tảng cho khoa học ghép tạng ở nước ta phát triển bền vững.

Từ khoá: kiến thức, thái độ, hiến thận, chết não

ABSTRACT

ANALYSIS OF KIDNEY DONATION POTENCY IN SOME COMMUNITIES  AT HO CHI MINH CITY

Hoang Thi Diem Thuy Tran Ngoc Sinh, Le Hoang Ninh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 324 ‐ 328

Background:  As  well  as  other  countries  all  around  the  world,  Viet  Nam  has  been  undergoing  the  consequences of chronic diseases that lead to end‐stage kidney disease. However, the public knowledges, attitude,  and behavior still be restricted. This fact has induced an important  imbalance between supply and demand in this  field.

Objectives:  To  explore  knowledge,  attitude,  behavior  about  kidney  donation  after  death  and    factors

associated with the decision to donate among the selective populations in Ho Chi Minh city.

Methods:    Interviewing  of  1,068  people  from  18  years  old  by  questionnaire,  the  interviewees  filled  in

themselves.

Result: 77% and 63.8%  agreed to donate their own kidney and the kidney of their relatives respectively  after death. 5‐36% had incorrect knowledges. 21% had negative  attitude  over  donation.  The  factors  associated  with donation comprised of  profession, economic status, good knowledge about organ shortage for donation, and  brain death, humanity point of view, especially the conversation with family members.

The  main  reason  of  refusal  was  the  family  members’  disagreement.  The  main  requirement  when  a  person

donates was the equality of organ using.

∗ Bệnh viện Nhi đồng 2 TP. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS Hoàng Thị Diễm Thúy      ĐT:     Email: thuydiemhoang@yahoo.com.vn

323

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Conclusion: Most people agreed with donation at HCM city. We need education campaign to ameliorate the  public  point  of  view  on  organ  donation.  The  public  education  must  be  the  background  for  the  sustainable  development of transplantation in our country.

Keywords:  knowledge, attitude,  kidney donation, brain death

Thời gian: tháng 4 – 6 năm 2011

ĐẶT VẤN ĐỀ

Địa điểm nghiên cứu

Thiên chúa giáo: tại nhà thờ Thủ Đức: 250

Phật giáo: tại chùa Thiền Lâm ‐ Quận 8: 250

Sinh viên: trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh,

ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch: 568

Phương pháp

Phát phiếu câu hỏi 35 câu tự điền

KẾT QUẢ

Đặc điểm đối tượng nghiên cứu:

Tuổi và giới

Tuổi  trung  bình:  28  ±  12,86  (tuổi  thấp  nhất

15, tuổi cao nhất 73)

Giới: nam 413 (39,04 %);  nữ: 615  (60,96%)

Từ cuối thế kỷ XX, sự bùng nổ của suy thận  mạn trên toàn cầu đã làm cho ngành y học phải  đối đầu với một tình trạng mất cân bằng cung ‐  cầu  trầm  trọng  của  thận  ghép  ‐  một  hiện  trạng  đang  đồng  hành  với  các  tiến  bộ  không  ngừng  của  khoa học ghép thận. Vấn  đề  này  đã,  đang  và  sẽ  trở  nên  một  thách  thức  đối  với  sức  khoẻ  cộng  đồng  trên  toàn  thế  giới.  Vì  thế,  cùng  với  việc  phát  triển  kĩ  thuật  ghép,  hầu  hết  các  quốc  gia đều quan tâm đến khía cạnh xã hội và pháp  lí của vấn đề này để đi tìm giải pháp cho nguồn  thận ghép, tạo cơ sở để thúc đẩy khoa học ghép  thận phát triển bền vững. Một trong những rào  cản  quan  trọng  của  công  tác  ghép  thận  là  tình  trạng  thiếu  hụt  nguồn  thận  để  ghép.  Nguồn  thận từ người cho sống rất giới hạn trong khi đó,  nguồn  thận  từ  người  cho  chết  não  chưa  được  huy động hết .

Học vấn

Phổ thông 260 (24.62 %); đại học 782 ( 74.05

%); sau đại học 14  (1.33 %)

Dân tộc

Kinh:  986    (93,82%  );  Hoa:    37  (3,52  %);

Khmer: 16 (1,52%) , khác: Chăm:  12 (1,14% ).

Ngày 29.11.2006, tại Việt Nam Luật hiến, lấy,  ghép  mô,  bộ  phận  cơ  thể  người  đã  được  Quốc  hội thông qua ... Tuy nhiên, nhận thức của cộng  đồng  về  hiến  thận  nói  riêng  và  các  bộ  phận  cơ  thể  nói  chung  còn  rất  hạn  chế.  Có  rào  cản  nào  khác về kinh tế, văn hóa, xã hội trong việc hiến  thận ở người Việt Nam?

Tôn giáo

Phật: 292  (25,6 %); Thiên Chúa:  281 (24,6%);

thờ  ông  bà:  330    (28,9  %);  không  theo  một  tôn

giáo nào:  227 (19,9 %); khác: 10 (0,8 %).

Trên cơ sở này, chúng tôi thực hiện khảo sát  Kiến thức –Thái độ ‐ Hành vi về việc hiến thận  của  một  số  cộng  đồng  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh, từ đó, góp phần đề ra chiến lược cụ thể để  vận động hiến  thận trong dân chúng.

Tình trạng hôn nhân

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Có  gia  đình:  231  (21,73  %),  độc  thân:  832

Thiết kế nghiên cứu

(78,27 %).

Kinh tế

Nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  và  phân  tích  trên  3  nhóm  đối  tượng:  sinh  viên,  Thiên  Chúa  giáo, Phật giáo.

Giàu:  37  (3,51%);  khá:  225  (21,37  %);  trung

bình: 681 (64,67);  nghèo: 110  (10,45 %).

Cỡ mẫu

Lấy trọn 1068  người .

324

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 4: Kết quả kiến thức về chết não

Câu Số trả lời (%)

Nghề nghiệp nhóm đối tượng nghiên cứu  Bảng 1: Phân bố nghề nghiệpcủa nhóm đối tượng  nghiên cứu ( n=1068)

Đúng: Số lượng (%) 880(84,1%) 856 (81,4%) Sai: số lượng (%) 166(15,9%) 196 ( 18,6%) Câu 15 Câu 16 1046(97,9%) 1052 (98,5%)

Kết quả về thái độ

Quan điểm nhân đạo

Câu  18.  Việc  cho  thận  cho  người  bị  bệnh  là

một nghĩa cử nhân đạo?

Câu  20.  “Khi  người  ta  chết  đi  nhưng  còn  một  bộ  phận  trên  cơ  thể  đem  cho  lại  cho  một  người  khác  thì  giống  như  thân  xác  vẫn  còn  trên  cõi  đời  này.  Ông/bà,  anh/chị  nghĩ  sao  về  quan điểm này?

Nghề nghiệp HSSV CNV Nội trợ Buôn bán nhỏ Lao động phổ thông Chủ doanh nghiệp Khác Nông dân Số lượng 707 135 59 52 39 29 29 3 % 67,14 12,82 5,6 4,94 3,7 2,75 2,75 0,28

Bảng 5: Kết quả thái độ về quan điểm nhân đạo  Câu Số trả lời Rất đồng

Rất không Đồng ý Không đồng ý đồng ý 38 (3,6%) 6 (0,56%) 18

20 20 (5,1%) 1064 (99,4%) 1054 (98,7%) ý 364 (34,3%) 231 (21,9%) 654 (61,2%) 573 (54,4%) 230 (21,8%)

Quan điểm tuyên truyền, chia sẻ

Phương  tiện  tiếp  cận  thông  tin  về  hiến  thận  Bảng 2: Phương tiện tiếp cận thông tin  Số lượng 649 544 539 338 158 105 38

Phương tiện Truyền hình Sách Báo Người khác Người thân bị bệnh Radio Chưa bao giờ nghe % 61 51 50,5 31,6 14,8 9,8 3,6

Kết quả về kiến thức

Kiến thức về nhu cầu hiến thận của xã hội

Câu 22. Việc tuyên truyền giáo dục hiến thận  trên các phương tiện thông tin đại chúng có cần  không?

Câu  13.  Suy  thận  nặng  sẽ  chết  nếu  không

được lọc máu hay ghép thận

Câu  23.  Việc  hiến  thận  sẽ  dễ  dàng  hơn  nếu  được  bàn  bạc  trước  với  người  thân.    Ông/bà,  anh/chị có nghĩ rằng mình sẽ bàn bạc với người  thân khi quyết định không?

Câu  14.  Những  người  bị  suy  thận  hiện  nay  đang rất cần có những người cho thận để được  cứu sống. Anh/chị , ông / bà có biết về thông tin  này

Bảng 3: Kết quả kiến thức về nhu cầu ghép thận

Câu 24 . Ông/bà, anh/chị có nghĩ rằng mình  cũng có thể có lúc cần được người khác cho thận  không ?

Câu Đúng : Số lượng (%) Sai: số lượng (%) Câu

Bảng 6: Kết quả thái độ về tuyên truyền hiến thận  Không: số lượng (%)

Có : Số lượng (%) Số trả lời (%) Câu 13 Câu 14 Số trả lời (%) 1049 (98,2%) 1051 (98,4%) 988 (94,2%) 905 (86,1%) 61 (5,8%) 12 (13,9%)

Kiến thức về chết não

Câu 25:  Về đối tượng cần được tuyên truyền

Câu  15.  Chết  não  là  tình  trạng  tim  còn  đập  nhưng  não  hoàn  toàn  hư  hại,  không  còn  khả  năng phục hồi

hiến thận

207 (19,64%) người đồng ý nên bắt đầu ở đại

học.

700 (66,41%) người đồng ý nên bắt đầu ở cấp

Câu 16. Chết não thường xảy ra trong những  cái  chết  “bất  đắc  kỳ  tử”  như:  tai  nạn,  tai  biến  mạch  máu  não,…  Anh/chị  có  biết  điều  này  không?

3.

Câu 22 Câu 23 Câu 24 1056 (98,9%) 957 (90,6 %) 1057 (99 %) 971 (91,9%) 1044 (97,7%) 893 (85,4%) 99 (9,4%) 86 (8,1%) 151 (14,6%)

325

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

147  (13,95%)  người    không  đồng  ý  tuyên

truyền.

<0.005

21 Việc tuyên truyền giáo dục hiến thận trên các phương tiện thông tin 22 Bàn bạc trước với người thân, 24 Người khác cho thận 32 Hiến thận của thân nhân < 0.005 <0.005 < 0.005

Kết quả về hành vi  Bảng 7: Kết quả về hành vi hiến thận

Các yêu cầu khi hiến thận (câu 34):

Tài chính: 30 (19,8%)

Câu Số trả lời Đồng ý Không đồng

Công bằng: 69 (45,4 %)

1020 (95,5%) 785 (77%) ý 235 (23%)

1032 (96,7%) 812 (78,7%) 220 ( 21,3%)

Khác:  53  (34,8  %):  Công  bằng,  bí  mật,  bảo  đảm thành công cho người nhận,  nếu là người  cho  sống,  cần  bảo  đảm  được  chăm  sóc  tốt  sau  khi hiến.

1005 (94,1%) 641 (63,8%) 364 (36,2 %) 30 Hiến thận của bản thân 31 Hiến thận lúc còn sống 33 Hiến thận của người thân

BÀN LUẬN

Lí do không đồng ý hiến thận  Bảng 8: Kết quả lý do từ chối hién thận  Lí do không hiến thận Gia đình không đồng ý Sợ Khác Tôn giáo

Số lượng 185 115 70 20 % 44,8 27,8 19,6 4,8

Các lí do khác: Muốn giữ nguyên vẹn cơ thể,  sợ  mai  táng  chậm  trễ,  sợ  sử  dụng  không  đúng  mục đích.

Tương quan với việc đồng ý hiến thận

Hành  vi  hiến  thận  và  các  chỉ  số  kinh  tế  xã

hội

Ở nước ta, trung bình mỗi ngày có 30 người  tử vong vì tai nạn giao thông. Những người này  tử vong trong tình trạng chết não, nghĩa là hoàn  toàn  không  có  khả  năng  phục  hồi  dù  tim  vẫn  còn đập và tuổi đời còn rất trẻ. Nếu nạn nhân và  gia đình đồng ý hiến tặng, đây sẽ là nguồn tạng  quí giá để cứu sống những người suy thận giai  đoạn cuối nói riêng, và suy tạng mạn nói chung.  Tuy  nhiên,  nhận  thức  của  cộng  đồng  về  hiến  thận nói riêng và các bộ phận cơ thể nói chung  còn rất hạn chế.

Bảng 9: Tương quan hành vi đồng ý hiến thận với  các yếu tố dân số

Biến số Tuổi ( <30 và ≥ 30) Giới Tình trạng hôn nhân Kinh tế Học vấn Tôn giáo Nghề nghiệp p 0,41 0,836 0,158 0,02 1 0,45 0,022

Hành vi hiến thận và kiến thức, thái độ: Các  câu có tương quan thống kê với hành vi đồng ý  hiến thận.

Vì  chưa  có  nhiều  thông  tin  về  hiến  tạng  tại  Việt  Nam,  chúng  tôi  chọn  3  đối  tượng  trên  để  khảo sát  vì  mục  đích  thuận  tiện,  với  giả  thuyết  rằng  đây  là  3  đối  tượng  dễ  tiếp  cận  nhất  để  có  chương trình can thiệp sau này. Dân số  nghiên  cứu của chúng tôi chưa có tính đại diện cho dân  số  Việt  Nam,  đây  là  khảo  sát  bước  đầu  để  tạo  tiền  đề  cho  các  nghiên  cứu  khác  quy  mô  hơn.  Nhiều  tác  giả  trên  thế  giới(1,2,  3)  cũng  chọn  sinh  viên và đối tượng tôn giáo để can thiệp, đặc biệt,  theo Weaver(5), sinh viên là nhóm đối tượng trẻ,  có tư tưởng thoáng và dễ tạo hiệu ứng thứ phát  do có mức độ trao đổi cao.

Bảng 10: Tương quan với hành vi đồng ý hiến thận  với câu trả lời thuận

Kiến  thức  đúng  về  bệnh  thận  và  chết  não  không thấp hơn đáng kể so với  kết quả nghiên  cứu ở các nước phát triển. Theo khảo sát đa quốc  gia của Manninen(1), có 92,7% người có kiến thức  về sự thiếu hụt mô tạng để ghép; 66,5% đồng ý  rằng bản thân họ có thể là người phải nhận thận;  64% có kiến thức đúng về chết não.

Câu 11 Nghe về bệnh thận 13 Chết nếu không được lọc máu 14 Kiến thức về chết não 15 Rất cần có những người cho thận 20 Giống như thân xác vẫn còn trên cõi đời p 0.014 <0.005 0,019 0.026 <0,005

326

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ người  đồng ý hiến thận cao, không khác biệt giữa hiến  lúc còn sống hay đã chết. Tỉ lệ đồng ý hiến thận  của  người  thân  thấp  hơn,  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  khác.  Kết  quả  của  chúng  tôi  cũng  phù  hợp  với  nhiều  tác  giả  nhận  thấy  hành  vi  hiến thận có tương quan với nghề nghiệp, mức  độ kinh tế, kiến thức đúng về chết não và sự bàn  bạc với người thân(4). Trong số những người đã  từng bàn bạc về hiến thận trong gia đình có 77%  người hiến, trong khi đó chỉ có 42% đồng ý hiến  ở nhóm chưa từng thảo luận(4).

hiến thận cho thấy các kết quả khả quan với 77%   đồng ý hiến thận sau chết và 63.8% đồng ý hiến  thận  người  thân  sau  chết.  Có  trên  80%  người  được  khảo  sát  có  kiến  thức  đúng  về  tình  hình  bệnh  thận  hiện  nay  trong  dân  số  và  nhu  cầu  ghép thận. Có hơn 80%  người được khảo sát có  kiến  thức  đúng  về  chết  não.  Có  60‐90%  người  được khảo sát đồng ý với quan điểm nhân đạo  khi  hiến  thận.  Các  yếu  tố  có  tương  quan  với  hành  vi  hiến  thận:  nghề  nghiệp,  kinh  tế,  kiến  thức  đúng  về  chết  não,  hiểu  biết  về  tình  hình  thiếu  thận,  quan  điểm  nhân  đạo  tích  cực,  việc  bàn  bạc  với  người  thân.  Chúng  ta  cần  có  thêm  nhiều  nghiên  cứu  trên  nhiều  đối  tượng  khác  trong  dân  chúng  để  có  nghiên  cứu  có  tính  đại  diện  hơn  cho  người  Việt  Nam.  Kết  quả  nghiên  cứu cho thấy đa số người dân ủng hộ hiến thận,  các chiến lược tuyên truyền, can thiệp là rất cần  thiết,  và  là  nền  tảng  cho  khoa  học  ghép  tạng  ở  nước ta phát triển bền vững.

Hành  vi  hiến  thận  trong  nghiên  cứu  này  thực  chất  chỉ  là  hành  vi  “ảo”.  Theo  các  tác  giả,  con số thật của hiến tạng chỉ còn 1/3‐1/4 con số  khảo sát được do sự tác động chủ yếu từ người  nhà(4). Tuy nhiên, kết quả trên cũng đã cho thấy  sự  đón nhận  của người Việt Nam về hiến tạng  khá  tốt,  là  động  lực  thúc  đẩy  các  chương  trình  vận động hiến tạng  hoạt động. Ngoài ra, đòi hỏi  chính  của  những  người  đồng  ý  hiến  tạng  là  “công bằng ”, trong khi đòi hỏi về tài chính chỉ  chiếm 19,8% , thấp hơn các tác giả trên thế giới(3).

Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của PGS.TS.  Nguyễn Đỗ Nguyên trong việc thực hiện công trình này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Manninen  R,  Evans  W.  Public  attitudes  and  behavior  regarding organ donation. JAMA. 1985; 253(21): 3111‐15  2. Matas  AJ,  David  E,  Sutherland  R.  The  importance  of  increase  organ  donation.  JAMA.

3.

4.

for  donation  of  solid  organ

innovative  efforts  to  2005;294(13):1691‐1693  Price D. Living kidney donation in Europe: Legal and ethical  perspectives ‐ the EUROTOLD Project. Transpl. Int. (1994) 7 (  Suppl. 1): S665 ‐ S667  Siminoff  LA.,  Gordon  N,  Hewlett  J:  Factors  influencing  families’s  consent  for  transplantation. JAMA. 2001;286(1):71‐77

Về đối tượng cần được tuyên truyền  hiến  thận, đa số đồng ý đưa vào giáo dục từ cấp 3,  tuy nhiên số người không đồng ý tuyên truyền  còn  cao  (14,6%).  Đây  cũng  là  nhóm  cần  được  quan  tâm  khảo  sát  sâu,  tuy  không  phải  là  đa  số,  nhưng  họ  có  thể  tạo  ảnh  hưởng  không  tốt  cho cộng đồng.  KẾT LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi tại thành phố Hồ  Chí  Minh  về  kiến  thức,  thái  độ  và  hành  vi  về

5. Weaver  M,  Spigner  C,  Pinela  M,  Rabun  KG,  Allen  MD.:  Knowledge and opinions among urban high school students:  pilot test of  a health education. JAMA 2001; 286:71‐77.

327

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ Ở BỆNH NHÂN UỐN VÁN ĐIỀU TRỊ TẠI   BV BỆNH NHIỆT ĐỚI TP.HCM

Nguyễn Duy Phong*,Vũ Thiên Ân**, Lâm Minh Yến***, Phan Trọng Lân***, Hoàng Minh Hiền****

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ của các trường hợp uốn ván điều trị tại BV Bệnh Nhiệt Đới Tp. HCM

trong 2 năm 2007‐2008.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt các trường hợp.

Kết quả: 389 bệnh nhân uốn ván nhập viện trong độ tuổi 16‐60, tỉ lệ nam/nữ là 2,93/1. Số bệnh nhân lao  động chân tay chiếm tỉ lệ 51,4%. 100% bệnh nhân chưa từng tiêm chủng và nhập viện trong 7 ngày đầu của  bệnh. Có 19,8 % bệnh nhân sống ở Tp.HCM. Không có khác biệt  về tỷ lệ mắc bệnh giữa các tháng trong năm.  Hầu hết tất cả các trường hợp uốn ván nhập viện trong 7 ngày đầu của bệnh. Vết thương không rõ ngõ vào  chiếm 24,94% các trường hợp và vị trí vết thương ngõ vào thường gặp nhất là chi dưới (54,8 %).

Kết luận: Tỷ lệ uốn ván cao ở những bệnh nhân > 60 tuổi vì không được tiêm ngừa và tiêm nhắc đầy đủ.  Cần triển khai chương trình tiêm chủng đến các địa phương, nhất là cho nông dân và các đối tượng lao động  chân tay. Tiêm chủng bắt buộc trong các xí nghiệp, công trường cho công nhân. Công tác tuyên truyền giáo dục  sức khỏe về phòng chống bệnh uốn ván cần được chú trọng đến nội dung chăm sóc vết thương và các dấu hiệu  nhận biết sớm bệnh uốn ván.

Từ khóa: Uốn ván – Đặc điểm Dịch tễ ‐ Yếu tố nguy cơ nghề nghiệp – Vết thương ngõ vào.

ABSTRACT

EPIDEMIOLOGICAL FACTORS OF TETANUS PATIENT TREATED AT HOSPITAL FOR TROPICAL  DISEASES AT HCM CITY

Nguyen Duy Phong, Vu Thien An, Lam Minh Yen, Phan Trong Lan ; Hoang Minh Hien

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 329‐ 333

Objective:  To  characterize  the  epidemiological  factors  of  tetanus  patients  treated  in  HTD  in    HCM  city

during two years 2007‐2008.

Method: Case series study.

Results: The study subjects included389 tetanus patients aged 16‐60.  The male to female ratio was  2.9/1.   The    percentage  of  patients  whose  jobs  were  manual  labor    was  51.4%.    All  of  patients  have  never    been  vaccinated against  tetanus  and  were  admitted  to  hospital    in  the  first  7  days  of  illness.  Out  of  every  hundred  participants, 198%  lived in HCM city. The incidences have not changed by months.. The entry  wounds were  usually found  in patients’ legs (54,76%) and  sometimes not found (24,94%)  .

Conclusions:  The    rate  of  tetanus    patients  over    60  years  old  was  high  because    either    vaccination  or  booster was not done:It is necessary to   implement the tetanus vaccination programs  for farmers and manual  laborers.  and workers  The primary care for skin wounds s and recognizing clinical signs of at the beginning  period of tetanus are critical.

∗ Khoa Y Tế Công Cộng trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh∗ * Bệnh viện Nhi đồng 2 Tp.HCM  ∗ ** Bệnh viện Nhiệt Đới Tp.HCM∗ *** Cục Y tế Dự phòng – Bộ Y tế∗ **** Sở Y tế Hà Nội  Tác giả liên lạc: PGs.Ts. Nguyễn Duy Phong      ĐT: 0913155993    Email: nguyenduyphongvn@yahoo.com

328

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Key  words:  Tetanus

‐  Epidemiology  –  Professional  Risk

Factors  –  Entry  Wounds

.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Các biến số phân tích

Thông tin cá nhân của bệnh nhân (tuổi, giới,

nghề nghiệp, nơi cư ngụ, tiền căn…)

Tình trạng tiêm chủng của bệnh nhân.

Phân tích dữ liệu

Nhập  dữ  liệu  bằng  Epidata  3.1,  Phân  tích

bằng SPSS 16.0.

KẾT QUẢ

Việt  Nam  đã  thực  hiện  chương  trình  tiêm  chủng  mở  rộng  bao  gồm  vaccin  ngừa  uốn  ván  cho trẻ em và cho thai phụ (5) dưới 1 tuổi với tỷ lệ  bao phủ hơn 95% từ năm 1990 . Nhờ vậy, tỷ lệ  uốn ván đã giảm từ 11,1% (1993) còn 5,6% (2003)  2.  Tuy  nhiên,  Việt  Nam  vẫn  chưa  thể  loại  trừ  bệnh  uốn  ván,  Bệnh  viện  bệnh  nhiệt  đới  Tp.  HCM  (BVBNĐ)  đã  công  bố  2.422  trường  hợp  uốn ván trong thời gian từ 1993‐2002.

Mục tiêu nghiên cứu

Chúng  tôi  ghi  nhận  được  389  trường  hợp  nhập  viện  tại  BVBNĐ  trong  vòng  2  năm:  từ  01/01/2007  đến  31/12/2008  với  chẩn  đoán  xác  định là uốn ván. Kết quả về các đặc điểm dịch tễ  và yếu tố tiên lượng như sau:

Bảng 1: Tần số và tỉ lệ bệnh nhân phân bố theo đặc  tính dân số‐xã hội học

Mô tả đặc điểm dịch tễ: các yếu tố dân số, xã  hội học, thời gian nhập viện của các trường hợp  mắc  bệnh  uốn  ván  nhập  viện  điều  trị  tại  bệnh  viện Bệnh Nhiệt Đới Tp. HCM trong thời gian 2  năm 2007‐2008.

Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%)

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Giới

Thiết kế nghiên cứu

Mô tả hàng loạt trường hợp

Tuổi

Nơi thực hiện nghiên cứu  Khoa Uốn ván ‐ BVBNĐ.

Nghề nghiệp

Đối tượng nghiên cứu

Toàn bộ các bệnh nhân nhập viện điều trị tại  BV BNĐ với chẩn đoán lâm sàng xác định là uốn  ván.

Phương pháp chọn mẫu

Nam Nữ 28 ngày – 6 tuổi 7 – 15 tuổi 16-60 tuổi Trên 60 tuổi Nông dân Hưu trí Công nhân Học sinh – SV Công nhân XD Thất nghiệp Khác 290 99 0 27 276 86 111 82 53 34 23 22 64 75 25 0.0 6.9 71.0 22 28.53 21.08 13.62 8.74 5.91 5.66 16,45

Tiêu chuẩn nhận vào

Tình trạng tiêm chủng

100% các trường hợp uốn ván đều chưa từng

được tiêm chủng.

Bệnh nhân trên 28 ngày tuổi, nhập viện tại  BVBNĐ từ 01/01/2007 đến 31/12/2008 với chẩn  đoán xác định là uốn ván.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bảng 2: Tần số và tỉ lệ Bệnh nhân phân bố bệnh theo  nơi cư ngụ

Bệnh nhi nhỏ hơn 28 ngày tuổi (uốn ván sơ

sinh).

Cách thức tiến hành nghiên cứu

Nghiên cứu hồi cứu, thu thập các dữ liệu từ

hồ sơ bệnh án lưu bằng bảng thu thập số liệu.

Nơi cư ngụ TPHCM Bà Rịa Vũng Tàu Đồng Nai An Giang Tây Ninh Tiền Giang Đồng Tháp Long An Tần số 77 33 31 30 24 24 21 20 Tỉ lệ % 19.79 8.48 7.97 7.71 6.17 6.17 5.40 5.14

329

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

BÀN LUẬN

Tuổi và giới

(*) Khác: Các tỉnh ngoài danh sách trên có tần số ít  hơn 10 bệnh nhân.

Nơi cư ngụ Bến Tre Trà Vinh Bình Phước Bình Thuận Bình Dương Khác* Tần số 17 16 15 14 13 54 Tỉ lệ % 4.37 4.11 3.86 3.60 3.34 13.88

Số lượng bệnh nhân

46

41

37

35

33

37

34

30

Tỷ lệ mắc bệnh tăng dần theo các nhóm tuổi:  Tỷ lệ uốn ván thấp nhất ở nhóm tuổi từ 1 tháng  đến 6 tuổi, đây là những đối tượng được bảo vệ  bởi chương trình tiêm chủng mở rộng nên tỷ lệ  mắc bệnh thấp. Nhóm bệnh nhân trong độ tuổi  từ  16  đến  60  tuổi  chiếm  đa  số  (71%).  Đây  là  nhóm tuổi lao động, có nhiều nguy cơ bị các vết  thương nên tỷ lệ uốn ván cao hơn các nhóm tuổi  khác. Nhóm tuổi > 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao thứ 2  với 21,08%. Đây là nhóm tuổi hưu trí, ít lao động  nặng nên ít có nguy cơ bị những vết thương ngõ  vào.  Tuy  nhiên,  nhóm  tuổi  này  ít  được  bảo  vệ  bởi  vắc  xin  do  tỷ  lệ  tiêm  nhắc  thấp  nên  dễ  có  nguy cơ phát triển thành uốn ván.

20

50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 1

Đồ thị 1 : Số lượng tích lũy bệnh nhân phân bố theo  tháng trong năm

Bảng 3: Tần số và tỉ lệ Bệnh nhân phân bố bệnh theo  thời gian nhập viện kể từ lúc có triệu chứng bệnh

Thời giancó triệu chứng trước nhập viện %

Xét về giới, tỷ  lệ  nam/nữ  là  2,93/1  tương  tự   với nghiên cứu tại Thái Lan, tỷ lệ mắc bệnh giữa  2  giới  nam/nữ  là  2,14/1  (1,2);  Hơn  nữa,  tại  Việt  Nam đã triển khai chương trình tiêm chủng cho  nữ giới trong độ tuổi sinh sản nên nữ trong độ  tuổi này được bảo vệ bằng vắc xin. Ngược lại, tỷ  lệ  bị  uốn  ván  giữa  2  giới  trong  nhóm  tuổi  >  60  tuổi  không  chênh  lệch  nhiều  (42  bệnh  nhân  so  với  43  bệnh  nhân)  vì  ở  lứa  tuổi  này  tình  trạng  được bảo vệ bằng vắc xin giữa 2 giới cũng như  tính chất công việc của 2 giới không có sự khác  biệt lớn.

Tần số 271 69.67 118 30.33 < 3 ngày 3 -7 ngày > 7 ngày 0 0

Nghề nghiệp

(*)Thời gian có triệu chứng trước nhập viện: Khoảng thời  gian từ lúc xuất hiện triệu chứng đầu tiên của bệnh uốn  ván  (mỏi  hàm,  nuốt  sặc,  hàm  há  hạn  chế,  cứng  hàm  …)  cho đến thời điểm nhập viện.

Tỉ lệ % bệnh nhân

54.76

60

50

40

30

%

24.94

20

11.57

8.23

10

0.51

0

0

0

Chi trên Đầu mặt, cổ

Chi dưới

51,4  %  bệnh  nhân  mắc  bệnh  uốn  ván  làm  công  việc  lao  động  chân  tay.  Đặc  biệt  nhóm  nông  dân  có  nguy  cơ  mắc  bệnh  cao  nhất  với  28,53%. Điều này là do nông dân thường xuyên  tiếp xúc với đất mà Clostridium tetani lại là một vi  khuẩn yếm khí thường có trong đất. Tuy nhiên,  tỷ lệ nông dân bị uốn ván tại Việt Nam đã giảm  nhiều nếu so sánh với một nghiên cứu tương tự  tại BVBNĐ năm 2004 (28,53 % so với  71.7 %) (p  <  0,001)(5).  Hiện  nay,  một  số  ngành  nghề  dễ  bị  uốn  ván  như  công  nhân  với  19,53%,  trong  đó  công  nhân  xây  dựng  chiếm  tỷ  lệ  cao  với  hơn  30,26%. Như vậy, việc bảo hộ lao động cho công

Biểu đồ 1: Tỉ lệ bệnh nhân phân bố theo vị trí vết  thương ngõ vào

330

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Vị trí vết thương ngõ vào

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nhân vẫn chưa thật sự đáp ứng đúng mức độ an  toàn.

Tình trạng tiêm chủng

100% các trường hợp uốn ván đều chưa từng  tiêm  chủng.  Điều  này  cho  thấy  chương  trình  tiêm  chủng  hiện  nay  vẫn  chưa  chú  ý  đến  việc  tiêm chủng và tiêm nhắc vắc xin cho người lớn.

Trong số 389 bệnh nhân nhập viện có 66,58%  trường  hợp  có  ngõ  vào  là  các  vết  thương  phần  mềm  và  24,94%  không  rõ  ngõ  vào.  Các  số  liệu  này phù hợp với nghiên cứu của Thwaites CL(6)  và Hung NH tại BVBNĐ năm 20041 nhưng thấp  hơn  ở  Thái  Lan  (30%)  trường  hợp  không  tìm  thấy ngõ vào) (1,2).

Nơi cư ngụ

Chỉ  có  19,79%  bệnh  nhân  sống  ở  Tp.HCM.  Tuy  nhiên,  xét  riêng  từng  địa  phương,  số  bệnh  nhân cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  và  hầu  hết  là  dân  nhập  cư,  chưa  từng được chủng ngừa uốn ván trước đây.

Thời điểm mắc bệnh trong năm

Chỉ  có  4  trường  hợp  có  ngõ  vào  là  đường  tiêm chích (1,03%) và 1 trường hợp có ngõ vào là  vết  thương  phẫu  thuật  (0,26%).  Tỷ  lệ  này  thấp  hơn  nhiều  so  với  nghiên  cứu  trước  đây  của  Thwaites  CL  trong  giai  đoạn  1993‐2002(6)(p  <  0,001).  Điều  này  chứng  tỏ  tình  trạng  vô  trùng  trong các thủ thuật, phẫu thuật, săn sóc y khoa  đã được cải thiện.

Tuy  nhiên,  cần  chú  ý  đến  tỷ  lệ  uốn  ván  có  ngõ  vào  là  viêm  tai  giữa  (3,08%)  và  sâu  răng  (2,06%).  Theo  y  văn,  đây  không  phải  là  những  ngõ vào thường gặp của bệnh uốn ván. Kết quả  này  cho  thấy  người  dân  chưa  có  nhận  thức  tốt  về việc chữa trị các nhiễm trùng tai và răng sâu.

Vị  trí  vết  thương  thường  gặp  nhất  là  vết  thương ở chi dưới (54,76%) và không rõ ngõ vào  (24,94%). Điều này phù hợp với kết quả của các  nghiên  cứu  trước  đây  của  Thwaites  CL  là  41,5  %6  và Hung NH là 49,8 %(3).

KIẾN NGHỊ

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ uốn ván ở  người  trên  60  tuổi  tại  Việt  Nam  cao  vì  không  được tiêm ngừa và tiêm nhắc đầy đủ. Như vậy,  để giảm tỷ lệ mắc bệnh:

Theo nghiên cứu của C.Louis, vào mùa khô  (từ  tháng  11  đến  tháng  4),  số  bệnh  nhân  nhập  viện  cao  hơn  trong  mùa  mưa  (từ  tháng  5  đến  tháng 10)(4). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, số  bệnh nhân nhập viện vào mùa khô là 194 bệnh  nhân,  gần  như  tương  đương  với  số  bệnh  nhân  nhập  viện  vào  mùa  mưa  là  195  bệnh  nhân.  Ngoài ra, không có khác  biệt nhiều về tỷ lệ mắc  bệnh  giữa  các  tháng  trong  năm.  Điều  này  phù  hợp với tình hình thực tế những năm gần đây ở  miền Nam Việt Nam hầu như khí hậu nóng ẩm  quanh  năm  phù  hợp  cho  sự  phát  triển  của  Clostridium  tetani.  Hơn  nữa,  nhóm  dân  số  có  nguy cơ cao nhất là nông dân. Các năm gần đây,  nông  dân  miền  Nam  Việt  Nam  làm  vụ  lúa  quanh năm (3‐4 vụ) nên nguy cơ mắc bệnh uốn  ván hầu như có ở mọi thời điểm trong năm. Các  ngành nghề nguy cơ khác như công nhân cũng  có tần suất làm việc như nhau ở mọi tháng.

Thời điểm nhập viện

Song  song  với  việc  tiêm  tục  chương  trình  tiêm  chủng  cho  trẻ  em  và  thai  phụ,  cần  đẩy  mạnh việc tiêm chủng và tiêm nhắc cho dân số  còn  lại,  nhất  là  nhóm  dân  số  trong  độ  tuổi  lao  động  và  người  già  >  60  tuổi  nhằm  giảm  tần  số  uốn  ván  trong  nhóm  đối  tượng  này.  Cần  áp  dụng các biện pháp sau:

Triển khai tiêm chủng cho nông dân và các

đối tượng lao động chân tay, cho dân nhập cư.

Tiêm  chủng  bắt  buộc  trong  các  xí  nghiệp,

Hầu hết tất cả các trường hợp uốn ván nhập  viện trong 7 ngày đầu của bệnh. Tuy nhiên, nếu  lấy mốc thời gian là 3 ngày đầu khởi phát bệnh  thì tỷ lệ nhập viện trước 3 ngày là 69,67%.  Đây  là  một  yếu  tố  tốt  vì  theo  y  văn:  uốn  ván  nếu  được điều trị đặc hiệu sớm thì tiên lượng bệnh  sẽ tốt hơn. Điều này đặt ra vấn đề cần đẩy mạnh  giáo dục sức khỏe về nội dung nhận biết các dấu  hiệu sớm của bệnh.

công trường cho công nhân.

331

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

3.

4.

5.

Ngoài ra, công tác tuyên truyền giáo dục sức  khỏe  về  phòng  chống  bệnh  uốn  ván  cần  được  chú trọng đến nội dung chăm sóc vết thương có  nguy cơ là ngõ vào của bào tử vi trùng uốn ván  và nội dung về các dấu hiệu nhận biết sớm bệnh  uốn ván.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

6.

Nguyễn Huy Hùng (2005). Khảo sát lâm sàng, cận lâm sàng,  biến chứng và sơ kết điều trị bệnh uốn ván tại BV bệnh nhiệt  đới  TPHCM.  Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Đại học Y dược  Thành phố Hồ Chí Minh.  Oladiran I, Meier DE, Ojelade AA. (2002). Tetanus: continuing  problem  in  the  developing  world.  World  J  Surg  2002  Oct;  26(10):1282‐5. Epub 2002 Sep 6. 58.  Thwaites  CL  et  al.(2004).  Impact  of  improved  vaccination  programme  and  intensive  care  facilities  on  incidence  and  outcome of tetanus in southern Vietnam, 1993‐2002. Trans R  Soc Trop Med Hyg. 2004 Nov; 98(11):671‐7. 20.  Thwaites CL, Yen LM, Glover C. (2006). Predicting the clinical  outcome  of  tetanus:  the  tetanus  severity  score.  Trop Med Int  Health. 2006 Mar;11(3):279‐87. 71.

2.

Chatchatee  P,  Chatproedprai  S,  Warinsathien  P.  (2007).  Seroprevalence of tetanus antibody in the Thai population: a  national  survey.  Asian  Pac  J  Allergy  Immunol.  2007  Dec;  25(4):219‐23. 21.  Kanchanapongkul J. (2001). Tetanus in adults: a review of 85  cases  at  Chon  Buri  Hospital.  J  Med  Assoc  Thai.  2001  Apr;  84(4):494‐9. 41.

332

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ SỐT DENGUE,   SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE CỦA 15 BỆNH VIỆN ĐA KHOA   TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đặng Minh Xuân*, Nguyễn Vũ Trường Giang*, Hồ Lữ Việt*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong các tỉnh thành phố có độ lưu hành sốt xuất huyết  (SXH) ở mức cao(1), bệnh lại xảy ra quanh năm và gia tăng vào các tháng mùa mưa(2). Chính vì vậy công tác  khám và điều trị sốt Dengue, sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một vấn đề y tế cộng đồng cần được quan tâm.  Nghiên cứu được tiến hành tại 15 đơn vị y tế của Thành Phố Hồ Chí Minh nhằm có cơ sở giúp các bệnh viện  làm tốt công tác giám sát hỗ trợ kỹ thuật và huấn luyện chuyển giao kỹ thuật trong công tác chẩn đoán và điều  trị sốt xuất huyết.

Mục  tiêu: Khảo sát thực trạng khám và điều trị sốt Dengue, sốt xuất huyết Dengue của 15 bệnh viện đa

khoa  tại  Thành Phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.

Kết quả: Trong các ca sốt Dengue, SXHD thì sốt Dengue chiếm 30,2%, SXH độ I, II chiếm tỉ lệ cao nhất  67,7%. Không có ca sốt xuất huyết độ IV. Trong các ca chuyển viện thì SXH độ I, II chiếm 38,1%, độ III chiếm  61,9%. Các bệnh viện không có phòng khám SXH riêng. Đa số có phòng lưu, có tiêu chuẩn nhập viện, có nhắc  dấu hiệu khám ngay và có hẹn tái khám. 60% bệnh viện có khoa Nhi, 13,3% bệnh viện có khoa Nhiễm, 40% có  khoa săn sóc tăng cường và không có tiếp nhận điều trị SXH độ IV. Các bệnh viện thực hiện tốt công tác truyền  thông với hình thức bướm và tranh ảnh tuyên truyền, 100% bệnh viện có trang bị máy đo huyết áp, 46,7% được  ‐ có  brassard các cỡ. 93,3% có xét nghiệm công thức máu tiểu cầu đếm và 53,3% có máy quay Hct tại chỗ,   những  bệnh viện có khả năng tiếp nhận và điều trị các trường hợp SXH nặng độ III được trang bị khá đầy đủ  thuốc, dịch truyền và phương tiện hồi sức (trên 50%). 80% có phác đồ điều trị SXH, 86,7% có tiêu chuẩn dịch  truyền, tiêu chuẩn xuất viện; 86% có ống thở oxy 2 mũi; 67% có mask thở oxy có túi; 80% có bóng mask các cỡ,  đèn nội khí quản lưỡi cong thẳng và máy giúp thở máy. Trung bình có khoảng 5 bác sĩ và 11 điều dưỡng tham  gia trong công tác điều trị chăm sóc bệnh nhân SXH. Và khoảng 4 bác sĩ và 4 điều dưỡng được tham gia tập  huấn trong năm về công tác điều trị SXH. 54% bệnh viện có khả năng chích CVP, 47% có thể đặt Catheter, 20%  có khả năng bộc lộ tĩnh mạch.

Kết luận: Thực trạng khám và điều trị sốt Dengue, SXH tại các đơn vị vẫn còn nhiều khó khăn về cơ sở vật

chất, phương tiện điều trị, nhân lực và trình độ chuyên môn.

Từ khóa: sốt Dengue, sốt xuất huyết Dengue.

ABSTRACT

SURVEY OF TREATMENT STRATEGY DENGUE FEVER – HEMORRHAGE FEVER AT 15  GENERAL HOSPITALS IN HO CHI MINH CITY

Dang Minh Xuan*, Nguyen Vu Truong Giang, Ho Lu Viet

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 334 – 340

Background:  Ho  Chi  Minh  City  is  one  of  the  cities  that  have  high  dengue  endemicity.  This  desease

* Bệnh viện Nhi đồng 2 Tp.HCM Tác giả liên lạc: CN. Đặng Minh Xuân

ĐT: 0909279204

Email: xuan0271984@yahoo.com

333

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  usually  occurs  from  January  to  December  every  year.  So,  this  is  a  public  health  problem.  This  study  was  conducted in 15 gerneral hospitals in Ho Chi Minh City to help  hospitals improve the diagnosis and treatment  for Dengue fever (DF) and Dengue hemorrhagic fever (DHF).

Objective: Evaluating treatment strategy for DF/DHF  in 15 general hospitals in Ho Chi Minh City.

Methods: This was a cross sectional descriptive study.

Result:    There  were  30.2%  DF      cases,  67.7%  Grade  I‐II  DHF      cases,    and  no  Grade  IV  DHF    cases.   Among cases transferred from other hospitals/ health care centers,  Grade I‐II DHF cases accounted for 38.1%    and Grade III DHF cases 61.9% . These 15 general hospitals don’t have   outpatient clinics for DF/DHF patients  only  .  In  almost  hospitals,  there  are  inpatient  wards    for  DHF    patients  hospital  admission  criteria  ;  training  parents about emergency signs, and  follow‐ ups. 60% hospitals have Pediatric Department, , 40% have ICU,  and just 13.3% have Departmentof Infectious Diseases . Almost hospitals don’t treat Grade IV DHF cases.  There  are DF/DHF education posters  in almost hospitals. Only 20% hospitals have  education video clips. All hospitals  are equipped with sphygmomanometers, 46.7% equipped with brassards in all size. 93.3% hospitals can do blood  count  test  with  platelet  counting,  53.3%  hospitals  equipped  hematocrit  centrifuge.  Some  of  hospital  can  cure  Grade III hemorrhage fever has equipped drugs, mean of recovering and infusion fluid (more than 50%). 80%  hospitals  have  management  protocol  for  Dengue  hemorrhage  fever,  86.7%  hospitals  have  infusion  standards,  discharge standards; 86% has oxygen cannula, 67% has oxygen with mask and reserved bag, 80% all size bag  masks, intubation tools. There are 5 doctors and 11 nurses in managing severe hemorrhage fever per hospital, and  4 nurses was trained every year. There are 53.3% hospitals can make CVP, 46.7% can make catheter, 20% can do  venous intervention.

Conclusion:  It  still  doesn’t  have  enough  facilities,  human  resourse  and  skillful  staff  in  treatment    of

DF/DHF in 15 general hospitals in Ho Chi Minh City

Keywords: Dengue fever (DF), Dengue hemorrhage fever (DHF).

ĐẶT VẤN ĐỀ

sốt Dengue, SXH là một vấn đề y tế cộng đồng  cần được quan tâm.

Dịch bệnh truyền nhiễm đang diễn ra phức  tạp  tại  nhiều  nước  trên  thế  giới  đặc  biệt  ở  khu  vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó có Việt  Nam. Thành phố Hồ Chí Minh với dân số đông,  mật  độ  dân  số  cao  trong  nội  thành  cộng  thêm  một  lượng  lớn  dân  nhập  cư  và  vãng  lai  từ  các  tỉnh  thành  khác  trong  cả  nước,  cộng  thêm  những thay đổi lớn về cơ sở hạ tầng đô thị đã có  nhiều  ảnh  hưởng  quan  trọng  đến  vấn  đề  sức  khỏe  đặc  biệt  là  tình  trạng  dịch  bệnh  trên  địa  bàn  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  từ  đó  ngày  càng  phát sinh nhu cầu lớn hơn về y tế và chăm sóc  sức khỏe.

Sốt xuất huyết là bệnh chưa có thuốc điều trị  đặc  hiệu,  chủ  yếu  là  điều  trị  triệu  chứng,  phát  hiện  sớm  chuyển  độ,  điều  trị  kịp  thời  sốc  để  giảm  tỉ  lệ  tử  vong(3).Tuy  nhiên  hiện  nay  vẫn  chưa  có  một  nghiên  cứu  chính  thức  nào  được  thực hiện để khảo sát thực trạng công tác khám  và điều trị sốt Dengue, SXHD, do đó nghiên cứu  này bước đầu được tiến hành bằng việc khảo sát  tại 15 đơn vị y tế của Thành Phố Hồ Chí Minh  nhằm có cơ sở giúp các bệnh viện  làm tốt công  tác  giám  sát  hỗ  trợ  kỹ  thuật  và  huấn  luyện  chuyển giao kỹ thuật trong công tác chẩn đoán  và điều trị SXH cho các bệnh viện tuyến trước.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát

Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong  các  tỉnh  thành  phố  có  độ  lưu  hành  sốt  xuất  huyết  ở  mức  cao(1),  và  bệnh  lại  thường  xảy  ra  quanh  năm  và  gia  tăng  vào  các  tháng  mùa  mưa(2).  Chính  vì  vậy  công  tác  khám  và  điều  trị

Khảo  sát  thực  trạng  khám  và  điều  trị  sốt  Dengue, SXHD tại 15 bệnh viện đa khoa trên địa  bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

334

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Mục tiêu chuyên biệt

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Khảo sát về tình hình sốt Dengue, SXHD.

Tình  hình  sốt  Dengue,  sốt  xuất  huyết  Dengue

Xác định thực trạng về cơ sở vật chất trong  công tác tại khám và điều trị sốt Dengue, SXHD.

Xác định thực trạng về phương tiện điều trị

2 000

67,7%

sốt Dengue, SXHD.

1 500

S\ t Dengue

Khảo  sát  về  nhân  sự  và  khả  năng  chuyên

30,2%

môn trong khám và điều trị sốt Dengue, SXHD.

1 000

SXH Dengue I,II SXH Dengue II I

2,1%

SXH Dengue IV

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

500

n â h n h n ệ b g n ợ ư

l

ố S

Đối tượng nghiên cứu

0

Các  khoa  khám  và  điều  trị  sốt  Dengue,  SXHD tại 15 bệnh viện khu vực phía đông thành  phố.

Tình trạng bệnh

Biểu đồ 1. Số lượng bệnh nhân phân bố theo tình  trạng bệnh

Phương pháp nghiên cứu

Cắt ngang mô tả.

Thời gian

Nhận  xét:  Sốt  Dengue  chiếm  30,2%,  SXHD  độ  I‐II  chiếm  tỉ  lệ  cao  (67%),  các  trường  hợp  SXHD độ III đến khám và điều trị chiếm tỉ lệ rất  thấp (2,1%) tập trung ở một vài đơn vị.

Từ 07/06/2010 đến 24/08/2010.

61,9%

Địa điểm

40

Tại  15  bệnh  viện  khu  vực  phía  đông  thành

38,1%

i

30

phố gồm:

SXH Dengue I,II

20

SXH Dengue III

10

0

n ệ v n ể y u h c a c ố S

Chuyển viện

Biểu đồ 2. Số ca chuyển viện theo độ

Bệnh  viện  quận  1,  bệnh  viện  quận  2,  bệnh  viện quận 4, bệnh viện quận 7, bệnh viện quận 9,  bệnh viện quận 12, bệnh viện quận Bình Thạnh,  bệnh  viện  quận  Thủ  Đức,  bệnh  viện  đa  khoa  khu vực Thủ Đức, bệnh viện An Sinh, bệnh viện  Hoàn  Mỹ,  bệnh  viện  Ngọc  Linh,  bệnh  viện  đa  khoa Sài Gòn, bệnh viện Nhân Dân Gia Định và  bệnh viện Quốc Tế Columbia Asia Gia Định.

Phương pháp thực hiện

Hầu  hết  các  ca  chuyển  viện  lên  tuyến  trên  đều là SXHD độ III (61,9%). Tuy nhiên có một tỉ  lệ không nhỏ 38,1% các trường hợp SXHD độ I ‐  II chuyển viện lên tuyến trên.

Bảng 1: Thực trạng cơ sở vật chất trong khám điều  trị sốt Dengue, SXHD

Phỏng  vấn  ban  lãnh  đạo  các  bệnh  viện  và  các nhân viên y tế có tham gia công tác khám và  điều trị sốt xuất huyết dựa theo những tiêu chí  trên phiếu khảo sát thực trạng khám và điều trị  sốt Dengue, SXHD.

Giám sát thực tế kiểm tra lại nguồn thông tin  đã  phỏng  vấn  được  nhằm  kiểm  soát  sai  lệch  thông tin.

Có Không Cơ sở vật chất n = 15 n = 15

Phòng khám SXH riêng Phòng lưu Tiêu chuẩn nhập viện Dấu hiệu khám ngay Hẹn tái khám Tranh ảnh tuyên truyền Video tuyên truyền Bướm tuyên truyền 0 13 12 13 13 11 3 10 Tỉ lệ % 0 86,7 80,0 86,7 86,7 73,3 20,0 66,7 15 2 3 2 2 4 12 5 Tỉ lệ % 100 13,3 20,0 13,3 13,3 26,7 80,0 33,3

335

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Có Không Có Cơ sở vật chất Phương tiện điều trị n = 15 n = 15 n = 15 n = 15 Tỉ lệ %

Tỉ lệ % 60,0 13,3 40,0 6 13 9 Tỉ lệ % 40,0 86,7 60,0 Khoa nhi SXH độ I, II Khoa nhiễm SXH độ I, II Khoa SSTC SXH độ III, IV 9 2 6

Chú thích: CPAP: thở áp lực dương cuối kì thở ra,  HAXL: huyết áp xâm lấn, TMTW: tĩnh mạch trung  ương, FFP: huyết tương tươi đông lạnh

Các  bệnh  viện  không  có  phòng  khám  SXH  riêng.  Đa  số  đều  có  phòng  lưu,  có  tiêu  chuẩn  nhập  viện,  có  nhắc  dấu  hiệu  khám  ngay  và  có  hẹn  tái  khám.  Đối  với  các  phương  tiện  truyền  thông thì đa số các bệnh viện có bướm và tranh  ảnh  tuyên  truyền.  Tuy  nhiên  tỉ  lệ  bệnh  viện  có  video  tuyên  truyền  còn  thấp  (20%).  60%  bệnh  viện  có  khoa  Nhi  riêng  và  13,3%  bệnh  viện  có  khoa Nhiễm, 40% có khoa săn sóc tăng cường có  khả năng tiếp nhận và điều trị SXH độ III.

Không Tỉ lệ % 33,3 10 66,7 26,7 11 73,3 6.7 1 13,3 2 6.70 1 33,3 5 5 4 14 93,3 13 86,7 14 93,3 10 66,7 Kết tủa lạnh Tiểu cầu đậm đặc Dopamine Dodutamine Lasix Risordan

Bảng 2: Thực trạng về phương tiện điều trị sốt  Dengue, SXHD

100%  bệnh  viện  được  trang  bị  máy  đo  huyết  áp,  46,7%  có  Brassard  các  cỡ.  Có  93,3%  bệnh  viện  có  xét  nghiệm  công  thức  máu  tiểu  cầu đếm. Đa số các bệnh viện (80%) có phác đồ  điều  trị  sốt  xuất  huyết  các  độ,  86,7%  có  tiêu  chuẩn  truyền  dịch  và  tiêu  chuẩn  xuất  viện.  53% bệnh viện có máy quay Hct, Dextrostix, X  quang, siêu âm tại chỗ.

Có 86% bệnh viện có ống thở oxy 2 mũi, 80%  có  bóng  mask  các  cỡ,  67%  có  mask  thở  oxy  có  túi,  80%  có  đèn  nội  khí  quản  lưỡi  cong  thẳng,  80% có máy giúp thở. Trên 50% có kim luồn 22‐ 24g,  14‐18g,  dây  truyền  60  giọt,  Catheter  tĩnh  mạch  trung  ương,  86%  có  bơm  tiêm  tự  động,  74%  có  máy  đếm  giọt.,  76%  có  Lactacringer  –  Gelatin ‐ Dextran 40‐ 70 và máu tươi, 34% có kết  tủa  lạnh,  27%  có  tiểu  cầu  đậm  và  13%  có  FFP,  trên 50% bệnh viện có Dopamine, Dobutamine,  Lasix, Risordan.

Có Phương tiện điều trị n = 15 n = 15

Bảng 3: Tình trạng nhân sự

Tỉ lệ % 15 100 7 46,7 14 93,3 8 53,3 12 80,0 13 86,7 13 86,7 12 80,0 53,3 8 53,3 8 8 53,3 13 86,7 10 66,7 12 80,0 Không Tỉ lệ % 0,00 53,3 6.70 46,7 20,0 13,3 13,3 20,0 46,7 46,7 46,7 13,3 33,3 20,0 0 8 1 7 3 2 2 3 7 7 7 2 5 3 Nhân sự 12 80,0 3 20,0 Số lượng/ 15 bệnh viện 78

170 46,7 7 12 80,0 8 3 53,3 20,0 54 0 0,00 15 100 57 Bác sĩ tham gia điều trị SXH Điều dưỡng tham gia trong chăm sóc bệnh nhân SXH Bác sĩ được tập huấn về SXH trong năm Số điều dưỡng được tập huấn về SXH trong năm

60,0 9 10 66,7 8 53,3 13 86,7 11 73,3 6 5 7 2 4 40,0 33,3 46,7 13,3 26,7

Bình quân mỗi bệnh viện có khoảng  5  bác  sĩ  tham  gia  điều  trị  SXHD  và  khoảng  11  điều  dưỡng  tham  gia  chăm  sóc  bệnh  nhân  SXH,  trung bình trong năm có khoảng 4 bác sĩ và 4  điều  dưỡng  được  tham  gia  tập  huấn  về  công  tác điều trị sốt SXH xuất huyết tại tuyến trên.

10 66,7 5 33,3

Máy đo huyết áp Brassard các cỡ Xét nghiệm CTMTC đếm Máy quay Hct tại chỗ Phác đồ điều trị SXH độ I, II Tiêu chuẩn truyền dịch Tiêu chuẩn xuất viện Phác đồ điều trị SXH III, IV Dextrostix X quang tại chỗ Siêu âm tại chỗ Ống thở oxy 2 mũi Mask thở oxy có túi Bóng mask các cỡ Đèn nội khí quản, lưỡi cong thẳng CPAP Máy giúp thở. Máy đo HAXL, Cable đo HAXL, bộ dây đo HAXL Dây truyền 60 giọt Kim luồn 22-24G, 14-18G Catheter TMTW Bơm tiêm tự động Máy đếm giọt Lactacringer, gelatin, dextran 40-70, máu tươi Hồng cầu lắng FFP 8 2 53,3 46,7 7 13,3 13 86,7

336

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 4: Khả năng chuyên môn

Có Không Phương tiện điều trị

Chú thích: CVP: áp lực tĩnh mạch trung tâm, TM:  tĩnh mạch

nhân bệnh nhân đến khám. Nếu hình thức này  được  được  tăng  cường  tại  các  phòng  khám,  tại  phòng chờ khám và phòng đăng ký khám bệnh  thì  việc  truyền  thông  phòng  chống  SXH  sẽ  đạt  hiệu quả cao giúp giảm bớt gánh nặng cho việc  điều trị cũng như giảm tình trạng nhập viện trễ  (5). Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được nếu  có sự quan tâm của các bệnh viện và sự hỗ trợ  của  Trung  Tâm  Truyền  Thông  Giáo  Dục  Sức  Khỏe Thành Phố Hồ Chí Minh.

54%  bệnh  viện  có  khả  năng  chích  CVP,  47%  có  thể  đặt  Catheter  và  20%  có  khả  năng  bộc lộ tĩnh mạch, không bệnh viện nào có máy  đo  huyết  áp  xâm  lấn,  cable  đo  huyết  áp  xâm  lấn  và  bộ  dây  đo  huyết  áp  xâm  lấn  vì  đây  là  một  kỹ  thuật  cao  chỉ  mới  được  thực  hiện  ở  những bệnh viện hạng 1.

Khả năng chích CVP Khả năng bộc lộTM Khả năng đặt Catheter n = 15 Tỉ lệ% n = 15 Tỉ lệ % 46,7 80,0 53,3 53,3 20,0 46,7 7 12 8 8 3 7

BÀN LUẬN

Việc thành lập khoa nhi, nhiễm riêng nhằm  khám và điều trị tốt các trường hợp SXH, cũng  như đầu tư cho khoa săn sóc tăng cường để có  khả năng điều trị các trường hợp SXH nặng độ  III‐IV vẫn chưa được triển khai đồng bộ, có thể  do  nhiều  nguyên  nhân  như  thiếu  sự  đầu  tư,  thiếu nhân sự đặc biệt là ở các bệnh viện tư.

Về tình hình sốt Dengue, SXHD

Về phương tiện điều trị

Chúng  ta  dễ  dàng  nhận  thấy  các  bệnh  viện  đều  có  tiếp  nhận  khám  và  điều  trị  sốt  Dengue,  SXHD độ I, II, III riêng các trường hợp SXH độ  IV thì hiện tại chưa có đơn vị nào tiếp nhận điều  trị  mà  chỉ  tiến  hành  xử  trí  ban  đầu  và  chuyển  viện ngay lên tuyến trên.

Các bệnh viện đều có máy đo huyết áp, tuy  nhiên  chỉ  có  46,7%  bệnh  viện  được  trang  bị  Brassard các cỡ, điều này cần được lưu ý  và việc  trang bị đầy đủ kích cỡ các Brassard cho các đơn  vị  là  rất  cần  thiết  giúp  cho  việc  chẩn  đoán  và  phân độ SXH được chính xác hơn.

Về cơ sở vật chất

Có  93,3%  bệnh  viện  có  xét  nghiệm  công  thức máu và đếm tiểu cầu, nhưng chỉ có 53,3%  bệnh  viện  được  trang  bị  máy  quay  Hct  đây  là  một  trong  những  khó  khăn  của  các  bệnh  viện  trong việc chẩn đoán SXH.

Các  bệnh  viện  đều  không  có  phòng  khám  SXH riêng mà sử dụng phòng khám chung để  khám, thực tế này thấy ở hầu hết các bệnh viện  công  và  tư  trong  tổng  số  15  bệnh  viện  được  khảo sát. Nếu điều này được cải thiện  thì công  tác  khám  sàng  lọc  bệnh  nhân  SXH  sẽ  có  hiệu  quả hơn.

Đa số các bệnh viện có phác đồ điều trị SXH  các độ, có tiêu chuẩn truyền dịch và tiêu chuẩn  xuất viện. Mặc dù vậy vẫn còn một tỉ lệ thấp các  bệnh viện chưa có đủ tập trung ở các bệnh viện  tư do đó khi tiếp nhận những trường hợp nghi  ngờ SXH sẽ chuyển viện lên tuyến trên.

Vẫn còn một tỉ lệ thấp các bệnh viện không  có  phòng  lưu  (13,3%),  không  có  tiêu  chuẩn  nhập  viện  (20%),  không  có  dấu  hiệu  khám  ngay  (13,3%),  không  có  hẹn  tái  khám  (13,3%),  đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến  việc  chăm  sóc  và  theo  dõi  các  trường  hợp  có  diễn tiến nặng.

Tỉ  lệ  bệnh  viện  có  máy  quay  Hct  chưa  cao  (53%), điều này ảnh hưởng phần nào đến công  tác theo dõi và điều trị cho bệnh nhân SXH. Về  trang  bị  thuốc,  dịch  truyền  các  loại  và  các  phương tiện hồi sức trong điều trị SXH nặng đa  số  bệnh  viện  đều  được  trang  bị  tuy  nhiên  hiện  vẫn  chưa  sử  dụng  hiệu  quả  do  các  đơn  vị  hầu  như  không  giữ  điều  trị  các  trường  hợp  SXH

Về  phương  diện  truyền  thông  giáo  dục  sức  khỏe  thì  đa  số  có  tờ  bướm  và  tranh  ảnh  tuyên  truyền, tuy nhiên tỉ lệ bệnh viện có video tuyên  truyền  còn  thấp  (20%)  mà  đây  lại  là  hình  thức  truyền  thông  dễ  nhớ  cho  bệnh  nhân  và  thân

337

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  nặng độ III, IV. Thủ thuật đo huyết áp xâm lấn  hiện  nay  vẫn  chưa  được  đơn  vị  nào  triển  khai  cũng phù hợp với tình hình tiếp nhận và điều trị  các trường hợp SXH năng tại các đơn vị.

Số cán bộ y tế tham gia tập huấn còn ít , một  số bệnh viện còn chưa có đủ các phương tiện kỹ  thuật trong chẩn đoán xác định SXH, đặc biệt là  tại các bệnh viện tư.

Về nhân sự và khả năng chuyên môn

KIẾN NGHỊ

Trung  bình  tại  mỗi  bệnh  viện  có  khoảng  5  bác  sĩ  tham  gia  điều  trị  SXH  và  11  điều  dưỡng  tham  gia  chăm  sóc,  theo  dõi  bệnh  nhân  SXH,  đây quả là một con số không cao. Trong trường  hợp  dịch  bệnh  diễn  ra,  số  bệnh  nhân  gia  tăng,  bệnh  nặng  nhiều  thì  tình  trạng  quá  tải  sẽ  dễ  dàng xảy ra làm ảnh hưởng đến chất lượng điều  trị,  khi  đó  việc  chuyển  tuyến  lại  càng  gia  tăng  gây quá tải cho các bệnh viện tuyến trên(4).

Cần phân cấp trong chẩn đoán và điều trị sốt  Dengue, SXHD, qui định rõ một số đơn vị  cần  có  phòng  khám  tiếp  nhận  theo  dõi  sát  các  trường  hợp  sốt  Dengue  và  sốt  xuất  huyết  Dengue độ I, II với các trang thiết bị cơ bản cần  thiết.  Tăng  cường  huấn  luyện  cho  độ  ngũ  chuyên  môn  về  phác  đồ  điều  trị  sốt  Dengue,  SXHD. Đồng thời trang bị thêm qui trình và kỹ  năng  chuyển  viện  an  toàn  đối  với  bệnh  nhân  SXH.  Một  số  bệnh  viện  có  khoa  săn  sóc  tăng  cường  cần  được  hỗ  trợ  về  trang  thiết  bị,  huấn  luyện chuyên môn chuyển giao một số kỹ thuật  để có khả năng điều trị các trường hợp sốt xuất  huyết nặng góp phần nâng cao chất lượng điều  trị  tại  tuyến  trước  và  giúp  giảm  tải  cho  tuyến  sau.

Số lượng 4 bác sĩ và 4 điều dưỡng tham  gia tập huấn về công tác SXH trong năm là một  con  số  quá  ít.  Chính  vì  vậy  để  nâng  cao  chất  lượng  công  tác  khám  chữa  bệnh  và  cập  nhật  kiến thức mới các bệnh viện cần quan tâm nhiều  hơn trong việc cử cán bộ thường xuyên và luân  phiên  đi  học  các  lớp  tập  huấn  do  tuyến  trên  tổ  chức.  Bên  cạnh  đó  các  bệnh  viện  cũng  cần  tổ  chức  tập  huấn  tại  chổ  cho  các  cán  bộ  y  tế  để  thường xuyên cập nhật kiến thức trong công tác  chẩn đoán và điều trị SXH.

Hiện  nay,  tình  hình  dịch  bệnh  sốt  Dengue,  SXHD ngày càng gia tăng, chính vì vậy các bệnh  viện cần chú ý cử cán bộ y tế trực tiếp tham gia  điều trị theo dõi bệnh sốt xuất huyết dự các lớp  huấn luyện, cập nhật phác đồ mới do các bệnh  viện tuyến trên tổ chức cũng như gởi cán bộ y tế  lên học tập và thực hành điều trị ngay tại bệnh  viện  tuyến  trên  để  có  thể  nâng  cao  năng  lực  chuyên môn và đảm bảo chăm sóc và điều trị tốt  hơn cho bệnh nhân SXH.

Khả năng tiếp nhận điều trị các trường hợp  SXH nặng của các đơn vị còn ở tỉ lệ thấp vì tỉ lệ  bệnh viện có khả năng chích CVP là 54%, có thể  đặt  Catheter  47%  và  có  khả  năng  bộc  lộ  tĩnh  mạch  là  20%,  đây  là  những  con  số  phản  ánh  đúng thực trạng hiện tại trong việc điều trị SXH  nặng tại các đơn vị.

KẾT LUẬN

Các  bệnh  viện  quận/huyện  cần  được  nâng  cao  năng  lực  và  uy  tín  trong  công  tác  điều  trị  SXHD. Tăng cường về nhân sự và chuyên môn  cũng  như  cơ  sở  vật  chất  cho  khoa  nhi,  khoa  nhiễm  để  thu  hút  bệnh  nhân  trong  đó  có  bệnh  nhi  đến  khám  và  đồng  ý  điều  trị  tại  các  bệnh  viện  quận/huyện  nhằm  tránh  sự  quá  tải  không  cần thiết cho các bệnh viện tuyến trên.

Trước  mắt,  trong  những  trường  hợp  khó  khăn về điều trị hoặc chuyển viện các đơn vị cần  tăng  cường  trao  đổi  thông  tin  hỗ  trợ  trực  tiếp  công tác khám và điều trị sốt xuất huyết qua số

Qua khảo sát thực trạng khám và điều trị sốt  Dengue, SXHD tại 15 bệnh viện đa khoa trên điạ  bàn thành phố Hồ Chí Minh, nhận thấy rằng các  đơn vị còn nhiều khó khăn như chưa có phòng  khám  riêng,  thiếu  nhân  sự,  một  số  bệnh  viện  chưa  thành  lập  khoa  nhi,  khoa  nhiễm  riêng  do  đó vẫn chủ yếu tiếp nhận khám và điều trị các  trường  hợp  SXH  độ  I  và  II.  Các  khoa  săn  sóc  tăng cường hiện tại vẫn chưa có khả năng giữ và  điều trị các trường hợp SXH nặng độ IV.

338

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

3.

4.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  điện  thoại  đường  dây  nóng  24/24  của  các  bệnh  viện tuyến cuối gồm bệnh viện Nhi Đồng 2, Nhi  Đồng 1 và bệnh viện Nhiệt Đới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

5.

2.

Cục  Quản  Lý  Khám  Chữa  Bệnh‐  Bộ  y  tế  (2009).  Rút  kinh  nghiệm  tử  vong.  Rút  kinh  nghiệm  công  tác  điều  trị  sốt  Dengue sốt xuất huyết Dengue 2009, 96‐102  Hà Mạnh Tuấn (2008). Chẩn đoán, điều trị sốt Dengue và sốt  xuất huyết Dengue. Phác đố điều trị nhi khoa 2008, 587‐598.  Nhà xuất bản y học Thành Phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Xuyên (2009). Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị sốt  Dengue sốt xuất huyết Dengue, 13‐27. Nhà xuất bản y học Hà  Nội   Viện  Pasteur  Tp.  HCM,  dự  án  phòng  chống  sốt  Dengue  sốt  xuất huyết Dengue khu vực phía nam (03/2010). Nhận định  tình hình sốt xuất huyết 2009 dự báo năm 2010. Báo cáo tổng  kết  hoạt  động  2009  và  kế  hoạch  2010  phòng  chống  sốt  xuất  huyết khu vực phía Nam, 38‐39  Viện  Pasteur  Tp.  HCM,  dự  án  phòng  chống  sốt  Dengue  sốt  xuất huyết Dengue khu vực phía nam (08/2010). Những khó  khăn  trong  chẩn  đoán  và  điều  trị  sốt  xuất  huyết  tuyến  xã,  ,huyện,  tỉnh  Bến  Tre.  Phối  hợp  giữa  dự  phòng  và  điều  trị  trong công tác giám sát, thống kê báo cáo bệnh Dengue khu  vực phía Nam 2010, 24 ‐ 44

339

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI HÀNH VI DÙNG CHUNG BƠM KIM TIÊM  Ở NAM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY TỈNH ĐỒNG NAI

Nguyễn Vũ Thượng*, Nguyễn Duy Phúc*, Khưu Văn Nghĩa*,

Hồ Hoàng Cảnh**, Trần Nguyên Đức***,  Trần Phúc Hậu*, Trần Ngọc Hữu*

TÓM TẮT

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm (BKT) và các yếu tố liên quan ở nam nghiện chích ma

túy (NCMT) tại Đồng Nai.

Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 400 nam NCMT tại Đồng Nai

trong năm 2010. Người NCMT được phỏng vấn về một số yếu tố xã hội và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV.

Kết quả:Tỷ lệ dùng chung BKT là 14,3%. Phân tích hồi qui đa biến cho thấy NCMT có tuổi từ 25‐29, theo  1 tôn giáo nào đó và có kiến thức cần thiết về HIV thì có khuynh hướng ít dùng chung BKT hơn. Tuy nhiên,  NCMT từng đến xét nghiệm HIV, tự nhận thức mình thuộc nhóm có nguy cơ, nhận không đầy đủ BKT hoặc  nhận đủ nhưng có bỏ tiền để mua thêm thì có xu hướng dùng chung BKT nhiều hơn.

Kết luận: Cần duy trì, tăng cường các chương trình giáo dục và can thiệp giảm tác hại (BKT sạch) ở người

NCMT, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố liên quan với dùng chung BKT được tìm thấy trong nghiên cứu này.

Từ khóa: NCMT, dùng chung BKT, HIV

ABSTRACT

CORRELATES OF NEEDLE SHARING AMONG MALE INJECTING DRUG USERS IN DONG NAI

Nguyen Vu Thuong, Nguyen Duy Phuc, Khuu Van Nghia, Ho Hoang Canh, Tran Nguyen Duc,

Tran Phuc Hau, Tran Ngoc Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 341 ‐

345

Objectives:  To  determine  the  prevalence  of  needle  sharing  and  its  correlates  among  male  injecting  drug

users (IDUs) in Dong Nai.

Methods:  A  cross‐sectional  study  recruited  400  male  IDUs  living  in  Dong  Nai  in  2010.  Face‐to‐face

interviews were conducted for collecting socio‐demographical characteristics and HIV risk behavior data.

Results: The prevalence of needle sharing was 14,3%. Age 25‐29 (versus 16‐24), being  religious,  having  necessary HIV knowledge were less likely to share needles. However, being ever tested with HIV, perceiving high  risk, receiving insufficient amount of syringes or payment for syringes were more likely to share needles.

Conclusions: It is necessary to strengthen health education and harm reduction programs (clean syringes)

in IDUs, especially considering the correlates of needle sharing found in this study.

Keywords:  IDU, needle sharing, HIV

ĐẶT VẤN ĐỀ

tiêm chích có liên quan đến lây truyền HIV gồm  dùng chung BKT và thiết bị tiêm chích như bông  băng,  nước  rửa  BKT.  Trên  thế  giới,  các  yếu  tố  liên quan đến tiêm chính không an toàn gồm các  đặc  tính  cá  nhân,  tiền  sử  dùng  ma  túy,  tuổi  và  loại thuốc.(1, 3, 5, 8) Một nghiên cứu trên 630 NCMT

Tiêm  chích  ma  túy  vẫn  tiếp  tục  góp  phần  quan  trọng  vào  đại  dịch  HIV  trên  toàn  cầu,  trong  đó  Việt  Nam  với  tỉ  lệ  hiện  nhiễm  HIV  ở  người NCMT rất cao, chiếm tỉ lệ cao nhất tại Hải  Phòng (66%) và Quảng Ninh (59%)(2). Thực hành

***: BQLDA PC HIV/AIDS tỉnh Đồng Nai

∗ Viện Pasteur Tp. HCM     **: TTPC HIV/AIDS Đồng Nai   Tác giả liên lạc: Ths.BS. Nguyễn Vũ Thượng      ĐT: 0903121112  Email: nguyenthuong@yahoo.com  340

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Stata 10. Phân tích hồi qui  đơn  biến  và  đa  biến  được dùng để xác định các yếu tố liên quan với  việc dùng chung BKT.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Một số đặc tính xã hội và hành vi nguy cơ ở  nam NCMT

Bảng  1,  mô  tả  đặc  tính  xã  hội  và  hành  vi  ở  nam NCMT. Hơn 2/3 nam NCMT tại Đồng Nai  dưới 30. Khoảng ¼ có trình độ học vấn thấp và  gần 75% đang sống độc thân hoặc ly thân/ly dị.  Gần 41% có thu nhập dưới 2 triệu đồng/1 tháng.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  ở  Tp.  HCM  cho  thấy  những  người  chích  ngoài  đường hoặc được người bán ma túy chích có xu  hướng  hay  dùng  chung  BKT(6).  Trong  nghiên  cứu 514 nam và 6 nữ NCMT ở Hải Phòng, 61%  đối  tượng  có  chích  ma  túy  trong  đó  68%  dùng  chung BKT. Các yếu tố có liên quan đến nhiễm  HIV  là  dùng  chung  BKT  (OR:4,12),  chích  MT  trên  31  lần/tháng  (OR:  2,37)(10).  Nghiên  cứu  398  NCMT  nữ  dùng  heroin  ở  Đài  Loan  cho  thấy  75,1% dùng chung BKT, 54,8% chung BKT trong  tháng  trước  khi  được  phỏng  vấn,  27,1%  chung  BKT  trong  lần  dùng  heroin  gần  đây  nhất.  Đối  tượng  dùng  heroin  lần  đầu  khi  còn  trẻ  có  khuynh hướng xài chung BKT nhiều hơn người  dùng heroin muộn(4).

Gần 97% nam NCMT tại Đồng Nai có nghe  nói  về  HIV  nhưng  chỉ  hơn  55%  là  có  kiến  thức  cần thiết và phản đối quan niệm sai lầm về HIV.  Sử  dụng  ma  túy  ở  NCMT  cũng  khá  phức  tạp.  Loại ma túy phổ biến nhất vẫn là hê‐rô‐in (89%)  và thuốc phiện (11%). Thời gian sử dụng ma túy  trung  bình  là  hơn  5  năm.  Tần  suất  tiêm  chích  trung  bình  1  lần/ngày;  14,3%  dùng  chung  BKT  trong  6  tháng  qua.  Loại  BKT  3ml  được  thích  nhất (76%). Tỷ lệ biết và gặp gỡ ≥ 5 bạn chích lần  lượt là 70% và 53,3%.

Khoảng  1/3  nam  NCMT  có  QHTD  với  PNMD  và  tỷ  lệ  dùng  BCS  trong  lần  gần  đây  nhất là 76,3% với PNMD, 43,3% với bạn tình bất  chợt và 32,3% với vợ/người yêu.

Giám sát trọng điểm khu vực phía Nam cho  thấy Đồng Nai là một trong những tỉnh có tỷ lệ  hiện  nhiễm  HIV  cao  trong  nhóm  NCMT  cao  nhất khu vực(11). Các can thiệp trên nhóm NCMT  đã được cơ quan chức năng tỉnh triển khai rộng  khắp  nhưng  hiện  chưa  có  khảo  sát  nào  về  các  yếu tố liên quan với hành vi dùng chung BKT ở  quần  thể  này.  Do  đó,  việc  tìm  hiểu  các  yêu  tố  liên quan với hành vi dung chung BKT ở  quần  thể  NCMT  tại  Đồng  Nai  là  hết  sức  cần  thiết,  nhằm  cung  cấp  các  thông  tin  quan  trọng  trong  việc xây dựng các biện pháp can thiệp hiệu quả  hơn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chỉ 60% NCMT nhận đủ BKT và không phải  bỏ thêm tiền để mua trong 1 tháng qua và 36%  có  nhận  nhưng  có  lúc  phải  bỏ  tiền  mua  BKT.  Nguồn cung cấp BKT & BCS miễn phí chủ yếu  là  đồng  đẳng  viên  (hơn  65%).  Tỷ  lệ  người  NCMT  có  nhận  được  các  thông  tin,  tài  liệu  về  tiêm chích & tình dục an toàn chỉ là 35% trong 6  tháng  qua.  Hơn  1/2  nam  NCMT  tại  Đồng  Nai  không  biết  được  các  điểm  tư  vấn  xét  nghiệm  HIV  miễn  phí  trên  địa  bàn  của  tỉnh.  Chỉ  13,8%  đã từng làm xét nghiệm tại các điểm đó.

Nghiên  cứu  cắt  ngang,  được  thực  hiện  trên  400 nam NCMT tại Đồng Nai trong thời gian 7‐ 12/2010. Việc vẽ bản đồ các tụ điểm NCMT được  thực hiện nhằm ước tính số người NCMT ở các  tụ  điểm  thuộc  Biên  Hòa,  Long  Khánh,  Long  Thành  và  Trảng  Bom.  Cỡ  mẫu  điều  tra  tại  mỗi  huyện thị được phân bố theo tỷ lệ kích cỡ quần  thể  NCMT  tại  từng  huyện  thị  và  cỡ  mẫu  phân  bổ cho từng huyện/thị sẽ được phân bổ cho tất  cả các tụ điểm theo tỷ lệ kích cỡ quần thể NCMT  tại từng tụ điểm.

Một số các đặc tính ở nam NCMT tỉnh Đồng Nai,  2010

Đặc tính n

Tuổi 399

Người NCMT được phỏng vấn về các yếu tố  dân số xã hội và hành vi liên quan HIV, đặc biệt  hành  vi  tiêm  chích  ma  túy.  Số  liệu  được  nhập  bằng  phần  mềm  Epidata  3.1,  phân  tích  bằng

16-24 tuổi 25-29 tuổi 30-59 tuổi Tỷ lệ (%) 45,4 22,8 31,8

341

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc tính n Đặc tính n Tỷ lệ (%)

400 34,8 400 Trình độ học vấn

355 tháng qua Được nhận tờ rơi về TCAT/6 tháng qua Tình trạng nhận BKT/tháng qua 400 Tôn giáo

400 Nhận đủ và không bỏ tiền mua Đủ nhưng cũng có lúc bỏ tiền mua Nhận không đầy đủ Tình trạng gia đình 400 59,2 36,3 4,5 12,3 Tỷ lệ (%) 26,9 16 – 59 25,0 47,8 27,3 75,7 24,3 25,0 75,0

400 400 Hiện đang sống cùng 90,0 10,0 Đã từng vào trung tâm cai nghiện Tự nhận thức nguy cơ nhiễm HIV của bản than

32,8 29,0 30,0 8,3 Không có nguy cơ Có nguy cơ thấp Có nguy cơ cao Không biết 376

Ghi chú: 1 người NCMT được cho là có kiến thức  cần thiết về HIV khi trả lời đúng 5 câu sau:

QHTD  chung  thủy  với  một  bạn  tình  làm

giảm nguy cơ lây nhiễm HIV;

Luôn sử dụng BCS đúng cách khi QHTD có

Thu nhập trung bình hàng tháng (triệu đồng) Trung bình Biến thiên Mù chữ/cấp 1 Cấp 2 Từ cấp 3 trở lên Có đạo/thờ ông bà Không theo đạo nào Đang có vợ/sống chung không hôn nhân Độc thân/Góa/Ly dị/Ly thân Người thân/vợ/bạn gái Một mình/bạn bè/lang thang ≥ 2 triệu < 2 triệu Trung bình 397 Uống rượu bia trong tháng qua

thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV;

Không uống Uống ít hơn 1 lần/ngày Uống hằng ngày Có 400 59,0 41,0 2,2 26,2 62,7 11,1 56,5

Nhìn một người có bề ngoài khỏe mạnh thì  không  thể  biết  người  đó  có  bị  nhiễm  HIV  hay  không;

400 Có kiến thức cần thiết về HIV (CSDP-21) Số bạn chích biết được

Muỗi  hay  côn  trùng  cắn  không  làm  lây

truyền HIV;

Ăn chung với người nhiễm thì không bị lây

386 Thời gian tiêm chích

nhiễm HIV

Các yếu tố liên quan với hành vi dùng chung

400 Tần suất tiêm chích/ngày

BKT ở nam NCMT

400 Loại ma túy tiêm chích/tháng qua

400

Loại BKT thích dùng nhất/tháng qua

400 Dùng chung BKT/6 tháng qua 400

30,5 69,5 11,4 57,8 42,2 4,7 78,3 21,8 1,0 89,0 11,0 5,4 23,5 76,0 0,5 14,3 85,8 28,0 6,0 66,0 Sử dụng BCS khi QHTD với PNMD trong 12 tháng qua

<5 người ≥ 5 người Trung bình < 5 năm ≥ 5 năm Trung bình < 2 lần ≥ 2 lần Trung bình Hê rô in Thuốc phiện Khác (giảm đau, an thần) 1ml 3ml 5ml Có Không bao giờ Luôn sử dụng Sử dụng không thường xuyên Không QHTD/không QH với MD 400 13,8

Phân tích hồi qui đa biến cho thấy NCMT có  tuổi  từ  25‐29  (so  với  16‐24:  OR=0,2;  KTC  95%:  0,1‐0,6),  theo  1  tôn  giáo  nào  đó  (OR=0,3;  KTC95%: 0,1‐0,8), có kiến thức cần thiết về HIV  (OR=0,3;  KTC95%:  0,1‐0,7)  có  xu  hướng  dùng  chung  BKT  ít  hơn.  Nam  NCMT  từng  đến  xét  nghiệm  HIV  (OR=3,5;  KTC95%:  1,0‐12,6),  tự  nhận  thức  mình  thuộc  nhóm  có  nguy  cơ  thấp  (OR=20,1; KTC95%: 4,0‐100,5) hoặc nguy cơ cao  (OR=26,8;  KTC95%:  4,7‐151,4),  nhận  không  đầy  đủ BKT (OR=60; KTC95%: 10,5‐344,1) hoặc nhận  đủ  nhưng  có  bỏ  tiền  để  mua  thêm  (OR=4,1;  KTC95%:  1,6‐10,7)  có  xu  hướng  dùng  chung  BKT nhiều hơn.

400 49,0 Đã từng xét nghiệm HIV tại các cơ sở tự nguyện tại Đồng Nai Được tuyên truyền về TCAT/6

342

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Biến độc lập

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Các yếu tố liên quan đến việc dùng chung BKT ở  nam NCMT tại tỉnh Đồng Nai  Biến độc lập

Đa biến Tự nhận thức nguy cơ nhiễm HIV của bản thân p

Tuổi <0,0 01 <0,0 01 0,06

0,00 7 0,1

Tình trạng nhận BKT/tháng qua Trình độ học vấn Không có nguy cơ Có nguy cơ thấp Có nguy cơ cao Không biết Nhận đủ và không bỏ tiền mua Đủ nhưng cũng có bỏ tiền mua Nhận không đầy đủ 0,1 0,06

Đa biến 1 20,1(4,0- 100,5) 26,8(4,7- 151,4) 7,3(0,9- 57,1) 1 4,1(1,6- 10,7) 60,0(10,5 -344,1) - 0,00 4 <0,0 01 - Đơn biến 1 12,9(3,8- 44,0) 9,1(2,6- 31,2) 9,5(2,2- 40,3) 1 2,9(1,4- 6,1) 15,2(4,9- 46,9) 1 0,4(0,2- 0,7) Không Có Tình trạng gia đình - ORHC (95% CI) 1 0,2(0,1- 0,6) 0,4(0,1- 1,2) 1 2,5(0,8- 7,9) 3,5(0,9- 13,1) - Đơn biến ORthô (95% CI) 1 0,6(0,3- 1,3) 0,7(0,4- 1,3) 1 1,2(0,6- 2,3) 0,9(0,4- 1,9) 1 1,3(0,7- 2,6) - - 1 0,4(0,2- 0,8) Không Có Tôn giáo 0,02 Được tuyên truyền về TCAT/6 tháng qua Được nhận tờ rơi về TCAT/6 tháng qua Sử dụng heroin 1 0,8(0,4- 1,5) 1 0,3(0,1- 0,8) - - Không Có - Hiện đang sống - - - Vào trung tâm cai nghiện 1 1,1(0,7- 1,7) Không Có

Thu nhập Loại BKT thích dùng - - 0,8 1ml 3ml/5ml 1 3,8(0,9- 16,3) 1 1,9(0,9- 4,0) 1 0,5(0,3- 0,9) 16 - 24 tuổi 25 - 29 tuổi ≥ 30 tuổi THPT/ĐH/CĐ Trung học cơ sở Mù chữ/tiểu học Có vợ/sống chung không hôn nhân Độc thân/góa/ly thân/ly dị Không theo tôn giáo nào Theo 1 tôn giáo nào đó Người thân/vợ/bạn gái Một mình/bạn bè/lang thang ≥ 2 triệu < 2 triệu

Chú thích: HC=Hiệu chỉnh, ‐:Không nằm trong mô  hình cuối cùng; KTC=Khoảng tin cậy

- 1 0,9(0,4- 2,2) - Uống rượu bia/tháng qua

BÀN LUẬN

0,2 Thời gian tiêm chích ma tuý Không uống Uống ít hơn 1 lần/ngày Uống hằng ngày < 5 năm ≥ 5 năm

Dùng chung BKT là hành vi nguy cơ cao  trong  việc  lan  truyền  HIV  trong  nhóm  NCMT.  Tại  Đồng  Nai,  tỷ  lệ  dùng  chung  BKT  trong  6  tháng qua hơn 14% và trong lần tiêm chích gần  gần đây nhất là 3,3%, thấp hơn nhiều so với các  tỉnh Tp. HCM, Cần Thơ, An Giang.(2)

Số lần chích/ngày 0,1

- 1 0,5(0,2- 1,4) 1 2,2(0,8- 5,6) -

Sử dụng BCS khi QHTD với PNMD/12 tháng qua 1 0,8(0,4- 1,4) 1 1,1(0,6- 2,2) 1,0(0,4- 2,8) 1 0,8(0,4- 1,4) 1 1,5(0,8- 2,8) 1 2,6(1,0- 7,0) 0,7(0,4- 1,3) < 2 lần ≥ 2 lần Luôn sử dụng Sử dụng không thường xuyên Không QHTD/không QH với MD

Trong  nghiên  cứu  này,  tuổi  trẻ  dường  như  dùng chung BKT nhiều hơn. Việc theo một tôn  giáo  nào  đó  cũng  liên  quan  với  việc  ít  dùng  chung  BKT  ở  nam  NCMT  là  một  yếu  tố  gợi  ý  việc  phối  hợp  với  tôn  giáo  trong  giáo  dục  sức  khỏe,  giảm  nguy  cơ  lây  nhiễm  HIV  ở  người  NCMT.

Số bạn chích biết được 0,08

<5 người ≥ 5 người Không

Kiến thức cần thiết về HIV

Chỉ hơn một nửa nam NCMT trong nghiên  cứu  này  có  đủ  kiến  thức  cần  thiết  về  HIV  mặc  dù kiến thức này tỏ ra là yếu tố bảo vệ giúp cho  nam  NCMT  ít  dùng  chung  BKT  hơn.  Điều  này

0,00 8 0,05 Từng xét nghiệm HIV tại Đồng Nai 1 1,8(0,9- 3,5) 1 0,6(0,3- 1,1) 1 1,0(0,5- 2,3) Có Chưa từng Đã từng 1 2,6(0,9- 7,3) 1 0,3(0,1- 0,7) 1 3,5(1,0- 12,6)

343

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

Nghiên cứu Y học  cho thấy cần tăng cường hơn nữa trong việc giáo  dục  tuyên  truyền  kiến  thức  phòng  chống  HIV  cho người NCMT. Việc từng xét nghiệm HIV và  nhận  thức  có  nguy  cơ  nhiễm  HIV  đều  có  xu  hướng dùng chung BKT nhiều hơn, điều này có  thể  do  người  NCMT  khi  dùng  chung  BKT  đã  nhận thức mình có nguy cơ nhiễm HIV hơn và  đi xét nghiệm HIV nhiều hơn.

4.

Battjes  RJ,  Leukefeld  CG,  Pickens  RW  (1992).  Age  at  first  injection and HIV risk among intravenuos drug users. Am  J Drug Alcohol Abuse, 18:263‐273  Bộ  Y  tế  (2006).  Kết  quả  chương  trình  giám  sát  kết  hợp  hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam  2005‐2006  Koester  S,  Booth  RE,  Zhang  Y  (1996).  The  prevalence  of  additional  injection‐related  HIV  risk  behaviors  among  injection  drug  users.  J  Acquir  Immune  Defic  Syndr  Hum  Retrovirol, 12:202‐207  Lee  TS‐H  (2005).  Prevalence  and  Related  Factors  of  Needle‐Sharing  Behavior  among  Female  Prisoners.  J  Med  Science, 25:027‐032

5. Marmor  M,  Des  Jarlais  DC,  Cohen  H,  et  al  (1987).  Risk  factors  for  infection  with  human  immunodeficiency  virus  among intravenous drug abusers in New York City. AIDS,  1:39‐44

7.

Đặc biệt trong nghiên cứu này, nam NCMT  nhận BKT không đầy đủ và hoặc có nhận nhưng  bỏ  thêm  tiền  túi  để  mua  thì  có  nguy  cơ  rất  cao  dùng chung BKT. Kết quả này cũng khá tương  đồng  với  một  số  nghiên  cứu  khác.(7, 12)  Mặc  dù,  chương  trình  phân  phát  BKT  tại  Đồng  Nai  đã  bao phủ khá toàn diện với gần 90% nhận được  BKT miễn phí trong 1 tháng qua. Tuy nhiên, hơn  40% chưa nhận đủ hay phải bỏ thêm tiền túi để  mua BKT, cũng là điều cần lưu ý vì có nguy cơ  dùng chung BKT nhiều hơn.

8.

9.

6. Nguyen Tran Hien, Le Truong Giang, Phan Nguyen Binh  & Wolffers I.(2000). The social context of HIV risk behavior  by  drug  injectors  in  Ho  Chi  Minh  City,  Vietnam.  AIDS  Care, 12:483‐495   Poudel KC, Poudel‐Tandukar K, Yasuoka J, Joshi AB,  Jimba  M (2010). Correlates of sharing injection equipment among  male injecting drug users in Kathmandu, Nepal. Int J Drug  Policy, 21(6):507‐10  Strathdee  SA,  Galai  N,  Safaiean  M,  et  al  (2001).  Sex  differences  in  risk  factors  for  HIV  seroconversion  among  injection  drug  users:  a  10‐year  perspective.  Arch  Intern  Med, 161:1281‐1288     Todd  CS,  Abed  AM,  Scott  PT,  Botros  BA,  Safi  N,  Earhart  KC,  Strathdee  SA  (2008).  Correlates  of  receptive  and  distributive  needle  sharing  among  injection  drug  users  in  Kabul, Afghanistan. Am J Drug Alcohol Abuse, 34(1):91‐100

Thiết  kế  cắt  ngang  được  sử  dụng  trong  nghiên cứu này gặp phải một số hạn chế do khó  giải thích các mối liên quan mang tính nhân quả.  Việc chọn mẫu dựa trên bản đồ điểm nóng còn  tùy  thuộc  nhiều  vào  “độ  bao  phủ”  của  bản  đồ  điểm  nóng.  Một  số  NCMT  có  thể  không  nằm  trong tụ điểm hay một số tụ điểm chưa cập nhật  được.

10. Tuan Anh Nguyen, Long Hoang Thuy, Vinh Quoc Pham,  Roger  Detels  (2001).  Risk  factors  for  HIV‐1  seropositivity  in  drug  users  under  30  years  old  in  Haiphong,  Vietnam.  Addiction, 96:405‐413

KẾT LUẬN

11. Viện  Pasteur  Tp.  HCM  &  Ban  điều  hành  Phòng  chống  HIV/AIDS  khu  vực  phía  Nam  (2010).  Hội  nghị  giao  ban  tổng kết các hoạt động năm 2009 và định hướng kế hoạch  hoạt  động  năm  2010  của  Ban  điều  hành  Phòng  chống  HIV/AIDS khu vực phía nam.

12. Wood E, Tyndall MW, Spittal PM, Li K, Hogg RS, Montaner  JS,  OʹShaughnessy  MV,  Schechter  MT  (2002).  Factors  associated with persistent high‐risk syringe sharing in the  presence  of  an  established  needle  exchange  programme.  AIDS, 16(6):941‐3.

Tỷ lệ nam NCMT dùng chung BKT tại Đồng  Nai  vẫn  ở  mức  trên  10%.  Việc  không  nhận  đủ  BKT là yếu tố liên quan mạnh nhất với hành vi  dùng chung BKT. Cần cân nhắc đến các yếu tố  liên quan với hành vi dùng chung BKT được tìm  thấy  trong  nghiên  cứu  này  khi  triển  khai  can  thiệp giáo dục truyền thông thay đổi hành vi ở  người NCMT.

344

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐẦU GAI THỂ THẦN KINH:  TỔNG HỢP Y VĂN VỀ BỆNH LÝ THẦN KINH DO LOÀI KÝ SINH TRÙNG  ĐANG BỊ LÃNG QUÊN

Huỳnh Hồng Quang∗, Triệu Nguyên Trung*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh do ấu trùng Gnathostoma spp. (Gnathostomiasis) là bệnh nhiễm trùng truyền từ động  vật sang người. Với xu hướng tăng du lịch quốc tế và dân di cư đến các vùng lưu hành bệnh nhiệt đới đã dẫn  đến xuất hiện các bệnh lý này trong điều kiện thời tiết ôn hòa. Bệnh có thể chia ra thành thể da niêm, phủ tạng và  mắt, tùy thuộc vào vị trí ấu trùng di chuyển đến. Đặc điểm lâm sàng nghiêm trọng nhất khi liên đới đến hệ thần  kinh trung ương.

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng bệnh nhân nhiễm Gnathostoma spp thần kinh.

Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo ca bệnh và tổng hợp dữ liệu nghiên cứu y văn.

Kết quả: Dựa vào 2 ca bệnh và tổng hợp y văn qua phân tích về mặt dịch tễ học, phương thức xâm nhập hệ

thần kinh trung ương, sinh lý bệnh, hình thái lâm sàng, dữ liệu chẩn đoán hình ảnh và lựa chọn điều trị.

Kết luận: Hiện tại, tỉ lệ nhiễm ấu trùng Gnathostoma spinigerum ở Việt Nam khá phổ biến, các thầy thuốc  nên chú ý vấn đề chẩn đoán phân biệt dựa trên nền khung tiêu chuẩn chẩn đoán đề nghị cho bệnh ấu trùng giun  đầu gai thể thần kinh.

Từ khóa:  Bệnh ấu trùng giun đầu gai thể thần kinh, Gnathostoma spinigerum

ABSTRACT

HUMAN NEUROGNATHOSTOMIASIS CASES REPORT: MEDICAL LITERATURE REVIEW ON A  NEGLECTED PARASITOSIS OF THE  NERVOUS SYSTEM

Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 346 – 353

Background: Gnathostomiasis is a zoonotic helminthic infection caused by larvae of Gnathostoma spp  Increased  international  travel  to  areas  endemic  for  these  foodborne  parasites  and  migration  from  tropical  areas have led to the emergence of these diseases in temperate climates. Gnathostomiasis can be divided into  cutaneous,  visceral,  and  ocular  forms,  depending  on  the  site  of  larval  migration.  The  most  severe  manifestation involves infection of the central nervous system (CNS).

Objectives: To describe cases of neurognathostomiasis with clinical and paraclinical features

Methods: human neurognathostomiasis report and meta‐analyzed studies review.

Result: By our two cases report, we reviewed the medical literature on neurognathostomiasis and analyzed  epidemiological  aspects,  modes  of  CNS  invasion,  pathophysiology,  clinical  features,  neuroimaging  data,  and  treatment options.

Conclusion: Nowadays, Vietnam with many places where such infections are not rarely seen by physicians  and  thus  should  be  considered  in  differential  diagnoses  on  the  basis  of  proposed  diagnostic  criteria  for  neurognathostomiasis.

∗ Viện Sốt rét‐KST‐CT Quy Nhơn   Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang      ĐT: 0905103496

Email: huynhquangimpe@yahoo.com

345

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Keywords:  Neurognathostomiasis, Gnathostomiasis, Gnathostoma spinigerum

ĐẶT VẤN ĐỀ

ấu

Bệnh  do

spinigerum là loài thường gặp nhất tại châu Á.  Nhiễm  trùng  ở  người  với  G.  hispidum,  G.  doloresi  và  G.  nipponicum  được  tìm  thấy  chỉ  ở  Nhật  Bản.  Tại  châu  Mỹ,  loài  G.  binucleatum  được  chứng  minh  là  tác  nhân  gây  bệnh  duy  nhất ở người. Người nhiễm phải các ấu trùng  do ăn sống hoặc thức ăn nấu chưa chín từ cá  nước ngọt, gà và ếch. Người là vật chủ tình cờ  không  thích  hợp  để  giun  phát  triển  đến  giai  đoạn trưởng thành, do vậy bệnh lý thường do  ấu trùng di chuyển.  TRÌNH BÀY CA BỆNH

Ca bệnh thứ nhất

trùng  giun  đầu  gai  (Gnathostomiasis)  là  bệnh  truyền  từ  động  vật  sang  con  người  do  nhiễm  phải  ấu  trùng  giai  đoạn  3  của  Gnathostoma spp.  Thông  qua  đường  thực phẩm. Hầu hết các triệu chứng nặng có liên  quan  đến  thể  bệnh  lý  thần  kinh  trung  ương  thường  gọi  là  “neurognathostomiasis”.  Mặc  dù  bệnh  lưu  hành  ở  châu  Á  và  châu  Mỹ  Latinh,  song hầu hết những trường hợp bệnh ấu trùng  giun đầu gai thể thần kinh (GĐGTTK) lại được  báo  cáo  từ  Thái  Lan.  Dù  tỷ  lệ  mắc  bệnh  và  tử  vong cao, nhưng GĐGTTK lại chưa được lưu ý  so  với  bệnh  nhiễm  Gnathostoma  spp  ở  thể  da  niêm mạc, điều này có thể vì GĐGTTK vẫn chưa  được  chú  trọng  và  ít  được  báo  cáo.  Tuy  nhiên,  thời gian gần đây bệnh được báo cáo nhiều trên  những người châu Âu đi du lịch tại các quốc gia  bệnh lưu hành. Bên cạnh đó, chúng tôi tổng hợp  y văn về bệnh lý GĐGTTK và phân tích về mặt  dịch  tễ  học  cũng  như  phân  bố  địa  lý,  phương  thức  xâm  nhập  vào  hệ  thần  kinh  trung  ương  (TKTƯ),  sinh  lý  bệnh,  đặc  điểm  lâm  sàng,  dữ  liệu  hình  ảnh  chẩn  đoán  thần  kinh  và  các  lựa  chọn điều trị. Dựa trên nền dữ liệu dịch tễ học,  triệu  chứng  lâm  sàng,  chẩn  đoán  hình  ảnh  và  các thông số cận lâm sàng, nhằm đưa ra đề nghị  tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh GĐGTTK.

Bệnh nhân Tống T.S, nam, 52 tuổi làm nghề  thuốc bắc, vào viện với triệu chứng liệt nhẹ 2 chi  dưới trong vòng 2 ngày  trước  khi  nhập  viện  vì  có  dấu  hiệu  xuất  huyết  não  không  rõ  nguyên  nhân. Tiền sử du lịch đến nhiều quốc gia Trung  Quốc,  Thái  Lan,  Singapore,  Pháp,  Đức,  Bỉ,  Tây  Ban Nha, Hà Lan và đặc biệt không có cao huyết  áp.  Lâm  sàng  không  biểu  hiện  rối  loạn  ý  thức,  không sốt; các thông số cận lâm sàng không có  gì đặc biệt ngoại trừ tăng chỉ số bạch cầu ái toan  lên đến 22.6%, xét nghiệm dịch não tủy có giảm  nhẹ  đường  và  tăng  bạch  cầu  ái  toan  17.5%  (cid:198)  nên  được  chẩn  đoán  sơ  bộ  ban  đầu  là  bệnh  do  ký sinh trùng ở hệ thần kinh. Chụp MRI và CT  cho hình ảnh vệt di chuyển và nhiều búi phình  mạch nội sọ, chuyển bệnh nhân vào tuyến trên,  xác  định  tác  nhân  qua  ELISA  với  G. spinigerum  dương tính với OD = 2.34, nồng độ IgE tăng gấp  5  lần  trị  số  bình  thường.  Thuốc  lựa  chọn  (albendazole  +  dexamethasone),  bệnh  nhân  hồi  phục hoàn toàn sau 78 ngày điều trị(1, 2).

Ca bệnh thứ hai

Nhiễm  ký  sinh  trùng  (KST)  qua  đường  thực  phẩm  thường  gặp  ở  các  quốc  gia  vùng  nhiệt đới ‐ nơi có bệnh lưu hành và thói quen  ăn  các  thịt,  cá  nước  ngọt  còn  sống  hoặc  chưa  nấu chín, đặc biệt là quần thể dân địa phương.  Trào  lưu  du  lịch  quốc  tế  đến  các  vùng  lưu  hành bệnh và sự di dân từ vùng nhiệt đới đến  nơi  khác  dẫn  đến  việc  xuất  hiện  các  bệnh  lý  này  tại  các  vùng  ôn  đới  vốn  dĩ  bệnh  rất  hiếm  xuất hiện, vì thế các thầy thuốc lâm sàng ít khi  nghĩ đến bệnh để đặt ra chẩn đoán phân biệt,  bệnh  giun  đầu  gai  do  ăn  phải  ấu  trùng  giai  đoạn  3  của  Gnathostoma  spp.  Đến  này,  có  ít  nhất 13 loài giun đầu gai được xác định, với 5  loài  ghi  nhận  gây  bệnh  ở  người.  Loài  G.

Bệnh nhân nữ, 26 tuổi làm nghề tóc, sống tại  Qui Nhơn, có triệu chứng một vết phù nhẹ từng  đợt  mi  mắt  (T)  khoảng  3cm,  đau  nhưng  không  ngứa,  không  đỏ  trong  6  tháng  trước  khi  nhập  viện.  Thói  quen  hay  ăn  các  loại  hải  sản  sống  cùng  với  mù  tạt,  kể  cả  ốc.  Hai  ngày  trước  khi  nhập viện có nhức đầu nhiều, mờ mắt, song thị,  buồn  nôn,  đại  tiện  phân  thường,  sau  24  giờ  có

346

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Lịch  sử  của  thể  bệnh  giun  đầu  gai  thể  thần  kinh

Ca  bệnh  đầu  tiên  viêm  não  màng  não  do  nhiễm  G.  spinigerum  được  báo  cáo  bởi  Daensvang  vào  năm  1949.  Sau  18  năm,  tác  giả   Chitanondh và Rosen trình bày bằng chứng xâm  nhập  vào  hệ  TKTƯ  của  ấu  trùng  G. spinigerum  từ các kết quả giải phẩu tử thi của một phụ nữ  Thái Lan 34 tuổi. Trong nghiên cứu tử thiết của  họ,  Boongird  và  cộng  sự  đã  mô  tả  ra  triệu  chứng lâm sàng của GĐGTTK, điều này đã hỗ  trợ rất nhiều cho các nghiên cứu tiến cứu và hồi  cứu  sau  này.  Với  sự  tiến  bộ  của  các  kỹ  thuật  chẩn  đoán  hình  ảnh  hiện  đại  và  phân  giải  cao  đã  cho  thấy  các  đường  đi  của  ấu  trùng  Gnathostoma  spp.  di  chuyển  trong  bệnh  GĐGTTK.  Dịch tễ học giun đầu gai thể thần kinh

Hầu  hết

+  dexamethasone

(albendazole

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  biểu  hiện  rối  loạn  ý  thức,  yếu  tê  tay  (P).  Khám  lâm sàng cho thấy tri giác u ám, sụp mi (P), yếu  nhẹ chi trên (P), không cứng cổ, buồn nôn, huyết  áp 100/55mmHg, mạch quay rõ 70 lần/ phút, sốt  nhẹ 380C. Chẩn đoán sơ bộ: TD viêm não màng  não  do  virus.  Xét  nghiệm  cận  lâm  sàng:  CTM  toàn  phần  có  tăng  bạch  cầu  chung  lên  14.000,  trong  đó  eosin  chiếm  ưu  thế  35.6%,  glucose  và  protein  máu  máu  bình  thường,  bilan  gan  mật,  lipid  trong  giới  hạn.  X‐quang  phổi  và  siêu  âm  bụng  không  bất  thường,  ngoại  trừ  có  sỏi  nhỏ  thận  (P).  Dịch  não  tủy  cho  dịch  trong  suốt,  hơi  vàng,  không  thấy  vi  khuẩn  và  chỉ  số  bạch  cầu  tăng cao 27.9%. Tuy nhiên, sau 38 giờ kể từ khi  nhập viện bệnh nhân mất ý thức (cid:198) chuyển sang  chẩn đoán bệnh do KST, xét nghiệm 6 loại giun  sán, kết quả dương tính với G. spinigerum 1/3200  (cid:198) chuyển điều trị hồi sức tích cực, chụp CT cho  hình  ảnh  phù  não  nhẹ,  hình  ảnh  di  chuyển  và  giống calci hóa tại 2 bán cầu. Phác đồ thuốc lựa  +  chọn  hydrocortisone  +  kháng  sinh  phổ  rộng),  bệnh  nhân tỉnh táo sau 14 ngày và hồi phục hoàn toàn  sau 5 tháng kể từ khi điều trị(4, 5).  BÀN LUẬN VÀ TỔNG HỢP Y VĂN

(241/248)  ca  được  xác  định  GĐGTTK trong y văn từ Thái Lan. Trong đó, 2  bệnh  nhân  nhiễm  ở  Lào,  1  ở  Nhật  Bản,  1  ở  Myanmar và 2 ở Hàn Quốc. Một bênh nhân có  đi du lịch đến Đông Nam Á và Nhật Bản, vì thế  nguồn dịch tễ nhiễm của trường hợp này không  thể  xác  định.  Thời  gian  ủ  bệnh  của  bệnh  GĐGTTK có thể dài đến 10 năm vì sự tồn tại kéo  dài  của  ấu  trùng  trong  các  mô  mềm  trước  khi  xâm  nhập  vào  hệ  TKTƯ,  điều  này  có  nghĩa  chúng  có  thể  xảy  ra  trên  những  người  dân  di  biến động trong một quốc gia mà không có lưu  hành bệnh này. Tất cả bệnh nhân báo cáo ở đây  đều nhiễm loại G. spinigerum. Cho dù bệnh giun  đầu gai ngày càng phát hiện nhiều ở ngoài châu  Á, đặc biệt ở Mexico, nhưng không thấy có báo  cáo ca bệnh tại các vùng khác. Sự xuất hiện của  các loài Gnathostoma khác ở châu Mỹ Latinh, có  tên là G. binucleatum sẽ là nguyên nhân cho giải  thích hiện tượng này(2, 5,3).  Bệnh giun đầu gai thể thần kinh trên người đi  du lịch trở về

Bệnh  do  ấu  trùng  giun  đầu  gai  có  thể  chia  thành  nhiều  thể:  da,  phủ  tạng  và  mắt  lệ  thuộc  vào  vị  trí  di  chuyển  của  ấu  trùng  và  các  triệu  chứng  và  hội  chứng  tiếp  sau.  Đặc  điểm  lâm  sàng  được  đề  cập  đến  nhiều  nhất  là  ở  thể  da  niêm mạc, đặc trưng bởi các hình ảnh vết sưng  phồng  di  chuyển,  từng  đợt,  thường  liên  quan  đến  đau,  ngứa  và  ban  đỏ  tại  chỗ  di  chuyển.  Liên quan đến thể tạng có thể là bất kỳ cơ quan  và  phần  nào  trong  cơ  thể.  Lâm  sàng  nghiêm  trọng  nhất  của  thể  tạng  chính  là  thể  thần  kinh  trung ương, còn gọi là GĐGTTK và phần lớn số  ca báo cáo thể này do loài G. spinigerum. Chúng  tôi ghi nhận tổng số 24 báo cáo trên  y  văn  với  248  bệnh  nhân  bị  GĐGTTK  và  tiến  hành  tổng  hợp  về  dịch  tễ  học,  khía  cạnh  lâm  sàng,  con  đường xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương,  sinh  lý  bệnh,  dữ  liệu  chẩn  đoán  hình  ảnh  trên  hệ thần kinh và các liệu pháp điều trị(3) .

Ca  bệnh  đầu  tiên  GĐGTTK  trên  người  du  lịch  được  báo  cáo  vào  năm  2003.  Kể  từ  đó,  4  bệnh nhân ở châu Âu trở về  từ  vùng  lưu  hành  bệnh  được  báo  cáo.  Hai  bệnh  nhân  đi  du  lịch

347

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

não tăng bạch cầu ái toan do Gnathostoma spp.  đặc  trưng  bởi  xuất  hiện  hồng  cầu  trong  dịch  não  tủy,  điều  này  gợi  ý  có  thương  tổn  cơ  học  do  ấu  trùng.  Ngoài  tổn  thương  về  cấu  trúc,  đáp ứng viêm với sựu di chuyển ấu trùng góp  phần thêm cho quá trình phá hủy nhu mô(5, 6).

Đặc điểm lâm sàng liên quan đến hệ thần  kinh

Nghiên cứu Y học  đến  Thái  Lan,  1  bệnh  nhân  đến  Lào,  1  bệnh  nhân đến Myanmar. Các bệnh nhân báo cáo có  ăn  các  loại  thức  ăn  địa  phương  nấu  theo  cách  của quốc gia đó, như ăn sống tôm, cá. Bệnh giun  đầu  gai  gần  đây  được  báo  cáo    trên  nhiều  du  khách trở về từ Nam Phi.Tuy nhiên, bệnh nhân  chỉ  biểu  hiện  nhiễm  ấu  trùng  Gnathostoma  spp.  thể da mà không có liên quan đến hệ TKTƯ.  Sinh lý bệnh học của bệnh lý giun đầu gai thể  thần kinh

rễ

thần

Gnathostoma spp. là một loại ký sinh trùng có  tính  xâm  nhập  cao.  Sau  khi  ăn  phải,  ấu  trùng  giai  đoạn  3  xuyên  qua  thành  niêm  mạc  của  hệ  tiêu hóa. Ấu trùng có thể đi vào trong hệ TKTU  bằng  cách  xâm  nhập  trực  tiếp  qua  các  mô  liên  kết mềm lỏng lẻo của các lỗ thần kinh trên nền  sọ  dọc  theo  các  dây  thần  kinh  sọ  não  và  mạch  máu hoặc thông qua các lỗ giữa các đốt sống dọc  theo thần kinh tủy sống và mạch máu. Ấu trùng  bị ly giải một lượng lớn phân tử vào trong môi  trường  xung  quanh  để  hỗ  trợ  cho  sự  xuyên  và  xâm nhập của ấu trùng. Proteases là loại phân tử  quan trọng trong số các sản phẩm tiết, cả về số  lượng lẫn chất lượng. Trong số Gnathostoma spp,  thành  phần  metalloproteinases  cơ  chất  đóng  một vai trò quan trọng cho quá trình xâm nhập  vào mô vật chủ.

Hội  chứng  lâm  sàng  chính  của  bệnh  lý  GĐGTTK  là  viêm  tủy  rễ  thần  kinh/  viêm  não  (radiculomyelitis/  kinh  tủy  radiculomyeloencephalitis)  viêm  màng  não/  não  viêm  màng  não  xuất  (meningitis/meningoencephalitis)  huyết  nội  sọ  hoặc  xuất  huyết  dưới  nhện.  Mỗi  hội chứng phản ánh lên một mô bị thương tổn  do giun di chuyển. Vì ấu trùng di chuyển, nên  cùng bệnh nhân có thể biểu hiện các hội chứng  thần  kinh  khác  nhau.  Chẳng  hạn,  trong  một  bệnh nhân ở Lào, viêm não tủy tiến triển, theo  sau  bởi  một  tình  trạng  xuất  huyết  dưới  nhện.  Viêm  màng  não,  xuất  huyết  dưới  nhện  và  rồi  các thương tổn trong nhu mô não tiếp theo sau  trên  một  bệnh  nhân  ở  đông  bắc  Thái  Lan(6,3).  Các triệu chứng thường gặp nhất được báo cáo  gần như bởi mỗi bệnh nhân là đau: đau rễ thần  kinh trong những ca có liên quan đến tủy sống  (thường  kéo  dài  1‐5  ngày)  hoặc  nhức  đầu  trong những ca viêm não màng não. Đặc điểm  lâm sàng hay gặp nhất, bệnh lý tủy sống chiếm  55% các hội chứng lâm sàng.

Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng trên 248 bệnh nhân giun  đầu gai thể thần kinh

Dấu chứng và triệu chứng lâm sàng Số lượng (%) Hội chứng Đường xâm nhập vào hệ thần kinh (có thể)

140 (55)

Gnathostoma spp. điển hình đi vào tủy sống  song  theo  các  sợi  rễ  thần  kinh,  gây  nên  tình  trạng viêm rễ tủy thần kinh. Tiếp đó ấu trùng  có thể đi lên tủy sống và đến não. Hành trình  này  có  thể  mất  vài  nằm  và  đã  được  minh  chứng  trên  một  bệnh  nhân  người  Thái  thông  qua chụp ảnh liên tục. Chiều dài di chuyển của  ấu trùng trung bình 3.0mm, khi di chuyển ấu  trùng đến TKTU, sẽ gây ra các tổn thương cơ  học  trực  tiếp  vì  chúng  xé  rách  các  mô  thần  kinh. Dấu hiệu vàng của bệnh lý GĐGTTK là  bằng chứng nhiều vệt xuất huyết; các vết này  đã được nhìn thấy khắp đoạn tủy sống và mô  não  qua  phân  tích  giải  phẩu  tử  thi,  cũng  như  qua  hình  ảnh  chụp  thần  kinh.  Xuất  huyết  dưới nhện có thể là hậu quả của ấu trùng đào  bới qua một tiểu động mạch não. Viêm màng

Viêm tủy rế/viêm tủy/viêm não tủy Đi qua các lỗ giữa các đốt sống dọc theo thần kinh và mạch máu tủy sống

77 (30) Viêm màng não/ viêm não Lỗ thần kinh của nền sọ Đau rễ thần kinh đột ngột và hội chứng tủy sống (liệt 2 chân, liệt 1 chi, liệt 4 chi, rối loạn chức năng bàng quang, rối loạn cảm giác); có thể tiến triển đến não (viêm não tủy). Đau đầu nghiêm trọng, cứng cổ, liệt

348

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Dấu chứng và triệu chứng lâm sàng Số lượng (%) Hội chứng Đường xâm nhập vào hệ thần kinh (có thể)

TK sọ não, rối loạn ý thức, dấu TK định vị.

21 (8) Đau đầu, dấu thần kinh khu trú Xuất huyết nội sọ

16 (7) Xuất huyết dưới nhện Đau đầu kinh khủng, dấu màng não màng não dọc theo thần kinh và mạch máu sọ não Lỗ thần kinh hoặc lỗ giữa các đốt sống Lỗ thần kinh hoặc lỗ ống sống

giá trị trung bình là 40% (n = 24) và 54% (n = 39)  lần  lượt  trong  nghiên  cứu  của  Boongird  và  Schmutzhard  cùng  cộng  sự.  Trên  109  (67%)  bệnh nhân báo cáo bởi Punyagupta(1), số lượng  bạch  cầu  ái  toan  trong  dịch  não  tủy  là  >  30%.  Dịch não tủy được báo cáo như chuyển màu sắc  vàng hoặc màu máu trên 134 bênh nhân (64% số  ca đã được ấn bản. Lượng đường huyết thường  chỉ  giảm  nhẹ  nhưng  báo  cáo  khoảng  11mg/dL  (9% giá trị huyết tương) trên 1 bệnh nhân.  Đặc  điểm  chẩn  đoán  hình  ảnh  trên  hệ  thần  kinh

* Vì ấu trùng di chuyển, bênh nhân có thể có dấu chứng và triệu chứng liên tục; do vậy, tổng số triệu chứng lâm sàng vượt quá con số bệnh nhân báo cáo

Bệnh  lý  tủy  trong  bệnh  giun  đầu  gai  đặc  trưng  bởi  đau  rễ  theo  sau  bởi  một  dấu  dị  cảm  hoặc  liệt  nhẹ  cảm  giác  hướng  lên  của  các  chi  dưới  hoặc  dị  cảm  cả  tứ  chi  kèm  theo  rối  loạn  chức  năng  bàng  quang.  Một  mức  độ  cảm  giác  cho  tất  cả  phương  thức  gồm  có  rung  và  cảm  nhận trong cơ thể hay gặp, thường định vị trong  vùng  ngực.  Liên  quan  đến  não  và  màng  não,  bệnh  có  đặc  trưng  bởi  các  dấu  màng  não  và  giảm ý thức. Liệt dây thần kinh thứ 6 là hay gặp  nhất trong các dây thần kinh sọ não. Xuất huyết  trong não được phát hiện khởi phát đột ngột mà  không thấy dấu thần kinh định vị như liệt nhẹ ½  người hoặc yếu ½ người.  Bệnh lý thần kinh biệt lập

Chẩn  đoán  hình  ảnh  về  thần  kinh  trên  11  bệnh  nhân  có  bệnh  lý  GĐGTTK  được  báo  cáo  trên  y  văn.  Chụp  CT  sọ  não,  xuất  huyết  dưới  nhện  và  xuất  huyết  nội  sọ  là  các  hình  ảnh  hay  gặp.  Trên  một  bệnh  nhân  phát  hiện  có  xuất  huyết dưới màng cứng. Dấu đặc trưng của bệnh  lý  giun  đầu  gai  ở  não  trên  phim  chụp  MRI  là  phát hiện vết xuất huyết (track). Dấu hiệu cộng  hưởng từ của thương tổn xuất huyết thay đổi  tùy theo  các  tổn  thương  thể  cấp,  bán  cấp  và  mạn  tính.  Do  đó,  trên  hình  ảnh  T1  và  T2  cả  giảm  tỷ  trọng  và  tăng  tỷ  trọng  đều  phát  hiện.  Không  thấy  di  chứng  gradient‐echo    T2  được  báo  cáo.  Tuy  nhiên,  dấu  hiệu  này  rất  nhạy  với  các các khối máu tụ tại chỗ không đồng nhất và  có  thể  trở  thành  một  chuỗi  tiếp  nối  trong  đánh  giá  chẩn  đoán  hình  ảnh  của  bệnh  giun  đầu  gai  thể não.

Sưng  phồng  tủy  sống  đa  đoạn  lan  tỏa  kèm  theo tăng tỷ trọng T2 là hình ảnh hay gặp nhất  trên  chụp  tủy  sống.  Tăng  gadolinium  của  các  thương tổn được báo cáo trong phim MRI chụp  sọ não và tủy sống của 4 bệnh nhân như là hình  ảnh nốt, sáng và đồng nhất(1, 6).  Chẩn đoán huyết thanh miễn dịch

Đặc  điểm  lâm  sàng  hay  gặp  nhất  của  bệnh  giun đầu gai là tình trạng sưng phồng dưới  da  di chuyển từng đợt. Tuy nhiên, một loạt ấn bản  lớn  nhất  của  bệnh  lý  GĐGTTK  trên  162  bệnh  nhân, chỉ có 11 (7%) có tiền sử tổn thương dưới  da  niêm.  Sưng  phồng  mắt  một  bên,  một  dấu  điển  hình  khác  của  bệnh  giun  đầu  gai,  xảy  ra  trên 6 bênh nhân (4%). Boongird và cộng sự báo  cáo  chỉ  có  3  bệnh  nhân  bị  sưng  phồng  dưới  da  trong  số  24  bệnh  nhân  có  thể  GĐGTTK;  giun  đầu gai thể da niêm phát  triển  trên  tất  cả  bệnh  nhân này sau khi khởi đầu triệu chứng của thần  kinh.  Nghiên cứu phân tích về mặt dịch não tủy

Phát  hiện  kháng  thể  trong  huyết  thanh  là  một  thang  đo  quan  trọng  của  chẩn  đoán  miễn  dịch  của  bệnh  giun  đầu  gai.  Hai  phương  pháp  được thiết lập cho lâm sàng thường quy: ELISA  và Western blot sử dụng các kháng nguyên thô  của Gnathostoma spp. từ chất tiết của ấu trùng lấy  ra.  Dải  band  ở  vị  trí  24‐kD  của  xét  nghiệm

Tăng bạch cầu ái toan là một dấu đặc trưng  trong xét nghiệm cận lâm sàng. Tăng bạch cầu ái  toan  trong  dịch  não  tủy  bệnh  nhân  thường  rõ,

349

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

gây  bệnh  ở  hệ  thần  kinh  trung  ương,  như  ấu  trùng sán dây lợn, ấu trùng giun đũa chó mèo,  sán  máng,  baylisascariasis,  hoặc  bệnh  sán  lá  phổi có thể phân biệt dựa vào phân bố địa lý,  triệu  chứng  lâm  sàng,  hình  ảnh  học  và  xét  nghiệm huyết thanh.   Thái độ xử trí

Nghiên cứu Y học  Western blot chỉ ra độ đặc hiệu gần 100% đối với  bệnh  giun  đầu  gai(1,  3).  Thực  hành  chẩn  đoán  huyết thanh hiện tại là dùng ELISA (chẳng hạn,  multiple‐dot ELISA) như là bước đầu tiên và xác  định các kết quả lại bằng Western blot. Ít nhất 2  bệnh  nhân  chuyển  đảo  huyết  thanh  trong  quá  trình  bệnh  lý  thần  kinh,  điều  này  nhấn  mạnh  việc  cần  phải  xét  nghiệm  lại  huyết  thanh  trong  những  trường  hợp  lâm  sàng  nghi  ngờ  cao.  Xét  nghiệm huyết thanh có thể làm tại một số la bô,  như  tại  Thái  Lan  (Bangkok,  Khon  Kaen),  Nhật  Bản  (Miayzaki)  và  châu  Âu  (Basel,  Thụy  Sĩ)  và  tại Việt Nam (Quy Nhơn, TP. Hồ Chí Minh)

Bảng 2. Đặc điểm chẩn đoán hình ảnh trên thần kinh  của bệnh giun đầu gai thể thần kinh

Vị trí Phân tích hình ảnh trên hệ thần kinh

Não bộ Phương thức chẩn đoán CT

MRI

MRI Tủy sống

* CT_CTomputed tomography; MRI: Magnetic Resonance Imaging

Nhu mô não (đơn điểm hoặc đa điểm) tăng tỷ trọng vùng dưới màng cứng hoặc dưới màng nhện tương ứng với xuất huyết trong não Đa điểm (giống giun) tăng tỷ trọng T2 hoặc giảm tỷ trọng trong cả hai bán cầu não và tiểu não đường kính ≥ 3mm (vệt xuất huyết) có hoặc không có tăng thành phần gadolinium. Dãn hoặc sưng phồng tủy sống kèm theo tăng tỷ trọng đa đoạn T2, thường tăng ngấm gadolinium (nhẹ đến trung bình) trên hình ảnh sau tiêm chất cản quang T1

Chẩn đoán phân biệt

Hiện chưa có một thử nghiêm lâm sàng nào  về  liệu  pháp  thuốc  chống  giun  sán  thực  hiện  trên bệnh lý GĐGTTK. Chúng tôi xác định có 9  báo  cáo  điều  trị  bệnh  GĐGTTK  bằng  liệu  pháp  albendazole; 5 bệnh nhân hồi phục hoàn toàn,  2  bệnh  nhân  hồi  phục  một  phần  và  2  bệnh  nhân không hồi phục. Kết quả điều trị có thể  phản ánh tiến trình tự nhiên của bệnh hơn là  hiệu quả điều trị. Trong một vài báo cáo, điều  trị  bằng  thuốc  giun  sán  được  xem  là  bất  lợi  tiềm tàng và chiếm giữ vị tí cơ bản của  việc  cho  để  giảm  phù  não  do  giun  chết  đột  ngột.  3  người  du  lịch  trở  về  từ  Thái  Lan  được  điều  trị  bằng  albendazole  (800  mg/ngày  x  1  tháng,  800  mg/ngày trong 3 tuần và 400 mg x 2 lần/ ngày x  4  tuần  và  phục  hồi  hoàn  toàn.  Trong  tất  cả  bệnh  nhân  này,  dexamethasone  (đường  uống  hoặc  tiêm)  hoặc  predinsolone  được  chỉ  định  thêm  vào  liệu  trình  điều  trị.  Một  đánh  giá  hồi  cứu  gần  đây  về  hiệu  lực  lâu  dài  trên  13  bệnh  nhân  ở  Pháp  bị  giun  đầu  gai  do  “nhập  khẩu”  báo  cáo  2  bệnh  nhân  có  liên  quan  đến  thần  kinh, 1 có viêm tủy và 1 có viêm não (C. Strady,  tài liệu cá nhân). Bệnh nhân viêm tủy phục hồi  hoàn  toàn  sau  liệu  pháp  albendazole  và  bệnh  nhân viêm não báo cáo có 4 đợt tái phát dù đã  kết hợp liệu pháp (ivermectin + albendazole).

Corticosteroids đã được sử dụng trong điều  trị  bệnh  GĐGTTK  để  điều  trị  phù  não  và  phù  tủy  sống.  Chúng  có  thể  ngăn  ngừa  hoặc  làm  giảm  nhẹ  đảo  nghịch  tình  trạng  nặng  sau  khi  khởi  đầu  điều  trị  thuốc  giun  sán.  Tuy  nhiên,  chưa có một kết luận nào về hiệu lực có thể chỉ  ra từ các dữ liệu hiện có vì không có thử nghiệm  lâm  sàng  đối  chứng  ngẫu  nhiên  và  các  số  liệu  hồi  cứi  thì  quá  hạn  định  để  đánh  giá  so  sánh

Chẩn đoán phân biệt chính với bệnh lý  GĐGTTK là bệnh nhiễm trùng do giun tròn   Angiostrongylus  cantonensis.  Tuy  nhiên,  nhiễm  trùng  Angiostrongylus  spp.  thường  biểu  hiện  bệnh lý viêm màng  não  tăng  bạch  cầu  ái  toan  tự  giới  hạn  và  chỉ  là  nguyên  nhân  hiếm  khi  gây  nên  bệnh  lý  nghiêm  trọng  có  liên  quan  đến tủy sống và não bộ(1, 6). Về mặt chẩn đoán  miễn  dịch,  xét  nghiệm  dương  tính  với  kháng  nguyên  đặc  hiệu  chống  lại  24‐kDcủa  G.  spinigerum  và  âm  tính  với  dải  band  ở  29‐kD  và 31‐kD trên phản ứng Immunoblot đối với  kháng  nguyên  A.  cantonensis  sẽ  giúp  chúng  ta chẩn đoán phân biệt Angiostrongylus spp. có  giá trị cao. Các nguyên nhân ký sinh tùng khác

350

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  giữa  các  nhóm.  Đến  nay,  chưa  có  một  khuyến  cáo nào có bằng chứng được đưa ra(4, 1, 6).

Tỷ lệ tử vong ca trong loạt ca bệnh đầu tiên  của 24 bệnh nhân là 25%. Các nghiên cứu sau đó  báo cáo tỷ lệ tử vong là từ 7‐12%. Tuy nhiên, khi  các tác giả đẻ ý đến, thì tỷ lệ tử vong ‐ ca bệnh  này hầu như đánh giá chưa đúng mực vì nhiều  bệnh nhân trong tình trạng “tới hạn” được cho  về nhà để chết. Về tổng số, kết quả của 247 bệnh  nhân  được  báo  cáo  trong  y  văn,  một  kết  quả  chưa  thuận  lợi,  chẳng  hạn,  chết  hoặc  có  những  bất  lợi  mất  khả  năng  tồn  tại  đã  được  báo  cáo  trên  78  bệnh  nhân  (32%).  Song,  các  báo  cáo  ca  bệnh gần đây chỉ ra rằng hướng tiên lượng hiện  tại có thể tốt hơn. Trong số 15 bệnh nhân bị bệnh  GĐGTTK  được  chẩn  đoán  sau  năm  2001,  hiệu  quả  nghèo  nàn  được  báo  cáo  trên  3  bênh  nhân  (20%). Trong tất cả 4 ca lâm sàng ở người đi du  lịch trở về có viêm tủy, sự phục hồi là tốt sau khi  dùng liệu pháp thuốc giun sán(1, 3).

HOẶC viêm màng não/ viêm não màng não HOẶC xuất huyết dưới nhện Bằng chứng xâm nhập của hệ thần kinh trung ương gián tiếp Dịch não tủy: tăng bạch cầu ái toan trong dịch HOẶC hình ảnh thần kinh: vết xuất huyết trong nhu mô não (≥ 3mm) Chẩn đoán miễn dịch Phát hiện kháng thể chống lại thành phần kháng nguyên của Gnathostoma spinigerum 24kDa qua xét nghiệm Immuno blot; Không có phản ứng dương tính với thành phần 29-31kDa của giun Angiostrongylus cantonensis trên test Immunoblot *Tất cả các tiêu chuẩn nên được chuẩn hóa đủ để chẩn đoán lâm sàng của bệnh GĐGTTK

KẾT LUẬN

Chẩn đoán xác định nhiễm trùng giun sán ở  hệ TKTU thì quả thật là khó. Tỷ lệ phục hồi của  sán từ dịch não tủy thấp và quy trình chẩn đoán  có xâm lấn là hiếm khi hợp lý. Bệnh lý GĐGTTK  là một ngoại lệ; trong số 248 ca bệnh dã đăng tải,  chỉ có 27 ca (11%) được xác định bằng sự phục  hồi  ấu  trùng.  Ngoài  ra,  dấu  hiệu  sưng  phồng  dưới  da  từng  đợt,  được  xem  là  dấu  phân  biệt  của bệnh giun đầu gai, tìm thấy chỉ trên một số  ít  ca  bệnh  GĐGTTK(4,  1,  6).  Vì  những  khó  khăn  này,  các  tiêu  chuẩn  lâm  sàng  là  có  ích  để  thực  hành và nghiên cứu. Dựa trên kết quả phân tích  từ các ấn phẩm ca bệnh, chúng tôi đề nghị tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  định  hướng  cho  một  thầy  thuốc  lâm  sàng  nếu  trong  điều  kiện  chẩn  đoán  giải phẩu bệnh học không thể thực hiện được.

Bảng 3. Tiêu chuẩn chẩn đoán đề nghị cho bệnh  giun đầu gai thể thần kinh

Bệnh lý GĐGTTK là một bệnh ký sinh trùng  ở hệ TKTU lưu hành nhiều ở Đông Nam Á, đặc  biệt  tại  Thái  Lan.  Vì  sự  phát  triển  của  du  lịch  quốc tế của du khách cũng như di dân đến các  vùng lưu hành bệnh, nên số bệnh nhân tại châu  Âu  và  Bắc  Mỹ  ngày  càng  tăng.  Bệnh  GĐGTTK  nên  được  nghĩ  đến  trên  những  bệnh  nhân  có  biểu  hiện  viêm  tủy  rễ,  viêm  não  tủy,  viêm  não  màng não tăng bạch cầu ái toan và có tiền sử đi  du  lịch  đến  các  vùng  lưu  hành  bệnh  giun  đầu  gai. Ăn sống hoặc nấu chưa chín các gia cầm, sò,  vẹm,  cua,  tôm,  cá  nước  ngọt  là  điều  kiện  rất  thuận lợi cho nhiễm mầm bệnh; tuy nhiên, vì các  thông  tin  như  thế  không  phải  lúc  nào  cũng  tự  bệnh nhân nói ra, nên thầy thuốc lâm sàng phải  hỏi trực tiếp về thức ăn trong suốt quá trình du  lịch  của  bệnh  nhân(2,  4,5,3).  Xét  nghiệm  huyết  thanh học, kể cả xét nghiệm Western blot, chỉ ra  có  độ  đặc  hiệu  cao  và  có  thể  đóng  góp  không  nhỏ  vào  chẩn  đoán  phù  hợp  với  yếu  tố  lâm  sàng và dịch tễ học. Không có đề cương chuẩn  dựa trên bằng chứng sẵn để điều trị; song một  liệu  trình  thuốc  albendazole  3‐4  tuần  kèm  prednisolone  hoặc  dexamethasone(1,  6)  là  một  trong những lựa chọn liệu pháp hay dùng nhất.  Các thầy thuốc  lâm  sàng  khuyên  bệnh  nhân  đi  du  lịch  hoặc  đang  sống  trong  vùng  lưu  hành  bệnh  nên  tránh  ăn  các  cá,  gia  cầm  và  sò  vẹm,  tôm cua còn sống hoặc chưa chín.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Herman  JS,  Chiodini  PL  et  al.,  (2009).  Gnathostomiasis,  another  emerging  imported  disease.  Clin  Microbiol  Rev.  2009;22:484‐92.

Tiêu chuẩn dich tễ học Du lịch đến hoặc định cư trong vùng lưu hành bệnh VÀ phơi nhiễm với các thức ăn sò, vẹm, tôm, cua, cá và gia cầm chưa nấu chín; Hội chứng lâm sàng Đau kiểu tủy rễ thần kinh/viêm não tủy rễ thần kinh

351

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  2.

5.

6.

3.

dưới da do ký sinh trùng tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng  Ngãi, Việt Nam (2006‐2010). Kỷ yếu công trình NCKH, Viện  Y học biển Việt Nam, Hội Y học biển Việt Nam.  Huỳnh  Hồng  Quang  và  Triệu  Nguyên  Trung  (2011).  Bệnh  giun  mới  nổi‐Cập  nhật  y  văn  và  tổng  hợp  thông  tin  về  12  bệnh nhân giun đầu gai. http://www.impe‐qn.org.vn  Sawanyawishuth  JK  et  al.,  (2011).  Neurognathostomiasis,  a  negected parasitosis of the Central nervous system. Emerging  Infectious Diseases. www.cdc.gov/eid.vol 17. No 7, July 2011

4.

Huynh  Hong  Quang  et  al.,  (2010).  Human  helminthics  diseases: A review and update of an emerging zoonosis now  crossing  Central  and  highland  of  Vietnam. Monography  of  International  seminar  of  Researchable  Issues  in  Ecosystem  Approaches  to  Health  Management  of  Emerging  Infectious  Diseases in Southeast Asia in Bali, Indonesia, October, 2010.  Huỳnh  Hồng  Quang  và  cs.,  (2011).  Đặc  điểm  lâm  sàng,  cận  lâm  sàng  và  hiệu  quả  phác  đồ  Albendazole  trên  bệnh  nhân  nhiễm ấu trùng giun đầu gai 2011 (số liệu cá nhân, chưa công  bố)  Huỳnh  Hồng  Quang  và  Triệu  Nguyên  Trung  (2010).  Tổng  hợp  loạt  ca  bệnh  ban  trườn/  hội  chứng  ấu  trùng  di  chuyển

352

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

HIỆU LỰC PHÁC ĐỒ ARTESUNATE  ĐƠN TRỊ LIỆU   TẠI VÙNG SỐT RÉT LƯU HÀNH KHÔNG CÓ GIAO LƯU BIÊN GIỚI, MIỀN  TRUNG VIỆT NAM

Huỳnh Hồng Quang*, Triệu Nguyên Trung*, Nguyễn Tấn Thoa*

TÓM TẮT

Giới thiệu: Artesunate  là một trong những thuốc sốt rét quan trọng, vì hiệu quả của chúng chống lại ký  sinh trùng vốn dĩ đã kháng với các thuốc cổ điển tại Việt Nam vào những năm 1990. Gần đây, có sự giảm hiệu  lực của phác đồ Artesunate  đơn trị liệu tại khu vực biên giới Thái Lan‐Myanmar và Thái Lan‐Campuchia. Liệu  chăng  một  vùng  SRLH  không  có  giao  lưu  biên  giới  của  miền  Trung,  Việt  Nam  có  thể  tồn  tại  một  chủng  P.  falciparum nội tại kháng Artesunate  không? Đó chính là câu hỏi cần đặt ra cho nghiên cứu này.

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu lực Artesunate  đơn trị liệu trong điều trị sốt rét chưa biến chứng do

P. falciparum.

Đối  tượng  &  Phương  pháp:  BNSR chưa biến chứng do P. falciparum và thiết kế theo thử nghiệm lâm

sàng không ngẫu nhiên, tự chứng.

Kết quả: Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu Artesunate  liệu trình 7 ngày dung nạp tốt, không có tác dụng ngoại  ý, cho tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR) giảm xuống còn 87,2%, thất bại LCF là 8,5%,  LPF là 4,3%, không có thất bại điều trị sớm (ETF).

Kết luận: Liệu trình đơn trị liệu 7 ngày của AS có hiệu lực chữa khỏi đã giảm (< 90%) trong điều trị bệnh

nhân sốt rét chưa biến chứng do P. falciparum tại Ninh Thuận, việt Nam.

Từ khóa: Plasmodium falciparum, Artesunate  đơn trị liệu, Hiệu lực

ABSTRACTS

EFFICACY OF ARTESUNATE  MONOTHERAPY IN MALARIA HYPERENDEMIC ZONE WITHOUT  CROSS‐BORDER IN COASTAL CENTRAL, VIETNAM

Huynh Hong Quang, Trieu Nguyen Trung, Nguyen Tan Thoa.

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 354 ‐ 360

Backgrounds: Artesunate  is one of the most important antimalarial agents available, since it is effective  against  parasites  that  have  developed  resistance  to  conventional  antimalarials  in  Vietnam  in  1009s.  Recently,  there was declining in efficacy of 7‐day regimen of Artesunate  in Thai‐Myanmar and Thai‐Cambodia borders.  We  asked  whether  it  was  resistance  true  in  an  area  without  border  of  Central  Vietnam  due  to  indigenous  P.  falciparum. It is a research question in this.

Objectives:  To  assess  of  Artesunate    monotherapy  efficacy  in  treatment  for  uncomplicated  falciparum

malaria.

Methods: The uncomplicated falciparum malaria patients and non‐controlled randomized clinical trial

Results:  Artesunate  alone 7‐days regimen was well tolerated, and no severe adverse event was reported.  The PCR‐corrected cure rate or ACPR by day 28 dropped to 87.2%, LCF of 8.5%, and LPF of 4.3%, without  ETF.

* Viện Sốt rét‐KST‐CT Quy Nhơn   Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang      ĐT: 0905103496   Email: huynhquangimpe@yahoo.com

353

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Conclusions: The 7‐day course of Artesunate  alone fails to achieve sufficiently high cure rates (< 90%) for

uncomplicated falciparum malaria patients in Ninh Thuan province, Vietnam.

Keywords: Plasmodium falciparum, Artesunate  monotherapy, Efficacy

ĐẶT VẤN ĐỀ

chưa  biến  chứng  P. falciparum  tại  một  vùng  sốt  rét  lưu  hành  không  có  giao  lưu  biên  giới  miền  Trung, Việt Nam” được tiến hành

Mục  tiêu  nghiên  cứu:  Đánh  giá  hiệu  lực  Artesunate  (AS)  đơn  trị  liệu  trên  BNSR  chưa  biến chứng do P. falciparum.

ĐỐI TƯỢNG‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm, thời gian

Xã  Ma  Nới,  huyện  Ninh  Sơn,  tỉnh  Ninh

Thuận;

Từ tháng 3/2010 ‐ 12/2010;

Đối tượng nghiên cứu  Bệnh nhân sốt rét do P. falcipparum chưa  biến chứng  Tiêu chuẩn chọn bệnh:

Tuổi từ 6 tháng tuổi trở lên đến dưới 70 tuổi;

Nhiễm  đơn

thuần  P.

falciparum  và

MĐKSTSR thể vô tính ≥ 1.000/μl máu;

Nhiệt độ nách ≥ 37,5 °C hoặc nhiệt độ dưới

lưỡi/ đại tràng ≥ 38 °C;

Chưa dùng một loại thuốc sốt rét nào (thông

qua kiểm tra nước tiểu);

Bệnh  nhân,  hoặc  người  giám  hộ  và  thân

nhân gia đình đồng ý hợp tác nghiên cứu.  Tiêu chuẩn loại trừ :

Nhỏ hơn 6 tháng tuổi hoặc lớn hơn 70 tuổi;

Từ những 1990, Artemisinine (ART) và dẫn  chất Artesunate (AS) được tiến hành thử nghiệm  lâm  sàng  và  chính  thức  đưa  vào  sử  dụng  rộng  rãi  trong  ở  Việt  Nam,  góp  phần  quan  trọng  trong việc hạ thấp tỷ lệ SRAT và TVSR. Mặc dù  với liệu trình 7 ngày của ART và AS, tỷ lệ khỏi  bệnh  SR  do  P.  falciparum  lên  đến  80‐90%,  song  nhược điểm lớn nhất của thuốc là thời gian bán  hủy  ngắn,  điều  trị  đơn  thuần  cho  tỷ  lệ  tái  phát  sớm  sau  điều  trị  quá  cao  (20‐35%).  Thành  quả  cũng như vai trò của ART và AS không thể phủ  nhận vì đã giúp cho Việt Nam giảm đáng kể về  số mắc SR và tử vong là một dữ liệu khó có thể  thuốc SR nào sánh được. Song, việc sử dụng với  một  TSR  có  thời  gian  bán  hủy  ngắn,  liệu  trình  dài ngày trên một phạm vi rộng, khó kiểm soát  và phổ biến như AS sẽ tạo điều kiện tiềm năng  cho  quá  trình  hình  thành  và  thúc  đẩy  kháng  thuốc là có thể xảy ra. Quả vậy, diễn tiến giảm  nhạy  với  thuốc  ART  và  dẫn  chất  AS  trong  in  vitro  đã  cho  thấy  điều  đó(6).  Từ  năm  2003  đến  2010, WHO đã có báo cáo nhiều trường hợp lâm  sàng đã không đáp ứng với thuốc AS cùng với  thông  báo  kháng  thuốc  với  ART  gần  đây  trên  các bệnh nhân tại khu vực biên giới Thái Lan –  Campụhia  (WHO,  2009)  là  một  bằng  chứng  có  giá  trị  và  cảnh  báo  quan  trọng  có  thể  lan  sang  các quốc gia láng giềng, kể cả Việt Nam(4,5, 6).

Phụ nữ đang có thai, hoặc đang cho con bú,

đang có bệnh rối loạn tâm thần kinh;

Nôn  mửa,  tiêu  chảy  trầm  trọng hoặc  thể

trạng không hấp thu được thuốc;

Sốt  rét  có  biến  chứng hoặc  mắc  các  bệnh

nhiễm trùng phối hợp;

Nhiễm  sốt  rét  phối  hợp  P.  falciparum  +  P.

vivax hoặc loại ký sinh trùng khác;

Phương pháp nghiên cứu:

Thiết kế nghiên cứu:

Liệu  chăng  vấn  đề  giảm  nhạy  hay  kháng  thuốc ART và AS của chủng P. falciparum chỉ là  “phát tán” qua biên giới hay còn có thể là chủng  nội tại một vùng SRLH (không có giao lưu biên  giới như Ninh Thuận) cũng có thể phát sinh gen  kháng?(3) Do đó, một nghiên cứu nhằm đánh giá  hiệu lực AS trong điều trị SR do P. falciparum là  hết  sức  quan  trọng  tại  một  vùng  từ  lâu  đã  áp  dụng  phác  đồ  AS  đơn  trị  liệu  trong  một  thời  gian  dài,  có  thể  dẫn  đến  tăng  áp  lực  thuốc  và  kháng  thuốc.  Trên  cơ  sở  đó,  đề  tài  “Hiệu  lực  phác  đồ  AS  đơn  trị  liệu  trong  điều  trị  sốt  rét

354

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Thiết kế nghiên cứu là một thử nghiệm lâm

TT Đặc điểm bệnh nhân

Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu (D0) 36 (36,0%) ≥ 5 đến = 15

sàng không ngẫu nhiên, tự chứng.   Cỡ mẫu nghiên cứu:

4

Nếu tỷ lệ thất bại của loại thuốc sốt rét phối  hợp  AS  không  biết  trước,  20%  là  tỷ  lệ  thất  bại  lâm sàng quần thể ước tính p (20%), khoảng tin  cậy: 95%, độ chính xác (d): 10%. Khi đó cỡ mẫu  tối thiểu cần nghiên cứu đánh giá:  n = 61 bệnh  nhân, cộng thêm 20% mất mẫu (cid:198) n = 73

> 15 Nghề nghiệp - Nông, rẫy, khai thác lâm sản - Nghề nghiệp tự do - Đi học - Công nhân, nhân viên 53 (53,0%) 78 (78,0%) 4 (4,0%) 16 (16,0%) 2 (2,0%)

Kỹ thuật nghiên cứu

Đánh giá thông số lâm sàng, đo thân nhiệt

Xét nghiệm lam máu và đếm mật độ ký sinh

Nhận  xét:  Trong  số  trường  hợp  đủ  tiêu  chuẩn  nghiên  cứu,  nam  thấp  hơn  nữ;  Tuổi  trung  bình  của  bệnh  nhân  là  23,5;  Dân  tộc  Ragley chiếm đa số và chủ yếu làm nông, rẫy,  khai thác lâm thổ sản.

trùng

Phân  tích  về  gen  học  của  KSTSR  kháng

Bảng 2. Đặc điểm về ký sinh trùng sốt rét P.  falciparum trên bệnh nhân

thuốc

TT Đặc điểm bệnh nhân

Phân loại hiệu lực điều trị: theo hướng dẫn

phân loại in vivo của Tổ chức Y tế thế giới 2009

Chỉ số thời điểm bắt đầu nghiên cứu (D0)

1

Xử lý số liệu: phân tích và xử lý theo phần

mềm in vivo phiên bản 7.1, WHO (2009).

Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

19,201 ± 10,270 /μl 7/100 (7,0%) Mật độ trung bình KSTSR P. falciparum trên 100 bệnh nhân - MĐKSTSR thể vô tính - Số bệnh nhân có giao bào D0 - MĐKST thể giao bào

Thuốc  AS  trong  thử  nghiệm  này  đã  có  thời  gian dùng trong CTQGPCSR nên đã được thông  qua Hội đồng Đạo đức y sinh học của Viện Sốt  rét KST‐CT Quy Nhơn;

Thử  nghiệm  được  tiến  hành  dưới  sự  giám

sát trực tiếp của các cán bộ chuyên môn.

2 28,4 ± 5,2/ μl 12/100 (12,0%) 88/100 (88,0%) 0 Lách lớn: - Bệnh nhân có lách lớn - Bệnh nhân không có lách lớn - Bệnh nhân cắt lách toàn/bán phần

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nhận xét: Mật độ thể vô tính P. falciparum  19,201 ± 10,270/μl, số ca có giao bào chiếm rất  thấp; bệnh nhân có lách lớn thấp (chủ yếu độ I,  II); không có lách lớn chiếm 88,0%.

Hiệu  lực  phác  đồ  thuốc  Artesunate    đơn  trị liệu đối với sốt rét do P. falciparum

Phân loại hiệu lực phác đồ thuốc Atesunate

theo WHO‐2009

Đặc  điểm  của  nhóm  bệnh  nhân  tham  gia  nghiên cứu   Bảng 1. Đặc điểm về dân số học trên nhóm bệnh  nhân nghiên cứu  TT

Đặc điểm bệnh nhân

Bảng 3. Phân loại hiệu lực phác đồ AS đơn trị liệu  đối với sốt rét P. falciparum

1 Chỉ số đánh giá Số lượng Tỷ lệ (%) Ghi chú

i

c ự

i

l u ệ H

Giới tính - Nam - Nữ Dân tộc - Ragley Thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu (D0) 62 (62,0%) 38 (38,0%) 88 (88,0%) 2 - Chăm 8 (8,0%)

R C P h n h c

- Kinh Nhóm tuổi 4 (4,0%)

u ệ h a ư h c n ê r t u ệ

i l ố S

3

- Tuổi trung bình - Nhóm tuổi: < 5 23,5 (2 - 45) 11 (11,0%) ETF LCF LPF ACPR Tổng số phân tích Rút khỏi nghiên cứu Mất theo dõi (sau D7) Tổng số nghiên cứu 0 8 4 82 94 0 6 100 0 8,5% 4,3% 87,2% 0 6,0%

355

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kết quả phân tích Thông số thời gian (giá trị trung bình) Tổng số ca phân tích (n = 94)

Nghiên cứu Y học  Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng ACPR là 82 (87,2%), LCF  là 8 (8,5%), LPF là 4 (4,3%), chưa thấy trường hợp  thất bại điều trị sớm (ETF). Số mất theo dõi là 6.

Bảng 4. Phân tích các trường hợp thất bại muộn về  lâm sàng và KSTSR

Nhận  xét:  Thời  gian  cắt  sốt  và  làm  sạch  ký  sinh trùng P. falciparum rất ngắn, lần lượt 30.55 ±  15.25 giờ và 36.70 ± 7.50 giờ.

28,5 giờ (18 – 39) Mã NC Tuổi Thời gian cắt sốt trung bình (FCT) 30,55 ± 15,25 giờ 36,70 ± 7,50 giờ Thời gian sạch KSTSR trung bình (PCT) Thời gian sạch giao bào trung bình (giờ) Phân loại theo in vivo Nam Nữ

Bảng 7. Phân tích chi tiết hiệu lực cắt sốt và làm sạch  ký sinh trùng

* LCF: late clinical failure_Thất bại lâm sàng muộn

Tốc độ cắt sốt Tốc độ sạch Tổng số phân tích (n = 94) KSTSR Diễn tiến theo dõi thời gian Số lượng (%) Số lượng (%) 25NTAS 34NTAS 40NTAS 41NTAS 62NTAS 63NTAS 73NTAS 88NTAS Tổng cộng 17 3 8 23 25 14 6 6 12 2 LCF* LCF LCF LCF LCF LCF LCF LCF 8 Phân loại đến ngày theo dõi D28 D21 D28 D28 D28 D21 D7 D21 D7 (1); D21 (3); D28 (4)

Nhận xét: Trong 8 trường hợp LCF, phần lớn số ca  phát hiện vào ngày D28 và D21.

Phân tích chi tiết trường hợp thất bại điều trị

trên in vivo và kết quả phân tích PCR

Nhận xét: Qua phân tích, tốc độ cắt sốt và làm sạch  KSTSR rất nhanh theo sau mỗi 12 giờ; Thời điểm 36  giờ bệnh nhân không còn sốt và 48 giờ đã sạch ký  sinh toàn toàn bộ 94 ca.

- Sau 12 giờ - Sau 24 giờ - Sau 36 giờ - Sau 48 giờ 42 (44,68) 78 (82,98) 94 (100) 32 (34,04) 67 (71,28) 89 (94,68) 94 (100)

BÀN LUẬN

Bảng 5. Phân tích chi tiết về các trường hợp thất bại  điều trị dựa trên in vivo

Mật độ KSTSR Phân loại và hiệu chỉnh

Đặc điểm của nhóm bệnh nhân tham gia  nghiên cứu

Mã BN D xuất hiện KST Phân loại theo PCR Do D xuất hiện

Phân loại theo in vivo LPF Tái phát LPF Tái nhiễm LPF Tái nhiễm Tái phát LPF 11NTAS 7.598 1.655 D21 (P.f) 15NTAS 11.396 1.362 D14 (P.v) 55NTAS 13.050 567 D14 (P.v) 67NTAS 34.517 2.122 D21 (P.f)

lực  cắt  sốt  và  cắt  KSTSR  P.

Với  tổng  số  100  trường  hợp  đủ  tiêu  chuẩn  nghiên cứu, về giới tính thì nam giới cao hơn nữ.  Tuổi trung bình BN là 23,5, trong đó số BN nhỏ  hơn 5 tuổi chiếm 11%, nhóm tuổi ≥ 5 đến 15 là 36  trường hợp (36,0%), đặc biệt nhóm người lớn (≥  15 tuổi) chiếm tỷ lệ đến 53%. Dân tộc chiếm đa  số  là  Ragley  (88%),  hầu  hết  là  người  dân  địa  phương, sinh sống bằng làm nông, làm rẫy, khai  thác  lâm  thổ  sản  theo  mùa  vụ  như  trồng  ngô,  đậu xanh, mía, …(78,0%), số bệnh nhân đang độ  tuổi  đi  học  chiếm  16,0%,  dân  làm  nghề  tự  do  (4,0%) và công nhân, nhân viên ra vào làm điện.

Nhận xét: Trong số 4 trường hợp thất bại KSTSR  muộn (LPF) theo in vivo, sau khi hiệu chỉnh bằng  PCR cho thấy 2 ca tái nhiễm (P. vivax) và 2 ca tái  phát (P. falciparum).     Hiệu  falciparum của phác đồ AS đơn trị liệu     Bảng 6. Hiệu lực cắt sốt và làm sạch KSTSR P.  falciparum của phác đồ Artesunate

BNSR do P. falciparum đủ tiêu chuẩn có mật  độ KSTSR thể vô tính 19,201 ± 10,270/μl, số  ca có  giao  bào  chiếm  tỷ  lệ  rất  thấp  (7,0%),  có  lẽ  phù  hợp với vùng đã nhiều năm can thiệp và điều trị  bằng TSR hiệu lực cao AS/ART/DHA‐PPQ. Số ca  có  lách  lớn  chiếm  tỷ  lệ  thấp  12,0%,  trong  vùng

Kết quả phân tích Thông số thời gian (giá trị trung bình) Tổng số ca phân tích (n = 94)

Số ngày có sốt trung bình trước D0 3,20 ± 1,20 ngày Mật độ KSTSR trung bình ngày D0 19,201 ± 10,270 /μl

356

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

thuốc) ‐ đó là điều mà nghiên cứu này tiến hành  để giải thích câu hỏi trên.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  SRLH nặng như xã Ma Nới, việc tái nhiễm hay  “chồng cơn” nên một tỷ lệ lách lớn là có thể. So  với  các  vùng  SRLH  nặng  và  rất  nặng  tại  châu  Phi và Nam Mỹ thì tỷ lệ lách lớn có thể lên đến  30%  và  mức  độ  lách  lớn  cao  hơn  nhiều  so  với  nghiên cứu này.

Hơn  nữa,  qua  thăm  khám  không  phát  hiện  bệnh  nhân  nào  có  tiền  sử  cắt  lách  sẽ  giúp  cho  quá  trình  đánh  giá  diễn  tiến  cắt  sốt  và  cắt  KSTSR, cũng như hình thái học của KSTSR trên  lam sau khi đã hoàn tất liệu trình AS, vì vốn dĩ  lách chính là “mồ chôn của các hồng cầu” và hệ  lưới  nội  mô  trong  lách  khi  đã  bị  cắt  lách  đi,  sẽ  giảm đi tính năng bắt cắp hồng cầu nhiễm, nên  KSTSR  vẫn  còn  “lưu  hành”  một  thời  gian  dài  trong máu, khiến cho đánh giá hiệu lực về mặt  KSTSR  sẽ  không  còn  chính  xác  và  xem  đó  như  một yếu tố nhiễu kết quả nghiên cứu.

Bất kỳ TSR nào, dù trước hay sau, sớm hay  muộn cũng đều có  thể  xuất  hiện  giảm  nhạy  và  dẫn  đến  kháng  là  khó  tránh  khỏi,  do  vậy  việc  giám sát hiệu lực TSR đang dùng rộng rãi là cần  thiết. ART và dẫn suất, đặc biệt AS là một trong  những  thuốc  sốt  rét  đầy  hứa  hẹn  trong  phòng  chống sốt rét do có nhiều ưu điểm về mặt dược  học:  (i)  làm  giảm  lượng  lớn  KSTSR  nhanh;  (ii)  hiệu  quả  chống  lại  KSTSR  đa  kháng;  (iii)  giải  quyết  nhanh  triệu  chứng  lâm  sàng;  (iv)  giảm  người mang giao bào; (v) đặc hiệu trên các giai  đoạn  KSTSR  và  liệu  trình  dùng  thuốc  an  toàn.  Tuy  nhiên,  nhiều  nghiên  cứu  đã  đưa  ra  bằng  chứng tỷ lệ tái phát sớm khi sử dụng AS đơn trị  liệu  quá  cao  (30‐50%)  là  một  trở  ngại  lớn  và  nguy  cơ  cho  hình  thành  kháng.  Do  vậy,  thử  nghiệm  in vivo  7  ngày  liệu  có  biểu  hiện  không  đáp ứng? hay chỉ là tái phát sớm?

Hiệu  lực  phác  đồ  đơn  trị  liệu  AS  với  sốt  rét P. falciparum chưa biến chứng

Hiệu  lực  phác  đồ  đơn  trị  liệu  Artesunate

theo phân loại của WHO 2009

Tổng  số  94  bệnh  nhân,  không  ca  nào  biểu  hiện  thất  bại  điều  trị  sớm  (ETF);  tỷ  lệ  đáp  ứng  lâm  sàng  và  KSTSR  đầy  đủ  (ACPR)  là  87,2%,  thất  bại  lâm  sàng  muộn  (LCF)  là  8,5%,  thất  bại  KSTSR  (LPF)  là  4,3%.  Trong  8  trường  hợp  thất  bại  LCF,  có  đến  7/8  ca  được  phát  hiện  sau  D7,  thất  bại  LCF  vào  ngày  D28  (4  trường  hợp)  và  ngày D21 (3 trường hợp), chỉ có 1 trường hợp vào  ngày D7. Tuy nhiên, khi đánh giá và so sánh đối  chiếu  với  phân  loại  hiệu  lực  WHO  (2009),  nghiên cứu này có 2 ca xếp loại không phù hợp  với LCF hoàn toàn (vì có điều kiện này thì thiếu  điều kiện kia và ngươc lại). Bất kỳ một phân loại  nào  dù  có  tập  trung  và  chi  tiết  đến  mấy  cũng  không tránh khỏi một số trường hợp ngoại lệ, so  với phân loại của WHO (2009, 2010).

So sánh một số nghiên cứu trong và ngoài  nước cho thấy hiệu lực AS đơn trị liệu có phần  thay  đổi  rõ,  nhất  là  thời  gian  cắt  sốt  và  cắt  KSTSR  đều  kéo  dài.  Đánh  giá  84  BNSR  do  P.falciparum được chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm  sử dụng đơn trị liệu AS 5 ngày và 7 ngày thử  nghiệm in vivo 28 ngày, cho thấy tỷ lệ ACPR từ  88,10 (phác đồ 5 ngày) đến 95,24 % (7 ngày), tỷ

Với  tình  hình  SR  đa  kháng  thuốc  10  năm  qua, đặc biệt kể từ năm 2006, WHO đã lên tiếng  cảnh báo nguy cơ giảm nhạy và kháng thuốc với  liệu pháp AS đơn trị liệu thì hơn 70 quốc gia có  SRLH đã tiếp cận và sử dụng các thuốc phối hợp  ACTs.  Cảnh  báo  này  quả  thật  không  thừa  và  thực tế đã xảy trường hợp SR do P. falciparum tại  biên  giới  Thái  Lan  ‐  Campuchia  biểu  hiện  “kháng thuốc” với ART hoặc AS (thực chất của  vấn đề là thất bại điều trị/giảm nhạy với tiêu chí  do  WHO  đưa  ra  khi  thời  gian  làm  sạch  KSTSR  kéo dài ở ngày D3 chứ chưa có bằng chứng xác  thực nào kháng ART/AS dưới góc độ phân tử).  Song đây cũng là cảnh báo cho các quốc gia láng  giềng,  trong  đó  có  Việt  Nam  vì  hậu  quả  có  thể  đe dọa nếu dòng KSTSR “kháng” này “di thực”  sang các vùng khác trong phạm vi toàn cầu. Đó  là lo lắng sự phát tán dòng KSTSR P. falciparum  kháng  từ  giao  lưu  qua  biên  giới  với  nhau,  liệu  chăng có sự tồn tại dòng KSTSR P. falciparum nội  địa tại miền Trung, Việt Nam (nơi mà từ lâu đã  ẩn  chứa  và  tiềm  năng  nhiều  KSTSR  kháng

357

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  lệ  thất  bại  KSTSR  muộn  (LPF)  trung  bình  từ  4,76%  (phác  đồ  7  ngày)  và  11,90%  (5  ngày)  khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) và cả 2  phác đồ đều không có ETF và LCF (T.N.Trung  và cs., 2008); số liệu này tương  đương  với  kết  quả nghiên cứu N.T.Tiến và cs., (2005) khi tiến  hành đánh giá hiệu lực phác đồ AS đơn trị liệu  5 ngày tại Bình Phước cho ACPR là 92,7%, LPF  là 3,65% và LCF là 3,65%.

Thời  gian  cắt  sốt  và  làm  sạch  KSTSR  trung  bình (FCT và PCT) của phác đồ AS ngắn 30,55 ±  15,25 giờ và 36,70 ± 7,50 giờ. Thời gian thuốc AS  đã  làm  sạch  7/100  trường  hợp  có  giao  bào  dao  động  từ  18  đến  39  giờ,  trung  bình  là  28,5  giờ  (cuối  ngày  D1 đã  sạch  giao  bào).  Tốc  độ  chi  tiết  qua  mỗi  12  giờ  số  BN  không  còn  sốt  tăng  dần  lên, cụ thể sau 12 giờ có 42/94 (44,69%) cắt sốt (cid:198)  82,98% (sau 24 giờ) (cid:198) 100% (sau 36 giờ) không  còn sốt. So sánh với nghiên cứu được tiến hành  tại  1  vùng  SRLH  nặng  khác  của  Ninh  Thuận,  nhóm tác giả T.N.Trung và cs., 2008 dùng 2 phác  đồ đơn trị liệu AS 5 và 7 ngày (n = 84), kết quả  cho FCT là 28,50 ± 13,70 giờ (phác đồ 5 ngày) và  26,40  ±  12,60  (phác  đồ  7  ngày).  Tốc  độ  cắt  sốt  nhanh  mỗi  12  giờ  và  hết  hẳn  sau  48‐60  giờ,  không thấy sự khác biệt có ý nghĩa về cắt sốt của  2  phác  đồ  (p  >  0,05).  Do  vậy,  số  liệu  ở  đây  có  FCT 30,55 ± 15,25 giờ có kéo dài hơn.

Ngoài  ra,  các  nghiên  cứu  tại  châu  Phi  và  Nam Mỹ hoặc Đông Nam Á cho biết từng thời  điểm thì hiệu lực thuốc AS khác biệt, song chưa  có báo cáo kháng thuốc AS qua các nghiên cứu  với cỡ mẫu khác nhau (n = 52‐79; ACPR = 85%,  96% và 100%; Bunnag và cs., 2005); hoặc nghiên  cứu AS đơn trị liệu 5 ngày tại Tanzania (n = 63;  ACPR  =  80%;  Hassan  và  cs.,2006)(1,5,6);  hoặc  đơn  trị liệu AS 4 ngày (ACPR = 80‐84%; Alin và cs.,  2006); hoặc nghiên cứu ở Gabon dùng AS đơn trị  liệu  3  ngày  (n  =  50;  ACPR  =  72%;  Steffen  Borrmann và cs., 2003) và liệu  trình  5  ngày  (n = 50; ACPR = 90%; Norbert G. Schwarz và  cs.,2005).

Hiệu  lực  làm  sạch  KSTSR  P.  falciparum  của  thuốc AS cho thấy PCT của AS chưa quá 2 ngày  (36,70  ±  7,50  giờ),  tuy  có  kéo  dài  so  với  một  số  nghiên cứu khác trước đây, song tốc độ làm sạch  sinh  khối  KSTSR  chi  tiết  qua  mỗi  12  giờ  rất  nhanh:  34,04%  (sau  12  giờ)  sạch  KSTSR  (cid:198)  71,28% (24 giờ) (cid:198) 94,68% (36 giờ) (cid:198) 100% (sau  48 giờ) không còn KSTSR trên lam máu. Tương  tự như FCT, so với số liệu của T.N.Trung và cs.,  (2008) về PCT,  hiệu  lực  cắt  KSTSR  P. falciparum  trong nghiên cứu này đã giảm và biểu hiện kéo  dài thời gian hơn (n = 84; FCT = 27,70 ± 9,70 giờ  (phác đồ 5 ngày) và 26,80 ± 8,60 giờ (phác đồ 7  ngày); T.N.Trung và cs., 2008) vs. 36,70 ± 7.50 giờ  (ở nghiên cứu này).

Cả  4  trường  hợp  thất  bại  KSTSR  muộn  (LPF), có 2 ca được ghi nhận tại D14 và 2 ca tại  D21. Đánh giá này phù hợp với phân loại WHO  (2009)  là  có  mặt  KSTSR  (+)  trong  thời  gian  từ  D7  đến  D28.  Qua  theo  dõi  kết  quả  100  trường  hợp trên thử nghiệm in vivo, bệnh nhân dù đã  sạch  KSTSR  trong  vòng  thời  gian  từ  ngày  D3  đến trước ngày D14, theo dõi tiếp tục thấy vẫn  xuất  hiện  lại  KSTSR  vào  ngày  D14  và  D21.  Kết  quả soi lam máu vào ngày Dthất bại cho thấy 4 ca  xuất hiện lại đơn thuần P. vivax (D14) và ở D28  có  2  ca  nhiễm  P. falciparum. Kết  quả  phân  tích  PCR  để  hiệu  chỉnh  phân  loại  LPF  cho  thấy  trong đó có 2 trường hợp tái  nhiễm  và  loài  P.  vivax  đơn  thuần  (mẫu  15NTAS  và  mẫu  55NTAS)  và  2  mẫu  tái  phát  và  loài  P.  falciparum  đơn  thuần  (mẫu  11NTAS  và  mẫu  67NTAS).  Kết  quả  này  phù  hợp  với  phân  loại  của thử nghiệm in vivo.

Hiệu  lực  cắt  sốt  và  làm  sạch  KSTSR  P.

Với dữ liệu 2 thông số về FCT và PCT cùng  với ACPR chỉ còn 82%, cho thấy hiệu lực AS đối  với  P.  falciparum  theo  hướng  dẫn  của  WHO  (2006) và Bộ Y tế (2007) đã giảm dần hiệu lực về  cắt  sốt,  về  sạch  KSTSR  so  với  trước  đây(4,6).  Dù  chưa  bằng  chứng  nào  khẳng  định  kháng  thuốc  ART/AS,  nhưng  hiệu  lực  trên  thực  nghiệm  mô  hình  động  vật  đã  thấy  kháng  do  P.  berghei,  P.yoelii và P.chabaudi (WHO, 2006); kết quả dùng  đơn trị liệu AS trong 15 năm qua ở nghiên cứu

falciparum của phác đồ AS đơn trị liệu

358

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

KẾT LUẬN

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  in vitro cho thấy nồng độ ức chế (IC50) phải tăng  lên gấp 3 và nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) phải  tăng lên gấp 2 mới có hiệu quả. Riêng ở một số  quốc gia châu Á, kể cả Việt Nam, nồng độ IC50  từ 1998‐2001 ổn định không hề thay đổi, nhưng  IC90 và IC99 phải tăng lên 2 ‐ 4 lần (WHO, 2006).

Hiệu lực phác đồ đơn trị liệu AS liệu trình 7  ngày có tỷ lệ ACPR là 87,2%, LCF là 8,5%, LPF là  4,3%, chưa có ca nào thất bại điều trị sớm (ETF).  Chưa có bằng chứng về kháng của P. falciparum  với AS;  cả  2  thông  số  FCT  và  PCT  đều  kéo  dài  hơn so với trước đây;

Đến thời điểm này, dù chưa có một tài liệu  nào  khẳng  định  kháng  thuốc  ART/AS,  song  vì  một số bằng chứng y văn đề cập ở trên trên, nên  phác đồ này sẽ không “đáp ứng” và điều quan  trọng chuyển sang dùng thuốc ACTs là phù hợp  nhất, có ý nghĩa vừa trì hoãn quá trình phát triển  kháng  thuốc,  vừa  phù  hợp  với  khuyến  cáo  của  WHO hiện nay trên phạm vi toàn cầu(6).

2.

for

treating  uncomplicated

3.

4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Noedl H, Youry SE et al., (2009). Evidence of Artemisinin‐ Resistant Malaria in Western Cambodia, Volume 359:2619‐ 2620.  Schwarz NG. et al., (2005). 5‐day nonobserved Artesunate   monotherapy  falciparum  malaria  in  young  Gabonese  children”.  The  American  Society of Tropical medicine and hygiene.  T.N.  Trung,  H.H.  Quang,  et  al.,  (2001).  Treatment  of  falciparum  malaria  in  Vietnamese  children:  the  need  for  combination  therapy  and  optimised  dosage  regimes.  Anals.  of  paediatrics  tropical  medicine,  University  of  Western Australia, p 2‐7.  Triệu  Nguyên  Trung,  Huỳnh  Hồng  Quang,  Nguyễn  Tấn  Thoa,  Cao  Văn  Ảnh  và  cs.,  (2009).  “Nghiên  cứu  đánh  giá  hiệu lực phác đồ chloroquine, Artesunate  đơn trị liệu, CV‐ 8,  Artequick  đối  với  ký  sinh  trùng  Plasmodium  falciparum. Đề tài NCKH cấp Bộ, 2005‐2008.

5. WHO  (2006).  The  threat  of  resistance  to  artemisinine  derivatives.  WHO  briefing  on  malaria  treatment  guidelines  and  Artemisinine  monotherapies,  Geneva,   2006. pp.13‐17.

Bởi vì thuốc AS đơn trị liệu có thời gian bán  hủy rất ngắn, sẽ có tái phát sớm nếu dùng đơn  trị  liệu  và  ngắn  ngày,  cơ  chế  phát  triển  kháng  thuốc tiềm tàng. Nhiều nghiên cứu Trung Quốc  và  Việt  Nam  cho  biết  nếu  dùng  ART/AS  đơn  thuần cho giảm nhạy trên in vitro (WHO, 2006).  Do vậy, với các dữ liệu về kết quả trong nghiên  cứu này gồm ACPR = 82%, LCF = 8% và LPF =  4%  cho  thấy  tỷ  lệ  đáp  ứng  P. falciparum  với  AS  giảm  đi  nhiều.  Đồng  thời,  cùng  dựa  trên  các  bằng chứng đã báo cáo trên y văn rằng (i) tỷ lệ  thất  bại  qua  nghiên  cứu  này  18%  (nằm  trong  khoảng 10% theo quy định WHO), (ii) thời gian  bán  hủy  ngắn;  (iii)  bằng  chứng  giảm  nhạy  in  vitro  với  IC50,  IC90  và  IC99  và  EC50,  EC90  và  EC99  phải tăng gấp 2 ‐ 3 ‐ 4 lần; (iv) tình trạng kháng  thuốc trên  mô  hình  thực  nghiệm;  (v)  hơn  10  ca  SR do P. falciparum trên lâm sàng thất bại thật sự  ở  Thái  Lan,  Cambodia,  Việt  Nam;  (vi)    thì  việc  dừng phác đồ đơn trị liệu này là cần thiết trước  khi  hậu  quả  diễn  ra,  chuyển  sang  dùng  dạng  ACTs  để  trì  hoãn  phát  triển  kháng  thuốc.  Việc  giám  sát  và  đánh  giá  về  mặt  hiệu  lực  phác  đồ  các  thuốc  sốt  rét  trên  phạm  vi  toàn  cầu,  cũng  như tại các vùng SRLH tại Việt Nam là hết sức  cần  thiết  để  đảm  bảo  hiệu  lực  TSR  bền  vững  trong tương lai (Guerin PJ và cs., 2009)(5,6).

6. WHO (2010). Global report antimalarial drugs efficacy and

drugs resistance 2000‐2010,pp.26‐35.

359

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

THÀNH PHẦN LOÀI RUỒI VÀ MUỖI TẠI MỘT SỐ VƯỜN QUỐC GIA  VÀ KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN Ở NAM BỘ

Nguyễn Văn Châu*, Vũ Đức Chính*, Nguyễn Văn Dũng*, Nguyễn Thị Bích Liên*, Hồ Đình Trung*,

Tạ Huy Thịnh**, Lê Thành Đồng***

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Ruồi và muỗi nói chung đóng vai trò quan trọng truyền một số bệnh nguy hiểm trên thế giới  cũng như ở Việt Nam. Khu vực Nam bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nóng và ẩm quanh năm  phù hợp với côn trùng phát triển, trong đó có ruồi và muỗi. Vì vậy, nghiên cứu thành phần loài ruồi, muỗi tại  một số Vườn Quốc gia (VQG) và khu Bảo tồn Thiên nhiên (BTTN) ở Nam bộ là cần thiết, nhằm dự báo khả  năng xảy ra một số dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế và du lịch của địa  phương.

Mục tiêu: Xác định thành phần loài ruồi, muỗi và chỉ ra các loài có vai trò dịch tễ ở Nam bộ.

Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang, mô tả, phân tích.

Đối tượng nghiên cứu: ruồi gần người (liên họ Muscoidea) và muỗi (họ Culicidae). Địa điểm và thời gian  nghiên cứu: Vườn  quốc  gia  (VQG)  Cát  Tiên,  khu  Bảo  tồn  Thiên  nhiên  (BTTN)  Cần  Giờ,  VQG  Côn  Đảo  và  VQG Phú Quốc. Thời gian nghiên cứu: năm 2004 ‐ 2011.

Kết  quả:  Đã  thu  thập  được  1.053  mẫu  ruồi,  thuộc  72  loài,  28  giống,  3  họ  (Muscidae,  Calliphoridae,  Sarcophagidae) và 15.365 mẫu muỗi, thuộc 112 loài, 14 giống, 1 họ (Culicidae). Trong đó, 57 loài ruồi và 22 loài  muỗi có vai trò dịch tễ ở Việt Nam.

Kết luận: Thành phần loài ruồi, muỗi tại các điểm nghiên cứu ở Nam bộ khá phong phú, trong đó có một số  loài có vai trò dịch tễ quan trọng ở Việt Nam. Việc giám sát thường xuyên thành phần, mật độ các loài ruồi và  muỗi sẽ góp phần tìm biện pháp phòng chống các bệnh do chúng truyền.

Từ khóa:thành phần ruồi và muỗic, vườn quốc gia, khu bảo tồn

ABSTRACT

SPECIES COMPOSITION OF THE FLIES AND MOSQUITOES IN SOME NATION PARKS AND  NATURE RESERVE OF SOUTHERN OF VIETNAM

Nguyen Van Chau, Vu Đức Chinh, Nguyen Van Dung, Nguyen Thi Bich Lien, Ho Dinh Trung,

Ta Huy Thinh, Le Thanh Dong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 361 ‐ 368

Background: Flies and mosquitoes in commonly play the important role for transmision some dangerous  disease in over the World and Vietnam. Southern of Vietnam is in tropical region, which hot humid climate is  favorable  condition  for  developing  of  flies  and  mosquitoes.  Thus  study  on  species  composition  of  flies  and  mosquitoes in this location is necessary, wich contributes to predict the risk of disease in order to prevent timely.

Objectives:  To  determine  of  species  composition  of  flies  and  mosquitoes  and  specify  the  species  with  are

vectors.

Methods: Cross‐sectional survey, describle analysis. Fly (super‐family Muscoidea) and mosquitoes (family  Culicidae). Location and time study: Cat Tien National Park, Con Dao National Park, Phu Quoc National Park

* Viện Sốt rét ‐ Ký sinh trùng‐Côn trùng Trung ương **: Viện Sinh Thái và Tài Nguyên Sinh Vật   ***: Viện Sốt rét‐Ký sinh trùng –Côn trùng TP. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Văn Châu ĐT: 0982331949

Email: vanchaunimpe@yahoo.com

360

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  and Nature Reserve Can Gio; study period time: 2004‐2011.

Result: Total 18 points in 4 localities 1,053 fly samples were collected, belonging to 72 species, 28 genus, 3  families. And 15,365 mosquito samples were collected, belonging to 112 species, 14 genus, 2 sub‐family. Among  collected species, there are 57 fly species, 22 mosquito species are play the pidemiological role in Vietnam.

Conclusion:  Species  composition  of  flies  and  mosquitoes  in  4  locations  in  Southern  of  Vietnam  is  rather  diversity and also numbers of them are play the important epidemiological role. The monitoring of density and  species  composition  of  flies  and  mosquitoes  in  the  areas  will  be  contribute  to  find  out  control  measure  disease  transmited by filies and mosquitoes.

Keywords:  species  composition  of  the

flies  and  mosquitoes,  National  Park,  Nature  Reserve

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đối tượng nghiên cứu

Ruồi  nhà  (Muscidae),  nhặng  (Calliphoridae),  ruồi  ăn  xác  động  vật

ruồi  xám  hay  (Sarcophagidae) và họ muỗi Culicidae.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu:

‐ Vườn quốc gia (VQG) Cát Tiên: khu Tà Lài,  Bến Cự, Đất Đỏ (xã Tân Phú) (6/2005) và Xã Tiên  Hoàng (Nam Cát Tiên) (11/2004)(8).

‐  Khu  Bảo  tồn  Thiên  nhiên  Cần  Gìơ:  Dần  Xây, Phân Khu I (thôn An Phước, xã Tam Thôn  Hiệp), ấp Long Thạnh, xã Long Hòa (tháng 4 và  9/2007)(6).

‐ VQG Côn Đảo: Khu 2, Khu 5, Nhà Bàn và

Bãi Ông Đụng (11/2005)(11).

‐  VQG  Phú  Quốc:  thị  trấn  Dương  Đông,  xã  Bãi Thơn, xã Cửa Dương (ấp Bến Tràm) (4/2010);  thị  trấn  An  Thới,  Hàm  Ninh  (ấp  Cây  Sao)  (6/2011),  Dương  Tơ  (ấp  Suối  Đá),  Cửa  Dương  (ấp Phú Tượng) và Cửa Cạn (ấp Ba) (11/2011)(7).

Nhiều loài ruồi, muỗi có vai trò quan trọng,  truyền  một  số  bệnh  nguy  hiểm  trên  thế  giới  cũng  như  ở  Việt  Nam.  Việt  Nam  nằm  trong  vùng  Á  nhiệt  đới  có  khí  hậu  gió  mùa,  nóng  và  ẩm.  Khu  vực  Nam  bộ  có  khí  hậu  nóng  và  ẩm  quanh  năm  rất  phù  hợp  với  nhiều  nhóm  côn  trùng phát triển, trong đó có ruồi và muỗi. Theo  kết  quả  nghiên  cứu  của  nhiều  tác  giả  cho  thấy,  hàng loạt các mầm bệnh lây nhiễm có trên cơ thể  ruồi như bệnh do virus, các bào nang nấm, một  số bệnh ký sinh trùng, bệnh lao, bạch hầu, đau  mắt  v.v...  Nhiều  loài  muỗi  đóng  vai  trò  truyền  bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản,  giun  chỉ  bạch  huyết  v.v…  Do  vậy,  việc  nghiên  cứu thành phần loài ruồi gần người và muỗi tại  một  số  Vườn  quốc  gia  và  khu  Bảo  tồn  Thiên  nhiên ở Nam bộ là cần thiết. Vì đó là những nơi  có  nhiều  tiềm  năng  phát  triển  kinh  tế,  du  lịch,  nghiên  cứu  khoa  học  v.v...  Kết  quả  nghiên  cứu  thành phần loài ruồi, muỗi sẽ là cơ sở để dự báo  một  số  dịch  bệnh  do  chúng  lan  truyền;  đồng  thời cũng là một chỉ số để đánh giá ảnh hưởng  của  biến  đổi  khí  hậu  và  góp  phần  vào  việc  nghiên cứu đa dạng sinh học ở Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  thành  phần  loài  ruồi,  muỗi  và  chỉ

ra những loài có vai trò dịch tễ ở Nam bộ.

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Hình 1: Vị trí các điểm nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Điều tra cắt ngang, mô tả và phân tích.

Điều  tra  thu  thập  muỗi  theo  kỹ  thuật  thường quy của Viện Sốt rét ‐ Ký sinh trùng ‐  Côn  trùng  Trung  ương  (Viện  Sốt  rét‐KST‐CT

361

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TT Tên loài ruồi Cần Giờ Cát Tiên Côn Đảo Phú Quốc 1903 21 Mus. domestica* Linnaeus, x x x x 1758 22 Mus. fletcheri * Patton et al., x 1824 23 Mus. formosana * Maloch, x x 1925

Nghiên cứu Y học  TƯ).  Định  loại  muỗi  chủ  yếu  dựa  vào  đặc  điểm  hình  thái(5).  Một  số  nhóm  loài  Anopheles  được  thẩm  định  bằng  kỹ  thuật  sinh  học  phân  tử  (PCR‐  polymerase  chain  reaction).  Ruồi  được thu thập bằng vợt và phân loại bằng đặc  điểm  hình  thái  theo  tài  liệu  của  Fan,  1965,  1992;  Tạ  Huy  Thịnh,  2000.  Danh  sách  thành  phần loài được xếp theo vần alpha beta.

24 Mus. pattoni * Austen, 1910 25 Mus. seniowhitei * Patton, x x x

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đã  thu  thập  được  1.053  mẫu  ruồi  và  15.365

mẫu muỗi, sau đây là kết quả phân loại.

1922 26 Mus. sorbens* Wiedemann, x x x x 1830 27 Mus. ventrosa* Wiedemann, x x 1830 28 Myospila argentata* (Walker, x x x 1856) 29 Myo. bina* (Wiedemann, x

Thành phần loài và phân bố ruồi và muỗi  ở các điểm nghiên cứu  Bảng 1. Danh sách các loài ruồi và điểm thu thập

1830) TT Tên loài ruồi

30 Myo. laevis* (Stein, 1900) 31 Myo. lenticeps * (Thomson, x x x

1 Cần Giờ Cát Tiên Côn Đảo x Phú Quốc 32 x x

33 x 2 3 x x 1869) Neomyia lauta * (Wiedemann, 1830) Neo. timorensis * (Rob.- Desvoidy, 1830) 34 Neo. yunnanensis * (Fan, x 4 x Họ ruồi nhà Muscidae Atherigona atripalpis* Malloch,1925 Ath. biseta* Karl, 1939 Ath. falcata* (Thomson, 1869) Brontea subtilis* (Stein, 1909) 35 x 5 Dichaetomyia bibax* (Weid., x 1965) Ophyra chalcogaster (Wied.,1824) 1824) 36 Stomoxys calcitrans * (Linné, x x 6 Graphomyia rufitibia* Stein, x 1758) 1918 7 Haematobia irritans* (Linne’, x 37 Sto. indicus * Picard, 1908 38 Sto. sitiens * Rondani, 1873

8 x x 39 x x x x Họ nhặng Calliphoridae Bengalia emarginata * Malloch, 1927 9 x 40 Calliphora vomitoria* (Linne’, x 1758) 41 Chrysomyia megacephala * x x x x 10 11 x x x (Fab., 1794) 1758) Hydrotea chalcogaster* (Wied., 1824 Limnophora albonigra * Emden, 1965 Lim. fallax* Stein, 1920 Lispe leucospila* (Wied., 1830)

x x 42 Ch. pinguis* (Walker, 1858) 43 Ch. rufifacies* (Macquart, 1842)

12 Lis. longicollis * Meigen, 1826 13 Lis. manicata* Wied., 1830 14 Lis. orientalis * (Wied., 1824) 15 Musca bezzi * Patton et x x x x 44 Ch. villeneuvi* Patton, 1922 45 Cosmina bicolor* (Walker, x x Cragg, 1913 16 Mus. conducens* Walker, x x x 46 x 1860 x 17 Mus. confiscalta* Speiser, 47 x x x

18 x x x x 48 x 1942 Mus. convexifrons * Thomson, 1868 1856) Dexopollenia yuphae Kurahashi, 1995 Hemipyrellia ligurriens* (Wied., 1830) Hem. pulchra* (Wiede., 1830) 49 Hypopygiopsis fumipennis* x 19 Mus. craggi * Patton, 1922 20 Mus. crassirostris* Stein, x x x (Wal., 1857)

362

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

thu thập tại các điểm không nhiều (<100 cá thể)  (Bảng 1).

TT Tên loài ruồi

Cần Giờ Cát Tiên x Côn Đảo x Phú Quốc x x 50 Hyp. imfumata* (Bigot, 1877) 51 Lucilia cuprina* (Wiedemann, 1830)

Bảng 2. Danh sách các loài muỗi Anophelinae tại các  điểm nghiên cứu

52 Luc. papuensis * Macquart, x TT Tên loài 53 x x Cần Giờ Cát Tiên Côn Đảo x Phú Quốc x 1 1842 Luc. porphyrina* (Walker, 1875) Anopheles aconitus * Doenitz,1902

54 Luc. sericata* (Meigen, 1826) 55 x x

x xx x x x x (x) x x 56 x 2 An. argyropus Swell.,1914 3 An. barbirostris # Van., 1884 4 An. campestris Reid, 1962 An. crawfordi Reid, 1953 5 An. dirus * Peyton and 6 Harrision, 1979 Rhyncomyia setipyga* Villeneuve, 1929 Họ ruồi ăn thịt Sarcophagidae Blaesoxipha rufipes* (Macquart, 1839) xxxx 7 Anopheles epiroticus* (Lin. & 57 Boettchensica peregnina* (R- x D., 1830)

Harb., 2005) (=Anopheles sundaicus Rodenwaldt, 1925)

Boe. javanica* Lopes, 1961 x x x 58 59 Boe. nathani* Lopes, 1961 Lioproctia patton* (S-W., 60 1924) An. kochi Doenitz,1901 61 Miltogramma iberica*(Vill., x 8 An. jamesii Theobal, 1901 9 An. karwari (James,1902) 10 11 An. maculatus* Theobald, x x x x 1913) 1901 62 Parasarcophaga albiceps* x x x x 12 An. minimus* Theobald, x 1901

(Mei., 1826) 63 Par. brevicornis * (Ho, 1934) x 64 Par. dambiensis* (shino. et x x 13 An. nigerimus Gles, 1900 14 An. nimpe Nguyen, Tran, x Thinh, 2003) 65 Par. Doleschali* (Johnston et x x 15 Tiegs, 1921)

Harbach, 2000 An. nitidus Harrison et al.,1973 (= Anopheles indiensis Reid, 1953).

*: Các loài có ý nghĩa y học quan trọng ở Việt Nam.

66 Par. javana (Macquart, 1851) 67 Par. knabi* (Parker, 1917) 68 Par. misera (Walker, 1949) x x x x x x x 16 An. nivipes (Theoball, 1903) 17 An. pampanai Buttiker & 69 Par. orchidea (Boet., 1913) x x x x x 18 70 Par. ruficornis* (Fabricius, x x Beales, 1959 An. peditaeniatus Leicesster,1908 1794) x x 19 An. philippinensis Ludlow, 71 Par. taenionota (Wiedemann, x 1902 x x 20 An. sawadwongporni Ratta. 72 x & Reen, 1986 1919) Senotainia navigatrix (Meijere, 1920) x x x 21 An. sinensis *# Wiedmann, x Số loài/số giống ở từng điểm 16/9 25/11 23/13 46/19 1928 nghiên cứu x x 22 An. tesellatus* Theoball, 1901

x x x x 23 An. vagus * Doenitz,1902 24 An. umbrosus (Theobald,

Ghi chú: * Các loài truyền bệnh sốt rét; # truyền bệnh  giun chỉ bạch huyết; (+) bọ gậy x: 1‐100 cá thể; xx: 101‐  500 cá thể; xxx: 501 – 1000; xxxx: > 1000 cá thể.

Tại  các  điểm  nghiên  cứu  đã  thu  thập  được  72  loài  ruồi,  chiếm  24,64%  (72/318)  tổng  số  loài  ruồi gần nhà hiện biết ở Việt Nam; gồm 3 họ: họ  Muscidae có 13 giống, 38 loài; họ Calliphoridae có  9 giống, 17 loài và họ Sarcophagidae có 6 giống, 17  loài. Trong đó 56 loài ý nghĩa y học quan trọng ở  Việt  Nam(10).  Số  lượng  giống  và  loài  ruồi  ở  mỗi  điểm  khác  nhau.  Số  lượng  cá  thể  các  loài  ruồi

Tại  các  điểm  nghiên  cứu  đã  thu  thập  được  24 loài Anopheles, chiếm tỷ lệ 38,71% so với tổng

6 1903) Số loài ở từng điểm 3 8 21

363

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TT Tên loài muỗi

31 Ar. magnus (Theobald, 1908) 32 Ar. moutoni Edwards, 1914 33 Ar. pectinatus (Edwards, 1914) 34 Ar. subalbatus (Coquill., 1908) 35 Coquillettidia crassipes (Van Cần Giờ Cát Tiên x x x Côn Đảo x Phú Quốc x x x

Nghiên cứu Y học  số loài hiện biết ở Việt Nam (62 loài)(4). Trong đó  7 loài truyền sốt rét, 1 loài truyền giun chỉ bạch  huyết,  1  loài  truyền  sốt  rét  và  giun  chỉ  bạch  huyết  ở  Việt  Nam.  Tại  Cần  Giờ  An.  epirotitus  chiếm ưu thế, Côn đảo An. dirus chiếm ưu thế về  lượng cá thể (Bảng 2).

der Wulp, 1881) 36 Culex bitaeniorhynchus * Giles, x x x

Bảng 3. Danh sách các loài muỗi Culicinae và điểm  thu thập

1901 Cx. bernardi Borel,1926 TT Tên loài muỗi

Cần Giờ xx Cát Tiên x Côn Đảo x Phú Quốc xx 1 (xx) 37 38 Cx. brevipalpis (Giles, 1902) 39 x (x) x x x

x x xxx 2 x Cx. fuscocephala* Theobald,1907 Cx. fragilis Ludlow,1903

Aedes aegypti (cid:204) (Linnaeus,1757) Ae. albopictus (cid:204) (Skuse, 1894) Ae. amesii (Ludlow, 1903) 3 4 Ae. andamanensis Edwards, x x 1922 5 Ae. annandalei (Theobald, x 1910)

x x x x 40 41 Cx. gelidus * Theobald, 1901 42 Cx. halifaxi Theobald,1903 43 Cx. khazani Edwards, 1922 44 Cx. malayi (Leicester, 1908) 45 Cx. minor (Leicester, 1908 Cx. mimeticus Noe,1899 46 47 Cx. nigropunctatus Edwards, x x x x (x) xx x x x 6 Ae. caecus (Theobald,1901) 7 Ae. cancricomes Edwards, (x) (x) x x x x 1926 1922 48 Cx. pallidothorax Theobald, x 1905 x 49 Cx. pseudovishnui* Colles, x x 1955 50 Cx. quinquefasciatus * # Say, x x x x 1823

8 Ae. desmotes (Giles, 1904) 9 Ae. dux Dyar & Shanno, 1925 10 Ae. eldriger (Reinert, 1973) 11 Ae. helenac (Reinert, 1973) 12 Ae. imprimens (Walker,1861) 13 Ae. laniger (Weidmann, 1821) 14 Ae. lineotopennis (Ludlow, x x x x x x x x x 51 Cx. raptor (Edwards,1922) 52 Cx. rubitthoracis Leicester, x x 1903) 1908 15 Ae. maclalanei (Edwards, x 1914) 16 Ae. mediolineatus (Theobald, x 53 Cx. sinensis # Theobald, 1903 54 Cx. sitiens Wiedmann, 1828 xxxx 55 Cx. tritaeniorhynchus * Giles, x x x x x x 1901)

x x x x (x) xxx x x x (x)

x xx x x x x x x x x x x x 63 x 17 Ae. niveus (Ludlow,1903) 18 Ae. poicilius (Theobald,1903) 19 Ae. pulcheiventer (Giles, 1901) 20 Ae. vexans (Meigen, 1830) Ae. vigilax (Skuse, 1889) 21 Ae. vittatus (Bigot, 1866) 22 Aedes sp1 23 24 Aedes sp2 Armigeres anulitarsis 25 (Leicester, 1908) x 26 Ar. aureolinaetus (Leicester, 1908) (xx) (x) 64 65 1901 56 Cx. vishnui * # Theobald, 1901 x x 57 Cx. vorax (Edwards, 1921 58 Cx. whitmori (Giles, 1904) Cx. whitei Barraud,1928 59 Culex sp1 60 Culex sp2 61 Heizmania communis 62 (Leicester, 1908) Heizmania thelmae Mattingly,1970 Heizmania sp Lutzia fuscana Wiedmann, 1820 (x) 66 Malaya genurostris Leicester, x x x x x x xx 27 Ar. durhami (Edwards, 1917) 28 Ar. flavus Leicester, 1908 29 Ar. kuchingensis (Edwards, 1915) 67 x 1908 Mansonia annulifera # (Theobald, 1901) 30 Ar. longipalpis (Leicester, x 1904) 68 Man. bonnae Edwards, 1930 x

364

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TT Tên loài muỗi

Muscidae,  Calliphoridae  và  Sarcophagidae  phân  bố  ở một số điểm thuộc Tp.Hồ Chí Minh và các tỉnh  Long  An,  Đồng  Nai,  Tiền  Giang,  Kiên  Giang,  Cần Thơ, Cà Mau.

Cần Giờ Cát Tiên x Côn Đảo Phú Quốc x 69 Man. indiana # Edwards, 1930 70 Man. ocharacea Theobald, 1903

71 Man. uniformis # (Giles, 1904) 72 73 74 75 x x x x x x x Mansonia sp Mansonia sp2 Mansonia sp3 Mimomyia chambelaini (Ludlow, 1904)

76 Mim. fusca (Leicester, 1908) 77 x x Ochlerotatus ganapathi (Colless, 1958)

78 Och. khazami (Edwards, 1922 79 Och. mikrokopion (Knight and x x Harrison, 1987 x 80 Och. novoniveus (Barraud, x x 1934)

81 Och. vigilax (Skuse, 1889) 82 x x x Orthopodomya albipes Leicester, 1904 x 83 Toxorhynchites splendens, (x) (x)

Tài  liệu  nghiên  cứu  về  muỗi  Anophelinae  ở  Nam bộ khá phong phú. Điển hình có công trình  của Borel (1930)(1); Phạm Văn Tường (2001) điều  tra  ở  Phú  Quốc;  Nguyễn  Long  Giang  và  Cs.  (1980) điều tra tại Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh  trong  năm  1976.  Trần  Đức  Hinh  và  Cs.  (2001)  điều  tra  tại  huyện  Đầm  Dơi,  tỉnh  Cà  Mau  từ  năm  1997‐2000.  Phạm  Xuân  Đỉnh  và  Cs.  (2011)  điều tra ở Bến Tre từ năm 2006‐ 2007. Đáng chú  ý, nghiên cứu của Nguyễn Thọ Viễn và Cs(1980)  tại Đồng Nai (1978)(5) và của Lê Xuân Hợi và CS.  (2004)  tại  U  Minh  (2002‐2003)(3),  đã  thu  thập  được  các  loài:  An.  aikenii,  An.  annularis,  An.  baezai, An. jeyporiensis, An. indefinitus, An. lesteri,  An.  letifer,  An.  paraliae,  An.  separatus,  An.  splendidus,  An.  subpictus  và  An.  varuna.  Những  loài  này  chúng  tôi  chưa  thu  thập  được  tại  các  điểm nghiên cứu. Như vậy cho đến nay ở Nam  bộ đã ghi nhận 36 loài muỗi Anophelinae.

84 x x (Weid., 1819) Tripteroides aranoides (Theobald, 1901)

85 Tri. proximus (Edwards., 1915) 86 87 x x x x

Ghi chú: (cid:204) : truyền sốt xuất huyết; * : truyền viêm não  Nhật Bản; # : truyền giun chỉ bạch huyết; (x): những loài  chỉ bắt được bọ gậy.

Nghiên  cứu  về  thành  phần  loài  Culicinae  ở  Nam  bộ  còn  ít.  Borel  (1930)  đã  công  bố  72  loài  Culicinae  ở  Nam  bộ;(1)  Stojanovich  và  Cs.(1965)  nghiên  cứu  muỗi  Culicidae  ở  Việt  Nam,  nhưng  không  tách  riêng  muỗi  Culicinae  ở  Nam  bộ;  Vũ  Đức  Hương  và  Cs.  (2005)  điều  tra  được  14  loài  muỗi Culicinae tỉnh Long An.

Tại  các  điểm  nghiên  cứu  đã  thu  thập  được  88  loài  muỗi  thuộc  phân  họ  Culicinae,  gồm  13  giống; bằng 66,16% tổng số loài Culicinae đã biết  ở  Việt  Nam(9).  Giống  Culex  25  loài,  giống  Aedes  24 loài, giống Armigeres 10 loài, các giống khác 1‐ 9  loài.  Trong  đó  2  loài  truyền  sốt  xuất  huyết,  5  loài  truyền  viêm  não  Nhật  Bản,  4  loài  truyền  giun  chỉ  bạch  huyết  và  2  loài  vừa  truyền  viêm  não vừa truyền giun chỉ bạch huyết ở Việt Nam  (Bảng 3).

Tripteroides sp Uranotaenia bimaculata Leicester, 1908 Uranotaenia sp1 88 (x) Số loài/số giống ở từng điểm 21/6 41/8 29/8 53/11

BÀN LUẬN

Ruồi  nhặng  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  việc lan truyền nhiều bệnh truyền nhiễm và ký  sinh  cho  người.  Chúng  có  thể  mang  một  số  lượng  cực  lớn  các  mầm  bệnh  trên  cơ  thể.  Theo  Derbeneva‐Ukhova  (1952)  trên  1  con  ruồi  nhà  (Musca  domestica)  có  khoảng  6  triệu  vi  sinh  vật  bám và 28 triệu vi sinh vật trong đường tiêu hoá.  Trong  số  các  loài  vi  sinh  vật  đó  có  44  loài  gây  bệnh. Cako (1892) đã phân lập được phẩy khuẩn  tả từ phân ruồi nhà. Gali Valerio (1902) tìm thấy  trực  khuẩn  lỵ  trong  cơ  thể  ruồi  nhà  và  2  loài  nhặng.  Các  nghiên  cứu  cho  rằng,  có  tới  90%  trường  hợp  bệnh  đường  ruột  do  ruồi  tham  gia  lan truyền. Nhiều loại mầm bệnh lây nhiễm qua

Tài liệu nghiên cứu về thành phần loài ruồi ở  Nam  bộ  còn  ít,  ngoài  2  công  trình  của  Tạ  Huy  Thịnh, 2000 và, 2007(10). Trong các công trình này  tác  giả  điều  tra  được  49  loài  ruồi  thuộc  3  họ

365

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Các  loài  muỗi  đã  xác  định  truyền  giun  chỉ  bạch huyết ở Việt Nam gồm: Mansonia anulifera,  Masonia  indiana  (theo  Iyengar,  1953);  Anopheles  barbumbrosus,  An.  letifer,  Cx.  quiquefasciatus,  Cx.  vishnui  (theo  Nguyễn  Thị  Bạch  Ngọc  và  Cs.,  2001)(2).

KẾT LUẬN ĐỀ NGHỊ

1.  Thành  phần

loài  ruồi  gần  người  (Culicoidea)  tại  các  điểm  nghiên  cứu  không  phong phú, gồm 72 loài, 28 giống, 3 họ. Họ ruồi  nhà  (Muscidae)  38  loài,  13  giống;  họ  nhặng  (Calliphoridae)  17  loài,  9  giống  và  họ  ruồi  xám  (Sarcophagidae) 17 loài, 6 giống. Trong đó 56 loài  có ý nghĩa y học quan trọng ở Việt Nam.

Nghiên cứu Y học  đường miệng đã xác định được ở ruồi như bệnh  do  virus  (bại  liệt,  viêm  gan),  các  bệnh  nhiễm  khuẩn  (lỵ  trực  trùng,  thương  hàn,  tả)  các  bào  nang  nấm;  các  bệnh  ký  sinh  trùng (amip,  giun  kim,  giun  đũa,  sán  dây) cũng  như  nhiều  mầm  bệnh  ngoài  đường  tiêu  hóa  như  lao,  bạch  hầu,  đau mắt, viêm da v.v...Ở Việt Nam, Hoàng Xuân  Ổn  và  Cs.(1970)  đã  tìm  thấy  bào  nang  lỵ  amip  Entamoeba hystolotica trên cơ thể và bộ máy  tiêu  hóa  của  ruồi  nhặng.  Nguyễn  Văn  Hiếu  và  Cs.  (1983)  phân  lập  được  phẩy  khuẩn  tả  Vibrio  cholera  eltor  trên  ruồi  trong  vụ  dịch  tả  ở  Hải  Phòng.  Đoàn  Trí  Thông  và  Cs.  (1978)  phân  lập  được 14 loài vi khuẩn gây đường ruột, trong đó  có  Vibrio  parahaemolyticus  từ  ruồi  nhặng.  Trần  Thảnh  (1973),  Đỗ  Dương  Thái  (1976)  đã  xét  nghiệm  thấy  trứng  giun  đũa  trên  ruồi  v.v...  Tạ  Huy  Thịnh  (1993)  xét  nghiệm  thấy  trứng  giun  tóc  (Trichiuris  trichiura)  và  trứng  giun  đũa  trên  ruồi nhà Musca domestica, ruồi chợ Musca sorbens  và nhặng xạnh Chrysomyia megacephala. Như vậy  khả năng mang mầm bệnh truyền nhiễm và ký  sinh trùng của ruồi nhặng ở Việt Nam đã được  chứng  minh.  Tuy  nhiên,  trong  một  số  nghiên  cứu  chưa  xác  định  chính  xác  tên  khoa  học  loài  ruồi đã xét nghiệm(10).

2.  Thành  phần  loài  muỗi  (Culicidae)  tại  các  điểm nghiên cứu khá phong phú, gồm 112 loài,  14  giống,  2  phân  họ.  Phân  họ  Anophelinae  1  giống (Anopheles), 24 loài; trong đó 9 loài có vai  trò  truyền  bệnh  (7  loài  truyền  sốt  rét,  1  loài  truyền giun chỉ bạch huyết, 1 loài vừa truyền sốt  rét và giun chỉ bạch huyết). Phân họ Culicinae 13  giống, 88 loài; trong đó 13 loài có vai trò truyền  bệnh (2 loài truyền sốt xuất huyết, 5 loài truyền  viêm não Nhật Bản, 4 loài truyền giun chỉ bạch  huyết và 2 loài vừa truyền viêm não và giun chỉ  bạch huyết) ở Việt Nam.

Vai trò truyền bệnh của muỗi

3. Cần giám sát thành phần, mật độ các loài  ruồi,  muỗi  có  vai  trò  dịch  tễ  ở  những  nơi  môi  trường thuận lợi cho sự phát sinh, phát triển của  chúng  và  những  nơi  có  ổ  bệnh  truyền  nhiễm.  Kịp  thời  phát  hiện  các  loài  ruồi,  muỗi  lạ  nhập  nội để sớm có biện pháp phòng ngừa.

Nhiều  tài  liệu  nghiên  cứu  đã  khẳng  định  một  số  loài  muỗi  Anophelinae  ở  Việt  Nam  như:  Anopheles  aconitus,  An.  dirus,  An.  epiroticus,  An.  indefinitus,  An.  jeyporiensis,  An.  minimus,  An.  maculatus, An. sinensis, An. subpictus và An. vagus  đã  nhiễm  tự  nhiên  bào  nang  (trong  dạ  dày)  và  thoa trùng Plasmodium (trong tuyến nước bọt)(2).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

Cx.

fuscocephala

3.

fatigans

4.

Borel E. (1930). Les moustiques de la Cochinchine et du Sud‐ Annam. Monographie III: 403pp (Pub. Ins Pasteur Indochine).  Hồ  Đắc  Toàn  (2010).  Muỗi  Culicidae:  phân  loại  và  vai  trò  truyền bệnh. http://www.impe‐qn.org.vn/impe.  Lê  Xuân  Hợi,  Nguyễn  Đình  Lực,  Nguyễn  Văn  Hùng,  Lê  Trung  Kiên  và  cộng  sự  (2004).  Thông  báo  kết  quả  điều  tra  thành phần, phân bố các loài muỗi Anopheles theo sinh cảnh ở  khu vực rừng U Minh. Tạp chí PCSR&KST, số 6: 50‐57. Viện  Sốt rét‐KST‐CT TƯ.  Nguyễn Mạnh Hùng, Vũ Khắc Đệ,  Vũ  Đức  Chính,  Nguyễn  Đức Mạnh, Hồ Đình Trung, Bùi Lê Duy, Lê Xuân Hợi (2008).  Bảng  định  loại  muỗi  Anopheles  ở  Việt  Nam.  NXB  Y  học:  68.  Viện Sốt rét‐KST‐CT TƯ.

Một  số  loài  muỗi  Culicinae  như:  Culex  tritaeniorhynchus,  Cx.  gelidus,  Cx.  vishnui,  Cx.  pseudovishnui,  Cx.  quinquefasciatus tại địa bàn Tây Nguyên đã phân  lập  được  vius  viêm  não  Nhật  Bản  (Đặng  Tuấn  Đạt và Cs.(2009). Culex pseudovishnui, Cx. gelidus,  (=  Cx.  quiquefasciatus)  và  Cx.  Cx.  tritaeniorhynchus  tại  Ninh  Kiều,  Cần  Thơ  đã  phân lập được virus viêm não Nhật Bản (Hồ Thị  Kim Thu và Cs., 2005).

366

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

8.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  5.

6.

9.

Nguyễn Văn Châu, Hồ Đình Trung (2005). Danh sách các loài  chân đốt y học ở Vườn quốc gia Cát Tiên. Báo cáo Khoa học  tại  Hội  nghị  toàn  quốc  2005,  nghiên  cứu  cơ  bản  trong  khoa  học sự sống, trang: 80‐85. Nhà xuất bản (NXB) KH&KT, Hà  Nội,   Phuong Bui & Darsie RF., JR. (2008). Tentative checlist of the  mosquitoes of Vietnam employing new classfication for tribe  Aedini (Diptera, Culicidae). Journal of the American Mosquito  Control Assocation, 24 (2): 187‐193.

7.

10. Tạ Huy Thịnh (2007). Ruồi có ý nghĩa y học quan trọng ở Việt  Nam  (Muscidae,  Calliphoridae,  Sarcophagidae):  260  trang.  NXB  Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.

Nguyễn  Thọ  Viễn,  Nguyễn  Long  Giang,  Lê  Văn  Hạnh,  Nguyễn  Khắc  Tân  và  CTV(1980).  Một  số  nhận  xét  về  tình  hình  sốt  rét  tỉnh  Đồng  Nai  (miền  Đông  Nam  Bộ).  Kỷ  yếu  CTNCKH Viện Sốt rét, KST và CT: 65‐70. NXB Y học, Hà Nội.   Nguyễn  Văn  Châu,  Đỗ  Thị  Hiền,  Nguyễn  Thị  Kha,  Phùng  Xuân Bích, Nguyễn Thị Bích Liên, Nguyễn Thị Hương Bình,  Lê Anh Thơ, Lê Tuấn Kiệt (2008). Kết quả điều tra chân đốt y  học  tại  Khu  bảo  tồn  Thiên  nhiên  rừng  ngập  mặn  Cần  Giờ..  Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng  (PCSR&KST).  Số  3:  61‐68.  Viện  Sốt  rét‐Ký  sinh  trùng  ‐  Côn  trùng Trung ương (Viện Sốt rét‐KST‐CT TƯ).  Nguyễn Văn Châu, Hồ Đình Trung và CTV (2012). Điều tra  thành phần loài chân đốt y học và xác định độ nhạy cảm của  muỗi  Aedes aegypti  và  Aedes albopictus  với  hóa  chất  diệt  côn  trùng ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong năm 2010‐2011. Tạp  chí PCSR&KST, số 2: 71‐84. Viện Sốt rét‐KST‐CT TƯ.

11. Vũ Đức Chính, Hồ Đình Trung, Nguyễn Đức Mạnh, Nguyễn  Văn  Châu,  Nguyễn  Thị  Bạch  Ngọc,  Nguyễn  Thị  Kha,  Trần  Nguyên Hùng, Nguyễn Mạnh Hùng, Vũ Việt Dũng, Bảo Bôn  (2006). Kết quả điều tra đa dạng tiết túc  y  học  tại  Côn  Đảo.  Tạp chí PCSR&KST, số 4: 66‐74. Viện Sốt rét‐KST‐CT TƯ.

367

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH KHÁNG KHUẨN  CỦA TINH DẦU NGÒ RÍ (Coriandrum sativum L.)

Phan Bích Hà*, Nguyễn Đỗ Phúc*, Tân Hoàng**, Lê Ngọc Thạch **

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Ngày nay, dược phẩm có nguồn gốc thảo dược rất được quan tâm bởi độ an toàn cao khi sử  dụng. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy khả năng kháng khuẩn của tinh dầu ngò, nhất là tinh dầu lá của cây  ngò. Cây ngò rí được trồng khá phổ biến ở Việt Nam nhưng chủ yếu lấy lá làm gia vị. Nhằm góp phần nâng cao  sự khai thác và ứng dụng của cây ngò ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành khảo sát thành phần hóa học và hoạt tính  kháng khuẩn của tinh dầu từ lá và thân ngò rí.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát thành phần hóa học và hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu ngò rí.

Phương pháp nghiên cứu: Ly trích tinh dầu từ lá, thân ngò rí bằng phương pháp chưng cất hơi nước đun  nóng cổ điển. Thành phần hóa học mẫu tinh dầu được phân tích bằng thiết bị sắc ký khí đầu dò ion hóa ngọn lửa  (GC/FID) và sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS). Sử dụng phương pháp khuyếch tán trên thạch để khảo sát hoạt  tính kháng khuẩn của các tinh dầu ly trích được.

Kết quả nghiên cứu: Tinh dầu từ lá và thân ngò có màu vàng nhạt, mùi tự nhiên. Sau 06 giờ chưng cất,  hàm lượng tinh dầu lá đạt 0,06%, hàm lượng tinh dầu thân là 0,03 %. Tinh dầu lá ngò có cấu phần chính gồm  decanal, (E)‐2‐decenal, (E)‐2‐decen‐1‐ol, (E)‐2‐dodecenal, (E)‐2‐tetradecenal. Cấu phần chính tinh dầu thân ngò  gồm decanal, (E)‐2‐decenal, 1‐decanol, (E)‐2‐dodecenal, (E)‐2‐tetradecenal. Khảo sát trên 09 chủng vi sinh vật  cho  thấy  tinh  dầu  ngò  ly  trích  được  không  xuất  hiện  vòng  kháng  khuẩn  trên  Bacillus  subtilis,  Pseudomonas  aeruginosa, Escherichia coli, Salmonella typhi.

Kết luận: Thành phần tinh dầu từ lá và thân ngò chủ yếu là các aldehid chi phương. Tinh dầu ngò có hoạt  tính diệt khuẩn đối với các vi khuẩn gây tiêu chảy (Vibrio cholerae), gây ngộ độc thực phẩm (Staphylococcus  aureus, Bacillus cereus) và nấm ở người (Candida albicans).

Từ khóa: Tinh dầu, ngò rí, decanal, (E)‐2‐decenal, (E)‐2‐tetradecenal, (E)‐2‐dodecenal.

ABSTRACT

SURVEY CHEMICAL COMPOSITION AND ANTIMICROBIAL ACTIVITY OF ESSENTIAL OILS OF  CORIANDER (Coriandrum sativum L.)

Phan Bich Ha, Nguyen Do Phuc, Tan Hoang, Le Ngoc Thach

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 369 ‐ 374

Background: Today, pharmaceutical products from medicinal herbs are taken care of by highly safe to use.  There are many studies suggesting the possibility of antimicrobial activity of coriander oil, especially oil coriander  leaves. Coriander plant grown quite popular in Vietnam but mostly leaves as a spice. To contribute to improving  the  exploitation  and  application  of  cilantro  plants  in  Vietnam,  we  surveyed  chemical  composition  and  antimicrobial activity of essential oils of coriander leaves and stems.

Objectives: Survey chemical composition and antimicrobial activity of essential oils of coriander.

Method:  Essential  oil  extracted  from  leaves,  stems  coriander  by  conventional  heating  hydrodistilation.

* Viện Vệ sinh ‐ Y tế Công cộng TP Hồ Chí Minh    Tác giả liên lạc: ThS. Phan Bích Hà   ĐT: 0978883710

** Đại học Khoa học Tự nhiên TP. HCM  Email: phbiha@yahoo.com

368

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  The  chemical  composition  of  leaf  and  stem  oil  was  identified  by  GC/MS  and  was  quantified  by  GC/FID.  Using the agar disk diffusion test to examine the antimicrobial activity of essential oils are extracted.

Results: Essential oils cilantro leaves and stems are pale yellow, like the natural smell. After 06 hours of  distillation,  essential  oil  content  of  leaves  reached  0,06%,  body  oil  content  is  0,03%.  Decanal,  (E)‐2‐decenal,  (E)‐2‐decen‐1‐ol,  (E)‐2‐dodecenal,  (E)‐2‐tetradecenal  were  the  main  constituents  of  leaf  oil  and  the  major  constituents  of  the  stem  oil  were  decanal,  (E)‐2‐decenal,  1‐decanol,  (E)‐2‐dodecenal,  (E)‐2‐tetradecenal.  Coriander essential oil extracted is not appearing on sterile round Bacillus subtilis,  Pseudomonas  aeruginosa,  Escherichia coli, Salmonella typhi. Zone diameters is smaller at reduced oil dilutions.

Conclusion: Coriander essential oil has antimicrobial activity against bacteria that cause diarrhea (Vibrio  cholerae),  which  causes  food  poisoning  (Staphylococcus  aureus,  Bacillus  cereus),  and  fungy  in  humans  (Candida albicans).

Keywords:  Essential  oil,  Coriandrum  sativum  L.,  decanal,  (E)‐2‐decenal,  (E)‐2‐tetradecenal,  (E)‐2‐

dodecenal.

Khảo  sát  thành  phần  hóa  học  và  hoạt  tính

ĐẶT VẤN ĐỀ

kháng khuẩn của tinh dầu từ lá và thân ngò rí.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Vật liệu nghiên cứu

Mẫu ngò rí dùng để ly trích lấy tinh dầu

Cây ngò 8‐9 tuần tuổi (đang ra hoa) được lấy  từ vườn rau ở phường Tân Biên, thành phố Biên  Hòa, tỉnh Đồng Nai: bỏ rễ, tách riêng lá và thân.

Ngò rí có tên khoa học là Coriandrum sativum  L.,  (Umbellifrae  hay  tán  thuộc  họ  Hoa  Apiaceae).  Ngò  có  các  tên  thường  gọi  khác  là  mùi, ngò ta, rau mai, hồ tuy, hương tuy, nguyên  tuy,  ngò  rí,  ngổ,...  là  cây  thảo,  sống  hằng  năm.  Ngò là loại rau gia vị, rau ăn phổ biến, là nguồn  thuốc  quý,  tinh  dầu  của  chúng  có  nhiều  ứng  dụng quan trọng trong công nghiệp hương liệu,  thực phẩm, dược liệu (3,11,17).

Việc xác định tên khoa học và giải phẫu học  tuyến tinh dầu của lá và thân được thực hiện tại  Bộ môn Thực vật, Khoa Sinh học, Đại học Khoa  học  Tự  nhiên  TP.  HCM.  Kết  quả  cho  thấy  bộ  phận  chứa  tinh  dầu  ở  lá  và  thân  ngò  là  xoang  tiết tạo ra theo cơ chế ly tiêu bào.

Ngày  nay,  dược  phẩm  có  nguồn  gốc  thảo  dược rất được quan tâm bởi độ an toàn cao khi  sử dụng. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy khả  năng kháng khuẩn của tinh dầu ngò, nhất là tinh  dầu lá của cây ngò(6).

Các chủng vi sinh vật

‐ 03 vi khuẩn gram (+): Staphylococcus aureus,

Bacillus subtilis, Bacillus cereus

‐  05  vi  khuẩn  gram

Kết  quả  tra  SciFinder  về  tinh  dầu  ngò  cho  thấy  nhiều  nơi  trên  thế  giới  có  nghiên  cứu  về  tinh dầu này như ở Canada(9,10); Ấn Độ(7,14); Mỹ(15);  Kenya(6);  Trung  Quốc(18).  Ở  Việt  Nam  chủ  yếu  công bố nghiên cứu về tinh dầu hạt ngò.(4,12,16)

Cây  ngò  được  trồng  khá  phổ  biến  ở  Việt

(‐):  Pseudomonas  aeruginosa,  Escherichia  coli,  Shigella  flexneri,  Vibrio  cholerae, Salmonella typhi

Nam nhưng chủ yếu lấy lá làm gia vị.(3,17)

‐ 01 vi nấm: Candida albicans

Qui trình kỹ thuật

Ly trích tinh dầu

Nhằm  góp  phần  nâng  cao  sự  khai  thác  và  ứng  dụng  của  cây  ngò  ở  Việt  Nam,  chúng  tôi  tiến hành khảo sát thành phần hóa học và hoạt  tính kháng khuẩn của tinh dầu từ lá, thân ngò rí.

Mục tiêu nghiên cứu

Ly trích tinh dầu từ lá và thân ngò rí

Tinh dầu được ly trích bằng phương pháp  chưng cất hơi nước đun nóng cổ điển. Sử dụng  bộ  ly  trích  Clevenger  2000  ml,  ống  gạn  tinh  dầu nhẹ(5,8).

369

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Ráp  hệ  thống  chưng  cất  và  tiến  hành  trong

06 giờ (tính từ giọt ngưng tụ đầu tiên).

+ Lá : Sử dụng 300 g lá cắt nhỏ và thêm 900

ml nước vào nguyên liệu.

khuyếch tán vào trong thạch và ức chế sự tăng  trưởng của vi sinh vật tạo ra vòng kháng khuẩn  tròn đều chung quanh đĩa giấy. Kích thước của  đường  kính  vòng  tròn  này  cho  biết  khả  năng  kháng khuẩn của tinh dầu.

+ Thân : Sử dụng 400 g thân cắt nhỏ và thêm

800 ml nước vào nguyên liệu.

Để  nguội,  trích  lấy  tinh  dầu  trong  ống  gạn  bằng  dietil  eter.  Làm  khan  dung  dịch  ly  trích  bằng  Na2SO4  khan.  Thu  hồi  dung  môi  dưới  áp  suất kém để thu tinh dầu sản phẩm.

Khảo sát thành phần hóa học

Tinh  dầu  thử  nghiệm  bao  gồm  tinh  dầu  nguyên chất và tinh dầu pha loãng theo thứ tự:  C0:  Tinh  dầu  nguyên  chất.  C1:  Tinh  dầu  pha  loãng 10 lần. C2: Tinh dầu pha loãng 100 lần. C3:  Tinh dầu pha loãng 1000 lần. C4: Tinh dầu pha  loãng 10000 lần. C5: Tinh dầu pha loãng 100000  lần.

Đánh giá kết quả :

‐  Đường  kính  vòng  kháng  khuẩn  <  10  mm:

Mẫu  tinh  dầu  được  phân  tích  bằng  thiết  bị  sắc ký khí đầu dò ion hóa ngọn lửa (GC/FID) và  sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS).

xem là đề kháng.

‐  Đường  kính  vòng  kháng  khuẩn  ≥  20  mm:

xem là nhạy cảm.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả ly trích tinh dầu

Phân  tích  GC/FID  được  tiến  hành  trên  máy  Agilent  GC  7890A‐FID.  Cột  HP‐5  (30  m,  0,32  mm,  0,25  μm  film).  Sử  dụng  nitrogen  làm  khí  mang  ở  áp  suất  8,7  psi.  Nhiệt  độ  buồng  tiêm  250oC.  Nhiệt  độ  đầu  dò  300oC.  Tỉ  lệ  chia  dòng  1/20,  thể  tích  tiêm  1  μl.  Chương  trình  nhiệt:  Nhiệt độ đầu 60oC, tăng 3oC/phút đến 240oC. Sắc  ký  đồ  thu  được  dùng  để  xác  định  hàm  lượng  (%) các cấu tử có trong mẫu tinh dầu.

Tinh dầu lá ngò có màu vàng, mùi giống tự  nhiên.  Chưng  cất  lâu  thì  màu  vàng  càng  sậm  dần  chuyển  sang  màu  vàng  nâu  đậm.  Hàm  lượng tinh dầu thu được 0,06% sau 6 giờ chưng  cất.

Tinh dầu thân ngò ly trích có màu vàng, mùi  giống  tự  nhiên.  Hàm  lượng  tinh  dầu  thu  được  0,03% sau 6 giờ chưng cất.

Phân  tích  GC/MS  được  tiến  hành  trên  máy  Agilent, GC 7890A ‐ MS 5975C. Cột TR‐5MS (30  m, 0,25 mm, 0,25 μm film). Sử dụng helium làm  khí mang ở áp suất 19,248 psi.  Nhiệt  độ  buồng  tiêm 250oC. Tỉ lệ chia dòng 1/20, thể tích tiêm 1  μl. Chương trình nhiệt : Nhiệt độ đầu 60oC, tăng  3oC/phút  đến  240oC.  Ghi  nhận  khối  phổ  m/z  trong khoảng 30‐500, năng lượng ion hóa 70 eV.  Sử  dụng  sắc  ký  đồ  của  dãy  đồng  đẳng  n‐alkan  để tính toán chỉ số số học, AI (Arithmetic Index)  theo  Adams,  kết  hợp  với  thư  viện  phổ  NIST  2008  của  máy  để  nhận  danh  các  cấu  tử  trong  tinh dầu(13).

Khảo sát hoạt tính kháng khuẩn (2)

Hình 1. Hàm lượng tinh dầu lá và thân ngò rí

Nhận xét: Hàm lượng tinh dầu ngò rí trong  lá nhiều hơn trong thân. Tuy không đủ thiết bị  để xác định chính xác kích thước và mật độ mô  chứa  tinh  dầu  nhưng  theo  đánh  giá  cảm  quan,  kích thước và mật độ mô chứa tinh dầu quan sát

Hoạt  tính  kháng  khuẩn được  thử  nghiệm  theo  phương  pháp  khuyếch  tán  trên  thạch:  trải  đều  vi  sinh  vật với  một  số  lượng  nhất  định  lên  trên mặt thạch. Đặt đĩa giấy (d = 6 mm) đã tẩm  tinh dầu, theo các nồng độ từ nguyên chất đến  pha  loãng  dần,  lên  bề  mặt  thạch.  Tinh  dầu  sẽ

370

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  được  từ  việc  giải  phẫu  học  phù  hợp  với  hàm  lượng ly trích.

(E)-2-Decenal (E)-2-Decen-1-ol 1-Decanol (E)-Anetol Undecanal

Kết quả khảo sát thành phần hóa học  Bảng 1. Thành phần hóa học của tinh dầu lá ngò

Stt AI(13) 5 1260 6 1268b 7 1272b 8 1282 9 1305 10 1357 (E)-2-Undecenal 11 1365 trans-2-Undecen- 1263 1269 1272 1291 1307 1366 1371 6,95 2,55 7,89 0,66 4,91 5,80 1,49 Hàm lượng (%, GC/FID) Cấu phần (GC/MSD)

1-ol 1-Undecanol Dodecanal

12 1367 13 1408 14 1464 (E)-2-Dodecenal 15 1469 trans-2-Dodecen- 1374 1409 1470 1474 0,89 5,70 12,04 2,37

1-ol Tridecanal

16 1509 17 1567 (E)-2-Tridecenal 18 1611 19 1620 20 1674 1512 1571 1611 1622 1675 0,80 1,04 2,15 0,66 13,37

a Tham khảo từ tài liệu(1).

b Tham khảo từ

Tetradecanal Dill apiol (E)-2- Tetradecenal Pentadecanal 21 1711 1715 0,11

tài liệu(6).

1 998 2 1095 3 1100 4 1165 5 1193 6 1196 7 1201 8 1250a 9 1260 10 1268b 11 1272b 12 1305 13 1357 14 1365 AI tính dựa theo(13) 1009 1104 1110 1174 1194 1198 1206 1250 1266 1271 1274 1309 1368 1373 0,34 0,09 0,27 0,20 0,06 0,12 7,53 0,49 21,19 17,06 3,79 1,27 3,31 1,77

(E)‐2‐dodecenal,

Nhận xét: Tinh dầu thân ngò có 21 cấu phần  chiếm khoảng 94%. Ngoài ra còn có một số hợp  chất khác không nhận biết được do hàm lượng  quá  thấp  hoặc  chỉ  ở  dạng  vết.  Cấu  phần  chính  của  tinh  dầu  thân  ngò  gồm  decanal,  (E)‐2‐ decenal,  1‐decanol,  (E)‐2‐ tetradecenal.  Trong  đó  decanal  chiếm  hàm  lượng cao nhất.

15 1408 16 1464 17 1469 1411 1473 1475 4,58 9,85 4,32

a Tham khảo từ tài liệu(1).

b Tham khảo từ tài liệu(6).

Cấu phần chính của tinh dầu khảo sát so với  các  nghiên  cứu  trước  tương  đối  giống  nhau.  Thành phần tinh dầu lá và thân ngò chủ yếu là  các  aldehid  chi  phương.  Chính  các  aldehid  này  quyết định mùi thơm nồng đặc trưng của lá và  thân ngò.

(E)‐2‐dodecenal,

18 1509 19 1567 20 1611 21 1620 22 1674 23 1711 24 1820 Octanal Linalol Nonanal 1-Nonanol (Z)-4-Decenal (E)-4-Decenal Decanal (Z)-2-Decenal (E)-2-Decenal (E)-2-Decen-1-ol 1-Decanol Undecanal (E)-2-Undecenal trans-2-Undecen-1- ol Dodecanal (E)-2-Dodecenal trans-2-Dodecen-1- ol Tridecanal (E)-2-Tridecenal Tetradecanal Dill apiol (E)-2-Tetradecenal Pentadecanal Hexadecanal 1514 1573 1613 1624 1677 1718 1823 0,63 1,02 2,54 0,89 12,29 0,12 0,10

Kết quả khảo sát hoạt tính kháng khuẩn  Bảng 3. Kết quả hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu  lá ngò

Nhận  xét:  Tinh  dầu  lá  ngò  có  24  cấu  phần  chiếm khoảng 94%. Ngoài ra còn có một số hợp  chất khác không nhận biết được do hàm lượng  quá  thấp  hoặc  chỉ  ở  dạng  vết.  Cấu  phần  chính  của tinh dầu lá ngò gồm decanal, (E)‐2‐decenal,  (E)‐2‐decen‐1‐ol,  (E)‐2‐ tetradecenal. Trong đó (E)‐2‐decenal chiếm hàm  lượng cao nhất.

Vi sinh vật

Stt AI(13) 6 6

Bảng 2. Thành phần hóa học của tinh dầu thân ngò  Hàm lượng (%, GC/FID)

Cấu phần (GC/MSD)

1 1100 2 1196 3 1201 4 1250a Nonanal (E)-4-Decenal Decanal (Z)-2-Decenal AI tính dựa theo(13) 1111 1197 1206 1250 0,27 0,09 24,06 0,17 Đường kính vòng kháng khuẩn (mm) C5 C0 C1 6 >30 >30 6 6 6 6 6 6 C2 25 6 22 6 6 6 10 C3 9 6 10 6 6 6 8 C4 6 6 8 6 6 6 6 S. aureus Bacillus subtilis Bacillus cereus >30 >30 6 6 P. aeruginosa 6 Escherichia coli 8 Shigella flexneri 11 10 Vibrio cholerae >30 >30

371

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

6 6 6 6 6 6

Sử dụng nguồn ngò rí trồng ở các vùng khác  để khảo sát hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu  ly trích được.

16 10 6 6 >30 >30 Salmonella typhi Candida albicans

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Pseudomonas

Nhận  xét  :  Tinh  dầu  lá  ngò  ly  trích  được  không xuất hiện vòng kháng khuẩn trên chủng  Bacillus  aeruginosa,  subtilis,  Escherichia coli, Salmonella typhi.

Institute

2.

Bảng 4. Kết quả hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu  thân ngò

3.

4.

Đường kính vòng kháng khuẩn (mm) Vi sinh vật

5.

Carunchia  MEW,  Croissant  AE,  Drake  MA  (2005).  Characterization  of  dried  whey  protein  concentrate  and  isolate flavor. J. Dairy Sci. 88: 3826‐3839.  Clinical  and  Laboratory  Standards  (2011).  for  Antimicrobial  Susceptibility  Performance  Standards  Testing, Twenty‐First Informational Supplement, Vol. 31 No.  1. CLSI document M100‐S21 (ISBN 1‐56238‐742‐1).  Đỗ Tất Lợi (2005). Những Cây Thuốc và Vị Thuốc Việt Nam,.  Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. Tr. 417‐418  Hoàng  Văn  Phiệt,  Mai  Nghi  (1980).  Về  thành  phần  hóa  học  của tinh dầu hạt Mùi (Coriandrum sativum Linn.). Tạp chí Hóa  học, 18(1): 30‐32.  Lê Ngọc Thạch (2003). Tinh dầu,. Nhà xuất bản Đại học Quốc  Gia Tp HCM, Tp HCM. Tr. 80‐103

C1 C0 >30 >30 6 6

6. Matasyoh  JC,  Maiyo  ZC,  Ngure  RM.,  Chepkorir  R  (2009).  Chemical  composition  and  antimicrobial  activity  of  the  essential oil of Coriandrum sativum. Food Chemistry 113: 526‐ 529.

6 6 6 C2 26 6 29 6 6 6 8 C3 10 6 12 6 6 6 6 C4 8 6 8 6 6 6 6 C5 8 6 8 6 6 6 6 S. aureus Bacillus subtilis Bacillus cereus >30 >30 6 P. aeruginosa Escherichia coli 6 Shigella flexneri 10 Vibrio cholerae >30 >30

6 6 6 6 6 6

8.

9.

7. Minija  J,  Thoppil  JE  (2001),  Volatile  oil  constitution  and  microbicidal  activities  of  essential  oils  of  Coriandrum sativum  L. Journal of Natural Remedies, 1(2): 147‐150.  Nguyễn Quỳnh Trang, Lê Ngọc Thạch (2008). Khảo sát tinh  dầu  sao  nhái  hường  (Cosmos  caudatus  HBK.).  Tạp  chí  Phát  triển Khoa học và Công nghệ 11(7): 67‐72.  Pascal JD, Kareen S (2004). Antilisterial properties of Cilantro  essential oil Journal of Essential Oil Research, 16(5): 409‐411.

Pseudomonas

Nhận xét : Tinh dầu thân ngò ly trích được  không xuất hiện vòng kháng khuẩn trên chủng  Bacillus  aeruginosa,  subtilis,  Escherichia coli, Salmonella typhi.

6 18 10 10 >30 >30 Salmonella typhi Candida albicans

KẾT LUẬN‐KIẾN NGHỊ

10. Pascal JD, Kareen S, Benoit G, Mazza G. (2002). Antimicrobial  activity  of  individual  and  mixed  fractions  of  dill,  cilantro,  coriander and eucalyptus essential oils. International Journal  of Food Microbiology, 74(1‐2): 101‐109.

11. Phạm Hoàng Hộ (2000). Cây Cỏ Việt Nam quyển 2, pp 481.

Kết luận

Nhà xuất bản Trẻ, Tp HCM.

Hàm lượng tinh dầu ngò rí trong lá (0,06%)

nhiều hơn trong thân (0,03%).

12. Phan Bích Hà, Lê Ngọc Thạch (2010). Khảo sát tinh dầu hột  ngò (Coriandrum sativum L.). Tạp chí Phát triển Khoa học và  Công nghệ 13(3): 29‐38.

14.

(E)‐2‐dodecenal,

Thành phần tinh dầu lá và thân ngò chủ yếu  là  các  aldehid  chi  phương  (decanal,  (E)‐2‐ decenal,  1‐decanol,  (E)‐2‐ tetradecenal).

13. Robert PA (2007). Identification of Essential Oil Components  by  Gas  Chromatography/Mass  Spectrometry,  4th  Edition,  pp  10‐29. Allured Publishing, Carol Stream, 6.  Shrivashankara KS, Roy TK., Varalakshmi B, Venkateshwarlu  G,  Selvaraj  Y  (2003).  Leaf  essential  oils  of  coriander  (Coriandrum sativum L.) cultivars. Indian Perfumer, 47(1): 35‐ 37.

15. Thomas  LP  (1996),  Essential  Oil  Composition  of  Cilantro

(1996). J. Agric. Food Chem. 44(7): 1824–1826.

16. Trần Thu Hương, Trần Thị Minh (2005). Thành phần hóa học  tinh dầu hạt Mùi ở Việt Nam. Tạp chí Hóa học và Ứng dụng,  1: 35‐38.

17. Võ  Văn  Chi  (2005).  250  Cây  Thuốc  Thông  Dụng,  Nhà  xuất

bản Hải Phòng, Hải Phòng, tr.282‐283

Tinh dầu ngò ly trích được từ phương pháp  chưng  cất  hơi  nước  cổ  điển  chỉ  có  hoạt  tính  kháng  khuẩn:  Vibrio  cholerae  ở  nồng  độ  pha  loãng 10 lần, Staphylococcus aureus ở nồng độ pha  loãng  100  lần,  Bacillus  cereus  ở  nồng  độ  pha  loãng 100 lần và Candida albicans ở nồng độ pha  loãng 10 lần.

18. Zhanguo L, Hongzhuan G, Wei L (2006). GC/MS analysis of  chemical  components  of  essential  oil  from  coriander  leaf.  Shipin Yu Fajiao Gongye, 32(2): 96‐98.

Kiến nghị

Khảo  sát  thêm  hoạt  tính  kháng  khuẩn  trên

các chủng khác.

372

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

373

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG NICOTIN NIỆU CỦA CÔNG NHÂN TRONG  NHÀ MÁY THUỐC LÁ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Trúc Ly*, Phan Bích Hà*, Trần Thị Kiều Anh**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, nhiễm độc Nicotin là một trong những bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm(4). Theo  thống kê của các nhà nghiên cứu, công nhân tiếp xúc nghề nghiệp với Nicotin có tỷ lệ ung thư phổi là 4%, cao  hơn rất nhiều so với công nhân làm việc trong môi trường không tiếp xúc với Nicotin (1). Để cảnh báo trình trạng  nhiễm độc Nicotin của công nhân tiếp xúc với Nicotin, việc xét nghiệm hàm lượng Nicotin trong nước tiểu là  một chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết và mang tính chất thường qui.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát hàm lượng Nicotin trong nước tiểu của công nhân trong nhà máy thuốc lá

tại TP. Hồ Chí Minh năm 2011.

Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 251 công nhân (có và không có hút thuốc)  làm việc trong nhà máy thuốc lá ở bộ phận tiếp xúc trực tiếp với Nicotin. Xét nghiệm Nicotin niệu và đánh giá  mức độ nhiễm Nicotin niệu theo thường quy kỹ thuật của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường(5,4).

Kết quả nghiên cứu: 147/251 trường hợp (58,6%) có hàm lượng Nicotin ≤ 0,3 mg/L (dưới ngưỡng nồng  độ cho phép) và 104/251 trường hợp (41,1%) có hàm lượng Nicotin > 0,3mg/L. 55/251 trường hợp (21,9%) phải  theo dõi thấm nhiễm Nicotin đối với bệnh nghề nghiệp. Tuổi nghề cứ tăng lên 1 năm thì nguy cơ bị theo dõi  Nicotin tăng lên 1,04 lần. Thời gian hút thuốc cứ tăng lên một năm thì nguy cơ bị theo dõi thấm nhiễm Nicotin  tăng lên 1,09 lần.

Kết  luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trường hợp có hàm lượng Nicotin niệu vượt tiêu chuẩn cho  phép khá cao. Những trường hợp có hàm lượng Nicotin cao phần lớn là những mẫu của công nhân có tiền sử  hút thuốc lá. Doanh nghiệp cần tăng cường trang bị bảo hộ lao động cho công nhân trong quá trình làm việc.

Từ khóa: Thuốc lá, Nicotin, nhiễm độc Nicotin.

ABSTRACT

SURVEY NICOTINE CONTENT IN URINE OF WORKERS IN TOBACCO FACTORY AT HO CHI  MINH CITY

Nguyen Thi Truc Ly, Phan Bich Ha, Tran Thi Kieu Anh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 375 ‐ 379

Background: In Vietnam, Nicotine poisoning is one of the occupational diseases are covered(4). According  to  the  researchers,  workers  with  occupational  exposure  Nicotine  lung  cancer  rate  is  4%,  much  higher  than  workers  in  non‐contact  with  Nicotine(1).  To  warn  the  Nicotine  poisoning  of  workers  exposed  to  Nicotine,  Nicotine content testing in urine is a specified clinical tests necessary and routine.

Objectives: Survey Nicotine concentrations in urine of workers in the tobacco factory at HCMC in 2011.

Method:  Cross‐sectional  descriptive  study  on  251  workers  (with  and  without  smoking)  working  in  the  tobacco  plant  parts  in  direct  contact  with  Nicotine.  Nicotine  urine  testing  and  assess  Nicotine  exposed  level  according to technical regulations of Institute of Labor Health and Environmental Hygiene.

** Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh

* Viện Vệ sinh ‐ Y tế Công cộng TP Hồ Chí Minh   Tác giả liên lạc: KTV.Nguyễn Thị Trúc Ly

ĐT: 0975361276

Email: truclylab2000@yahoo.com

374

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Results:  147/251 cases (58.6%) Nicotine concentrations ≤ 0.3 mg/L (below the allowable concentrations)  and 104/251 cases (41.1%) concentration of Nicotine > 0.3mg/L. 55/251 cases (21.9%) must monitor Nicotine  exposed  for  occupational  diseases.  For  seniority  continue  ascend  1  year  then  the  risk  must  monitor  Nicotine  exposed increased 1.04 times. Time smoke continue ascend 1 year then risk must monitor Nicotine exposed  increased 1.09 times.

Conclusion: Research results show that the rate case Nicotine urinary concentrations exceeded permitted  standards  high.  These  cases  have  much  higher  levels  of  Nicotine  is  the  sample  of  workers  with  a  history  of  smoking. Enterprises need to strengthen labor protection equipment for workers in the work process.

Keywords: Tobacco, Nicotine, Nicotine poisoning

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định hàm lượng Nicotin trong nước tiểu

của công nhân.

Xác định tỷ lệ công nhân phải theo dõi thấm

nhiễm Nicotin đối với bệnh nghề nghiệp.

Nicotin  là  một  ancaloit  chủ  yếu  trong  cây  thuốc  lá  có  tên  hóa  học  là  3‐(1‐methyl‐2‐ pyrrolidinyl) được các nhà khoa học người Đức  tìm  thấy  đầu  tiên  vào  năm  1828.  Nicotin  trong  thành phần cây thuốc lá với hàm lượng thay đổi  từ 0,05% đến 8%, thông thường hàm lượng này  là 2‐3%.(2,3,4)

Phân  tích  mối  liên  quan  giữa  kết  quả  phân  tích  Nicotin  với  đối  tượng  công  nhân  nghiên  cứu.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người  lao  động  tiếp  xúc  trực  tiếp  với  Nicotin  tại  nhà  máy  sản  xuất  thuốc  lá  ở  TP.  HCM.

Thiết kế nghiên cứu  Mô tả cắt ngang

Kỹ thuật lấy mẫu

Các  nghiên  cứu  cho  thấy  Nicotin  tác  động  vào não gây ra một số tác động nhất định. Tính  gây nghiện là do khi Nicotin kích hoạt các nhân  xám ở vỏ não tạo ra cảm giác thỏa mãn và hưng  phấn.  Nicotin  xâm  nhập  vào  cơ  thể  qua  da,  đường tiêu hóa và đường hô hấp. Thời gian hấp  thụ Nicotin từ phổi đến não chỉ mất trung bình 7  giây.  Độc  tính  của  Nicotin  rất  cao  nên  dễ  gây  nhiễm độc nghiêm trọng hoặc tử vong.  Nicotin  được hấp thụ nhanh qua niêm mạc, qua hô hấp,  một  phần  bị  phá  hủy  ở  gan.  Nó  được  đào  thải  qua  nước  tiểu,  nước  bọt,  phổi,  mồ  hôi  nhưng  không qua mật. (4,3)

Công nhân nhà máy thuốc lá có tiếp xúc trực  tiếp với nicotin. Số công nhân này được thu thập  thông  tin  liên  quan  đến  nghề  nghiệp  trước  khi  được lấy mẫu nước tiểu.

Kỹ thuật áp dụng

Nhiễm  độc  Nicotin  nghề  nghiệp  là  nhiễm  độc  mãn  tính  xảy  ra  trong  quá  trình  thường  xuyên  tiếp  xúc  với  bụi  thuốc  lá,  hơi  Nicotin  có  nồng độ cao vượt tiêu chuẩn cho phép hoặc do  hút thuốc lá chủ động hay thụ động.

Xét nghiệm Nicotin niệu theo thường quy kỹ  thuật  của  Viện  Y  học  lao  động  và  Vệ  sinh  môi  trường(5).

Phân tích số liệu

Dữ  liệu  thông  tin  được  nhập  bằng  chương  trình EpiData và sau đó kết quả được phân tích  bằng phần mềm Stata 10.0.

Đánh  giá  mức  độ  nhiễm  Nicotin  niệu  theo  thường quy kỹ thuật của Viện Y học lao động và  Vệ sinh môi trường(4).

Viện  Vệ  sinh  Y  tế  Công  cộng  TP.  Hồ  Chí  Minh  thực  hiện  xác  định  hàm  lượng  Nicotin  niệu cho các nhà máy sản xuất thuốc lá tại khu  vực  phía  Nam.  Việc  tổng  kết,  đánh  giá  các  kết  quả  xác  định  này  là  hết  sức  cần  thiết  để  có  những  kết  luận,  cảnh  báo  kịp  thời  cho  doanh  nghiệp  trong  việc  bảo  vệ  sức  khỏe  người  lao  động.

375

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

≤ 0,3 mg/L : Giới hạn bình thường.

> 0,3 mg/L: Theo dõi nhiễm độc Nicotin đối

với người không hút thuốc lá.

Kết quả phân tích hàm lượng Nicotin trong  nước tiểu của công nhân  Bảng 4: Kết quả phân tích Nicotin niệu

> 1,2 mg/L: Theo dõi nhiễm độc Nicotin đối

với người hút thuốc lá.

n Nồng độ trung Min Max

Nicotin

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

bình, mg/L 0,40 0,65 0,25 Độ lệch chuẩn 0,48 0,07 3,39 1,65 0,08 3,39 0,25 0,07 1,72 251 Có hút thuốc lá 91 160 Không hút thuốc lá

Đặc tính của đối tượng nghiên cứu  Bảng 1: Tuổi của công nhân

n Min Max

Kết quả phân tích cho thấy ở những trường  hợp có hút thuốc thì trung bình mức độ nhiễm  Nicotin  là  0,65  mg/L,  cao  hơn  so  với  những  người không hút thuốc (0,25mg/L). Kết quả trên  cho thấy người bị nhiễm thấp nhất là 0,07mg/L  và cao nhất là 3,39mg/L.

Tuổi 251 Tuổi nghề 251 Trung bình 37,1 9,6 Độ lệch chuẩn 8,8 7,3 21 1 56 36

Bảng 5: Phân nhóm kết quả phân tích nicotin

Biến số

Độ tuổi trung bình công nhân là 37,1. Người  có  độ  tuổi  thấp  nhất  là  21  và  người  có  độ  tuổi  cao nhất là 56. Tuổi nghề trung bình là 9,6 năm,  trong đó, người làm thấp nhất là 1  năm  và  cao  nhất là 36 năm.

Theo bảng 5, ta thấy tỷ lệ những người phải

Kết quả Nicotin ≤ 0,3 mg/L > 0,3 mg/L n = 251 147 104 Tỷ lệ (%) 58,6 41,4

Bảng 2: Giới tính, tình trạng hút thuốc của công  nhân

theo dõi thấm nhiễm Nicotin là 41,4%.

Biến số

Giới tính

Bảng 6: Phân nhóm kết quả nicotin trong theo dõi  bệnh nghề nghiệp

*Không theo dõi thấm nhiễm Nicotin: nồng độ Nicotin ≤  0,3 mg/L đối với những người không hút thuốc và ≤ 1,2  mg/L đối với những người có hút thuốc.

Về giới tính của công nhân thì có tới 78,9% là  nam giới, còn nữ giới chỉ chiếm 21,1%. Số người  có  hút  thuốc  tham  gia  vào  nghiên  cứu  là  91  người  chiếm  36,3%,  trong  đó  không  có  nữ  giới  nào hút thuốc.

Kết quả phân tích cho thấy có 56 trong tổng  số  251  bệnh  nhân  phải  theo  dõi  thấm  nhiễm  Nicotin đối với bệnh nghề nghiệp (chiếm 21,9%).

Biến số n = 251 Tỷ lệ (%) Tình trạng hút thuốc Nam Nữ Có Không n = 251 198 53 91 160 Tỷ lệ (%) 78,9 21,1 36,3 63,7 Kết quả Nicotin Không theo dõi thấm nhiễm* 196 55 Theo dõi thấm nhiễm 78,1 21,9

Bảng 3: Thời gian hút thuốc và số lượng điếu thuốc  hút trong ngày của những người hút thuốc lá

n Min Max

Trung bình 13,1 13,3 Độ lệch chuẩn 6,8 7,4 3 2 40 37 Số điếu/ngày 91 91 Thời gian hút (năm)

Mối  liên  quan  giữa  kết  quả  phân  tích  Nicotin với đối tượng công nhân nghiên cứu  Bảng 7: Mối liên quan giữa kết quả Nicotin và giới  tính

Giới tính Kết quả Nicotin

Số  điếu  thuốc  hút  trung  bình  của  những  người hút thuốc là 13,1 điếu, trong đó có người  hút  ít  nhất  là  3  điếu/ngày,  người  hút  nhiều  nhất  là  40  điếu/ngày.  Thời  gian  hút  thuốc  trung bình là 13,3 năm, thời gian hút ít nhất là  2 năm và nhiều nhất là 37 năm.

Bình thường Theo dõi thấm nhiễm Tổng cộng Nam n (%)* 104 (52,5) 94 (47,5) 198 Nữ n (%)* 43 (81,1) 10 (18,9) 53

* n (%) : n là số lượng công nhân (chiếm tỉ lệ %)

P = 0,0002; Tỷ số chênh: 2,52 Khoảng tin cậy 95%: 1,41 - 4,48

376

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kết  quả  phân  tích  cho  thấy  tỷ  lệ  theo  dõi  thấm nhiễm ở nam giới là 47,5%, cao hơn so với  nữ giới (18,9%). Nam giới có nguy cơ bị  nhiễm  Nicotin  cao  gấp  2,52  lần  so  với  nữ  giới  (Có  ý  nghĩa thống kê với p = 0,0002, với khoảng tin cậy  95% là 1,41 ‐ 4,48).

p = 0,23 > 0,05

Kết  quả  phân  tích  chưa  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  tuổi  nghề  và  kết  quả  Nicotin  trong  theo dõi bệnh nghề nghiệp với P = 0,23 > 0,05.  Bảng 11: Mối tương quan giữa kết quả Nicotin với  tuổi nghề, số điếu thuốc hút và thời gian hút thuốc lá

P Khoảng tin cậy 95%

Bảng 8: Mối liên quan giữa kết quả phân tích  Nicotin nhóm công nhân không hút thuốc và giới  tính

Giới tính Tỷ số chênh 1,04 1,02 1,09 Độ lệch chuẩn 0,018 0,034 0,040 0,03 1,003-1,073 0,56 0,950-1,090 0,017 1,016-1,174 Kết quả Nicotin Tên biến Tuổi nghề Số điếu hút Thời gian hút thuốc

Xét  riêng  đối  với  những  trường  hợp  không  hút  thuốc,  mặc  dù  ở  nam  giới  có  tỉ  lệ  theo  dõi  thấm nhiễm cao hơn so với nữ giới (31,8% so với  18,9%). Tuy nhiên kết quả này không có ý nghĩa  thống  kê  (p  =  0,085  >  0,05)  hay  nói  khác  hơn  không có sự khác biệt giữa hai giới tính.

Kết  quả  phân  tích  cho  thấy  tuổi  nghề  càng  cao  thì  nguy  cơ  bị  theo  dõi  Nicotin  càng  cao.  Tuổi nghề cứ tăng lên 1 năm thì nguy cơ bị theo  dõi Nicotin tăng lên 1,04 lần (P = 0,03 < 0,05). Ta  cũng tìm thấy mối liên quan giữa thời gian hút  thuốc và theo dõi thấm nhiễm Nicotin. Thời gian  hút cứ tăng lên một năm thì nguy cơ bị theo dõi  thấm nhiễm Nicotin tăng lên 1,09 lần (p = 0,017 <  0,05).  Kết  quả  phân  tích  chưa  tìm  ra  được  mối  liên quan giữa số điếu hút thuốc trong ngày với  mức độ theo dõi thấm nhiễm Nicotin.

Bình thường Theo dõi thấm nhiễm Tổng cộng Nam n (%) 73 (68,2) 34 (31,8) 107 Nữ n (%) 43 (81,1) 10 (18,9) 53 p= 0,085

KẾT LUẬN‐KIẾN NGHỊ

Bảng 9: Mối liên quan giữa tuổi nghề và kết quả  phân tích Nicotin

Kết luận

Kết quả Nicotin

Tuổi nghề Từ 1-10 năm 11-20 năm Trên 20 năm n (%) 41 (48,2) 44 (51,8) n (%) 10 (43,5) 13 (56,5) n (%) 96 (67,1) 47 (32,9)

Kết quả nghiên cứu cho thấy 251 mẫu nước  tiểu được phân tích có hàm lượng phát hiện từ  0,07mg/L đến 3,39mg/L. Tỷ lệ mẫu nước tiểu có  hàm  lượng  Nicotin  vượt  tiêu  chuẩn  cho  phép  khá  cao.  Những  trường  hợp  có  hàm  lượng  Nicotin  cao  phần  lớn  là  những  mẫu  của  công  nhân có tiền sử hút thuốc lá.

Bình thường Theo dõi thấm nhiễm Tổng cộng 143 85 23 p = 0,006 < 0,05

Kiến nghị

Đo hàm lượng Nicotin trong môi trường lao  động đúng định kỳ để kiểm soát môi trường từ  đó áp dụng các biện pháp giảm tối thiểu sự tiếp  xúc để bảo vệ sức khỏe người lao động.

Kết quả Nicotin

Tuổi nghề càng cao thì tỷ lệ theo dõi thấm  nhiễm  Nicotin  càng  cao  từ  1‐10  năm  (32,9%);  từ 11‐20 năm (51,8%); trên 20 năm (56,5%). Kết  quả khác biệt trên có ý nghĩa thống kê với p =  0,006 < 0,05.  Bảng 10: Mối liên quan giữa tuổi nghề và kết quả  Nicotin trong theo dõi bệnh nghề nghiệp  Tuổi nghề Từ 1-10 năm 11-20 năm

Doanh  nghiệp  cần  lập  danh  sách  người  lao  động có hút thuốc lá hoặc không hút thuốc lá để  chọn  ra  những  người  cần  theo  dõi  nhiễm  độc  Nicotin cần được khám bệnh nghề nghiệp.

n (%) 117 (81,8) 26 (18,2) n (%) 63 (74,1) 22 (25,9) Trên 20 năm n (%) 16 (69,6) 7 (30,4)

Bình thường Theo dõi thấm nhiễm Tổng cộng 143 85 23

377

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

3.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

4.

5.

2.

Lê Trung (1987). Nhiễm độc Nicotin nghề nghiệp. Bệnh nghề  nghiệp, tập I, Nhà xuất bản Y học, tr. 241 ‐ 250.  Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường ‐ Bộ Y Tế (1997).  21 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm, tr. 399 ‐ 416.  Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường ‐ Bộ Y Tế (1996).  Thường qui kỹ thuật.

Chia KS and Lee HP (1996). Occupational cancers. Text book  of  Occupational  Medicine  Practice,  2nd  edition,  World  Scientific Publishing Co.Pte.Ldt, pp. 319‐337.  Đặng Ngọc Trúc, Phạm Đắc Thủy, Phạm Minh Khôi (1997).  Hướng dẫn giám định 21 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm.  Viện giám định y khoa, Bộ Y Tế, tr. 128‐134, 320‐326.

378

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ CỦA MÔ HÌNH TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHOẺ  THÔNG QUA CỘNG TÁC VIÊN ĐỊA PHƯƠNG VỀ NƯỚC SẠCH   VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU   TẠI HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

Đặng Ngọc Chánh*, Lê Ngọc Diệp*, Nguyễn Đỗ Quốc Thống*, Nguyễn Trần Bảo Thanh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Việt Nam là nước có dân số đang sinh sống trong những vùng dễ bị ảnh hưởng do biển đổi khí  hậu đứng hàng thứ tư trên thế giới, và bị ảnh hưởng lớn nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cao Lãnh  thuộc tỉnh Đồng Tháp là một huyện hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ Mê Kông. Công tác truyền thông về nước  sạch và vệ sinh môi trường là chưa tốt, và các nội dung về tác động của biến đổi khí hậu cùng giải pháp ứng phó  chưa được phổ biến đến người dân.

Mục tiêu: Thăm dò hiệu quả của một mô hình điểm về truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người  dân và chính quyền địa phương về công tác xây dựng, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, xử lý nước, sử dụng nước  an toàn trước, trong, và sau lũ ứng phó với biến đổi khí hậu.

Phương pháp: Đây là một nghiên cứu mô tả dọc, với dân số mục tiêu là người dân, đội ngũ cộng tác viên  truyền thông, cán bộ y tế và chính quyền địa phương tại 10 xã điểm thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp  trong năm 2011. Các hoạt động can thiệp bao gồm 3 nội dung chính là tập huấn nâng cao nhận thức của cán bộ  y tế dự phòng tỉnh, tổ chức hội nghị triển khai mô hình truyền thông điểm, và xây dựng mô hình truyền thông  tại 10 xã điểm và tiến hành truyền thông ở 3 thời điểm trước, trong, và sau lũ. Nội dung truyền thông bao gồm  các vấn đề về nước sạch, vệ sinh môi trường; xử lý chất thải nông thôn, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh tương ứng  với các giai đoạn trước, trong và sau lũ, các tác động của biến đổi khí hậu và giải pháp ứng phó. Phương pháp  truyền thông là sử dụng tài liệu truyền thông, phát thanh, và tuyên truyền trực tiếp tại hộ gia đình. Dữ kiện  được thu thập ở 2 thời điểm trong và sau lũ; thông qua bộ câu hỏi tự điền đánh giá về kiến thức và thực hành  truyền thông của cộng tác viên. Kiến thức và thực hành của người dân được thu thập qua phỏng vấn tại hộ gia  đình, với đối tượng phỏng vấn là chủ hộ hoặc đại diện chủ hộ.

Kết quả: Ở những đối tượng là cộng tác viên, tỷ lệ tự đánh giá đủ kiến thức phục vụ cho việc truyền thông  ở thời điểm sau lũ là cao hơn so với trong lũ. Những kết quả tương tự cũng được ghi nhận ở người dân, với sự  gia tăng kiến thức đúng về biến đổi khí hậu, kể được đúng tên gọi của 2/4 loại mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh, nêu  được các biện pháp bảo vệ nguồn nước. Tỷ lệ thực hành đúng của người dân cũng tăng ở giai đoạn sau lũ, bao  gồm giữ lại tờ rơi đã nhận từ cộng tác viên, có nhà tiêu hợp vệ sinh và được sử dụng, bảo quản đúng cách, sử  dụng nắp đậy các vật dụng chứa nước sinh hoạt, có giỏ đựng rác, bỏ rác vào xe thu gom.

Kết luận: Mô hình truyền thông thông qua cộng tác viên là khả thi và có hiệu quả, tuy nhiên cần có một

nghiên cứu can thiệp có nhóm chứng để xác định hiệu lực của mô hình.

Từ  khoá:  Giáo  dục  sức  khoẻ,  mô  hình  truyền  thông,  cộng  tác  viên  địa  phương,  nước  sạch,  vệ  sinh  môi

trường, biến đổi khí hậu.

* Khoa Sức khỏe Môi trường, Viện Vệ sinh Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh ĐT: 0903704532    Email: dangngocchanh@ihph.org.vn

379

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ABSTRACT

RESULTS OF A COMMUNCATION MODEL USING LOCAL COLLABORATORS IN HEALTH  EDUCATION IN SAFE WATER AND ENVIRONMENTAL SANITATION COPING WITH CLIMATE  CHANGE AT CAO LANH DISTRICT, DONG THAP PROVINCE

Dang Ngoc Chanh, Le Ngoc Diep, Nguyen Do Quoc Thong, Nguyen Tran Bao Thanh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 380 ‐ 385

Background:  Viet Nam has been ranked fourth in the world in terms of the proportion of people living in  affected areas by the consequences of climate change, with the most affected area is the Mekong delta. Cao Lanh at  Dong Thap province is a district annually affected by Mekong flood, but health education activities in safe water  and environmental sanitation are not yet properly done, and information of climate change and coping measures  has never been delivered to the people.

Objective: To explore the effectiveness of a standard communication model in health education to improve  the awareness of inhabitants and local authorities about using safe water, sanitary latrines at the periods before,  during and after flood in order to cope with the effects of climate change.

Methods:  This  is  a  longitudinal  descriptive  study  with  the  target  population  of  inhabitants,  health  education  collaborators,  health  personals,  and  local  authorities  at  10  standard  villages  of  Cao  Lanh  district  of  Dong Thap province in 2011. Intervention measures include training of trainers and health education for people  using a standard communication model set up at each village. Through leaflets, radio broadcasting, and direct  counseling  at  household,  people  were  delivered  information  in  safe  water,  environmental  sanitation,  waste  disposal,  sanitary  latrine  in  the  periods  before,  during,  and  after  flood;  and  climate  change  effects  and  coping  measures.  Data  regarding  knowledge  and  practices  were  collected  during  and  after  flooding  time  via  a  self‐ administered questionnaire for collaborators, and direct interview at household for villagers.

Results:  The proportion of collaborators self‐rated as having adequate knowledge for health education was  increased at the after flood period compared to the during one. Similar figures were found among villagers with  the increasing of correct knowledge regarding climate change, correctly citing 2/4 types of sanitary latrines and  proper measures to protect water sources. Also increasing was the proportion of correct practices of keeping the  leaflets from collaborators, having a sanitary latrine, covering water containers, and proper waste disposal.

Conclusions:  Health  education  by  collaborators  was  found  a  feasible  and  effective  model;  however  its

efficacy has to be identified in an intervention study with a control group.

Keywords:  Health  education,  communication  model,  collaborator,  safe  water,  environmental  sanitation,

climate change.

ĐẶT VẤN ĐỀ

vùng  duyên  hải  có  cao  trình  thấp,  được  định  nghĩa là khu vực liền kề dọc theo bờ biển có độ  cao  so  với  mực  nước  biển  ít  hơn  10m  ‐  đứng  hàng  thứ  tư  sau  Trung  Quốc,  Ấn  Độ,  và  Bangladesh, với hơn 43 triệu người, chiếm 55%  dân số (38% trong số này là dân số thành thị)(5);  và  đồng  bằng  sông  Cửu  Long  là  một  trong  ba  đồng  bằng  trên  thế  giới  dễ  bị  tổn  thương  nhất  do nước biển dâng(3,6).

Những hậu quả của nước biển dâng có khả  năng  rất  thảm  khốc  và  cần  có  kế  hoạch  thích

Biến đổi khí hậu và những tác động do biến  đổi khí hậu gây ra đã đe dọa sự sống của tất cả  các loài, các hệ sinh thái; và con người phải đối  mặt  với  nhiều  vấn  đề  nghiêm  trọng  liên  quan  đến  các  yếu  tố  cơ  bản  của  đời  sống  nhân  loại  như nước, lương thực, sức khỏe, và môi trường.  Việt  Nam  là  một  trong  số  những  nước  bị  tác  động nặng nề nhất do biến đổi khí hậu, đặc biệt  là  do  nước  biển  dâng.  Tỉ  lệ  dân  số  đang  sinh  sống trong những khu vực dễ tổn thương ‐ các

380

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  ứng  ngay  lập  tức(5).  Cụ  thể  khi  nước  biển  dâng  1m ước tính sẽ có 10,8% dân số, 10% GDP bị ảnh  hưởng;  và  khi  nước  biển  dâng  5m,  có  đến  16%  lãnh thổ, 32%‐38% dân số, và 30%‐36% GDP sẽ  bị ảnh hưởng(4). Riêng khu vực đồng bằng sông  Cửu  Long,  khi  nước  biển  dâng  1m  ước  tính  có  đến 37,8% diện tích (15.000km2 đến 20.000 km2)  bị  ngập(1);  ngoài  ra,  khoảng  1.000  km2  diện  tích  nuôi  trồng  thủy  sản  sẽ  trở  thành  các  đầm  lầy  nước  mặn(4);  và  trong  những  năm  gần  đây,  các  cơn bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn  và có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam(2).  Có nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu  đang  được  thực  hiện  trên  phạm  vi  toàn  cầu,  song thích ứng với biến đổi khí hậu là một giải  pháp  vô  cùng  quan  trọng.  Tại  Việt  Nam,  trong  bối cảnh trình độ dân trí còn thấp, truyền thông  là một trong những giải pháp ứng phó cần được  ưu tiên.

tỉnh  Đồng  Tháp  trong  năm  2011.  Tiêu  chí  lựa  chọn  các  xã  điểm  là  có  mạng  lưới  giao  thông  thuận tiện; có trạm phát thanh, mạng lưới cộng  tác viên truyền thông y tế; và sự tham gia nhiệt  tình  của  chính  quyền  địa  phương.  Các  hoạt  động can thiệp bao gồm 3 nội dung chính là: 1)  Tập huấn nâng cao nhận thức của cán bộ y tế dự  phòng  tỉnh  Đồng  Tháp  (tỉnh,  huyện,  thị  xã,  thành  phố),  2)  Tổ  chức  hội  nghị  triển  khai  mô  hình truyền thông điểm (cán bộ y tế dự phòng,  cộng tác viên, đoàn thanh niên, hội phụ nữ của  19 xã/thị trấn thuộc huyện Cao Lãnh); và 3) Xây  dựng  mô  hình  truyền  thông  tại  10  xã  điểm  và  tiến hành truyền thông, can thiệp ở 3 thời điểm  trước mùa lũ (tháng 6 và 7/2011), trong mùa lũ  (tháng 8 và 9/2011), và sau  khi  lũ  rút  (tháng  10  và 11/2011). Tổ chức mô hình truyền thông được  thống  nhất  cho  10  xã  điểm  theo  trục  dọc,  Viện  Vệ sinh Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh  chịu trách nhiệm chung về tổ chức kế hoạch, nội  dung  truyền  thông,  giám  sát;  sau  đó  phối  hợp  cùng các đơn vị tuyến dưới triển khai thực hiện.  Trung  tâm  Y  tế  dự  phòng  tỉnh  Đồng  Tháp  (2  người),  trung  tâm  Y  tế  huyện  Cao  Lãnh  (4  người) cùng có trách nhiệm giám sát hoạt động  của các thành viên tham gia cấp xã; cấp xã là các  thành  phần  trực  tiếp  triển  khai  tại  địa  phương  gồm có Uỷ ban Nhân dân xã (1 người đại diện là  phó  chủ  tịch  xã/chánh  văn  phòng  ủy  ban  xã),  trạm  y  tế  (trưởng  trạm/phó  trạm),  đài  phát  thanh, và các cộng tác viên (4 người/xã).

Huyện  Cao  Lãnh,  tỉnh  Đồng  Tháp  là  một  huyện hàng năm chịu ảnh hưởng do lũ từ sông  Mê  Kông  đổ  về.  Dù  không  có  số  liệu  thống  kê  song  trong  quá  trình  triển  khai  chương  trình  mục  tiêu  quốc  gia  nước  sạch  và  vệ  sinh  môi  trường nông thôn tại địa phương cho thấy công  tác  truyền  thông  về  nước  sạch  và  vệ  sinh  môi  trường chưa tốt, và các nội dung về tác động của  biến  đổi  khí  hậu  cùng  giải  pháp  ứng  phó  chưa  được phổ biến đến người dân. Từ thực trạng đó,  nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích  thăm  dò  hiệu  quả  của  một  mô  hình  điểm  về  truyền  thông  nhằm  nâng  cao  nhận  thức  của  người dân và chính quyền địa phương về công  tác xây dựng, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, xử  lý nước, sử dụng nước an toàn trước, trong, và  sau lũ ứng phó với biến đổi khí hậu. Biện pháp  can thiệp là một mô hình điểm về truyền thông  sử  dụng  nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh,  sử  dụng  nước  sạch trong điều kiện ngập lụt.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP

Đây là một nghiên cứu mô tả dọc, với dân số  mục  tiêu  là  người  dân,  đội  ngũ  cộng  tác  viên  truyền  thông,  cán  bộ  y  tế  và  chính  quyền  địa  phương  tại  10  xã  điểm  thuộc  huyện  Cao  Lãnh,

Nội dung truyền thông bao gồm các vấn đề  về nước sạch, vệ sinh môi trường; xử lý chất thải  nông thôn, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh tương  ứng  với  các  giai  đoạn  (trước,  trong  và  sau  lũ);  các tác động của biến  đổi  khí  hậu  và  giải  pháp  ứng phó. Phương pháp truyền thông là sử dụng  tài  liệu  truyền  thông,  phát  thanh  và  tuyên  truyền trực tiếp tại hộ gia đình. Viện Vệ sinh Y  tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh cung cấp  tài liệu truyền thông, tờ rơi, áp phích; Trung tâm  Y  tế  dự  phòng  tỉnh  và  Trung  tâm  Y  tế  huyện  Cao Lãnh viết bài phát thanh, cung cấp cho đài  phát thanh các xã phát theo lịch trình quy định  (3  lần/ngày);  cộng  tác  viên  thực  hiện  truyền

381

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nội dung Giai đoạn trong lũ Giai đoạn sau lũ

tài liệu truyền thông cho người dân

Bảng 3: Kiến thức và thực hành của người dân, tần  số và (%)

Nội dung

Giai đoạn trong lũ (n=87) 50 (57) Giai đoạn sau lũ (n=87) 63 (72)

Nghiên cứu Y học  thông cộng đồng thông qua các buổi họp  tổ/ấp  và  tại  hộ  gia  đình;  trạm  y  tế  và  Uỷ  ban  Nhân  dân xã giám sát hoạt động của cộng tác viên và  đài phát thanh, họp định kỳ hàng tháng để đánh  giá  hoạt  động  trong  tháng  và  triển  khai  cho  tháng  kế  tiếp;  việc  giám  sát  tổng  thể  các  hoạt  động do Viện Vệ sinh Y tế công cộng thành phố  Hồ  Chí  Minh,  Trung  tâm  Y  tế  dự  phòng  tỉnh,  Trung tâm Y tế huyện Cao Lãnh phối hợp thực  hiện 2 tháng/lần.

69 (79) 75 (86)

66 (76) 77 (89)

62 (71) 73 (84)

51 (59) 25 (29) 62 (71) 39 (45)

81 (93) 86 (99)

Dữ kiện được thu thập ở 2 thời  điểm  trong  và sau lũ, thông qua bộ câu hỏi để đánh giá về  kiến  thức  và  thực  hành  truyền  thông  của  cộng  tác viên, do cộng tác viên tự điền, với tổng cộng  40  cộng  tác  viên.  Kiến  thức  và  thực  hành  của  người dân được phỏng vấn tại hộ gia đình, với  đối  tượng  phỏng  vấn  là  chủ  hộ  hoặc  đại  diện  chủ hộ (>18 tuổi). Số hộ gia đình phỏng vấn là 87  hộ.  Dữ  kiện  được  phân  tích  bằng  phần  mềm  Stata 10. Số thống kê mô tả gồm tần số và phần  trăm.

87 (100) 87 (100)

KẾT QUẢ

87 (100) 13 (15) 37 (43) 87 (100) 33 (38) 35 (40)

Bảng 1: Những đặc tính của cộng tác viên, tần số và  (%), (n = 40)

Đặc tính 37 (43) 19 (22) Giới Trả lời đúng về biến đổi khí hậu và các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu Kể được tên 2/4 mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh trong tờ rơi Nêu được cách bảo vệ nguồn nước Có giữ lại tờ rơi sau khi nhận từ cộng tác viên Có nhà tiêu hợp vệ sinh Nhà tiêu sạch sẽ, không có mùi hôi, thối Vật dụng chứa nước có nắp đậy Vật dụng chứa nước không có rong rêu, cặn bẩn Có giỏ đựng rác Bỏ rác vào xe thu gom Tự thu gom và đốt phía sau nhà Tự thu gom và chôn phía sau nhà

Tuổi

Bảng 4: Số hộ gia đình sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh  tại 10 xã điểm và toàn huyện Cao Lãnh, dữ kiện thứ  cấp

Nội dung Địa điểm Trước can

10 xã điểm thiệp 16.511 Sau can thiệp 17.669 Trình độ học vấn Nam Nữ 18-29 30-39 40-49 50-59 ≥ 60 Trung học cơ sở Trung học phổ thông Tần số (%) 8 (20) 32 (80) 0 (0) 9 (22) 21 (53) 10 (25) 0 (0) 9 (22) 31 (78)

69 70 Huyện Cao Lãnh

Bảng 2: Kiến thức và thực hành truyền thông của  cộng tác viên, tần số và (%), (n=40)

Số hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh * Tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh ** Nội dung

* Báo cáo của các trạm y tế xã  ** Báo cáo của Trung tâm Y tế huyện

Giai đoạn trong lũ 21 (53) Giai đoạn sau lũ 38 (95)

38 (95) 40 (100) 38 (95) 40 (100)

Đa  số  cộng  tác  viên  là  nữ,  tuổi  trong  nhóm  40‐49, học vấn trung học phổ thông (bảng 1). So  sánh giữa 2 giai đoạn (trong mùa lũ và sau mùa  lũ),  tất  cả  cộng  tác  viên  đều  có  lập  kế  hoạch  viếng thăm hộ gia đình; có sổ ghi chép, nhật ký  truyền  thông;  và  khi  truyền  thông  (họp  tổ/ấp,

40 (100) 40 (100)

Tự đánh giá đã được tập huấn đủ kiến thức cho công tác truyền thông Hiểu các nội dung trong tờ rơi Có sổ ghi chép, nhật ký truyền thông Có lập kế hoạch viếng thăm hộ gia đình Có hướng dẫn cách sử dụng 40 (100) 40 (100)

382

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  trực tiếp tại hộ gia đình) có hướng dẫn cách sử  dụng tài liệu truyền thông cho người dân. Tỷ lệ  tự  đánh  giá  đủ  kiến  thức  phục  vụ  cho  việc  truyền  thông  chuyển  biến  tốt.  Giai  đoạn  sau  lũ  chỉ  còn  5%  cho  rằng  cần  được  tập  huấn,  cung  cấp tài liệu nhiều hơn. Khi đánh giá mức độ hiểu  các  nội  dung  trong  tài  liệu  truyền  thông  cung  cấp  cho  cộng  tác  viên  bằng  bộ  câu  hỏi  tự  điền,  giai  đoạn  sau  mùa  lũ  có  tăng,  dù  tỷ  lệ  tăng  là  không nhiều (bảng 2).

việc truyền thông, đặc biệt ở thời điểm sau lũ chỉ  còn 5% cho rằng cần được tập huấn, cung cấp tài  liệu  nhiều  hơn.  Hiệu  quả  truyền  thông  cũng  được  ghi  nhận  ở  người  dân,  thể  hiện  qua  tỷ  lệ  các kiến thức và thực hành đúng đều tăng ở giai  đoạn sau mùa lũ. Tỷ lệ nhà tiêu hợp vệ sinh có  tăng  sau  can  thiệp,  tuy  nhiên,  tính  giá  trị  của  những  dữ  kiện  này  là  hạn  chế  vì  là  những  dữ  kiện thứ cấp, và cách tính toán cũng chưa chính  xác.

Kết  quả  thực  hiện  mô  hình  truyền  thông  điểm  cho  thấy  vẫn  còn  một  số  điểm  cần  lưu  ý.  Biến đổi khí hậu là khái niệm mới đối với cộng  tác viên và người dân, nên khi kết nối các vấn đề  về nước sạch và vệ sinh môi trường với biến đổi  khí  hậu,  thì  phần  lớn  người  dân  không  nắm  được. Đội ngũ cộng tác viên có sự khác biệt về  trình độ, kỹ năng truyền thông, do vậy việc tập  huấn  nâng  cao  kiến  thức  và  kỹ  năng  cho  cộng  tác  viên  là  cần  thiết.  Tất  cả  cộng  tác  viên  tham  gia hoạt động truyền thông còn đảm nhận cùng  lúc nhiều chương trình khác nhau của ngành y  tế, do đó, cần có báo cáo giám sát riêng để đánh  giá. Sự thay đổi của người dân về kiến thức và  thực  hành  là  tốt,  tuy  nhiên,  đối  với  thực  hành,  do những khó khăn về kinh tế, người dân cần có  những  sự  hỗ  trợ  về  kinh  phí  để  xây  dựng  nhà  tiêu hợp vệ sinh.

Đối với người dân (bảng 3), xét về kiến thức  đúng về biến đổi khí hậu và các ảnh hưởng của  biến đổi khí hậu, kể được đúng tên gọi của 2/4  loại mô hình  nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh  trong  tờ  rơi,  nêu được các biện pháp bảo vệ nguồn nước, kết  quả  cho  thấy  tỷ  lệ  trả  lời  đúng  đều  tăng  ở  giai  đoạn sau mùa lũ. Về thực hành, tỷ lệ hộ gia đình  còn  giữ  lại  tờ  rơi  đã  nhận  từ  cộng  tác  viên  khi  được phỏng vấn giai đoạn sau mùa lũ là tăng so  với giai đoạn trong mùa lũ. Đa phần người dân  đã  có  chuyển  biến  tốt.  Tỷ  lệ  hộ  gia  đình  được  phỏng vấn có nhà tiêu hợp vệ sinh và được  sử  dụng,  bảo  quản  đúng  cách,  sạch  sẽ,  không  có  mùi  hôi  thối  là  tăng  so  với  trước.  Về  vật  dụng  chứa nước tại hộ gia đình, tỷ lệ sử dụng nắp đậy  đã  tăng  lên.  Đối  với  cách  thức  xử  lý  rác  sinh  hoạt, 100% các hộ gia đình đều có giỏ đựng rác ở  cả hai thời điểm; và có sự chuyển biến tốt trong  các biện pháp xử lý rác của người dân, tỷ lệ bỏ  rác vào xe thu gom đã tăng lên, trong khi tỷ lệ tự  thu gom và đốt hoặc chôn giảm (bảng 3). Ngoài  ra, số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ hộ gia đình có  nhà tiêu hợp vệ sinh tại 10 xã điểm sau can thiệp  đã  tăng  5%  so  với  trước;  tỷ  lệ  tăng  tương  ứng  cho toàn huyện Cao Lãnh là 1% (bảng 4).

BÀN LUẬN

Nghiên cứu này có một số hạn chế. Để đánh  giá hiệu quả của biện pháp can thiệp, cần đánh  giá trước và sau can thiệp, trong khi nghiên cứu  này  không  đánh  giá  được  giai  đoạn  trước  can  thiệp mà chỉ đánh giá ở giai đoạn can thiệp thứ  hai và thứ ba. Ngoài ra, cỡ mẫu được ước lượng  chưa chính xác, và đối tượng  phỏng  vấn  tại  hộ  gia đình là không cố định giữa 2 lần phỏng vấn,  dẫn đến nhiều sai lệch khi đánh giá hiệu quả của  sự  can  thiệp  truyền  thông.  Dù  có  một  số  hạn  chế,  nhưng  những  kết  quả  bước  đầu  cho  thấy  mô hình truyền thông thông qua cộng tác viên là  khả  thi  và  có  hiệu  quả,  tuy  nhiên  cần  có  một  nghiên  cứu  can  thiệp  có  nhóm  chứng  để  xác  định hiệu lực của mô hình.

Đa  số  cộng  tác  viên  là  nữ,  trong  tuổi  lao  động, và trình độ học vấn trung học phổ thông  là  những  điểm  thuận  lợi  cho  hoạt  động.  Điều  này được thể hiện qua những hoạt động rất tích  cực của họ trong công tác truyền thông ở cả hai  thời  điểm  trong  mùa  lũ  và  sau  mùa  lũ.  Chính  bản thân của họ cũng có những chuyển biến rất  tốt  khi  tự  đánh  giá  đủ  kiến  thức  phục  vụ  cho

383

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

5.

2.

3.

6.

4.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008). Chương trình mục tiêu  quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.  Bộ  Tài  nguyên  và  Môi  trường  (2009).  Kịch  bản  biến  đổi  khí  hậu, nước biển dâng cho Việt Nam.  Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011). Chiến lược quốc gia về  biến đổi khí hậu.  Dasgupta  S,  Laplante  B,  Meisner  C,  Wheeler  D  and  Yan  J  (2007). The impact of sea level rise on developing countries: A

comparative  analysis,  In  World  Bank  Policy  Research  Working Paper 4136, February 2007.  International  Institute  for  Environment  and  Development  (2007).  The  rising  tide:  assessing  the  risks  of  climate  change  and  human  settlements  in  low  elevation  coastal  zones.  Environment and Urbanization, Vol 19 No 1 April 2007.  Parry ML, Canziani OF, Palutikof PJ,. Linden van der JP and  Hanson CE (2007). Contribution of Working Group II to the  Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on  Climate Change, Chap 10, p. 485, 2007.

384

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CHẤT LƯỢNG NƯỚC UỐNG VÀ THỰC TRẠNG VỆ SINH SỬ DỤNG  NGUỒN NƯỚC TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON VÀ TIỂU HỌC   TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 8 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Xuân Thủy*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đề tài “Chất lượng nước uống và thực trạng vệ sinh sử dụng nguồn nước tại một số trường  mầm non và tiểu học bán trú trên địa bàn quận 8, TP.Hồ Chí Minh” được tiến hành để tìm hiểu hiện trạng về  chất lượng nước uống sử dụng tại các trường học trên địa bàn quân 8.

Mục  tiêu:  Khảo sát chất lượng nước uống và thực trạng vệ sinh sử dụng nguồn nước tại một số trường

mầm non và tiểu học bán trú trên địa bàn quận 8 thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp: Khảo sát và lấy mẫu thử nghiệm.

Kết quả: Tỷ lệ mẫu nước uống có các chỉ tiêu vi sinh không đạt lấy từ 30 trường mầm non và tiểu học trên

địa bàn quận 8 thành phố Hồ Chí Minh là 56,67% theo QCVN 01:2010/BTNMT.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu từ đề tài cho thấy thực trạng ô nhiễm vi sinh vật trong nước uống dành cho  trẻ em tại các  trường  mầm  non  và  tiểu  học  trên  địa  bàn  quận  8.  Các  cơ  quan  chức  năng  cần  có  sự  kiểm  tra  nghiêm ngặt và thường xuyên về vấn đề vệ sinh nguồn nước để giảm thiểu tối đa tình trạng nước uống không  đạt chuẩn tại các trường mầm non và tiểu học.

Từ khóa: Nước uống, trẻ em

ABSTRACT

DRINKING WATER QUALITY AND THE CURRENT FINDINGS ON HYGENE IN WATER USAGE AT  A NUMBER OF DAYCARE CENTERS AND DAY‐BOARDING ELEMENTARY SCHOOLS IN  DISTRICT 08 OF HO CHI MINH

Nguyen Xuan Thuy

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 386 ‐ 389

Backgound:  This research topic of “Drinking water quality and the current findings on hygiene in water  usage at a number of daycare centers and day‐boarding elementary schools in District 08 – Ho Chi Minh city”  was conducted to help send warning signals about potential risks of drinking water consumed at various schools  in the area of District 08.

Objective:  To conduct a survey on drinking water quality and the current situations of hygiene in water

usage at a number of daycare centers and day‐boarding elementary schools in district 8, Ho Chi Minh City.

Methodology: Surveying and collecting samples for analysis.

Results:  The  percentage  of  samples  whose  microbiological  readings  failed  to  meet  standards  among  the  samples collected from 30 daycare centers and elementary schools in District 08 of Hồ Chí Minh city was 56.67%  according to the standards set by QCVN 01:2010/BTNMT.

Conclusion: The results from this research indicate that there is currently microorganism contamination in  drinking water for young children at various daycare centers and elementary schools in district 08. The related

∗ Khoa Sức Khỏe Môi Trường, Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Xuân Thủy     ĐT: 0946220484      Email: nguyenxuanthuy@ihph.org.vn

385

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  authorities should conduct vigorous and frequent inspections on this hygiene issue of drinking water sources in  order  to  reduce  to  the  minimal  this  current  problem  of  substandard  drinking  water  at  daycare  centers  and  elementary schools.

Key words: drinking water, children.

ĐẶT VẤN ĐỀ

nước uống và thực trạng vệ sinh sử dụng nguồn  nước tại một số trường mầm non và tiểu học bán  trú trên địa bàn quận 8, TP.Hồ Chí Minh” được  tiến hành nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh  giá  chất  lượng  nước  uống  (lý  hoá,  vi  sinh và độc chất) dành cho học sinh tiểu học và  mầm non bán trú trên địa bàn quận 8 thành phố  Hồ Chí Minh

Khảo  sát  thực  trạng  vệ  sinh  nguồn  nước  uống dành cho học sinh tại các trường tiểu học  và mầm non bán trú trên địa bàn quận 8, TP. Hồ  Chí Minh.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Nước uống là một phần không thiếu của sự  sống,  mọi  hoạt  động  sống  của  con  người  đều  cần đến nguồn nước. Nước là một trong những  thành phần quan trọng để duy trì và phát triển  về  mặt  thể  chất  cho  con  người.  Trẻ  em  có  nhu  cầu uống nước cao do quá trình học tập và vui  chơi, vì thế, trẻ còn cần được bổ sung nước uống  với yêu cầu đủ về số lượng và đảm bảo an toàn  về  chất  lượng. Các  em  trong  độ  tuổi  từ  3  –  11  tuổi  đều  có  phần  lớn  thời  gian  học  tập  và  sinh  hoạt tại trường học, vì thế chế độ dinh dưỡng tại  trường  cho  các  em  đóng  vai  trò  quan  trọng,  trong đó, việc cung cấp nước uống đảm bảo chất  lượng là một trong những yêu cầu tối thiểu phải  được  quan  tâm(2).  Nước  uống  cho  các  em  học  sinh  tại  trường  học  luôn  được  kiểm  soát  chất  lượng bởi lãnh đạo trường học, và Trung tâm y  tế dự phòng (TTYTDP) địa phương.

Cỡ  mẫu:  Nhóm  nghiên  cứu  lựa  chọn  30  trường  trên  tổng  số  45  trường  (chiếm  66,67%),  trong đó có 23 trường mầm non và 7 trường tiểu  học  bán  trú  trên  địa  bàn  quận  8  thành  phố  Hồ  Chí Minh để khảo sát, tại mỗi trường tiến hành  lấy 01 mẫu nước uống (học sinh uống trực tiếp)  để  tiến  hành  phân  tích  đánh  giá  chất  lượng  và  đồng  thời  sử  dụng  bảng  kiểm  để  khảo  sát  tình  trạng vệ sinh sử dụng nguồn nước cho học sinh.

Theo  thông  tin  do  TTYTDP  Quận  8  cung  cấp,  có  24  trường  mầm  non  và  21  trường  tiểu  học  trên  địa  bàn  Quận  8,  nước  uống  cho  học  sinh  được  lấy  từ  nhiều  nguồn  khác  nhau,  có  trường sử dụng các loại nước uống đóng chai có  sẵn trên thị trường, hoặc nước đun sôi, hoặc có  trường trang bị hệ thống lọc nước cho học sinh(4).

Lựa chọn địa điểm lấy mẫu: chọn mẫu khảo  sát sao cho phân bố rộng trên khắp địa bàn, từ  phường 2 đến phường 16 Quận 8.

Biến số nghiên cứu

+ Nguồn nước uống trực tiếp của học sinh:

Nước uống qua lọc

Nước đun sôi để nguội

Nước uống đóng chai

+ Các chỉ tiêu lý hoá: pH, TDS, Clorua, Màu,

Hàng năm TTYTDP Quận 8 đều có kiểm tra  tình  hình  vệ  sinh  và  nước  sạch  tại  các  trường  mầm non và tiểu học trên địa bàn và có các báo  cáo.  Tuy  nhiên,  các  báo  cáo  về  nước  chỉ  xoay  quanh 2 chỉ tiêu vi sinh là E.coli và Coliform tổng  số và một số các chỉ tiêu hóa lý, còn các chỉ tiêu  về  kim  loại  nặng  và  độc  chất  thì  còn  hạn  chế.  Bên cạnh đó cũng chưa có nhiều những nghiên  cứu khảo sát về nước uống dành cho đối tượng  học sinh ở độ tuổi mầm non và tiểu học.

Đục, Nitrit, Nitrat, Amoni, Sulfat, Florua

+  Các  chỉ  tiêu  kim  loại  nặng:  sắt,  mangan,

chì, Arsen, thủy ngân, đồng, crôm, nhôm

Để giúp cho việc tìm hiểu về hiện trạng chất  lượng  nước  uống  sử  dụng  tại  các  trường  học  trên địa bàn quân 8, đề tài “Khảo sát chất lượng

386

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

+  5  chỉ  tiêu  vi  sinh:  Coliform  tổng  số,  E.coli,  Clostridium  perfringens,  Streptococcus  feacalis  và  Pseudomonas aeruginos.

Có 6/7 trường tiểu học được khảo sát (chiếm  85,71%) các sử dụng hệ thống lọc nước bằng tia  UV và lọc nước cho các  em học  sinh  uống  trực  tiếp.

Kết quả khảo sát điều kiện vệ sinh nguồn  nước

+  Tiêu  chuẩn  đánh  giá:  TCVN  6096  :  2004  Ban  hành  theo  quyết  định  số  23/2004/QĐ‐ BKHCN  ngày  25  tháng  8  năm  2004  của  Bộ  trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ(2).

+  Các  tiêu  chí  về  vệ  sinh  (dựa  trên  hướng  liên  sở  số  6231/SYT‐SGD&ĐT  ngày

dẫn  03/11/2009) (1).

Đa  số  các  trường  đều  có  bồn  hoặc  hồ  chứa  sử dụng cho ăn uống sinh hoạt tại trường (26/30  trường) chiếm 86,67%, các trường còn lại thì sử  dụng nguồn nước máy trực tiếp. Vật liệu chính  là các loại bồn bằng nhựa, Inox, hoặc hồ bằng xi  măng, có lót gạch men bên trong.

‐ Nơi để bồn chứa nước: Có nắp đậy kín, an  toàn, vệ sinh hồ định kỳ (không đóng cặn dưới  đáy và quanh hồ). Bên trong hồ lót gạch men đối  với  hồ  xi  măng.  Có  xét  nghiệm  vi  sinh  1  lần/năm. Có xét nghiệm hóa lý 1 lần/2 năm.

‐ Ca uống nước: Không có hiện tượng dùng

chung.

‐  Bình  đựng  nước  uống:  không  đóng  cặn,  không  có  nhớt  bẩn,  không  bị  đóng  rêu,  ố  vàng  hoặc rỉ sét.

KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN

Về  các  loại  bình  chứa  nước  uống  trực  tiếp  cho học sinh, đa số là loại bình nhựa 21L do các  hãng  NUĐC  cung  cấp.  Một  số  nhà  trẻ  tư  nhân  nhỏ  sử  dụng  bình  lọc  nước  tự  lọc  nước  rồi  bỏ  vào  bình  nhựa  21L  cho  các  em  uống.  Các  loại  bình này được các trường tái sử dụng nhiều lần,  qua  cảm  quan  thấy  bình  cũ,  có  nhiều  bụi  bẩn  bên  ngoài,  và  có  nhớt  trong  bình;  một  số  bình  Inox  có  hiện  tượng  bị  ngả  vàng,  có  cặn  và  có  nhớt trong bình, số này chiếm tỷ lệ 26,67%.

Hiện  trạng  sử  dụng  nước  tại  các  trường  mầm non và tiểu học bán trú trên địa bàn  quận 8 thành phố Hồ Chí Minh

Quan sát ca uống nước của học sinh, vật liệu  chủ yếu là ca nhựa, hoặc ca Inox. Tại các trường  mầm  non  lớn  và  vừa  thì  đa  số  đều  có  ghi  tên  mỗi  em  lên  ca  để  tránh  dùng  chung  ca  uống  nước;  nhưng  tại  các  trường  tư  thục  nhỏ  lẻ,  có  hiện  tượng  sử  dụng  chung  ca  uống  nước,  hoặc  có  ca  riêng  nhưng  không  ghi  tên  và  hình  thức  các  ca  đều  giống  nhau,  khó  phân  biệt.  Về  cảm  quan,  chỉ  có  56,62%  số  ca  uống  nước  cho  trẻ  là  sạch sẽ, không bị nhớt bẩn.

Kết  quả  khảo  sát  cho  thấy  có  96,67%  các  trường  sử  dụng  nước  cấp  làm  nguồn  nước  ăn  uống  sinh  hoạt  chính.  Một  số  trường  còn  sử  dụng nguồn nước cấp thủy qua lọc để làm nước  uống  cho  các  em  học  sinh,  chiếm  tỷ  lệ  33,33%;  hoặc  đun  sôi  để  nguội  cho  các  em  uống,  loại  nước  uống  đun  sôi  để  nguội  này  chiếm  tỷ  lệ  16,67% trên tổng số trường được khảo sát.

Kết quả đánh giá chất lượng nước uống lấy  tại các trường mầm non và tiểu học bán trú  trên địa bàn quận 8 TPHCM  Bảng 1: Tóm tắt số lượng mẫu, chỉ tiêu nghiên cứu

Số trường sử dụng nước uống đóng chai làm  nguồn nước uống trực tiếp cho các em học sinh  chiếm  tỷ  lệ  50,00%.  Các  nhãn  hiệu  nước  uống  đóng chai mà các trường sử dụng đều phải được  phép cung cấp và thông qua sự kiểm duyệt của  Phòng đào tạo và giáo dục Quận 8.

Mầm non Tổng số mẫu Tiểu học bán trú 300 240 30 23 7

Có 33,33% số trường được khảo sát có trang  bị hệ thống lọc nước hoặc khử trùng nước bằng  tia UV.

Chỉ có 3 trên tổng số 30 mẫu, chiếm 10% số  mẫu  được  thử  nghiệm  không  đạt  tiêu  chuẩn  nước  uống  đóng  chai  TCVN  6096:2004.  Các  chỉ

Tổng số chỉ tiêu Lý hóa Vi sinh Kim loại 150 Kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu lí hóa:

387

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

kim loại nặng Chì (Pb), Thủy ngân (Hg), Arsen  (As) trong các mẫu nước uống được xét nghiệm.

Nghiên cứu Y học  tiêu không đạt là pH (2/30  mẫu)  và  Nitrit  (1/30  mẫu)  rơi  vào  các  trường  sử  dụng  nước  uống  đóng  chai  và  nước  uống  qua  lọc  làm  nguồn  nước uống trực tiếp cho các em.

Kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu vi sinh cho  thấy:  có  57%  tổng  số  mẫu  khảo  sát  được  là  không  đạt  tiêu  chuẩn  về  vi  sinh  của  TCVN  6096:2004.

Kết  quả  thử  nghiệm  các  chỉ  tiêu  độc  chất,  kim loại nặng: Không phát hiện thấy các chỉ tiêu

Bảng 2: Tỷ lệ không đạt giữa các chỉ tiêu vi sinh

Tên chỉ tiêu Coliform tổng số E.coli

Tỷ lệ không đạt 30,00% 6,67% Pseudomonas aeruginosa 40,00% Streptococcus feacalis 13,33% Clostridium perfringens 3,33%

KẾT LUẬN

Các  loại  nước  không  đạt  tiêu  chuẩn  vi  sinh  bao  gồm  các  loại  nước  như:  Nước  uống  đóng  chai,  nước  đun  sôi  để  nguội,  nước  uống  qua lọc. Chỉ tiêu vi sinh bị nhiễm nhiều nhất là  chỉ  tiêu  Pseudomonas  aeruginosa,  có  mẫu  bị  nhiễm  tới  3x104/100  mL  vượt  30000  lần  tiêu  chuẩn cho phép.

Đa số các mẫu không đạt rơi vào các trường  mầm  non,  chỉ  có  02  trường  tiểu  học  sử  dung  nước  thủy  cục  qua  lọc  có  các  chỉ  tiêu  vi  sinh  không đạt.

Kết quả khảo sát thực trạng vệ sinh sử dụng  nguồn  nước  cho  thấy  nhà  trường  đã  có  nhiều  biện pháp tích cực trong việc chăm lo sức khỏe  cho học sinh, 100% trường có phòng y tế, nhân  viên phòng y tế được tập huấn đầy đủ kiến  về  vệ  sinh  học  đường;  có  26/30  trường  chiếm  86,67% đầu tư trang thiết bị, xây dựng bể chứa  nước, bồn chứa nước theo đúng yêu cầu của y tế  trường học phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, vui  chơi và học tập của các em học sinh.

Kết quả thử nghiệm hàm lượng các chỉ tiêu  độc  chất  kim  loại  nặng  cho  thấy  không  phát  hiện thấy các chỉ tiêu này trong các mẫu nước  uống được khảo sát. Tuy nhiên, đây là những  yếu  tố  nguy  cơ  tiềm  ẩn  cho  các  vấn  đề  sức  khỏe,  do  đó  chúng  vẫn  là  những  chỉ  tiêu  cần  phải được theo dõi định kỳ để chắc chắn rằng  nước  nguồn  nước  đang  được  sử  dụng  không  bị nhiễm các độc chất đó.

số,

Kết  quả  nghiên  cứu  từ  đề  tài  cho  thấy  có  20/30  mẫu,  chiếm  66,67%  nước  uống  được  xét  nghiệm không đạt tiêu chuẩn về các chỉ  tiêu  lý  hóa,  vi  sinh,  kim  loại  nặng.  Trong  đó,  có  17/30  mẫu,  chiếm  56,67%  mẫu  không  đạt  tiêu  chuẩn  về vi sinh vật. Kết quả này cho thấy thực trạng ô  nhiễm vi sinh vật trong nước uống dành cho trẻ  em tại các trường mầm non và tiểu học trên địa  bàn quận 8 vẫn còn là một vấn đề cần phải được  quan tâm và sớm có biện pháp khắc phục, giảm  thiểu tối đa tình trạng sử dụng nước uống chưa  đảm bảo tiêu chuẩn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

4.

Ban chỉ đạo y tế trường học thành phố Hồ Chí Minh (2010).  Kế hoạch công tác y tế, an toàn trường học năm học 2009 –  2010.  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ  (2004).  Tiêu  chuẩn  nước  uống  đóng chai dùng cho mục đích giải khát.  Gray  N.F.(1994).  Drinking  Water  Quality  ‐  Problem  and  Solutions,  John  Wiley  and  Sons  Ltd,  Baffins  Lane,  Chichester, West Sussex P019 1UD. 1994. ISBN 0 471 94817  9  Trung Tâm Y Tế Dự Phòng Quận 8 TPHCM (2010). Báo cáo  kiểm tra định kỳ về vệ sinh trường học.

Việc sử dụng nước uống bị nhiễm Coliform  tổng  E.coli,  Clostridium  perfringens,  Streptococcus  feacalis  hay  Pseudomonas  aeruginosa  sẽ  gây  ra  các  bệnh  đường  ruột  như:  tiêu  chảy,  tiêu chảy cấp, dịch tả… Chính vì thế, tiêu chuẩn  Việt  Nam  TCVN  6096:2004/BTNMT  cũng  như  quy chuẩn Việt Nam QCVN 01:2010/BTNMT đã  quy  định  không  được  có  sự  hiện  diện  của  Coliform  tổng  số,  E.coli,  Clostridium  perfringens,  Streptococcus  feacalis  hay  Pseudomonas  aeruginos.  Tuy nhiên, kết quả khảo sát này cho thấy có đến  gần 57% mẫu nước uống tại trường học của lứa  tuổi  mầm  non  và  tiểu  học  bị  nhiễm  các  vi  sinh  vật nói trên.

388

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC CƠ SỞ  SẢN XUẤT SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TỪ DỪA ĐẾN SỨC  KHOẺ NGƯỜI DÂN TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

Đặng Ngọc Chánh*, Lê Ngọc Diệp*, Ngô Khần*, Lê Việt Anh*, Nguyễn Trần Bảo Thanh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Các làng nghề thủ công mỹ nghệ một mặt đem lại lợi nhuận về kinh tế cho đất nước, tạo  việc làm cho người dân nhưng mặt khác lại tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người qua các hoạt  động xả thải không qua xử lý.

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá ảnh hưởng của các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường đến sức khỏe  người lao động và người dân xung quanh các làng nghề, cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm  từ dừa tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Kết quả: Tỷ lệ các cơ sở đã thu gom và có biện pháp xử lý chiếm 61,90%. Các chủ cơ sở chưa có biện  pháp xử lý nước thải khá cao (42,86%). Đa số công nhân có các triệu chứng đau đầu chóng mặt (65,79%),  khó thở tức ngực khi làm việc lâu (43,42%). Các hộ gia đình xung quanh chịu ảnh hưởng nhiều từ tiếng ồn  và khói bụi từ hoạt động sản xuất của các cơ sở và có mối liên quan giữa tình hình mắc các bệnh liên quan  đến  đường  hô  hấp  của  người  dân  với  tình  hình  xả  khí  và  bụi  ra  môi  trường  của  các  cơ  sở  (PR=1,66,  KTC:1,04‐2,63).

Kết luận: Nhìn chung các hoạt động sản xuất của các cơ sở mỹ nghệ có những tác động nhất định đối

với sức khỏe của công nhân trực tiếp làm việc và người dân trong khu vực.

Từ khóa: Ô nhiễm môi trường, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm dừa, sức khỏe.

ABSTRACT

ASSESSMENT OF ENVIRONMENTAL POLLUTION CAUSED BY MANUFACTURING OF  HANDICRAFT PRODUCTION MADE BY COCONUT TOWARD HEALTH STATUS OF PEOPLE  LIVING IN CHAU THANH DISTRICT, BEN TRE PROVINCE

Dang Ngoc Chanh, Le Ngoc Diep, Ngo Khan, Le Viet Anh, Nguyen Tran Bao Thanh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 390 ‐ 395

Background:  Although  handcraft  villages  have  good  effectiveness  which  makes  country  income  can  raise  and labor force can be used, on the other hand, waste without being processed can cause environmental pollution  and affect to people’s health.

Objectives:  Assess  the  impact  of  environmental  pollution  on  health  of  laborers  and  people  who  living  around handcraft villages, handicraft production facilities and products of coconut in Chau Thanh district, Ben  Tre province.

Method: Cross‐sectional study.

Results: There are 61.9% of facilities which have collected and treated waste. Percentage of factories do not  have sewage treatment is quite high (42.86%). Surrounding households are most affected from noise and dust

* Khoa Sức khỏe Môi trường, Viện Vệ sinh Y tế Công cộng TP.HCM  Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh   ĐT: 090370453233    Email: dangngocchanh@ihph.org.vn

389

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  which come from operating. There is relationship between espiratory case number and the status of gas and dust  discharged from facilities. (PR=1.66,CI:1.04‐2.63).

Conclusion: Production activities have certain affection to heath status of worker and people living around.

Key words: Environmental pollution, handicraft production facilities, coconut product, health.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh giá hiện trạng môi trường sản xuất của  các cơ sở. Xác định được các loại hình sản xuất,  quy  trình  sản  xuất  sản  xuất  hàng  thủ  công  mỹ  nghệ, sản phẩm từ dừa tại huyện Châu Thành,  tỉnh Bến Tre.

Xác  định  được  các  nguồn  thải  chính  gây  ô  nhiễm môi trường; hiện trạng quản  lý  và  xử  lý  chất  thải  tại  các  cơ  sở.  Đánh  giá  tác  động  của  hoạt  động  sản  xuất  và  chất  thải  phát  sinh  đến  sức khỏe người lao động.

Điều  tra  tình  hình  sức  khỏe  của  người  dân  sinh  sống  khu  vực  xung  quanh  các  cơ  sở  sản  xuất hàng thủ công mỹ nghệ sản phẩm từ dừa.

Đề xuất giải pháp làm giảm thiểu nguồn gây  ô nhiễm của các cơ sở sản xuất mỹ nghệ từ dừa.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phỏng vấn trực tiếp 300 đối tượng bao gồm  công  nhân  trực  tiếp  làm  việc  tại  các  cơ  sở  và  người dân sinh sống trong bán kính 100 m xung  quanh khu vực nhà xưởng các cơ sở sản xuất mỹ  nghệ. Bên cạnh đó kết hợp tiến hành khảo sát tại  các cơ sở dựa trên bảng khảo sát.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Hiện trạng quản lý và xử lý chất thải tại các  cơ  sở  thủ  công  mỹ  nghệ  huyện  Châu  Thành  Bảng 1: Đặc điểm của các cơ sở mỹ nghệ được khảo  sát tại huyện Châu Thành

Đặc điểm Các cơ sở

Năm hoạt động trung bình 10 năm

Nhân công trung bình 8-10 người

Diện tích nhà xưởng trung bình <150 m

Tiến  hành  khảo  sát  tại  8  cơ  sở  tại  thủ  công  mỹ nghệ 2 xã Tiên Thủy, Tân Thạch trên tổng số

Làng nghề là một trong  những  đặc  thù  của  nông  thôn  Việt  Nam.  Trong  vài  năm  gần  đây,  các  hoạt  động  sản  xuất  tiểu  thủ  công  phục  vụ  tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo số liệu  thống kê từ Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện  nước  ta  có  khoảng  2.790  làng  nghề,  thu  hút  khoảng  1,35  triệu  lao  động  chính  và  hàng  triệu  lao động phụ trong lúc nông nhàn(1). Mặt khác,  song  hành  cùng  những  lợi  ích  về  kinh  tế,  văn  hóa  là  các  tác  động  tiêu  cực  đến  môi  trường  sống  và  làm  việc,  gây  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  sức khỏe người lao động và người dân sinh sống  xung quanh các làng nghề. Kết quả khảo sát 52  làng nghề điển hình trong cả nước do Viện Công  nghệ  và  Môi  trường  thực  hiện  cho  thấy  100%  mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có  thông số vượt tiêu chuẩn cho phép(4). Nước mặt,  nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm ở mức độ  khác nhau. Môi trường không khí bị ô nhiễm có  tính  cục  bộ  tại  nơi  trực  tiếp  sản  xuất,  nhất  là  ô  nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép. Các bệnh  như đau mắt, bệnh ngoài da, bệnh về đường hô  hấp,  đường  ruột  của  người  dân  làng  nghề  cao  hơn  ở  các  làng  thuần  nông...Tại  tỉnh  Bến  Tre,  thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề cũng  đang trong tình trạng đáng báo động. Theo báo  cáo  hiện  trạng  môi  trường  năm  2005,  toàn  tỉnh  hiện có khoảng 22 làng nghề trong đó chủ yếu là  các  làng  nghề  sản  xuất  các  sản  phẩm  từ  dừa(2).  Hầu hết các cơ sở đều thiếu vốn, mặt bằng và ý  thức  bảo  vệ  môi  trường  trong  hoạt  động  sản  xuất  còn  nhiều  hạn  chế.  Chất  thải  phát  sinh  trong quá trình hoạt động của cơ sở không qua  xử  lý  mà  được  thải  trực  tiếp  ra  môi  trường.  Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu hiện  trạng và đề xuất một số giải pháp giảm thiểu ô  nhiễm môi trường, nâng cao sức khỏe cho người  lao động, người dân xung quanh các làng nghề  tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

Doanh thu trung bình 200 triệu/năm

390

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

viêm  thùy  phổi....  Đáng  lưu  ý  là  chì  và  thủy  ngân,  rất  độc  hại  đối  với  cơ  thể.  Chì  có  trong  bột chống gỉ, bột màu vô  cơ  làm  cho  màu  sắc  tươi  hơn  (nhất  là  các  màu  đỏ,  cam,  vàng  và  trắng), có tác động tích cực đến quá trình làm  khô mặt sơn. Thủy ngân có tác dụng bảo quản,  chống  vi  khuẩn  và  rêu  mốc(3).  Việc  hít  thở  nhiều bụi sơn ngoài những tác hại của bụi nói  chung  còn  có  khả  năng  nhiễm  độc  hóa  chất  (chì, thủy ngân...). Ngoài ra, nước thải của các  cơ sở cũng có hàm lượng dầu mỡ công nghiệp  cao  và  hầu  hết  được  thải  trực  tiếp  vào  kênh  mương, có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.

Đánh giá ảnh hưởng của các cơ sở sản xuất  thủ công mỹ nghệ đến sức khỏe người lao  động

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hơn 20 cơ sở của toàn huyện. Hầu hết các cơ sở ở  đây đã có số năm hoạt động lên tới hơn 10 năm,  thuộc loại hình cơ sở thủ công nhỏ lẻ. Hoạt động  với số công nhân trung bình khoảng từ 8 đến 10  người làm việc thường xuyên. Do tính chất nhỏ  lẻ của những cơ sở này, nên việc quan tâm đến  vấn đề bảo vệ môi trường còn rất hạn chế. Tuy  các cở sở đã làm bản cam kết bảo vệ môi trường  nhưng hầu như chưa thống kê được lượng chất  thải phát sinh hằng ngày, chưa có biện pháp xử  lý  đối  với  các  loại  hóa  chất  nguy  hại  và  cũng  như chưa thu gom và xử lý nước thải. Qua quan  sát  đánh  giá  bằng  cảm  quan  môi  trường  xung  quanh nhà xưởng thì hầu hết các phế phẩm, gỗ  dừa dư thừa bị quăng bừa bãi xung quanh cơ sở;  bụi  gỗ  bám  đầy  trên  tường  cũng  như  trên  trần  nhà  xưởng,  tiếng  ồn  bụi  và  hơi  hóa  chất  trong  nhà xưởng khá nồng nặc gây cảm giác khó chịu;  nước thải có màu vàng đục do chứa nhiều mùn  cưa và hầu hết thì chưa xử lý và được cho chứa  trong  ao  tù  hoặc  thải  thẳng  trực  tiếp  ra  kênh  mương.  Nhìn  chung  do  quy  mô  của  các  cơ  sở  nhỏ, phân tán, đan xen với các khu vực dân cư  sinh hoạt nên vấn đề ô nhiễm môi trường ở các  làng  nghề  tại  huyện  Châu  Thành  là  dạng  ô  nhiễm phân tán khó quy hoạch và kiểm soát.

Khảo  sát  về  các  triệu  chứng  gặp  phải  trong  quá trình làm việc, hầu như các công nhân được  hỏi  có  các  triệu  chứng  đau  đầu  chóng  mặt  (65,79%). Các triệu chứng khó thở tức ngực cũng  thường  xuyên  xuất  hiện  khi  làm  việc  lâu  (43,42%).  Triệu  chứng  ho  và  hắt  hơi  cũng  thường xuyên xuất hiện trong quá trình làm việc  (30,26%).  Ở  một  số  ít  công  nhân  còn  xuất  hiện  một  số  triệu  chứng  khá  nghiêm  trọng  như  sốc  (11,84%) và ngứa toàn thân (2,63%). Chỉ 27,63%  số công nhân được hỏi cho rằng trong quá trình  làm việc tại cơ sở sản xuất mỹ nghệ chưa có triệu  chứng xuất hiện.

Ghép các chi tiết lại với nhau Xẻ gỗ thành từng miếng hỏ

Đánh bóng và phơi khô

Tiện thành các chi tiết         Phun PU hoặc sơn bóng

Hình 1: Sơ đồ quy trình sản xuất của các sở mỹ nghệ  dừa tại huyện Châu Thành

Bảng 2: Các dạng chất thải của các cơ sở mỹ nghệ

Các dạng chất thải Khí thải

Biểu đồ 1: Tỷ lệ các bệnh thường gặp ở công nhân

Tỷ  lệ  của  việc  xuất  hiện  các  triệu  chứng  ở  nhóm  công  nhân  nữ  (59,26%)  cao  hơn  ở  nhóm  công nhân nam (40,74%), tuy nhiên sự khác biệt  giữa  2  nhóm  này  không  có  ý  nghĩa  thống  kê

Dạng chất thải chủ yếu của các sở mỹ nghệ  dừa  ở  huyện  Châu  Thành  chủ  yếu  là  bụi  gỗ  dừa có thể gây dị ứng ở phổi, gây hen suyễn,

Nước thải Chất thải rắn Các dạng chất thải khác Thành phần ô nhiễm Bụi, hơi xăng, dung môi, hơi sơn PU Dầu mỡ công nghiệp Gỗ dừa dư thừa, cặn hóa chất Tiếng ồn

391

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

nhóm dưới 1 năm (31,25%) và từ 5 đến 10 năm  (48,15%).

Bảng 6: Việc có mắc bệnh và các yếu tố liên quan ở  công nhân

Có mắc 1 trong các loại bệnh Đặc điểm

Giới tính

Nhóm tuổi

Nghiên cứu Y học  (p=0,07).  Với  nhóm  tuổi  thì  việc  xuất  hiện  các  triệu  chứng  lại  tập  trung  ở  nhóm  từ  15  đến  30  tuổi (48,15%) và ít nhất ở nhóm từ 47 đến 62 tuổi  (18,52%).  Việc  xuất  hiện  các  triệu  chứng  theo  năm làm việc tập trung ở nhóm công nhân làm  việc  từ  5  đến  10  năm  (42,59%),  ở  nhóm  công  nhân  làm  việc  trên  1  năm  tỷ  lệ  thấp  (18,52%).  Điều  này  cũng  phần  nào  cho  thấy  việc  công  nhân tiếp xúc lâu năm với các yếu tố ô nhiễm ở  các  cơ  sỡ  mỹ  nghệ  có  khả  năng  xuất  nhiều  các  triệu chứng có hại cho sức khỏe hơn. Tuy nhiên,  cả  2  sự  khác  biệt  trên  đều  không  có  ý  nghĩa  thống kê (p > 0,05).

Năm làm việc

p (95% CI) 0,498 - 0,773 - - 0,383 - - - % 51,35 48,65 48,65 35,14 16,22 13,51 35,14 35,14 16,22 Nam Nữ 15-30 tuổi 30-46 tuổi 47-62 tuôi < 1 năm 1 -5 năm 5- 10 năm >10 năm N 19 18 18 13 6 5 13 13 6

Bảng 5: Việc xuất hiện triệu chứng và các yếu tố liên  quan ở công nhân

Bảng 7: Tỷ lệ có bệnh đối với số năm làm việc của  công nhân

Đặc điểm P (95% CI) Năm làm việc < 1 năm 1-5 năm >10 năm Giới tính

5- 10 năm 48,15 51,85 59,09 40,91 31,25 68,75 54,55 45,45 Nhóm tuổi

Bệnh (%) Không bệnh (%) Đánh giá ảnh hưởng của các cơ sở sản xuất thủ  công mỹ nghệ đến sức khỏe người dân quanh  khu vực

Khảo sát về nguồn nước sử dụng trong sinh  hoạt,  do  còn  khó  khăn  trong  vấn  đề  đưa  nước  máy vào sử dụng tại các hộ gia đình ở khu vực  vùng sâu, có khoảng 30% các hộ gia đình tại đây  sử  dụng  nước  máy;  3,6%  sử  dụng  nước  mưa;  1,36%  sử  dụng  nước  giếng  và  đặc  biệt  có  đến  66% sử dụng nước sông, ao, hồ trong sinh hoạt.

Đối  với  nguồn  nước  sử  dụng  cho  ăn  uống,  do tập quán thói quen sử dụng nước cũng như  đa số người dân tại đây vẫn còn sử dụng nước  mưa cho ăn uống (chiếm khoảng 54%), 45%  sử  dụng  nước  uống  đóng  bình,  chỉ  có  13,64%  sử  dụng  nước  máy  và  đặc  biệt  vẫn  còn  13,18%  sử  dụng nước bề mặt là sông, ao, hồ cho ăn uống.  Một  điều  đáng  chú  ý  là  mặc  dù  đã  được  cung  cấp nước máy vào tận nhà (63 hộ) nhưng chỉ có  42,86% sử dụng nước máy cho ăn uống và tắm  giặt,  một  số  hộ  vẫn  còn  giữ  thói  quen  sử  dụng  nước mưa (16 hộ, chiếm 25,4%) hoặc nước uống  đóng  bình  (47,62%)  cho  ăn  uống.  Từ  tình  hình  trên, ta có thể thấy được nguy cơ tiềm ẩn đối với

Ở nhóm công nhân nam tỷ lệ mắc một trong  các bệnh kể trên cao hơn so với nhóm công nhân  nữ  (51,35%  và  48,65%),  tuy  nhiên  sự  khác  biệt  giữa  2  nhóm  này  chưa  mang  ý  nghĩa  thống  kê  (p>0,05). Trong các nhóm tuổi thì việc mắc một  trong các loại bệnh tập trung chủ yếu ở nhóm từ  15 đến 30 tuổi (48,65%), tiếp đến là nhóm từ 31  đến 46 tuổi (35,14%) và ít nhất ở nhóm từ 47 đến  62  tuổi  (16,22).  Theo  thực  tế  khảo  sát,  nguyên  nhân chính của các bệnh tập trung ở nhóm tuổi  từ 15 đến 30 tuổi, bởi đây nhóm đối tượng chủ  yếu làm việc tại các cơ sở mỹ nghệ. Theo số năm  làm việc, tỷ lệ mắc một trong các bệnh ở trên thì  việc  xuất  hiện  các  triệu  chứng  trên  tập  trung  ở  nhóm công nhân làm việc từ 1 đến 5 năm và 5  đến  10  năm  (42,59%),  ở  nhóm  công  nhân  làm  việc  trên  10  năm  thì  ít  hơn  (12,96%),  xét  trên  cùng  một  nhóm  thì  những  người  làm  việc  trên  10 năm có tỷ lệ có bệnh khá cao (54,55%) so với

Năm làm việc Nam Nữ 15-30 tuổi 30-46 tuổi 47-62 tuôi < 1 năm 1 -5 năm 5- 10 năm >10 năm Xuất hiện các triệu chứng % 40,74 59,26 48,15 33,33 18,52 18,52 25,93 42,59 12,96 n 22 32 26 18 10 10 14 23 7 0,07 - 0,412 - - 0,254 - - -

392

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

thống  kê  (p  =  0,036).  Riêng  khảo  sát  về  ảnh  hưởng  của  việc  gây  ô  nhiễm  nguồn  nước  sinh  hoạt đến tình hình mắc bệnh ngoài da thì không  có mối liên quan.

Bảng 10: Mối liên quan giữa tình hình mắc bệnh về  đường hô hấp và tình hình xả thải trong không khí

Mắc bệnh về đường hô hấp P

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  sức khỏe. Bởi theo tập quán suy nghĩ của người  dân,  nước  mưa  là  nguồn  nước  có  sẵn  và  sạch  nhất  trong  tất  cả  các  nguồn  nước,  tuy  nhiên  trong  điều  kiện  không  khí  bị  ô  nhiễm  do  các  hoạt động sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của  con  người  hiện  nay  thì  trong  nước  mưa  có  thể  chứa  bụi  bẩn  và  các  hóa  chất  tồn  lưu  độc  hại  khác.

Tình trạng xả thải trong không khí PR (95% CI)

Có 0,036 1,66 (1,04- 2,63) Không Có 22 (41,51%) 44 (26,35%) Không 31 (58,49%) 123 (73,65%)

KẾT LUẬN

Hầu hết các cở sở chưa thống kê được lượng  chất  thải  phát  sinh  hằng  ngày,  chưa  có  biện  pháp xử lý đối với các loại hóa chất nguy hại và  cũng như chưa thu gom và xử lý nước thải.

Khảo sát các triệu chứng xuất hiện ở các hộ  gia  đình,  có  29%  hộ  gia  đình  được  khảo  sát  có  thành viên trong gia đình có biểu hiện đau đầu  do tiếng ồn; 9% hộ có biểu hiện của khó thở, tức  ngực  do  hít  phải  mùi  khó  chịu  phát  sinh  trong  suốt quá trình sản xuất và 24% hộ có người biểu  hiện thường xuyên ho hoặc hắt hơi. Bên cạnh đó  theo  thông  tin  cung  cấp,  có  4  hộ  có  thành  viên  trong  gia  đình  bị  sốc.Về  tình  hình  bệnh  tật  của  người dân sống gần khu vực cơ sở sản xuất, có  23,18% hộ mắc các bệnh về tai mũi họng, 16,82%  hộ  mắc  các  bệnh  về  đường  hô  hấp,  10,91%  bị  mắc  các  bệnh  ngoài  da  và  8,18%  mắc  các  bệnh  liên quan về đường tiêu hóa.

Bảng 8: Các triệu chứng bệnh biểu hiện của người  dân do bị ảnh hưởng bởi các cơ sở sản xuất

Đa  số  ở  các  công  nhân  xuất  hiện  các  triệu  chứng  là  đau  đầu  chóng  mặt  (65,79%),  khó  thở  tức ngực cũng thường xuyên xuất hiện khi làm  việc lâu (43,42%). Loại bệnh chủ yếu công nhân  mắc phải là bệnh về hô hấp (43,42%). Loại bệnh  thường  gặp  thứ  hai  ở  các  công  nhân  là  tai  mũi  họng (34,21%).

Triệu chứng Đau đầu Khó thở, tức ngực Ho, hắt hơi Sốc Không có ai có triệu chứng N 64 20 53 4 121 % 29,09 9,09 24,09 1,82 55,0

% N

23,18 16,82 10,91 8,18 51 24 18 37

Bảng 9: Tình hình bệnh tật của người dân gần khu vực cơ  sở sản xuất  Tình hình mắc các bệnh trong gia đình Tai mũi họng Bệnh về đường hô hấp Bệnh ngoài da Bệnh liên quan đến đường tiêu hóa Ung thư

29%  hộ  dân  cư  xung  quanh  có  thành  viên  trong gia đình có biểu hiện đau đầu do tiếng ồn;  9% hộ có biểu hiện của khó thở, tức ngực và 24%  hộ có người có biểu hiện thường xuyên ho hoặc  hắt  hơi.  23,18%  hộ  mắc  các  bệnh  về  tai  mũi  họng, 16,82% hộ mắc các bệnh về đường hô hấp,  10,91% bị mắc các bệnh ngoài da và 8,18% mắc  các  bệnh  liên  quan  về  đường  tiêu  hóa.  Có  mối  liên quan giữa tình hình mắc các bệnh liên quan  đến đường hô hấp của người dân với tình hình  xả khí và bụi ra môi trường của các cơ sở. Tỷ lệ  mắc  bệnh  ở  những  người  chịu  ảnh  hưởng  của  tình trạng này gấp 1,66 lần so với những người ít  chịu ảnh hưởng (p<0,05).

0 0

KIẾN NGHỊ

Qua  kết  quả  nghiên  cứu,  cùng  với  việc  tìm  hiểu các ý kiến, nhu cầu thông tin của hai nhóm  đối tượng công nhân trực tiếp làm việc và người

Tỷ lệ mắc bệnh ở những hộ dân cho rằng họ  có chịu ảnh hưởng của mùi và hơi hóa chất cũng  như việc xả bụi trong quá trình gia công cao gấp  1,66 lần so với những người cho rằng họ không  chịu ảnh hưởng do ở xa khu vực nhà xưởng của  các  cơ  sở  mỹ  nghệ  và  kết  quả  này  có  ý  nghĩa

393

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đối với các cơ sở mỹ nghệ

Nghiên cứu Y học  dân sống xung quanh các cơ sở mỹ nghệ từ dừa.  Một số đề xuất kiến nghị được đưa ra như sau:

Cần thống kê lượng hóa chất và chất thải của  cơ sở mình thải ra hàng tháng để có biện pháp  hạn chế giảm thải.

Đối với chính quyền địa phương trực tiếp  quản lý các cơ sở

Cần  quan  tâm  hơn  đến  vấn  đề  xử  lý  các  nguyên  vật  liệu  thừa,  tránh  tình  trạng  vứt  bừa  bãi.

Tiến  hành  các  hoạt  động  kiểm  tra  giám  sát  thường xuyên và rộng khắp về vấn đề xử lý thu  gom rác thải và nước thải tại các cơ sở mỹ nghệ.

Đối với công nhân trực tiếp làm tại các cơ  sở

Cần tự ý thức hơn trong việc sử dụng bảo hộ

lao động.

Động  viên  các  chủ  cơ  sở  mỹ  nghệ  trang  bị  dụng  cụ  bảo  hộ  khẩu  trang  cũng  như  cải  thiện  môi trường lao động cho công nhân. Chú ý nhắc  nhở việc che chắn bụi xung quanh khu vực sản  xuất.

Tìm hiểu thêm các triệu chứng, cũng như các  bệnh có thể bị do ảnh hưởng của vấn đề ô nhiễm  môi trường.

Đối với các trung tâm y tế huyện, trạm y  tế xã

Tăng cường các hoạt động tuyên truyền phổ

biến kiến thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

Tuyên  truyền  phổ  biến  kiến  thức  vận  động  tránh những quan  niệm  sai  lầm  của  các  chủ  cơ  sở  mỹ  nghệ  về  mức  độ  ô  nhiễm  của  các  hoạt  động sản xuất thủ công mỹ nghệ.

4.

Phạm  Khôi  Nguyên  (2005),  Báo  cáo  hiện  trạng  môi  trường  quốc gia, Bộ Tài nguyên môi trường.  Sở  Tài  nguyên  và  Môi  trường  tỉnh  Bến  Tre  (2005),  Báo  cáo  hiện trạng môi trường.  Trịnh Thị Thanh (2000), Độc học môi trường và sức khỏe con  người, NXB ĐHQG Hà Nội.  Viện Công nghệ và Môi trường ‐ Trường Đại học Bách Khoa,  (2010) Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây  dựng  các  chính  sách  và  biện  pháp  giải  quyết  vấn  đề  môi  trường ở làng nghề Việt Nam.

Tuyên truyền về cách phòng chống các bệnh  có thể gây ra do ô nhiễm môi trường làng nghề  tại địa phương.

394

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

MỐI LIÊN QUAN GIỮA VECTOR SỐT XUẤT HUYẾT   VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI 4 XàVEN BIỂN TỈNH BẾN TRE‐2011

Đặng Ngọc Chánh*, Lê Ngọc Diệp*, Lê Việt Anh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hiện nay, tình trạng biến đổi khí hậu đang ngày càng thể hiện rõ ở trên thế giới và Việt Nam  và gây ra nhiều tác động xấu đến con người và môi trường. Những tác động của hiện tượng nóng ấm toàn cầu,  mở rộng những vùng có nhiệt độ trung bình trên 160C là yếu tố khiến vùng phân bố của muỗi truyền bệnh SXH  ngày càng mở rộng.

Mục tiêu nghiên cứu: tình hình về véc‐tơ gây bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue và mối liên quan

giữa sự gia tăng số lượng véc‐tơ với hiện tượng biến đổi khí hậu tại bốn xã ven biển tỉnh Bến Tre.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Điều  tra  cắt  ngang  số  muỗi  cái  Aedes  aegypti  trưởng  thành,  mật  độ  loăng

quăng ở 4 xã thuộc 2 huyện của tỉnh Bến Tre vào 2 mùa.

Kết quả nghiên cứu: Trong mùa nắng, chỉ số DI (Số muỗi cái Aedes aegypti trung bình trong 1 gia đình  khảo sát) của 4 xã thuộc 2 huyện Ba Tri và huyện Thạnh Phú là 2,65. Chỉ số HI (Tỷ lệ nhà có muỗi cái Aedes  aegypti trưởng thành) là 83,5%. Chỉ số BI (Về số nhà có phát hiện LQ Aedes aegypti) 48,25%. Chỉ số CI (Số  dụng cụ chứa nước có LQ Aedes aegypti) là 23,78%. Đợt khảo sát vào mùa mưa các chỉ số này có phần tăng lên  đáng kể DI (3,24), HI (85%), BI (58,25%) và CI (15,85%).

Kết luận: Có sự chênh lệch về 2 chỉ số DI và HI của 4 xã ven biển thuộc tỉnh Bến Tre trong mùa mưa và

mùa nắng.

Từ khóa: Sốt xuất huyết, véc tơ, chỉ số mật độ, dụng cụ chứa nước.

ABSTRACT

THE RELATIONSHIP BETWEEN DENGUE VECTOR AND CLIMATE CHANGE AT 4 COASTAL  COMMUNES IN BEN TRE PROVINCE ‐ 2011

Dang Ngoc Chanh, Le Ngoc Diep, Le Viet Anh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 396 ‐ 401

Background:  Nowadays,  the  climate  change  is  becoming  more  and  more  obviously  in  all  over  the  world  including Vietnam. This causes bad effects for human beings and the environment. Global warming increases the  areas with the average temperatures above 16ºC which makes the quickly growth of Dengue mosquitoes.

Objectives: The situation of Dengue fever vector/ Dengue hemorrhagic fever and association between the  increase in the number of vectors with the phenomenon of climate change in four coastal communes of Ben Tre  province.

Methods:  Cross‐sectional  survey  to  get  the  amount  of  adult  mosquitoes,  mosquitoes  larva  density  in  4

communes under 2 districts of Ben Tre in two seasons.

Results: During the dry season, the index DI (The average female mosquitoes Aedes aegypti in a household  surveyed) in the dry season of 4 communes in 2 districts of Ba Tri and Thanh Phu district is 2.65 mosquitoes per  house.  HI  index  (the  rate  of  the  mosquito  Aedes  aegypti  adult)  is  83.5%.  BI  Index  (The  home  having  Aedes

* Khoa Sức Khỏe Môi Trường, Viện Vệ Sinh Y tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh   ĐT: 0903704532

Email: dangngocchanh@ihph.org.vn

395

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  aegypti  LQ)  is  48.25%.  Total  investigation  DCCN  2810,  CI  index  (number  of  water  containers  with  Aedes  aegypti LQ)  is  23.78%.  In  the  rainy  season,  these  index  increase  significantly,  for  example,  the  DI  (3.24),  HI  (85%), BI (58.25%) và CI (15.85%).

Conclusion: There is disparity index DI and HI 2 of 4 communes coastal province of Ben Tre during the

rainy season and dry season.

Keywords: Dengue, vector, the index density, warter container.

ĐẶT VẤN ĐỀ

mạnh tại 5 xã của huyện Ba Tri. Xã có tỷ lệ mắc  bệnh  cao  nhất  là  Tân  Thủy  với  tỷ  lệ  mắc  705  ca/100.000 dân; tỷ lệ mắc thấp nhất cũng ở mức  cao 137/100.000 dân. Đặc biệt đã có 2 trường hợp  tử  vong  do  SXH  của  huyện  chỉ  trong  tháng  6/2010. Ngoài ra, qua khảo sát của Trung tâm y  tế dự phòng tỉnh, có đến 90% nhà dân có muỗi  truyền bệnh và hơn 80% hộ dân sử dụng các vật  chứa nước có lăng quăng(5).

Hiện  nay,  tình  trạng  biến  đổi  khí  hậu  đang  ngày  càng  thể  hiện  rõ  ở  trên  thế  giới  và  Việt  Nam, gây ra nhiều tác động xấu đến con người  và  môi  trường(7).  Những  tác  động  của  hiện  tượng nóng ấm toàn cầu, mở rộng những vùng  có nhiệt độ trung bình trên 16oC là yếu tố khiến  vùng phân bố của muỗi truyền bệnh SXH ngày  càng mở rộng(2).

Sốt  Dengue/Sốt

xuất  huyết  Dengue  (SD/SXHD)  là  bệnh  nhiễm  virus  Dengue  cấp  tính  do  muỗi  truyền.  SD/SXHD  đang  trở  thành  dịch tại hơn 100 quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ,  Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái  Bình  Dương(4).  Trong  đó  Đông  Nam  Á  và  Tây  Thái Bình Dương là bị ảnh hưởng nghiêm trọng  nhất.  Có  khoảng  2,5  tỷ  người  sống  trong  vùng  nguy cơ(9). Đại dịch SD/SXHD bắt đầu từ những  năm  cuối  thế  kỷ  20  với  số  ca  mắc  hàng  năm  khoảng  100  triệu  trường  hợp,  500.000  trường  hợp SD/SXHD cần nhập viện trong đó có 90% là  trẻ em dưới 15 tuổi. Tỷ lệ tử vong trung bình do  SD/SXHD là 5% với khoảng 240.000 trường hợp  mỗi năm (3).

Tình hình diễn biến của dịch ngày càng lan  rộng  và  phức  tạp.  Hơn  nữa,  SD/SXHD  không  chỉ  ảnh  hưởng  lên  sức  khỏe  cá  nhân  mà  còn  là  vấn  đề  y  tế  công  cộng  cần  quan  tâm,  có  ảnh  hưởng  tới  kinh  tế  và  xã  hội(4).  Hiện  tại  trên  thế  giới  chưa  có  vắc  xin  phòng  bệnh  và  cũng  chưa  có thuốc điều trị đặc hiệu, do đó biện pháp ngăn  ngừa hiệu quả duy nhất chính là kiểm soát véc  tơ  truyền  bệnh  trong  đó  có  2  loài  muỗi  Aedes  aegypti và Aedes albopictus là véc tơ chính(8). Trước  tình  hình  trên,  Viện  vệ  sinh  Y  tế  công  cộng  TP  Hồ Chí Minh tiến hành điều tra véc tơ SD/SXHD  tại  hai  xã  Thạnh  Phú,  Ba  Tri,  nhằm  cung  cấp  thêm  các  số  liệu  về  tình  hình  ảnh  hưởng  của  biến  đổi  khí  hậu  tại  Bến  Tre  nói  riêng  và  Việt  Nam nói chung.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chung

Tình hình về véc‐tơ gây bệnh sốt Dengue/sốt  xuất huyết Dengue và mối liên quan giữa sự gia  tăng số lượng véc‐tơ với hiện tượng biến đổi khí  hậu tại bốn xã ven biển tỉnh Bến Tre.

Mục tiêu cụ thể

Tình  hình  véc  tơ  gây  bệnh  sốt  Dengue/sốt  xuất  huyết  Dengue  tại  4  xã  của  2  huyện  Ba  Tri  và Thạnh Phú.

Tại  Việt  Nam,  có  số  mắc  và  chết  do  SD/SXHD  gia  tăng  kể  từ  năm  1994  trở  lại  đây,  bệnh đã và đang trở thành vấn đề y tế nghiêm  trọng. Năm 1998 số mắc và tử vong do bệnh rất  cao với 234.920 trường hợp mắc, 337 trường hợp  tử  vong  tại  56/61  tỉnh/thành  phố.  Trước  tình  hình đó, Thủ tướng Chính Phủ đã có quyết định  số  196/1998/QĐ  ‐  TTg  đưa  dự  án  phòng  chống  SD/SXHD trở thành một mục tiêu trong Chương  trình mục tiêu Quốc gia thanh toán một số bệnh  xã  hội  và  bệnh  dịch  nguy  hiểm(1).  Tại  tỉnh  Bến  Tre, theo khuyến cáo của Viện Pasteur TP.HCM  thì hiện dịch sốt xuất huyết (SXH) đang gia tăng

Tìm  hiểu  mối  liên  quan  giữa  sư  gia  tăng  vectơ SD/SXHD với sự thay đổi nhiệt độ, lượng

396

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  mưa do biến đổi khí hậu.

còn  lại  8,2%  là  muỗi  Culex  và  8,1%  là  các  loại  muỗi khác.

PHƯƠNG PHÁP, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Biểu đồ 2: Phân loại muỗi vào mùa mưa

Trong  đề  tài  này,  chúng  tôi  điều  tra  cắt  ngang  mật  độ  muỗi  cái  Aedes  aegypti  trưởng  thành và xác định số dụng cụ chứa nước có chứa  loăng  quăng  ở  4  xã  thuộc  2  huyện  Ba  Tri  và  Thạnh  Phú  2  lần/năm.  Mỗi  lần  điều  tra  100  hộ  gia  đình  (phân  bổ  ngẫu  nhiên)  trong  từng  xã,  1lần thực hiện vào mùa mưa, 1 lần thực hiện vào  mùa khô năm 2011(6).

Địa điểm nghiên cứu

Mùa nắng  Bảng 1: Các chỉ số về mật độ muỗi cái trưởng thành  Ae.aegypti vào mùa nắng.

Các  xã  nghiên  cứu  là  các  xã  ven  biển  có  tại  nơi  có  điều  kiện  thuận  lợi  cho  sự  sinh  sản  và  phát triển của Aedes aegypti tại tỉnh Bến Tre là:

Chỉ số Thạnh Hải Bảo Thuận An Thủy

•  Huyện  Thạnh  Phú:  xã  Thạnh  Hải,  xã

Thạnh Phong.

• Huyện Ba Tri: xã Bảo Thuận, An Thủy.

Thạnh Phong 1,76 80 DI HI (%) 2,12 82 3,8 88 2,92 84

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tình hình véctơ SXH/SD

Kết  quả  tính  chỉ  số  DI  (số  muỗi  cái  Aedes  aegypti trung bình trong 1 gia đình khảo sát) tại  100  hộ  của  mỗi  xã  cho  thấy  chỉ  số  DI  của  2  xã  Thạnh Phong là thấp nhất (1,76). Chỉ số DI của 2  xã của huyện Ba Tri có phần cao hơn: Bảo Thuận  (3,8) và An Thủy (2,92).

Trong  tổng  số  2815  mẫu  muỗi  thu  được  trong  đợt  điều  tra  mùa  nắng,  loại  muỗi  chiếm  chủ  yếu  là  muỗi  Anopheles  sp  (39,74%),  muỗi  Ae.aegygti  chiếm  thứ  2  (37,28%).  Muỗi  Culex  chiếm  thứ  3  (8,87%)  và  thấp  nhất  là  muỗi  Ae.albopictus (3,64%). Còn lại 10,47% số muỗi bắt  được là các loài muỗi khác.

Chỉ số HI (tỷ lệ nhà có muỗi cái Aedes aegypti  trưởng thành) giữa 2 xã của huyện Thạnh Phú là  Thạnh Hải 82%, Thạnh Phong 80% thấp hơn so  với 2 xã của huyện Ba Tri là Bảo Thuận 88%, An  Thủy  84%.  Điều  này  cho  thấy  véc  tơ  của  muỗi  Aedes  aegypti  tại  2  xã  thuộc  huyện  Ba  Tri  phổ  biến hơn 2 xã thuộc huyện Thạnh Phú.

Bảng 2: Các chỉ số về mật độ bọ gậy (loăng quăng)  Ae.aegypti vào mùa nắng.

Chỉ số Thạnh Hải Thạnh Phong An Thủy

BI (%) CI (%) 64 31,7 60 21,1 Bảo Thuận 51 19,1 72 23,2

Biểu đồ 1: Phân loại muỗi vào mùa nắng

Chỉ  số  BI  (về  số  nhà  có  phát  hiện  LQ  Aedes  aegypti)  ở  xã  Thạnh  Phong  trong  100  nhà  khảo  sát  có  60%  là  phát  hiện  thấy  loăng  quăng,  ở  Thạnh Hải là 64%, An Thủy là cao nhất với 72%  số nhà được khảo sát phát hiện loăng quăng và  Bảo Thuận thấp nhất là với 51%.

Tổng số lượng muỗi thu được tại 4 xã trong  đợt điều tra mùa mưa là 3149 con. Trong đó, tỷ  lệ  muỗi  Ae.aegypti  vào  mùa  này  tăng  khá  cao  (41,1%),  tỷ  lệ  muỗi  Anopheles sp  cao  thứ  2  (39,8  %),  Muỗi  Ae.albopictus  chỉ  chiếm  khoảng  2,8%,

Trong  tổng  số  679  dụng  cụ  chứa  nước  (DCCN) điều tra ở xã Thạnh Hải thì số dụng cụ

397

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 4: Các chỉ số về mật độ bọ gậy (loăng quăng)  Ae.aegypti vào mùa mưa.

Chỉ số Thạnh Hải Bảo Thuận An Thủy

Thạnh Phong 74 24,4 BI (%) CI (%) 68 17,2 38 9,2 53 12,6

Nghiên cứu Y học  phát  hiện  thấy  loăng  quăng  là  31,7%;  tổng  số  DCCN điều tra của xã Thạnh Phong là 707 dụng  cụ trong đó có 21,1% số dụng cụ là có phát hiện  thấy loăng quăng; tổng số DCCN điều tra của xã  Bảo  Thuận  là  684  dụng  cụ  trong  đó  19,1%  số  dụng cụ là phát hiện thấy có loăng quăng; tổng  DCCN điều tra của xã An Thủy là 740 dụng cụ  trong  đó  23,2%  số  dụng  cụ  là  phát  hiện  thấy  loăng quăng.

Chỉ số BI trong 100 nhà khảo sát vào mùa  mưa  ở  xã  Thạnh  Hải  thì  có  68%  là  phát  hiện  thấy loăng quăng, ở Thạnh Phong là 74%, Bảo  Thuận là thấp nhất với 38% và cuối cùng là An  Thủy là 53%.

Tổng  số  DCCN  điều  tra  ở  xã  Thạnh  Hải  là  973 dụng cụ thì số dụng cụ phát hiện thấy loăng  quăng là 17,2 %; tổng số DCCN điều tra của xã  Thạnh Phong là 909 dụng cụ trong đó có 24,4%  số  dụng  cụ  là  có  phát  hiện  thấy  loăng  quăng;  tổng số DCCN điều tra của xã Bảo Thuận là 827  dụng cụ trong đó 9,2% số dụng cụ là phát hiện  thấy có loăng quăng; tổng DCCN điều tra của xã  An Thủy là 811 dụng cụ trong đó 12,6% số dụng  cụ là phát hiện thấy loăng quăng.

Tỷ  lệ  các  hộ  gia  đình  còn  để  các  vật  dụng  chứa nước đọng quanh nhà ở các xã đều còn khá  thấp, chỉ có xã Thạnh Hải là còn ở mức 34% gia  đình có vật dụng đọng nước quanh nhà. Các hộ  gia đình hầu như đều có sử dụng các biện pháp  diệt  muỗi  đơn  gỉan  (vợt  muỗi,  nhang  muỗi,  thuốc  xịt…).  Tỷ  lệ  này  khá  cao  ở  hai  xã  Bảo  Thuận (78%) và An Thủy (76%). Đối với công tác  tẩm  mùng  thì  số  hộ  gia  đình  được  tẩm  mùng  trong 400 hộ khảo sát cũng khá cao và đều trên  50%. Đặc biệt ở xã Bảo Thuận của huyện Ba Tri,  trong 100 hộ được hỏi thì số hộ được tẩm mùng  đạt tới 65%.

Mùa mưa  Bảng 3: Các chỉ số về mật độ muỗi cái trưởng thành  Ae.aegypti vào mùa mưa.

Chỉ số Thạnh Hải Bảo Thuận An Thủy

Tỷ lệ các hộ gia đình có vật dụng đọng nước  quanh nhà ở các xã cao hơn mùa nắng: xã Thạnh  Hải  (38%);  Thạnh  Phong  (58%);  Bảo  Thuận  (43%); An Thủy (47%). Tỷ lệ này khá cao ở hai xã  Bảo  Thuận  (67%)  và  An  Thủy  (68%).  Đối  với  công tác tẩm mùng và đặc biệt ở xã Bảo Thuận,  An  Thủy  của  huyện  Ba  Tri,  trong  100  hộ  được  hỏi  thì  số  hộ  được  tẩm  mùng  đạt  tới  88%  và  81%.

Thạnh Phong 3,19 83 DI HI (%) 3,03 84 3,53 87 3.2 86

Mối  liên  quan  giữa  sự  gia  tăng  véc  tơ  SXH/SD và hiện tượng biến đổi khí hậu

Kết quả tính chỉ số DI tại 100 hộ của mỗi xã  vào  mùa  mưa  tại  4  xã  Thạnh  Hải,  Thạnh  Phong,  Bảo  Thuận  và  An  Thủy  được  thể  hiện  trong bảng 3. Chỉ số  DI  ở  Bảo  Thuận  cao  hơn  hẳn các xã còn lại, cho thấy tần suất xuất hiện  của muỗi cái Aedes aegypti trong 1 hộ gia đình  ở Bảo Thuận là khá cao.

Chỉ số HI giữa 2 xã của huyện Thạnh Phú  là  Thạnh  Hải  (84%),  Thạnh  Phong  (83%)  thấp  hơn 2 xã của huyện Ba Tri là Bảo Thuận (87%),  An  Thủy  (86%).  Sự  chênh  lệch  về  chỉ  số  này  vẫn cho thấy huyện Ba Tri có độ phổ biến véc  tơ SXH cao hơn hẳn huyện Thạnh Phú.

Nhóm  nghiên  cứu  tiến  hành  khảo  sát  sự  thay  đổi  của  cá  yếu  tố  nhiệt  độ  và  lượng  mưa  theo từng tháng trong 5 năm. Kết quả cho thấy  trong  những  tháng  mùa  khô  (từ  tháng  12  năm  trước đến tháng 4 năm sau), nhiệt độ trung bình  trong 5 năm dao động từ 24,50C đến 29,20C. Vào  tháng 4 hằng năm, nhiệt độ trung bình vào cuối  mùa khô đều cao hơn 280C, năm 2010 mức nhiệt  trung bình 29,20C cao hơn nhiệt độ 5 năm trước  (năm  2005)  là  0,40C.  Tiếp  tục  khảo  sát  hệ  số  tương quan giữa sự thay đổi nhiệt độ này và sự  gia tăng số lượng vectơ vào mùa mưa z = 0,67.

398

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

huyện  Ba  Tri  và  huyện  Thạnh  Phú  trong  mùa  mưa và mùa nắng. Vào mùa mưa, thì các chỉ về  mật độ muỗi cái Aedes aegypti có xu hướng tăng  cao  hơn.  Tuy  nhiên  với  hệ  số  tương  quan  là  z=0,67 và z=0,89 thì vẫn chưa đủ bằng chứng để  khẳng  định  mối  liên  quan  để  khẳng  định  mối  liên  quan  giữa  sự  gia  tăng  véc  tơ  SD/SXH  với  hiện tượng biến đổi khí hậu.

KIẾN NGHỊ

Đối với lượng mưa thì trong mùa khô hằng  năm  tại  huyện  Thạnh  Phú,  lượng  mưa  trung  bình tối đa chỉ có 73,5 mm. Đặc biệt, vào tháng 2  và  tháng  3  hầu  như  không  có  mưa.  Vào  mùa  mưa, lượng mưa đo được thấp nhất trong 5 năm  từ 2006 đến 2010 là 8,5 mm (vào thời điểm tháng  11 năm 2009) và cao nhất là 412,1 mm (vào thời  điểm  tháng  10  năm  2008).  Hệ  số  tương  quan  giữa sự thay đổi của lượng mưa và sự gia tăng  số lượng véctơ là z = 0,89.

Từ  những  kết  quả  đạt  được  trong  nghiên  cứu dưới đây là một số khuyến nghị cho chương  trình phòng chống SD/SXHD cũng như ứng phó  với BĐKH:

Khi  có  hiện  tượng  thay  đổi  về  nhiệt  độ  bất  thường  hoặc  mưa  kéo  dài  thì  cần  chủ  động  phòng  tránh  khả  năng  gia  tăng  dịch  bệnh  SD/SXHD.

Cải thiện hệ thống cung cấp nước sạch: Việc  cung  cấp  nước  sạch  không  đầy  đủ  sẽ  làm  tăng  tình trạng trữ nước mà chính các loại DCCN là  nơi sinh sản cho muỗi.

Theo mô hình của Dana Focks, sự biến đổi  về lượng mưa và nhiệt độ theo mùa được cho  là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự  phát  triển  của  véctơ  SD/SXHD.  Theo  kết  quả  của nhóm nghiên cứu thì có sự chênh lệch về 2  chỉ số DI và HI của các xã thuộc huyện Ba Tri  và  huyện  Thạnh  Phú  trong  mùa  mưa  và  mùa  nắng.  Vào  mùa  mưa,  thì  các  chỉ  về  mật  độ  muỗi  cái  Aedes  aegypti  có  xu  hướng  tăng  cao  hơn.  Tuy  nhiên  vẫn  chưa  có  đủ  bằng  chứng  thống kê để chứng minh giả thuyến này do các  hê số tương quan đều lớn 0,05.  KẾT LUẬN

Cần huy động sự tham gia tích cực của cộng  đồng  vào  chương  trình  ưng  phó  BĐKH  cung  như phòng chống SD/SXHD.

Nâng cao kiến thức của công tác viên, cán bộ  hệ thống y tế và cán bộ chính quyền về BĐKH  và các ảnh hưởng của BĐKH.

Cần có sự phân tích đầy đủ thông tin để xác  định ổ bọ gậy nguồn để từ đó có can thiệp hiệu  quả vào chính ổ nguồn đó.

Triển  khai  và  mở  rộng  mô  hình  PC  SD/SXHD  dựa  vào  cộng  đồng  có  sử  dụng  Mesocyclops  và  duy  trì  tính  bền  vững  của  chương trình.

Công  tác  ứng  phó  BĐKH  và  PC  SD/SXHD  cần  có  sự  phối  hợp  liên  ngành  giữa  các  ban  ngành  ở  tất  cả  các  lĩnh  vực  có  liên  quan  trong  tỉnh, huyện và xã.

Cần có tiến hành thêm những nghiên cứu về  những  ảnh  hưởng  của  biến  đổi  khí  hậu  trong  những năm tới.

Từ thế kỷ trước, tác động của hiệu ứng nhà  kính dẫn đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu đã trở  thành  một  nguy  cơ  sinh  thái  nghiêm  trọng  có  ảnh  hưởng  tới  đời  sống  của  loài  người  và  các  mối tương tác với các loài khác. Hiện tượng này  còn được coi như là một động lực chính chi phối  mối tương tác giữa ‘tác nhân gây bệnh ‐ vật lây  truyền/môi  trường  –  sinh  vật  chủ’  của  hầu  hết  các  bệnh  do  nhiễm  khuẩn  bao  gồm  cả  sốt  Dengue/sốt  xuất  huyết  Dengue  (SD/SXHD).  Và  hai yếu tố được cho có nhiều ảnh hưởng nhiều  nhất đến hiện tượng này là sự biến đổi về lượng  mưa  và  nhiệt  độ  theo  mùa.  Tuy  nhiên,  tại  Việt  Nam  những  nghiên  cứu  gần  đây  phân  tích  thống  kê  cho  thấy  không  có  mối  tương  quan  đáng kể giữa số ca SD/SXHD hàng năm với tổng  lượng  mưa  trong  giai  đoạn  1996‐2007.  Nhưng  trải qua các năm, số ca SD/SXHD luôn tăng vào  mùa mưa (tháng 4 đến tháng 10). Đối với nghiên  cứu  của  nhóm  tác  giả  cũng  phát  hiện  ra  có  sự  chênh lệch về 2 chỉ số DI và HI của các xã thuộc

399

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

5.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

6.

Sở y tế tỉnh Bến Tre (2009, 2010,2011), Báo cáo tổng kết công  tác phòng chống sốt xuất huyết.  Viên Paster TPHCM (2009), Tài liệu hướng dẫn tập huấn điều  tra côn trùng.

2.

7. WHO  (1995),  Guideline  for  Dengue  surveillance  and

mosquito control, World Health Organiztion.

8. WHO

(1997),  Dengue  haemorrhagic

fever:  diagnosis,

treatment, prevention, and control, Geneva.

3.

9. WHO  (2008),  Asia‐  Pacific  Dengue  program  managers

meeting, World Health Organization.

4.

Bộ  Y  Tế  (2006),  Giám  sát,  chẩn  đoán  và  điều  trị  bệnh  Sốt  Dengue/Sốt xuất huyết Dengue, Nhà xuất bản y học, Hà Nội.  Gubler DJ. (1997), Dengue and Dengue hemorrhagic fever; its  history and resurgence as a global public health problem, IN  Kuno  DGG.  (Ed.)  Dengue  and  Dengue  Hemorrhagic  Fever,  CAB International, New York.  Gubler, DJ (1998), ʺDengue and Dengue Hemorrhagic Feverʺ,  Clinical Microbiology Reviews, 11(3), pp. 480‐496.  Ooi E, Goh K. & Gubler DJ (2006), ʺDengue prevention and 35  years  of  vector  control  in  Singaporeʺ,  Emerging  Infectious  Diseases, 12(6), pp. 887‐893.

400

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

MÔ HÌNH XỬ LÝ ARSEN TRONG NƯỚC NGẦM   ÁP DỤNG CHO CẤP NƯỚC TẬP TRUNG TẠI XàTÂN LONG,   HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

Đặng Ngọc Chánh*, Nguyễn Trần Bảo Thanh*, Nguyễn Đỗ Quốc Thống*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hiện tượng nhiễm Arsen trong nước ngầm tại Đồng Tháp và ảnh hưởng của nó lên sức khỏe  người dân đã được cảnh báo. Một trong những điều quan trọng nhất hiện nay là xử lý Arsen trong nước ngầm  để bảo vệ sức khỏe người dân. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đa dạng hóa các loại hình xử lý  Arsen trong nguồn nước, đồng thời giảm thiểu tác hại của Arsen và cung cấp nguồn nước sạch, an toàn cho  người dân với chi phí xử lý thấp.

Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng mô hình xử lý nước ngầm ô nhiễm Arsen áp dụng cho hộ gia đình vùng  nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đánh giá hiệu quả của mô hình xử lý Arsen áp dụng cho hộ gia  đình.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ứng dụng: mô hình xử lý Arsen được nghiên cứu xây dựng tại xã  Tân Long, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp – nơi có trạm cấp nước tập trung dưới 500 người có nguồn nước  từ nước giếng bị ô nhiễm Arsen với hàm lượng 500 ppb.

Kết quả nghiên cứu: Mẫu nước giếng khoan sau khi xử lý có các chỉ tiêu lý hóa được phân tích đạt Quy  chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống do Bộ Y tế ban hành. Hiệu quả xử lý các chỉ tiêu kim loại  nặng  đạt  trên  99%,  hiệu  quả  xử  lý  sắt  là  99,53%,  Arsen  là  100%;  các  kim  loại  nặng  khác,  phenol  và  PAHs  không hiện diện trong mẫu sau xử lý.

Kết luận: Mô hình xử lý Arsen trong nước ngầm áp dụng phương pháp oxy hoá kết hợp keo tụ tạo bông,

lắng và lọc cho đạt hiệu quả xử lý cao, có chi phí xử lý thấp và phù hợp với địa phương.

Từ khóa: Mô hình xử lý Arsen, Arsen trong nước ngầm.

ABSTRACT

THE MODEL OF REMOVING ARSENIC IN THE UNDERGROUND WATER APPLIED FOR THE  WATER SUPPLY AT TAN LONG COMMUNE, THANH BINH DISTRICT, DONG THAP PROVINCE

Dang Ngoc Chanh, Nguyen Tran Bao Thanh, Nguyen Do Quoc Thong

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 402 ‐ 407

Background: Arsenic contamination of underground water and its effect on people’s health has ben warned.  Currently,  one  of  the  most  important  thing  is  to  remove  Arsenic from  groundwater  sources  to  protect  human  health.  Therefore,  this  study  was  conducted  to  identify  a  proper  model  of  removal  Arsenic‐contaminated  underground  water  applied  for  the  water  supply  at  Tan  Long  Commune,  Thanh  Binh  District,  Dong  Thap  Province. The findings were used to minimize the harmful effects of Arsenic and supply clean and safe water for  local people with lowest processing cost.

Objectives: Formulate a proper model of removal Arsenic‐contaminated underground water and apply this  model for the rural households in the Mekong Delta area. The effectiveness of the model was also assessed in this  study.

* Khoa Sức khỏe môi trường, Viện Vệ sinh Y tế Công cộng Tp.HCM  Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh   ĐT: 0903704532

Email: dangngocchanh@ihph.org.vn

401

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Method:  This was an applied study in which a model of removal Arsenic was  made  at  Tan  Long  Ward,  Thanh Binh District, Dong Thap Province, where the water supply that provided water for approximately 500  people contaminated with 500 ppb Arsenic.

Results: The water samples from the drilling wells, after being treated, had the physicochemical parameters  meeting  the  national  technical  standards  issued  by  the  Ministry  of  Health.  The  effectiveness  of  treating  heavy  metal,  iron  and  Arsenic  were  significant  high  (over  99%,  99.53%,  and  100%,  respectively).  After  treatment,  there was no existence of heavy metals, phenol and PAHs in the samples.

Conclusion: The model of removing Arsen‐contaminated underground water that utilized the oxidization  method  in  combination  with  flocculation,  accumulation  and  filtering  has  high  effectiveness  of  removing  heavy  metal, low cost and suitable to local conditions.

Keyword: Arsenic removal model, Arsenic in underground water.

ĐẶT VẤN ĐỀ

bị  ảnh  hưởng  bởi  ô  nhiễm  Arsen  trong  nước  ngầm cao (tỷ lệ số mẫu tóc có hàm lượng Arsen  vượt tiêu chuẩn chiếm 48%)(5). Đề tài được thực  hiện  nhằm  góp  phần  đa  dạng  hóa  các  phương  pháp  xử  lý  Arsen  trong  nước,  đồng  thời  giảm  thiểu tác hại của Arsen và cung cấp nguồn nước  sạch,  an  toàn  cho  người  dân  với  chi  phí  xử  lý  thấp.

Vấn đề ô nhiễm Arsen trong nước ngầm và  ảnh hưởng của nó lên sức khỏe con người đang  là sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới  trong đó có Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam số  người  có  nguy  cơ  mắc  bệnh  do  tiếp  xúc  với  Arsen đã lên tới 17 triệu người (chiếm 21,5% dân  số Việt Nam)(1).

Mục tiêu nghiên cứu

Xây  dựng  mô  hình  xử  lý  nước  ngầm  ô  nhiễm  Arsen  áp  dụng  cho  hộ  gia  đình  vùng  nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long;

Đánh giá hiệu quả của mô hình xử lý Arsen

áp dụng cho hộ gia đình.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Trạm cấp nước tập trung khu vực nông thôn

có nguồn nước ngầm bị nhiễm Arsen.

Địa bàn nghiên cứu

Chọn xã Tân Long, huyện Thanh Bình, tỉnh  Đồng  Tháp  –  nơi  có  trạm  cấp  nước  tập  trung  dưới 500 người có nguồn nước ngầm bị ô nhiễm  Arsen với hàm lượng 500 ppb (0,5 mg/l).

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên  cứu  ứng  dụng:  Xây  dựng  mô  hình  xử  lý  Arsen  áp  dụng  thực  tế  và  đánh  giá  hiệu  quả của mô hình. Nghiên cứu gồm 2 giai đoạn:

‐ Khảo sát địa điểm thực hiện, đánh giá chất

lượng nước trước xử lý: tháng 7 năm 2011.

Ô  nhiễm  Arsen  trong  nước  ngầm  ở  Việt  Nam  đã  được  cảnh  báo.  Theo  nghiên  cứu  của  Đỗ  Trọng  Sự  (1997),  hàm  lượng  Arsen  trong  nước ngầm ở một số vùng ở miền Bắc là 0,001 –  0,32 mg/l và ở một số nơi như Việt Trì, Hà Nội,  Hải  Phòng  có  hàm  lượng  Arsen  trong  nước  từ  0,014 – 0,034 mg/l(3). Một nghiên cứu khác của Lê  Hoàng Ninh (2005 ‐ 2006) cho kết quả như sau:  tỉnh Long An có 420 mẫu (8,61%); Đồng Tháp có  369  mẫu  (12,47%);  An  Giang  có  545  mẫu  (20,18%); Kiên Giang có 115 mẫu (3,79%) có hàm  lượng  Arsen  vượt  mức  tiêu  chuẩn  cho  phép  là  10 ppb(4). Vì vậy, vấn đề nghiên cứu mô hình xử  lý  Arsen  trong  nước  ngầm  áp  dụng  cho  cấp  nước tập trung tại khu vực đồng bằng sông Cửu  Long  là  cần  thiết.  Chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  thí  điểm  tại  xã  Tân  Long,  huyện  Thanh  Bình, tỉnh Đồng Tháp. Người dân xã Tân Long  gặp  rất  nhiều  khó  khăn  do  khan  hiếm  nguồn  nước  sạch  cho  sinh  hoạt  và  ăn  uống  do  nguồn  nước mặt và nước ngầm đều bị ô nhiễm. Xã có  tỷ lệ số mẫu nước ngầm bị nhiễm Arsen với mức  nhiễm  là  từ  70  ‐  650  ppb  là  62,50%(4).  Đặc  biệt  Tân Long là một trong những xã mà người dân

402

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

‐  Tính  toán  thiết  kế,  xây  dựng  mô  hình  và  đánh giá hiệu quả xử lý Arsen của mô hình: từ  tháng 8 đến tháng 9 năm 2011.

Cloramin,  clorua  vôi,  các  hợp  chất  chứa  clo,  KMnO4, oxalic, brom, iod,... Sau khi xem xét tính  chất  hóa  học  và  khả  năng  áp  dụng  thực  tế.  Nhóm nghiên cứu chọn Clorua vôi vì đây là hợp  chất oxy hóa mạnh và có khả năng ổn định pH  của nước, dễ tìm trên thị trường.

Lấy  mẫu,  phân  tích  mẫu  nước  đánh  giá  trước và sau can thiệp với các chỉ tiêu: màu sắc,  độ đục, sunfate, pH, độ cứng tổng cộng, clorua,  sắt  tổng  số,  chỉ  số  Permanganate,  Amoni,  Mangan,  Nitrite,  Nitrate,  Nhôm,  Crom,  kẽm,  đồng,  Phenol,  Arsen,  chì,  Cadimi,  thủy  ngân,  PAHs.

Các hợp chất keo tụ thông dụng gồm: phèn  nhôm,  phèn  sắt,  PAC,  polymer  anion,  polymer  cation,...  Trong  số  các  hợp  chất  kể  trên,  phèn  PAC có khả năng keo tụ trong điều kiện khoảng  pH rộng, không ảnh hưởng đến chất lượng nước  sau khi keo tụ.

Xác định lượng Clorua vôi tối ưu

Tiêu  chuẩn  đánh  giá  chất  lượng  nước:  QCVN 01:2009/BYT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc  gia về chất lượng nước ăn uống do Bộ Y tế ban  hành(2).

Chi phí xử lý 1 m3 nước = Tổng chi phí ÷lưu  lượng xử lý (vnđ/1 m3 nước).Trong đó, tổng chi  phí = (Chi phí đầu tư hệ thống ÷ niên hạn thiết  kế) + (Chi phí điện và hóa chất)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Đặc  điểm  địa  điểm  xây  dựng  mô  hình  và  nguồn nước trước can thiệp

Các  thử  nghiệm  được  tiến  hành  3  lần  để  khẳng  định  độ  chính  xác.  Kết  quả  thử  nghiệm  cho  thấy,  với  hàm  lượng  Arsen  trong  nước  từ  0,10 – 2,00 mg/l thì 300 mg Clorua vôi sẽ chuyển  hóa  hoàn  toàn  As  (III)  thành  As  (V)  và  hàm  lượng  clo  dư  trong  nước  sau  10  phút  là  0,30  mg/l,  đáp  ứng  theo  QCVN  01:2009/BYT  –  Quy  chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn  uống.

Lượng Clorua vôi cần thiết (mg)

Mô hình xử lý Arsen được xây dựng tại hộ  Nguyễn Văn Minh với quy mô cấp nước cho gia  đình và khoảng 20 hộ người dân sử dụng xung  quanh tại xã Tân Long, huyện Thanh Bình, tỉnh  Đồng Tháp. Nguồn nước thô dùng cấp nước là  nước từ giếng khoan được bơm lên bể chứa và  cấp cho các hộ dân xung quanh, không qua  xử  lý.

25 20 150 300 200 100

Bảng 1: Kết quả thử nghiệm xác định lượng Clorua  vôi tối ưu  Hàm lượng As chuẩn (mg/l) 0,10 0,20 0,30 0,40 0,60 0,80 1,00 1,20 1,40 1,60 2,00

Ghi chú:

(‐): As (III) không chuyển hóa thành As (V).

Kết  quả  phân  tích  mẫu  nước  giếng  khoan  trước can thiệp cho thấy, mẫu nước giếng khoan  có các chỉ tiêu: màu sắc, độ đục, hàm lượng sắt  tổng số, hàm lượng amoni và hàm lượng Arsen  vượt  quá  giá  trị  giới  hạn  cho  phép  theo  Quy  chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn  uống  QCVN  01:2009/BYT.  Cụ  thể,  hàm  lượng  Arsen trong nguồn nước ngầm khảo sát là 0,453  mg/l,  vượt  45,3  lần  so  với  tiêu  chuẩn  cho  phép  của Bộ Y tế là 0,01 mg/l.

(+): As (III) chuyển hóa hoàn toàn thành As (V).

+ + + - - - - - - - - + + + + + - - - - - - + + + + + + + + + + + + + - - - - - - - - - + - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Kết quả chọn lựa hóa chất

Xác định lượng phèn PAC tối ưu

Có  rất  nhiều  hợp  chất  oxy  hóa  có  thể  lựa  chọn  sử  dụng  cho  nghiên  cứu:  Cloramin  B,  bột

Thực  hiện  thí  nghiệm  Jartest  để  xác  định  lượng  phèn  tối  ưu.  Dựa  vào  bảng  kết  quả  thí

403

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

trình  oxy  hóa  sắt.  Nước  từ  giàn  mưa  sẽ  chảy  xuống bể chứa với thời gian lưu cần thiết để quá  trình oxy hóa diễn ra hoàn toàn.

Lượng phèn PAC cho vào (mg)

Nghiên cứu Y học  nghiệm (Bảng 2), chọn lượng phèn PAC cần sử  dụng là 200 mg (ứng với 1 lít nước).  Bảng 2: Kết quả thử nghiệm lượng phèn PAC tối ưu  Thời gian keo tụ (phút)

1 2 3 4 5 20 - - - - - 50 - - - - - 100 - - - - - 200 + - - - -

Phương án xây dựng mô hình xử lý Arsen  cho trạm cấp nước

Từ  kết  quả  phân  tích  mẫu  nước  trước  can  thiệp,  nhóm  nghiên  cứu  đề  ra  phương  án  xây  dựng mô hình xử lý Arsen cho trạm cấp nước tại  hộ Nguyễn Văn Minh với sơ đồ công nghệ như  sau:

Nước giếng khoan bị nhiễm Arsen

Giàn mưa

Sau bể chứa, nước được bơm sang bể keo tụ  kết  hợp  lắng.  Chất  keo  tụ  sử  dụng  là  PAC  (polyaluminumchloride) do tính chất ít làm thay  đổi  pH  của  nước.  Mục  đích  của  bể  này  là  hình  thành các bông cặn, kết tủa lượng Arsen (V), sắt  cùng các cặn bẩn lơ lửng khác có trong nước. Bể  gồm  có  4  ngăn:  tại  ngăn  đầu  tiên  sẽ  tiến  hành  châm PAC và khuấy trộn, nước sau ngăn trộn sẽ  tự chảy sang ngăn thứ 2, tại đây xảy ra quá trình  phản ứng, hình thành bông cặn, phần lớn bông  cặn hình thành sẽ lắng xuống đáy tại ngăn thứ 2;  sau  đó  nước  tiếp  tục  tự  chảy  sang  ngăn  thứ  3,  một phần bông cặn còn sót lại sẽ lắng xuống đáy  dưới tác dụng của trọng lực. Nước từ ngăn thứ 3  sẽ chảy sang ngăn thứ 4 (ngăn cuối cùng) có tác  dụng như bể chứa trung gian, nước từ ngăn này  sẽ được bơm sang 2 cột lọc áp lực (cột lọc cát và  cột  lọc  than  hoạt  tính)  để  loại  bỏ  hoàn  toàn  lượng  cặn  lơ  lửng  còn  lại  trong  nước  trước  khi  được  bơm  lên  bồn  chứa  nước  tập  trung  và  cấp  cho các hộ gia đình.

Định kỳ tiến hành xả bỏ cặn tại ngăn thứ 2,

Bể chứa

3, 4 của bể keo tụ kết hợp lắng.

PAC

Ca(OCl)2

Tiến hành rửa lọc định kỳ tại 2 cột lọc áp lực

Cặn lắng

Bể keo tụ kết hợp

để đảm bảo hiệu quả xử lý của bể lọc.

2 cột lọc áp lực

Nước rửa

Kết  quả  thu  được  từ  thí  nghiệm  Jartest  cho  liều lượng hóa chất sử dụng như sau: Ca(OCl)2:  0,3 g/ 20 lít; PAC: 0,2 g/ 20 lít.

Nước sau xử lý  đạt QCVN 01:2009/BYT

Ghi chú:

Đường đi của nước

Đường đi của hóa chất

Hình 1: Sơ đồ công nghệ xử lý Arsen cho trạm cấp  nước tập trung

Hình 2: Mô hình công nghệ xử lý Arsen cho trạm  cấp nước

Chất  oxy  hóa  mạnh  là  Clorua  vôi  Ca(OCl)2  được  sử  dụng  để  chuyển  hóa  Arsen  (III)  thành  Arsen  (V).  Clorua  vôi  được  châm  trực  tiếp  vào  đường ống để tiến hành hòa trộn trước khi được  bơm lên giàn mưa nhằm tận dụng lượng oxy có  trong không khí để tăng hiệu quả của quá trình  oxy  hóa  Arsen  (III)  thành  Arsen  (V)  và  cả  quá

404

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Hàm lượng As

0.5

100

Đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình

Hiệu quả xử lý

0.45

90

0.4

80

) l

)

0.35

70

%

/ g m

(

(

ý

0.3

60

l

s

A

0.25

50

g n

ợ ư

l

0.2

40

ử x ả u q u ệ

i

H

m à H

0.15

30

0.1

20

0.05

10

0

0

Đầu vào

Ngăn 1

Ngăn 2

Ngăn 3

Ngăn 4 Sau khi lọc

nước

Hình 3: Đánh giá hiệu quả xử lý hàm lượng As  trong nước

300

100

90

250

80

70

)

200

) l

%

/ g

(

60

ý

m

l

( g n

150

50

ư

l

40

ử x ả u q u ệ

m à

i

H

H

100

30

20

50

10

Trước xử lý

Mẫu  nước  giếng  khoan  trước  xử  lý  có  hàm  lượng  Arsen  lớn  hơn  giá  trị  giới  hạn  của  Quy  chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn  uống – QCVN 01:2009/BYT đến 45,3 lần. Sau khi  được  oxy  hóa  bằng  giàn  mưa,  nước  được  dẫn  chảy  vào  ngăn  1  (ngăn  châm  phèn  PAC  và  khuấy trộn). Tại đây hàm lượng Arsen đo được  tại ngăn 1 là 0,40 mg/l. Nước sau ngăn 1 tự chảy  qua  ngăn  2  (hình  thành  bông  cặn  và  lắng  cặn)  hàm lượng Arsen trong nước tại ngăn 2 còn lại  là 0,25 mg/l và hiệu quả xử lý tại giai đoạn này là  44,81%.  Sau  đó,  các  bông  cặn  còn  sót  lại  sẽ  va  vào  vách  ngăn  và  lắng  xuống  đáy  bể  tại  ngăn  thứ  3,  hàm  lượng  Arsen  trong  nước  tại  ngăn  3  đo được là 0,10 mg/l, hiệu quả xử lý tại ngăn này  tăng  lên  là  77,92%.  Nước  từ  ngăn  3  tiếp  tục  tự  chảy  sang  ngăn  4,  kết  quả  kiểm  tra  hàm  lượng  Arsen  trong  nước  tại  ngăn  4  là  0,02  mg/l,  lớn  hơn giá trị giới hạn cho phép 2 lần. Hiệu quả xử  lý  ở  giai  đoạn  này  là  95,58%.  Nước  tại  ngăn  4  được bơm qua hệ thống cột lọc áp lực, lấy mẫu  nước sau khi qua hệ thống cột lọc kiểm tra hàm  lượng Arsen, kết quả cho thấy không có sự hiện  diện của Arsen trong mẫu nước. Hiệu quả xử lý  đạt 100%.

0

0

Sau xử lý

Màu

Đục

Cứng

Clorua

Amoni

Hiệu quả xử lý

Hình 4: Đánh giá hiệu quả xử lý các chỉ tiêu lý hóa  nước

Bên  cạnh  đó,  kết  quả  phân  tích  mẫu  nước  còn cho thấy giá trị pH trước và sau xử lý không  có sự  khác  biệt,  pH  của  nước  ổn  định,  nước  có  tính trung tính, đạt giá trị giới hạn theo quy định  của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng  nước ăn uống của Bộ Y tế (QCVN 01:2009/BYT).  Các chỉ tiêu lý hóa của mẫu giếng khoan sau khi  xử  lý  như  màu  sắc,  độ  đục,  sunphat,  độ  cứng  tổng cộng, clorua (độ mặn), độ oxy hóa (Chỉ số  permanganate), amoni, Nitrit và Nitrat cũng đạt  Quy chuẩn.

So  sánh  kết  quả  phân  tích  cho  thấy,  mẫu  nước  trước  xử  lý  có  chỉ  tiêu  màu  sắc,  độ  đục,  amoni  có  giá  trị  lớn  hơn  tiêu  chuẩn  nhưng  sau  khi  qua  hệ  thống  xử  lý  giá  trị  của  các  chỉ  tiêu  trên đều thấp hơn so với tiêu chuẩn. Đồng thời,  hệ thống xử lý còn có khả năng loại bỏ được độ  cứng  và  độ  mặn  của  nước.  Hiệu  quả  xử  lý  các  chỉ tiêu lý hóa là trên 90%. Cụ thể, hiệu quả xử  lý  chỉ  tiêu  màu  sắc  là  100%,  độ  đục  là  96,5%,  amoni là 90,83%, độ cứng là 95% và độ mặn của  nước là 99,83%.

Mẫu  nước  giếng  khoan  trước  xử  lý  có  hàm  lượng sắt tổng số là 4,29 mg/l lớn hơn giá trị giới  hạn  của  Quy  chuẩn  14,3  lần.  Sau  khi  qua  hệ  thống xử lý, hàm lượng sắt trong nước còn lại là

405

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tổng  chi  phí  =  (114.500.000  ÷  5)  +  62.000  =

22.962.000 đồng

Như  vậy,  chi  phí  xử  lý  1  m3  nước  =

22.962.000 ÷8.760 = 2.612 đồng/m3

Nghiên cứu Y học  0,02 mg/l, hiệu quả xử lý sắt là 99,53%. Các kim  loại  nặng  khác  (Mn,  Al,  Cr,  Zn,  Cu,  Pb,  Cd  và  Hg), phenol và PAHs không có xuất hiện trong  mẫu sau xử lý do đó có thể nói rằng hoá chất sử  dụng cho xử lý nước là an toàn.

KẾT LUẬN

4.5

100

4

90

3.5

80

3

70

)

) l /

%

( ý

g m

l

(

2.5

60

Mô  hình  xử  lý  Arsen  trong  nước  ngầm  áp  dụng cho hộ gia đình vùng nông thôn khu vực  đồng  bằng  sông  Cửu  Long  sử  dụng  phương  pháp oxy hoá kết hợp keo tụ tạo bông, lắng và  lọc cho hiệu quả xử lý Arsen đạt 100%.

ử x

g n ợ ư

ả u q

l

2

50

u ệ

i

m à H

H

1.5

40

1

30

Hiệu quả xử lý các chỉ tiêu lý hóa (màu sắc,  độ đục, sunphat, độ cứng tổng cộng, clorua (độ  mặn), độ oxy hóa (Chỉ số permanganate), amoni,  Nitrit và Nitrat) là trên 90%.

0.5

20

Trước xử lý

0

10

Sau xử lý

Fe

Mn

Cr

Zn

Cu

As

Pb

Cd

Hg Phenol PAHs

Hiệu quả xử lý

Hình 5: Đánh giá chất lượng các chỉ tiêu kim loại  nặng và độc chất của nước

Hiệu quả xử lý loại bỏ sắt của hệ thống xử lý  là  99,53%.  Đồng  thời,  các  kim  loại  nặng  khác  (Mn,  Al,  Cr,  Zn,  Cu,  Pb,  Cd  và  Hg),  phenol  và  PAHs  không  phát  hiện  thấy  trong  nguồn  nước  sau khi qua hệ thống xử lý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Như  vậy,  nguồn  nước  giếng  khoan  sau  khi  được  xử  lý  đảm  bảo  an  toàn  về  mặt  hóa  học,  thỏa mãn các nhu cầu về nước ăn uống phục vụ  sinh hoạt của các đối tượng dùng nước.

2.

Chi phí xử lý

3.

Mô hình xử lý có các thông số như sau:

Niên hạn thiết kế: N = 5 năm

4.

Lưu  lượng  xử  lý:  Q  =  1  m3/giờ  =  8.760

m3/năm

5.

Chi  phí  đầu  tư  xây  dựng  hệ  thống  xử  lý  =

Bộ Y tế (2008), Tình hình ô nhiễm Arsen trong nước ngầm, Hà  Nội.  Bộ  Y  tế  (2009),  Quy  chuẩn  kỹ  thuật  quốc  gia  về  chất  lượng  nước ăn uống, số QCVN 01:2009/BYT, Hà Nội.  Đỗ Trọng Sự (1997), Báo cáo hiện trạng ô nhiễm nguồn nước  bởi Arsen ở Hà Nội và một số vùng phụ cận, Viện nghiên cứu  địa chất và khoáng sản.  Lê  Hoàng  Ninh  (2006),  Khảo  sát  ô  nhiễm  Arsen  trong  nước  ngầm tại 4 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản y  học.  Lê Hoàng Ninh (2010), Ô nhiễm Arsen trong nước ngầm tại  các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản y  học.

114.500.000 đồng.

Chi phí điện và hóa chất = 62.000 đồng/năm

406

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI DÂN TẠI  MỘT SỐ XàVEN BIỂN TỈNH BẾN TRE

Đặng Ngọc Chánh*, Lê Ngọc Diệp*, Ngô Khần*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Trong các thập kỷ gần đây, các thiên tai như bão, lụt, xâm nhập mặn... xảy ra thường xuyên  hơn và khó dự đoán. Trong đó, Bến Tre được đánh giá là một trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng và người dân  tại các vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Do đó, nghiên cứu về tác động của biến đổi  khí hậu, cụ thể là tác động lên tình trạng sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu vực ven biển là  một điều hết sức cần thiết để từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến lược phù hợp nhằm ứng phó kịp thời với  những thay đổi trên.

Mục tiêu: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ của người dân tại các huyện ven biển

tỉnh Bến Tre.

Phương  pháp  nghiên  cứu: Phỏng vấn thông qua bảng câu hỏi kết hợp với thu thập số liệu tại trạm khí

tượng thủy văn tỉnh Bến Tre.

Kết quả: Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre cho thấy mức nhiệt trung bình của tỉnh  Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2 – 0,50C. Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ  Chiên đang có khuynh hướng dâng lên và mức độ nhiễm mặn gia tăng rõ rệt. Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan  hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã đều chiếm trên 80%, đặc biệt ở một số bệnh như  tiêu chảy, cảm và tai mũi họng.

Kết luận: Kết quả phân tích khí tượng thủy văn cho thấy diễn biến của khí hậu thời tiết có sự thay đổi qua  các năm, tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã ven biển tại  đây khá cao.

Từ khoá: biến đổi khí hậu, tình hình sức khoẻ, vùng ven biển.

ABSTRACT

CLIMATE CHANGE AND HEALTH STATUS OF PEOPLE LIVING IN COASTAL COMMUNES   OF BEN TRE PROVINCE

Dang Ngoc Chanh, Le Ngoc Diep, Ngo Khan

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 408 ‐ 415

Background:  In recent decades, natural disasters such as storm, floods, salinization occur more often and  difficult to predict. Ben Tre is one of the provinces which are most affected, and so coastal community is affected  directly  and  most  severely.  Therefore,  research  on  the  impacts  of  climate  change,  particularly  effects  on  health  status of people who living in coastal areas is very necessary. Base on this research, some policies which may be  appropriate for climate change adaptation can be given out.

Objectives: Assess the weather changes and health status of people who live in coastal communes of Ben Tre

province.

Method: Interviewing with designed questionnaires and collecting data from Ben Tre meteorological center.

* Khoa Sức Khỏe Môi Trường, Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Đặng Ngọc Chánh   ĐT: 090370453

Email: ngngocchanh@ihph.org.vn

407

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Results: Meteorological data show that the current mean temperature of Ben Tre is 0.20C to 0.50C higher  than 5 years ago. Water levels in Ham Luong river and Co Chien river are tending to rise and salinity levels  increased markedly. The incidence of diseases which are related or affected by climate change is more than 80%,  especially in some diseases such as diarrhea, cold, ear, nose and throat diseases.

Conclusion:  The  analysis  shows  that  meteorological  evolution  of  climate  has  changed  from  years.  The

incidence of diseases which are related or affected by climate change in coastal communes community is high.

Key words: climate change, health status, coastal area.

ĐẶT VẤN ĐỀ

sức cần thiết, từ đó có thể đưa ra các chính sách  chiến lược phù hợp để có thể ứng phó kịp thời  với những thay đổi trên.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát

Đánh  giá  mức  độ  biến  đổi  thời  tiết  và  tình  trạng sức khoẻ của người dân tại các huyện ven  biển tỉnh Bến Tre.

Mục tiêu cụ thể

Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết thay đổi

trong 5 năm từ 2006‐2010.

Khảo sát tình trạng sức khoẻ của người dân  tại 4 xã ven biển thuộc huyện Thạnh Phú và Ba  Tri, tỉnh Bến Tre.

Khảo  sát  tình  hình  thực  hành  vệ  sinh  giúp  phòng  ngừa  bệnh  của  người  dân  tại  4  xã  ven  biển thuộc huyện Thạnh Phú và Ba Tri, tỉnh Bến  Tre.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm nghiên cứu

Huyện  Ba  Tri:  Xã  Huyện  Thạnh  Phú:  xã

Thạnh Hải và Thạnh Phong.

Huyện Ba Tri: xã Bảo Thuận và An Thuỷ

Phỏng  vấn  trực  tiếp  người  dân  thuộc  4  xã  ven biển của 2 huyện Ba Tri và Thạnh Phú tỉnh  Bến  Tre.  Đối  tượng  phỏng  vấn  là  những  người  hiện đang sinh sống tại tỉnh Bến  Tre  từ  16  tuổi  trở  lên,  ưu  tiên  phụ  nữ  có  tuổi  nhằm  cung  cấp  đầy đủ thông tin về tình hình sức khoẻ của các  thành viên trong gia đình.

Biến đổi khí hậu ngày càng trở thành vấn đề  thách  thức  to  lớn  được  toàn  cầu  quan  tâm,  các  nhà  khoa  học  đã  tìm  ra  mối  liên  quan  chặt  chẽ  giữa khí hậu địa phương ảnh hưởng đến sự xuất  hiện hay mức độ nghiêm trọng của một số bệnh  và  các  mối  đe  dọa  khác  đối  với  sức  khỏe  con  người. Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính rằng 1/4  gánh  nặng  bệnh  tật  của  thế  giới  là  do  ô  nhiễm  không khí, đất, nước và thực phẩm, các khu vực  bị  ảnh  hưởng  nặng  nề  nhất  bao  gồm  châu  Phi,  tiểu lục địa Ấn Độ và tại Đông Nam Á(2). Tại Việt  Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung  bình  năm  đã  tăng  lên  khoảng  0,3‐0,50C,  mực  nước biển đã dâng lên khoảng 20cm(4). Biển đổi  khí hậu đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão,  lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Những yếu tố đó  sẽ  làm  gia  tăng  ngập  lụt,  xâm  nhập  mặn,  lan  tràn chua phèn… và dẫn tới những hệ lụy khác  như làm gia tăng các rủi ro về sức khỏe do các  đợt nắng nóng gay gắt. Một nghiên cứu cho thấy  nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng  khoảng  5%  diện  tích  đất  của  Việt  Nam  và  11%  dân  số  cả  nước(3).  Trong  các  thập  kỷ  gần  đây,  yếu  tố  khí  tượng  thủy  văn  tại  vùng  đồng  bằng  sông  Cửu  Long  tiếp  tục  thay  đổi  theo  chiều  hướng xấu. Các thiên tai như bão tố, lụt lội, xâm  nhập mặn... xảy ra thường xuyên hơn và khó dự  đoán.  Khảo  sát  của  Viện  Khoa  học  Khí  tượng  thủy văn và môi trường cho biết tại Bến Tre mực  nước  biển  đã  dâng  lên  khoảng  20cm,  ô  nhiễm  mặn đã tăng lên khoảng 20% so với trước đó 10  năm (năm 1990) và hiện tượng thời tiết cực đoan  xuất hiện ngày càng nhiều(4). Nghiên cứu về tác  động của biến đổi khí hậu, cụ thể là tác động lên  tình  trạng  sức  khỏe  của  người  dân  hiện  đang  sinh sống trên khu vực ven biển là một điều hết

408

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Tình hình khí tượng thủy văn

Tháng  3  năm  2006  huyện  Ba  Tri  chịu  ảnh  hưởng  của  cơn  bão  số  9  hoạt  động  trên  biển  Đông gây ra mưa to nên đã làm tăng lượng mưa  vào thời điểm này lên đến 92,8  mm.  Các  tháng  còn lại trong mùa khô hầu như không có mưa.  Theo số liệu báo cáo của các trạm y tế xã, tại xã  Bảo  Thuận  của  huyện  Ba  Tri  từ  năm  2007  đến  2009  đều  bị  thiệt  hại  về  người  do  thiên  tai.  Cụ  thể, trong năm 2006 tại xã có 11 người bị thương,  1 người chết. Năm 2007 là 36 người bị thương và  4  người  chết.  Năm  2008  có  12  người  bị  thương  và 1 người chết và trong năm 2009 là 4 người bị  thương và 2 người chết.

Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn  tỉnh Bến Tre cũng cho thấy tình hình diễn biến  thay  đổi  của  khí  hậu  thời  tiết  qua  các  năm.  So  sánh với nhiệt độ tối cao trung bình từ 2001 đến  2005  thì  mức  nhiệt  tối  cao  trung  bình  trong  khoảng  thời  gian  từ  2006  đến  2010  đã  cao  hơn  6,4  0C.  Mức  nhiệt  trung  bình  của  tỉnh  Bến  Tre  cao hơn trước từ 0,2 – 0,5  0C. Đặc biệt vào cuối  mùa  khô  2009,  nhiệt  độ  tăng  cao  đến  36,50C.  Đồng  thời  một  diễn  biến  bất  thường  khác  vào  giữa  mùa  mưa  năm  2010  nhiệt  độ  cao  nhất  là  36,2  0C,  đây  là  mức  nhiệt  cao  nhất  vào  những  tháng mùa mưa trong 5 năm từ 2006 đến 2010.

31

30

29

)

28

C o ( ộ đ t ệ

i

27

h N

26

25

Mùa mưa năm 2009 và năm 2010 huyện Ba  Tri có lưu lượng mưa thấp nhất trong 5 năm từ  2006  –  2010  chỉ  có  78,5  mm.  Trong  thời  điểm  giữa  mùa  mưa  từ  2006  –  2009  (từ  tháng  5  đến  tháng 9 hằng năm), lưu lượng mưa thấp nhất đo  được  là  200  mm  và  cao  nhất  là  358  mm.  Tuy  nhiên  trong  năm  2010  lượng  mưa  diễn  biến  có  phần  bất  thường  hơn,  cụ  thể  là  vào  thời  điểm  giữa mùa mưa, lượng mưa đo được thấp nhất là  78,5 mm và cao nhất 288,2 mm.

24

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Tháng

2006

2007

2008

2009

2010

Hình 1: Biến thiên nhiệt độ trung bình tháng trong 5 năm từ 2006 – 2010 tại tỉnh Bến Tre

Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre

450

450

400

400

350

350

)

)

300

300

m

m m

m

(

(

a

250

a

250

ư

ư

m

m

g

200

g

200

n

n

150

ư L

150

ư L

100

100

50

50

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

2006

2007

2008

2009

2010

2006

2007

2008

2009

2010

Huyện Thạnh Phú

Huyện Ba Tri

Hình 2: Biến thiên lượng mưa tại 2 huyện từ 2006 – 2010

Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre

409

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Kết  quả  thu  được  tại  trạm  quan  trắc  Hàm  Luông  và  Cổ  Chiên  cho  thấy  mực  nước  bình  quân  từ  năm  2006  đến  2010  có  khuynh  hướng  tăng dần và biên độ dao động trong năm ngày  càng  giảm  dần.  Tại  trạm  quan  trắc  Cổ  Chiên  (huyện Thạnh Phú), mực nước trung bình thấp  nhất  trong  năm  2006  là  ‐23cm  và  cao  nhất  là  36cm; đến năm 2010 mực nước thấp nhất là ‐10  cm  và  mực  nước  cao  nhất  trong  năm  là  42  cm.  Tương  tự,  tại  trạm  quan  trắc  Hàm  Luông,  từ  năm 2006 đến năm 2010 mực nước thấp nhất là  đã  tăng  lên  đáng  kể  từ  ‐25cm  lên  ‐8cm  và  mực  nước  trung  bình  cao  nhất  tăng  ít  hơn,  từ  41cm  lên 43cm. Điều này cho thấy mực nước tại 2 khu  vực sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có  khuynh  hướng  dâng  lên,  gây  nguy  cơ  xâm  lấn  ảnh  hưởng  đến  đời  sống  của  người  dân  tại  huyện Ba Tri nói riêng và người dân tại các vùng  ven lưu vực sông nói chung.

50

50

40

40

Tại huyện Thạnh Phú, độ mặn cao nhất xảy  ra vào khoảng từ  tháng  3  và  tháng  4  mỗi  năm,  dao động từ 26,1‰ (năm 2009) đến 29,6‰ (năm  2007).  Đặc  biệt  trong  năm  2010  mức  độ  nhiễm  mặn có khuynh hướng tăng vượt trội từ tháng 5  đến  tháng  7  trong  khi  mực  nước  sông  giảm  không đáng kể so với các năm trước đó. So với  huyện Thanh Phú, tại Ba Tri mức độ nhiễm mặn  tại đây khá cao và cũng tăng dần rõ rệt theo các  năm. Trong đó độ mặn đạt đỉnh cao nhất trong  suốt  5  năm  khảo  sát  là  30‰  vào  tháng  3  năm  2010,  tăng  6,1‰  so  với  tháng  nhiễm  mặn  cao  nhất của năm 2006. Với tình hình tiếp diễn như  trên sẽ gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với  hệ sinh thái động thực vật, đồng thời bên cạnh  đó sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của người  dân tại đây. Chính vì vậy người dân và các cấp  chính  quyền  cần  có  các  biện  pháp  khắc  phục  phù  hợp,  thay  đổi  cơ  cấu  sản  xuất  kinh  tế,  hệ  sinh thái động thực vật nhằm thích ứng và giảm  thiểu  tác  hại  với  tình  hình  biến  đổi  như  trên.

30

30

20

20

m

10

C

10 m C

2006 2007 2008 2009 2010

0

0

-10

-10

-20

-20

-30

-30

Huyện Thạnh Phú

Huyện Ba Tri

Hình 3: Mực nước bình quân tại 2 huyện từ năm 2006 đến 2010 (Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến  Tre)

35

30

25

20

15

10

5

0

2

3

4

5

6

7

Tháng

Huyện Thạnh Phú

Huyện Ba Tri

410

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Hình 4: Diễn biến độ mặn lớn nhất của tháng từ năm 2006‐2010 (Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre)

Tình hình bệnh tật

Tiến hành đánh giá chất lượng nguồn nước  ngầm tại xã Thạnh Hải và Thạnh Phong có dấu  hiệu ô nhiễm Arsen. Cụ thể, xã Thạnh Hải có 5  mẫu  nước  ngầm  được  người  dân  sử  dụng  cho  mục  đích  sinh  hoạt  bị  nhiễm  Arsen  với  hàm  lượng thấp nhất là 0,086 mg/l, cao nhất là 0,267  mg/l và xã Thạnh Phong có 1 mẫu nước ngầm bị  nhiễm Arsen với hàm lượng là 0,061 mg/l. Trong  khi  đó,  giới  hạn  cho  phép  sự  hiện  diện  của  Arsen  trong  nước  sinh  hoạt  theo  QCVN  02:2009/BYT  là  dưới  0,05  mg/l.  Bên  cạnh  đó,  nguồn nước ngầm dùng cho mục đích sinh hoạt  có hàm lượng Nitrit và Nitrat là khá cao, hai chất  Nitrat  và  Nitrit  đều  có  khả  năng  tạo  hợp  chất  Methaemoglobin, tác nhân gây bệnh thiếu máu,  xanh  xao.  Tại  xã  Thạnh  Phong  có  15/20  mẫu  trị  CNitrat/GHTĐNitrat  +  nước  ngầm  có  giá  CNitrit/GHTĐNitrit > 1, trong đó giá trị này thấp nhất  là  1,08  và  cao  nhất  là  9,70.  Xã  An  Thủy  là  8/20  mẫu, xã Thạnh Hải 7/20 mẫu và xã Bảo Thuận là  5/20 mẫu.

Tuy  nhiên,  thói  quen  trong  sử  dụng  nước ăn uống của người dân nguồn  nước  mưa  vẫn đóng vai trò chủ yếu, tỷ  lệ  hộ  chỉ  sử  dụng  nước  giếng  cho  mục  đích  ăn  uống  chiếm  8,8%  tại huyện Thạnh Phú và 5,8% tại huyện Ba Tri.

huyện Thạnh Phú cao gấp 1,6 lần, tai mũi họng  cao gấp 1,8 lần và tiêu chảy gấp 1,9 lần so với Ba  Tri (hình 6). Số người mắc các bệnh về đường hô  hấp như cảm và tai mũi họng chiếm khá lớn trên  mô hình bệnh, các bệnh liên quan đến tim mạch  như  cao  huyết  áp  và  các  chứng  bệnh  tim  khác  cũng  chiếm  tỷ  lệ  tương  đối  lớn  trên  mô  hình  bệnh thu thập được tại đây. Theo các chuyên gia  nghiên cứu, các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ  không khí tăng gây nên những tác động tiêu cực  đối  với  sức  khoẻ  con  người,  tạo  cơ  hội  cho  chứng hen suyễn, các bệnh về đường hô hấp tấn  công và bên cạnh đó còn gia tăng một số nguy  cơ ảnh hưởng đến tình trạng của người bệnh tim  mạch(1). Kết quả khí tượng thủy văn thu được ở  trên  cũng  cho  thấy  rằng  qua  các  năm  nhiệt  độ  đang  tăng  lên  rõ  rệt,  tổng  lượng  mưa  trong  những  năm  từ  2006  đến  2008  đã  tăng  cao  và  giảm  xuống  đột  ngột  trong  năm  2009  và  2010.  Như  vậy,  với  diễn  biến  thời  tiết  năng  nóng  gia  tăng kết hợp với sự thay đổi về lượng mưa tăng  vào mùa mưa và giảm vào mùa khô sẽ tác động  đến sức khỏe của con người. Nhất là tại các khu  vực  ven  biển,  tác  động  của  biến  đổi  khí  hậu  sẽ  gây ảnh hưởng lớn hơn nữa đến các đối tượng  này,  đặc  biệt  là  hạn  chế  về  mặt  dinh  dưỡng  và  điều  trị  ở  các  đối  tượng  có  điều  kiện  kinh  tế  thấp.

100

250

87.5

85.67

80

203

200

60

%

150

Thạnh Phú Ba Tri

122

40

Thạnh Phú Ba Tri

100

19.67

86

85

20

13.67

11.5

11.33

7.83

54

55

38

0.17

0.17

50

0

28

25

0

22

25

21

24

7

2

Nước máy

Nước mưa

Nước giếng

Nước ao. hồ

0

Nước uống đóng bình

Cảm

Tiêu chảy Da liễu

Huyết áp

Tim

Tai mũi họng

Viêm xoang

Cơ xương khớp

Hình 5: Tình hình sử dụng nước cho mục đích ăn  uống

43

Hình 6: Tình hình mắc bệnh của của người dân tại  huyện Thạnh Phú và Ba Tri

Tuy nhiên tỷ lệ mắc tiêu chảy trong vòng 1  năm  trước  thời  điểm  khảo  sát  ở  cả  2  huyện  tương  đối  thấp  (chiếm  2,27%  tại  Thạnh  Phú  và

Đối  với  tình  hình  bệnh  tật,  nhìn  chung  số  lượng  người  dân  mắc  bệnh  tại  các  xã  ven  biển  của  huyện  Thạnh  Phú  cao  hơn  đáng  kể  so  với  huyện  Ba  Tri.  Cụ  thể,  tỷ  lệ  mắc  bệnh  cảm  tại

411

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

quản lý được tình hình bệnh tật của địa phương,  giảm  được  hiện  tượng  quá  tải  cho  các  cơ  sở  tuyến  trên  nhưng  mặt  khác  đặt  ra  yêu  cầu  cần  phải nâng cao năng lực chuyên môn tại tuyến xã  để có thể tầm soát chuẩn đoán bệnh kịp thời.

Bảng 1: Tình hình chọn lựa loại hình khám chữa  bệnh của người dân

Thạnh Phú Ba Tri

Loại hình khám chữa bệnh Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tần số (n= 600) 32 5,33 Tần số (n= 600) 92 15,33

Nghiên cứu Y học  3,67%  tại  Ba  Tri),  điều  này  một  phần  do  tình  hình sử dụng nước dùng cho mục đích ăn uống  đều  là  nước  mưa  hoặc  nước  giếng  đã  qua  đun  nấu. Thêm vào đó, các thói quen xử trí thức ăn  thừa hằng ngày của người dân (hình 7) cho thấy  rằng đa số đều tuân thủ khá tốt, phần lớn thức  ăn  thừa  được  hâm  nóng  trước  khi  ăn  hoặc  không  để  thức  ăn  thừa  vào  các  ngày  kế  tiếp,  riêng  chỉ  có  2  hộ  tại  mỗi  xã  Thạnh  Phong,  Bảo  Thuận và An Thuỷ chưa đảm bảo được vấn đề  trên.

80

58.83

44 7,33 35 5,83

57.17

60

Thạnh Phú

%

40

Bệnh viện Trung tâm y tế huyện Trạm y tế xã 76,5 513 85,5

Ba Tri

24.33

19.83

18.67

17.00

20

13.50

11.67

0.67

0.33

0

Bỏ đi

Cho súc vật ăn

Không có thức ăn thừa

Hâm lại vào buổi kế tiếp

Ăn lại không cần hâm

Phòng khám tư Khác 29 1 4,83 0,17 459 72 5 12 0,83

Hình 7: Thói quen xử trí thức ăn thừa hằng ngày  của người dân

Tại huyện Thạnh Phú, đa số các hộ đều có  ít  nhất  một  thành  viên  trong  gia  đình  mắc  bệnh và khoảng 1/6 trên tổng số hộ khảo sát tại  cả 2 xã có ít nhất 2 người trong cùng một nhà  mắc  bệnh  trong  năm.  Đối  với  huyện  Ba  Tri,  nhìn chung tình trạng sức khỏe của người dân  tại  đây  khá  tốt,  có  khoảng  60%  hộ  chỉ  có  1  thành viên trong gia đình mắc bệnh và khoảng  11‐15%  hộ  có  từ  2  thành  viên  trong  nhà  mắc  bệnh. Tình hình bệnh tật tại các xã của huyện  Thạnh  Phú  cao  gấp  1,3  lần  so  với  tại  Ba  Tri,  trong  đó  tỷ  lệ  mắc  các  bệnh  có  liên  quan  hay  chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu  chiếm  trên  80%,  chưa  kể  đến  số  lần  mắc  của  cùng một loại bệnh đã xảy ra trong năm. Như  vậy từ đây có thể phần nào thấy được nguy cơ  cũng  như  ảnh  hưởng  của  tình  trạng  biến  đổi  khí hậu lên sức khỏe của người dân tại đây.

Từ  bảng  1  cho  thấy  trên  ¾  số  người  dân  sống  tại  các  xã  ven  biển  trên  2  huyện  chọn  lựa  đến khám chữa bệnh là trạm y tế, mặc dù là nơi  được trang bị máy móc thiết bị nhiều hơn nhưng  tỷ lệ đến khám tại trung tâm y tế huyện và bệnh  viện lại khá thấp. Nguyên nhân do đây là các xã  ven biển cách xa trung tâm huyện cũng như thị  xã, đối với người dân tại huyện Thạnh Phú để có  thể  đến  bệnh  viện  hay  trung  tâm  y  tế  huyện  khám  chữa  bệnh  phải  di  chuyển  qua  phà  gây  khó  khăn  trong  việc  đi  lại.  Việc  người  dân  tập  trung đến khám tại trạm y tế bên cạnh việc giúp

Bảng 2: Tình hình bệnh tật của hộ gia đình tại các xã ven biển của 2 huyện Thạnh Phú, Ba Tri

Xã Thạnh Hải Xã Bảo Thuận Xã An Thuỷ Huyện Ba Tri Huyện Thạnh Phú Xã Thạnh Phong

360 374 734 266 291 557

dưới 40 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 40 đến  60  tuổi  cao  gấp  1,16  lần  và  tỷ  lệ  mắc  bệnh  ở  nhóm  trên  60  tuổi  cao  gấp  1,85  lần  nhưng  sự  khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Có sự

Xét  mối  liên  quan  giữa  tình  trạng  mắc  các  bệnh  có  liên  quan  đến  tình  trạng  biến  đổi  khí  hậu  (cảm,  tai  mũi  họng  và  các  bệnh  khác  như  tiêu chảy, da liễu và viêm xoang),  so với nhóm

309 (85,83%) 320 (85,56%) 629 (85,69%) 215 (80,83%) 240 (82,47%) 455 (81,69%) Tổng số người mắc bệnh trong năm Tổng số người các mắc bệnh có liên quan/ảnh hưởng do biến đổi khí hậu

412

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

mức độ dao động giữa mực nước bình quân của  tháng cao nhất và tháng thấp nhất giảm dần qua  các năm khảo sát.

Mức độ nhiễm mặn thu được tại trạm quan  trắc  Hàm  Luông  và  Cổ  Chiên  khá  cao  và  tăng  dần rõ rệt theo các năm.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  khác biệt giữa tình trạng kinh tế gia đình và tình  hình mắc bệnh, ở nhóm cận nghèo có tỷ lệ mắc  bệnh cao gấp 1,84 lần và nhóm hộ nghèo có tỷ lệ  mắc bệnh cao gấp 1,16 lần so với nhóm có điều  kiện  kinh  tế  từ  trung  bình  trở  lên.  Điều  này  có  thể  do  những  người  thuộc  nhóm  cận  nghèo  ít  được  hỗ  trợ  về  mặt  chăm  sóc  sức  khoẻ  hơn  so  với các nhóm còn lại. Tuy nhiên những sự khác  biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Phần lớn nguồn nước sử dụng cho mục đích  ăn uống tại các xã đều là nước mưa hoặc  nước  giếng. Tỷ lệ uống nước đun sôi tại các xã khá cao  (chiếm trên 90%).

Bảng 3: Các yếu tố liên quan với tình trạng các mắc  bệnh có liên quan đến tình trạng biến đổi khí hậu

Loại hình khám chữa bệnh thường được đa

số người dân lựa chọn là trạm y tế xã.

Tình hình bệnh tật:

Bệnh Không bệnh p PR KTC 95% Tần số (%) Tần số (%)

1 Tuổi Từ 16 – 40 tuổi

Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh  hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã  đều  chiếm  trên  80%.  Số  lượng  người  dân  mắc  bệnh  tại  các  xã  ven  biển  của  huyện  Thạnh  Phú  cao  đáng  kể  so  với  huyện  Ba  Tri  (gấp  1,3  lần).  Đặc biệt ở một số bệnh như tiêu chảy, cảm và tai  mũi họng.

Từ 41 – 60 tuổi 177 (36,12%) 183 (37,20%) 313 (63,88%) 309 (62,80%) 0,26 1,16 0,89-1,52 0,16 1,85 0,79-4,32 142 (65,14%)

1

Không có sự liên quan có ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  hình  mắc  bệnh  với  các  yếu  tố  như  nhóm  tuổi,  tình  trạng  kinh  tế  gia  đình  và  tình  hình thực hành vệ sinh.

Từ trung bình trở lên Cận nghèo 1,84 0,79-4,32 0,156 Nghèo 0,256 1,16 0,89-1,52

ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ

Tốt

Các ban ngày chức năng cần bám sát vào sự  chỉ  đạo  của  Trung  ương,  hoàn  chỉnh  cơ  cấu  tổ  chức ứng phó BĐKH của tỉnh.

Chưa tốt 0,7 1,024 0,90-1,16 76 Trên 60 tuổi (34,86%) Tình trạng kinh tế gia đình 553 299 (64,91%) (35,09%) 11 11 (50%) (50%) 200 126 (38,65%) (61,35%) Tình hình thực hành vệ sinh 207 (35,84%) 229 (36,90%) 354 (63,10%) 410 (64,16%)

KẾT LUẬN

Tăng  cường  đầu  tư  các  mô  hình  điểm  ứng  phó  BĐKH;  lồng  ghép  thích  ứng  và  giảm  nhẹ  BĐKH  vào  các  chương  trình,  dự  án  phát  triển  kinh tế ‐ xã hội của tỉnh.

Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện  nay  cao  hơn  5  năm  trước  từ  0,2  –  0,5  0C.  Có  những  diễn  biến  bất  thường  vào  cuối  mùa  khô  2009 và giữa mùa mưa năm 2010.

Tăng  cường  nâng  cao  năng  lực  ứng  phó  BĐKH  cho  các  cấp,  ngành  và  đơn  vị  đoàn  thể;  tuyên truyền, tập huấn các kiến thức cơ bản về  BĐKH cho cộng đồng dân cư.

Từ năm 2006 đến năm 2008, lượng mưa của  huyện Thạnh Phú và huyện Ba Tri năm sau đều  nhiều  hơn  năm  trước.  Tại  huyện  Thạnh  Phú,  lượng mưa năm 2009 nhiều hơn so với năm 2010  tuy  nhiên  tại  huyện  Ba  Tri  thì  lượng  mưa  diễn  biến ngược lại.

Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và  sông Cổ Chiên đang có khuynh hướng dâng lên,

Xây  dựng  chính  sách  hỗ  trợ  và  phổ  biến  rộng khắp đến các hộ gia đình có điều kiện kinh  tế khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ  chăm  sóc  sức  khoẻ  tại  địa  phương  nhằm  giảm  bớt  gánh  nặng  bệnh  tật  cũng  như  tránh  tình  trạng lây lan trong cộng đồng.

413

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Cần  có  các  kế  hoạch  chính  sách  đưa  nước  máy  vào  sử  dụng  tại  các  hộ  gia  đình,  khuyến  khích tăng tỷ lệ sử dụng sạch trong ăn uống và  sinh hoạt trong dân.

Tạo thói quen sử dụng các nguồn nước sạch,  tăng  tỷ  lệ  sử  dụng  nước  máy  kể  cả  trong  ăn  uống  sinh  hoạt,  tránh  tình  trạng  người  dân  sử  dụng  nước  máy  trong  sinh  hoạt  và  nước  mưa  trong ăn uống như hiện nay.

Sử  dụng  nước  hiệu  quả  và  tiết  kiệm  nhằm  ứng phó với tình trạng khan hiếm nước do hoạt  động nóng lên của trái đất trong tương lai.

Mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho nhân viên  tuyến xã nhằm nâng cao năng lực chuyên môn,  một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho người dân  khám  chữa  bệnh  tại  địa  phương  giúp  giảm  tải  cho các tuyến trên, mặt khác giúp chẩn đoán và  tầm soát bệnh kịp thời chuyển lên các tuyến trên  khi cần thiết.

Tuyên truyền thực hành phòng chống bệnh  sốt  rét  và  sốt  xuất  huyết,  loại  bỏ  các  vật  chứa  nước  quanh  nhà,  khai  thông  cống  rãnh  và  ngủ  mùng kể cả ban đêm lẫn ban ngày.

Tích  cực  chủ  động  tuyên  truyền  phòng  tránh  các  dịch  bệnh  có  nguy  cơ  bùng  phát  tại  địa phương.

Tăng cường hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu  về  tình  hình  mắc  bệnh  tại  địa  phương  nhằm  cung cấp thông tin ban đầu cho  việc  ứng  phó  với tình hình thay đổi mô hình bệnh tật trong  tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

effects,

Health

(2009),

Institute

Human

(2010),

health,

2.

3.

4.

Tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe,  lồng ghép vào các buổi sinh hoạt nhóm như họp  tổ của ấp, tổ nhân dân tự quản nhằm nâng cao  nhận  thức  của  người  dân,  phòng  tránh  và  ứng  phó với khả năng phát sinh các dịch bệnh trong  tương lai. Cần chú ý đến các nội dung như:

CDC  http://www.cdc.gov/climatechange/effects/default.htm  Climate  http://www.climate.org/topics/health.html, 22/09/2011.  Greet RP (2007), Climate change and human development in Viet  Nam: Case Study for the Human Development Report 2007/2008.  Phạm  Khôi  Nguyên  (2009),  Kịch bản về biến đổi khí hậu, nước  biển dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội.

414

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐÁNH GIÁ BIỆN PHÁP CAN THIỆP PHÒNG NGỪA THỪA CÂN,   BÉO PHÌ HỌC SINH MẪU GIÁO TẠI TRƯỜNG MẪU GIÁO    QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010

Phùng Đức Nhật*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Thừa cân, béo phì là vấn đề y tế công cộng nổi trội, cần được quan tâm nhiều. Hiện nay, tình  trạng này không chỉ giới hạn ở người lớn mà tỷ lệ thu được ở trẻ nhỏ cũng đáng báo động. Việc cung cấp các  biện pháp phòng ngừa thừa cân, béo phì ở trẻ và lượng giá lại có vai trò quan trọng trong công tác đẩy lùi đại  dịch này.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ thừa cân, béo phì và các yếu tố liên quan ở trẻ đang học tại hai trường

mầm non quận 4, Tp.HCM và đánh giá tác động của biện pháp can thiệp phòng ngừa thừa cân, béo phì

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng, tiến hành qua 3 giai đoạn: điều tra cắt ngang  thu thập số liệu, can thiệp, đánh giá tác động can thiệp. Thời gian thực hiện từ 6/2010‐6/2011, nghiên cứu tiến  hành bằng cách phát phiếu hỏi cho phụ huynh để tìm hiểu nhận định của họ về tình trạng dinh dưỡng ở trẻ.

Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì ghi nhận được sau can thiệp (38,6%) cao hơn ban đầu  (33,8%). Các yếu tố như giới tính, khối lớp, tốc độ ăn và ăn thức ăn chiên xào có liên quan đến tỷ lệ thừa cân,  báo phì (p<0,05). Tỷ lệ kiến thức đúng của phụ huynh về dinh dưỡng và thừa cân, béo phì ở trẻ thu được sau can  thiệp cao hơn ban đầu.

Kết luận: Cần duy trì các biện pháp can thiệp phòng ngừa thừa cân, béo phì đã thực hiện

Từ khóa: Thừa cân, béo phì, biện pháp can thiệp

ABSTRACT

ASSESSMENT OF INTERVENTION MEASURES TO PREVENT CHILDREN’S OVERWEIGHT AND  OBESITY IN SOME KINDERGARTENS, DISTRICT 4, HO CHI MINH CITY, 2010

Phung Duc Nhat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 416 ‐ 420

Background:  Overweight  and  obesity  are  becoming  significant  public  health  problems  that  should  be  paid more attention from community. These issues are commonly recorded in adults, however, the children’s  overweight and obesity status has been increasing at an alarming rate. The intervention measures to prevent  overweight  and  obesity  status  in  children  and  assessment  after  conducting  intervention  have  played  an  important role in debating these issues.

Objectives: To determine the children’s overweight and obesity rate studying in two kindergartens in  district  4,  Ho  Chi  Minh  city  and  the  association  between  this  proportion  and  risk  fators  that  are  likely  to  cause overweight and obesity. The impact of intervention measures to prevent overweight and obesity should  be subsequently assessed.

Method:  Community‐  intervention  study  has  been  implemented  through  three  stages:  cross  sectional  survey to collect data, implementation of intervention, impact evaluation of intervention. The study, carried  out from June 2010 to June 2011 and was conducted by distributing questionnaires to parents so that they

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths.BS. Phùng Đức Nhật   ĐT: 0918103404

Email: phungducnhat@ihph.org.vn

415

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  can seft‐ assess the nutrition status of their children

Results:  The  children’s  overweight  and  obesity  rate  recorded  at  post‐intervention  was  38.6%,  higher  than the pre‐intervention figure (33.8%). There were association between gender, grade, eating speed, greasy  food  consuming  and  overweight  and  obesity  rate,  with  p  value  was  lower  than  0.05.  The  proportion  of  parents having the right knowledge of nutrition, overweight and obesity post‐intervention was higher than  pre‐ intervention

Conclusion:  Effective  intervention  measures  to  prevent  overweight  and  obesity  issues  in  children

should be maintained

Key words: Overweight, obesity, intervention measures

ĐẶT VẤN ĐỀ

dưỡng và thừa cân, béo phì của phụ huynh trẻ  trước và sau can thiệp tại trường SM 12.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Học  sinh  trường  mầm  non  Sao  Mai  12  và

Sao Mai 13 tại quận 4 thành phố Hồ Chí Minh.

Thừa  cân,  béo  phì  hiện  đang  là  đại  dịch  được  thế  giới  quan  tâm(4).  Hiện  nay,  thừa  cân,  béo  phì  không  chỉ  là  vấn  đề  nghiêm  trọng  thường  gặp  ở  người  lớn  mà  tình  trạng  này  đã  mở rộng ra đến đối tượng trẻ em và ngày càng  gia tăng.

Phương pháp nghiên cứu

Thiết  kế  nghiên  cứu:  nghiên  cứu  can  thiệp

cộng đồng.

Cỡ mẫu và cách chọn mẫu  Công thức tính cỡ mẫu:

1( −

PPP ) 1( +− 1 1 2

P 2

− − ZPP )1(2 +− 1 β −

⎡ Z ⎢ 2/1 α − ⎣

⎤ ) ⎥ ⎦

n =

2 )

PP ( − 2 1

Nghiên  cứu  tình  trạng  thừa  cân  và  béo  phì  của dân cư thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 đến  2001, Trần Thị Hồng Loan ghi nhận sự gia tăng  tỷ lệ thừa cân của trẻ dưới 5 tuổi: 2,0% năm 1996;  2,1% năm 1999; 3,1% năm 2000; 3,4% năm 2001.  Riêng học sinh nhà trẻ, mẫu giáo trong niên học  2000  ‐  2001  quận  ven  Gò  Vấp  có  tỷ  lệ  béo  phì  7,9%. Còn học sinh cấp I (6‐11 tuổi) ở quận 1 nội  thành năm 1997 có tỷ lệ béo phì 12,2%(2).

− P

(

2/)

=

1 PP + 2

n = số đối tượng cần điều tra

α = 0,05

z  (1‐α/2)  =  1,96  (tra  bảng  phân  phối  bình

thường)

Các  chương  trình  can  thiệp  phòng  ngừa  thừa  cân,  béo  phì  ở  các  trường  mẫu  giáo  trong  thời gian qua cũng đã được thực hiện, tuy nhiên  đánh  giá  hiệu  quả  chương  trình  can  thiệp  này  thì  chưa  được  quan  tâm  nhiều,  điều  này  thúc  đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này.

z  (1‐ β )  =  1,28  (tra  bảng  phân  phối  bình

Mục tiêu nghiên cứu

thường).

Xác định tỷ lệ trẻ thừa cân, béo phì đang học  tại trường Sao Mai 12 (SM 12), Sao Mai 13 (SM  13).

1P  là tỷ lệ thừa cân béo phì theo báo cáo của  trường mầm non Sao mai 12 tại thời điểm tháng  4/2010 là 11% =>  1P = 0,11.

Xác định mối liên quan giữa tỷ lệ thừa cân,  béo phì ở trẻ học tại trường SM 12, SM 13 và các  yếu tố nguy cơ liên quan tình trạng thừa cân béo  phì.

2P  là tỷ lệ thừa cân béo phì mong muốn đạt  được  sau  khi  áp  dụng  các  biện  pháp  phòng  ngừa thừa cân béo phì vào trường mầm non Sao  mai 12 là 3% =>

2P = 0,03.

Đánh  giá  tác  động  của  biện  pháp  can  thiệp  phòng  ngừa:  dựa  trên  kiến  thức  đúng  về  dinh

Ta tính được n = 210 trẻ.

416

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

khích nhà trường tăng cường hoạt động thể lực  cho trẻ.

Truyền thông cho phụ huynh, khuyến khích

gia đình tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ.

Mẫu  được  chọn  theo  phương  pháp  chọn  mẫu theo đơn vị trường nghiên cứu. Số mẫu cần  thiết được nhân 2 với số trường nghiên cứu. Ta  có, số mẫu nghiên cứu cho mỗi đợt là 210 x 2 =  420  trẻ.  Số  lần  điều  tra  là  02  đợt,  nên  tổng  số  mẫu là 420 x 2= 840 trẻ.

Giai đoạn 3: Đánh giá tác động can thiệp  Định nghĩa thừa cân

Tiêu  chuẩn  chọn  đối  tượng  vào  nhóm  nghiên cứu

Giai  đọan  1:  Nghiên  cứu  cắt  ngang  đánh  giá

các số liệu cơ bản ban đầu

Tiêu chuẩn chọn vào nhóm nghiên cứu:

Đối với trường: Đề nghị chọn các trường: 01  trường  can  thiệp  (Mầm  non  Sao  mai  12),  01  trường đối chứng (Mầm non Sao mai 13).

“Nguy  cơ  thừa  cân”  và  “thừa  cân”  là  thuật  ngữ được dùng để chỉ tình trạng trẻ em có cân  nặng  vượt  quá  mức  bình  thường.  Ở  người  lớn,  đo  lường  tình  trạng  trên  dựa  vào  chỉ  số  BMI  (body  mass  index),  ta  tính  bằng  cách  lấy  cân  nặng  tính  bằng  kg  chia  bình  phương  chiều  cao  tính  bằng  mét(1).  Tuy  nhiên,  khi  tính  toán  trên  đối  tượng  trẻ  em,  có  nhiều  khuyến  cáo  nên  sử  dụng chỉ số BMI theo tuổi và giới vì tình trạng  thừa cân hay béo phì của trẻ bị phụ thuộc bởi tác  động của yếu tố tuổi và giới. Theo phân loại của  Tổ chức y tế thế giới(5):

Thừa  cân:  >+  1  SD  (tương  đương  với  BMI

Có  sự  đồng  ý  tham  gia  của  Ban  giám  hiệu  nhà  trường,  sự  giới  thiệu  của  Phòng  Giáo  dục  quận 4. Hai trường nêu trên là hai trường có cơ  sở vật chất khá tốt, phù hợp cho việc triển khai  tăng cường vận động cho trẻ.

25kg/m2 ở tuổi 19).

Béo  phì:  >+  2SD  (tương  đương  với  BMI  30

kg/m2 ở tuổi 19).

KẾT QUẢ

Bảng 1: Tỷ lệ thừa cân, béo phì (TCBP) ở hai trường  mầm non quận 4  TCBP

Trường  Mầm  non  có  khoảng  45  trẻ/1  lớp  mầm; 55 trẻ/1 lớp chồi; 50 trẻ /1 lớp lá (Trường  Mầm non Sao mai 12). Như vậy ta sẽ chọn ngẫu  nhiên 35 trẻ trong mỗi lớp. Ta chọn tổng cộng là  06 lớp (02 mầm; 02 chồi; 02 lá) có 210 trẻ và phụ  huynh  được  điều  tra  tại  trường  can  thiệp  và  tương  ứng  với  khoảng  210  trẻ  và  phụ  huynh  ở  trường không can thiệp.

Mầm non SM 12 (n=420) Mầm non SM 13 (n=420)

Trước điều tra (n=210) Sau điều tra (n=210) Trước can thiệp (n=210) Sau can thiệp (n=210)

Mẫu  được  chọn  theo  phương  pháp  chọn  mẫu theo đơn vị trường nghiên cứu. Số mẫu cần  thiết được nhân 2 với số trường nghiên cứu. Ta  có số mẫu nghiên cứu cho mỗi đợt là 210 x 2 =  420 trẻ. Số lần điều tra là 2 đợt nên tổng số mẫu  là 420 x 2= 840 trẻ.

Có 81 (38,6%) 72 (34,3%) 71 (33,8%) 81 (38,6%) 139 (66,2%) 129 (61,4%) Không 129 (61,4%) 138 (65,7%)

Giai đoạn 2: Can thiệp tại trường nghiên cứu:

Truyền  thông  dinh  dưỡng  và  phòng  chống  béo  phì  trong  nhà  trường  bằng  các  tài  liệu  truyền  thông  như  tờ  bướm,  các  thông  tin  định  kỳ  dán  trên  bảng  thông  tin  tại  trường,  khuyến

Tại trường mầm non SM 12, tỷ lệ trẻ bị thừa  cân,  béo  phì  sau  can  thiệp  là  38,6%  cao  hơn  so  với  tỷ  lệ  thu  được  ban  đầu  (33,8%).  Trong  khi  đó, kết quả thu được ở trường mầm non SM 13  cho thấy tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì thu được ở  lần điều tra sau 34,3% thấp hơn so với tỷ lệ ghi  nhận được ban đầu (38,6%).

Bảng 2: Thừa cân, béo phì và các yếu tố liên quan

Yếu tố nguy cơ Trường Mầm non Sao Mai 13 (trường chứng) Trường Mầm non Sao Mai 12 (trường can thiệp)

Giới Nam Bình thường 65 (51,6%) TCBP 61 (48,4%) Bình thường 57 (55,9%) TCBP 45 (44,1%)

417

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

64 (76,1%) 20 (23,8%) 82 (75,9) 26 (24,1%) Nữ χ2 = 12,8, p=0,000 χ2 = 9,41, p=0,002 Lớp

39 (54,9%) 49 (71,0%) 41 (58,7%) 32 (45,1%) 20 (29,0%) 29 (41,3%) 55 (74,3%) 50 (68,5%) 34 (53,9%) 19 (25,7%) 23 (31,5%) 29 (46,1%) Mầm Chồi Lá χ2 =4,18, p=0,124 χ2 =6,56, p=0,038 Tốc độ ăn

15 (34,9%) 62 (60,2%) 52 (81,2%) 28 (65,1%) 41 (39,8%) 12 (18,8%) 17 (54,8%) 70 (61,4%) 52 (80,0%) 14 (45,1%) 44 (38,6%) 13 (20,0%) Nhanh Bình thường Chậm χ2 = 23,4, p=0,000 χ2 = 8,49, p=0,014

Thức ăn chiên xào 50 (52,1%) 79 (69,3%) 46 (47,9%) 35 (30,7%) 58 (60,4%) 81 (71,1%) 38 (39,6%) 33 (28,9%) Có Không χ2 = 6,51, p=0,011 p

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì  của  trẻ  và  các  yếu  tố  như:  giới  tính,  khối  lớp,  tốc  độ  ăn  và  thức  ăn  chiên  xào (p = 0,000 < 0,05).

Tỷ lệ phụ huynh có kiến thức đúng về thừa  cân,  béo  phì  sau  can  thiệp  là  87,2%  cao  hơn  so  với trước can thiệp (83,1%). Sự khác biệt không  có ý nghĩa thống kê (p = 0,725 > 0,05).

χ2 = 2,63, p=0,105 Trường mầm non Sao Mai 12 Sau can thiệp (n=210) Trước can thiệp (n=210) Kiến thức dinh dưỡng đúng Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 0,725 Có Không 176 34 83,1 16,2 183 27 87,2 12,8

BÀN LUẬN

Tại trường SM 12 (trường can thiệp): Tỷ lệ  nam bị thừa cân, béo phì ở trường SM12 chiếm  44,1%  trong  khi  ở  nữ  tỷ  lệ  này  chỉ  có  24,1%.  Trẻ ở  lớp  mầm,  chồi,  lá  có  tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì  lần  lượt  là  25,7%,  31,5%  và  46,1%.  Những  trẻ  có  tốc  độ  ăn  nhanh  có  tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì bằng 45,1% cao hơn so với những trẻ có tốc  độ ăn bình thường (38,6%) và chậm (20,0%).

Tại  trường  SM  13  (trường  đối  chứng):  trẻ  ăn  thức  ăn  chiên  xào  hàng  ngày  (trên  5  lần/  tuần)  bị  thừa  cân,  béo  phì  chiếm  47,9%  trong  khi trẻ không ăn thức ăn chiên xào và không bị  thừa cân, béo phì là 30,7%.

Khảo  sát  lần  đầu,  tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì  ở  trường SM 13 và SM 12 lần lượt là 38,6%; 33,8%.  Sau can thiệp, tỷ lệ thu được ở trường can thiệp  tăng lên 38,6%, cao hơn so với ban đầu (33,8%).  Điều này có thể do kiến thức về dinh dưỡng và  thừa cân, béo phì của phụ huynh được cải thiện  nên việc tầm soát sớm trẻ thừa cân tốt hơn.

p

Trường mầm non Sao Mai 12 Sau can thiệp (n=210) Trước can thiệp (n=210)

Bảng 3: Kiến thức đúng về dinh dưỡng của phụ  huynh (n=420)   Kiến thức dinh dưỡng đúng

Tỷ lệ phụ huynh có kiến thức đúng về dinh  dưỡng sau can thiệp là 72,04 % cao hơn so với  ban  đầu  (61,4%).  Tuy  nhiên,  không  tìm  được  sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức  dinh  dưỡng  đúng  trước  và  sau  can  thiệp  (p=0,25 >0,05).

Tình  trạng  thừa  cân,  béo  phì  của  trẻ  đang  học ở trường mầm non SM 12 – trường can thiệp  có liên quan đến các yếu tố về giới tính, khối lớp  học, tốc độ ăn. Trẻ nam có tỷ lệ thừa cân, béo phì  là  44,1%  cao  gần  gấp  đôi  so  với  trẻ  nữ  24,1%  (p=0,002<0,005). Tình trạng thừa cân, béo phì gia  tăng  theo  khối  lớp  (p=0,038<  0,05)  theo  đó  những  trẻ  học  lóp  mầm  có  tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì  (25,7%),  lớp  chồi  (31,5%)  và  lớp  lá  (46,1%).  Kết quả này phù hợp với nghiên cứu “Khảo sát  tình  trạng  dinh  dưỡng  và  một  số  bệnh  học  đường ở các trường mẫu giáo quận 4, năm 2006”  của nhóm tác giả Võ Ngọc Thúy và Phạm Lê An,  với tỷ lệ nam bị béo phì cao hơn nữ và tỷ lệ béo  phì  tăng  theo  khối  lớp(3).  Trẻ  ăn  nhanh  có  tỷ  lệ

Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 0.25 Có Không 129 81 61,4 386 152 59 72,04 27,96

Bảng 4: Kiến thức đúng về thừa cân, béo phì của phụ  huynh (n=420)

418

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thừa cân, béo phì bằng 45,1% cao hơn so với trẻ  ăn  bình  thường  (38,6%)  và  chậm  (20,0%).  Thói  quen ăn nhanh của trẻ là yếu tố nguy cơ dẫn đến  tình trạng thừa cân, béo phì.

thức  đúng  về  thừa  cân,  béo  phì  sau  can  thiệp  là  87,1%  cao  hơn  so  với  trước  can  thiệp  (83,1%). Số phụ huynh có con bị thừa cân, béo  phì có kiến thức đúng về thừa cân, béo phì sau  can  thiệp  là  87,20%,  cao  hơn  hẳn  so  với  trước  can thiệp (83,81%).

KHUYẾN NGHỊ

Nhà  trường  cần  thường  xuyên  cung  cấp  thông tin về cân nặng, chiều cao của trẻ cho gia  đình  để  phụ  huynh  cho  trẻ  ăn  uống  theo  một  chế độ phù hợp.

Tổ  chức  các  hoạt  động  tư  vấn  dinh  dưỡng  cho phụ huynh, đặc biệt là phụ huynh trẻ có vấn  đề về dinh dưỡng.

Tăng các hình thức hoạt động thể dục tại các

trường mầm non.

Tỷ lệ phụ huynh có kiến thức đúng về dinh  dưỡng và thừa cân, béo phì sau can  thiệp  cao  hơn  so  với  ban  đầu.  Điều  này  cho  thấy  có  sự  chuyển  biến  trong  nhận  thức  của  các  phụ  huynh  và  cũng  phần  nào  phản  ánh  hiệu  quả  của  các  biện  pháp  truyền  thông  như  tư  vấn  dinh dưỡng cho phụ huynh có con bị thừa cân,  béo phì và việc phát tờ rơi, tờ bướm. Dựa trên  những kiến thức thu nhận được phụ huynh có  những  biện  pháp  hữu  hiệu  để  giúp  trẻ  như:  giảm dầu mỡ trong nấu nướng, hạn chế cho trẻ  ăn  các  loại  thức  ăn  nhanh,  thức  ăn  chế  biến  sẵn, khuyên trẻ tăng vận động thể lực, cho trẻ  vận động ngoài trời…

KẾT LUẬN

Nhà  trường  nên  dành  diện  tích  trong  khuôn viên trường để xây dựng sân chơi ngoài  trời cho trẻ.

Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trường Sao Mai 13  và Sao Mai 12 – trước can thiệp lần lượt là 38,6%  và 33,8%.

Xin chân thành cám ơn sự tài trợ của Tổ chức  Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong  việc  thực  hiện  nghiên  cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Overweight

and

children

adolescents:

2.

3.

epidemic.

global

the

CDC.  Recommendations to screen, assess and manage.   www.cdc.gov/nccdphp/dnpa/.../module3print.pdf  Trần Thị Hồng Loan (2003). Tình trạng thừa cân và béo phì  các tầng lớp dân cư thành phố Hồ Chí Minh năm 1996‐2001.  Trung tâm Dinh Dưỡng thành phố Hồ Chí Minh.   Võ Thị Ngọc Thúy, Phạm Lê An (2008). Khảo sát tình trạng  dinh  dưỡng  và  một  số  bệnh  học  đường  ở  các  trường  mẫu  giáo  quận  4  năm  2006.  Y  Học  TP  Hồ  Chí  Minh.  Tập  12  (1)‐ 2008, tr.86‐91.  4. WHO.  Controlling

obesity  http://www.who.int/nutrition/topics/obesity/en/

5. WHO.  Growth  reference  5‐19  years.  BMI

Tình  trạng  thừa  cân,  béo  phì  của  trẻ  đang  học ở trường mầm non Sao Mai 12 – trường can  thiệp  có  liên  quan  đến  các  yếu  tố  về  giới  tính,  khối lớp học, tốc độ ăn. Thói quen ăn nhanh của  trẻ  là  yếu  tố  nguy  cơ  dẫn  đến  tình  trạng  thừa  cân, béo phì. Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  thừa  cân, béo phì của trẻ với các yếu tố thuộc về gia  đình trẻ: trình độ học vấn cha, mẹ; nghề nghiệp  cha, mẹ; các thói quen  ăn  uống  và  sở  thích  của  trẻ  như:  thói  quen  ăn  vặt,  sở  thích  ăn  thức  ăn  béo, thức ăn ngọt, thức ăn nhanh. (p > 0,05).

for  age.  http://www.who.int/growthref/who2007_bmi_for_age/en/ind ex.html

Phụ  huynh  có  kiến  thức  đúng  về  dinh  dưỡng sau can thiệp là 72,04 % cao hơn hẳn so  với ban đầu (61,4%). Tỷ lệ phụ huynh có kiến

419

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

NGHIÊN CỨU VỀ NGHÈO, CÔNG BẰNG Y TẾ   VÀ CAN THIỆP NÂNG CAO SỨC KHỎE CHO NGƯỜI NGHÈO   KHU VỰC VÙNG XA, VIỆT NAM, 2010

Lê Hoàng Ninh*, Phùng Đức Nhật*, Lê Công Minh

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nghèo và sử dụng dịch vụ y tế và cách mà nghèo ảnh hưởng  đến sức khỏe của các nhóm dễ tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người già tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long  là quan trọng.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định nghèo dẫn đến bệnh tật và các yếu tố trung gian. Can thiệp làm gia tăng

tuân thủ điều trị với bệnh tăng huyết áp.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu can thiệp.

Kết quả nghiên cứu: Có mối liên quan giữa nghèo và chăm sóc sức khỏe, nhóm không nghèo khám sức khỏe  định kỳ nhiều hơn nhóm nghèo/cận nghèo (p < 0,05). Có mối liên quan giữa nghề nghiệp và khám sức khỏe ở nữ,  cũng như cho con sử dụng dịch vụ y tế. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn và khám phụ khoa ở phụ nữ.  Người THA sau can thiệp có sự cải thiện kiến thức về THA và khả năng tuân thủ điều trị.

Kết  luận: Nghèo có liên quan với sử dụng dịch vụ y tế, ở các nhóm phụ nữ và trẻ em. Thực hiện truyền  thông đã giúp nâng cao kiến thức của người bệnh THA như kiến thức về triệu chứng bệnh, nguy hiểm của bệnh,  thời gian điều trị bệnh và các kiến thức về tuân thủ trong điều trị bệnh THA.

Từ khóa: nghèo, công bằng y tế, sử dụng dịch vụ y tế

ABSTRACT

RESEARCH ON POVERTY, HEALTH EQUITY AND INTERVENTION TO IMPROVE HEALTH FOR  POOR AREAS IN VIETNAM, IN 2010

Le Hoang Ninh*, Phung Duc Nhat*, Le Cong Minh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 421 ‐ 427

Background: Research on the relationship between poverty and health services use and how poverty affects

vulnerable groups’ health such as women, children, the elderly in the Cuu Long area is important.

Objectives: To determine whether poverty is likely to result in disease and identify some intermediate social

determinants. Intervention to increase hypertension treatment adherence

Method: Cross‐sectional and intervention study.

Results: Non poor group had more periodic health examination than poor/near poor groups (p <0.05). There  was a relationship between poverty and health care service utility. There was a relationship between occupation  and periodic health exammination in women and health care utility of their children. There was a relationship  between  educational  level  and  having  gynecologic  examination  in  women.  After  intervention  for  poor  hypertensives,  there  was  an  improvement  in  their  knowledge  on  hypertansion  and  ability  to  adhere  to  their  treatment.

Conclusion: Poverty is associated with health services utility on women and children. Implementation of

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths.BS. Phùng Đức Nhật   ĐT: 0918103404

Email: phungducnhat@ihph.org.vn

420

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  communication helped to improve knowledge of hypertensives such as knowledge about symptoms, risk of disease,  duration of treatment, and the knowledge of adherence to treatment of hypertensives.

Keyword: poverty, health equity, use of health care service.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Xác  định  các  yếu  tố  hành  vi  thói  quen  liên  quan  đến  nghèo  và  bệnh  tật  tại  khu  vực  đồng  bằng sông Cửu Long.

Xác định nghèo có phải là yếu tố trung gian  tạo nên một rào cản cho việc tiếp cận dịch vụ y  tế của người nghèo.

Chính  phủ  Việt  Nam  có  cam  kết  mạnh  mẽ  trong  việc  giảm  nghèo  và  công  bằng  xã  hội.  Chương  trình  giảm  nghèo  được  xem  là  một  trong các chương trình thành công nhất của Việt  Nam  trong  hai  thập  kỷ  từ  những  năm  1990  và  những năm 2000. Giảm nghèo cũng là một trong  các mục tiêu lớn của chính phủ với chương trình  quốc gia xóa đói giảm nghèo.

Lượng  giá  một  chương  trình  can  thiệp  làm  gia tăng tuân thủ điều trị với bệnh tăng huyết áp  người già hoặc với nhóm bệnh nhân đột quị tại  cộng đồng với các vật liệu truyền thông phù hợp  về bệnh tăng huyết áp (THA) và đột quị do tăng  huyết áp.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Người dân hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang

Song  song  với  mục  tiêu  giảm  nghèo,  công  bằng trong chăm sóc y tế cũng được xem là một  trong  các  ưu  tiên  của  quốc  gia.  Mục  tiêu  này  cũng  được  phản  ảnh  trong  trong  chính  sách  công  bằng  trong  chăm  sóc  sức  khỏe  cho  người  nghèo theo chương trình 139 (Quỹ chăm sóc sức  khỏe người nghèo) và chương trình 135 (chương  trình  giảm  nghèo  cho  vùng  sâu,  vùng  xa).  Các  chương trình này sẽ giúp giảm dần khỏang cách  hưởng  thụ  dịch  vụ  y  tế  giữa  người  giàu  và  người nghèo,  chủ  yếu  thông  qua  biện  pháp  trợ  giá  /  giảm  giá  dịch  vụ  trong  dịch  vụ  chăm  sóc  sức  khỏe  cho  người  nghèo  hoặc  bằng  cách  cấp  thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo.

Mỗi tỉnh chọn 350 hộ nghiên cứu ở khu vực  nghèo  (nông  thôn)  và  350  hộ  nghiên  cứu  khu  vực  không  nghèo  (thành  phố).  Số  mẫu  nghiên  cứu  cho  hai  tỉnh  là  350*2*2  =  1.400.  Tiến  hành  nghiên cứu về nghèo và sử dụng dịch vụ y tế tại  các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long để tìm một  số  yếu  tố  trung  gian  giữa  nghèo  và  sức  khỏe  kém.  Các  yếu  tố  sẽ  nghiên  cứu  gồm  thu  nhập,  nghề  nghiệp,  giáo  dục,  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế  trong các hộ gia đình, chăm sóc sức khỏe trẻ em.

Nghiên cứu can thiệp

Nghiên  cứu  về  tỉ  lệ  hộ  gia  đình  nghèo  cho  thấy tỉ lệ nghèo ở các tỉnh đồng bằng Sông Cứu  Long  vẫn  còn  cao.  Tỉ  lệ  nghèo  tòan  quốc  theo  Điều  tra  Quốc  gia  Hộ  gia  đình  năm  2008  (dựa  trên chuẩn nghèo mới của chính phủ) là 13,4%,  trong  đó  tỉ  lệ  nghèo  của  khu  vực  miền  Đông  Nam  Bộ  là  3,7%  và  khu  vực  đồng  bằng  sông  Cửu Long là 11,4%.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nghèo và  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế  và  cách  mà  nghèo  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  của  các  nhóm  dễ  tổn  thương  như  trẻ  em,  phụ  nữ,  người  già  tại  các  tỉnh  phía  Nam  nhất  là  khu  vực  đồng  bằng  sông Cửu Long là quan trọng trong việc tìm ra  các yếu tố xã hội trung gian nối liền nghèo và  sức khỏe kém.

Có  210  hộ  được  chọn  vào  nghiên  cứu,  điều  tra trước can thiệp và sau can thiệp, tổng mẫu là  210*2 = 420 hộ. Tiến hành can thiệp nhằm tăng tỉ  lệ  tuân  thủ  điều  trị  THA  và  lượng  giá  kết  quả  can thiệp. Can thiệp này sẽ được tiến hành bằng  cách  giáo  dục  sức  khỏe  và  nâng  cao  sức  khỏe  cộng  đồng  về  bệnh  THA  và  các  hậu  quả  của  THA  (như  đột  quị),  cách  điều  trị  THA  và  cách  chăm sóc bệnh nhân đột quị.

421

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm dân số Tần số Tỉ lệ (%)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 1: Đặc điểm dân số mẫu nghiên cứu cắt ngang  (n=1400)

Đặc điểm dân số Tần số Tỉ lệ (%) 301 56 398 169 21,5 4,1 28,4 12,1

Nghiên cứu chọn được 440 đối tượng người  cao tuổi, 480 phụ nữ, 480 trẻ em vào nghiên cứu.  Về kinh tế gia đình, qua tự nhận xét có 1,2% tự  nhận  xét  rất  giàu;  57,4%  giàu  hoặc  khá;  34,9  là  cận nghèo hoặc nghèo; 6,5% là rất nghèo.

Buôn bán Công nhân Nội trợ Khác: làm mướn, thợ may, uốn tóc, phụ hồ, còn nhỏ, già Tình trạng kinh tế (tự nhận xét) Rất giàu Giàu/khá Cận nghèo/nghèo Rất nghèo 17 803 488 92 1,2 57,4 34,9 6,5

Người cao tuổi Phụ nữ Trẻ em Trình độ học vấn Mù chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 TH/CĐ/ĐH Nghề nghiệp Làm ruộng CBVC Doanh nghiệp 440 480 480 165 599 386 211 39 415 51 10 31,4 34,3 34,3 11,8 42,8 27,6 15,1 2,7 29,6 3,6 0,7

Bảng 2: Mối liên quan nghề nghiệp và khám sức khỏe định kỳ ở người cao tuổi (n=440)

Nghề nghiệp p PR KTC 95%

Làm ruộng Khám SK định kỳ Có N (%) Không N (%) 124 (78,0) 35 (22,0) 1

định  kỳ  thấp  hơn  khoảng  0,69  đến  0,67  lần  (p<0,001).

So  với  nhóm  làm  ruộng,  nhóm  nội  trợ  và  nhóm nghề nghiệp khác có tỉ lệ khám sức khỏe

Buôn bán Nội trợ Khác (CBVC, Doanh nghiệp, Công nhân, thợ may, làm tóc) 32 (58,2) 66 (54,1) 54 (51,9) 23 (41,8) 56 (47,9) 50 (48,1) 0,02 <0,001 <0,001 0,75 0,69 0,67 0,6 – 0,9 0,6 – 0,8 0,5 – 0,8

Bảng 3: Mối liên quan tình trạng kinh tế, nghề nghiệp và sử dụng dịch vụ trong tháng qua ở nhóm người cao  tuổi (n=440)

Nghề nghiệp Sử dụng DVYT trong tháng p PR KTC 95% Có N, (%) Không N, (%)

Nhóm  buôn  bán  có  tỷ  lệ  sử  dụng  dịch  vụ  trong  tháng  vừa  qua  gấp  2,2  lần  so  với  nhóm  làm ruộng (p < 0,001).

Làm ruộng Buôn bán Nội trợ Khác (CBVC, Doanh nghiệp, Công nhân, thợ may, làm tóc) 44 (27,7) 33 (60,0) 48 (39,7) 63 (60,6) 115 (72,3) 22 (40,0) 73 (60,3) 41 (39,4) <0,001 0,03 <0,001 1 2,2 1,4 2,2 1,5 – 3,0 1,03 – 2,0 1,6 – 2,9

Bảng 4: Mối liên quan giữa thói quen hút thuốc, uống ruợu và các đặc tính của người cao tuổi (n‐440)

Đặc điểm Có N, (%) Không N, (%) p PR KTC 95% Hút thuốc lá

Giới: Nam Nữ 44 (35,2) 10 (3,2) 81 (64,8) 305 (96,8) <0,001 Uống rượu bia

Giới: Nam Nữ Trình độ học vấn: Mù chữ 21 (16,8) 8 (2,5) 5 (5,3) 104 (83,2) 307 (97,5) 94 (94,7) <0,001 1

422

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc điểm Có N, (%) Không N, (%) p PR KTC 95%

chỉ 2,5%. Nhóm có trình độ học vấn cấp 3 uống  nhiều rượu bia hơn gấp 4,5 lần so với nhóm mù  chữ (p = 0,01).

Yếu tố giới có ảnh hưởng đến thói quen hút  thuốc,  uống  rượu,  nam  giới  chiếm  35,2%  tỷ  lệ  hút thuốc so với nữ giới chỉ 3,2% (p < 0,001). Tỷ  lệ có uống rượu ở nam là 16,8% so với phụ  nữ

Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 TH/CĐ/ĐH 13 (5,1) 6 (9,7) 5(22,7) 0(0,0) 243 (94,9) 56 (90,3) 17(77,3) 1(100,0) 0,9 0,3 0,01 0,9 1,005 1,92 4,5 // 0,4 – 2,7 0,6 – 6,01 1,4 – 14,2

Bảng 5: Mối liên quan giữa nghề nghiệp, thu nhập và khám sức khỏe định kỳ của phụ nữ (n=480)

Khám SK định kỳ Đặc điểm p PR KTC 95% Có N, (%) Không N, (%) Nghề nghiệp: Làm ruộng

Buôn bán Nội trợ Khác (CBVC, Doanh nghiệp, Công nhân, 78 (53,8) 59 (42,7) 46 (36,2) 28 (40,0) 67 (46,2) 79 (57,3) 81 (63,8) 42 (60,0) 0,06 0,005 0,07 1 0,8 0,7 0,7 0,6 – 1,01 0,5 – 0,9 0,5 – 1,03 thợ may, làm tóc) Thu nhập: Không nghèo

không nghèo (p < 0,05). Nhóm rất nghèo khám  sức khỏe định kỳ hơn 1,3 lần so với nhóm không  nghèo (p < 0,05).

Phụ nữ ở nhóm nội trợ khám sức khỏe định  kỳ  ít  hơn  0,7  lần  so  với  nhóm  làm  ruộng  (p  =  0,005).  Nhóm  phụ  nữ  cận  nghèo/  nghèo  khám  sức  khỏe  định  kỳ  thấp  0,8  lần  so  với  nhóm

Cận nghèo/ nghèo Rất nghèo 128 (46,5) 60 (35,7) 23 (62,3) 147 (53,5) 108 (64,3) 14 (37,8) 0,03 0,04 1 0,8 1,3 0,6 – 0,9 1,007 – 1,77

Bảng 6: Mối liên quan giữa trình độ học vấn và việc đi khám phụ khoa trong năm của phụ nữ (n=480)

Đi khám phụ khoa/năm p PR KTC 95% Trình độ học vấn Có N, (%) Không N, (%)

Ở phụ  nữ  nhóm  có  trình  độ  cấp  3  đi  khám  phụ  khoa  trong  năm  qua  nhiều  gấp  1,6  lần  nhóm mù chữ (p = 0,02 < 0,05).

Nếu người chăm sóc trẻ là nam giới, tỷ lệ trẻ  không được bú sữa mẹ là 18,7%, cao so với tỷ lệ  trẻ không được bú  sữa  mẹ  khi  người  chăm  sóc  trẻ là nữ 4,2% (p = 0,001).

Mù chữ Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 TH/CĐ/ĐH 17 (37,8) 95 (55,2) 74 (47,4) 54 (61,4) 7 (36,8) 28 (62,2) 77 (47,8) 82 (52,6) 34 (38,6) 12 (63,2) 0,06 0,3 0,02 0,9 1 1,5 1,3 1,6 0,97 0,9 – 2,2 0,8 – 1,9 1,07 – 2,4 0,5 – 1,9

Bảng 7: Mối liên quan giữa giới của trẻ, người chăm  sóc chính và việc trẻ được cho bú sữa mẹ (n=480)

Bú sữa mẹ Đặc điểm P Có N, (%) Không N, (%)

Giới: Nam Nữ 39 (81,3) 414(95,8) 9 (18,7) 18 (4,2) 0,001

Bảng 8: Mối liên quan nghề nghiệp mẹ và sử dụng dịch vụ y tế cho trẻ trong năm vừa qua (n=480)

Sử dụng DVYT trong năm vừa qua Nghề nghiệp mẹ p PR KTC 95% Có N, (%) Không N, (%)

Buôn bán nhỏ CBVC 56 (43,4) 15 (48,4) 73 (56,6) 16 (51,6) 0,6 1 1,1 0,7 – 1,7

423

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Sử dụng DVYT trong năm vừa qua Nghề nghiệp mẹ p PR KTC 95% Có N, (%) Không N, (%)

88,6%); ít vận động (8,6% lên 24,3%); người cao  tuổi (36,2% lên 65,7%).

So với nhóm buôn bán, nhóm lao động phổ  thông  cho  con  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế  chỉ  0,4  lần  (p=0,005)  và  nhóm  công  nhân  chỉ  0,5  lần  (p=0,02).

Công nhân LĐ phổ thông Chủ doanh nghiệp Nghề tự do 8 (20,0) 9 (17,6) 23 (38,3) 76 (45,0) 32 (80,0) 42 (82,4) 37 (61,7) 93 (55,0) 0,02 0,005 0,5 0,8 0,5 0,4 0,9 1,04 0,2 – 0,9 0,2 – 0,7 0,6 – 1,3 0,8 – 1,3

Bảng 10: Việc tuân thủ điều trị của người dân về  bệnh THA trước và sau can thiệp (n=210)

Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp N % N %

Bảng 9: Kiến thức của người dân về bệnh THA  trước và sau can thiệp (n=210)

Nhận lời khuyên ăn mặn từ bác sĩ (n=210) Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp

Có Không 188 22 89,5 10,5 208 2 99,1 0,9 Nhận lời khuyên giảm cân từ bác sĩ (n=210) N 8 % 3,8 N 7 % 3,3

156 54 15,9 74,1 Có Không

Có Không 17,1 82,9 125 85

34,3 107 65,7 103 Nhận lời khuyên không hút thuốc lá từ bác sĩ (n=210) 29,5 78 70,5 132 Nhận lời khuyên hạn chế uống rượu bia từ bác sĩ (n=210) 28,1 77 71,9 133 Có Không 16,7 83,3 122 88 Nhận lời khuyên tập thể dục từ bác sĩ (n=210)

5 8 17 6 68 18 76 48 20 2,4 3,8 8,1 2,9 32,4 8,6 36,2 22,9 9,5 3 28 26 38 186 51 138 63 15 1,4 13,3 12,4 18,1 88,6 24,3 65,7 30 7,1 Có Không 124 86 59,1 40,9 155 55 73,8 26,2

Sau  can  thiệp,  mức  độ  người  dân  được  khuyên để tuân thủ điều trị THA gia tăng. Bệnh  nhân  nhận  lời  khuyên  giảm  cân  từ  15,9%  lên  34,3%;  tỷ  lệ  nhận  lời  khuyên  không  hút  thuốc,  hạn  chế  uống  rượu  tăng  tương  ứng  (17,1%  lên  29,5%; 16,7% lên 28,1%).

5 4 82 2,4 1,9 39,2 2 0 1 0,9 0 0,5

BÀN LUẬN

140 10 7 2 67 4,8 3,3 0,9 198 29 5 2 94,3 13,8 2,4 0,9

Đánh  giá  liên  quan  nghèo,  các  yếu  tố  xã  hội và sức khỏe

Trước can thiệp có 39,2% đối tượng không  biết  ai  là  người  dễ  bị  THA,  sau  can  thiệp  số  này  giảm  còn  0,5%.  Người  dân  có  kiến  thức  đúng  về  các  nhóm  dễ  bị  THA  có  tăng  lên  tương  ứng:  người  hút  thuốc  (3,8%  lên  13,3%);  người  uống  rượu  (8,1%  lên  12,4%);  ăn  nhiều  mỡ  (2,9%  lên  18,1%);  ăn  mặn  (32,4%  lên

Nghiên cứu cho kết quả ở nhóm người cao  tuổi có mối liên quan giữa nghề nghiệp (phản  ảnh  một  phần  của  vấn  đề  thu  nhập)  và  sử  dụng dịch vụ y tế. Người làm  nghề buôn  bán  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế  trong  tháng  vừa  qua  nhiều hơn nhóm nông dân, nhưng lại ít khám  sức khỏe định kỳ hơn (bảng 2, bảng 7). Có thể  do  nhóm  này  có  kinh  tế  khá  hơn  nhưng  bận  rộn hơn nên ít khám sức khỏe định kỳ mà chỉ  khám khi có bệnh.

Người dễ bị THA (n=210) - Người có người thân bị THA - Người bệnh ĐTĐ - Người hút thuốc - Người uống rượu nhiều - Người ăn nhiều mỡ - Người ăn mặn - Người ít vận động - Người cao tuổi - Người mập - Người hay lo âu, suy nghĩ căng thẳng - Người nghèo - Tất cả mọi người - Không biết Người bệnh THA dễ bị những nguy hiểm (n=210) - Tai biến mạch máu não - Thiếu máu cơ tim - Suy tim - Tổn hại đến mắt, giảm thị lực - Suy thận - Dễ chết - Không biết 1 135 31 0,5 64,6 14,7 0 195 0 0 92,8 0

424

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

hưởng  đến  việc  các  nhóm  phụ  nữ  nghèo  và  không nghèo tiếp cận dịch vụ y tế.

Ở người cao tuổi, tỉ lệ nam giới hút thuốc và  uống  rượu  bia  cao  hơn  nữ  giới  (bảng  4).  Điều  này có thể làm cho tỉ lệ các bệnh không lây khác  biệt  theo  giới,  cần  có  nghiên  cứu  thêm  về  mô  hình bệnh tật theo giới. Học vấn là yếu tố xã hội  có  liên  quan  đến  thói  quen  sử  dụng  rượu  bia,  nhóm  có  học  vấn  cao  (cấp  3)  có  tỉ  lệ  sử  dụng  rượu bia cao hơn nhóm mù chữ (bảng 4). Yếu tố  học vấn có thể liên quan đến nghề nghiệp và thu  nhập do nhóm học vấn cao thường có thu nhập  tốt hơn nhóm mù chữ.

Phụ  nữ  có  trình  độ  học  vấn  quan  tâm  hơn  đến sức khỏe và có tỉ lệ khám phụ khoa cao hơn  nhóm  phụ  nữ  mù  chữ  (bảng  6).  Theo  nhóm  nghề nghiệp, mẹ là công nhân cho con sử dụng  dịch vụ y tế chỉ bằng 0,5 lần so với mẹ làm nghề  buôn bán, như vậy nghề nghiệp hoặc thu nhập  của mẹ có thể ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ y  tế của trẻ. Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm  2004 tại Việt nam cho thấy chia  theo  nhóm  thu  nhập  gia  đình  nhóm  trẻ  em  thu  nhập  cao  tìm  kiếm  dịch  vụ  y  tế  cao  hơn  45%  trong  điều  trị  viêm  hô  hấp  trên  cấp  tính  so  với  nhóm  nghèo  nhất(3).  Ngoài  ra,  nếu  mẹ  là  người  chăm  sóc  trẻ  thì  tỉ  lệ  trẻ  được  bú  sữa  mẹ  cao  hơn  khi  người  chăm sóc là nam giới, không phải mẹ trẻ. Vai trò  của mẹ là rất quan trọng trong việc chăm sóc trẻ  và thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ.

Nghiên cứu can  thiệp  bằng  công  tác  truyền  thông  cho  nhóm  đối  tượng  THA,  khu  vực  nghèo, cho thấy có tác dụng trong việc làm gia  tăng kiến thức về THA. Sau can thiệp, đối tượng  biết  nhiều  hơn  về  các  yếu  tố  gây  THA  và  việc  tuân thủ điều trị theo lời khuyên nhân viên y tế.  Nếu có chinh sách phù hợp trong quản lý nhóm  đối tượng các bệnh không lây, tỉ lệ tuân thủ điều  trị có thể cao hơn nhất là nhóm đối tượng nghèo.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy nghèo là yếu tố có tác  động lên sức khỏe các nhóm phụ nữ, người già.  Nhóm  thu  nhập  cao  sử  dụng  dịch  vụ  khám  bệnh cao hơn nhóm thu nhập ít. Yếu tố học vấn  cao ở nhóm người già có liên quan đến việc sử  dụng  rượu  bia  nhiều  hơn  và  như  vậy  là  có  tác  dụng xấu lên sức khỏe. Điều này được thể hiện  rõ ở nhóm nam giới người cao tuổi.

Ở phụ nữ nhóm nghèo và cận nghèo khám  sức khỏe định kỳ ít hơn nhóm khá, cho thấy chi  phí dịch vụ y tế có thể là rào cản sử dụng dịch  vụ ở nhóm nghèo. Chính sách hỗ trợ đối tượng  nghèo là rất hữu ích để họ có thể tiếp cận dịch  vụ y tế tốt hơn. Học vấn là yếu tố giúp phụ nữ

Nghề  nghiệp  và  thu  nhập  có  liên  quan  đến  việc  khám  sức  khỏe  định  kỳ  ở  phụ  nữ.  Nhóm  buôn  bán  và  nội  trợ  khám  sức  khỏe  định  kỳ  ít  hơn nhóm nông dân. Nhóm nghèo và cận nghèo  khám  sức  khỏe  định  kỳ  ít  hơn  0,8  lần  so  với  nhóm không nghèo. Nghèo có thể là rào cản cho  việc  tiếp  cận  sử  dụng  dịch  vụ  y  tế.  Tuy  nhiên,  nhóm rất nghèo khám sức khỏe định kỳ cao hơn  nhóm  không  nghèo.  Nhóm  này  được  cấp  thẻ  bảo hiểm y tế như một chính sách về công bằng  y  tế.  Các  chính  sách  hỗ  trợ  đối  tượng  nghèo  sẽ  giúp  các  đối  tượng  này  gia  tăng  khả  năng  tiếp  cận  dịch  vụ  y  tế  và  giảm  bớt  rào  cản  chi  phí  khám  chữa  bệnh.  Điều  này  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  của  Ngân  hàng  Thế  giới  tại  Hà  Giang  tại  hai  huyện  Vị  Xuyên  và  Đồng  Văn  từ  năm 1996 đến 2003 về chính sách chương trình  139  hỗ  trợ  người  nghèo  trong  khám  chữa  bệnh  sẽ hỗ trợ nhóm nghèo trong sử dụng dịch vụ y  tế  nhất  là  cho  đối  tượng  phụ  nữ  và  trẻ  em(1).  Nghiên cứu nghèo và dịch vụ y tế tại huyện Hải  Lăng  và  huyện  Gio  Linh  tỉnh  Quảng  Trị  cho  thấy  người  dân  còn  thiếu  thông  tin  về  việc  hỗ  trợ  người  nghèo  khi  ốm  đau,  khoảng  cách  xa,  giá  dịch  vụ  cao,  chất  lượng  kém  là  các  cản  trở  quan  trọng  trong  chính  sách  y  tế  cho  người  nghèo.  Nhiều  phụ  nữ  tại  đây  mắc  bệnh  phụ  khoa, chủ yếu là phụ nữ nghèo. Một số phụ nữ  đẻ  tại  nhà  vì  không  có  tiền  (50.000  –  70.000  đồng/1  ca  đẻ)  đóng  cho  chi  phí  dịch  vụ(2).  Nghiên cứu tại Philippine cho thấy phụ nữ thôn  quê (nghèo hơn) tốn chi phí gấp đôi cho việc đến  được cơ sở y tế để sanh so với phụ nữ sống ở thị  tứ trung tâm Cebu(4). Vì vậy, chi phí y tế sẽ ảnh

425

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

xuyên các họat động truyền thông trong điều trị  bệnh THA.

Nghiên cứu Y học  quan  tâm  hơn  đến  sức  khỏe  và  đi  khám  phụ  khoa. Nhóm phụ nữ có thu nhập gia đình thấp ít  tìm kiếm sử dụng dịch vụ y tế cho trẻ em trong  gia đình so với nhóm thu nhập cao.

Tập huấn cho cán bộ y tế xã và cộng tác viên  vãng gia về kỹ năng vận động người bệnh thực  hiện  thay  đổi  hành  vi,  cần  chú  trọng  phương  pháp để nâng cao kiến thức và kỹ năng truyền  thông vận động để họ có đủ khả năng vận động  người bệnh THA.

Cần  chú  trọng  giữa  lý  thuyết  và  thực  hành

của người bệnh trong điều trị bệnh THA.

Khi can thiệp để gia tăng kiến thức với một  bệnh không lây cụ thể như THA, các đối tượng  có cải thiện kiến thức và có khuynh hướng tuân  thủ điều trị cao hơn. Nhưng biện pháp hỗ trợ về  kinh  tế  (như  cấp  thẻ  BHYT)  sẽ  giúp  dỡ  bỏ  rào  cản  chi  phí  với  các  trường  hợp  cần  điều  trị  lâu  dài (cac bệnh mạn tính ở người cao tuổi).

KIẾN NGHỊ

Xin chân thành cám ơn sự tài trợ của Tổ chức Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong  việc  thực  hiện  nghiên  cứu  này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. World  Bank  (2003).  Báo  cáo  cuối  kỳ  Đánh  giá  nghèo  có  sự  tham gia của cộng đồng tại Hà Giang. World Bank. 26‐27. Hà  Nội.

2. World  Bank  (2003).  Báo  cáo  cuối  kỳ  Đánh  giá  nghèo  có  sự  tham gia của cộng đồng tại Quảng Trị. World Bank. 28‐34. Hà  Nội.

Cần cải thiện thu nhập và nâng cao trình độ  học vấn của phụ nữ để họ quan tâm và có điều  kiện  hơn  trong  việc  chăm  sóc  sức  khỏe,  khám  sức khỏe định kỳ, khám phụ khoa và cho con đi  khám  bệnh  tại  cơ  sở  y  tế.  Các  yếu  tố  nghề  nghiệp  và  học  vấn  có  ảnh  hưởng  đến  sử  dụng  dịch vụ y tế ở phụ nữ.

3. World  Health  Organization  (2007).  Reaching  the  poor  challenges for child health in the Western Pacific region. pp.  15‐18. Publication Office. Manila.

Để góp phần và thúc đẩy tăng tỉ lệ tuân thủ  trong điều trị bệnh THA của người bệnh, chúng  tôi có một số đề nghị như sau:

4. World  Health  Organization  (2008).  Intergrating  poverty  and  gender into health programs. Foundation module on gender.  pp. 26‐36. Publication Office. Manila.

Xây  dựng  mạng  lưới  truyền  thông  trong  cộng  đồng.  Tiếp  tục  thực  hiện,  duy  trì  thường

426

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN   TẠI QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ, NĂM 2011

Phùng Đức Nhật*,Diệp Thị Thùy Vân*,Hà Võ Vân Anh*.

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Chất lượng cuộc sống là một khía cạnh quan trọng mà xã hội và các cấp chính quyền đang rất  quan tâm. Nghiên cứu về chất lượng cuộc sống tại thành phố Cần Thơ nhằm đưa ra cái nhìn tổng quát và giúp  các cấp chính quyền có những chính sách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Mục  tiêu  nghiên  cứu: đánh giá chất lượng cuộc sống cùng với 4 khía cạnh chính (sức khỏe thể chất, sức  khỏe tâm thần, quan hệ xã hội và môi trường) cùng với các yếu tố dân số xã hội (tuổi, giới, trình độ học vấn, thu  nhập ổn định...).

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả với 383 người dân trên 18 tuổi sống tại 5 phường của quận

Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ được phỏng vấn từ tháng 6/2011 đến tháng 07/2011.

Kết quả nghiên cứu: Trong tổng số 383 người tham gia nghiên cứu, nữ (54,6%) chiếm đa số hơn nam với  độ tuổi trung bình là 40,76 ± 1,37. Đối tượng học hết trung học cơ sở chiếm đa số (2,0%), với nghề nghiệp buôn  bán chiếm cao nhất (18,3%). Đối tượng tự đánh giá thu nhập bản thân ổn định (54,6%). Về chất lượng cuộc  sống, đa số người dân hài lòng với mức độ “trung bình” (38,6%) và “tốt” cũng khá cao (32,9%). Đa số người  dân hài lòng với sức khỏe hiện tại (43,6%). Về mối tương quan giữa các khía cạnh của chất lượng cuộc sống với  các đặc điểm dân số xã hội, tuổi, trình độ học vấn và thu nhập ổn định có tương quan mạnh với tất cả 4 khía cạnh  (sức khỏe thể chất, tâm thần, quan hệ xã hội và môi trường). Trong khi đó, chỉ có giới và tình trạng hôn nhân có  tương quan mạnh chỉ với khía cạnh sức khỏe tâm thần.

Kết luận: Người dân thành phồ Cần Thơ có chất lượng cuộc sống tốt với mức độ tốt và trung bình. So sánh  với nghiên cứu tại TPHCM, người dân Thành phố Cần Thơ có điểm số quan hệ xã hội thấp so với TPHCM,  nhưng điểm số sức khỏe thể chất, tâm thần và môi trường cao hơn TPHCM.

Từ khóa: chất luợng cuộc sống, Cần Thơ

ABSTRACT

QUALITY OF LIFE OF PEOPLE LIVING IN NINH KIEU DISTRICT, CAN THO CITY, 2011

Phung Duc Nhat, Diep Thi Thuy Van, Ha Vo Van Anh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 428 ‐ 434

Background:  Quality  of  life  is  an  important  aspect  which  has  been  most  considered  by  society  and  government.  Study  on  quality  of  life  at  Can  Tho  city  was  conducted  to  have  an  in‐depth  vision  and  help  government to make policies to improve quality of life of Can Tho people.

Objectives: to determine quality of life with its four aspects (physical, psychological, social relationship and

environment) and some demographics information (age, gender, educational status, stable income status...)

Method: a cross‐sectional study was applied. 383 participants who was aged at 18 and over and living at 5

wards of Ninh Kieu district, Can Tho city, were interviewed from June to July, 2011.

Results: Of the total 383 participants, female (54,6%) was more prevalent than male, with a mean age of

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths.BS. Phùng Đức Nhật   ĐT: 0918103404

Email: phungducnhat@ihph.org.vn

427

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  40,76 ± 16,37. Most respondents participating in this study graduated secondary school (24,0%), and was doing  business (18,32%). Moreover, 54,6% of participants self‐assessed stable income. Most participants satisfied their  quality of life with “average” and “good” level (38,6% and 32,9%, respectively), as well as their health with high  proportion  (43,6%).  In  terms  of  the  correlation  between  four  aspects  of  quality  of  life  and  some  demographic  characteristics,  age,  educational  and  stable  economic  status  had  a  strong  correlated  with  all  four  aspects.  In  addition, there was a significant difference between gender, marriage status and the psychological aspect.

Conclusion: People living at Can Tho city had “good” and “average” level of quality of life. In comparison  with  the  quality  of  life  at  Ho  Chi  Minh  city,  while  people  living  at  Can  Tho  city  had  a  lower  score  of  social  relationship than those living at Ho Chi Minh city, the score of physical, psychological and environment were  higher than Ho Chi Minh city.

Keyword: quality of life, Can Tho

ĐẶT VẤN ĐỀ

Năm  2005,  Việt  Nam  được  xếp  thứ  61  về  chất lượng cuộc sống(13). Tuy nhiên, thước đo sức  khỏe chỉ dựa trên kỳ vọng sống lúc sinh. Do đó,  nghiên  cứu  về  chất  lượng  cuộc  sống  dựa  trên  định  nghĩa  của  WHO  năm  1998  về  chất  lượng  cuộc sống nêu trên có thể góp phần đưa ra góc  nhìn  rộng  hơn  về  chất  lượng  cuộc  sống  của  người dân từng vùng khác nhau tại Việt Nam.

Chất  lượng  cuộc  sống  là  những  cảm  nhận  của  từng  cá  nhân  về  vị  trí  của  bản  thân  trong  cuộc  sống,  dựa  trên  hoàn  cảnh  văn  hóa  và  hệ  thống  các  giá  trị  sống,  có  liên  hệ  với  các  mục  đích, kỳ vọng, tiêu chuẩn và mối liên quan của  cá  nhân  đó.  Định  nghĩa  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO)  nhấn  mạnh  sự  đa  dạng  và  khác  nhau  về  góc  nhìn  chất  lượng  cuộc  sống  ở  từng  cá nhân, cũng như khả năng tồn tại của các yếu  tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nhóm  thực hiện dự án đánh giá chất luợng cuộc sống  đã đi đến kết luận rằng các lĩnh vực sức khỏe thể  chất,  tâm  thần,  mối  quan  hệ  xã  hội  và  môi  trường  là  một  trong  số  các  lĩnh  vực  chính  khi  đánh giá chất lượng cuộc sống(7).

Năm  2009  và  2010,  nghiên  cứu  chất  lượng  cuộc sống được thực hiện lần lượt tại thành phố  Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương dựa trên định  nghĩa  của  WHO  về  chất  lượng  cuộc  sống.  Sự  thay  đổi  không  ngừng  của  các  yếu  tố  xã  hội  quyết định sức khỏe hàng năm cho thấy sự cần  thiết  trong  tiếp  tục  đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống của người dân trong năm 2011 tại khu vực  phía Nam.

Nghiên cứu gần đây ở Kuwait bằng cách sử  dụng  Bảng  đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống  thu  gọn (WHOQOL‐BREF) báo cáo rằng trầm cảm là  quan trọng nhất dự đoán chất lượng cuộc sống  (chiếm  hơn  77%)  tổng  phương  sai  quan  sát(8).  Tuy nhiên, một nghiên cứu của Hàn Quốc phát  hiện  ra  rằng  sức  khỏe  thể  chất  đóng  góp  phần  lớn cho chất lượng cuộc sống trong khi lĩnh vực  xã  hội  là  đóng  góp  ít  nhất(6).  Ngoài  ra,  một  nghiên cứu cắt ngang ở người lớn tại Nhật Bản  (2008) về mối quan hệ giữa tin tưởng cá nhân và  WHOQOL‐BREF.  Sự  tin  tưởng  được  đánh  giá  bằng  cách  sử  dụng  ba  quy  mô  tin  tưởng  con  người,  sự  công  bằng  trong  con  người  và  bản  chất con người(12).

Theo nghiên cứu về chất lượng cuộc sống ở  quận  5,  TPHCM  năm  2009(3),  đàn  ông  đánh  giá  cao  chất  lượng  cuộc  sống  hơn  phụ  nữ.  Tỷ  lệ  những  người  đàn  ông  đồng  ý  rằng  chất  lượng  cuộc sống được tốt là 84,3%, so với 80,8% số phụ  nữ cảm thấy như nhau. Đàn ông cũng hài lòng  hơn với sức khỏe của mình so với phụ nữ (84%  so với 71,2%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống  kê (p <0,05). Các nhóm có  trình độ học vấn đại  học có chất lượng giấc ngủ thấp so với các nhóm  có  trình  độ  học  vấn  cấp  1  (81,8%  so  với  70%).  Điều  này  cho  thấy  trình  độ  học  vấn  cao  có  xu  hướng gây ra mức độ cao hơn của sự lo lắng về  cuộc sống và làm việc. Sự khác biệt là đáng kể (p  <0,05).  Các  cá  nhân  có  học  thức  cao  hơn  có  xu  hướng hài lòng với chất lượng cuộc sống nhiều

428

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hơn và cảm thấy được hưởng cuộc sống  ở  một  mức  độ  thỏa  đáng  hơn  các  nhóm  còn  lại.  Sự  khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (p <0,05).

Theo nghiên cứu mới nhất được tiến hành ở  Thị  xã  Thủ  Dầu  Một,  tỉnh  Bình  Dương  năm  2010(9) cho thấy:

Nhóm  đối  tượng  có  trình  độ  giáo  dục  cao  hơn  thì  có  cảm  giác  đau  đớn  về  thể  xác  là  nguyên  nhân  ngăn  cản  họ  thực  hiện  điều  họ  muốn  làm  cao  hơn  (97,9%  so  với  89,2%  và  77,3%) sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p =  0,007).

Thành phố Cần Thơ là 1 trong các đô thị trực  thuộc quản lý của Trung ương ở khu vực đồng  bằng sông Cửu Long với tốc độ đô thị hóa, hiện  đại hóa cao. Với tốc độ phát triển kinh tế xã hội,  chất lượng cuộc sống của người dân tại khu vực  thành thị của Cần Thơ cụ thể ở 04 lĩnh vực sức  khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, các mối quan  hệ xã hội và môi trường như thế nào? Liệu rằng  có mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống và các  đặc  điểm  dân  số  đặc  thù  tại  Cần  Thơ  không?  Xuất  phát  từ  lý  do  đó,  nhóm  nghiên  cứu  thực  hiện  đề  tài  “Nghiên  cứu  chất  lượng  cuộc  sống  của người dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần  Thơ năm 2011”.

Mục tiêu nghiên cứu

Đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống  của  người  dân  sống  tại  quận  Ninh  Kiều  thành  phố  Cần  Thơ năm 2011, trên 4 lĩnh vực:

Trình độ học vấn tỷ lệ nghịch với sự hài lòng  với việc tiếp cận các dịch vụ y tế, nghĩa là trình  độ học vấn càng cao thì sự hài lòng với việc tiếp  cận  các  dịch  vụ  y  tế  càng  giảm  (58,9%  so  với  61,0% và 82,7%), khác biệt này có ý nghĩa thống  kê (p = 0,01).

Thể  chất:  có  tổn  thương,  có  cảm  thấy  thoải  mái, có đủ năng lượng cho cuộc sống hàng ngày,  cảm giác mệt mỏi, giấc ngủ, nghỉ ngơi, khả năng  vận động hàng ngày.

Tâm  thần:  cảm  giác  âm  tính,  suy  nghĩ,  trí  nhớ,  sự  tập  trung  tinh  thần,  cảm  nhận  về  hình  thể cá nhân, cảm giác dương tính, trạng thái tinh  thần.

Nhìn  chung  những  người  có  thu  nhập  ổn  định có đời sống tinh thần tốt hơn người có thu  nhập  không  ổn  định.  Người  có  thu  nhập  ổn  định nhận thức cuộc sống của mình có ý nghĩa  hơn người không có thu nhập ổn định (38% so  với  12,7%),  có  khả  năng  tập  trung  cao  hơn  (85,7%  so  với  50,0%)  và  cảm  thấy  hài  lòng  với  chính  mình  hơn  (85,6%  so  với  67,1%).  Và  họ  thường ít có cảm xúc tiêu cực hơn (86,9% so với  75,0%).  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05).

Những mối quan hệ xã hội: mối quan hệ cá  nhân,  hỗ  trợ  về  mặt  xã  hội,  đời  sống  tình  dục  (mối quan hệ với bạn tình).

Môi trường: mức độ an toàn về thể chất, môi  trường  sống,  an  toàn  về  tài  chính,  tiếp  cận  sử  dụng dịch vụ sức khỏe, khả năng cập nhật thông  tin, hoạt động giải trí, thoải mái về giao thông và  đi lại.

Xác  định  mối  liên  quan  giữa  đặc  tính  mẫu  nghiên cứu và 04 lĩnh vực chất lượng cuộc sống:  sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, quan hệ xã  hội và môi trường.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dân số mục tiêu

Tất cả người dân trên 18 tuổi sống tại thành

Với  tình  hình  ngày  càng  đẩy  mạnh  đô  thị  hóa  khiến  người  dân  càng  tập  trung  nhiều  về  các thành phố lớn. Do đó, ít nhiều cũng làm ảnh  hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân  tại  khu  đô  thị.  Nhằm  nghiên  cứu,  tìm  hiểu  và  đánh giá về chất lượng cuộc sống của người dân  tại khu vực thành thị tác giả đã thực hiện nghiên  cứu đề tài này tại Thành phố Hồ Chí Minh năm  2009 và tại thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương  năm  2010.  Năm  2011  tiếp  tục  nghiên  cứu  thêm  tại  thành  phố  Cần  Thơ  là  một  trong  những  đô  thị phát triển thuộc khu vực miền Tây Nam bộ  nhằm bổ sung và khẳng định thêm những luận  cứu đã nghiên cứu trước đây.

phố Cần Thơ.

429

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Dân số chọn mẫu

Người  dân  trên  18  tuổi  sống  tại  quận  Ninh

Kiều, thành phố Cần Thơ.

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2011

đến tháng 12/2011.

60%, kế đến là người độc thân (32,6%), còn lại là  các đối tượng chiếm tỷ lệ rất thấp như góa, ly dị,  sống chung chưa chính thức, và ly thân. Về nghề  nghiệp của các đối tượng tham gia trong nghiên  cứu này, chiếm cao nhất là buôn bán (18,3%), kế  đến lần lượt là nhân viên văn phòng (17,5%) và  nội trợ (17,2%). Tỉ lệ đối tượng tham gia nghiên  cứu thất nghiệp không cao (2,1%). Trong nghiên  cứu,  đối  tượng  tự  đánh  giá  thu  nhập  bản  thân  ổn định (54,6%) chiếm tỉ lệ cao hơn đối tượng tự  đánh  giá  thu  nhập  bản  thân  không  ổn  định  (45,4%).

Với  cỡ  mẫu  là  382  được  tính  từ  công  thức  tính  cỡ  mẫu  một  tỷ  lệ  (p  =  0.46),  Chọn  ngẫu  nhiên 5 phường của quận Ninh Kiều thành phố  Cần Thơ, gồm phường Cái Khế, An Nghiệp, An  Phú, Hưng Lợi và An Khánh. Mỗi phường chọn  77 hộ và phỏng vấn 01 người trên 18 tuổi của hộ  đó.

Bộ  câu  hỏi  cấu  trúc  gồm  26  câu  dịch  từ  bộ  câu hỏi WHOQOL‐BREF, nguyên bản tiếng Anh  của  WHO  trong  đó  có  4  khía  cạnh  của  cuộc  sống. Những khía cạnh này bao gồm: sức khỏe  thể chất,  sức  khỏe  tâm  thần,  quan  hệ  xã  hội  và  môi trường.

Nhập liệu bằng phần mềm EpiData 3.02.

Về  khía  cạnh  tự  đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống của bản thân trong vòng 04 tuần vừa qua,  đa số người trả lời phỏng vấn tự đánh giá mức  “trung  bình”  (38,6%).  Trong  khi  đó,  tỉ  lệ  đối  tượng  đánh  giá  cuộc  sống  bản  thân  có  chất  lượng “tốt” khá cao (32,9%). Đáng lưu ý là các cá  nhân tự đánh giá chất lượng cuộc sống bản thân  ở mức “kém” là 14,1%, “rất kém” là 4,2%.

Về  tình  trạng  sức  khỏe  của  bản  thân,  đa  số  người dân hài lòng với sức khỏe hiện tại (43,6%).  Tuy vậy, đáng lưu ý là vẫn có tỉ lệ khá cao các  đối tượng không hài lòng về sức khỏe bản thân  (28,9%).

Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0,  mô  tả  số  liệu  bằng  tần  số,  tỷ  lệ  phần  trăm  (%).  Dùng kiểm định chi bình phương, ANOVA một  chiều,  Cronbach’s  alpha,  trong  thống  kê  phân  tích sử dụng PR, PR có ý nghĩa khi p < 0,05 với  khoảng tin cậy (KTC) 95%.

Bảng 1: Điểm số trung bình WHOQOL‐BREF ở 04  lĩnh vực chất lượng cuộc sống (n=383)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Từ bảng số liệu trên cho thấy điểm số trung  bình ở lĩnh vực quan hệ xã hội (66,43 ± 16,99) cao  hơn  các  lĩnh  vực  khác.  Trong  khi  đó,  lĩnh  vực  sức  khỏe  tâm  thần  có  điểm  số  trung  bình  thấp  nhất  (54,93  ±  12,45).  Điểm  số  trung  bình  ở  lĩnh  vực sức khỏe thể chất (57,13 ± 11,12) gần tương  tự với điểm số trung bình ở lĩnh vực môi trường  (58,56 ± 14,78).

Trong tổng số 383 mẫu ngẫu nhiên chọn từ 5  phường  của  quận  Ninh  Kiều,  209  đối  tượng  là  nữ, chiếm đa số (54,6%), cao hơn so với nam. Độ  tuổi trung bình của dân  số  mẫu  nghiên  cứu  tại  thành  phố  Cần  Thơ  là  40,76  ±  16,37,  với  đối  tượng lớn tuổi nhất tham gia nghiên cứu rơi vào  độ  tuổi  83.  Về  trình  độ  học  vấn,  đối  tượng  chỉ  đạt  bậc  Trung  học  cơ  sở  chiếm  đa  số  (24,0%).  Ngoài  ra,  vẫn  còn  4,2%  người  được  phỏng  vấn  chưa  từng  đi  học  trước  đó  (hay  mù  chữ).  Đối  tượng  đang  ở  bậc  trình  độ  cao  đẳng  trở  lên  chiếm  tỉ  lệ  khá  cao  (22,7%).  Về  tình  trạng  hôn  nhân, người đã kết hôn chiếm tỉ lệ cao nhất gần

Lĩnh vực Sức khỏe thể chất Sức khỏe tâm thần Quan hệ xã hội Môi trường Trung bình ± SD 57,13 ± 11,12 54,93 ± 12,45 66,43 ± 16,99 58,56 ± 14,78

Bảng 2: Mối tương quan giữa đặc tính mẫu và điểm số thuộc 4 lãnh vực chất lượng cuộc sống (n=383)

Sức khỏe thể chất Sức khỏe tâm thần Quan hệ xã hội

Đặc tính Tuổi Pearson’s r * -0,116 *** -0,217 *** -0,162 Môi trường -0,014

430

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Sức khỏe thể chất Sức khỏe tâm thần Quan hệ xã hội

Đặc tính Giới Nam Nữ Trình độ học vấn Không đi học Cấp 1 (Tiểu học) Cấp 2 (THCS) Cấp 3 (PTTH) Trung học nghề Cao đẳng/ ĐH Trung bình ± SD Trung bình ± SD Tình trạng hôn nhân Trung bình ± SD 56,32 (10,62) 57,81 (11,50) * 53,12 (13,97) 55,67 (11,67) 55,86 (11,05) 60,01 (9,42) 55,02 (13,57) 58,83 (9,93) 58,46 (10,07) *** 57,23 (11,90) 53,01 (12,59) *** 43,75 (15,96) 52,60 (13,49) 52,58 (10,44) 55,43 (12,22) 55,60 (12,90) 60,92 (9,99) *** 57,87 (10,45) 67,48 (15,97) 65,55 (17,79) *** 50,00 (21,73) 64,58 (16,27) 66,58 (14,69) 67,21 (18,02) 65,62 (20,16) 70,59 (15,08) * 68,67 (14,98) Môi trường 57,47 (15,45) 59,46 (14,17) * 48,24 (19,99) 58,51 (14,94) 57,88 (14,26) 59,00 (12,47) 56,54 (20,05) 61,57 (12,98) 60,77 (13,67)

56,65 (11,25) 53,95 (12,64) 65,95 (17,70) 57,34 (15,10)

55,08 (11,12) 49,52 (16,34) 59,94 (18,26) 58,77 (16,15)

Trung bình ± SD *** *** *** ***

*** < p=0,001; ** < p = 0,01; * < p = 0,05.

Thông qua hệ số tương quan r biểu hiện rõ  mối  tương  quan  nghịch  giữa  tuổi  và  các  lĩnh  vực.  Cụ  thể  là,  khi  số  tuổi  tăng,  điểm  số  ở  các  lĩnh vực sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần và  quan hệ xã hội giảm, và ngược lại.

Xét về tình trạng tài chính ổn định, điểm số  trung bình trong 04 lĩnh vực sức khỏe thể chất,  sức  khỏe  tâm  thần,  quan  hệ  xã  hội  và  môi  trường  của  nhóm  thu  nhâp  không  ổn  định  có  tính  khác  biệt  mang  ý  nghĩa  thống  kê  so  với  nhóm cho rằng thu nhập bản thân ổn định (p <  0,05). Nhóm có thu nhập không ổn định có điểm  số sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, quan hệ  xã  hội  và  môi  trường  lần  lượt  thấp  hơn  so  với  nhóm có thu nhập ổn định.

Nam  giới  có  điểm  số  trung  bình  trong  lĩnh  vực  sức  khỏe  tâm  thần  (57,23)  cao  có  ý  nghĩa  thống kê hơn giới nữ (53,01). Ngoài ra, không có  sự  khác  biệt  nào  mang  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  điểm số trung bình của các lĩnh vực còn lại giữa  nam và nữ (p > 0,05).

Độc thân Kết hôn/ Sống chung chưa chính thức Ly thân/ Ly dị/Góa Tình trạng thu nhập ổn định Có Không 59,04 (10,24) 54,84 (11,72) 57,56 (10,65) 51,77 (13,68) 69,02 (14,69) 63,31 (18,98) 62,36 (12,62) 53,99 (15,88)

BÀN LUẬN

Không  có  sự  khác  biệt  nào  mang  ý  nghĩa  thống kê về điểm số sức khỏe thể chất giữa bất  kỳ 2 nhóm trình độ học vấn nào.

Có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa  điểm  số  Sức  khỏe  tâm  thần  và  tình  trạng  hôn  nhân. Trong đó, đối tượng độc thân có điểm số  sức  khỏe  tâm  thần  lần  lượt  cao  hơn  nhóm  Kết  hôn/  Sống  chung  chưa  chính  thức,  và  nhóm  ly  thân/ ly dị/ góa.

Điểm số các mối quan hệ xã hội và tình  trạng  hôn  nhân  có  sự  khác  biệt  mang  ý  nghĩa  thống kê. Trong đó, đối tượng độc thân có điểm  số  Quan  hệ  xã  hội  cao  mang  ý  nghĩa  thống  kê  hơn đối tượng ly thân/ ly dị/ góa.

Xét  về  giới  và  chất  lượng  cuộc  sống,  tại  thành phố Cần Thơ, nam giới có xu hướng hài  lòng  về  sức  khỏe  tâm  thần  cao  hơn  so  với  nữ  giới.  Thật  vậy,  trong  nghiên  cứu  thực  nghiệm  tại  23  nước  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO)  đã  cho  kết  quả  tương  tự  như  tại  thành  phố  Cần  Thơ(10).  Tuy  nhiên,  không  tìm  thấy  mối  liên hệ về giới và Sức khỏe tâm thần trong một  số  nghiên  cứu  khác  như  tại  Hà  Lan  và  Đài  Loan(14,2)  trên  những  bệnh  nhân  đang  điều  trị  ngoại trú tại 1 trung tâm sức khỏe tâm thần ở  Hà  Lan  và  trong  nghiên  cứu  trên  đối  tượng  người  chăm  sóc  trẻ  thiểu  năng  tại  Đài  Loan.  Việc khác nhau về điểm số sức khỏe tâm thần

431

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

quyết định sức khỏe tâm thần và các mối quan  hệ xã hội.

Nghiên cứu Y học  giữa hai giới tại thành phố Cần Thơ có thể do  mức  độ  hoàn  thành  các  mục  tiêu  trong  cuộc  sống  giữa  hai  giới  khác  nhau.  Các  yếu  tố  ảnh  hưởng  cho  sự  khác  nhau  này  là  văn  hóa,  sự  khác  nhau  trong  tiếp  cận  các  nguồn  lực  và  cơ  hội(12). Nữ giới tại thành phố Cần Thơ có thể đã  có  ít  nguồn  lực  và  cơ  hội  để  hoàn  thành  các  mục tiêu trong cuộc sống của họ hơn nam giới,  do  đó  kém  hài  lòng  hơn  trong  lĩnh  vực  Sức  khỏe tâm thần.

Xét  về  tình  trạng  hôn  nhân  và  chất  lượng  cuộc  sống,  chỉ  có  sự  khác  biệt  mang  ý  nghĩa  thống kê giữa tình trạng hôn nhân và sức khỏe  tâm  thần.  Những  người  đã  kết  hôn  thường  có  đời  sống  sức  khỏe  tâm  thần  tốt  hơn  so  với  các  nhóm  khác(1,5).  Trong  một  nghiên  cứu  trên  đối  tượng  đang  điều  trị  ngoại  trú  bệnh  trầm  cảm,  tình trạng hôn nhân cũng được tìm thấy là yếu  tố  ảnh  hưởng  đến  điểm  số  lĩnh  vực  môi  trường(11).  Giả  thuyết  có  thể  đặt  ra  rằng  tình  trạng hôn nhân có thể cải thiện quan điểm nhận  thức của cá nhân  người  bệnh  trầm  cảm  về  môi  trường(11)  và  qua  đó  cũng  cải  thiện  vấn  đề  sức  khỏe tâm thần cho cộng đồng nói chung. Những  nghiên  cứu  xa  hơn  có  thể  tiếp  tục  thực  hiện  nhằm  xác  định  những  nhóm  tình  trạng  hôn  nhân nào có điểm số sức khỏe tâm thần cao hơn  so với các nhóm khác.

Xét  về  tuổi  và  chất  lượng  cuộc  sống,  người  lớn tuổi hơn có xu hướng kém hài lòng hơn về  mặt  Sức  khỏe  thể  chất,  Sức  khỏe  tâm  thần  và  Quan hệ xã hội. Tương tự, Trompenaars và cộng  sự  (2005)  cũng  đưa  ra  mối  tương  quan  nghịch  giữa tuổi và 02 lĩnh vực: sức khỏe thể chất, quan  hệ xã hội. Skevington và cộng sự (2004) cũng tìm  thấy kết quả rằng điểm trung bình ở cả 04 lĩnh  vực có xu hướng giảm dần ở nhóm người có độ  tuổi cao hơn; đặc biệt xu hướng này thấy rõ nhất  ở lĩnh vực Sức khỏe thể chất.

Theo  Longford  và  Pittau  (2006),  tình  trạng  ổn định lý tưởng của thu nhập khi mức tăng thu  nhập hàng năm của từng cá nhân tương đương  trung  bình  lạm  phát  của  quốc  gia  đó(4).  Do  đó,  nhiều  nghiên  cứu  chọn  mức  thu  nhập  để  đánh  giá  tài  chính  của  cá  nhân  hay  gia  đình(2);  đa  số  chọn thu nhập là biến thứ hạng: thấp, trung bình  và  cao;  một  số  trường  hợp  chọn  biến  khoảng  chia  dựa  trên  số  lượng  tiền  thu  nhập  ước  tính.  Tuy  nhiên,  trong  nghiên  cứu  tại  thành  phố  Hồ  Chí Minh(3), Bình Dương năm 2010(9) và Cần Thơ  năm 2011, tài chính của cá nhân được đánh giá  thông  qua  sự  ổn  định  của  thu  nhập,  và  tình  trạng ổn định phụ thuộc vào nhận thức cá nhân.  Kết quả từ một số nghiên cứu trước đó cho thấy  thu  nhập  được  tìm  thấy  có  liên  quan  đến  chất  lượng cuộc sống, cụ thể là với các mối quan hệ  xã hội. Tương tự, kết quả nghiên cứu tại  thành  phố Cần Thơ cũng cho thấy nhóm thu nhập ổn  định  có  sức  khỏe  thể  chất,  sức  khỏe  tâm  thần,  quan  hệ  xã  hội  và  môi  trường  cao  hơn  so  với  nhóm có thu nhập không ổn định. Như vậy tài  chánh hay thu nhập cá nhân/ hộ gia đình là yếu

Xét về trình độ học vấn và chất lượng cuộc  sống, đối tượng ở bậc trình độ học vấn cao nhất  có chất lượng cuộc sống cụ thể là sức khỏe tâm  thần  tốt  so  với  các  trình  độ  học  vấn  thấp  hơn.  Nghiên  cứu  của  Skevington  và  cộng  sự  (2010)  cũng cho kết quả tương tự, cụ thể là chất lượng  cuộc sống của đối tượng tốt nghiệp cao đẳng/đại  học  tốt  hơn  so  với  đối  tượng  tốt  nghiệp  trung  học  (từ  11  tuổi  đến  18  tuổi)  tại  các  nước  kém  phát triển. Trong nghiên cứu của Skevington và  cộng  sự  năm  2010  này,  kết  quả  cho  thấy  nhóm  không qua bậc giáo dục nào có chất lượng cuộc  sống thấp hơn bất kỳ nhóm ở trình độ học vấn  cao hơn, bao gồm cả nhóm đối tượng ở trình độ  tương  đương  tiểu  học  tại  Việt  Nam.  Điều  này  tương tự với kết quả tìm thấy trong nghiên cứu  về  chất  lượng  cuộc  sống  người  dân  tại  quận  Ninh Kiều; cụ thể là nhóm không đi học có quan  hệ xã hội kém hơn so với các nhóm có trình độ  học  vấn  cao  hơn.  Lĩnh  vực  môi  trường  và  sức  khỏe  thể  chất  giữa  các  nhóm  trình  độ  học  vấn  khác nhau. Như vậy, trình độ học vấn là yếu tố

432

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

chương trình chăm sóc sức khỏe, và các chương  trình phúc lợi xã hội khác

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  tố quan trọng và ổn định trong việc quyết định  chất lượng cuộc sống của từng cá nhân.

KIẾN NGHỊ

Qua  kết  quả  nghiên  cứu  nêu  trên,  nhóm

nghiên cứu có đưa ra các đề xuất:

Mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của  người  dân  tại  thành  phố  Cần  Thơ  đòi  hỏi  tính  dài hạn, chiến lược mang tính bền vững với sự  hợp tác được duy trì đầy đủ, xuyên suốt của các  ban  ngành  liên  quan,  không  chỉ  riêng  ngành  y  tế.

Xin chân thành cám ơn sự tài trợ của Tổ chức Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong  việc  thực  hiện  nghiên  cứu  này

Kết  quả  cho  thấy  yếu  tố  giáo  dục  là  quan  trọng  trong  nâng  cao  chất  lượng  cuộc  sống  người dân. Các giải pháp cải cách và đầu tư về  giáo  dục  cho  người  dân  để  góp  phần  nâng  cao  chất  lượng  cuộc  sống  hứa  hẹn  khả  thi  và  hiệu  quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

life

‘Quality  of

3.

4.

Dupree  ME.  &  Meadows  SO.  n.d.  (2011),  Decomposing  the  effects  of  marital  trajectories  on  health:  A  discrete‐time  analysis  of  transitions,  duration,  sequencing  and  timing  across the life course, viewed 7 Dec.   Jin‐Ding  L,  Hu  J,  Chia‐Feng  Y,  Shang‐Wei  H,  Lan‐Ping  L,  Ching‐Hui L, Mei‐Hua C, Sheng‐Ru W, Chu CM, Jia‐Ling W  in  caregivers  of  children  and  (2009),  adolescents  with  intellectual  disabilities:  Use  of  WHOQOL‐ BREF survey’, Research in Developmental Disabilities, vol.30,  pp.1448‐1458.  Lê Hoàng Ninh và cộng sự (2009), Nghiên cứu về chất lượng  cuộc  sống  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  Việt  Nam  năm  2009,  Chuyên đề Các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe 2009.  Longford  NT.  &  Pittau  MG.  (2006),  ‘Stability  of  household  income  in  European  countries  in  the  1990s’,  Computational  Statistics & Data Analysis, vol.51, pp.1364‐1383.

5. Marks NF. & Lambert JD. (1998), ‘Marital status contiuity and  change among young and midlife  adults’,  Journal  of  Family  Issues, vol.19, no.6, pp.652‐86.

Yếu  tố  quan  trọng  nhất  ảnh  hưởng  chất  lượng  cuộc  sống  về  mặt  sức  khỏe  thể  chất,  sức  khỏe tâm thần là đảm bảo thu nhập đủ cho nhu  cầu cuộc sống. Người có thu nhập ổn định có xu  hướng  có  chất  lượng  cuộc  sống  cao  hơn  hẳn  người có thu nhập không ổn định. Vì vậy nhóm  nghiên  cứu  đề  xuất  địa  phương  có  chiến  lược  dài  hạn  trong  hoạch  định  chính  sách  liên  quan  đến vấn đề an sinh xã hội như tạo công ăn việc  làm ổn định, hỗ trợ hệ thống chăm sóc sức khỏe  ban đầu, hỗ trợ thu nhập ổn định cho lao động  hợp pháp, duy trì và cải tiến độ phủ của các quỹ  xóa đói giảm nghèo, cũng như các hoạt động, cơ  sở  vật  chất  phục  vụ  nhu  cầu  giải  trí  tiếp  cận  thông tin của các đối tượng khác nhau.

6. Min SK, Kim KI, Lee CI, Jung YC, Suh SY. & Kim DK.(2002),  ‘Development of the Korean versions of WHO Quality of Life  scale and WHOQOL‐BREF’, Quality of life  research,  vol.  11,  no. 6, pp.593‐600.

8.

9.

Môi trường thông qua các khía cạnh như tạo  cảm  giác  an  toàn  cho  người  dân,  tăng  tính  tiếp  cận trong cải tiến chất lượng dịch vụ y tế, và an  sinh xã hội, cải tiến môi trường thể chất và nơi  sinh  sống  cho  cộng  đồng  cũng  là  yếu  tố  quan  trọng trong cuộc sống người dân. Khi thiết kế đô  thị tại quận Ninh Kiều, cần chú ý các khía cạnh  của môi trường nêu trên nhằm tạo điều kiện cho  người  dân  chủ  động  nâng  cao  chất  lượng  cuộc  sống.

10.

11.

Chính quyền và các ban ngành đoàn thể  tại  thành  phố  Cần  Thơ  cần  bảo  đảm  tính  công  bằng  trong  chất  lượng  cuộc  sống  giữa  các  giới,  nhóm  tuổi  và  nhóm  điều  kiện  kinh  tế  xã  hội  khác  nhau  cần  được  đánh  giá  đúng  mức  trong  việc  lên  kế  hoạch  phát  triển  và  cải  cách  các

7. Murphy B, Herrman H, Hawthorne G., Pinzone T. & Evert H.  (2000), Australian WHOQOL instruments: User’s Manual and  Interpretation  Guide,  Australian  WHOQOL  Field  Study  Centre, Melbourne, Australia.   Ohaeri  JU,  Awadalla  AW.  &  Gado  OM.  (2009),  ‘Subjective  quality  of  life  in  a  nationwide  sample  of  Kuwaiti  subjects  using  the  short  version  of  the  WHO  quality  of  life  instrument’, Social Psychiatry and Psychiatric epidemiology,  vol. 44, no. 8, pp.693‐701.  Phùng  Đức  Nhật  và  cộng  sự  (2010),  Nghiên  cứu  về  chất  lượng  cuộc  sống  tại  tỉnh  Bình  Dương,  Việt  Nam  năm  2010,  Báo  cáo  kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  khoa  học  cấp  cơ  sở  năm  2010, Viện Vệ sinh – Y tế công cộng TP.Hồ Chí Minh.  Skevington SM (2010), ‘Qualities of life, educational level and  human development: an international investigation of health’,  Soc Psychiat Epidemiol, vol. 45, pp. 999‐1009.  Su‐Ching S, Mei‐Yu Y(2007), ‘Factors related to quality of life  in depressive outpatients in Taiwan’, Psychiatry and Clinical  Neurosciences, vol. 61, pp.610‐615.

433

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  12. Tokuda  T,  Jimba  M,  Yanai  H,  Fujii  S,  Inoguchi  T.  (2008),  ‘Interpersonal  Trust  and  Quality  of  Life  :  A  Cross‐  Sectional  study in Japan’, PLoSOne, vol.3, iss. 12, e3985, pp.1‐10.  13. The  economist  intelligence  unit  (2005),  The  Economist

Intelligence Unit’s quality of life index, viewed 10 Dec 2011.

14. Trompenaars  FJ,  Masthoff  ED,  Van  HGL,  Hodiamonth  PP.,  De  VJ  (2005),  ‘Relationships  between  demographic  variables  and quality of life in a population of Dutch adult psychiatric  outpatients’,  Soc  Psychiatry  Psychiatr  Epidemiol,  vol.40,  pp.588‐594.

434

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐÁNH GIÁ CÔNG BẰNG Y TẾ VÀ CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG   TẠI BÀ RỊA – VŨNG TÀU, NĂM 2009 – 2010

Lê Hoàng Ninh*, Phùng Đức Nhật*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Urban HEART (đánh giá công bằng y tế và công cụ đáp ứng tại thành thị) là công cụ hữu ích  giúp các nhà hoạch định chính sách, chính quyền địa phương, các nhà quản lý chương trình trong tiến trình  hoạch định chính sách y tế. Bà Rịa – Vũng Tàu được chọn là địa điểm tiếp theo để triển khai nghiên cứu (sau  TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Bình Dương).

Mục  tiêu  nghiên  cứu:  Phát hiện khác biệt trong thực hiện chăm sóc sức khỏe ở 4 quận, huyện thuộc Bà  Rịa – Vũng Tàu và hỗ trợ các quận phát hiện các khoảng trống, yếu tố quyết định sức khỏe, nguy cơ về sức khỏe,  các ưu tiên và can thiệp cần thiết với sự tham gia của cộng đồng.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Sử dụng công cụ đánh giá công bằng y tế và công cụ đáp ứng tại thành thị

phiên bản 2 của Trung tâm phát triển y tế Kobe (Nhật) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Kết quả nghiên cứu: Bảng ma trận, bảng theo dõi so sánh giữa 4 huyện của Bà Rịa – Vũng Tàu và bảng

đáp ứng riêng cho từng huyện.

Kết luận: Công cụ đánh giá công bằng y tế và đáp ứng tại thành thị hữu ích cho ngành y tế và người

lập chính sách trong việc vận động ủng hộ và tạo ra chính sách tốt cho sức khỏe.

Từ khóa: Đánh giá công bằng y tế thành thị, công bằng y tế.

ABSTRACT

HEALTH EQUITY ASSESSMENT & RESPONSE TOOL IN BA RIA – VUNG TAU, 2010

Le Hoang Ninh, Phung Duc Nhat

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 435  ‐ 442

Background: Urban HEART (Urban Health Equity Assessment and Response Tool) is an effective tool  to help policy makers, local authorities, program managers in their policy making process to decide healthy  policies. Ba Ria – Vung Tau province has been chosen the next city to conduct the second version of Urban  HEART.

Objectives:  Identify differences in performances in 4 districts in Ba Ria – Vung Tau province  and  assist  these  districts  to  identify  gaps,  health  determinants  and  health  risks,  priorities  and  required interventions with the community participation.

Method:  Using  the  second  version  of  Urban  Health  Equity  Assessment  and  Response  Tool  of  WHO

Kobe Center of The World Health Organization (WHO).

Results: Matrix, monitor compare 4  districts in Ba Ria – Vung Tau province and Response tool

for each district.

Conclusion:  Urban HEART  is a useful tool for health sector and policy maker in advocate and create

healthy policies.

Keyword: Urban HEART, health equity.

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths.BS Phùng Đức Nhật

ĐT: 0918103404

Email: phungducnhat@ihph.org.vn

435

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đối tượng: các số liệu liên quan đến công

ĐẶT VẤN ĐỀ

bằng y tế tại địa phương.

Phương  pháp:  lập  bảng  ma  trận  theo  hướng  dẫn  của  Tổ  chức  y  tế  thế  giới  thực  hiện  các bước sau:

Urban  HEART  (đánh  giá  công  bằng  y  tế  và công cụ đáp ứng tại thành thị) là công cụ hữu  ích  giúp  các  nhà  hoạch  định  chính  sách,  chính  quyền  địa  phương,  các  nhà  quản  lý  chương  trình trong tiến trình hoạch định chính sách y tế.

Bước  1:  Xây  dựng  nhóm  công  tác  với  chuyên gia từ các cơ quan bên ngoài. VVSYTCC  thành lập nhóm làm việc chủ đạo. Viện mời các  chuyên gia  từ  các  ban  ngành  địa  phương  tham  gia vào nhóm làm việc của nghiên cứu.

Bước  2:  Xác  định  tập  hợp  các  chỉ  số  và    mốc  chuẩn  theo  địa  phương.  Bước  này  được  thực  hiện  bằng  cách  mời  các  chuyên  gia  đến  buổi họp đầu tiên để giới thiệu về khái niệm mới  (Urban HEART) và giới thiệu về các hoạt động  của nghiên cứu.

Công bằng y tế là một trong những mục    tiêu quan trọng mà dịch vụ chăm sóc sức khỏe  hướng  tới,  Viện  Vệ  sinh  Y  tế  công  cộng  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  (VVSYTCC)  đã  thực  hiện  nhiều  nghiên  cứu  liên  quan  đến  các  yếu  tố  xã  hội  quyết  định  sức  khỏe,  tập  trung  vào  công  bằng  y  tế.  Năm  2009,  VVSYTCC  triển  khai  nghiên cứu Urban HEART ở thành phố Hồ Chí  Minh từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2009. Khảo sát  ban  đầu  Urban  HEART  ở  thành  phố  Hồ  Chí  Minh đã đạt nhiều kết quả khả quan, góp phần  vào việc ra đời phiên bản thứ hai Urban HEART  (WHO 2009).

Bước  3:  Tập  hợp  số  liệu  liên  quan  và  có    giá  trị.  Được  chia  thành  ba  nhóm  đối  tượng:  chính  quyền  địa  phương,  trung  tâm  y  tế  dự  phòng quận, Sở lao động thương binh và xã hội.

Bà Rịa – Vũng Tàu được chọn là địa điểm  kế  tiếp  để  triển  khai  tiếp  tục  nghiên  cứu  của  phiên bản thứ hai, bắt đầu từ tháng 7 và kết thúc  vào  tháng  12  năm  2010.  Đa  số  các  hoạt  động  thuộc  nghiên  cứu  sẽ  tập  trung  đánh  giá  công  bằng    y  tế  tại  4  huyện/thành  phố  của  Bà  Rịa  –  Vũng  Tàu:  TP  Vũng  Tàu,  thị  xã  Bà  Rịa,  huyện  Long Điền và huyện Tân Thành.

Mục tiêu nghiên cứu

Bước 4: Chuyên gia của Viện có nhiệm vụ  chuẩn  bị  số  liệu  và  tạo  Bảng  ma  trận  cùng  với  Bảng  theo  dõi.  Bảng  ma  trận  và  Bảng  theo  dõi  dựa trên số liệu có sẵn đã thu thập ở giai đoạn  đầu từ bốn quận. Bảng ma trận và Bảng theo dõi  phác thảo sẽ được trình bày trong buổi gặp mặt  các  chuyên  gia  ở  Bà  Rịa  –  Vũng  Tàu.  Việc  xem  xét lại số liệu là hoạt động quan trọng của dự án  này,  đảm  bảo  số  liệu  thu  thập  chính  xác  và  có  giá trị.

1. Phát hiện khác biệt trong thực hiện chăm sóc  sức khỏe ở 4 huyện của Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Hai công cụ chính là bảng ma trận và bảng

theo dõi được sử dụng.

Bước 5: Đánh giá và xác định các khoảng  trống  trong  việc  chăm  sóc  sức  khỏe  và  chênh  lệch tình trạng sức khỏe của dân cư tại các quận  huyện  trên  địa  bàn.  Chuyên  gia  từ  Viện  thảo  luận với chuyên gia ở các quận về các tiêu chuẩn  (gồm chuẩn thành phố, chuẩn quốc gia) và cách  thức đánh giá Bảng ma trận và Bảng theo dõi.

3. Hỗ trợ các quận phát hiện các khoảng trống  trong chăm sóc sức khỏe, yếu tố quyết định  sức  khỏe,  nguy  cơ  về  sức  khỏe,  các  ưu  tiên  và  can  thiệp  cần  thiết  với  sự  tham  gia  của  cộng đồng.

4. Giúp nhà hoạch định chính sách và các bên  liên quan có hiểu biết về yếu tố xã hội quyết  định sức khỏe và yếu tố nguy cơ.

Bước  6:  Thảo  luận  nhóm  tìm  các  biện  pháp  đáp  ứng.  Lấy  ý  kiến  đóng  góp  của  các  chuyên  gia  địa  phương  để  hoàn  thiện  báo  cáo.  Tổ chức hội thảo trình bày báo cáo và thu nhận  phản hồi từ chuyên gia.

ĐỐI    TƯỢNG    ‐  PHƯƠNG    PHÁP    NGHIÊN   CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

436

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 1: Bảng ma trận đánh giá công bằng y tế tại Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam năm 2010

TP Vũng  Tàu

Thị xã   Bà Rịa

Huyện  Long Điền

Huyện  Tân Thành

Tỉ suất chết trẻ em dưới 1  tuổi

Tỉ  suất chết trẻ  em dưới 5  tuổi

Tỷ số chết mẹ

Tỷ  lệ  các  trường  hợp  mắc  lao  và  được  điều  trị  khỏi  bằng pp DOTS

ca  mới  mắc  Lao

Số  /100.000dân

tử  vong  Lao

ca  Số  /100.000dân

Các chỉ số  đầu ra sức  khỏe

Số  ca  hiện  mắc  HIV/AIDS  /100.000dân

Số  ca  tử  vong  HIV/AIDS  /100.000dân

Số  ca  hiện  mắc  Tâm  thần/100.000dân

Số vụ tai nạn giao thông  /100.000 dân

Cơ sở hạ  tầng   và  môi  trường

Số người bị thương do tai  nạn giao thông/100.000  dân  Số người tử vong do tai  nạn giao thông/100.000  dân  Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng  nước sạch

Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng  cầu tiêu hợp vệ sinh

Tỉ lệ hộ gia đình xử lý rác  đúng quy định

Tỉ lệ phổ cập THCS

437

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tỉ lệ đỡ sanh do nhân viên  y tế

Tỉ lệ trẻ em được tiêm  chủng đầy đủ

Biết đọc biết viết

Sự phát   triển   con   người và   xã hội

Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy  dinh dưỡng

Nuôi con bằng sữa mẹ

Sinh con ở độ tuổi <19

Nhẹ cân lúc sinh

Tỉ lệ thất nghiệp

Không có  số liệu

Không có   số liệu

Kinh   tế

Không có   số liệu

Quản trị

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn  quốc gia  Tỉ lệ phụ nữ tại nơi làm  việc  Tỉ lệ ngân sách dành cho y  tế  Tỉ lệ ngân sách dành cho  giáo dục  Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y  tế

Quy định màu sắc bảng ma trận

Màu vàng (màu nhạt): khi chỉ số nằm giữa mức trung  bình quốc gia và khu vực.

Màu xanh (màu trung bình): khi chỉ số đạt vượt  mức trung bình của quốc gia và khu vực

Màu đỏ (màu đậm): khi chỉ số thấp hơn mức  trung bình quốc gia và khu vực  Bảng 2: Công cụ đáp ứng tại TP Vũng Tàu

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP  Tỷ lệ các trường hợp mắc  lao  và  được  điều  trị  khỏi  bằng pp DOTS

Chỉ số đầu ra  sức khỏe

Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng  nước sạch

Tỷ lệ chưa đạt do:   ‐ Chuyên trách chương trình chỉ có một y sĩ, số lần vãng gia ít. ‐ Bệnh nhân bỏ điều trị do thay đổi nơi cư trú.  Giải pháp:  ‐ Tăng nhân lực cho phòng khám lao.  ‐ Tuyên truyền phương pháp phòng ngừa lao cho người dân.  ‐ Lập bản đồ các vùng nơi mà mức độ bao phủ nước sạch và  vệ sinh thấp và đưa ra  ưu tiên cho dự án thành phố khỏe

Cơ sở hạ tầng  và môi trường

438

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP

Biết đọc biết viết

Tỉ  lệ  trẻ  dưới  5  tuổi  bị  suy dinh dưỡng

Sự phát triển  con người và  xã hội

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn  quốc gia

Kinh tế

mạnh.  ‐ Tăng cường đầu tư trạm cấp nước cho các khu dân cư.  ‐ Tiếp tục tuyên truyền vận động người dân dùng nước sạch.  ‐ Hỗ trợ kinh phí cho người nghèo.  ‐ Tiếp tục tuyên truyền vận động để mọi người biết tác dụng  của việc học tập.  ‐ Hỗ trợ cho gia đình nghèo trong học tập.  ‐ Tổ chức các chương trình cho trẻ ăn, dinh dưỡng, bổ sung vi  chất và Iôt hóa muối ăn.  ‐ Trạm y tế các phường xã tổ chức tập huấn cho các bà mẹ về  cách phòng chống suy dinh dưỡng, cách nấu ăn để bảo đảm  dinh dưỡng cho trẻ em.  ‐ Tạo môi trường chính sách nhằm khuyến khích và tạo ưu  đãi và hỗ trợ của chính quyền địa phương cho các quỹ tín  dụng nhỏ.  ‐ Cho hộ gia đình vay vốn để nâng cấp nhà ở (bao gồm những  khoản vay nhỏ với phương thức hoàn vốn linh động) hoặc hỗ  trợ chiến lược tín dụng ở cấp độ cộng đồng.  ‐ Khuyến khích và hỗ trợ thành phố và các hính quyền khu  vực phát triển chương trình bảo hiểm y tế tại cộng đồng cho  các khu vực nghèo.  ‐ Hỗ trợ vay vốn, giải quyết việc làm.  ‐ Có chương trình hỗ trợ bảo hiểm y tế tại cộng đồng cho  người nghèo.

Bảng 3: Công cụ đáp ứng tại thị xã Bà Rịa

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP  Tỉ suất chết trẻ em dưới  1 tuổi

‐ Nguyên nhân: do dị tật bẩm sinh.  ‐ Giải pháp: tuyên truyền, giáo dục khám thai định kì cho phụ  nữ có thai.

‐ Vận động người dân đưa trẻ đi khám chữa bệnh.

Tỉ suất chết trẻ em dưới  5 tuổi  Tỉ số chết mẹ

Chỉ số đầu ra  sức khỏe

Số ca mới mắc  Lao/100.000 dân

Số ca hiện mắc Tâm  thần/100.000 dân

‐ Nguyên nhân: do tai biến sản khoa, băng huyết, thiếu máu  mãn, u não….  ‐ Giải pháp:     + Tuyên truyền, giáo dục các bà mẹ (phụ nữ tuổi sinh đẻ, vị  thành niên…) khám thai định kì.     + Đầu tư nhân lực, vật lực cho bệnh viện.  ‐ Nguyên nhân: nhiễm HIV, tiểu đường…  ‐ Giải pháp:      + Tuyên truyền phòng tránh HIV.     + Tầm soát, tuyên truyền phát hiện và điều trị tiểu đường.  ‐ Nguyên nhân: chấn thương sọ não (tai nạn giao thông, tai  nạn lao động…).

439

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP

Cơ sở hạ tầng  và sức  khỏe môi  trường

Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng  nước sạch      Tỉ  lệ  trẻ  em  được  tiêm  chủng đầy đủ  Tỉ  lệ  trẻ  dưới  5  tuổi  bị  suy dinh dưỡng

Sự phát triển  con người và  xã hội

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn  quốc gia

Kinh tế

‐ Giải pháp: phối hợp các ban ngành, chính quyền tuyên  truyền giáo dục luật giao thông, luật lao động…  ‐ Lập bản đồ các vùng nơi mà mức độ bao phủ nước sạch và  vệ sinh thấp và đưa ra  ưu tiên cho dự án thành phố khỏe  mạnh.  ‐ Tăng cường đầu tư trạm cấp nước cho các khu dân cư.  ‐ Hỗ trợ chương trình tiêm chủng về thuốc, cơ sở vật chất,  kiến thức…  ‐ Tổ chức các chương trình cho trẻ ăn, dinh dưỡng, bổ sung vi  chất và Iôt hóa muối ăn.  ‐ Tuyên truyền giáo dục, hỗ trợ vốn, hỗ trợ việc làm cho các  đối tượng là hộ nghèo và các hộ mới định cư tại khu vực.  ‐ Tạo môi trường chính sách nhằm khuyến khích và tạo ưu  đãi và hỗ trợ của chính quyền địa phương cho các quỹ tín  dụng nhỏ.  ‐ Cho hộ gia đình vay vốn để nâng cấp nhà ở (bao gồm những  khoản vay nhỏ với phương thức hoàn vốn linh động) hoặc hỗ  trợ chiến lược tín dụng ở cấp độ cộng đồng.

Tỷ lệ phụ nữ tại nơi làm  việc

‐ Tạo công an việc làm cho phụ nữ bằng cách tạo điều kiện và  ưu tiên cho phụ nữ được học nghề.

Bảng 4: Công cụ đáp ứng tại huyện Long Điền

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN CAN  THIỆP

Tỉ suất chết trẻ em dưới 1  tuổi

Tỉ suất chết trẻ em dưới 5  tuổi

Số ca mới mắc Lao/100.000  dân

Chỉ số đầu ra  sức khỏe

Số ca hiện mắc Tâm  thần/100.000 dân

‐ Tuyên truyền vận động phụ nữ mang thai khám định kỳ  hàng tháng và tiêm chủng đầy đủ.  ‐ Tư vấn tại trạm cho phụ nữ mang thai về sức khỏe thai  phụ.  ‐ Quản lý chặt chẽ công tác tiêm chủng các bệnh truyền  nhiễm cho trẻ.  ‐ Tuyên truyền và tư vấn cho các bà mẹ về chăm sóc sức  khỏe trẻ em dưới 5 tuổi.  ‐ Tăng cường công tác tuyên truyền về phòng chống lao trên  địa bàn cho tất cả các đối tượng đặc biệt là người già, người  bị suy nhược, người nhiễm HIV, người sống trong môi  trường ô nhiễm...  ‐ Kiểm soát công tác tiêm chủng ngừa bệnh lao bằng cách  thường xuyên kiểm tra giám sát công tác tiêm chủng lao cho  trẻ sơ sinh, tổ chức khám phát hiện và điều trị kịp thời các  ca nhiễm bệnh.   ‐ Tổ chức khám phát hiện và quản lý điều trị bệnh nhân tâm  thần. Thường xuyên theo dõi diễn biến bệnh, cấp phát  thuốc điều trị và tư vấn  cho thân nhân bệnh nhân về cách  chăm sóc điều trị bệnh.

440

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN CAN  THIỆP  Tỉ  lệ  hộ  gia  đình  sử  dụng  nước sạch

‐ Tăng cường đầu tư trạm cấp nước cho các khu dân cư  chưa có nguồn nước máy; Đề xuất Ủy ban nhân dân huyện  hỗ trợ kinh phí xây dựng đường ống nước đến khu vực dân  cư.

Cơ sở hạ tầng  và sức  khỏe môi  trường

Tỉ lệ phổ cập THCS

Tỉ lệ trẻ em được tiêm  chủng đầy đủ

‐ Miễn giảm học phí cho học sinh nghèo.Xây dựng quỹ học  bổng cho các học sinh nghèo hiếu học.  ‐ Tổ chức vận động các gia đình tạo mọi điều kiện cho con  được đến trường.  ‐ Tăng cường công tác tuyên truyền kiến thức về lợi ích của  tiêm chủng các bệnh truyền nhiễm cho trẻ.  ‐ Hàng tháng dự trù đủ thuốc theo danh sách quản lý  trẻ  em trong độ tuổi tiêm chủng.  ‐ Vận động phụ huynh đưa trẻ đền tiêm đầy đủ theo lịch.

Biết đọc biết viết

‐ Các Hội đoàn thể tổ chức các lớp xóa mù chữ tại thôn ấp  các xã, thị trấn. Đặc biệt đối với các xã thị trấn vùng biển,  nông thôn.  ‐ Kiến nghị xem xét lại quy định trên 15 học sinh mới tổ  chức lớp học.

Sự phát triển  con người và  xã hội

Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy  dinh dưỡng

Sinh con ở độ tuổi <19

Nhẹ cân lúc sinh

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn  quốc gia

Kinh tế

Tỉ lệ ngân sách dành cho y  tế

Quản trị

Tỉ lệ ngân sách dành cho

‐ Tổ chức các buổi thực hành dinh dưỡng cho các bà mẹ có  con dưới 5 tuổi.  ‐ Tư vấn về dinh dưỡng tại trạm y tế xã.  ‐ Hàng tháng tổ chức cân trẻ, cấp sữa cho trẻ suy dinh  dưỡng.  ‐ Ưu tiên giáo dục sức khỏe sinh sản cho bé gái ở trường  trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn.   ‐ Cải thiện chất lượng và dễ  tiếp cận các dịch vụ và thông  tin kế hoạch hóa gia đình.  ‐ Tổ chức các chương trình chuyên đề sức khỏe cho thanh  niên (sức khỏe sinh sản, phòng ngừa HIV/AIDS, kiểm soát  hút thuốc là và phòng ngừa nghiện rượu và ma túy).  ‐ Phát triển các chiến lược về sự sống còn của trẻ em đặc biệt  ở đô thị, bao gồm nuôi con bằng sữa mẹ và quản lý các  nhóm bà mẹ có nguy cơ cao và trẻ gái có nguy cơ.  ‐ Cho hộ gia đình vay vốn để nâng cấp nhà ở (bao gồm  những khoản vay nhỏ với phương thức hoàn vốn linh  động) hoặc hỗ trợ chiến lược tín dụng ở cấp độ cộng đồng  ‐ Khuyến khích và hỗ trợ thành phố và cácchính quyền khu  vực phát triển chương trình bảo hiểm y tế tại cộng đồng cho  các khu vực nghèo.  ‐ Đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh quan tâm, đẩy mạnh việc  hỗ trợ kinh phí cho ngành y tế huyện trong công tác phòng  chống dịch, thực hiện các chương trình y tế quốc gia, công  tác khám chữa bệnh người nghèo, người có công với cách  mạng, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi...  ‐ Tăng ngân sách dành cho giáo dục để hỗ trợ cho nâng cao

441

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

CHỈ SỐ

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CÁC CHỈ SỐ CẦN CAN  THIỆP

giáo dục

Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế

năng lực và cơ sở vật chất.  ‐ Khuyến khích và hỗ trợ thành phố và các chính quyền khu  vực phát triển chương trình bảo hiểm y tế tại cộng đồng cho  các khu vực nghèo.  ‐ Tuyên truyền về lợi ích tham gia BHYT.  ‐ Hỗ trợ người nghèo, cận nghèo tiền mua bảo hiểm.

Bảng 5: Công cụ đáp ứng tại huyện Tân Thành

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CHỈ SỐ

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP  Tỉ suất chết trẻ em dưới  1 tuổi  Tỉ suất chết trẻ em dưới  5 tuổi

Chỉ số đầu ra sức  khỏe

Tỷ  lệ  các  trường  hợp  mắc  lao  và  được  điều  trị khỏi bằng pp DOTS

Số ca mới mắc  Lao/100.000 dân

Tỉ  lệ  hộ  gia  đình  sử  dụng nước sạch

Cơ sở hạ tầng và  sức khỏe môi  trường

Tỉ lệ phổ cập THCS

Tỉ lệ trẻ em được tiêm  chủng đầy đủ

Biết đọc biết viết

Sự phát triển con  người và xã hội

Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị  suy dinh dưỡng

Sinh con ở độ tuổi   < 19

‐ Đẩy mạnh công tác vãng gia sau sinh và phòng chống suy  dinh dưỡng cho trẻ dưới 1 tuổi.  ‐ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về  chăm sóc sức khoẻ trẻ em cho phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, đặc  biệt là các bà mẹ đang mang thai và có con nhỏ.  ‐ Tăng cường quản lý bệnh nhân bỏ điều trị.  ‐ Hỗ trợ thêm kinh phí cho cán bộ chuyên trách tuyến xã,  phường.  ‐ Tăng cường năng lực cho y tế về xét nghiệm và khám phát  hiện Lao.  ‐ Tăng cường kiểm tra giám sát vệ sinh an toàn lao động để  yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thiết bị bảo hộ lao động  cho công nhân.  ‐ Lập bản đồ các vùng nơi mà mức độ bao phủ nước sạch và  vệ sinh thấp.  ‐ Tăng cường đầu tư trạm cấp nước và đường ống cấp nước  cho các khu dân cư.  ‐ Cần tập trung cải thiện ở các khu dân cư xa quốc lộ bằng  các giếng khoan và các thiết bị lọc nước cho các hộ gia đình.  ‐ Tăng cường giáo dục thường xuyên và học tập cộng đồng  cho đối tượng là trẻ bị bỏ học do hoàn cảnh gia đình khó  khăn, bằng cách tổ chức các lớp học miễn phí được hỗ trợ  trang thiết bị học tập để trẻ có thể đi học.  ‐ Hỗ trợ chương trình tiêm chủng bằng cách cung cấp đủ  thuốc và kịp thời, hỗ trợ kinh phí cho công tác tuyên truyền  về kiến thức cho cộng đồng.  ‐ Tăng cường học tập cộng đồng cho các đối tượng từ 35  tuổi trở lên.  ‐ Giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe trẻ em cho các bà mẹ  như mở lớp dạy nấu ăn tại khu phố/ấp cho phụ nữ có con  <5 tuổi, tổ chức nói chuyện tại các lớp mẫu giáo, mầm non  về sức khoẻ trẻ em, cách nuôi dạy trẻ cho các bà mẹ là phụ  huynh của các cháu.  ‐ Cải thiện chất lượng và dễ  tiếp cận các dịch vụ và thông  tin kế hoạch hóa gia đình.

442

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CÔNG CỤ ĐÁP ỨNG

CHỈ SỐ

CÁC CHỈ SỐ CẦN  CAN THIỆP

Kinh tế

Tỉ lệ hộ nghèo theo  chuẩn quốc gia

Quản trị

Tỉ lệ ngân sách dành  cho y tế

‐ Phát hiện và vẽ biểu đồ các khu vực tạm cư (khu vực nhà  trọ của công nhân sống xa gia đình) nơi mà thanh niên dễ  dàng có hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân và không  có sử dụng các biện pháp tránh thai.  ‐ Khuyến khích và hỗ trợ thành phố và các chính quyền khu  vực phát triển chương trình bảo hiểm y tế tại cộng đồng cho  các khu vực nghèo.  ‐ Cần tăng tỷ lệ ngân sách để hỗ trợ thêm kinh phí hoạt  động cho các chương trình y tế quốc gia; phụ cấp cho cán bộ  y tế cơ sở và nhân viên y tế thôn ấp.

BÀN LUẬN

Ở nhóm các chỉ số đầu ra sức khỏe:

Thơ đều cho thấy chất lượng cuộc sống gắn liền  với việc có nguồn nthu nhập ổn định, nghĩa là có  nghề nghiệp ổn định. Tỉ lệ phụ nữ tham gia vào  công  việc  tại  thị  xã  Bà  rịa  thấp  hơn  đáng  kể  so  với các địa phương khác trong tỉnh.

Ở nhóm các chỉ số quản trị:

Cho thấy có sự khác biệt ở Bà rịa – Vũng tàu về  các  nhóm  bệnh  cần  quan  tâm.  Các  chỉ  số  sức  khỏe tại đây chưa được tốt theo các chuẩn. Lao  và HIV vẫn là các vấn đề cần quan tâm. Tỉ suất  chết mẹ còn cao tại thị xã Bà Rịa. Riêng tai nạn  giao thông vẫn còn là vấn đề sức khỏe nổi bật tại  khu  vực  này.  Số  vụ  tai  nạn  giao  thông,  số  bị  thương và chết do TNGT đều cao.

Ở nhóm các chỉ số  cơ sở hạ tầng và môi trường:

Tại TP. Vũng tàu và huyện Tân Thành tỉ lệ ngân  sách dành cho y tế khá tốt, nhưng tại thị xã Bà  Rịa  tỉ  lệ  ngân  sách  dành  cho  y  tế  còn  thấp.  Có  hai  địa  phương  mà  độ  bao  phủ  bảo  hiểm  y  tế  còn thấp là hai huyện Long Điền và Tân Thành.  Đây là nơi còn nhiều hộ nghèo, do vậy các chính  sách xã hội để chăm sóc sức khỏe người nghèo  tại hai nơi này cần được đẩy mạnh.

KẾT LUẬN

Công cụ đánh giá công bằng y tế và đáp  ứng tại thành thị có tác dụng hữu ích cho cán bộ  quản  lý  ngành  y  tế  trong  việc  tham  mưu  vận  động chính sách có lợi cho  sức  khỏe,  vận  động  cho việc đầu tư y tế vào đúng nhu cầu để nhằm  giảm  bất  công  bằng  trong  chăm  sóc  sức  khỏe.  Công  cụ  giúp  nhà  hoạch  định  chính  sách  có  bằng chứng cụ thể hóa để ra các quyết sách y tế  phù hợp hơn, mang lại an ninh xã hội.

Tỉ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch còn thấp ở  các huyện Long Điền, Tân Thành và còn cần cải  thiện ở thị xã Bà Rịa và thành phố Vũng tàu. Tại  thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành tỉ lệ hộ xử lý  rác đúng qui định còn dưới 90%. Đây là vấn đề  cần được địa phương quan tâm giải quyết, nhất  là khi định hướng phát triển Bà Rịa thành trung  tâm  hành  chánh  và  lên  thành  phố  trong  tương  lai. Về văn hóa giáo dục, tỉ lệ phổ cập trung học  cơ sở tại các huyện Long Điền và Tân Thành còn  chưa cao. Tương ứng với tỉ lệ biết đọc biết viết ở  hai nơi này cũng thấp. Trẻ em suy dinh dưỡng  vẫn  còn  là  vấn  đề  với  tỉ  lệ  trên  10%  tại  các  địa  phương: thị xã Bà Rịa, huyện Long Điền, huyện  Tân Thành.

Xin  chân  thành  cám  ơn  sự  tài  trợ  của  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong  việc  thực  hiện  nghiên cứu này.

Ở nhóm các chỉ số kinh tế:

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ Lao động thương binh xã hội (2009), Hội nghị tổng kết  công tác bảo trợ xã hội năm 2008 và triển khai nhiệm vụ  năm 2009,

Tại huyện Tân Thành, tỉ lệ thất nghiệp cao và tỉ  lệ hộ nghèo còn cao phần nào lý giải các vấn đề  sức khỏe chưa tốt tại nơi này. Các nghiên cứu tại  các  thành  phố  như  TP.HCM,  Bình  Dương,  Cần

443

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

4.

http://www.molisa.gov.vn/details.asp?mbien2=&mbien4=1 3481&ambien3=(6286568C‐1DED‐482C‐865B‐ 80AC6BEAEC3E>&td ngày truy cập 27/7/2009.

2.

Sở kế hoạch và đầu tư thành phố TP.HCM, 2008, Quy  hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001‐2010 TP.HCM ‐ các chỉ  tiêu xã hội – Thu nhập bình quân đầu người,  http://www.dpi.gov.vn/vie/news_detial.asp?period_id=1&c at_id=3&news_i....htm, truy cập ngày 20/7/2009.

5.

Bộ tài chính (2008), phần thứ ba‐ phụ lục 9 tổng sản phẩm  trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế,  http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=5991&ItemID= 59186 truy cập ngày 27/7/2009.

SYT TP.HCM (2008), CT sức khỏe,  http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/news_det ail.asp?period_id=1&cat_id=28..., truy cập ngày 27/7/2009.

3.

Sở kế hoạch và đầu tư thành phố TP.HCM, 2008, báo cáo  tình hình Kinh tế xã hội năm 2008  http://www.dpi.gov.vn/data/news/2009/5/799/all2008.htm,  truy cập ngày 22/7/2009.

6. Viện  Vệ  sinh  Y  tế  Công  cộng  TP  HCM.  Báo  cáo  kết  quả  Đánh giá công bằng y tế và công cụ đáp ứng thành thị năm  2009 tại TP HCM.

7. WHO (2009). Urban HEART. WHO Kobe center.

444

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG DỊCH VỤ Y TẾ THÀNH THỊ VÀ NÔNG THÔN  TẠI HAI TỈNH CẦN THƠ VÀ HẬU GIANG NĂM 2010

Phùng Đức Nhật*, Dương Thị Minh Tâm*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đảm bảo thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân cần chú trọng đến tính công  bằng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế (DVYT), đặc biệt cần quan tâm rút ngắn khoảng cách chênh lệch  trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế ở khu vực thành thị và nông thôn.

Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế tại thành thị và nông thôn thuộc

hai tỉnh Cần Thơ và Hậu Giang và các yếu tố quyết định xã hội liên quan.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, có phân tích, kết hợp nghiên cứu định lượng và định tính.

Kết  quả  nghiên  cứu: Tỷ lệ người mắc bệnh trong sáu tháng qua tại Cần Thơ và Hậu Giang lần lượt là  24,5%, 19,2%. Ở trẻ em, bệnh hô hấp chiếm tỷ lệ cao nhất (26%), ở người lớn thì bệnh thường gặp là xương  khớp (28,4%), người trên 60 tuổi thì tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao (35,8%). Thời gian và khoảng cách đến trạm  y tế ở 2 nơi đều ngắn hơn so với đến trung tâm y tế huyện. Khi có bệnh thông thường, đa số người dân đến trạm  y tế vì thuận tiện, gần nhà (15,1% ở Hậu Giang và 35,1% ở Cần Thơ), dễ gặp nhân viên y tế (28,1% ở Hậu  Giang và 30,3% ở Cần Thơ). Tuy nhiên, khi có bệnh nặng, người dân có khuynh hướng tìm đến các bệnh viện  tuyến trên nhiều hơn. Theo nhận định của họ thì có tới 31,7% và 31,5% nhân viên ở trung tâm y tế có khả năng  điều trị, trong khi tỷ lệ này ở trạm y tế chỉ chiếm 21,3% và 17,3%.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu gợi ý một số giải pháp cho ngành y tế và các ban ngành có liên quan trong

việc đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân tại Cần Thơ, Hậu Giang.

Từ khóa: Sử dụng dịch vụ y tế, Cần Thơ, Hậu Giang

ABSTRACT

RESEARCH AND ANALYSIS OF UTILIZATION OF HEALTH CARE SERVICE IN URBAN AREA CAN  THO CITY COMPARED TO RURAL AREA HAU GIANG PROVINCE, 2010

Phung Duc Nhat, Duong Thi Minh Tam

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 443 ‐ 450

Background: To assure the equity in health care for people, the equity in utilization and supply with health  care service must be paid much attention to. Especially, the gap between rural and urban areas in using health  service should be shorten.

Objective: Describe utilization and supply with health care service in urban and rural areas of Can Tho city

and Hau Giang province and social determinants related to this situation.

Methodology:  Combined  quantitative  and  qualitative  study,  in  which  quantitative  study  is  a  cross

sectional study.

Result:  The proportion of people got illness within six months in Can Tho city and Hau Giang province  were respectively 24.5% and 19.2%. In children, respiratory disease had highest percentage (26%), the common  disease in adult was aching of joint and bone 28.4%, hypertension had high proportion in group of people over

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Dương Thị Minh Tâm   ĐT: 0903172012

Email: duongtam8lus@yahoo.com

445

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  than 60 years old 35.8%. Time and travel distance from home to local health station in two areas were shorter  than to district health center. When people got normal illness, they usually came to local health station. It due to  the advantage, nearly 15.1%  in  Hau  Giang  and  35.1%  in  Can  Tho,  easy  to  meet  health  staff  (28.1%  in  Hau  Giang  and  30.3%  in  Can  Tho).  However,  when  they  got  serious  illness,  the  upper  level  hospital  was  health  facility  that  people  prefered  to  access.  In  opinion  of  respondents,  there  were  31.7%,  31.5%  of  health  staff  in  district health center had treatment capacity, while this proportion in local health station was only 21.3% and  17.3%, respectively.

Conclusion: The results from this study reveal some solutions to health sector and stakeholders of assuring  the equity in ultilization and supply with health care service between rural and urban areas in Can Tho and Hau  Giang.

Keywords: Health care service utilization, Can Tho, Hau Giang

ĐẶT VẤN ĐỀ

Xác  định  tỷ  lệ  mắc  bệnh,  việc  sử  dụng  và  tiếp  cận  các  loại  hình  dịch  vụ  KCB  của  người  dân tại thành thị và nông thôn.

Xác định một số yếu tố liên quan đến việc sử  dụng  dịch  vụ  KCB  của  người  dân  tại  thành  thị  và nông thôn.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Sử  dụng  thiết  kế  mô  tả  cắt  ngang  có  phân  tích,  kết  hợp  nghiên  cứu  định  lượng  và  định  tính.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

04/2010‐11/2010 tại Cần Thơ và Hậu Giang.

Đối tượng nghiên cứu

Phía cung cấp dịch vụ khám bệnh và phía sử

dụng dịch vụ khám chữa bệnh.

Chọn mẫu

Trong  những  năm  gần  đây,  vấn  đề  công  bằng trong chăm sóc sức khỏe (CSSK) nhân dân  được  Đảng  và  Chính  phủ  Việt  Nam  quan  tâm  nhiều hơn. Để thực hiện công bằng trong CSSK  thì  điều  cốt  yếu  là  đảm  bảo  được  công  bằng  trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người  dân(2). Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế  thị trường, sự chênh lệch giàu ‐ nghèo giữa vùng  thành thị và nông thôn có ảnh hưởng sâu sắc tới  tình hình sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe(3).  Cần  Thơ  và  Hậu  Giang  là  hai  tỉnh  thuộc  Tây  Nam  Bộ,  có  vị  trí  địa  lý  giáp  ranh  nhau.  Việc  khảo sát tình hình sử dụng dịch vụ y tế tại  hai  khu vực này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát  về sự khác biệt về mức độ tiếp cận cũng như sử  dụng dịch vụ y tế tại nơi đây. Trên cơ sở đó có  những nhận định đúng đắn hơn và đưa ra giải  pháp hỗ trợ thực hiện công bằng trong chăm sóc  sức khỏe nhân dân.

Với nghiên cứu định tính

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát

Mô tả thực trạng cung cấp và sử dụng dịch  vụ y tế tại thành thị và nông thôn thuộc hai tỉnh  Cần Thơ và Hậu Giang.

Mục tiêu cụ thể

Mô  tả  thực  trạng  cung  cấp  dịch  vụ  khám  chữa bệnh (KCB) tại hai vùng thành thị và nông  thôn.

Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu, thảo  luận  nhóm.  Trong  thảo  luận  nhóm  tập  trung,  người  tham  gia  sẽ  được  hỏi  theo  bảng  hướng  dẫn phỏng vấn. Ở mỗi tỉnh, sẽ thực hiện 02 cuộc  thảo luận nhóm với đại diện phía sử dụng dịch  vụ khám chữa bệnh (6 người thường đến khám  chữa bệnh tại trạm y tế, 6 người không đến trạm  y tế để điều trị). Đối với phía cung cấp dịch vụ  khám  bệnh,  cũng  tổ  chức  2  cuộc  thảo  luận  với  đại diện trạm y tế (trong đó chia làm hai nhóm  cán  bộ  trạm  y  tế:  một  nhóm  có  số  người  đến  khám  bệnh  cao  nhất  và  một  nhóm  có  số  người

446

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  đến khám bệnh thấp nhất). Phỏng vấn sâu thực  hiện trên 10 đại diện (2 giám đốc trung tâm y tế,  2 đại diện chính quyền, 2 lãnh đạo trạm y tế).

Với nghiên cứu định lượng

chiếm  tỷ  lệ  56,4%.  Nghề  nghiệp  chủ  yếu  của  người dân Cần Thơ và Hậu Giang là làm nông  29,6%, nhóm làm việc nội trợ chiếm tỷ lệ 26,9%.  điều này là phù hợp bởi vì tỷ lệ nữ cao hơn nam.  Về trình độ học vấn, đa số là học hết tiểu học và  trung học cơ sở (37,8%; 34,3%), tỷ lệ người dân  có trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học thấp  (7,2%; 2%), không biết chữ 4,7%.

Tại thành phố Cần Thơ: 1 quận đại điện cho  khu vực thành thị được chọn (theo quy định của  địa  phương)  là  Bình  Thủy.  Quận  này  có  8  phường, thực hiện khảo sát trên 105 hộ gia đình  của  mỗi  phường  ngẫu  nhiên  theo  danh  sách  được cung cấp bởi chính quyền địa phương.

14.9

15.7

Hậu Giang

Cần Thơ

Tại  tỉnh  Hậu  Giang:  1  huyện  đại  diện  cho  khu  vực  nông  thôn  (theo  quy  định  của  địa  phương) được chọn là Vị Thủy. Huyện này có 8  phường, thực hiện khảo sát trên 105 hộ gia đình  của  mỗi  phường  ngẫu  nhiên  theo  danh  sách  được cung cấp bởi chính quyền địa phương.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Biểu đồ 1: Tỷ lệ hộ gia đình có sử dụng thẻ bảo hiểm  y tế

Kết quả nghiên cứu định lượng  Bảng 1: Thông tin cơ bản về hộ gia đình (n=1692)

Tỷ lệ hộ gia đình có sử dụng thẻ bảo hiểm y  tế là 30,6%, trong đó  tỷ  lệ  có  thẻ  bảo  hiểm  y  tế  (BHYT) tại Hậu Giang là 14,9% thấp hơn so với  tại Cần Thơ là 15,7%.

Đặc tính Tần số Tỷ lệ 1658 98,0 Kinh Dân tộc Hoa 15 0,9 Khác 19 1,1 Giới Nam 738 43,6 Nữ 954 56,4 Nội trợ 455 26,9

Bảng 2: Tỷ lệ người dân có nghe thông tin về chăm  sóc sức khỏe

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  trong  vòng  1  tháng qua, tỷ lệ người dân tiếp cận thông tin về  CSSK  ở  Hậu  Giang  lại  cao  hơn  so  với  tại  Cần  Thơ (36.5% và 31.6%).

Toàn mẫu Nghề nghiệp Cán bộ công chức 116 6,9 Làm ruộng 501 29,6 Hưu trí 100 5,9 Nông thôn (Hậu Giang) % 36,5 10,9 N 618 184 Thành thị (Cần Thơ) N % 31,6 535 11,9 202 N 1153 386 % 68,1 22,8 Tiểu thủ công nghiệp 32 1,9 Công nhân 80 4,7 50 3,0 103 6,1 153 9,0 Nghề khác 408 24,1 Có Không Thỉnh thoảng Tổng 852 50,4 840 49,6 1692 100 Không có đi học 79 4,7 Trình độ học vấn Tiểu học 639 37,8 Trung học cơ sở 580 34,3 Trung họp phổ thông 269 15,9

Tỷ lệ người dân tiếp cận thông tin về CSSK  từ truyền hình, đài phát thanh chiếm 80,2%, tỷ lệ  này ở Cần Thơ là 44,1%, ở Hậu Giang 36,1%.

Nghiên cứu tiến hành trên 1692 đối tượng tại  Cần Thơ và  Hậu  Giang,  trong  đó  dân  tộc  Kinh  chiếm đa số với 98%, dân tộc Hoa và nhóm dân  tộc  khác  chiếm  tỷ  lệ  thấp  chỉ  khoảng  1%.  Phần  lớn đối tượng trong nghiên cứu này là nữ giới,

Tỷ  lệ  người  dân  đến  trạm  y  tế  khám  chữa  bệnh  là  30,9%,  trong  đó  tỷ  lệ  người  dân  đến  trạm  y  tế  khám  ở  Hậu  Giang  và  Cần  Thơ  lần  lượt là 18,4% và 12,5%.

121 7,2 Trung học/cao đẳng/đại học Sau đại học 4 0,2

447

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

90

80.2

80

Cán bộ y tế

70

Tivi, đài

60

Tỷ  lệ  người  mắc  bệnh  trong  sáu  tháng  qua  tại  Cần  Thơ  là  24,5%,  trong  khi  đó  tỷ  lệ  mắc  bệnh tại Hậu Giang là 19,2%.

44.1

50

Loa phóng thanh

36.1

40

Tờ rơi, sách báo

30

Pano, áp phích

Bảng 3: Các loại bệnh ở trẻ em, người lớn, người  trên 60 tuổi

20

Khác

10

0

Hậu Giang

Cần Thơ

Total

Trẻ em

Biểu đồ 2: Tỷ lệ nguồn thông tin về chăm sóc sức  khỏe mà người dân tiếp cận

Người lớn

Biểu đồ 3: Tỷ lệ người dân đến trạm y tế khám chữa  bệnh

19.2

24.5

Hậu Giang

Cần Thơ

Người trên 60 tuổi

Bệnh Hô hấp Béo phì Tiêu hóa Nhiễm trùng Suy dinh dưỡng Huyết học Bệnh xương khớp Cảm cúm Tim mạch Tiêu hóa Bệnh thận Bệnh phụ khoa Bệnh phổi Nhiễm trùng Chấn thương Tiêu chảy Bệnh ngoài da Tăng huyết áp Bệnh xương khớp Bệnh tim Bệnh phổi Bệnh tiểu đường Cảm cúm Bệnh thận Chấn thương Tần số 70 241 21 16 8 4 114 89 48 43 28 26 21 17 11 8 8 95 64 39 24 20 10 10 2 Tỷ lệ (%) 26,0 14,2 8,6 6,5 3,3 1,6 28,4 23,1 12,9 11,3 7,6 7,1 5,7 4,6 3,0 2,2 2,2 35,8 24,2 15,5 9,6 8,0 4,1 4,0 0,8

Biểu đồ 4: Tỷ lệ người bệnh trong sáu tháng qua

Tỷ lệ trẻ em bị các bệnh về hô hấp chiếm tỷ  lệ  cao  nhất  26%,  tiếp  đó  là  béo  phì  14,2%.  Các  bệnh về tiêu hóa, nhiễm trùng lần lượt chiếm tỷ  lệ  8,6%  và  6,5%.  Tỷ  lệ  béo  phì  chiếm  14,2%,  trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng là 3,3%.

Bảng 4: Thời gian từ nhà đến trạm y tế và trung tâm y tế của hộ gia đình

Tổng Tổng

<15 phút 15-30 phút 30-45 phút >45 phút Tổng Hậu Giang % N 33,5 567 12,9 219 2,4 40 1,5 26 50,4 852 Trạm Y Tế Cần Thơ % N 43,1 729 5,7 97 0,4 8 ,4 6 49,6 840 N 1296 316 48 32 1692 Hậu Giang % N 14,0 237 20,2 341 6,3 106 9,9 168 50,4 852 Trung tâm y tế huyện Cần Thơ % N 17,7 300 29,4 498 2,0 33 ,5 9 49,6 840 N 537 839 139 177 1692 % 31,7 49,6 8,2 10,5 100

Để đi từ nhà đến trạm y tế người dân ở 2 nơi  đều  mất  khoảng  15  phút,  tỷ  lệ  này  ở  Cần  Thơ,  Hậu Giang tương ứng là 43.1%, 33.5%. Thời gian

% 76,6 18,7 2,8 1,9 100 đi tới trung tâm y tế huyện thì đa số mất khoảng  15‐30  phút,  tỉ  lệ  này  tương  ứng  ở  Cần  Thơ  và  Hậu Giang là 20,2% và 29,4%.

448

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bảng 5: Khoảng cách từ nhà đến trạm y tế và trung tâm y tế huyện

Trạm Y Tế Cần Thơ Tổng Trung tâm y tế huyện Cần Thơ Tổng

< 1 km 1-5 km 5-15 km 15-60 km Tổng Hậu Giang 18,4 312 29,0 490 3,0 50 50,4 852 458 372 10 840 27,1 22,0 ,6 49,6 770 862 60 1692 Hậu Giang 5,8 98 21,2 359 16,4 278 6,9 117 50,4 852 205 760 602 125 1692 6,3 23,7 19,1 ,5 49,6 12,1 44,9 35,6 7,4 100 107 401 324 8 840

Để  đến  trung  tâm  y  tế  huyện,  đa  số  người  dân phải đi 1‐5 km, tỷ lệ này cao ở cả Cần Thơ  và Hậu Giang. So sánh về khoảng cách đi lại từ  nhà đến trạm y tế ở 2 nơi, ta thấy ở Cần Thơ thì

45,5 50,9 3,5 100 khoảng  cách  đi  lại  là  gần  hơn  so  với  ở  Hậu  Giang.

Bảng 6: Gặp cán bộ y tế tại trạm y tế và trung tâm y tế

Trung tâm y tế huyện Tổng Tổng

Ở Cần Thơ, tỷ lệ người dân cho là dễ gặp cán bộ  y tế và không khó khăn gì khi khám chữa bệnh  ở trạm y tế xã chiếm tỷ lệ 30,3%, tỷ lệ này ở Hậu  Giang là 28,1%.

Khi  hỏi  về  việc  gặp  cán  bộ  y  tế  và  khám  chữa bệnh như thế nào thì có 43,3% người dân  trả  lời  là  dễ  gặp,  40,8%  trả  lời  là  bình  thường,  6,1% cho là khó gặp cán bộ y tế và có khó khăn  khi khám chữa bệnh tại trạm và trung tâm y tế.

Dễ Bình thường Khó Không biết Tổng Hậu Giang % N 28,1 476 16,3 276 0,5% 9 5,4 91 50,4 852 Trạm Y Tế Cần Thơ % N 30,3 513 16,2 274 0,3 5 2,8 48 49,6 840 N 989 550 14 139 1692 % 58,5 32,5 0,8 8,2 100 Hậu Giang % N 23,2 392 19,5 330 2,2 37 5,5 93 50,4 852 Cần Thơ % N 20,1 340 21,3 360 4,0 67 4,3 73 49,6 840 N 732 690 104 166 1692 % 43,3 40,8 6,1 9,8 100

Bảng 7: Nhận định của người dân vể khả năng điều trị của cán bộ y tế tại địa phương

Trạm Y Tế

Trung tâm y tế huyện

Hậu Giang

Cần Thơ

Tổng

Hậu Giang

Cần Thơ

Tổng

N

%

N

%

N

%

N

%

N

%

N

%

364

21,5

293

17,3

657

38,8

536

31,7

533

31,5

1069

63,2

45

2,7

25

1,5

70

4,1

16

0,9

12

0,8

28

1,7

384

22,7

485

28,7

869

51,4

246

14,5

243

14,4

489

28,9

Không  Chỉ điều trị một  vài bệnh thông  thường

59

3,5

37

2,2

96

5,7

54

3,2

52

3,1

106

6,3

Khác

852

50,4

840

49,6

1692

100

852

50,4

840

49,6

1692

100

Tổng

28,9% cho là cán bộ y tế địa phương chỉ có thể trị  được  vài  bệnh  thông  thường.  Ở  Cần  Thơ,  có  17,3% người dân cho là cán bộ y tế ở trạm có khả

Đa  số  người  dân  đều  cho  là  cán  bộ  y  tế  ở  trung tâm y tế huyện có khả năng điều trị bệnh  tốt,  tỷ  lệ  này  khá  cao  63.2%.  Tuy  nhiên,  vẫn  có

449

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

350 744 Có Không Tổng 515 100 68 32,0 35,2 64,8 1149 100 34,3 1094 65,7 1664 100 165 405 570 χ2 = 1,6, P value : 0,2

Nghiên cứu Y học  năng điều trị trong khi đó tỷ lệ này ở Hậu Giang  là 21,5%. Tương tự như vậy, có 31,5% người dân  Cần Thơ và 31,7% người dân Hậu Giang cho là  cán bộ y tế tại trung tâm y tế huyện có khả năng  điều trị bệnh tốt. Dù rằng trạm y tế dễ tiếp cận vì  gần  nhà,  dễ  gặp  cán  bộ,  thuận  lợi  khi  khám  chữa. Tỷ lệ người dân cho là cán bộ y tế tại trạm  chỉ  chữa  được  bệnh  thông  thường  vẫn  khá  cao  (22,7% và 28,7%).

Bảng 10 trình bày mối liên quan giữa việc có  sử dụng thẻ BHYT và cách sử dụng DVYT của  các  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu,  không  có  mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa việc có  sử  dụng  thẻ  BHYT  và  nơi  sử  dụng  DVYT  là  trạm y tế hay tuyến khác.

Bảng 8: Phân bố nơi khám và điều trị khi bị bệnh

Kết quả nghiên cứu định tính

Toàn mẫu Nông thôn (Hậu Giang)

N 44 % 6,6 Thành thị (Cần Thơ) % N % N 11,0 117 17,6 73

34 5,1 29 4,4 63 9,5

5 0,8 1 ,2 6 1 Trạm y tế xã Phòng khám tư nhân Thầy thuốc đông y 93 14,0 215 32,4

12,3 82 163 24,5 245 36,9

Tỷ  lệ  người  bệnh  đến  bệnh  viện  tỉnh,  bệnh  viện trung ương cao nhất, chiếm 36,9%. Kế tiếp  là đến bệnh viện huyện 32,4%, tỷ lệ người bệnh  đến trạm y tế khám chữa bệnh chỉ chiếm 17,6%.

Chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm (người  dân, nhân viên y tế) và phỏng vấn sâu (lãnh đạo  xã, cán bộ trung tâm y tế huyện, phòng y tế) tại  huyện  Vị  Thủy,  tỉnh  Hậu  Giang  và  quận  Bình  Thủy, tỉnh Cần Thơ về việc sử dụng DVYT nói  chung  và  dịch  vụ  của  trạm  y  tế  xã  nói  riêng.  Chúng tôi đã nhận được các kết quả về: ý kiến,  nhận  xét  của  cán  bộ  lãnh  đạo  xã,  phòng  y  tế,  trưởng  trạm  y  tế  về  tình  hình  sử  dụng  DVYT  cũng như nguyện vọng, nhu cầu và cách xử trí  khi  trong  gia  đình  có  người  bệnh.  Nhìn  chung,  khi có bệnh thì nhu cầu được khám, chữa bệnh  và chăm sóc sức khoẻ của người dân là rất lớn.  Mối quan tâm của người dân đối với các cơ sở y  tế là vấn đề cần được quan tâm.

4 2,1 18 Bệnh viện huyện 122 18,4 Bệnh viện tỉnh/ trung ương Cơ sở y tế khác Tổng 0,6 291 43,8 14 2,7 373 56,2 664 100

Bảng 9: Mối liên quan giữa giới tính và sử dụng  DVYT

Trạm y tế Tổng Cơ sở y tế khác %

Đa số các trạm y tế có cơ sở vật chất nghèo  nàn,  trang  thiết  bị  thiếu  thốn  so  với  nhu  cầu  khám chữa bệnh tại địa phương “Tại vì ở xã thì  nó đâu có đầy đủ, đâu có siêu âm chụp hình này  kia  nọ,  thì  khi  đó  bệnh  nhân  ở  xã  đó  mới  ra  huyện” (Nam 58 tuổi). Đa số cán bộ y tế đều có  nhận  xét  mô  hình  cung  cấp  dịch  vụ  chưa  phù  hợp  và  chưa  đáp  ứng  được  nhu  cầu  chăm  sóc  sức khỏe người dân tại địa phương mình.

Bảng 9 trình bày mối liên quan giữa giới tính  và  sử  dụng  DVYT  của  các  đối  tượng  tham  gia  nghiên cứu, ta thấy có mối liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa giới tính và sử dụng dịch vụ y tế.  Tỷ lệ nam giới sử dụng dịch vụ y tế cao hơn nữ  1,3 lần

N 450 644 N % % 61,9 727 100 38,1 68,7 937 100 31,3 34,3 1094 65,7 1664 100 N 277 293 570 Nam Nữ Tổng χ2 =8,4, P value : 0,004,OR (95%CI): 1,3 (1,1- 1,6)

Bảng 10: Mối liên quan giữa việc có sử dụng thẻ  BHYT và nơi sử dụng DVYT

Về lựa chọn nơi khám bệnh đầu tiên, khi có  bệnh thì phản ứng đầu tiên của tất cả mọi người  là  đến  khám  ở  trạm  y  tế.  Kết  quả  nghiên  cứu  định lượng cho thấy tỷ lệ người dân đến trạm y  tế  ở  Cần  Thơ  là  12,5%,  ở  Hậu  Giang  là  18,4  %.  Người dân  nhận  định  “khám ở đây giảm đỡ được  bệnh,  giảm  được  80%”  (Nữ  52  tuổi).  Tuy  nhiên,  cũng  có  nhiều  người  đến  trung  tâm  y  tế,  bệnh  viện  tuyến  trên,  thầy  thuốc  tư  hoặc  mua  thuốc

Trạm y tế Tổng Cơ sở y tế khác N % N % N %

450

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Cũng như khả năng điều trị tại trạm đó “Trình  độ chuyên môn ở đây tốt, khám cho em bé cũng khỏi  bệnh” (Nữ 30 tuổi).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  về tự chữa. Trên một địa bàn xã/ phường có rất  nhiều địa chỉ để lựa chọn khám chữa bệnh. Việc  người dân đến cơ sở nào để khám bệnh còn tuỳ  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố:  khả  năng  đáp  ứng  về  mặt y tế, nơi đăng ký bảo hiểm. “Trước kia khám  ở ngoài đa khoa Bình Thủy, sau này bảo hiểm của con  rể mua đăng ký khám ở đây, tui bị mỡ trong máu cao.  Tui khám ở ngoài về đây thì thấy bác sĩ cũng rất là  tốt” (Nữ ‐ 57 tuổi). Tuy nhiên, chất lượng và khả  năng điều trị  vẫn  là  yếu  tố  quyết  định  việc  lựa  chọn  nơi  khám  bệnh  của  người  dân.  Nhiều  người  chấp  nhận  đóng  thêm  tiền  để  có  chất  lượng cũng như được phục vụ y tế tốt hơn. Thói  quen tin tưởng vào hệ thống y tế tuyến trên đã  sử dụng từ trước cũng ảnh hưởng đến việc lựa  chọn nơi khám chữa bệnh “Khi bệnh đau nên chọn  những cơ sở y tế nhà nước để được đảm bảo khám tốt  và mua thuốc có chất lượng đảm bảo.”

Trạm y tế chưa thực sự là nơi người bệnh tin  tưởng tìm đến khi có bệnh. “Khi bệnh đau nhẹ thì  chỉ cần đến những nơi gần và thuận tiện như y tế xã,  y tế tư nhân hay là mua thuốc tự điều trị. Chỉ khi nào  thật  sự  nặng  và  cần  thiết  thì  mới  nên  đi  khám  ở  những nơi có điều kiện khám và điều trị tốt, để được  chẩn đoán đúng bệnh và điều trị tốt, nhằm tiết kiệm  tiền, tránh lãng phí không cần thiết.”

Ngoài ra, nhiều yếu  tố  cá  nhân  cũng  có  liên quan như: thói quen, niềm tin và chất lượng  cơ  sở  khám  chữa  bệnh.  Khi  người  dân  thực  sự  bệnh nặng, họ sẽ đến cơ sở có khả năng điều trị  tốt nhất. Trong trường  hợp  bệnh  thông  thường  thì chủ yếu họ tới nơi điều trị mà mình ưa thích.  Lý do chọn nơi khám chữa bệnh cũng rất khác  nhau  ở  mỗi  người.  Người  cao  tuổi  thì  mong  muốn  được  phục  vụ  tại  chỗ  “Tôi  không  đến  huyện  vì  tôi  muốn  được  phục  vụ  tại  xã  cho  thuận  tiện”.  Ý  kiến  của  người  dân  sử  dụng  DVYT tại đây “Bác sĩ khuyên rõ ràng, cho thuốc  giúp  làm  giảm  bệnh  tình  của  tôi”  (Nữ  49  tuổi),  hoặc “Cạnh nhà tôi có một thầy thuốc tư tôi luôn  luôn  chữa  ở  đó”  (Nam  49  tuổi),  “Tôi  đưa  cháu  đến khám ở  trạm  vì  chữa  ở  đây  quen  rồi”  (Nữ  27  tuổi).  Khi  người  bệnh  có  thẻ  bảo  hiểm  y  tế  (thường  đăng  ký  khám  chữa  bệnh  ban  đầu  tại  trạm  y  tế  xã),  họ  sẽ  lựa  chọn  nơi  khám  chữa  bệnh là trạm y tế xã “Tôi có bảo hiểm do vậy tôi  khám bệnh ở trạm y tế xã ”. Tóm lại, có nhiều ý  kiến khác nhau về tình hình sử dụng các dịch vụ  khám  chữa  bệnh  tại  trạm  y  tế  xã.  Kết  quả  cho  thấy,  trạm  y  tế  chưa  thực  sự  là  nơi  người  dân  tìm đến khi có bệnh “nhân viên ở đây tốt nhưng  trang thiết bị ở đây không đủ” (Nam 57 tuổi).

BÀN LUẬN

Nghiên cứu tiến hành trên 1692 đối tượng tại  Cần Thơ và  Hậu  Giang,  trong  đó  dân  tộc  Kinh  chiếm đa số với 98%, dân tộc Hoa và nhóm dân  tộc  khác  chiếm  tỷ  lệ  thấp  chỉ  khoảng  1%.  Phần  lớn đối tượng trong nghiên cứu này là nữ giới,  chiếm  tỷ  lệ  56,4%.  Nghề  nghiệp  chủ  yếu  của  người dân Cần Thơ và Hậu Giang là làm nông  29,6%, nhóm làm việc nội trợ chiếm tỷ lệ 26,9%.  điều này là phù hợp bởi vì tỷ lệ nữ cao hơn nam.

Về trình độ học vấn, đa số là học hết tiểu học  và  trung  học  cơ  sở  (37,8%;  34,3%),  tỷ  lệ  người  dân  có  trình  độ  cao  đẳng,  đại  học,  sau  đại  học  thấp (7,2%; 2%), không biết chữ 4,7%.

Về lựa chọn nơi khám chữa bệnh là trạm y tế  xã: Việc lựa chọn khám chữa bệnh tại trạm y tế  xã  hay  không  phụ  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố:  khoảng  cách,  trình  độ  chuyên  môn  của  nhân  viên trạm, trang thiết bị, các yếu tố kinh tế xã hội  và nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu trong  thẻ  bảo  hiểm  y  tế  của  người  dân.  Khoảng  cách  từ nhà đến trạm y tế xã là yếu tố quan trọng ảnh  hưởng  đến  việc  lựa  chọn  nơi  khám  chữa  bệnh  của  người  dân  “Tôi  ít  ra  trạm  y  tế  khám  bệnh  vì  trạm y tế ở cách xa nhà tôi” (Nam 54 tuổi), “…như  tui nói lúc ban đầu thì trạm y tế ở đây là hoàn hảo đó,  sạch sẽ, thuốc men thì tuy không nhiều, nhưng quan  trọng ở chỗ là cán bộ y tế có nhiệt tình không. Bệnh  nhân tới mà người ta nhiệt tình khám rồi hướng dẫn  thuốc chỉ uống sao sao... Điều đó là quan trọng, [cơ  sở]  vật  chất  đôi  khi  không  tốt  nhưng  mà  người  ta  nhiệt tình làm tốt đôi khi còn hay hơn” (Nữ 63 tuổi).

451

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

lệ 42,5%,  46%.  Trường  hợp  bệnh  tăng  huyết  áp  cao ở người cao tuổi không chỉ được ghi nhận ở  Cần Thơ, Hậu Giang mà còn ở những nơi khác.

KẾT LUẬN

Tỷ  lệ  có  thẻ  BHYT  tại  Hậu  Giang  là  14,9%

thấp hơn so với tại Cần Thơ là 15,7%.

Trong vòng 1 tháng qua, tỷ lệ người dân có  nghe  thông  tin  về  chăm  sóc  sức  khỏe  khá  cao,  chiếm 68,1%,  trong  đó  tỷ  lệ  người  dân  tiếp  cận  thông  tin  về  chăm  sóc  sức  khỏe  ở  2  nơi  tương  đương  nhau  (36,5%  và  31,6%).  Điều  này  có  thể  do  Cần  Thơ  và  Hậu  Giang  có  vị  trí  địa  lý  giáp  ranh nên độ bao phủ của các phương tiện thông  tin đại chúng cơ bản đến được với người dân.

Tỷ lệ người dân tiếp cận thông tin về CSSK ở  Hậu Giang lại cao hơn so với tại Cần Thơ (36,5%  và 31,6%).

Tỷ lệ người dân đến trạm y tế khám ở Hậu

Giang và Cần Thơ lần lượt là 18,4% và 12,5%.

Tỷ lệ trẻ em bị các bệnh về hô hấp chiếm tỷ  lệ  cao  nhất  26%,  tiếp  đó  là  béo  phì  14,2%.  Các  bệnh về tiêu hóa, nhiễm trùng lần lượt chiếm tỷ  lệ  8,6%  và  6,5%.  Tỷ  lệ  béo  phì  chiếm  14,2%,  trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng là 3,3%.

Tỷ  lệ  người  bệnh  đến  bệnh  viện  tỉnh,  bệnh  viện trung ương cao nhất, chiếm 36,9%. Kế tiếp  là đến bệnh viện huyện 32,4%, tỷ lệ người bệnh  đến trạm y tế khám chữa bệnh chỉ chiếm 17,6%.

Hiện  nay,  các  thông  tin  về  chăm  sóc  sức  khỏe  được  phổ  biến  tới  mọi  người  dưới  nhiều  hình thức đa dạng, phong phú. Cùng một thông  tin nhưng người dân có thể biết được qua những  nguồn khác nhau như: cán bộ y tế, truyền hình,  phát  thanh,  loa  phóng  thanh,  tờ  rơi,  sách  báo,  pano, áp phích…Kết quả từ nghiên cứu này cho  thấy nguồn thông tin về chăm sóc sức được tiếp  cận  nhiều  nhất  là  từ  truyền  hình,  phát  thanh  chiếm  80,2%.  So  sánh  giữa  2  nơi,  ta  thấy  đa  số  người dân ở Cần Thơ biết thông tin về chăm sóc  sức  khỏe  qua  truyền  hình,  phát  thanh  là  44%  nhiều hơn Hậu Giang (36,1%). Tuy nhiên, về các  thông  tin  được  cán  bộ  y  tế  cung  cấp  thì  tỷ  lệ  ở  Hậu Giang lại cao hơn. Điều này phù hợp bởi vì  người dân ở đây đến trạm y tế khám bệnh nhiều  hơn ở Cần Thơ (18,4% và 12,5%) nên được phổ  biến thông tin về y tế nhiều hơn.

Trong nghiên cứu này có mối liên quan có ý  nghĩa  thống  kê  giữa  giới  tính  và  sử  dụng  dịch  vụ y tế. Tỷ lệ nam giới sử dụng dịch vụ y tế cao  hơn  nữ  1,3  lần,  tuy  nhiên  không  có  mối  liên  quan có ý nghĩa thống kê giữa việc có sử dụng  thẻ BHYT và nơi sử dung DVYT.

Xin chân thành cám ơn sự tài trợ của Tổ chức Y  tế  thế  giới  (WHO)  trong  việc  thực  hiện  nghiên  cứu  này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

Diệp Thị Minh Phúc, Quách Toàn Thắng, Bùi Đại Lịch (2005),  Điều tra thực trạng sức khỏe và nhu cầu chăm sóc sức khỏe  người cao tuổi phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết.Y  học thành phố Hồ Chí Minh, tập 9, phụ bản 1‐2005, tr.143‐146.  Dương  Đình  Thiện  (1996),  Các  đề  cập  nghiên  cứu  sức  khoẻ  cộng đồng, NXB Y học, Hà Nội.  Trương  Việt  Dũng,  Nguyễn  Thanh  Tâm  (1995),  Chất  lượng  DVYT công cộng và những quyết định của các hộ gia đình về  CSSK ở 4 xã thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Khi được hỏi về các loại bệnh gặp phải trong  1 tháng qua, ở trẻ em ghi nhận có 26% số trẻ mắc  có bệnh hô hấp. Bệnh đường hô hấp thường phỏ  biến ở trẻ nhỏ nên tỷ lệ cao nhất. Ở nhóm người  lớn,  ta  thấy  tỷ  lệ  mắc  bệnh  xương  khớp  trong  một tháng qua cao nhất 28,4%, kế đó là cảm cúm  23,1%. Tăng huyết áp và bệnh xương khớp khá  phổ biến ở người già do đó tỷ lệ ghi nhận được  từ  nghiên  cứu  là  phù  hợp  (35,8%,  24,2%).  So  sánh  với  kết  quả  từ  nghiên  cứu  “Điều  tra  thực  trạng  sức  khỏe  và  nhu  cầu  chăm  sóc  sức  khỏe  người  cao  tuổi  phường  Đức  Nghĩa,  thành  phố  Phan  Thiết”(1),  ta  thấy  rằng  bệnh  lý  về  xương  khớp, tăng huyết áp ngày càng phổ biến, với tỷ

452

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ỨNG DỤNG KỸ THUẬT SẮC KÝ LỎNG GHÉP KHỐI PHỔ   TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG AXÍT AMIN   TRÊN NỀN MẪU NƯỚC MẮM

Nguyễn Đức Thịnh*, Trần Đại Nghĩa*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nước mắm là một loại thực phẩm phổ biến tại Việt nam. Hàm lượng các axít amin cho thấy

chất lượng của sản phẩm nước mắm.

Mục tiêu: Sử dụng sắc ký lỏng ghép khối phổ phân tích axít amin không dẫn xuất trên nền mẫu nước mắm.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực nghiệm.

Kết  quả:  Độ đúng của phương pháp từ 80,59% đến 94,66%. Độ lập lại của phương pháp có hệ số biến  động (RSD%) từ 1,03% đến 2,69%. Độ tái lập nội bộ của phương pháp có hệ số biến động (RSD%) từ 4,21%  đến 7,19%. Giới hạn định lượng của phương pháp từ 0,05 μmol/g đến 0,10 μmol/g. Độ không đảm bảo đo của  phương pháp từ 8,44% đến 21,34%.

Kết luận: Phưong pháp sắc ký lỏng ghép khối phổ là phương pháp đơn giản để phân tích axít amin trên nền

mẫu nước mắm.

Từ khóa: Sắc ký lỏng, khối phổ, axít amin, nước mắm.

ABSTRACT

APPLICATION OF LIQUID CHROMATOGRAPHY COUPLED WITH MASS SPECTROMETRY TO  DETERMINE AMINO ACIDS IN FISH SAUCE SAMPLE

Nguyen Duc Thinh, Tran Dai Nghia

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 451 ‐456

Bacground: Fish sauce is a popular food in Vietnam. Amino acids content show the quality of fish sauce

product.

Objectives: Using liquid chromatography mass spectrometry analysis of underivative amino acids on the

fish sauce samples.

Methods: Empirical Research.

Results: The accuracy of method from 80.59% to 94.66%. Repeatability of the method with a coefficient of  variation (RSD%) from 1.03% to 2.69%. Internal reproducibility of the method with a coefficient of variation  (RSD%) from 4.21% to 7.19%. The limit of quantification method from 0.05 μmol / g to 0.10 μmol / g. The  measurement uncertainty of the method from 8.44% to 21.34%.

Conclusions: Liquid chromatography mass spectrometry method is simple to analyze amino acid on the fish

sauce samples.

Keywords: liquid chromatography, mass spectrometry, amino acid, fish sauce.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay nước mắm là một loại nước chấm

được sử dụng rộng rãi tại các nước Đông Nam  Á  trong  đó  có  Việt  Nam.  Nước  mắm  là  một  dung  dịch  màu  nâu  hoặc  màu  nâu  đậm  được

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Đức Thịnh  ĐT: 0905166759

Email: nguyenducthinh@ihph.org.vn

453

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

sắc  ký  lỏng  ghép  khối  phổ  (LC  MS)(4,1,5).  Việc  phân  tích  các  axít  amin  bằng  sắc  ký  ghép  khối  phổ có độ tin cậy cao nhờ tính chất chọn lọc của  khối  phổ  có  thể  nhận  diện  được  các  axít  amin  khác nhau mặc dù chúng có cùng thời gian lưu  giữ trên cột. Do đó khi phân tích ta có thể điều  chỉnh tỷ  lệ  thành  phần  pha  động  rút  ngắn  thời  gian phân tích qua đó sẽ tiết kiệm chi phí,  thời  gian nâng cao khả năng phân tích mẫu.

Nhìn  chung  các  phương  pháp  phân  tích  bằng  kỹ  thuật  sắc  ký  ghép  khối  phổ  hiện  nay  đều  dựa  trên  kỹ  thuật  dẫn  xuất  hóa  trước  cột.  Do đó kỹ thuật phân tích này quá trình chuẩn bị  mẫu phức tạp, tốn thời gian, giá thành cao(2,3).

Nghiên cứu Y học  hình  thành  từ  quá  trình  thủy  phân  của  cá  với  muối. Tỷ lệ muối và cá trong quá trình sản xuất  nước mắm thay đổi từ 1:6 đến 1:2 tùy thuộc vào  từng nước sản xuất. Nước mắm có nhiều tên gọi  khác  nhau  tùy  theo  mỗi  nước  như  nước  mắm  của  Việt  nam,  nampla  của  Thái  lan,  patis  của  Philíppin,  bakasang của  Indonesia  hay  budu  của  Malaysia. Các nước khác nhau sẽ sản xuất nước  mắm theo các  qui  trình  khác  nhau  vì  vậy  nước  mắm  sẽ  có  các  hương  vị  khác(4,2).  Nhìn  chung  quá  trình  sản  xuất  nước  mắm  là  một  quá  trình  gồm các bước chính là trộn hỗn hợp cá với muối,  sau  đó  lên  men  tại  áp  suất  bình  thường  trong  thùng  kín  tại  nhiệt  độ  từ  30oC  đến  40oC  trong  khoảng  thời  gian  từ  6  đến  12  tháng.  Sau  quá  trình lên men này được lọc sau đó có thể thêm  vào  đường,  sodium  glutamate,  và  các  chất  tạo  hương để trở thành sản phẩm cuối cùng(4,2).

Do  qui  trình  sản  xuất,  cũng  như  thành  phần  các  chất  thêm  vào  nước  mắm  rất  đa  dạng.  Vì  vậy  trong  việc  đánh  giá  chất  lượng  của  nước  mắm  chỉ  tiêu  hàm  lượng  các  axít  amin  trong  nước  mắm  là  một  chỉ  tiêu  nói  lên  chất lượng dinh dưỡng cũng như hương vị của  sản phẩm nước mắm.

Để  khắc  phục  các  nhược  điểm  của  phương  pháp  phân  tích  axít  amin  trực  tiếp  bằng  sắc  ký  lỏng ghép khối phổ chúng tôi tiến hành nghiên  cứu  phương  pháp  phân  tích  trực  tiếp  các  axít  amin  trong  nền  mẫu  nước  mắm  bắng  cách  lựa  chọn  cột  phân  tích  và  pha  động  thích  hợp  cho  cột tách cũng như qui trình xử lý mẫu tối ưu cho  nền  mẫu  này.  Trong  nghiên  cứu  tại  phòng  thí  nghiệm chúng tôi tiến hành khảo sát việc phân  tích  09  axít  amin  bao  gồm:  Threonine,  Valine,  Methinone,  Leucine,  Isoleucine,  Phenylalanine,  Histidine, Lysine, Arginine.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Hóa chất – Dung dịch

Chất  chuẩn  hỗn  hợp  axít  amin  (AA‐S‐18‐  Sigma),  trifluroacetic  acid  (T62200  –Sigma),  trichloroacetic acid (T6399‐Sigma), kẽm sulphate  (Z‐4750‐Sigma),  potassium  ferrocyanide  (P9387‐ Sigma),  acetonitrile  (34998‐Sigma),  methanol  (34860‐Sigma),  bột  silicagel  C18  (5982‐1382‐ Agilent), bột than hoạt tính (5982‐4482‐Agilent).  Dung  dịch  chuẩn  gốc  axít  amin  có  hàm  lượng  2,5 μmol/ml được bảo quản ở nhiệt độ 4oC.

Để  phân  tích  hàm  lượng  axít  amin  trong  nước  mắm  trước  đây  các  qui  trình  phân  tích  thông  thường  sử  dụng  các  hệ  thống  phân  tích  axít  amin  chuyên  dụng  dựa  trên  nguyên  tắc  là  các axít amin có trong nước mắm đầu tiên được  tách  bằng  sắc  ký  ion  với  cột  tách  và  pha  động  chuyên dụng sau đó được dẫn xuất hóa sau cột  với  ninhdrin  và  xác  định  bằng  đầu  dò  UV  hay  dẫn xuất hóa với OPA sau đó xác định bằng đầu  dò  hùynh  quang.  Việc  phân  tích  bằng  kỹ  thuật  dẫn  xuất  hóa  sau  cột  là  một  quá  trình  đòi  hỏi  thời  gian  phân  tích  dài  từ  90‐120  phút  cho  một  mẫu  phân  tích,  các  hóa  chất  dung  môi  dung  phân tích đều phải đặt hàng của nước ngòai của  nước ngòai do đó giá thành phân tích rất cao(2).

Hiện nay với sự phát triển của kỹ thuật khối  phổ nhiều phương pháp phân tích mới được áp  dụng cho việc phân tích các axít amin dựa trên  kỹ thuật sắc ký khí ghép khối phổ (GC‐MS) hay

Chuẩn bị dãy dung dịch chuẩn làm việc của  các  axít  amin  với  các  nồng  độ  0,5  μmol/L,  1  μmol/L,  2,5  μmol/L,  10  μmol/L,  25  μmol/L,  50  μmol/L, 100 μmol/L và 250 μmol/L từ dung dịch  chuẩn gốc 2,5 μmol/ml với dung môi pha chuẩn  là methanol.

454

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Thiết bị

Hệ  thống  sắc  ký  lỏng  ghép  khối  phổ  LC  MS/MS  bao  gồm  khối  phổ  ba  tứ  cực  ABCiex  Triple Quad 5500 với bộ nguồn ion hóa Turbo‐V  ghép nối với sắc ký lỏng Shimadzu UFLCXR bao  gồm  bơm  Shimadzu  20ADXR,  bộ  tiêm  mẫu  Shimadzu  SIL‐20ACXR,  bộ  ổn  cột  Shimadzu  CTO‐20AC, bộ điều khiển Shimadzu CBM‐20A.  Toàn bộ hệ thống sắc ký và khối phổ được kiểm  soát, điều khiển bởi phần mềm Analyst 1.5.1 của  hãng  ABCiex.  Cột  tách  chiết  sử  dụng  là  cột  Primesep  100:  250x  4,6  mm,  đường  kính  hạt  5  μm  và  cột  bảo  vệ  được  cung  cấp  bởi  hãng  SIELC‐Hoa kỳ.

Xử lý mẫu

chính xác trung gian (inter – precision) hay còn  gọi  là  độ  tái  lập  nội  bộ  phòng  thí  nghiệm  Rw  (within –laboratory reproducibility) và độ tái lập  R  (Reproducibility)  giữa  các  phòng  thí  nghiệm.  Trong  điều  kiện  nghiên  cứu  chúng  tôi  chỉ  tiến  hành  khảo  sát  hai  thông  số  độ  lặp  lại  r  và  độ  chính  xác  trung  gian  Rw.  Độ  lập  lại  tiến  hành  phân  tích  06  mẫu  nước  mắm  có  cộng  chuẩn  trong  cùng  một  ngày  thí  nghiệm.  Độ  tái  lập  trung  gian  tiến  hành  phân  tích  06  mẫu  nước  mắm như ở trên ở một ngày phân tích khác. Giới  hạn  phát  hiện  (LOD)  và  giới  hạn  định  lượng  (LOQ)  của  phương  pháp,  tiến  hành  pha  loãng  mẫu nước mắm chứa các axít amin đến nồng độ  mà thiết bị phát hiện được chất phân tích cũng  như tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu nền của chúng. Giới  hạn phát hiện là giới hạn mà tỷ lệ tín hiện/nhiệu  nền ≥ 3 và giới hạn định lượng là giới hạn mà tỷ  lệ tín hiện/nhiệu nền ≥ 10. Độ không đảm bảo đo  của  phương  pháp  được  tính  dựa  trên  tài  liệu  SANCO/2004/2726rev4.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN.

Để nghiên cứu qui trình xử lý mẫu cho nền  nước mắm chúng tôi tiến hành thử nghiệm việc  làm  sạch  các  tạp  chất  trong  nền  theo  các  qui  trình  khác  nhau  bao  gồm:  làm  sạch  nền  mẫu  bằng  dung  dịch  trichlor  acetic  acid  10%;  làm  sạch nền mẫu bằng hỗn hợp dung dịch Carrez 1  và  2;  làm  sạch  nền  mẫu  bằng  kỹ  thuật  QuEChERS.

Tối  ưu  hóa  điều  kiện  của  sắc  ký  và  khối  phổ

Xác  định  các  thông  số  của  phương  pháp  phân tích

Tối ưu hóa điều kiện tách các axít amin được  thực  hiện  trên  cột  tách  Primesep‐100.  Qua  quá  trình  nghiên  cứu  chúng  tôi  đã  xác  định  được  thành phần pha động và chương trình chạy tối  ưu  để  có  thể  tách  hoàn  toàn  hỗn  hợp  các  axít  amin.  Chương  trình  chạy  của  quá  trình  sắc  ký  như sau: chế độ chạy là chế độ gradient với hai  thành phần pha động bao gồm acetonitrile: H2O  (30:70) chứa 0,05% trifluroacetic acid (pha động  A)  và  acetonitrile:  H2O  (30:70)  chứa  0,3%  trifluroacetic  acid  (pha  động  B).  Chương  trình  gradient  như  sau:  từ  0‐5  phút  chạy  100%  dòng  A, từ 5‐20 phút gradient từ 100% dòng A về 0%  dòng  A,  từ  20‐22  phút  0%  dòng  A,  sau  đó  chuyển về 100% dòng A. Quá trình phân tích kết  thúc sau 30 phút. Với thành phần pha động như  trên hỗn

Tiến hành khảo sát các thông số tối ưu quá  trình tách chiết của sắc ký cũng như các thông số  của khối phổ và khoảng tuyến tính, độ đúng, độ  chính  xác,  giới  hạn  phát  hiện,  giới  hạn  định  lượng, độ không đảm bảo đo của phương pháp  phân tích. Để khảo sát độ tuyến tính, tiến hành  dựng  đượng  chuẩn  của  các  axít  amin  với  các  nồng  độ  0,5  μmol/L,  1  μmol/L,  2,5  μmol/L,  10  μmol/L,  25  μmol/L,  50  μmol/L,  100  μmol/L  và  250  μmol/L.  Để  khảo  sát  độ  đúng  của  phương  pháp,  tiến  hành  phân  tích  mẫu  nước  mắm  có  thêm  chuẩn  tại  các  nồng  độ  2,5  μmol/L,  5  μmol/L  và  10  μmol/L.  Mỗi  nồng  độ  được  tiến  hành phân tích 06 lần. Để khảo sát độ chính xác  của phương pháp thông thường được xác định  bằng các thông số: độ lặp lại r (Repeatability), độ

455

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Hình 1: Quá trình tách các axít amin trên cột tách Primesep‐100.

Khối  phổ  ABciexTriple  Quad  5500  chạy  ở  chế  độ  phân  tích  MRM  với  chế  độ  ion  dương  được  tối  ưu  với  các  thông  số  cho  các  ion  phân  tích như bảng 1.

Bảng 1: Các thông số cơ bản của chế độ phân tích các  axít amin băng khối phổ ABciexTriple Quad 5500.  CE

Sau  đó  mẫu  được  lọc  qua  giấy  lọc  thô  để  loại  bỏ các thành phần kết tủa. Lấy toàn bộ dịch lọc  sau đó thêm vào 1,2 gram bột C18. Lắc đều, sau  đó ly tâm 3.000 vòng/10 phút. Tiếp tục chuyển  toàn  dung  dịch  sang  ống  nhựa  chứa  300  mg  bột than hoạt tính. Lắc đều, sau đó ly tâm 3000  vòng/10 phút. Chuyển toàn bộ dung dịch sang  bình định mức 50 ml, sau đó tiếp tục định mức  đến vạch bằng methanol. Lọc dung dịch bằng  phin  lọc  nylon  0,45  μm  vào  lọ  để  phân  tích  trên sắc ký lỏng.

Axít amin DP

Các thông số của phương pháp phân tích

Ion mẹ (m/z) 175 156 132 132 147 150 166 120 118 Ion con (m/z) 70 110 86 86 84 104 120 74 72 70 60 65 65 90 50 50 50 50 28 19 15 15 21 16 19 15 15 Arginine Histidine Leucine Isoleucine Lysine Methinone Phenylalanine Threonine Valine

Xử lý mẫu

Khoảng tuyến tính của phương pháp phân tích  Khoảng  tuyến  tính  của  hỗn  hợp  các  axít  amin  với  nồng  độ  từ  0,5  μmol/L  đến  250  μmol/L cho hệ số tương quan của toàn bộ các  axít amin ≥ 0,99.

Độ đúng của phương pháp phân tích

truyền

Độ  đúng  của  phương  pháp  phân  tích  được  khảo sát tại các nồng độ 2,5 μmol/L, 5 μmol/L và  10 μmol/L. Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi  nhận thấy hệ số thu hồi trung bình của các axít  amin từ 80,59% đến 94,66%. Hệ số thu hồi trung  bình cao nhất là arginine (94,66%) và thấp nhất  là lysine (80,59%). Kết quả chi tiết được trình bày  trong bảng 2.

Việc xử lý mẫu bằng các phương pháp kết  tủa  thống  sử  dụng  dung  dịch  trichloroatetic  acid  10%  hay  hỗn  hợp  dung  dịch Carrez cho hệ số thu hồi thấp. Hệ số thu  hồi  thấp  này  có  thể  xảy  ra  do  quá  trình  đồng  kết tủa các axít amin cần phân tích với các chất  tạp  và  kỹ  thuật  xử  lý  mẫu  bằng  QuEChERS  cho hệ số thu hồi tốt nhất. Quá trình xử lý mẫu  bằng QuEChERS được tiến hành như sau: cân  khoảng 0,5 gram mẫu nước mắm cho vào tube  nhựa 50 ml, thêm tiếp 50 ml methanol, lắc đều.

Độ chính xác của phương pháp phân tích

456

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012   Độ lặp lại của phương pháp

khác nhau là valine (7,19). Kết quả chi tiết được  trình bày trong bảng 2.

Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của

phương pháp

Qua quá trình phân tích mẫu xác định độ lặp  lại  của  phương  pháp  trong  cùng  một  lần  thí  nghiệm,  chúng  tôi  nhận  thấy  độ  lặp  lại  của  phương  pháp  có  hệ  số  biến  động  (RSD%)  nằm  trong khoảng từ 1,03 đến 2,69. Chất phân tích có  hệ  số  biến  động  (RSD%)  thấp  nhất  trên  cùng  một thí nghiệm là lysine (1,03) và chất có hệ số  biến động cao nhất trên cùng một thí nghiệm là  isoleucine (2,32). Kết quả chi tiết được trình bày  trong bảng 32

Độ tái lập nội bộ phòng thí nghiệm

Qua  thực  nghiệm  chúng  tôi  thu  được  giới  hạn phát hiện (LOD) của phương pháp từ 0,02 –  0,03 μmol/g và giới hạn định lượng của phương  pháp  từ  0,05  –  0,10  μmol/g  với  tỷ  lệ  tín  hiệu/nhiễu  nền  (S/N)  trung  bình  của  giới  hạn  định lượng từ 10,90 đến 17,36 cho các chất phân  tích. Kết quả chi tiết được trình bày trong bảng  2.

Độ không đảm bảo đo

Dựa  trên  các  số  liệu  của  quá  trình  xác  định  các  thông  số  của  phương  pháp  phân  tích  độ  không đảm bảo đo của các chất phân tích được  trình  bày  trong  bảng  2.  Độ  không  đảm  bảo  đo  của  các  chất  phân  tích  nằm  trong  khoảng  từ  8,44% đến 21,34%.

Qua quá trình phân tích mẫu xác định độ tái  lập  nội  bộ  của  phương  pháp  tại  phòng  thí  nghiệm  trong  các  ngày  phân  tích  khác  nhau,  chúng  tôi  nhận  thấy  tái  lập  nội  bộ  của  phương  pháp  có  hệ  số  biến  động  (RSD%)  nằm  trong  khoảng từ 4,21 đến 7,19. Chất phân tích có hệ số  biến động (RSD%) thấp nhất trên các ngày phân  tích khác nhau là phenylalanine (4,23) và chất có  hệ số biến động cao nhất trên các ngày phân tích

Chất phân tích Độ đúng (%) Độ lập lại (RSD%)

Bảng 2: Bảng thông số độ đúng, độ chính xác, độ tái lập, giới hạn phát hiện (MLOD), giới hạn định lượng  (MLOQ) và độ không đảm bảo đo của phương pháp phân tích.  Độ tái lập (RSD%) 4,34 7,19 4,21 5,16 5,71 4,34 5,06 4,98 4,23

Giới hạn định lượng (µmol/g) 0,10 0,10 0,10 0,05 0,05 0,10 0,10 0,10 0,05 Giới hạn phát hiện (µmol/g) 0,03 0,03 0,03 0,02 0,02 0,03 0,03 0,03 0,02 Threonine Valine Methinone Leucine Isoleucine Histidine Lysine Arginine Phenylalanine Độ không đảm bảo đo (U%) 13,22 13,78 12,79 11,33 11,64 12,20 21,34 8,44 8,83 89,69 90,55 88,83 90,98 91, 36 89,74 80,59 94,66 93,81 2,09 2,10 2,69 1,19 2,32 1,25 1,03 1,34 1,89

KẾT LUẬN

động (RSD%) từ 4,21% đến 7,19%. Giới hạn định  lượng  từ  0,05  μmol/g  đến  0,10  μmol/g.  Độ  không đảm bảo đo từ 8,44% đến 21,34%.

KIẾN NGHỊ

‐ Ứng dụng kỹ thuật sắc ký lỏng ghép khối  phổ để phân tích axít amin không dẫn xuất trên  nền mẫu nước mắm tại các labo phân tích thực  phẩm hiện nay có hệ thống LC MS/MS bao gồm  khối phổ ba tứ cực.

Qua nghiên cứu chúng tôi đã xây dựng được  một phương pháp đơn giản, có độ tin cậy cao để  xác  định  trực  tiếp  hàm  lượng  axít  amin  trong  nền  mẫu  nước  mắm.  Phương  pháp  phân  tích  này  tiến  hành  nhanh  chóng,  có  độ  tin  cậy  cao  nhờ sử dụng các công cụ phân tích hiện đại là hệ  thống sắc ký ghép khối phổ ba tứ cực. Qui trình  phân tích có độ đúng cho các chất từ 80,59% đến  94,66%. Độ lập lại có hệ số biến động (RSD%) từ  1,03% đến 2,69%. Độ tái lập nội bộ có hệ số biến

457

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

3.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Jin‐zhong  X,  Shen  J,  Yi‐yu  C,  and  Hai‐bin  Q  (2009).  GC‐MS  Analysis of Amino Acids in Extract of Cornus Caprae Hircus,  Chemical Research in Chinese Universities, 25(6), 812—816.

2.

Dauner  M  and  Sauer  U  (2000).  GC‐MS  Analysis  of  Amino  Acids  Rapidly  Provides  Rich  Information  for  Isotopomer  Balancing, Biotechnology Progress, Volumne 16, 642−649.  Ibrahim  SM  (2010).  Utilization  of  Gambusia  (Affinis  affinis)  For  Fish  Sauce  Production,  Turkish  Journal  of  Fisheries  and  Aquatic Sciences 10: 169‐172.

5.

4. Mohamed  HN,  Man  YC,  Manap  SMYA  (2012).  Tentative  Identification  of  Volatile  Flavor  Compounds  in  Commercial  Budu, a Malaysian Fish Sauce, Using GC‐MS, Molecules, 17,  5062‐5080.  Thiele  B,  Stein  N,  Oldiges  M,  Hofmann  D  (2012).Direct  analysis of underivatized amino acids in plant extracts by LC‐ MS‐MS, Methods in Molecular Biology, 828, 317‐28.

458

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

XÂY DỰNG QUI TRÌNH ĐỊNH LƯỢNG VI KHUẨN BIFIDOBACTERIUM  SPP. TRONG CÁC SẢN PHẨM TRỢ SINH (PROBIOTIC)

Hoàng Hoài Phương*, Nguyễn Đỗ Phúc, Nguyễn Thị Anh Đào

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bifidobacterium spp. là một trong những vi khuẩn có lợi thường được sử dụng để tạo các sản  phẩm  probiotic.  Tuy  nhiên  hiện  nay  chỉ  có  ISO  29981:  2010  là  phương  pháp  dùng  để  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sữa  và  các  sản  phẩm  từ  sữa.  Do  vậy,  việc  xây  dựng  qui  trình  định  lượng  Bifidobacterium spp. trong sản phẩm probiotic là cần thiết nhằm phục vụ cho công tác kiểm nghiệm các sản phẩm  probiotic hiện nay.

Mục  tiêu  nghiên  cứu:  Xây  dựng  qui  trình  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sản  phẩm  trợ  sinh

(probiotic).

Phương pháp nghiên cứu: Định lượng Bifidobacterium spp. theo ISO 29981: 2010 có sửa đổi bổ sung về  môi  trường  nuôi  cấy,  thời  gian  xử  lý  mẫu  trong  sản  phẩm  trợ  sinh  (probiotic)  và  xác  định  giá  trị  sử  dụng  phương pháp theo ISO 16040:2003 về độ đúng và độ chụm (độ lặp lại và độ tái lặp).

Kết  quả  nghiên  cứu: Qui trình định lượng Bifidobacterium spp. trong sản phẩm probiotic bằng phương  pháp đếm đĩa sử dụng các môi trường thạch thích hợp với từng sản phẩm probiotic: thạch TOS‐MUP (sữa, sản  phẩm từ sữa và sản phẩm probiotic có bổ sung Bifidobacterium spp. cùng với E. faecium); thạch TOS‐MUP hoặc  RAF  5.1  (sản  phẩm  probiotic  có  bổ  sung  Bifidobacterium  spp.  cùng  với  vi  khuẩn  Lactobacillus  spp.  và  S.thermophillus); thạch TOS (sản phẩm chỉ bổ sung duy nhất Bifidobacterium spp.). Thời gian cần thiết cho xử  lý mẫu là: sản phẩm probiotic dạng viên nén, dạng cốm và viên nang: 30 phút; sản phẩm probiotic dạng bột: 20‐ 30 phút. Độ đúng của phương pháp đạt > 96% trong tất cả các môi trường nuôi cấy. Độ lặp lại Sr ≤ 0,07 (đạt  yêu cầu theo ISO 29981:2010 với Sr =0.08 (sản phẩm bột) and Sr =0,071 (sản phẩm rắn). Độ tái lặp SR ≤ 0,144  (đạt yêu cầu theo ISO 29981:2010 với SR =0,189 (sản phẩm bột) và SR =0,144 (sản phẩm rắn).

Kết luận: Qui trình định lượng Bifidobacterium spp. bằng phương pháp đếm đĩa đã xây dựng thích hợp cho

định lượng Bifidobacterium spp. trong sản phẩm probiotic.

Từ khóa: Bifidobacterium‐probiotic

ABSTRACT

SET UP THE PROCEDURE FOR THE ENUMERATION OF Bifidobacterium spp. IN PROBIOTIC  PRODUCTS

Hoang Hoai Phuong, Nguyen Do Phuc, Nguyen Thi Anh Đao

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 457 ‐ 462

Bacground:  Bifidobacterium  spp.  are  the  usefull  bacteria  that  using  to  make  the  probiotic  products.  However, up to now, there is only used ISO 29981: 2010 for enumeration of Bifidobacterium spp. in milk and  milk  products.  Therefore,  set  up  procedure  for  enumeration  of  Bifidobacterium  spp.  in  probiotic  products  is  necessary.

Objectives: Set up procedure for enumeration of Bifidobacterium spp. in probiotic products.

Methods: Determine the enumeration of Bifidobacterium spp. based on ISO 29981:2010 with many kinds of

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths.Hoàng Hoài Phương  ĐT: 0976586438      Email: hoanghoaiphuong@ihph.org.vn

459

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  culture  medium  and  time  of  sample  treatment  in  probiotic  products.  Validation  of  method  based  on  ISO/TS  16140:2003 for determind the recovery and precision (repeatability and reproducibility).

Results: Determine the enumeration of Bifidobacterium spp. in probiotic products by plate count on TOS‐ MUP agar (milk, milk products and probiotic products supplement Bifidobacterium spp. and E. faecium); TOS‐ MUP  agar  or  RAF  5.1  agar  (probiotic  products  supplement  Bifidobacterium  spp.,  Lactobacillus  spp.  and  S.thermophillus); TOS agar (for probiotic contains only Bifidobacterium spp.). and time of sample treatment for  capsule, tablet and granulate products is 30 minutes and powder products is 20‐30 minutes. The recovery is more  than 96% in all culture media. The  repeatability  Sr ≤  0.07  (meet  the  requirement  of  ISO  29981:2010  with  Sr  =0.08 (powder products) and Sr =0.071 (solid products). The reproducibility SR ≤ 0.144 (meet the requirement of  ISO 29981:2010 with SR =0,189 (powder products) và SR =0.144 (solid products).

Conclusions: Can be applied the procedure enumeration of Bifidobacterium spp. by plate count for probiotic

products.

Keywords: Bifidobacterium‐probiotic

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bifidobacterium  spp.  (ngoại  trừ  B.  denticum)  là  vi khuẩn có lợi cho đường tiêu hóa và đóng vai  trò quan trọng đối với sức khỏe người bởi chúng  ức chế sự nhân lên và cư trú của vi khuẩn có hại  ở ruột già bằng cách tạo thành acid lactic và aicd  acetic. Ngoài ra, Bifidobacterium spp. còn có hoạt  tính chống ung thư, giúp giảm cholesterol trong  huyết  thanh,  làm  giảm  huyết  áp,  tăng  sự  dung  nạp  đường  lactose,  kích  thích  hệ  miễn  dịch  cơ  thể, tổng hợp các vitamin và giúp nhanh chóng  bình phục sau khi mắc các bệnh tiêu chảy và sử  dụng nhiều kháng sinh(7,9). Vì thế, Bifidobacterium  spp.  đã  được  sử  dụng  nhằm  sản  xuất  các  chế  phẩm vi sinh vật sống (probiotic) để đưa vào cơ  thể người đem lại những hiệu quả có lợi cho cơ  thể.

có thể sử dụng các phương pháp như đếm đĩa,  phương pháp sinh học phân tử (các thử nghiệm  dựa  trên  mẫu  dò  DNA,  PCR  và  realtime‐PCR)  và phương pháp enzyme(1,3,6). Phương pháp ISO  29981:  2010(5)  đang  được  áp  dụng  phổ  biến  để  định lượng Bifidobacterium spp. trong sữa và các  sản phẩm từ sữa. Nhưng thực tế hiện nay nhiều  sản  phẩm  khác  sữa  có  bổ  sung  Bifidobacterium  spp.  và  một  số  vi  khuẩn  có  lợi  khác  chưa  có  phương  pháp  chuẩn.  Chính  vì  lý  do  như  vậy,  trên  cơ  sở  của  phương  pháp  ISO  29981:  2010,  chúng  tôi  tiến  hành  khảo  sát  thêm  một  số  môi  trường khác, với mục đích tìm được môi trường  tối ưu trong xét nghiệm Bifidobacterium spp. trên  nhiều sản phẩm probiotic và xác định giá trị sử  dụng của qui trình để có thể áp dụng cho công  tác  kiểm  nghiệm  hiện  nay.  Do  vậy,  chúng  tôi  thực hiện đề tài “Xây dựng qui trình định lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sản  phẩm  trợ  sinh  (probiotic)”.

Mục tiêu nghiên cứu

Thiết lập qui trình xử lý mẫu và so sánh khả  năng  phân  lập  Bifidobacterium  spp.  trên  một  số  loại  môi  trường  thạch  từ  đó  đề  xuất  một  qui  trình  hoàn  chỉnh  để  định  lượng  số  vi  khuẩn  sống Bifidobacterium spp. trong các sản phẩm trợ  sinh.

Thông thường, để các sản phẩm probiotic có  những  tác  dụng  mong  muốn  thì  cần  phải  phải  đảm  bảo  số  lượng  tế  bào  còn  sống  sót  (>106  CFU/g  hoặc  ml)  trong  sản  phẩm  suốt  thời  gian  tồn trữ và tiêu thụ(8). Vì thế, việc sản xuất các sản  phẩm  có  chứa  vi  khuẩn  Bifidobacterium  spp.  cần  phải đảm bảo mức độ sống sót của vi khuẩn này  >106 CFU/g ở thời điểm dùng sản phẩm. Chính  vì  thế,  cần  phải  có  một  phương  pháp  đáng  tin  cậy để xác định số lượng  Bifidobacterium spp.  có  trong sản phẩm probiotic.

Xác định giá trị sử dụng của qui trình “Định  lượng Bifidobacterium spp. trong các sản phẩm trợ  sinh ”

Hiện  nay,  để  định  lượng  và  định  danh  Bifidobacterium spp. có trong sản phẩm  probiotic

460

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Xác định giá trị sử dụng theo phương pháp

16140:2003(4) vàà guideline FAO(2).

Ứng dụng qui trình được xây dựng để khảo  sát  số  lượng  vi  khuẩn  sống  Bifidobacterium  spp.  trong một số loại sản phẩm trợ sinh.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

sát  qui

trình  định

Ðối tượng nghiên cứu

Chủng vi khuẩn: Bifidobacterium breve ATCC  (hãng

bifidum  ATCC

11863

Khảo  lượng  Bifidobacterium  spp.  với  các  môi  trường  thạch khác nhau bằng các chủng vi khuẩn  đối chứng

15700,  B.  Microbiologics‐ Mỹ).

Các  sản  phẩm  probiotic:  sữa  bột  và  sản  phẩm từ sữa (07 mẫu), thực phẩm chức năng (19  mẫu).

tiến  hành  định

Phương pháp nghiên cứu

Sử  dụng  huyền  dịch  vi  khuẩn  đối  chứng  (Bifidobacterium breve ATCC 15700 hay B. bifidum  ATCC  11863)  với  nồng  độ  vi  khuẩn  khoảng  1‐ 2,0x108  CFU/ml,  lượng  Bifidobacterium  spp.  đồng  thời  trên  các  môi  trường thạch sau: MRS cải tiến, TOS, TOS‐MUP,  MRS‐NPNL, Columbia cải tiến (môi trường RAF  5.1 và môi trường Ecobion 2).   Kết  quả  được  trình bày trong bảng 1.

Trên  cơ  sở  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sữa  và  các  sản  phẩm  từ  sữa  theo  ISO  29981:  2010(5),  có  bổ  sung  một  số  môi  trường  chọn lọc khác MRS cải tiến, TOS, MRS‐NPNL và  môi trường Ecobion 2.

Bảng 1: Kết quả định lượng huyền dịch vi khuẩn đối chứng Bifidobacterium breve ATCC 15700 và B. bifidum  ATCC 11863

Chú thích: mỗi kết quả trên là kết quả trung bình (n=3) ± SD log CFU/ml.

Chủng đối chứng Kết quả (logCFU/ml) MRS cải tiến TOS TOS-MUP MRS-NPNL RAF 5.1 Ecobion 2 B. breve ATCC 15700 B. bifidum ATCC 11863 6.70±0,2 7,32±0,15 8,44±0,05 8,17±0,06 8,31±0,03 8,04±0,08 5,86±0,09 5,72±0,12 8,31±0,10 8,03±0,10 5,36±0,32 5,09±0,19

Khảo sát thời gian cần thiết cho quá trình  xử lý mẫu sản phẩm probiotic

Đối  các  sản  phẩm  probiotic  dạng  viên  nén,  viên nang và bột, khảo sát thời gian xử lý mẫu là  10, 20, 30 và 40 phút trong dung dịch kị khí vô  trùng và sử dùng môi trường TOS‐MUP để nuôi  cấy. Kết quả được trình bày trong bảng 5.

Kết quả bảng 1 cho thấy: từ cùng mỗi huyền  dịch  vi  khuẩn  đối  chứng  Bifidobacterium  breve  ATCC 15700 và B. bifidum ATCC 11863 ban đầu  nhưng đã cho kết quả định lượng Bifidobacterium  spp.  khác  nhau.  Môi  trường  thạch  TOS,  TOS‐ MUP  và  môi  trường  RAF  5.1  cho  kết  quả  định  lượng Bifidobacterium spp. cao hơn so với các môi  trường  như  MRS  cải  tiến,  MRS‐NPNL,  và  môi  trường Ecobion 2.

Bảng 2: Kết quả khảo sát thời gian cần thiết cho quá trình xử lý mẫu sản phẩm probiotic

Kết quả (CFU/g)

Dạng mẫu Viên nén

Như vậy, kết quả trong bảng 2 cho thấy:

Hạt cốm Viên nang Bột Stt 1 2 3 4 5 6 Mã số mẫu B1.1 B1.2 B3 B8 B2 B19 10 phút 7,0x104 2,0x105 3,0x106 1,3x105 5,6x105 4,9x104 20 phút 1,5x106 8,8x105 1,0x108 7,9x105 2,1x106 5,0x105 30 phút 6,0x106 1,8x106 5,0x108 2,0x106 3,4x106 4,2x105 40 phút 1,0x106 1,0x106 2,1x108 2,0x106 1,0x106 3,2x105

461

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đối  với  mẫu  sản  phẩm  probiotic  dạng  viên  nén, dạng cốm và viên nang: thời gian cần thiết  cho quá trình xử lý mẫu là 30 phút để có kết quả  định  lượng  vi  khuẩn  sống  Bifidobacterium  spp.  cao nhất.

thực  phẩm  chức  năng.  Mỗi  loại  mẫu  trên  được  phân  tích  ít  nhất  3  mức  độ  vi  khuẩn  (CFU/g)  khác nhau (từ nồng độ thấp, trung bình và cao  nhất),  mỗi  nồng  độ  vi  khuẩn  trong  mẫu  phân  tích  lặp  lại  5  lần  trên  cả  hai  môi  trường  TOS‐ MUP và RAF 5.1. Kết quả được trình bày trong  bảng 4.

Đối  với  mẫu  sản  phẩm  probiotic  dạng  bột:  thời gian cần thiết cho quá trình xử lý mẫu là 20‐ 30 phút để có kết quả định lượng vi khuẩn sống  Bifidobacterium spp. cao nhất.

Bảng 4: Kết quả xác định độ lặp lại của qui trình  định lượng Bifidobacterium spp. trong sản phẩm  probiotic

Xác định giá trị sử dụng của phương pháp

Xác định độ đúng (độ thu hồi)

Kết quả tính độ lặp lại Sr Mức 106 Mức 107 Mức 105 Mức 108 Mức 104 Sữa 0,06 0,05 0,05 / / TOS- MUP RAF 5.1 0,07 0,05 0,04 / /

/ 0,03 0,07 / 0,02

Gây  nhiễm  chủng  đối  chứng  Bifidobacterium  breve ATCC  15700  vào  2  loại  sản  phẩm  probitic  (sữa bột và bột thực phẩm chức năng không có  bổ  sung  Bifidobacterium spp.  và  các  vi  khuẩn  có  lợi khác) với nồng độ vi khuẩn là 106 vi khuẩn/g  mẫu  để  xác  định  độ  đúng.  Mỗi  sản  phẩm  này  được  thực  hiện  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  trên  2  môi  trường  thạch  là  TOS‐MUP  và  RAF  5.1. Thực hiện tương tự như vậy với chủng đối  chứng B. bifidum ATCC 11863. Kết quả trình bày  trong bảng 3.

Ở  bảng  4  cho  thấy:  độ  lặp  lại  của  qui  trình  định lượng Bifidobacterium spp. trong một số sản  phẩm probiotic trên 2 môi trường thạch là TOS‐ MUP và RAF 5.1 tương đối gần nhau và đều có  giá  trị  Sr  Sr ≤  0,07  (đạt  so  với  yêu  cầu  theo  ISO  29981:2010  là  Sr  =0,08  (sản  phẩm  bột)  và  Sr  =0.071 (sản phẩm dạng rắn).

Xác định độ tái lặp

Thực phẩm chức năng TOS- MUP RAF 5.1 / 0,07 0,07 / 0,06

Bảng 3: Kết quả xác định độ đúng (%) của qui trình  định lượng Bifidobacterium spp. trong các sản phẩm  được gây nhiễm Bifidobacterium breve và B. bifidum

Chủng đối chứng (%)

Chọn  2  nền  mẫu  tự  nhiên  (sản  phẩm  probiotic  bán  trên  thị  trường)  là  sữa  và  sản  phẩm  từ  sữa;  thực  phẩm  chức  năng.  Mỗi  một  nền  mẫu  chọn  1‐10  sản  phẩm  khác  nhau,  được  phân tích bởi 2 kiểm nghiệmviên và sử dụng hai  môi  trường  thạch:  TOS‐MUP  và  môi  trường  RAF 5.1. Kết quả được trình bày trong bảng 5.

thực  hiện  định

Sữa bột TOS-MUP RAF 5.1 TOS-MUP RAF 5.1 B. breve ATCC 15700 98,07 97,42 97,89 96,84 B. bifidum ATCC 11863 100,48 98,30 99,91 99,03 Bột thực phẩm chức năng

Bảng 5: Kết quả xác định độ tái lặp của qui trình  định lượng Bifidobacterium spp. trong sản phẩm  probiotic

Ở  bảng  3  cho  thấy:  độ  đúng  của  qui  trình  định  lượng  Bifidobacterium  spp. trong  sản  phẩm  probiotic  này  khi  lượng  Bifidobacterium  spp.  trên  2  môi  trường  thạch  là  TOS‐MUP và RAF 5.1 đều đạt yêu cầu (> 80%).

Loại mẫu Môi trường

Sữa

Xác định độ chụm

Xác định độ lặp lại

Độ

lặp

lại  của  qui  trình  định

lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sản  phẩm  probiotic,đ  được thực hiện trên các nền mẫu tự nhiên  (sản  phẩm  probiotic  bán  trên  thị  trường)  là  sữa  và

Ở  bảng  5  cho  thấy:  độ  tái  lặp  của  qui  trình  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  gần  bằng  nhau  và  đều  có  giá  trị  SR ≤  0,144  (đạt  so  với  yêu  cầu

Thực phẩm chức năng TOS-MUP RAF 5.1 TOS-MUP RAF 5.1 Kết quả tính độ tái lặp SR 0.06 0.06 0.10 0.11

462

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Kết quả (logCFU/g hoặc ml)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  theo ISO 29981:2010 là SR =0,189 (sản phẩm dạng  bột) và SR =0, 144 (sản phẩm dạng rắn).

TT Mã số mẫu Môi trường TOS-MUP Môi trường RAF 5.1

qui

trình  định

<10 <10 16 B12 Số lượng Bifidobacterium spp. (theo công bố của nhà sản xuất) B. bifidum ≥2x108/0.45g B. bifidum 4,32 ± 0,06 4,38 ± 0,07

Khảo  sát  số  lượng  vi  khuẩn  sống  Bifidobacterium spp. trong  một  số  loại  sản  phẩm probiotic   Ứng  dụng

<10 <10

B. lactis BB12 B. lactis BB12 17 B13 18 B14 B.longum 1,0x108/g 19 B15 B. bifidum 3,0x106/g 6,44 ± 0,05 6,62 ± 0,05 6,65 ± 0,05 6,64 ± 0,03 20 B16 21 B17 6,41 ± 0,15 6,76 ± 0,02 22 B18 B. lactis 1,0x106/g 7,51 ± 0,18 7,06 ± 0,08

B. longum 1x108 CFU/g

23 B19 5,72 ± 0,03 5,61 ± 0,07 24 B20 B. lactis 1,0x107/g 7,19 ± 0,05 7.41 ± 0,04 25 B21 <1 <1

lượng  Bifidobacterium spp. trong một số loại sản phẩm  probiotic  như  sau:  sữa  bột  và  sản  phẩm  từ  sữa  (07 mẫu), thực phẩm chức năng (19 mẫu). Bởi vì  26  sản  phẩm  probiotic  này  đều  có  bổ  sung  Bifidobacterium spp.  và  các  vi  khuẩn  có  lợi  khác  (theo  công  bố  ghi  trên  nhãn  sản  phẩm  của  nhà  sản xuất) nên mỗi sản phẩm probiotic này được  tiến  hành  định  lượng  Bifidobacterium  spp.  đồng  thời trên hai môi trường thạch sau: TOS‐MUP và  môi  trường  RAF  5.1.  Kết  quả  được  trình  bày  ở  bảng 6.

Chú thích: mỗi kết quả trên là kết quả trung bình (n≥3) ±  SD log CFU/ml hoặc ml.

Kết  quả  bảng  6  cho  thấy  môi  trường  TOS‐ MUP  thích  hợp  cho  định  lượng  Bifidobacterium  spp. trong hầu hết các sản phẩm Probiotic.

26 B22 B. lactis B. longum 1,0x107/g 6,69 ± 0,09 6,94 ± 0,02

KẾT LUẬN

Kết quả (logCFU/g hoặc ml)

Bảng 6: Kết quả khảo sát số lượng vi khuẩn sống  Bifidobacterium spp. trong một số loại sản phẩm  probiotic  TT Mã số mẫu

Trên

sở  qui

trình  định

Môi trường TOS-MUP Môi trường RAF 5.1 Số lượng Bifidobacterium spp. (theo công bố của nhà sản xuất) <10 <10 6,76 ± 0,08 6,17 ± 0,06

lượng  Bifidobacterium  spp.  trong  sữa  và  sản  phẩm  từ  sữa  theo  ISO  29981:2010,  chúng  tôi  đã  đã  xây  dựng  được  qui  trình  định  lượng  Bifidobacterium  spp. trong sản phẩm probiotic, trong đó cần chú  ý:

<10 3 B2 1 B1.1 B. longum 5x1010/g B. infantis 1011/g 2 B1.2 B. longum 5x1010/g B. longum 5x1010/g 6,52 ± 0,04

Thời gian cần thiết cho xử lý mẫu:

Sản  phẩm  probiotic  dạng  viên  nén,  dạng

cốm và viên nang: 30 phút.

Sản phẩm probiotic dạng bột: 20‐30 phút

Môi  trường  thạch  sử  dụng  cho  định  lượng

Bifidobacterium spp.:

4 B3 <10 5 B4.1 <10 6 B4.2 B. longum 1,0x109/2,1g B. breve 5x1010/g B. breve 5x1010/g <10 7 B4.3 <10 8 B4.4 9 B5 B. bifidum/10mg 8,72 ± 0,02 8,26 ± 0,06 5,28 ± 0,05 5,36 ± 0,06 6,14 ± 0,13 6,17 ± 0,06 <10 <10 <10

Sữa, sản phẩm từ sữa và sản phẩm probiotic  (có  bổ  sung  Bifidobacterium  spp.  cùng  với  E.  faecium): thạch TOS‐MUP.

bổ

Sản

phẩm

probiotic

10 B6 11 B7 <10 <10 <10

spp.

sung  Bifidobacterium  cùng  với  vi  khuẩn  Lactobacillus  spp.  và  S.thermophillus:  thạch  TOS‐ MUP hoặc RAF 5.1 (nên sử dụng thạch RAF5.1  vì  có  giá  thành  rẻ  hơn  2  lần  so  với  thạch  TOS‐ MUP).

12 B8 6,36 ± 0,07 6,23 ± 0,07 <10 <10 13 B9 <10 <10 14 B10 <10 <10 15 B11 B. longum 2x109/10g B. longum /10g B. longum 0.4x108/0.3g B. bifidum 1,5x108/0.3g B. bifidum ≥2x108/0.45g B. bifidum ≥2x108/0.45g B. bifidum ≥2x108/0.45g

463

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

3.

Sản  phẩm

chỉ  bổ

sung  duy  nhất

Bifidobacterium spp.: thạch TOS.

KIẾN NGHỊ

4. 5. 6.

transaldolase

gene,  Applied

and

Áp dụng qui trình định lượng Bifidobacterium  spp.  trong  sản  phẩm  probiotic  trên  cơ  sở  ISO  29981:2010 có sữa đổi bổ sung.

7.

Cần phải giám sát chất lượng của sản phẩm

8.

probiotic hiện nay trên thị trường.

9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Hattingh  AL,  Viljoen  BC,  (2001).  Yogurt  as  probiotic  carrier  food. International Dairy Journal 11: 1‐17.   ISO 16140:2003.  ISO 29981:2010.  Requena  T,  Burton  J,  Matsuki  MK,  Simon  MA,  Tanaka  R,  Watanabe K, Rannock GW, (2002), Identification, detection and  enumeration  of  human  Bifidobacterium  species  by  PCR  targeting  the  environmental  Microbiology, 68(5), p. 2420‐2427.  Richard KR, Carl AB, Pradip DP, (2000), Encyclopedia of Food  Microbiology, Volume 1, p.210‐217.  Richard KR, Carl AB, Pradip DP, (2000), Encyclopedia of Food  Microbiology, Volume 2, p.1356‐1360.  Vlkova  E,  Rada  V,  Trojanova  I,  (2004),  Enumeration, isolation  and  identification  of  Bifidobacteria  from  dairy  products,  Acta  agriculurae slovenica, 84 (1), p. 31‐36.

2.

for

Corry  JE.  et  al.,  (2003).  Handbook  of  Culture  Media  for  Food  Microbiology, Elservier Science B. V, p. 147‐158.  FAO/WHO,  the  Evaluation  of  (2002).  Guidelines  Probiotics  in  Food.  30/4/2002  và  1/5/2002.  London  Ontario,  Canada.

464

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ỨNG DỤNG KỸ THUẬT LAMP ĐỂ PHÁT HIỆN   LISTERIA MONOCYTOGENES TRONG THỰC PHẨM

Nguyễn Thị Anh Đào*, Nguyễn Đỗ Phúc, Hoàng Hoài Phương, Lê Thị Hiên

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hiện nay việc phát hiện Listeria monocytogenes bằng kỹ thuật sinh học phân tử đã được ứng  dụng ở nhiều phòng kiểm nghiệm trên thế giới và ở Việt Nam. Nhưng các kỹ thuật sinh học phân tử thường đòi  hỏi các thiết bị đắt tiền và trình độ kỹ thuật cao, còn kỹ thuật Loop Mediated Isothermal Amplification (LAMP)  là một kỹ thuật khuyếch đại nucleic acid mới không cần thiết bị đắt tiền, có độ đặc hiệu, độ nhạy cao và nhanh  dưới điều kiện đẳng nhiệt. Ứng dụng kỹ thuật Loop Mediated Isothermal Amplification (LAMP) để phát hiện  Listeria monocytogenes trong thực phẩm với mục đích giám sát và xác định các mối nguy về ô nhiễm Listeria  monocytogenes trong các vụ ngộ độc thực phẩm là hết sức cần thiết.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát nhiệt độ ủ và thời gian ủ tối ưu của phản ứng LAMP, đánh giá qui trình

kỹ thuật LAMP để phát hiện Listeria monocytogenes trong thực phẩm.

Phương pháp nghiên cứu: Kỹ thuật tách chiết DNA theo Intagenes và đánh giá qui trình kỹ thuật LAMP

theo ISO/TS 16140:2003.

Kết quả nghiên cứu: Nhiệt độ và thời gian ủ tối ưu của phản ứng LAMP là 63oC trong 60 phút. Giới hạn  phát hiện: nền mẫu sữa (0‐3CFU/25ml hoặc g), nền mẫu thịt (4‐7CFU/25g). Các thông số kỹ thuật của phương  pháp LAMP trên 2 nền mẫu thực phẩm: nền mẫu sữa (AC: 98,33%, SP: 100%, SE: 96,67%), nền mẫu thịt  (AC: 95%, SP: 96,67%, SE:93,33%).

Kết luận: Có thể ứng dụng kỹ thuật LAMP để phát hiện Listeria monocytogenes trong thực phẩm.

Từ khóa: LAMP, Listeria monocytogenes

SUMMARY

APPLICATION LOOP MEDIATED ISOTHERMAL AMPLIFICATION (LAMP) METHOD FOR DETECTION Listeria monocytogenes IN FOOD

Nguyen Thi Anh Dao, Nguyen Do Phuc, Hoang Hoai Phuong, Le Thi Hien

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 463 ‐ 467

Background: Nowadays, the detection Listeria monocytogenes by molecular biology techniques have been  applied  in  many  laboratories  around  the  world  and  in  Vietnam.  But  molecular  biology  techniques  requires  expensive  equipments  and  high  technical  level,  Loop  Mediated  Isothermal  Amplification  (LAMP)  method  is  a  novel nucleic acid amplification technique that do not require expensive equipments, but it had a high specificity,  sensitivity  and  rapidity  under  isothermal  conditions.  Application  of  LAMP  method  for  detection  Listeria  monocytogenes in food for the purpose of monitoring  and  identification  the  hazards  of  Listeria  monocytogenes  contamination in food poisoning cases at present is necessary.

Objectives: Survey optimal temperature and times of LAMP reaction and validation of LAMP method for

detection Listeria monocytogenes in food.

Method: DNA Extraction by Intagenes. Validation of LAMP method based on ISO/TS 16140:2003.

∗ Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên hệ: KTV. Nguyễn Thị Anh Đào ĐT: 0907775142

Email: daocherry82@yahoo.com

465

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Results: Optimal temperature and times of LAMP reaction is 63oC about 60’. Limited detection: dairy (0‐ 3CFU/25ml or g), meat (4‐7CFU/25g). Technical parameters of LAMP method in two food matrix: dairy (AC:  98,33%, SP: 100%, SE: 96,67%), meat (AC: 95%, SP: 96,67%, SE:93,33%).

Conclusion: Can apply LAMP method for detection Listeria monocytogenes in food.

Keyword: LAMP, Listeria monocytogenes

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Vật liệu nghiên cứu

Mẫu thực phẩm (72 mẫu thịt và 72 mẫu sữa)  : Mẫu được mua tại các siêu thị trong Tp.HCM.

Các  chủng  vi  sinh:  Bacillus  cereus  ATCC  10876,  Escherichia  coli  ATCC  25923,  Enterobacter  sakazakii  BCRC  14122,  Listeria  monocytogenes  ATCC  13936,  Salmonella  typhimurium  ATCC  13511,  Shigella sonnei  ATCC  9290,  Staphylococcus  aureus  ATCC  25922,  Vibrio cholerae  BCRC  14142,  Vibrio parahaemolyticus ATCC 17802.

Bệnh Listeriosis xảy ra ở nhiều loại động vật,  bao gồm con người, và đa số ảnh hưởng đến tử  cung  của  người  mang  thai,  hệ  thống  thần  kinh  trung  ương,  hoặc  là  máu,  nghiêm  trọng  hơn  là  đe dọa đến tính mạng (sảy thai, sinh non, viêm  màng não,..). Phần lớn bệnh Listeriosis ở người  là  do  Listeria  monocytogenes  gây  ra.  Theo  thống  kê là 3,8% bệnh Listeriosis gây ra do thực phẩm  (ở  bệnh  viện),  nhưng  loài  vi  khuẩn  này  là  nguyên  nhân  của  khoảng  27,6%  các  ca  tử  vong  do  tiêu  thụ  các  loại  thực  phẩm  bị  nhiễm  khuẩn(2,1).

Phản  ứng  LAMP  :  Buffer  Bst  10X,  primer  mix,  dNTP(25mU),  Bst  (8U/μl),  Betaine  (0,8M),  dH2O với tổng thể tích là 2400μl.

Hóa  chất  cho  điện  di:  Agarose  2%  (Biorad),  đệm  tải  mẫu  điện  di  (0,15%  bromophenolblue,  30%  glycerol),  200  mM  Tris,  20  mM  EDTA  (Biorad), đệm TBE 0,5X, Ethidium Bromide (Bio‐ rad), thang DNA chuẩn 100 bp (Bio‐rad).

Phương pháp nghiên cứu

Tách chiết DNA theo Intagenes.

Hiện nay để phát hiện Listeria monocytogenes  trong  thực  phẩm,  các  labo  vẫn  dùng  phương  pháp  nuôi  cấy  truyền  thống,  nhưng  phương  pháp này bị hạn chế về thời gian (5‐7 ngày). Với  mục đích giám sát và xác định tác nhân gây ngộ  độc  do  Listeria  monocytogenes  trong  thực  phẩm,  chúng tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu: ‘Ứng dụng  kỹ  thuật  LAMP  để  phát  hiện  Listeria  monocytogenes  trong  thực  phẩm’,  với  các  nội  dung nghiên cứu sau:

Thăm dò điều kiện nhiệt độ ủ và thời gian ủ

của phản ứng LAMP.

Phản ứng LAMP: ủ 85oC/5 phút (tách mạch),  ủ  60‐65oC/45‐75  phút  và  ngưng  phản  ứng  ủ  80oC/2 phút.

Khảo  sát  tính  loại  trừ  của  phương  pháp

Phương  pháp  nuôi  cấy  truyền  thống:  theo

LAMP.

ISO 11290‐1:1996/AMD.1:2004.

Đánh  giá  qui  trình  LAMP  để  phát  hiện

Khảo sát các thông số kỹ thuật của phương

Listeria monocytogenes trong thực phẩm.

pháp LAMP theo ISO/TS 16140:2003.

Giới hạn phát hiện (LOD).

Độ chính xác tương đối (AC).

Phương  pháp  pha  loãng  chủng  Listeria  monocytogenes xác định LOD: với 5 mức độ gây  nhiễm.

Độ đặc hiệu tương đối (SP).

Mức 1(Lo) là chứng âm.

Độ nhạy tương đối (SE).

Mức 2 (La), mức 3 (Lb), mức 4 (Lc): là các mức

Tỷ lệ dương tính giả (PD).

khảo sát để tìm LOD của phương pháp.

Tỷ lệ âm tính giả (ND).

466

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Giếng  8,  9  và  10  với  nồng  độ  L.monocytogenes  lần  lượt  tương ứng là 103, 102 và 101CFU/ml và ủ 75 phút.

Mức  5  (L50)  là  độ  phát  hiện  theo  lý  thuyết  /25g, khi gây nhiễm 100% mẫu phải có kết quả  dương tính.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nhận  xét:  Qua  các  thí  nghiệm  khảo  sát  về  nhiệt độ và thời gian ủ của phản ứng LAMP cho  thấy thời gian 60 phút và nhiệt độ ủ 63oC là tối  ưu nhất của phản ứng.

Kết quả thăm dò nhiệt độ ủ và thời gian ủ  của phản ứng LAMP

Khảo  sát  tính  chọn  lọc  của  phương  pháp  LAMP

cereus,

Bacillus

cholerae

Vibrio

Dịch khuẩn sau khi được tách chiết DNA sẽ  được thực hiện phản ứng LAMP ở các nhiệt độ  ủ  khác  nhau:  60oC,  63oC  và  65oC  và  cùng  cùng  điều  kiện  về  thời  gian  ủ  là  60  phút.  Sau  khi  có  được  nhiệt  độ  ủ  tối  ưu,  chúng  tôi  sẽ  tiếp  tục  khảo sát thời gian ủ là 45, 60 và 75 phút.

Sử  dụng  các  vi  khuẩn  không  mục  tiêu  (Salmonella,  Shigella,  E.coli,  Staphylococcus  Vibrio  aureus,  paraheamolyticus,  và  Enterobacter  sakazakii)  và  vi  khuẩn  mục  tiêu  Listeria  monocytogenes  tăng  sinh  trên  môi  trường  canh  thang  TSB,  ủ  37oC/24h.  Thu  lấy  dịch,  đem  tách  chiết  và  thực  hiện  phản  ứng  LAMP.

Hình 1.1. Kết quả khảo sát nhiệt độ ủ của phản ứng  LAMP

Chú thích: MK: Thang DNA chuẩn 100bp.

Giếng 1, 2, 3, 4, 5 và 6: ủ 60oC.

Giếng 7, 8, 9, 10, 11 và 12: ủ 63oC.

Giếng 13, 14, 15, 16 và 17: ủ 65oC.

Hình 1.3. Kết quả khảo sát độ đặc hiệu của LAMP  với các vi khuẩn không mục tiêu

Chú thích: MK: Thang DNA chuẩn 100bp; (‐): chứng âm;  L.mono: Listeria monocytogenes; Sal: Salmonella; Shi:  Shigella; E.coli; Sta: Staphylococcus aureus; Ba: Bacillus  cereus; V.para: Vibrio paraheamolyticus; VC: Vibrio  cholerae và E.sakazakii: Enterobacter sakazakii.

Hình 1.2. Kết quả khảo sát thời gian ủ của phản ứng  LAMP

Chú thích: MK: Thang DNA chuẩn 100bp.

Giếng 1: Chứng L.monocytogenes (+).

Nhận xét: Qua thí nghiệm tính chọn lọc của  phương  pháp  LAMP  với  các  chủng  vi  khuẩn  không  mục  tiêu  và  vi  khuẩn  mục  tiêu,  kết  quả  cho  thấy  chỉ  có  vi  khuẩn  Listeria  monocytogenes  mới tạo vạch sáng, còn các vi khuẩn không mục  tiêu đều không xuất hiện vạch, như vậy kỹ thuật  LAMP  rất  đặc  hiệu  để  phát  hiện  Listeria  monocytogenes.

Giếng 2,3,4 với nồng độ L.monocytogenes lần lượt tương  ứng là 103, 102 và 101CFU/ml và ủ 60 phút.

Giếng 5,6 và 7 với nồng độ L.monocytogenes lượt tương  ứng là 103, 102 và 101CFU/ml và ủ 45 phút.

467

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Độ đặc hiệu tương đối (SP)  = 100%.

Độ nhạy tương đối (SE)

= 96,67%.

Tỷ lệ dương tính giả (PD)

= 0%

Tỷ lệ âm tính giả (ND)  = 3,33%.

Kết  quả  xác  định  giới  hạn  phát  hiện  của  phương pháp LAMP trên 2 nền mẫu sữa và  thịt  Bảng 1: Kết quả giới hạn phát hiện của LAMP trên  nền mẫu sữa

Kết quả (+/-) Tỷ lệ % (+)

Bảng 4: Kết quả xác định giá trị sử dụng của phương  pháp LAMP trên nền mẫu thịt

Kết quả của phương pháp nuôi cấy

- 5/6 6/6 6/6 + 83,33 100 100 Nồng độ Lo= (-) La= 3 CFU/25g Lb= 5 CFU/25g Lc= 8 CFU/25g L50= 42 CFU/25g Dương tính (+) Kết quả của phương pháp LAMP Dương tính (+) +/+ Dương tính phù hợp (PA) = 28/30 Âm tính (-)

Nhận  xét:  LOD  của  phương  pháp  LAMP  trên nền mẫu sữa vào khoảng 0‐3CFU/25g hoặc  ml.

+/- Âm tính giả (ND) =2/30 Âm tính (-) -/+ Dương tính giả (PD) =1/30 -/- Âm tính phù hợp (NA) =29/30

Bảng 2. Kết quả giới hạn phát hiện của LAMP trên  nền mẫu thịt

Từ các giá trị trên bảng 1.4, kết quả giá trị các  thông số kỹ thuật của phương pháp LAMP trên  nền mẫu thịt là:

Độ chính xác tương đối (AC)

= 95%.

Độ đặc hiệu tương đối (SP)

= 96,67%.

Độ nhạy tương đối (SE)

= 93.33%.

Tỷ lệ dương tính giả (PD)

= 3,33%.

Nhận  xét:  LOD  của  phương  pháp  LAMP

Tỷ lệ âm tính giả (ND)

= 6,67%.

trên nền mẫu thịt vào khoảng 4‐7CFU/25g.

Kết quả (+/-) - 2/6 4/6 5/6 + Tỷ lệ % (+) 33,33 66,67 83,33 Nồng độ Lo= (-) La= 4 CFU/25g Lb= 7 CFU/25g Lc= 10 CFU/25g L50= 45 CFU/25g

KẾT LUẬN

Kết quả đánh giá các thông số kỹ thuật của  phương pháp LAMP

Nhiệt  độ  và  thời  gian  ủ  tối  ưu  của  phương

pháp LAMP:

Nhiệt độ: 63oC.

Thời gian: 60 phút.

Từ  kết  quả  giới  hạn  phát  hiện  trên  các  nền  mẫu sữa và thịt, nồng độ gây nhiễm 10 x LOD  để đánh giá các thông số kỹ  thuật  (AC,  SP,  SE,  PD và ND) của phương pháp LAMP.

Tính chọn lọc của phương pháp LAMP: chỉ

phát hiện đặc hiệu cho Listeria monocytogenes.

Bảng 3: Kết quả xác định giá trị sử dụng của LAMP  trên nền mẫu sữa

Giới hạn phát hiện của phương pháp LAMP

trên mẫu thực phẩm.

Nền mẫu sữa: LOD vào khoảng 0‐3CFU/25g

(ml).

Nền  mẫu

thịt:  LOD  vào  khoảng  4‐7

CFU/25g.

Dương tính (+)

Đã  đánh  giá  các  thông  số  kỹ  thuật  AC,  SP,  SE,  ND,  PD  của  phương  pháp  LAMP  trên  nền  mẫu sữa và thịt.

Từ các giá trị trên bảng 1.3, kết quả giá trị các  thông số kỹ thuật của phương pháp LAMP trên  nền mẫu sữa là:

Độ chính xác tương đối (AC)= 98,33%.

Kết quả của phương pháp LAMP Âm tính (-) +/- Âm tính giả (ND) =1/30 Kết quả của phương pháp nuôi cấy Dương tính (+) Âm tính (-) -/+ Dương tính +/+ Dương tính giả phù hợp (PD) =0/30 (PA) = 29/30 -/- Âm tính phù hợp (NA) =30/30

468

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KIẾN NGHỊ

Ứng dụng rộng rãi kỹ thuật này cho các labo  ít thiết bị sinh học phân tử trong quá trình giám  sát thực phẩm.

Thực  hiện  đề  tài  với  quy  mô  lớn  hơn  về  số  lượng  mẫu,  chủng  loại  mẫu  để  bổ  sung  thêm  cho việc đánh giá kỹ thuật LAMP.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

(2000),  “Listeria”,  Encyclopedia  of  Food

Khảo  sát  thêm  về  2  cách  đọc  kết  quả  khác:

SYBER GREEN I và đo độ đục.

2.

Batt  CA  Microbiology, pp.1194‐1152.  Bhunis  AK  (2008),  “Listeria  monocytogenes”,  Foodborne  microbial  pathogens:  mechanisms  and  pathogenesis,  Springer, pp.164‐182.

Thử nghiệm đánh giá so sánh khả năng phát  hiện  Listeria  monocytogenes  trong  thực  phẩm  tại  một số phòng thí nghiệm.

469

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH Ở BỆNH NHÂN TỪ 40 TUỔI TĂNG HUYẾT  ÁP TẠI XàLONG THUẬN, HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

Tạ Quốc Đạt*, Nguyễn Thị Hiệp*, Nguyễn Thị Thu**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) là một bệnh phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Bệnh THA không

được kiểm soát sẽ đưa đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh nhân từ 40 tuổi bị THA có kiến thức đúng, thực hành đúng trong điều trị  bệnh THA và xác định mối liên quan giữa kiến thức đúng và thực hành đúng với các đặc điểm dân số xã hội ở  người từ 40 tuổi bị THA tại xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh năm 2011.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Đây là một nghiên cứu điều tra cắt ngang về kiến thức và thực hành đúng

trong điều trị THA của 360 người dân tuổi từ 40 trở lên.

Kết  quả:. Trong tổng số mẫu, 21,7% biết bệnh nhân THA phải uống thuốc suốt đời, chỉ có 27,5% người  bệnh đang uống thuốc hạ áp, 29,2% người đang hút thuốc lá và 21,9% người THA có lạm dụng rượu bia trong  tháng qua. 76,1% người bệnh THA có thói quen ăn mặn. 60,3% người có công việc ít hoạt động thể lực Có mối  liên quan có ý nghĩa thông kê giữa tuổi, học vấn với kiến thức về biến chứng của bệnh, kiến thức phòng ngừa  bệnh THA.

Kết  luận: Xây dựng một chương trình can thiệp về truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến

thức, thực hành thay đổi lối sống của người bệnh trong điều trị THA.

Từ khóa: Kiến thức, thực hành, phòng ngừa, tăng huyết áp.

ABSTRACT

KNOWLEDGE, PRACTICE IN HYPERTENSIVE PATIENTS AGED 40 OR OLDER IN LONG THUAN  COMMUNE, BEN CAU DISTRICT, TAY NINH PROVINCE.

Ta Quoc Dat, Nguyen Thi Hiep, Nguyen Thi Thu

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 468 ‐ 475

Background:  High blood pressure (THA) is a increasing disease. hypertensive may leads to many serious

consequences.

Objectives:  Determine the percentage of patients with hypertension 40 years old and over with the right  knowledge, right practice in the treatment of hypertension in Long Thuan commune, Ben Cau district, Tay Ninh  province in 2011.

Methods: This is a cross‐sectional survey research about true knowledge and proper practice in treatment of  hypertension  on  360  people  aged  40  or  older  interviewing  people  with  hypertension  directly  according  to  the  questionnaire were prepared.

Results:. In all, 21.7% of patients said hypertensive patients have to take medication in lifelong. 27.5% of  patients  taking  antihypertensive  drugs,  29.2%  of  people  are  smoking  and  21.9%  hypertensive  patients  abuse  alcohol  in  the  past  month.  76.1%  of  patients  have  a  habit  of  eating  hight  salt  diet.  60.3%  patients  have  work  which is less physical activity Correlation is statistically significant between age, education with knowledge about  complications of the disease, hypertensive disease prevention knowledge.

∗∗ Trung tâm Y tế huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh

* Viện Vệ sinh Y tế Công cộng Tp.HCM Tác giả liên lạc: CN. Tạ Quốc Đạt

ĐT:0907959900

Email: taquocdat@ihph.org.vn

470

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Conclusion: Building an intervention program on health education communication to improve knowledge

and practical lifestyle changes of patients about treating hypertension.

Key words: Knowledge, practice, prevention, hypertension.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Cỡ mẫu

Cỡ mẫu mẫu được tính theo công thức:

Z

P

)

2/

2 1 − α

n

=

1( 2

P d

,0Z

975

=1,96; α = 0,05; d = 0,04; Nghiên  Trong đó:  cứu  của  Huỳnh  Thị  Tiền  về  “khảo  sát  sự  tuân  thủ  điều  trị  bệnh  nhân  THA”  tại  Hậu  Nghĩa,  Long  An  có  tỉ  lệ  là  17,5%.  Thay  vào  công  thức  tính được cỡ mẫu 360 người.

Phương  pháp  nghiên  cứu  và  đối  tượng  nghiên cứu

Đây  là  một  nghiên  cứu  điều  tra  cắt  ngang  mô  tả.  Nghiên  cứu  được  tiến  hành  bằng  cách  phỏng vấn trực tiếp người dân từ 40 tuổi và đã  được  chẩn  đoán  bị  THA.  Kết  hợp  với  việc  đo  huyết  áp,  cân  nặng,  chiều  cao  của  người  được  phỏng vấn và ghi vào mẫu in sẵn.

Bộ  câu  thiết  kế  được  tiến  hành  nghiên  cứu  thử  và  chỉnh  sửa  trước  khi  nghiên  cứu  chính  thức. Điều tra viên được tập huấn trước khi thu  thập số liệu.

Nhập liệu dùng Epidata 3.0 số liệu được xử  lý dùng Stata 8; tính tỉ lệ phần trăm, dùng tỉ số  PR,  khoảng  tin  cậy  95%  và  phép  kiểm  chi  bình  phương.

Nghiên cứu đươc tiến hành ở các đối tượng

đã được giải thích rõ và đồng ý tham gia.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Tăng  huyết  áp  là  một  bệnh  phổ  biến  và  là  một vấn đề quan trọng của sức khỏe cộng đồng  ở  nhiều  nơi  trên  thế  giới  và  bệnh  có  xu  hướng  ngày càng tăng. Bệnh THA có thể phòng và điều  trị  được,  muốn  tránh  tiến  triển  đến  các  biến  chứng thì điều quan trọng là điều chỉnh lối sống  cá  nhân  như  không  hút  thuốc  lá,  hạn  chế  ăn  mặn, uống rượu vừa  phải,  kiểm  soát  cân  nặng,  tăng  hoạt  động  thể  lực.  Điều  chỉnh  lối  sống  đã  được công nhận làm giảm được huyết áp và nên  áp  dụng  cho  tất  cả  bệnh  nhân  gồm  giảm  cân  nặng, hạn chế uống rượu, giảm ăn muối và tăng  họat  động  thể  lực(11).  Một  vấn  đề  cốt  lõi  trong  điều trị tốt bệnh THA là đòi hỏi bệnh nhân phải  nhận  thức  được  tầm  quan  trọng  của  bệnh  và  tuân thủ đầy đủ chế độ điều trị. Long Thuận là  xã vùng sâu, biên giới của huyện Bến Cầu  tỉnh  Tây  Ninh,  đa  số  người  dân  sống  bằng  nghề  nông nghiệp và buôn bán nhỏ lẻ. Theo kết quả  khám tầm soát của Viện Vệ sinh Y tế công cộng  TP.HCM vào tháng 8/2011 khảo sát 1730 người  có độ tuổi từ 40 trở lên cho thấy 36,6% người bị  THA(8). Tỉ lệ này cho thấy bệnh THA đang ngày  càng trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng quan  trọng. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên  cứu mô tả nhằm đánh giá “Kiến thức, thực hành  ở người bệnh THA từ 40 tuổi trở lên tại xã Long  Thuận,  huyện  Bến  Cầu,  tỉnh  Tây  Ninh  năm  2011” từ đó giúp xây dựng các hoạt động truyền  thông giáo dục và hướng dẫn người bệnh phòng  ngừa các biến chứng một cách hiệu quả.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đặc điểm dân số xã hội   Bảng 1: Đặc điểm dân số xã hội của mẫu nghiên cứu  Tần số Tỉ lệ(%)

Thời gian nghiên cứu  Tháng 10 ‐ 11/2011.

Địa điểm nghiên cứu

Xã  Long  Thuận,  huyện  Bến  Cầu,  tỉnh  Tây

Ninh

Nội dung Giới: Nam Nữ Tuổi: 40-49 tuổi 50-59 tuổi 60-69 tuổi Từ 70 tuổi 164 196 107 93 65 95 45,6 54,4 29,7 25,8 18,1 26,4

471

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tần số Tỉ lệ(%)

Bảng 3: kiến thức triệu chứng và biến chứng bệnh  THA

Tần số Tỉ lệ (%)

Nội dung Trình độ học vấn: Mù chữ Tiểu học THCS THPT và trên Nghề nghiệp:Lao động chân tay Không làm gì Nội trợ Buôn bán CNVC Kinh tế hộ gia đình:Không nghèo Nghèo Sử dụng BHYT:Có Không 73 187 68 32 170 93 63 22 12 242 118 151 209 20,3 51,9 18,9 8,9 47,2 25,8 17,5 6,1 3,3 67,2 32,8 41,9 58,1

Tỉ  lệ  người  có  kiến  thức  đúng  triệu  chứng  của  bệnh  THA  là  25,8%.  Trong  đó  người  bệnh  biết triệu chứng nhức đầu là 67,2% và chóng mặt  là 61,4%.

59,7% người bệnh biết biến chứng của bệnh  THA.  Biến  chứng  của  bệnh  THA  người  bệnh  biết nhiều nhất là tai biến mạch máu não chiếm  89,8%.

Nội Dung Triệu chứng bệnh THA (n=360) Nhức đầu Chóng mặt Ù tai Hoa mắt Tức ngực Kiến thức đúng chung về triệu chứng THA gây ra những biến chứng (n=360) Biết Không biết Người THA bị những nguy hiểm(n=215) Dễ bị tai biến mạch máu não Dễ bị thiếu máu cơ tim, suy tim Dễ chết 242 221 74 96 48 93 215 145 193 35 61 67,2 61,4 20,6 26,7 13,3 25,8 59,7 40,3 89,8 16,3 28,4

Nội dung

Bảng 4: Kiến thức phòng ngừa và điều trị bệnh THA  Tần số Tỉ lệ (%)

Về  giới,  tỉ  lệ  nữ  trong  mẫu  nghiên  cứu  cao  hơn so với nam giới (54,4% so với 45,6%).  Tỉ  lệ  người  thuộc  nhóm  tuổi  40  –  49  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất với 29,7% và thấp nhất nhóm người có độ  tuổi từ 60 – 69 chiếm 18,1%. Tỉ lệ người có học  vấn dưới bậc THCS chiếm 72,2%. Trong đó tỉ lệ  học  tiểu  học  là  51,9%  và  mù  chữ  20,3%.  Long  Thuận là xã nông nghiệp, trong mẫu nghiên cứu  có  47,2%  người  dân  làm  ruộng,  làm  thuê,  bên  cạnh  đó  có  thể  do  đối  tượng  nghiên  cứu  là  những người từ trung niên (40 tuổi) và bị THA  nên có 25,8% người ở nhà không làm gì và 17,5%  người  ở  nhà  làm  công  việc  nội  trợ.  Vì  vậy  nên  kinh tế hàng ngày phải sống phụ thuộc vào gia  đình.

Tỉ  lệ  người  dân  có  hoàn  cảnh  kinh  tế  khó

khăn là 32,8%.

Tỉ lệ người dân có bảo hiểm y tế là 41,9%.

Thời gian uống thuốc hạ áp (n=360)

Uống một khoảng thời gian Uống hết triệu chứng thì ngưng Uống thuốc suốt đời Không biết Kiến thức về thời gian uống thuốc(n=360) Đúng 106 126 78 50 78 29,4 35,0 21,7 13,9 21,7

Kiến thức về của bệnh THA   Bảng 2: kiến thức về các yếu tố nguy cơ của THA

Không đúng 282 78,3 Tần số Tỉ lệ(%)

Tỉ  lệ  người  bệnh  biết  bệnh  THA  cần  phải  uống  thuốc  suốt  đời  là  21,7%  và  78,3%  người  bệnh có kiến thức không đúng về thời gian cần  uống  thuốc  điều  trị  bệnh  khi  cho  rằng  bệnh  THA chỉ cần  uống  thuốc  một  khoảng  thời  gian  hay  uống  thuốc  khi  nào  thấy  khỏe  rồi  ngưng  hoặc  không  biết  bệnh  THA  cần  điều  trị  trong  thời gian bao lâu.

Tỉ lệ người dân biết ăn mặn có thể gây THA  là  80,6%  và  44,7%  người  biết  hút  thuốc  lá  gây  THA.

Nội dung Chế độ ăn mặn gây THA (n=360): Biết Không biết Hút thuốc lá gây THA (n=360): Có Không biết Kiến thức đúng về các yếu tố nguy cơ 290 70 161 199 149 80,6 19,4 44,7 55,3 41,4

472

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nội dung Tần số

Thực hành điều trị bệnh THA  Bảng 5: Thực hành uống thuốc điều trị bệnh THA

Tần số Tỉ lệ (%) Không Hoạt động thể lực(n=360) Công việc đứng một chỗ

Có Không Đi bộ hay đi xe đạp liên tục từ 10 phút

Có Không Tập thể dục

Có Không Tỉ lệ (%) 23,9 60,3 39,7 56,9 43,1 14,7 85,3 86 217 143 205 155 53 307

Trong  những  người  THA  có  29,2%  người  bệnh hiện đang hút thuốc lá. 25,3% người bệnh  có  uống  rượu  trong  tuần  qua.  Tỉ  lệ  lạm  dụng  (uống  bất  kỳ  ngày  nào  trong  tháng  qua  từ  5  ly  chuẩn trở lên đối với  nam  và  từ  4  ly  chuẩn  trở  lên đối với nữ) ở những người có uống rượu là  86,8%.  Tỉ  lệ  này  cho  thấy  mặc  dù  người  bệnh  THA ít uống rượu nhưng lượng rượu trong mỗi  lần uống thường nhiều. Điều này sẽ ảnh hưởng  không tốt đến sức khỏe của người bệnh.

Có  27,5%  người  bệnh  THA  hiện  nay  đang  uống  thuốc  hạ  áp.  Trong  đó  32,3%  người  bệnh  có  thực  hiện  tái  khám  hàng  tháng  và  67,7%  người  bệnh  tự  mua  thuốc  mà  không  cần  toa  hoặc mua theo toa cũ hay toa của người khác.

Trong  những  người  ngưng  uống  thuốc  có  61,3%  người  ngưng  vì  thấy  hết  triệu  chứng,  21,5%  người  ngưng  vì  sợ  uống  thuốc  nhiều  không tốt.

76,1%  người  bệnh  THA  có  chế  độ  ăn  mặn  (ăn các món mặn như các loại mắm, dưa muối,  tương  chao,  trứng  muối,  thịt  muối  từ  3  ngày/tuần  hoặc  được  người  nhà  cho  rằng  ăn  mặn).

39,7% người bệnh có hoạt động có công việc

Nội dung Hiện đang uống thuốc hạ áp (n=360) Có Không Mua thuốc hạ áp (n=99) Tự mua Toa tái khám hàng tháng Toa tái khám 2-3 tháng Toa tái khám trên 3 tháng Toa của người khác Lý do không uống thuốc hạ áp (n=261) Không có tiền mua thuốc Thấy hết triệu chứng Khó chịu khi dùng thuốc Do bị bệnh khác Sợ uống thuốc nhiều không tốt Ngưng không lý do 99 261 32 32 16 18 1 41 160 3 6 56 21 27,5 72,5 32,3 32,3 16,2 18,2 1,0 15,7 61,3 1,2 2,3 21,5 8,1

Bảng 6: Thực hành thay đổi lối sống trong điều trị  bệnh THA

phải vận động thường xuyên trên 10 phút/lần.

Nội dung

Bảng 7: Nguồn cung cấp thông tin về bệnh THA

Hút thuốc lá (n=360) Tần số Tỉ lệ (%)

255 105

Không hút Đang hút Uống rượu bia tuần qua (n=360)

Có uống Không uống Uống rượu bia trên 5 đơn vị/ngày tháng 91 269 Nội dung Nguồn cung cấp thông tin bệnh THA (n=360) Nhân viên y tế Đài phát thanh Tivi Tài liệu truyền thông Người quen 245 68 140 0 134 68,1 18,9 38,9 0 37,2

Có Không Ăn mặn (n=360) 79 281

Người dân biết thông tin về bệnh THA qua  nhân viên y tế chiếm tỉ lệ 68,1%, 38,9% biết qua  tivi, 37,2% biết qua người thân, hàng xóm.

Có Tần số Tỉ lệ (%) 70,8 29,2 25,3 74,7 21,9 78,1 76,1 274

473

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành thay đổi lối sống với các đặc điểm dân số xã hội.  Bảng 8: Mối liên quan giữa tuổi, giới, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, nghề nghiệp với kiến thức biến chứng  về bệnh THA

P PR (KTC 95%) Kiến thức đúng Tần số Tỉ lệ (%) Kiến thức sai Tần số Tỉ lệ (%) Giới: Nam Nữ

Tuổi : 40 – 49 tuổi 50 – 59 tuổi 60 – 69 tuổi > 69 tuổi Trình độ học vấn Mù chữ

Tiểu học THCS PTTH Kinh tế gia đình Không nghèo Nghèo Nghề nghiệp Lao động tay chân

Buôn bán CBVC Nội trợ Không làm gì 42 37 27 26 11 15 9 36 24 10 58 21 39 6 6 19 12 25,6 18,9 25,2 28,0 16,9 15,8 12,3 19,2 35,3 31,2 24,0 17,8 22,9 27,3 50,0 25,4 12,9 74,4 81,1 74,8 72,0 83,1 84,2 87,7 80,8 64,7 68,8 76,0 82,2 77,1 72,7 50,0 74,6 87,1 0,124 0,664 0,204 0,099 0,186 0,001 0,002 0,184 0,653 0,036 0,696 0,049 1,22 (0,96 – 1,57) 1 1,15 (0,61 – 2,16) 0,60 (0,27 – 1,33) 0,55 (0,27 – 1,13) 1 1,69 (0,77 -3,74) 3,88 (1,59 – 9,48) 3,23 (1,12 – 9,28) 0,77 (0,52 – 1,14) 1 1,26 (0,46 – 3,45) 3,36 (1,01 – 11,2) 1,14 (0,58 – 2,24) 0,50 (0,24 – 1,01)

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  trình  độ  học  vấn  với  kiến  thức  của  người  bệnh  về  biến  chứng  trong  điều  trị  THA  (p  <  0,05)  (bảng 8). Những người có học vấn càng cao thì  có kiến thức đúng về biến chứng của bệnh càng  cao.  Có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa

122 159 80 67 54 80 64 151 44 22 184 97 131 16 6 47 81 kiến thức về biến chứng của bệnh THA với các  nghề  nghiệp  của  mẫu  nghiên  cứu.  Theo  đó,  những  người  CBVC  có  kiến  thức  đúng  về  biến  chứng  bệnh  cao  hơn  3,36  lần  so  với  người  lao  động chân tay với p = 0,036 và KTC 95% (1,01 –  11,2).

Bảng 10: Mối liên quan giữa tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp với thực hành uống thuốc hạ áp

Thực hành sai Thực hành đúng Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) Giới : Nam Nữ

Tuổi: 40 – 49 tuổi 50 – 59 tuổi 60 – 69 tuổi > 69 tuổi Trình độ học vấn: Mù chữ

Tiểu học THCS PTTH Kinh tế gia đình: Không nghèo Nghèo Nghề nghiệp: Lao động tay chân

Buôn bán CBVC Nội trợ Không làm gì 41 58 24 28 19 28 21 53 17 8 65 34 36 9 4 21 29 25,0 29,6 22,4 30,1 29,2 29,5 28,8 28,3 25,0 25,0 26,9 28,8 21,2 40,9 33,3 33,3 31,2 123 138 83 65 46 67 52 134 51 24 177 84 134 13 8 42 64 75,0 71,4 77,6 69,9 70,8 70,5 71,2 71,7 75,0 75,0 73,1 71,2 78,8 59,1 66,7 66,7 68,8 P 0,331 0,218 0,319 0,254 0,945 0,616 0,692 0,697 0,040 0,327 0,056 0,073 PR (KTC 95%) 0,88 (0,67 – 1,15) 1 1,49 (0,79 – 2,82) 1,43 (0,71 – 2,89) 1,44 (0,76 – 2,73) 1 0,98 (0,54 – 1,78) 0,82 (0,39 – 1,75) 0,83 (0,32 – 2,14) 1,07 (0,77 – 1,47) 1 2,58 (1,01 – 6,59) 1,86 (0,53 – 6,57) 1,86 (0,97 – 3,55) 1,67 (0,95 – 3,01)

474

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

quan có ý nghĩa thống kê giữa thực hành uống  thuốc hạ áp với người làm các công việc khác (p  > 0,05). Không có mối liên quan có ý nghĩa thống  kê giữa thực hành uống thuốc hạ áp và giới của  người  bệnh  (p  =  0,331),  với  hoàn  cảnh  kinh  tế  của  người  bệnh  (p  =  0,697),  với  độ  tuổi  của  người  bệnh  (p  >  0,05)  và  với  trình  độ  học  vấn  của người bệnh (p > 0,05).

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  nghề nghiệp với việc uống thuốc điều trị THA.  Những  người  tự  làm  chủ  có  thực  hành  uống  thuốc tốt hơn những người lao động chân tay (p  = 0,04). Những người tự làm chủ là những người  thường  có  điều  kiện  kinh  tế  tốt  hơn  nên  họ  có  thể  tuân  thủ  việc  uống  thuốc  tốt  hơn  những  người  lao  động  chân  tay.  Không  có  mối  liên

Bảng 11: Mối liên quan giữa tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp với thực hành ăn lạt

Thực hành sai P PR (KTC 95%) Thực hành đúng Tần số Tỉ lệ (%) Giới: Nữ

Nam Tuổi: 40 – 49 tuổi

50 – 59 tuổi 60 – 69 tuổi > 69 tuổi

Trình độ học vấn: Mù chữ Tiểu học THCS PTTH Kinh tế gia đình: Không nghèo Nghèo Nghề nghiệp: Lao động tay chân

cứu của Huỳnh Thị Tiền được thực hiện tại bệnh  viện  nên  người  bệnh  sử  dụng  BHYT  để  khám  bệnh sẽ cao hơn so với điều tra trong dân số.

Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê  giữa thực hành ăn lạt và giới của người bệnh (p  = 0,231), với tuổi của người được phỏng vấn (p >  0,05),  với  nghề  nghiệp  của  người  được  phỏng  vấn  (p  >0,05),  với  trình  độ  học  vấn  của  người  bệnh  (p  >  0,05)  và  với  hoàn  cảnh  kinh  tế  của  người bệnh (p = 0,960) (bảng3.13).

Buôn bán CBVC Nội trợ Không làm gì 42 44 30 23 13 20 19 36 23 8 58 28 43 4 4 12 23 Tần số 154 120 77 70 52 75 54 151 45 24 184 90 127 18 8 51 70 Tỉ lệ (%) 78,6 73,2 72,0 75,3 80,0 78,9 74,0 80,7 66,2 75,0 76,0 76,3 74,7 81,8 66,7 80,9 75,3 21,4 26,8 28,0 24,7 20,0 21,1 26,0 19,3 33,8 25,0 24,0 23,7 25,3 18,2 33,3 19,1 24,7 0,231 0,598 0,239 0,252 0,230 0,313 0,912 0,960 0,466 0,539 0,319 0,920 0,86 (0,67 – 1,09) 1 1,18 (0,63 – 2,24) 1,56 (0,74 – 3,28) 1,46 (0,76 – 2,81) 1 1,47 (0,78 – 2,80) 0,69 (0,33 – 1,43) 1,05 (0,4 – 2,76) 1,01 (0,71 – 1,43) 1 1,52 (0,49 – 4,77) 0,68 (0,19 – 2,37) 1,44 (0,70 – 2,96) 1,03 (0,57 – 1,85)

BÀN LUẬN

Ăn  mặn  là  yếu  tố  nguy  cơ  của  bệnh  THA  được  nhiều  người  biết  nhất  là  80,6%.  Kết  quả  này tương đương so với nghiên cứu của Mã Bửu  Cầm  trên  những  người  bị  THA  từ  40  tuổi  tại  bệnh viện Nguyễn Trãi có tỉ lệ biết 83%(3). Điều  này phù hợp với thực tế vì bác sĩ thường hướng  dẫn người bệnh hạn chế ăn mặn khi bị THA.

Tỉ  lệ  nữ  trong  mẫu  nghiên  cứu  cao  hơn  so  với  nam.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  so  với  nghiên cứu của Mã Bửu Cầm trên những người  bị THA từ 40 tuổi tại bệnh viện Nguyễn Trãi thì  tỉ lệ nữ giới là 54,4% (3).

Kiến  thức  về  triệu  chứng  bệnh  THA,  67,2%  biết  triệu  chứng  nhức  đầu  và  61,4%  biết  triệu  chứng chóng mặt. Tỉ lệ này tương đương so với  nghiên  cứu  của  Huỳnh  Thị  Tiền  khảo  sát  ở  người  từ  35  tuổi  trở  lên  tại  bệnh  viện  Hậu  Nghĩa, Long An có 71,1% người biết triệu chứng  chóng mặt, 62,4% là nhức đầu(2) và 59,7% người  bệnh  biết  biến  chứng  của  bệnh  THA.  Tỉ  lệ  này

Tỉ lệ người dân có bảo hiểm y tế là 41,9%. Tỉ  lệ  này  thấp  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Huỳnh  Thị Tiền tại bệnh viện Hậu Nghĩa, Long An, tỉ lệ  người  có  bảo  hiểm  y  tế  là  60,4%(2).  Có  sự  khác  biệt về tỉ lệ sử dụng BHYT này có thể do nghiên

475

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

cứu  được  tiến  hành  ở  những  địa  điểm  khác  nhau.  Nếu  ở  vùng  thành  thị  có  thể  người  dân  chủ yếu làm văn phòng trong khi ở vùng nông  nghiệp  đòi  hỏi  người  dân  phải  làm  nhiều  việc  lao động chân tay.

Nghiên cứu Y học  tương  đương  so  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Hữu Hạnh ở những người từ 18 tuổi bị THA tại  Đầm Dơi, Cà Mau có tỉ lệ người biết biến chứng  của bệnh là 58,4%(5). Các tỉ lệ này thấp hơn so với  nghiên  cứu  của  Trần  Thiện  Thuần  ở  những  người  lớn  THA  tại  TP.HCM  có  76%  người  biết  bệnh  THA  có  thể  gây  tai  biến(1).  Sự  chênh  lệch  này  có  thể  do  nghiên  cứu  ở  các  quần  thể  khác  nhau, với sự khác biệt nhau về văn hóa, trình độ  học vấn, độ tuổi và các hoạt động truyền thông  về bệnh THA. Trong nghiên cứu cũng tìm thấy  mối liên quan kiến thức về biến chứng của bệnh  với trình độ học vấn và nghề nghiệp của người  bệnh.

29,2% người bệnh hiện đang hút thuốc lá. Tỉ  lệ này tương đương nghiên cứu của Trần Thiện  Thuần ở những người  lớn  bị  THA  tại  Tp.HCM  có  tỉ  lệ  hút  thuốc  lá  là  30%(6).  Theo  nghiên  cứu  của  Trịnh  Thị  phương  Thảo  ở  người  trưởng  thành  bị  THA  tại  Q.5,  Tp.HCM  có  tỉ  lệ  người  đang hút thuốc là 27,3% (7). Theo kết quả trên cho  thấy  tỉ  lệ  hút  thuốc  lá  của  người  bệnh  THA  là  khá  cao.  Và  theo  điều  tra  quốc  gia  năm  2001  –  2002 tỉ lệ hút thuốc lá ở nam giới là 56,1% và ở  nữ  là  1,8%.  Mặc  dù  hiện  nay  cả  nước  đã  triển  khai  một  số  hoạt  động  phòng  chống  hút  thuốc  lá.  Tuy  nhiên  việc  can  thiệp  mới  chỉ  tập  trung  vào  việc  cung  cấp  kiến  thức  cho  người  dân  về  tác hại của thuốc lá nên chưa làm giảm tỉ lệ hút  thuốc lá nhiều.

Có  21,7%  người  bệnh  biết  bệnh  THA  cần  phải uống thuốc suốt đời. Tỉ lệ này thấp hơn rất  nhiều  so  với  nghiên  cứu  của  Huỳnh  Thị  Tiền  khảo  sát  ở  người  từ  35  tuổi  tại  bệnh  viện  Hậu  Nghĩa, Long An có 64,8% người bệnh biết phải  uống  thuốc  suốt  đời  (2).  Có  sự  khác  biệt  này  có  thể do nghiên cứu của Huỳnh Thị Tiền được thu  thập tại bệnh viện nên người bệnh sẽ được bác sĩ  nhắc nhở phải uống thuốc hạ áp thường xuyên  hơn vì vậy tỉ lệ người bệnh có kiến thức đúng về  thời gian điều trị sẽ cao hơn so với điều tra trong  dân số.

80,6%  người  bệnh  biết  ăn  mặn  có  thể  gây  THA. Tuy nhiên thực tế 76,1% người bệnh THA  có chế độ ăn mặn (ăn các món mặn như các loại  mắm,  dưa  muối,  tương  chao,  trứng  muối,  thịt  muối  từ  3  ngày/tuần  hoặc  được  người  nhà  cho  rằng  ăn  mặn).  Điều  này  cho  thấy  thói  quen  ăn  mặn rất khó thay đổi. Vì vậy cần sự động viên  tích cực của cán bộ y tế để người bệnh thực hành  ăn  lạt  một  cách  đúng  đắn  và  hợp  lý.  Ngoài  ra  không tìm thấy mối liên quan giữa thực hành ăn  lạt  và  giới,  tuổi,  nghề  nghiệp,  học  vấn,  hoàn  cảnh kinh tế của người bệnh. Điều này phù hợp  với các nghiên cứu khác trước đây(9,4).

KẾT LUẬN

Qua khảo sát 360 người từ 40 tuổi bị THA tại  Xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh  chúng tôi đưa ra kết luận như sau:

27,5% người bệnh THA hiện nay đang uống  thuốc hạ áp. Trong đó 32,3% người bệnh có thực  hiện tái khám hàng tháng. Theo nghiên cứu của  Vũ Bảo Ngọc ở những người THA tại Tp.HCM  66% không tái khám hoặc chỉ tái khám khi cảm  thấy mệt (10). Điều này có thể ảnh hưởng đến việc  kiểm  soát  huyết  áp  của  người  bệnh  ở  mức  ổn  định. Kết quả trong nghiên cứu cũng không tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  thực  hành  uống  thuốc  với  tuổi,  giới,  học  vấn,  hoàn  cảnh  kinh  tế  của  người  bệnh.  Vì  vậy  cần  sự  hướng  dẫn  tích  cực  của cán bộ y tế để người bệnh có thể uống thuốc  đầy đủ và hợp lý.

Kiến thức đúng của bệnh nhân về bệnh THA  còn  thấp.  25,8%  người  bệnh  có  kiến  thức  đúng  về  các  triệu  chứng  của  bệnh;  21,9%  người  có  kiến thức đúng về biến chứng của bệnh và biến  chứng của bệnh; 35,3% người bệnh có kiến thức

39,7% người bệnh có hoạt động có công việc  phải  vận  động  thường  xuyên  trên  10  phút/lần.  Tỉ  lệ  này  cao  hơn  nghiên  cứu  của  Trần  Thiện  Thuần ở người lớn bị THA tại Tp.HCM thì tỉ lệ  này là 34,3%(6). Sự khác biệt này có thể do nghiên

476

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  đúng  yếu  tố  nguy  cơ  của  bệnh;  38,9%  người  bệnh  cho  rằng  bệnh  THA  có  thể  phòng  ngừa  được;  21,7%  người  bệnh  có  kiến  thức  đúng  về  thời  gian  dùng  thuốc  khi  cho  rằng  người  bệnh  THA cần phải uống thuốc lâu dài, suốt đời.

Xây  dựng  mô  hình  điểm  tại  xã  như  triển  khai  mô  hình  họp  nhóm,  lồng  ghép  các  hoạt  động  truyền  thông  trong  các  cuộc  họp  của  ấp  hàng tháng để giảm các hành vi có hại cho sức  khỏe  cho  những  người  bị  THA  từ  40  tuổi.  Cần  chú trọng đến các nội dung như uống rươu, hút  thuốc, chế độ ăn nhiều rau xanh.

Cán  bộ  y  tế  hướng  dẫn  người  bệnh  cụ  thể  trong  việc  uống  thuốc  hạ  áp  như  cách  uống  thuốc, thời gian uống thuốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Về  thực  hành  điều  trị  THA,  27,5%  người  bệnh hiện đang uống thuốc hạ áp. Trong đó chỉ  có 32,3% người bệnh có tái khám định kỳ hàng  tháng.  29,2%  người  bệnh  đang  hút  thuốc  lá;  76,1%  người  bệnh  có  thói  quen  ăn  mặn;  60,3%  người  bệnh  có  công  việc  đứng  một  chỗ;  25,3%  người  bệnh  có  uống  rượu  trong  tuần  qua  và  21,9% người bệnh có lạm dụng rượu, bia (uống  bất kỳ ngày nào trong tháng qua từ 5 ly chuẩn  trở lên đối với nam và từ 4 ly chuẩn trở lên đối  với nữ) trong tháng qua.

3.

4.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thông  kê  giữa  trình  độ  học  vấn  với  kiến  thức  về  biến  chứng  bệnh (p = 0,003) và kiến thức phòng ngừa bệnh  (p  <  0,001).  Những  người  có  học  vấn  từ  bậc  Trung học cơ sở trở lên, những người có học vấn  càng cao thì kiến thức về biến chứng bệnh, kiến  thức về phòng chống bệnh càng tốt.

5.

KIẾN NGHỊ

6.

7.

Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu,  chúng  tôi  nhận  thấy để góp phần nâng cao nhận thức của người  bệnh,  nhằm  ngăn  chặn  các  biến  chứng  nguy  hiểm của THA theo hướng dự phòng, chúng tôi  xin đề nghị một số biện pháp sau:

8.

9.

Huỳnh  Thị  Tiền  (2007)  ʺKhảo  sát  sự  tuân  thủ  điều  trị  của  bệnh nhân tăng huyết áp tại phòng khám bệnh và khoa nội  tổng hợp bệnh viện đa khoa khu vực Hậu Nghĩa, tỉnh Long  Anʺ. Luận văn thạc sĩ Y khoa, Đại học Y dược TP.HCM.  2. Mã  Bửu  Cầm  (2004)  ʺThực  hành  thay  đổi  lối  sống  ở  bệnh  nhân THA từ 40 tuổi trở lên tại bệnh viện Nguyễn Trãiʺ. Luận  văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, Đại học Y dược TP.HCM.  Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Đỗ Nguyên (2001) ʺTỉ suất hiện  mắc THA và kiến thức, thái độ, thực hành về kiểm soát THA  ở người từ 18 tuổi trở lên tại xã Tân Tiến, Đầm Dơi, Cà Mauʺ.  Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 5, (4), Tr. 73 ‐ 79.  Nguyễn Văn Nành (2010) ʺCác yếu tố liên quan đến tỉ lệ bệnh  nhân  tuân  thủ  điều  trị  THA  tại  bệnh  viện  đa  khoa  huyện  Phong Điền, thành phố Cần Thơʺ. Luận Án chuyên khoa cấp II ‐  Quản lý y tế, Đại học Y dược Tp.HCM.  Phan Nhật Lệ (2009) ʺKiến thức, thái độ, thực hành về kiểm  soát THA của bệnh nhân khám BHYT tại bệnh viện quận 3,  Tp.HCM ʺ. Luận văn chuyên khoa cấp I ‐ Y tế công cộng, Đại học  Y dược Tp.HCM.  Trần Thiện Thuần (2005) ʺCác yếu tố ảnh hưởng Kiến thức và  thực  hành  ở  người  lớn  về  bệnh  THA  tại  Tp.HCMʺ.  y  học  Tp.HCM, Đại học Y dược Tp.HCM, 11, (1), tr. 118 ‐ 126.  Trần  Thiện  Thuần  (2006)  ʺXác  định  yếu  tố  ảnh  hưởng  đến  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  của  bệnh  nhân  THA  tại  Q.9,  Tp.HCMʺ. Y học Tp.HCM, Đại học Y dược TP.HCM, 11, (1), tr.  127‐135.  Trần Thiện Thuần (2007) ʺHành vi và những yếu tố liên quan  đến THA ở người lớn tại Tp.HCMʺ. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại  học y dược Tp.HCM.  Trịnh Thị Phương Thảo (2009) ʺẢnh hưởng của hành vi về lối  sống  lên  bệnh  THA  ở  người  trưởng  thành  tại  quận  5,  Tp.HCMʺ. Luận Án chuyên khoa cấp II ‐ Quản lý y tế, Đại học Y  dược Tp.HCM.

Xây  dựng  các  hoạt  động  truyền  thông  giáo  dục sức khỏe qua phát thanh trên loa đài, tờ rơi,  sách  nhỏ  nhằm  cung  cấp  kiến  thức  cho  người  dân trong phòng và điều trị THA. Trong đó cần  chú ý đến các kiến thức về biến chứng, nguy cơ  của bệnh, thời gian người bệnh phải uống thuốc  để điều trị THA.

10. Viện vệ sinh Y tế công cộng Tp.HCM (2011) ʺKết quả tầm soát  bệnh không lây cho cộng đồng tại Long Thuận, Bến Cầu, Tây  Ninh ʺ. Lưu hành nội bộ.

Tập huấn cho cán bộ y tế huyện, xã, y tế ấp  về  kỹ  năng  truyền  thông  vận  động  người  dân  trong điều trị bệnh THA.

11. Vũ Bảo Ngọc, Lê Hoàng Ninh (2004) ʺCác đặc điểm về nhận  biết,  điều  trị  và  kiểm  soát  huyết  áp  của  bệnh  nhân  THA  ở  quận 4, Tp.HCM ʺ. Y học Tp.HCM, Đại học Y dược Tp.HCM,  9, (1), tr. 132 138.

477

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ   BỆNH LÂY QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC VÀ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI   CỦA HỌC SINH TRƯỜNG PTTH NGUYỄN HIỀN, QUẬN 11   TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011

Lê Đức Hạnh*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh**, Trần Nhật Quang**

TÓM TẮT

Mở đầu: Sức khỏe sinh sản (SKSS) là vấn đề của nhiều lứa tuổi nhưng vị thành niên (VTN) là lứa tuổi  chiếm phần lớn dân số, có tác động mạnh mẽ đến tương lai đất nước và một điều đặt biệt, đây là lứa tuổi  đang mấp mé bên lề của tình dục và chưa được tiếp nhận đầy đủ các thông tin liên quan vấn đề này.

Mục tiêu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh lây qua đường tình dục (STIs)  và các biện pháp tránh thai (BPTT) của học sinh trường trung học phổ thông (THPT) Nguyễn Hiền ‐ Quận 11 ‐  TP Hồ Chí Minh, năm 2011 và các mối liên quan.

Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 402 học sinh được chọn ngẫu nhiên phân tầng tại trường

THPT Nguyễn Hiền ‐ Quận 11 ‐ TP Hồ Chí Minh, năm 2011. Dữ liệu được thu thập với bộ câu hỏi tự điền.

Kết quả: Tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng là 51%. Đa số học sinh có thái độ phù hợp, thái độ chung về STIs  phù hợp (94%), thái độ chung về BPTT phù hợp (71%), tuy nhiên tỉ lệ học sinh đồng tình với quan hệ tình dục  (QHTD)  trước  hôn  nhân  chiếm  tỉ  lệ  cao  (47%).  Học  sinh  tham  gia  nghiên  cứu  đã  từng  QHTD  chiếm  12%.Trong số học sinh có thực hành QHTD thì tỉ lệ học sinh có thực hành đúng về sử dụng biện pháp phòng  ngừa STIs và BPTT không cao, tỉ lệ tương ứng là 35% và 43%. Đa số học sinh mong muốn tiếp nhận thông tin  về STIs và BPTT(82%).

Kết luận: Tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng, thái độ phù hợp và thực hành đúng về STIs và BPTT còn thấp.  Cần có sự nhìn nhận nghiêm túc, hành động kịp thời và phối hợp giữa tất cả các ban ngành liên quan trong việc  giải quyết vấn đề liên quan STIs và BPTT ở VTN là một trong những vấn đề quan trọng có ảnh hưởng không  nhỏ đến cả một thế hệ trong tương lai.

Từ khóa: STIs, Biện pháp tránh thai, Vị thành niên.

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATITUDE, PRACTICE OF STIs AND CONTRACEPTIVES OF STUDENTS IN  NGUYEN HIEN HIGHT SCHOOL IN DISTRICT 11,HO CHI MINH CITY, IN 2011

Le Duc Hanh, Huynh Ho Ngoc Quynh, Tran Nhat Quang

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 476 ‐ 480

Background: Reproductive health is a problem of everyone. However, adolescents, who are accounted for the  majority  of  the  population  and  have  strong  impact  on  the  future  of  the  country,  have  not  received  sufficient  information about this matter.

Objectives:  To  describe  the  knowledge,  atitude,  and  pratice  of  STIs  and  contraception  of  students  in

Nguyen Hien hight school in district 11, Ho Chi Minh city, in 2011 and to determine relationships.

Methods:  This  was  a  cross‐sectional  study.  on  402  students  in  Nguyen  Hien  hight  school  were  selected

** Khoa Y tế công cộng – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí

* Khoa GDNC‐SK‐Viện VSYTCC Tp.HCM  Minh

478

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  using random stratified sampling method.. Data were collected from self‐administered questionnaires.

Results:  The  proportion  of  students  awared  of  the  matter  was  51%.  Most  students  had  appropriate  attitudes.  but  the  proportion  of  students  approving  premarital  sex  was  high  (47%).  The  proportion  of  study  subjects  having  sexual  experience  was  accounted  for  12%.  Among  these  students,  the  proportion  of  students  using right preventive measures was not high (35% for STIs and 43% for contraception). Most students wanted  to receive information about STIs and contraception (82%).

Conclusion: The proportion of students with knowledge, appropriate attitude and right practice of STIs and  contraception  is  low.  There  should  be  serious  consideration,  timely  action  and  good  coordination  among  all  departments related to STIs and contraception issues among adolescents.

Keywords: STIs, Contraception, Adolescent.

ĐẶT VẤN ĐỀ

PHƯƠNG PHÁP ‐ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu và đối tượng nghiên cứu

402  học  sinh  trường  THPT  Nguyễn  Hiền,

Quận 11, Tp.HCM.

Thời gian nghiên cứu  03/2011 – 07/2011.

Phương pháp và công cụ nghiên cứu

Sử dụng bộ câu hỏi tự điền.

Kiểm soát sai lệch thông tin

Vị thành niên (VTN) là giai đoạn chuyển tiếp  của sự phát triển thể chất, xã hội và tâm lý một  cách nhanh chóng, đánh dấu một điểm duy nhất  trong  cuộc  đời  khi  một  cá  nhân  không  còn  là  một đứa trẻ nhưng chưa phải là người lớn. Thời  kỳ chuyển tiếp này đặt ra những thách thức cho  sức khỏe VTN và cả người lớn. Một cá nhân đến  tuổi VTN thì họ đã vượt qua các nguy hiểm của  thời kỳ trẻ sơ sinh và thời thơ ấu, thường được  xem là khỏe mạnh. Tuy nhiên, nhiều mối đe dọa  đến sức khỏe và sự phát triển của họ vẫn còn tồn  tại, mà họ cần phải được chuẩn bị và được bảo  vệ.

Thiết  kế  bộ  câu  hỏi  với  những  từ  ngữ  rõ

ràng, dễ hiểu.

Tiến hành nghiên cứu thử với số mẫu 5% so  với  cỡ  mẫu  và  chỉnh  sửa  bộ  câu  hỏi  phù  hợp  trước khi triển khai nghiên cứu chính thức.

Phân tích và xử lý số liệu

Nhập  liệu:  Epidata  3.1.  Xử  lý  số  liệu:  Stata

10.

Ngày  nay  cùng  với  sự  gia  tăng  tỉ  lệ  nhiễm  bệnh lây qua đường tình dục (STIs), đặc biệt là  HIV là sự tăng vọt của tỉ lệ nạo phá thai (NPT) ở  VTN.  Tử  vong  do  phá  thai  không  an  toàn  gần  13% số tử vong mẹ, hầu hết là ở các nước đang  phát  triển(9).  Trong  đó  mỗi  năm  có  4,5  triệu  nữ  VTN  phá  thai  không  an  toàn  trên  toàn  thế  giới  (3).

Vấn đề Y đức

Kết  quả  nghiên  cứu  chỉ  được  sử  dụng  cho  mục  đích  khoa  học,  những  thông  tin  mà  đối  tượng  cung  cấp  sẽ  hoàn  toàn  được  giữ  bí  mật.  Chỉ tiến hành nghiên cứu trên đối tượng đồng ý  tham gia nghiên cứu.

KẾT QUẢ

Các sự kiện xã hội, kinh tế và sinh học ảnh  hưởng  sâu  sắc  đến  tuổi  VTN  và  sẽ  định  hình  cuộc sống của người lớn trong tương lai. VTN là  lứa  tuổi  chiếm  phần  lớn  dân  số,  có  tác  động  mạnh  mẽ  đến  tương  lai  đất  nước  và  lứa  tuổi  đang mấp mé bên lề của tình  dục.  Để  tìm  hiểu  về  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  về  STIs  và  các  BPTT  trong  lứa  tuổi  VTN  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên cứu này.

Tỉ lệ học sinh nam tham gia nghiên cứu thấp  hơn  so  với  học  sinh  nữ  và  đa  số  học  sinh  sống  chung với cha mẹ, anh chị em. Trong những học

479

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

về sử dụng biện pháp phòng ngừa STIs và BPTT  không cao, tỉ lệ tương ứng là 35% và 43%.

Nghiên cứu Y học  sinh biết yêu, tuổi biết yêu trung bình là 14,6 (8 –  18) với độ lệch chuẩn là 1,80.

Bảng 1: Các đặc tính của mẫu nghiên cứu (N=402)  Tần số Tỉ lệ (%)

Trong 402 đối tượng nghiên cứu có 330 học  sinh  có  nhận  được  thông  tin  liên  quan  STIs  và  BPTT, chiếm 82%. Đối tượng được chọn để chia  sẻ  nhiều  nhất  là  tư  vấn  viên  (48%)  và  25%  học  sinh  tham  gia  sẽ  không  nói  với  bất  kỳ  ai,  phương  tiện  phù  hợp  để  sử  dụng  được  chọn  nhiều  nhất  là  Internet  và  98%  các  em  mong  muốn tiếp nhận thông tin về vấn đề này.

Bảng 2 mô tả tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng  ở mỗi loại kiến thức, tỉ lệ học sinh có kiến thức  đúng về biện pháp phòng ngừa STIs là cao nhất,  thấp  nhất  là  kiến  thức  về  STIs  và  tiếp  theo  là  kiến thức về BPTT.

Đã sử dụng Phù hợp để sử dụng Đặc điểm Giới: Nam Nữ Trình độ học vấn: Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Sống chung Sống chung với cha, mẹ, anh, chị, em Sống chung với họ hàng, người quen Sống một mình Sống chung với bạn bè Đã/ đang có người yêu: Có Chưa 184 218 130 148 124 372 24 4 2 195 207 46 54 32 37 31 92 6 1 1 49 51 Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)

Bảng 2: Tổng hợp kiến thức (N=402)

Bảng 4: Phương tiên truyền thông đã sử dụng và  phù hợp để sử dụng (N=402)  Phương tiện truyền thông Nội dung Sách báo Internet Nhà trường Tivi Bạn bè Gia đình Áp phích, tờ rơi Radio

246 242 237 145 101 91 61 43 231 352 247 208 98 155 73 109 75 74 72 44 31 28 19 13 58 88 61 52 24 39 18 27 Tần số 162 Tỉ lệ (% 40

361 90

Bảng 5: Mối liên quan giữa thực hành QHTD với  đặc tính mẫu. (N=402)

Quan hệ tình dục Đặc tính P value PR (KTC 95 %) Nội dung Kiến thức về STIs Kiến thức về biện pháp phòng ngừa STIs Kiến thức về BPTT Kiến thức về an toàn tình dục 186 289 46 72

Đa số học sinh có thái độ phù hợp chiếm tỉ lệ  cao  nhưng  mức  độ  đồng  tình  về  QHTD  trước  hôn nhân trong học sinh vẫn chiếm tỉ lệ cao.

Có Không

15(11) 117(89) 25(17) 120(83) 9 (7) 116(93)

Bảng 3: Tổng hợp thái độ (N=402)

1,06(0,98-1,15) 0,96(0,89-1,04)

Tần số 390 366 Tỉ lệ 97 91

383 95

343 85

212 53 0,13 0,31 32(17) 152(83) 0,0034 2,23(1,28-3,88) 17(8) 201(92) 0,082 0,39 1,07(0,99-1,16) 0,97(0,89-1,05) 14(11) 116(89) 26(18) 122(82) 115(93) 9(7) Thái độ phù hợp Mức độ nguy hiểm của STIs Mức độ ảnh hưởng của STIs Sử dụng biện pháp phòng ngừa STIs Sử dụng BPTT Mức độ đồng tình về QHTD trước hôn nhân Mức đồng tình về NPT 330 82 46(12) 325(88) 1,00* 1,28(0,42-3,88)

3(10) 28(90)

* : Kiểm định Fisher.

Trong 402 học sinh tham gia nghiên cứu có  49  học  sinh  đã  từng  quan  hệ  tình  dục,  chiếm  12,2%.  Học  sinh  QHTD  lần  đầu  rất  sớm,  tuổi  QHTD lần đầu trung bình là 15,5 (12 – 17) với độ  lệch  chuẩn  là  1,29.  Trong  số  học  sinh  có  thực  hành QHTD thì tỉ lệ học sinh có thực hành đúng

Tuổi 16 17 18 Giới Nam Nữ Học vấn 10 11 12 Sống chung Cha mẹ, anh chị em Khác Người yêu Có Không 36(19) 159(81) 0,0002 2,94(1,61-5,37) 13(6) 194(94)

480

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

ngày  càng  sớm  và  sớm  nhất  là  8  tuổi,  tuổi  biết  yêu trung bình là 14,6 tuổi,.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Bảng 6: Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ với  thực hành sử dụng BPTT, biện pháp phòng ngừa  STIs.

Kiến thức về STIs và BPTT ở học sinh trường  THPT Nguyễn Hiền còn thấp, đặc biệt kiến thức  đúng về STIs là 40%, thấp hơn so với nghiên cứu  của tác giả Diệp Từ Mỹ (68,9%)(6), chưa đến phân  nửa học sinh có kiến thức đúng.

Nội dung Sử dụng BPTT/Biện pháp phòng ngừa STIs P value PR (KTC 95 %) Đúng Sai Kiến thức chung BPTT 18(46) 21(54) Đúng

Sai 3(30) 7(70) 0,36

Thái độ chung về BPTT Phù hợp 11(37) 19(63)

Không phù hợp 10(53) 9(47) 0,27

Kiến thức phòng STIs

Đa  số  học  sinh  có  thái  độ  phù  hợp  trừ  thái  độ  về  QHTD  trước  hôn  nhân  ở  VTN.  Trong  nghiên  cứu  này  có  tới  47%  học  sinh  chấp  nhận  việc QHTD trước hôn nhân. Điều này phù hợp  với  báo  cáo  SAVY  2,  QHTD  trước  hôn  nhân  ngày càng được  chấp  nhận  trong  giới  trẻ  và  có  44% thanh niên có ʺthái độ hiện đại” và cao hơn  0,8% so với SAVY 1(2, 4).

Đúng 15(38) 24(62) 0,46*

* Kiểm định Fisher.

Sai 2(20) 8(80) 1,54 (0,56- 4,21) 0,70 (0,40- 1,31) 1,92 (0,52- 7,08)

Bảng 7: Mối liên quan giữa mong muốn tiếp nhận  thông tin với giới, kiến thức và thái độ(N=402)

PR (KTC 95 %) P value Đặc tính Mong muốn tiếp nhận thông tin Có (%) Không (%)

0,03* 0,97(0,94-1,00)

0,03* 1,03(1,00-1,06)

*  Kiểm định Fisher.

177(96) 217(99) 204(99) 190(96) 0,16* 1,03(0,98-1,08) 7(4) 1(1) 1(1) 7(4) 5(2) 3(4) Giới Nam Nữ KT chung Đúng Sai TĐ chung Phù hợp 325(98) 69 (96) Không phù hợp

BÀN LUẬN

Nghiên cứu cho thấy có 12% học sinh tham  gia  nghiên  cứu  đã  từng  QHTD,  tỉ  lệ  này  thấp  hơn so với nghiên cứu của Mohammadi tại Iran  (28%) nhưng lại cao hơn so với báo cáo SAVY 2  (7,6%)(1,5).  Đa  số  học  sinh  quan  hệ  tình  dục  lần  đầu trên 15 tuổi nhưng tỉ lệ học sinh QHTD lần  đầu  ở  độ  tuổi  15  tuổi  trở  xuống  chiếm  tỉ  lệ  không nhỏ 4%. Theo báo cáo của UNICEF năm  2011: Các số liệu khảo sát hộ gia đình cho thấy ở  các  quốc  gia  đang  phát  triển  (trừ  Trung  Quốc),  khoảng  11%  nữ  giới  và  6%  nam  giới  ở  độ  tuổi  15‐19 cho biết đã từng có quan hệ tình dục trước  15  tuổi(7).  Tuy  tỉ  lệ  QHTD  trước  15  tuổi  của  nghiên  cứu  này  thấp  hơn  so  với  báo  cáo  của  UNICEF nhưng có thể do đối tượng nghiên cứu  hẹp hơn, chỉ từ 16 đến 18 tuổi. Cùng với tuổi biết  yêu thì tuổi QHTD ngày càng sớm, tuổi quan hệ  tình  dục  lần  đầu  tiên  nhỏ  nhất  là  12  tuổi  và  trung bình 15,5 tuổi.

Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  học  sinh  có  người yêu chiếm tỉ lệ khá cao 49% học sinh tham  gia  nghiên  cứu,  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Diệp  Từ  Mỹ  năm  2004  là  23,2%,  và  nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Tấn và Hoàng  Kiên Trung là 16,2%, tuổi dậy thì ngày càng sớm  kéo  theo  sự  quan  tâm  đến  người  khác  giới  của  các nam sinh, nữ sinh ngày càng sớm và nhiều  hơn. Theo nghiên cứu này cho biết tuổi biết yêu

Học  sinh  nam  có  thực  hành  QHTD  nhiều  hơn  học  sinh  nữ,  tuy  nữ  sinh  thường  dậy  thì  sớm hơn nam sinh nhưng có thể giả thuyết các  bạn  nam  có  thể  thường  hiếu  kỳ,  tò  mò,  muốn  khám  phá  bản  thân  qua  phim  ảnh,  sách  báo,  Internet. Trong những học sinh đã từng quan hệ  tình dục thì chỉ có 43% học sinh có thực hành sử  dụng  BPTT,  cao  hơn  so  với  báo  cáo  của  WHO  (34%) nhưng con số này không đủ cao và nghiên

481

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  cứu  cho  thấy  chỉ  có  35%  sử  dụng  biện  pháp  phòng ngừa STIs khi QHTD(8).

học sinh THPT, nhưng tốt hơn là giáo dục sớm  cho  các  em  ngay  từ  trung  học  cơ  sở.  Cùng  với  nhà  trường,  gia  đình  là  nơi  gần  gũi  với  các  em  nhất. Các bậc cha mẹ có thể chia sẻ với các em về  vấn đề SKSS.

Học  sinh  có  kiến  thức  đúng  về  STIs  thì  có  thực  hành  đúng  về  sử  dụng  biện  pháp  phòng  ngừa STIs khi quan hệ tình dục cao hơn học sinh  có  kiến  thức  sai  về  STIs.  Nhưng  kiến  thức  về  BPTT không có liên quan đến việc có thực hành  sử dụng BPTT hay không, kết quả SAVY 2 cũng  cho thấy đại bộ phận thanh thiếu niên được tiếp  nhận  thông  tin  về  BPTT  nhưng  thái  độ  và  sử  dụng lại không tỷ lệ thuận với việc nhận biết(4).  Lý do khiến học sinh không sử dụng BPTT khi  quan hệ tình dục nhiều nhất là do không có sẵn,  sau  đó  là  do  bản  thân  không  thích,  rồi  do  bạn  tình không thích, cuối cùng mới là không biết về  BPTT.

Ngoài việc kết hợp với ngành  giáo dục, các  cơ quan y tế cần đảm bảo cung cấp đầy đủ các  dịch  vụ  y  tế,  cả  tư  vấn  lẫn  chăm  sóc  sức  khỏe  cho  VTN.  Đặc  biệt  tại  các  cơ  sở  tư  vấn,  không  nên  quá  đông  người,  môi  trường  tư  vấn  cần  thân  thiện  và  việc  cung  cấp  thông  tin  cần  thật  đầy đủ và chính xác. Bên cạnh công việc chuyên  môn,  các  cơ  quan  y  tế  cần  biên  soạn  những  tài  liệu về vấn đề liên quan STIs và BPTT sinh động,  dễ hiểu, tạo được sự hứng thú và có những buổi  gặp gỡ để các em có cơ hội giải đáp thắc mắc của  mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

Báo Sức Khỏe Và Đời Sống (2009), Nạo phá thai ở tuổi Vị Thành  Niên: Chuyện đau lòng!, suckhoedoisong.vn/.../nao‐pha‐thai‐o‐ tuoi‐vi‐thanh‐nien‐chuyen‐dau‐long!.htm  Bộ  Y  tế,  Tổng  cục  thống  kê,  UNICEF,  WHO  (2005)  Điều tra  quốc gia về vị thành niên Việt Nam lần 1.  Ghana  News  Agency  (2008)  ʺResearch  reveals  high  number  adolescents undergoing unsafe abortion ʺ.

4. MOH,  GSO,  UNICEF,  WHO  (2010)  Survey  assessment  on

Vietnamese youth round 2, NXB Hà Nội.

Trong  thời  kỳ  hiện  đại  như  hiện  nay,  con  người  sẽ  dần  dần  sống  khép  kín,  điều  đáng  lo  ngại  là  một  phần  tư  học  sinh  tham  gia  nghiên  cứu chọn không nói với bất kỳ ai khi găp những  vấn đề liên quan STIs và BPTT, cũng có thể vì lý  do đó mà phương tiện các em chọn là phù hợp  nhất với mình để có được những thông tin liên  quan STIs và BPTT là Internet (88%). Điều đáng  lo ngại là những kiến thức trên Internet rất khó  kiểm soát độ chính xác của thông tin.

KẾT LUẬN

6.

7. 8.

5. Mohammadi  MR,  Mohammad  K.,  Farahani  FK,  Alikhani  S.,  Zare  M.,  Tehrani  FR.,  Ramezankhani  A,  Alaeddini  F  (2006)  ʺReproductive  knowledge,  attitudes  and  behavior  among  adolescent  males  in  Tehran,  Iranʺ.  Int  Fam  Plan  Perspect,  32,  (1), 35‐44.  Nguyễn  Văn  Lơ,  Diệp  Từ  Mỹ  (2004)  Kiến thức, thái  độ,  thực  hành  về  sức  khỏe  sinh  sản  của  học  sinh  trung  học  phổ  thông  TP.HCM, Tạp  chí  Y  học  Tp.HCM,  tập  9,  phụ  bản  của  số  1.  trang 68 – 71.  UNICEF (2011) The state of the worldʹs children 2011,   Vietnamplus (2009) ʺ11% vị thành niên ở Việt Nam có ʺquan  hệʺ sớmʺ.

9. WHO

(2003),

Unsafe

abortion,  www.who.int/reproductivehealth/publications/unsafe_aborti on/9789241596121/en/ ‐ 20k,

10. WHO  Reproductive health, child and adolescent health, nutrition,

Tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng về STIs và  BPTTcòn thấp, tỉ lệ học sinh có thái độ đồng tình  với  QHTD  trước  hôn  nhân  cao  (47%).  Trong  mẫu nghiên cứu, học sinh đã từng QHTD chiếm  tỉ lệ không nhỏ (12,2%), đáng lo ngại là trong số  những  học  sinh  có  QHTD  thì  hơn  phân  nữa  không có thực hành đúng về sử dụng BPTT và  biện pháp phòng ngừa STIs. Đa số học sinh biết  yêu lần đầu trung bình là 14,6 và tuổi QHTD lần  đầu sớm, trung bình là 15,5 tuổi.

KIẾN NGHỊ

and health for older persons  www.wpro.who.int/.../rdonlyres/D37ABCE4‐A9C0‐4CA2‐ A4CE‐ FC7815ADC55E/0/14a_Chapter9Reproductivehealth.pdf

Nhà trường cần xây dựng một chương trình  giáo  dục  về  SKSS  đặc  biệt  là  STIs  và  BPTT  cho

482

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG CAN THIỆP THAY ĐỔI  KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN   TRONG PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT TẠI 2 Xà  TỈNH TIỀN GIANG, NĂM 2011

Lê Công Minh*

TÓM TẮT

Đặt  vấn  đề:  Sốt xuất huyết (SXH) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh nặng và nhập  viện tại Việt Nam(3). Chương trình phòng chống SXH tại Việt Nam đã được thực hiện từ năm 1999, nhưng đến  nay tỉ lệ mắc và chết không có xu hướng giảm. Trong năm 2009, các ca SXH chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía  Nam. Đặc biệt là các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nơi việc dự trữ nước còn rất phổ biến và các yếu tố  vệ sinh môi trường thuận lợi cho sự phát triển của muỗi(1). Tiền Giang là một trong những tỉnh có số ca mắc  hằng năm cao và có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây(4,5).

Mục tiêu: Xác định hiệu quả của hoạt động truyền thông trong thay đổi hành vi phòng chống SXH sau 6

tháng thực hiện tại 2 xã của tỉnh Tiền Giang.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng. Xã Tân Lý Đông được chọn là xã can thiệp,

xã Tân Lý Tây được chọn là xã chứng. Cả 2 xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

Kết quả: Sau khi can thiệp, tỉ lệ người dân tại xã Tân Lý Đông dùng nhang muỗi để diệt muỗi gấp 2 lần  trước khi can thiệp với p < 0,001. Tỉ lệ người dân thay nước và súc rửa dụng cụ chứa nước dưới 7 ngày sau khi  can thiệp tăng gấp 1,6 lần trước can thiệp với p < 0,001.Nhìn chung trước khi can thiệp, thực hành về phòng  chống SXH của người dân giữa hai xã không có sự khác biệt. Sau khi can thiệp, tỉ lệ hộ đậy nắp dụng cụ chứa  nước (DCCN) kín hoàn toàn tại xã Tân Lý Đông cao gấp 1,14 lần xã Tân Lý Tây với p = 0,004. Qua quan sát tại  xã Tân Lý Đông, sau can thiệp tỉ lệ hộ có lăng quăng bằng 0,57 lần trước can thiệp với p < 0,001 và qua quan sát  giữa 2 xã Tân Lý Đông và Tân Lý Tây thì tỉ lệ hộ có thả cá trong các dụng cụ chứa nước và tỉ lệ hộ đậy kín các  dụng cụ chứa nước xã Tân Lý Đông cao hơn ở Tân Lý Tây. Nghiên cứu cho thấy loại hình/hoạt động truyền  thông mang lại hiệu quả trong truyền thông thay đổi hành vi của người dân là cộng tác viên đến hộ dân vận  động.

Kết luận:Thực hành của người dân về phòng chống SXH thay đổi nhiều sau khi truyền thông can thiệp. Tỉ  lệ người dân dùng nhang muỗi, tỉ lệ người dân thực hành thay nước, súc rửa lu dưới 7 ngày tăng hơn trước can  thiệp. So với xã Tân lý Tây (xã chứng) thì điều tra và quan sát sau khi can thiệp, người dân tại xã Tân Lý Đông  (xã can thiệp) có thực hành đúng về phòng chống SXH (dùng quạt để tránh muỗi đốt, đậy nắp dụng cụ chứa  nước kín hoàn toàn, thả cá trong dụng cụ chứa nước) cao hơn. Cộng tác viên đến hộ dân vận động là hoạt động  truyền thông mang lại hiệu quả tại địa phương.

Từ khóa: Phòng chống Sốt xuất huyết, truyền thông can thiệp.

ABSTRACT

ASSEESSMENT OF KNOWLEDGE AND BEHAVIOR CHANGE COMMUNICATION FOR DENGUE  PREVENTION FOR PEOPLES IN TWO COMMUNES IN TIEN GIANG PROVINCE, IN 2011

Le Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 481 ‐ 485

* Khoa Giáo dục & Nâng cao Sức khỏe, Viện Vệ Sinh Y Tế Công Cộng TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths. Lê Công Minh   ĐT: 0918712374

Email: lecongming@ihph.org.vn

483

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Background:  Dengue is one of the leading causes of severe illness in Vietnam(3). The Dengue prevention  program in Vietnam have been conducted since 1999, but the morbidity and mortality rate have not decreased. In  2009, dengue cases mainly occurred in Southern provinces especially in Mekong Delta provinces, where water is  usually stored and environmental factors facilitate the development of mosquitoes(1). Tien Giang province is one of  the provinces where the prevalence of Dengue cases was high and has increased in recent years(4,5).

Objectives:  To  determine  the  effectiveness  of  behavior  change  communication  activities  to  for  Dengue

prevention after the 6‐ month intervention in two communes in Tien Giang province.

Methods:  This  is  a  community  intervention  study..  Tan  Ly  Dong  commune  was  the  interventional  commune and Tan Ly Tay commune was the control commune. Both communes belong to Chau Thanh district  in Tien Giang province.

Results: After intervention, there was a twofold increase in the number of people in Tan Ly Dong commune  using  incense  to  kill  mosquitoes..  The  number  of  people  who  changed  and  cleaned  water  containers  in  under  seven  days  increased  1.6  times.  The  rate  of  households  in  Tan  Ly  Dong  commune  that  tighly  covered  water  containers  was  1.14  times  higher  than  Tan  Ly  Tay  commune  (p  =  0.004).  The  number  of  households  having  mosquito  larvae  in  water  containers  decreased  0.57  times.  The  rate  of  households  at  Tan  Ly  Dong  commune  where water containers were tightly covered and had fish was highter than Tan Ly Tay commune.

Conclusion:  The  intervention  has  brought  positive  changes  in  practice  on  Dengue  control.  Volunteer

program educator network has worked effectively.

Key words: Dengue prevention, communication intervention

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Phương  pháp  nghiên  cứu  can  thiệp  cộng

đồng.

Tân Lý Đông được chọn là xã can thiệp, Tân  Lý  Tây  được  chọn  là  xã  chứng.  Cả  2  xã  thuộc  huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.

Phân tích và xử lý số liệu

Nhập  liệu:  Epidata  3.0.  Xử  lý  số  liệu:  Stata

10.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

SXH  là  một  nguyên  nhân  hàng  đầu  gây  bệnh  nặng  và  nhập  viện  tại  Việt  Nam(3).  Bệnh  SXH đã ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống  của con người, gây ra số mắc và tử vong cao tại  nhiều nước trên thế giới. Theo Tổ chức Y tế thế  giới (WHO), ước tính mỗi năm có khoảng 50 đến  100  triệu  người  mắc  bệnh  này,  xấp  xỉ  2,5  tỷ  người  sống  tại  các  quốc  gia  lưu  hành  dịch  SXH(7,6).  Tại  Việt  Nam  các  ca  SXH  chủ  yếu  tập  trung ở các tỉnh phía Nam.  Đặc  biệt  là  các  tỉnh  thuộc  đồng  bằng  sông  Cửu  Long,  nơi  việc  dự  trữ nước còn rất phổ biến và các yếu tố vệ sinh  môi  trường  thuận  lợi  cho  sự  phát  triển  của  muỗi(1).  Tiền  Giang  là  một  trong  những  tỉnh  có  số ca mắc hằng năm cao so với các tỉnh trong cả  nước  và  có  chiều  hướng  gia  tăng  trong  những  năm gần đây(4,5).

Không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về đặc điểm của đối tượng trước và sau khảo sát  giữa 2 xã về giới, học vấn, nghề nghiệp, số người  có trong hộ, số trẻ có trong hộ và phương tiện đi  lại, sinh hoạt và nghe nhìn và kinh tế hộ của đối  tượng trước và sau can thiệp.

Sự  khác  biệt  về  kiến  thức  và  thực  hành  phòng  chống  SXH  của  người  dân  tại  xã  Tân  Lý  Đông trước và sau khi can thiệp  Bảng 1: Kiến thức của người dân về diệt muỗi đốt trước và sau can thiệp (CT) tại xã Tân Lý Đông

Sau CT Trước CT Làm gì để diệt muỗi P RR (95%KTC) (n=212) (n=210)

484

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Có Không Có Không Đốt nhang muỗi 105 (49,5%) 107 (50,5%) 52 (24,8%) 158 (75,2%) <0,001 2,00 (1,52-2,63) Phun thuốc xịt muỗi 63 (29,7%) 149 (70,3%) 97 (46,2%) 113 (53,8%) <0,001 0,64 (0,50-0,83) Vợt điện 63 (29,7%) 149 (70,3%) 43 (20,5%) 167 (79,5%) 0,02 1,45 (1,04-2,03)

* Kiểm định Fisher

can thiệp, đốt nhang muỗi được lựa chọn nhiều  nhất với tỉ lệ là 49,5%.

Người  dân  dùng  nhang  muỗi  để  diệt  muỗi  sau khi can thiệp tại xã Tân Lý Đông cao gấp 2  lần so với trước khi can thiệp với p < 0,001. Sau

4 (1,9%) 208 (98,1%) 21 (10%) 189 (90%) <0,001* 0,19 (0,07-0,54) Dùng tay, dụng cụ đập muỗi Khác 3 (1,4%) 209 (98,6%) 3 (1,4%) 207 (98,6%) 1,00* 0,99 (0,20-4,85)

Bảng 2: Thực hành của người dân về diệt lăng quăng bằng cách súc rửa DCCN của người dân tại xã Tân Lý  Đông

Sau CT Trước CT Súc rửa DCCN P RR (95%KTC) (n=212) (n=210) Có Không Có Không Có súc rửa các DCCN 212 (100%) 0 (0,0%) 133 (63,3%) 79 (37,6%)

177 (83,5%) 35 (16,5%) 143 (68,1%) 67 (31,9%) <0,001 1,61 (1,2- 2,14) Thời gian thay nước, súc rửa DCCN dưới 7 ngày

54 (25,5%) 158 (74,5%) 63 (30,0%) 147 (70,0%) 0,29 0,8 (0,71-1,11) Thả cá diệt lăng quăng trong tất cả các DCCN Tân Lý Đông Tân Lý Tây n=210 N=208 P RR Nội dung KTC 95% Có Có Khôn g Khôn g

93 117 100 108 0,43 0,92

Số hộ có lăng quăng (44,3) (55,7) (48,1) (51,9)

69 141 42 166 0,003 1,62 0,74- 1,13 1,17- 2,26

(32,9) (67,1) (20,2) (79,8)

Tỉ  lệ  hộ  dân  đậy  nắp  DCCN  kín  hoàn  toàn  sau  khi  can  thiệp  gấp  1,14  lần  tỉ  lệ  hộ  dân  đậy  nắp DCCN kín hoàn toàn trước khi can thiệp với  p = 0,004. Kết quả cho thấy sau can thiệp người  dân  đã  biết  cách  đậy  nắp  DCCN  đúng  hơn  so  với ban đầu. Tỉ lệ người dân biết cách đậy nắp  DCCN đúng tăng 5,8% so với trước can thiệp. Tỉ  lệ này tương đương với nghiên cứu của tác giả  Nguyễn Lâm (2009) tại Quận 8 tp. Hồ Chí Minh,  tỉ  lệ  đậy  kín  các  DCCN  tại  phường  điểm  và  phường chứng tương ứng là 65%, 55%.

173 37 141 67 <0,001 1,21 1,09- 1,36

(82,4) (17,6) (67,8) (32,2)

209 1 203 5 0,12* 1,02 0,99- 1,04

* Kiểm định Fisher

(99,5) (0,5) (97,6) (2,4) Số hộ có thả cá trong các DCCN Số hộ đậy nắp kín các DCCN Số hộ súc lu < = 7 ngày

Sự khác biệt về thay đổi kiến thức và thực  hành  phòng  chống  SXH  của  người  dân  trước và sau can thiệp tại hai xã  Bảng 3:1 So sánh thực hành phòng chống SXH của  người dân qua quan sát tại hai xã trước can thiệp

Tân Lý Đông Tân Lý Tây n=210 N=208 P RR Nội dung KTC 95% Có Có Khôn g Khôn g

209 1 205 3 0,31* 1,01 1,99- 1,02

Qua quan sát sau khi can thiệp thì tại hai xã  thì tuy tỉ lệ hộ dân có lăng quăng tại xã Tân Lý  Tây cao hơn xã Tân Lý Đông là 4,2%, và tỉ lệ hộ  dân thả cá trong DCCN tại xã Tân Lý Đông cao  hơn xã Tân Lý Tây là 12,7% và tỉ lệ hộ dân tại xã  Tân  Lý  Đông  đậy  kín  DCCN  cao  hơn  tỉ  lệ  hộ  dân tại xã Tân Lý Tây là 14,6%.

(99,5) (0,5) (98,6) (1,4) Số hộ có dụng cụ trữ nước

485

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Loại hình/hoạt động truyền thông mang lại hiệu quả trong việc truyền thông thay đổi hành  vi của người dân   Bảng 4: Nguồn thông tin về phòng chống SXH đến người dân tại hai xã

Tân Lý Đông Tân Lý Tây

Biết các thông tin về SXH nhờ vào Trước CT n= 210 Sau CT n=208 Trước CT n=212 Sau CT N=211

Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%)

Đài, tivi Có người đến nhà vận động Tài liệu truyền thông Họp dân tại ấp, xã Người quen Nghe xe cổ động trong các chiến dịch Con cháu là học sinh Họp phụ huynh Khác 159 95 39 26 25 13 11 3 3 75,7 45,2 18.6 12,4 11,9 6,2 5,2 1,4 1,4 184 193 93 130 1 1 0 0 0 Tần số 152 100 55 24 39 38 6 7 3 88,5 92,8 44.7 62,5 0,5 0,5 0,0 0,0 0,0 71,7 47,2 25.9 11,3 18,4 17,9 2,8 3,3 1,4 181 163 99 71 11 10 1 0 0 85,8 77,3 46.9 33,6 5,2 4,7 0,5 0,0 0,0

Sự khác biệt về thay đổi thực hành phòng  chống SXH của người dân trước và sau can  thiệp tại hai xã

Tỉ lệ thực hành phòng chống SXH bằng cách  diệt muỗi, diệt lăng quăng và súc rửa các DCCN  của  người  dân  ở  cả  hai  xã  có  tăng  so  với  trước  can  thiệp  nhưng  sự  khác  biệt  này  không  có  ý  nghĩa thống kê giữa hai xã.

Số  hộ  có  lăng  quăng  giảm  đáng  kể  so  với  trước  can  thiệp  tại  hai  xã.  Nhưng  sự  khác  biệt  này không có ý nghĩa thống kê.

Loại hình/hoạt động truyền thông mang lại  hiệu quả trong việc truyền thông thay đổi  hành vi của người dân

Nguồn  cung  cấp  thông  tin  cho  người  dân  vào thời điểm sau can thiệp tại xã Tân Lý Đông  chủ  yếu  là  CTV  đến  nhà  người  dân,  kế  đến  là  đài, ti vi. Trong khi đó nguồn cấp thông tin cho  người dân vào thời điểm sau can thiệp tại xã Tân  Lý  Tây  chủ  yếu  là  đài,  ti  vi  và  kế  đến  là  CTV.  Người dân cho biết họ được nghe các thông tin  về phòng bệnh SXH qua các cuộc họp nhóm dân  tại xã, ấp, tăng 5 lần so với khảo sát ban đầu. Kết  quả nghiên cứu tương đương với kết quả nghiên  cứu  của  tác  giả  Nguyễn  Lâm  (2009)  tại  tp,  Hồ  Chí Minh, Nguyễn Văn Tới (2009) tại Đồng Nai,  Bạch  Thị  Chính  (2009)  tại  Tiền  Giang  cho  thấy  tiếp cận thông tin qua truyền thông đại chúng là  rất  cao  và  kiến  thức  đúng  của  người  dân  trên  80%.  Tuy  nhiên,  người  dân  có  kiến  thức  đúng  cao nhưng tỉ lệ thực hành vẫn còn thấp(1).

KẾT LUẬN

Tỉ lệ người đến nhà vận động tại xã Tân Lý  Đông sau can thiệp tăng gấp đôi và cao hơn xã  Tân Lý Tây 14%. Điều này cho thấy tính tính cực  và  hiệu  quả  vận  động  của  CTV  của  xã  Tân  Lý  Đông sau can thiệp.

Sự  khác  biệt  về  kiến  thức  và  thực  hành  phòng  chống  SXH  của  người  dân  tại  xã  Tân Lý Đông trước và sau khi can thiệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

Có  sự  thay  đổi  rõ  rệt  về  thực  hành  súc  rửa  dụng cụ chứa nước tại hộ gia đình và thời gian  súc rửa dụng cụ chứa nước theo hướng dẫn (<7  ngày) trước và sau can thiệp. Tỉ lệ thay đổi này  có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

3.

Bạch  Thị  Chính  (2009)  ʺHiệu  quả  hoạt  động  truyền  thông  trong thay đổi kiến thức – thực hành của người dân về phòng  chống  bệnh  sốt  xuất  huyết  tại  xã  Vĩnh  Hựu,  Gò  Công  Tây,  tỉnh Tiền Giangʺ. Y học Thành phố HCM, tập 4(2)‐2010, tr.54‐ 60.  Bộ Y tế (2011) Quyết định 1499 về việc Hướng dẫn giám sát  và phòng chống bệnh sốt xuất huyết.  H. V. Pham, H. T. Doan, T. T. Phan, N. N. Tran Minh (2011)  ʺEcological  factors  associated  with  dengue  fever  in  a  central  highlands Province, Vietnamʺ. BMC Infect Dis, 11, 172.

486

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

6. WHO  (1999)  Guidelines for Treatment of Dengue Fever/ Dengue

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  4.

Haemorrhagic Fever in Small Hospitals

7. WHO

Impact

of

Dengue,

5.

http://www.who.int/csr/disease/dengue/impact/en/,

Trung  tâm  Y  tế  dự  phòng  Tiền  Giang  (2009)  ʺBáo  cáo  Hoạt  động phòng chống sốt xuất huyết năm 2009ʺ  Viện  Pasteur  Tp.HCM  (2009)  Báo  cáo  tổng  kết  hoạt  động  phòng chống Sốt xuất huyết khu vực phía Nam.

487

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BMI TRONG TRẺ EM VIỆT NAM 6 – 15 TUỔI TRONG NĂM 2000

Đặng Văn Chính*, RS Day**, B Selwyn***, YM Maldonado****, Nguyễn Công Khẩn*****,

Lê Danh Tuyên*****, Lê Thị Bạch Mai*****

TÓM TẮT

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định mối liên quan của các yếu tố nhân khẩu học và tình trạng kinh tế xã hội với

chỉ số BMI của trẻ em Việt Nam từ 6‐15 tuổi trong năm 2000.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Trích số liệu từ cuộc điều tra  dinh  dưỡng  năm  2000.  Gồm  tất  cả  là  28.528  người tham gia điều tra trong số đó có 9870 trẻ em từ 6‐15 tuổi. Phân tích mối liên quan giữa phân loại chỉ số  BMI của trẻ em từ 6‐15 tuổi với các yếu tố nhân khẩu và các yếu tố kinh tế xã hội bằng hồi quy Logistic.

Kết quả: Tỉ lệ suy dinh dưỡng trung bình ở trẻ em Việt Nam từ 6‐15 tuổi là 10,7% ‐ 46,9% ở bé trai và  13,4%‐ 50,3% ở bé gái. Thành thị là 25,7%, nông thôn 34,8%, gia đình kinh tế khá 23,5%, gia đình có kinh tế  khó khăn 35,2%. Tỉ lệ trẻ em có nguy cơ thừa cân và thừa cân theo tuổi và giới là 0,8%‐3,7% ở bé trai và 0,5%‐ 3,5% ở trẻ gái, tuổi càng bé thì khả năng bị nguy cơ thừa cân và thừa cân càng cao. Tỉ lệ trẻ có nguy cơ thừa cân  và thừa cân ở khu vực thành thị 6,2% và nông thôn 1,2%, ở nhóm trẻ có kinh tế gia đình khá 4,9% và kinh tế gia  đình khó khăn 1,2%. Trẻ em khi tăng thêm 1 tuổi thì có khả năng bị suy dinh dưỡng tăng 3%. Trẻ gái có nguy cơ  bị suy dinh dưỡng thấp hơn trẻ trai 14%. Trẻ em ở thành thị có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thấp hơn trẻ ở nông  thôn 21%, trẻ em ở những gia đình có điều kiện kinh tế khá ít nguy cơ suy dinh dưỡng hơn trẻ sống trong gia  đình có kinh tế khó khăn 38%.

Kết luận: Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn tiếp tục báo động vấn đề về chế độ dinh dưỡng ở Việt  Nam, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Do đó, thông tin và các hoạt động can thiệp cần được thiết kế phù hợp  với nhu cầu của các đặc điểm kinh tế xã hội của khu vực nông thôn.

Từ khóa: BMI, trẻ em Việt Nam, tình trạng kinh tế‐xã hội

ABSTRACT

BMI AMONG OF COHORT OF VIETNAMESE CHILDREN 6 – 15 YEARS OF AGE, 2000

Dang Van Chinh, RS Day, B Selwyn, YM Maldonado, Nguyen Cong Khan, Le Danh Tuyen,

Le Thi Bach Mai* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 486 ‐ 491

Objectives: Determine the relationship of demographic factors and socioeconomic status(SES) to BMI

among Vietnamese children 6‐15 years old in 2000.

Method: The  data  used  in  this  study  came  from  the  General  Nutrition  Survey  of  2000  (2000  GNS)1.  28.528  individuals  were  included;  about  9.870  of  those  were  children  6‐15  years  old.  The  relationships  between  BMI  categories  of  children  aged  6‐15  years  and  demographic  and  socioeconomic  factors  were  determined by multinomial logistic regressions.

Results: The mean prevalence of underweight among Vietnamese children aged 6‐ 15 were from 10,7%

∗∗∗∗∗ Viện Dinh dưỡng Quốc gia Hà Nội

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  ∗∗ Khoa Dịch tễ và kiểm soát bệnh, Đại học Texas, Đại học Y tế Công cộng Houston  ∗∗∗ Khoa Quản lý, chính sách và sức khỏe cộng đồng, ĐHTH Texas, Đại học YTCC Houston  ∗∗∗∗ Khoa Toán, Đại học kỹ thuật Michigan  Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

485

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  to 46,9% in boys and 13,4% to 50,3% in girls. The prevalence of at risk of overweight and overweight by age

and gender was 0.8%‐3.7% for boys and 0.5%‐3.5% for girls; lower ages had a higher prevalence of at risk of

overweight  and  overweight.  The  prevalence  of  at  risk  of  overweight  and  overweight  was  nearly  fivefold

higher in urban (6,2%) than in rural areas (1,2%), and fourfold higher in the very rich households(4,9%)

than in the very poor households (1,2%)

As children aged one year older they were 3% more likely to be underweight. Girls were 14% less likely  to be underweight than boys. Children in urban areas were 21% likely to be underweight than children in  rural areas. Children in the very rich households were 38% less likely to be underweight than children in the  very poor households.

Conclusion:  Underweight  children  continued  to  signal  an  important  nutrition  problem  in  Vietnam,  especially in rural areas. Therefore, intervention information and activities need to be tailored to the need of  socioeconomic characteristics of rural areas.

Keyword: BMI, Vietnamese children, socio economic status.

ĐẶT VẤN ĐỀ

người tham gia điều tra trong số đó có 9870 trẻ  em từ 6‐15 tuổi.

Thu thập số liệu

Quy mô hộ gia đình được phân lập thành ba  nhóm: ba người hoặc ít hơn, bốn người và năm  người  hoặc  nhiều  hơn.  Tuổi  hiện  tại,  trình  độ  học vấn của chủ hộ được phân loại gồm tiểu học  hoặc thấp hơn, cấp 2 và cấp 3, cao đẳng, đại học;  tình  trạng  kinh  tế  xã  hội  của  hộ  gia  đình  dựa  trên chuẩn nghèo chung của Việt Nam.

Phân tích thống kê

Mẫu số liệu của trẻ 6‐15 tuổi hoàn chỉnh tất  cả các biến được tập hợp lại. Phân tích mối liên  quan giữa phân loại chỉ số BMI của trẻ em từ 6‐ 15  tuổi  với  các  yếu  tố  nhân  khẩu  và  các  yếu  tố  kinh tế xã hội bằng hồi quy Logistic.

KẾT QUẢ

Việt nam, là một quốc gia mà tình trạng suy  dinh dưỡng từ lâu đã là vấn đề quan trọng hàng  đầu ở học sinh tiểu học, là quốc gia đã trải qua  hai  thập  kỷ  với  các  biến  đổi  lớn  về  phát  triển  kinh tế xã hội và thay đổi môi trường. Các quốc  gia Châu Á khác với nền kinh tế phát triển đã có  những bằng chứng về việc tăng tỷ lệ béo phì ở  người lớn(3). Hiện nay việc nỗ lực để ngăn chặn  sự  gia  tăng  thừa  cân  và  béo  phì  ở  trẻ  em  Việt  Nam và hậu quả của bệnh mãn tính ở người lớn  được coi là khẩn thiết, mặc dù số liệu về chỉ số  BMI của trẻ em Việt Nam đã sẵn có, nhưng chưa  được  phân  tích  cho  đến  thời  gian  gần  đây;  vì  vậy,  những  hiểu  biết  về  BMI  của  trẻ  em  Việt  Nam rất hạn chế, cũng như mô hình chỉ số khối  cơ  thể  BMI  của  trẻ  em,  hoặc  các  yếu  tố  quyết  định  chỉ  số  khối  cơ  thể  như  kinh  tế  xã  hội  và  nhân khẩu học. Mục đích của nghiên cứu này để  xác định mối liên quan của các yếu tố nhân khẩu  học và tình trạng kinh tế xã hội với chỉ số BMI  của  trẻ  em  Việt  Nam  từ  6‐15  tuổi  từ  đánh  giá  mặt  cắt  ngang  bằng  cách  sử  dụng  tiêu  chuẩn  tham chiếu quốc tế năm 2000(3).

Giới tính

Đặc tính mẫu  Bảng  1.  Tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng,  cân  nặng  bình  thường, nguy cơ thừa cân và thừa cân ở trẻ em Việt  Nam theo giới tinh và từng độ tuổi trong năm 2000.  Nguy cơ thừa Tuổi cân và thừa cân (năm) % (SE)

Cân nặng bình thường % (SE) Suy dinh dưỡng % (SE)

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6

Thiêt kế nghiên cứu

Trích  số  liệu  từ  cuộc  điều  tra  dinh  dưỡng  năm  2000  (2000  GNS)(7).  Gồm  tất  cả  là  28.528

7

8 Nam 10,7 (1,8) 20,2 (2,4) Nữ Nam 23,3 (2,3) Nữ 30,5 (2,4) Nam 24,9 (2,4) 86,5 (1,9) 76,5 (2,4) 73,1 (2,4) 68,4 (2,5) 72,8 (2,5) 2,8 (1,8) 3,3 (0,1) 3,7 (1,1) 1,1 (0,8) 2,2 (0,8)

486

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nam từ 6‐15 tuổi theo khu vực cư trú và tình trạng  kinh tế xã hội trong năm 2000.

Giới tính Tuổi (năm) Nguy cơ thừa cân và thừa cân % (SE) Suy dinh dưỡng % (SE) Cân nặng bình thường % (SE)

9 Nguy cơ thừa cân và thừa cân % (SE) Đặc tính Suy dinh dưỡng % (SE)

Nữ Thành thị 25,7 (1,6) Nông thôn 34,8 (1,0) Cân nặng bình thường % (SE) Khu vực cư trú 68,2 (1,2) 64,0 (0,9) 6,2 (1,8) 1,2 (0,2) Tinh trạng kinh tế gia đình Nữ

Nghèo Nữ

Nữ Rất nghèo 35,2 (1,7) 37,8 (1,6) Trung bình 33,0 (1,5) 31,9 (1,7) 23,5 (1,5) Giàu Rất giàu 1,2 (0,2) 1,6 (0,6) 1,5 (0,3) 2,6 (1,5) 4,9 (0,9) 63,6 (1,7) 60,6 (1,6) 65,4 (1,5) 65,5 (1,7) 71,6 (1,6) SE: sai số chuản Nữ

Nữ

Tỷ  lệ  trung  bình  của  suy  dinh  dưỡng  ở  trẻ  em Việt Nam trong nghiên cứu này ở thành thị  (25,7%) thấp hơn ở nông thôn (34,8%) (bảng 2) ở  những gia đình kinh tế rất khá (23,5%) thấp hơn  những  gia  đình  có  kinh  tế  khó  khăn  (35,2%).  Nhìn chung, tỷ lệ suy dinh dưỡng, bình thường,  có nguy cơ thừa cân và thừa cân chiếm tỉ lệ lần  lượt là 33,4%, 64,6%, 2% (bảng 2). Tỉ lệ trẻ em có  nguy cơ thừa cân và thừa cân theo tuổi và giới  chiếm  tỉ  lệ  thấp  (0,8%‐3,7%)  ở  bé  trai  và  0,5%‐ 3,5% ở trẻ gái, nhưng tuổi càng bé thì khả năng  bị nguy cơ thừa cân và thừa cân càng cao. Tỉ lệ  trung bình của nguy cơ thừa cân và thừa cân của  trẻ  em  6‐15  tuổi  ở  Việt  Nam  có  tỉ  lệ  cao  hơn  ở  nhóm  trẻ  sống  ở  thành  thị  so  với  trẻ  ở  nông  thôn, và chiếm tỉ lệ ở những gia đình kinh tế khá  hơn nhóm có kinh tế gia đình khó khăn (bảng 2).

Đặc tính về trọng lượng cơ thể và tình trạng  suy dinh dưỡng của mẫu nghiên cứu trong dân  số, được thu thập bao gồm tuổi, giới, khu vực cư  trú, và tình trạng kinh tế xã hội trong bảng 1. Tỉ  lệ trung bình về suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 6‐15  tuổi  ở  Việt  Nam  khá  cao,  tỉ  lệ  suy  dinh  dưỡng  chiếm  10,7%‐46,9%  ở  bé  trai  và  13,4%‐  50,3%  ở  bé gái (bảng 1). Sự gia tăng liên tục của suy dinh  dưỡng  ở  bé  nam  từ  6‐12  tuổi  và  có  tình  trạng  giảm dần ở những năm sau đó. Tỷ lệ suy dinh  dưỡng của bé gái cũng có mô hình tương tự bé  trai,  nhưng  độ  tuổi  đỉnh  điểm  của  suy  dinh  dưỡng ở bé gái sớm hơn bé trai và khoảng một  nữa  các  bé  trai  từ  14‐15  tuổi.  Tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng  cao  nhất  quan  sát  được  ở  trẻ  trai  là  12  tuổi (46,9%) và ở bé gái là 10 tuổi (50,3%).

Tỉ lệ trẻ có nguy cơ thừa cân và thừa cân ở  khu vực thành thị (6,2%) gấp 5 lần khu vực nông  thôn  (1,2%),  và  ở  nhóm  trẻ  có  kinh  tế  gia  đình  khá  (4,9%)  thì  gấp  4  lần  nhóm  có  kinh  tế  gia  đình khó khăn (1,2%).

Nữ Nữ 37,5 (2,6) Nam 34,8 (2,8) 34,7 (2,6) Nữ 10 Nam 44,2 (2,4) 50,3 (2,7) 11 Nam 46,4 (2,5) 39,3 (2,7) 12 Nam 46,9 (2,4) 33,0 (2,3) 13 Nam 41,5 (2,5) 36,5 (2,6) 14 Nam 38,0 (2,7) 19,9 (2,1) 15 Nam 30,8 (2,4) 13,4 (1,8) Tổng Nam 34,8 (1,0) 31,9 (1,1) 33,4 (0,9) Tổng 60,8 (2,7) 62,5 (2,9) 62,1 (2,5) 52,3 (2,4) 48,8 (2,6) 52,4 (2,4) 57,2 (2,8) 50,6 (2,4) 66,4 (2,3) 55,7 (2,6) 62,4 (2,7) 61,2 (2,7) 78,8 (2,1) 68,2 (2,4) 85,4 (2,0) 62,9 (1,0) 66,4 (1,1) 64,6 (0,8) 1,7 (0,1) 2,7 (0,8) 3,2 (1,4) 3,5 (1,4) 0,9 (0,4) 1,1 (0,4) 3,5 (1,2) 2,5 (0,8) 0,5 (0,3) 2,8 (0,9) 1,1 (0,8) 0,8 (0,6) 1,3 (0,6) 1,0 (0,5) 1,1 (0,7) 2,3 (0,4) 1,7 (0,4) 2,0 (0,4) SE: sai số chuẩn

Bảng  2.  Tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng,  cân  nặng  bình  thường, nguy cơ thừa cân và thừa cân ở trẻ em Việt

Phân tích đơn biến  Bảng 3. Mối quan hệ giữa các đặc điểm dân số và tình trạng kinh tế xã hội với chỉ số BMI của trẻ em Việt Nam  từ 6‐15 tuổi trong năm 2000.

Đặc tính Phân tích đơn biến Phân tích đa biến*

Suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng Nguy cơ thừa cân và thừa cân Nguy cơ thừa cân và thừa cân p p p p OR thô (KTC 95%) OR thô ( KTC 95%) OR hiệu chỉnh (KTC 95%) OR hiệu chỉnh (KTC 95%)

487

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc tính Phân tích đơn biến Phân tích đa biến*

Suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng Nguy cơ thừa cân và thừa cân Nguy cơ thừa cân và thừa cân p p p p OR thô (KTC 95%) OR thô ( KTC 95%) OR hiệu chỉnh (KTC 95%) OR hiệu chỉnh (KTC 95%) Tuổi 1,02 (1,0–1,04) 0,01 0,91 (0,86–0,97) ≤ 0,01 1,03 (1,01–1,05) 0,01 0,91 (0,86–0,96) ≤ 0,01 1,0 1,0 1,0 1,0 Giới: Nam Nữ 0,16 0,87 (0,79–0,96) ≤ 0,01 0,71 (0,46–1,1) 0,12 0,86 (0,78–0,95) ≤ 0,01 0,74 (0,48–1,13)

Khu vực cư trú Thành thị Nông thôn 0,69 (0,58–0,82) ≤ 0,01 4,67 (2,3–9,4) ≤ 0,01 0,79 (0,66–0,95) 1,0 1,0 1,0 0,01 3,82 (1,84–7,92) ≤ 0,01 1,0 Tinh trạng kinh tế gia đình 1,0 1,0 1,0

Rất nghèo Nghèo Trung bình Giàu Rất giàu 0,65 0,94 0,61 0,09 1,12 (0,93,1,37) 0,24 1,37 (0,62–3,06) 0,44 1,09 (0,89–1,33) 0,37 1,2 (0,54–2,64) 0,91 (0,75–1,11) 0,36 1,27 (0,79–2,04) 0,32 0,89 (0,73–1,09) 0,24 0,98 (0,59–1,64) 0,88 (0,71–1,08) 0,22 2,14 (0,64–7,22) 0,22 0,88 (0,71–1,1) 0,24 1,28 (0,49–3,34) 0,59(0,48–0,72) ≤ 0,01 3,68 (2,19–6,18) ≤ 0,01 0,62 (0,49–0,77) ≤ 0,01 1,67 (0,92–3,03) Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình† 1,0 1,0 1,0 1,0 Tiểu học Cấp 2 và cấp 3 0,03

Đại học 0,41 0,66 1,08 (0,94–1,23) 0,27 1,85 (1,22–2,79) ≤ 0,01 1,1 (0,98–1,27) 0,11 1,62 (1,04–2,53) Cao đẳng và học nghề 0,82 (0,56–1,2) 0,31 2,65 (1,27–5,55) 0,01 1,02 (0,70–1,47) 0,94 1,38 (0,64–2,95) 0,67 (0,43–1,07) ≤ 0,01 3,5 (1,62–7,56) ≤ 0,01 1,05 (0,64–1,71) 0,86 1,2 (0,53–2,69)

Quy mô hộ gia đình ≤ 3 người 4 người ≥5 người 1,0 (0,77–1,31) 0,96 2,26 (1,21–4,22) 0,01 1,15 (0,89–1,47) 0,28 1,19 (0,6–2,36) 0,93 (0,82–1,07) 0,31 1,34 (0,8–2,3) 0,26 1,01 (0,89–1,15) 0,82 0,78 (0,43–1,43) 1,0 1,0 1,0 1,0 0,63 0,42

* Đa biến: tuổi, giới tính, khu vực cư trú, tình trạng kinh tế xã hội, trình độ giáo dục của chủ hộ gia đình và quy mô hộ gia đình; †: Bậc tiểu học bao gồm tiểu học, chưa học xong tiểu học và không biết chữ; Đại học bao gồm sinh viên chưa tốt nghiệp và đã tố nghiệp; BMI (chỉ số cơ thể) phân loại thành: nhẹ cân, cân nặng bình thường, nguy cơ thừa cân và thừa cân; OR: Tỉ số chênh,

Suy dinh dưỡng

thừa  cân  và  thừa  cân  cao  hơn  gấp  4  lần  so  với  nhóm có điều kiện kinh tế khó khăn.

Trẻ em khi tăng thêm một tuổi thì khả năng  nhẹ cân tăng lên 2% (bảng 3). Những bé gái có  khả  năng  ít  bị  nhẹ  cân  hơn  các  bé  trai  13%,  những bé sống ở khu vực thành thị ít bị nhẹ cân  hơn các bé sống ở khu vực nông thôn 31%, các  bé có điều kiện kinh tế gia đình khá giả ít bị nhẹ  cân  hơn  nhóm  trẻ  sống  trong  gia  đình  có  điều  kiện kinh tế khó khăn 41%.

Trình  độ  học  vấn  của  chủ  hộ  cũng  có  liên  quan đến tình trạng thừa cân, nguy cơ thừa cân  tỉ lệ cùng với trình độ học vấn, trẻ em ở những  gia đình có chủ hộ có trình độ học vấn là cấp 2,  cấp 3, trung cấp nghề hoặc cao đẳng, đại học lần  lượt có tỉ lệ về nguy cơ thừa cân và thừa cân cao  hơn so với nhóm trẻ trong gia đình có chủ hộ có  học vấn cấp 1.

Nguy cơ thừa cân và thừa cân

Phân tích đa biến

Trẻ em khi tăng thêm 1 tuổi thì có khả năng  bị  suy  dinh  dưỡng  tăng  thêm  3%  (OR  =1,03;  95%,KTC = 1,01‐1,05, p =0,01). Trẻ gái có nguy cơ  bị  suy  dinh  dưỡng  thấp  hơn  bé  trai  14%  (OR  =0,86;  95%,  KTC  =  0,78‐0,95,  p  ≤0,01).  Trẻ  em  ở  thành  thị  có  nguy  cơ  bị  suy  dinh  dưỡng  thấp  hơn trẻ ở nông thôn 21% (OR = 0,79; KTC = 0,66‐

Trẻ  em  tăng  lên  một  tuổi  thì  khả  năng  bị  nguy cơ thừa cân và thừa cân giảm 9% (bảng 3).  Trẻ em ở thành thị có nguy cơ thừa cân và thừa  cân  gấp  5  lần  trẻ  em  ở  nông  thôn.  Có  sự  khác  biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ thừa cân và  thừa cân ở nhóm trẻ em trong gia đình khá giả  và nhóm có điều kiện kinh tế khó khăn. Nhóm  có điều kiện kinh tế khá có nguy cơ bị nguy cơ

488

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

tương tự như kết quả nghiên cứu của Wang và  cộng sự tiến hành tại Trung Quốc(10).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  0,95,  p  =0,01),  trẻ  em  ở  những  gia  đình  có  điều  kiện kinh tế khá ít nguy cơ suy dinh dưỡng hơn  trẻ sống trong gia đình có kinh tế khó khăn 38%  (OR  =  3,82;  KTC=  1,84‐7,92,  p  ≤  0,01).  Trẻ  em  ở  trong gia đình có chủ hộ có trình độ học vấn là  cấp 2 và cấp 3 thì có khả năng bị nguy cơ thừa  cân và thừa cân gấp 1,62 lần (KTC = 1,04‐2,53, p  =0,03) trẻ em sống ở gia đình có chủ hộ có trình  độ học vấn là cấp 1.

BÀN LUẬN

Những nghiên cứu khác về dân số Việt Nam  đã cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng béo  phì ở khu vực thành thị trong đối tượng dân số  trẻ hơn và già hơn so với nghiên cứu này: tỷ lệ  thừa  cân  ngày  càng  tăng  cao  ở  người  trưởng  thành trong độ tuổi từ 18‐65, và ngày càng tăng  ở đối tượng dân cư thành thị (8). Qua nghiên cứu  cắt ngang khảo sát các bậc phụ huynh cho thấy,  tỷ lệ thừa cân và béo phì tại thành phố Hồ Chí  Minh  trong  đối  tượng  trẻ  4‐5  tuổi  đã  tăng  lên  nhanh  chóng  trong  năm  2002  (n=492)  và  năm  2005 (n=670) (2). Trên toàn thế giới, Tổ chức Y Tế  Thế  Giới  đã  công  nhận  rằng  tỷ  lệ  thừa  cân  và  béo phì tăng cao trong khu vực thành thị ở các  nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình  (11).

Nghiên cứu cho thấy, ngoài độ tuổi được dự  đoán  sẽ  ảnh  hưởng  đến  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa cân thì còn có hai yếu tố khác là: cư trú tại  thành thị và chủ hộ gia đình có trình độ học vấn  từ trung học cơ sở trở lên. Nghiên cứu cũng chỉ  ra ba yếu tố có thể dự đoán được tình trạng suy  dinh  dưỡng  là:  giới  tính,  cư  trú  tại  vùng  nông  thôn  và  tình  trạng  kinh  tế  gia  đình  ở  mức  rất  nghèo.  Nhìn  chung,  khi  tăng  độ  tuổi  thì  ảnh  hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng, nguy cơ  thừa cân và thừa cân. Khi tuổi tăng một đơn vị  thì  sẽ  làm  tăng  nguy  cơ  bị  suy  dinh  dưỡng  và  giảm nguy cơ thừa cân một đơn vị.

Các  bé  trai  có  nguy  cơ  bị  suy  dinh  dưỡng  nhiều hơn các bé gái, điều này cho thấy sự khác  biệt về giới tính trong hoạt động thể chất, nguồn  thu năng lượng và nguồn năng lượng tiêu hao.  Những  đứa  trẻ  sống  ở  khu  vực  nông  thôn  thường có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vì vậy  có khả năng ít được cung cấp đầy đủ chất dinh  dưỡng cũng như dễ mắc các bệnh truyền nhiễm  nên  có  thể  dẫn  đến  tình  trạng  bị  suy  dinh  dưỡng. Hơn nữa, những bé trai vùng nông thôn  thường tham gia lao động cùng với gia đình nên  ít bị hạn chế đi ra ngoài hơn các bé gái, đây cũng  có  thể  là  lý  do  các  bé  trai  tiêu  hao  năng  lượng  nhiều hơn. Tuy nhiên, chưa có dữ liệu nào về sự  khác  biệt  trong  hoạt  động  thể  chất  của  trẻ  em  Việt Nam để đánh giá giả thuyết này.

Những đứa trẻ sống trong gia đình giàu có  thì sẽ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thấp hơn  những trẻ khác. Mối liên quan giữa tình trạng  kinh tế gia đình và tình trạng dinh dưỡng của  trẻ em ở những nước đang phát triển cho thấy  khi  kinh  tế  xã  hội  phát  triển  sẽ  cải  thiện  tình  trạng  BMI  ở  trẻ  em(9,10).  Vì  vậy,  cũng  không  ngạc nhiên khi kết quả của nghiên cứu này cho  thấy  thu  nhập  gia  đình  thấp  là  một  yếu  tố

Các trẻ em sống ở thành thị có nhiều yếu tố  nguy cơ dẫn đến  bị  nguy  cơ  thừa  cân  hơn  trẻ  em vùng nông thôn. Sự khác biệt này có thể là  do kết quả của nguồn cung cấp năng lượng và  khả  năng  tiêu  thụ  năng  lượng  giữa  hai  nhóm  trẻ  em  này.  Hai  yếu  tố  ảnh  hưởng  mạnh  mẽ  đến  tình  trạng  thừa  cân  là  tăng  nguồn  cung  cấp năng lượng và lối sống ít vận động, các dữ  liệu từ cuộc nghiên cứu quốc gia từ năm 2000  cho thấy trẻ em sống ở thành thị tiêu thụ thức  ăn có nhiều chất béo, đường và thịt nhiều hơn  so  với  trẻ  em  ở  vùng  nông  thôn  (9).  Thêm  vào  đó,  so  với  trẻ  em  nông  thôn  thì  trẻ  em  thành  thị  có  xu  hướng  vui  chơi  giải  trí  trong  nhà  nhiều hơn, các hoạt động trong nhà như xem ti  vi,  chơi  game,  chơi  ô  tô  tự  động  đã  làm  tăng  thêm các yếu tố dẫn đến tình trạng bị nguy cơ  thừa cân và thừa cân. Kết quả này phù hợp với  các báo cáo về tình trạng thừa cân ở trẻ em(11,6)  Trong  nghiên  cứu  này,  trẻ  em  vùng  thành  thị  bị nguy cơ thừa cân và thừa cân với OR là 3,82

489

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  quan  trọng  để  dự  đoán  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng ở trẻ em(11).

yếu tố dự báo mạnh nhất tình trạnh bị nguy cơ  thừa cân và thừa cân ở trẻ em.

Những trẻ em ở những chủ hộ gia đình có  trình độ học vấn là trung học cơ sở hoặc trung  học phổ thông thì có khả năng bị nguy cơ thừa  cân  và  thừa  cân  nhiều  hơn  những  trẻ  em  ở  những chủ hộ gia đình có trình độ học vấn bậc  tiểu  học.  Điều  này  phù  hợp  với  một  nghiên  cứu tại Arap Saudi phát hiển ra rằng tỷ lệ thừa  cân  sẽ  cao  hơn  ở  những  trẻ  em  với  các  bà  mẹ  được giáo dục(9).

Tỷ lệ suy dinh dưỡng cao tiếp tục  cho  thấy  tầm  quan  trọng  của  vấn  đề  dinh  dưỡng  ở  khu  vực  nông  thôn  và  cho  thấy  sự  chênh  lệch  về  trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa khu vực  nông  thôn  và  thành  thị  vẫn  còn  tồn  tại.  Do  đó,  thông  tin  và  các  hoạt  động  can  thiệp  cần  được  thiế  kế  phù  hợp  với  nhu  cầu  của  các  đặc  điểm  kinh tế xã hội của khu vực nông thôn. Ngoài ra,  một  chương  trình  y  tế  quốc  gia  kiểm  soát  suy  dinh  dưỡng  và  thừa  cân  ở  trẻ  em  6  tuổi  và  những  trẻ  lớn  hơn  nên  được  cung  cấp  cho  trẻ  em, các bậc cha mẹ và cho cả cộng đồng

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Al‐Saeed WY, Al‐Dawood KM, Bukhari IA, Bahnassy A(2007).  Prevalence  and  socioeconomic  risk  factors  of  obesity  among  urban female students in Al‐Khobar city, Eastern Saudi Arabia,  2003. Obes Rev;8:93–99.

Mặc  dù  quy  mô  hộ  gia  đình  lớn  thường  có  liên  quan  đến  việc  giảm  nguy  cơ  thừa  cân  và  tăng  nguy  cơ  suy  dinh  dưỡng  ở  trẻ  em,  bởi  vì  thông  thường  những  gia  đình  có  nhiều  thành  viên thì đòi hỏi thu nhập phải được chia đều cho  nhu  cầu  của  nhiều  người  nên  các  gia  đình  này  thường có xu hướng khó khăn. Tuy nhiên, trong  nghiên cứu này không có dữ liệu nào hỗ trợ cho  kỳ vọng trên.

2. Dieu  HT,  Dibley  MJ,  Sibbritt  DW,  Hanh  TT(2009).  Trends  in  overweight and obesity in pre‐school children in urban areas of  Ho Chi Minh City, Vietnam, from 2002 to 2005.  Public  Health  Nutr;12(5):702–9.

3. Drewnowski A, Popkin B (1997). The nutrition transition: New

trends in the global diet. Nutr Rev;55:31–43.

4. Hesketh  T,  Ding  QJ,  Tomkins  AM(2002).  Disparities  in  economic development in Eastern China: impact on nutritional  status of adolescents. Public Health Nutr;5(2):313–318.

and  obesity

among

10‐

to

5. Kruger R, Kruger HS, Macintyre UE(2006). The determinants of  overweight  15‐year‐old  schoolchildren  in  the  North  West  Province,  South  Africa—the  THUSA BANA (Transition and Health during Urbanization of  South  Africans;  BANA,  children)  study.  Public  Health  Nutr;9:351–358.

6. Malina RM, Peña Reyes ME, Little BB(2008). Secular change in  the growth status of urban and rural schoolchildren aged 6–13  years in Oaxaca, southern Mexico. Ann Hum Biol; 35(5):475–89.  7. National  Institute  of  Nutrition.  General  nutrition  survey  2000.

Nghiên  cứu  này  cho  thấy  quy  mô  hộ  gia  đình không có mối liên quan với nguy cơ bị suy  dinh dưỡng cũng như nguy cơ thừa cân và thừa  cân.  Vì  các  hộ  gia  đình  Việt  Nam  thường  có  2  hoặc  3  thế  hệ  chung  sống  với  khoảng  5  thành  viên hoặc nhiều hơn, nhưng quy mô hộ gia đình  này  không  tìm  thấy  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  các  tình  trạng  cân  nặng.  Điểm  mạnh  của  nghiên  cứu  này  là  lấy  mẫu  xác  suất  với  một  cỡ  mẫu  lớn  trong  toàn  thể  dân  số  Việt  Nam và đã cung cấp một đánh giá tổng thể về  tình trạng BMI của trẻ em Việt Nam.

Hanoi: Medical Publishing House, 2003.

KẾT LUẬN

8. Tuan NT, Tuong PD, Popkin BM(2008). Body mass index (BMI)

dynamics in Vietnam. Eur J Clin Nutr;62(1):78–86.

9. Thang NM, Popkin BM(2004). Patterns of food consumption in  Vietnam:  effects  on  socioeconomic  groups  during  an  era  of  economic growth. Eur J Clin Nutr;58(1):145–153.

10. Wang Y, Ge K, Popkin BM(2000). Tracking of body mass index  from childhood to adolescence: a 6‐y follow‐up study in China.  Am J Clin Nutr;72:1018–1024.

11. World Health Organization. Obesity and overweight. Retrieved

Tuổi,  giới  tính,  vùng  cư  trú  và  tình  trạng  kinh tế gia đình là những yếu tố có thể dự đoán  ảnh  hưởng  đến  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng  của  trẻ em Việt Nam từ 6‐15 tuổi. Nhưng chỉ có tuổi,  vùng cư trú và trình độ giáo dục của chủ hộ gia  đình có thể dự đoán tình trạng bị nguy cơ thừa  cân và thừa cân. Cư trú ở khu vực thành thị là

from  http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs311/en/index.htm l

490

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

CÁC YẾU TỐ XàHỘI ẢNH HƯỞNG SỨC KHỎE TÂM THẦN   CỦA NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH Ở THỊ XàTHỦ DẦU MỘT,   TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2011

Đặng Văn Chính*, Nguyễn Thị Bích Ngọc,Hồ Hữu Tính*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Vấn đề sức khỏe tâm thần (SKTT) gây ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia trên thế giới.Tuy

nhiên ở Việt Nam có ít nghiên cứu về SKTT và các yếu tố xã hội liên quan.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ hiện mắc của 6 mức độ SKTT và các yếu tố xã hội liên quan ở người

dân thị xã Thủ Dầu Một (TDM), tỉnh Bình Dương (BD).

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Nghiên cứu cắt ngang dựa trên phỏng vấn trực tiếp với bảng câu hỏi GWB.

Đối tượng nghiên cứu là người dân tuổi 18‐60 và sinh sống ở thị xã TDM, tỉnh BD từ 1 năm trở lên.

Kết  quả  nghiên  cứu:  Tỷ lệ người có tổng điểm GWB từ 0‐60, 61‐72 và 73‐100, được mô tả là “ức chế  nặng”, “ức chế trung bình” và “ khỏe mạnh” lần lượt là 13,9%, 59,8% và 26,3%. Tỷ lệ lo lắng về sức khỏe, hài  lòng thỏa mãn, sinh lực, trầm cảm, tự kiểm soát và lo âu lần lượt là 74,7%, 99,2%, 96,1%, 71,6%, 20,9%, và  88,3%.

Kết  luận:  Tình trạng SKTT kém chiếm tỷ lệ cao ở nhóm đối tượng tự kiểm soát kém, lo lắng về sức khỏe

nhiều, và trầm cảm. Có mối liên quan giữa SKTT với tôn giáo, hoạt động thể lực, và nơi cư ngụ.

Từ khóa: Sức khỏe tâm thần (SKTT); yếu tố xã hội; bảng câu hỏi GWB.

ABSTRACT

SOCIAL DETERMINANTS AND THE MENTAL HEALTH OF ADULT POPULATION AT THU DAU  MOT CITY, IN BINH DUONG PROVINCE IN 2011

Dang Van Chinh*, Nguyen Thi Bich Ngoc*, Ho Huu Tinh*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 492 ‐ 496

Background:  The  mental  health  problems  affect  almost  all  countries  in  the  world.  In  Vietnam,  however,

there has been little research on mental health and social determinants related to it.

Objectives: To estimate the prevalence of six dimensions of mental health and to identify the relationships

between social determinants and mental health among people in Thu Dau Mot town in Binh Duong province.

Method:  This  was  a  cross‐sectional  survey  based  on  direct  interviews  with  the  GWB  questionnaire.  The

study included people aged 18‐60 years living in the town at the time period of 12 months or over.

Results:  The  percentage  of  adults  with  total  GWB  score  from  0  to  60,  61‐72  and  73‐110,  described  as  “severely  distressed”,  “moderately  distressed”  and  “  positive  well‐being”  are  13.9%,  59.8%  and  26.3%,  respectively.The mean prevalence of general health (health concern), positive well‐being, vitality, depression, self‐ control and anxiety was 74.7%, 99.2%, 96.1%, 71.6%, 20.9% and anxiety 88.3%, respectively.

Conclusion: The prevalence of people with low general well being is higher in adults with low self‐control,  high health concern and being depressed. There was a relationship between mental health and religion, physical

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

491

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  activity and residence.

Key words: Mental health; social determinants; General Well Being (GWB).

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu

Mục tiêu 1: Ước tính tỷ lệ hiện mắc của sáu  mức  độ  sức  khỏe  tâm  thần  bao  gồm  lo  lắng  (anxiety),  ức  chế  (depression),  lo  lắng  về  sức  khỏe (health concern), hài lòng ( satisfaction), tự  kiểm soát (self‐control) và đầy sức sống (vitality)  ở những người 18‐60 tuổi ở thị xã Thủ Dầu Một  tỉnh Bình Dương.

Tình  trạng  sức  khỏe  tâm  thần  ảnh  hưởng  đến hàng triệu người trên thế giới. Tổ chức Y tế  thế  giới  (WHO)  ước  tính  rằng  có  đến  154  triệu  người mắc chứng trầm cảm và 25 triệu người bị  tâm thần phân liệt; 91 triệu người bị rối loạn do  uống  rượu  và  15  triệu  người  bị  rối  loạn  do  sử  dụng các loại dược phẩm khác(4). Có đến 50 triệu  người bị động kinh, 24 triệu người bị Alzheimer  và  các  chứng  sa  sút  trí  tuệ  khác(3).  Khoảng  877.000  người  chết  do  tự  tử  mỗi  năm(5).  Tại  các  quốc gia có thu nhập thấp, trầm cảm là một vấn  đề lớn chiếm 3,2% tổng gánh nặng bệnh tật(2).

Mục tiêu 2: Xác định mối liên quan giữa các  yếu tố xã hội: tuổi, giới, tình trạng kinh tế xã hội,  quy mô hộ gia đình, hoạt động thể lực, trình độ  học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hộ gia đình với  sức  khỏe  tâm  thần  ở  những  người  18‐60  tuổi  ở  thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ở các nước có thu nhập cao, trầm cảm chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  trong  tổng  gánh  nặng  bệnh  tật(1).  Ước  tính  khoảng  23  triệu  người  Mỹ  hiện  đang  mắc chứng rối loạn nghiêm trọng hoặc rối loạn  hành vi. Chi phí cho bệnh tâm thần trong cộng  đồng  người  Mỹ  hàng  năm  xấp  xỉ  73  tỉ  đô  la,  khoảng một nửa số chi phí này phản ánh sự mất  khả năng sản xuất. Tương tự, khoảng 20% người  Úc bị ảnh hưởng bởi vấn đề sức khỏe tâm thần  trong  khoảng  thời  gian  12  tháng,  với  hơn  25%  người trẻ tuổi (18 đến 24) bị ít nhất một dạng rối  loạn tâm thần trong suốt thời kỳ này.

Tác động căng thẳng của môi trường thường  dẫn đến sự bồn chồn, lo lắng, căng thẳng, giận  dữ, bực bội, ức chế và trầm cảm. Những rối loạn  hành vi này có thể dẫn tới việc tự tử, lạm dụng  chất  gây  nghiện  và  những  hình  thức  giận  dữ  kích động khác.

Sử  dụng  thiết  kế  nghiên  cứu  cắt  ngang  để  ước tính tỷ lệ hiện mắc của sáu mức độ sức khỏe  tâm thần ở người từ18‐60 tuổi tại thị xã Thủ Dầu  Một  tỉnh  Bình  Dương.  Cuộc  điều  tra  này  dựa  trên phỏng vấn trực tiếp về các yếu tố tình trạng  kinh  tế  xã  hội,  hoạt  động  thể  lực  và  tình  trạng  sức  khỏe  tâm  thần.  Cỡ  mẫu  ước  tính  là  768  người tuổi từ 18 trở lên với kỹ thuật chọn mẫu  cụm. Người dân cư ngụ tại Bình Dương, tuổi 18‐ 60  và  sinh  sống  ở  thị  xã  Thủ  Dầu  Một  hơn  1  năm; từ tháng 6/2010 đến tháng 6/2011 sẽ được  chọn vào nghiên cứu. Khung mẫu là danh sách  dân cư ở các xã phường (phường là một đơn vị  quản lý xã của Việt Nam). Các cá thể là đơn vị  chọn  mẫu  được  lấy  theo  ngày  và  đáp  ứng  yêu  cầu của nghiên cứu.

KẾT QUẢ

Đặc tính mẫu  Bảng 1: Các đặc điểm xã hội‐nhân khẩu học của mẫu  nghiên cứu (n=768).  Đặc tính

Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về sức khỏe  tâm thần và các yếu tố xã hội liên quan. Nguyên  nhân do thiếu nguồn nhân lực và công cụ đánh  giá  sức  khỏe  tâm  thần  cho  người  dân.  Do  đó,  mục  đích  của  nghiên  cứu  này  nhằm  nâng  cao  nhận thức và hiểu biết về tác động của các yếu  tố  xã  hội  lên  sức  khỏe  tâm  thần  và  tình  trạng  khỏe  mạnh,  sử  dụng  bảng  tình  trạng  sức  khỏe  tổng quát (GWB) được xây dựng cho cuộc khảo  sát điều tra về dinh dưỡng và sức khỏe của Mỹ.

% n Tuổi

18-24 25-34 35-44 45-54 11,6 26,0 26,6 22,7 89 200 204 174

492

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

55-60 ≤5 >5 (TTSK tốt hơn) 6 762 0,7(0,1-1,4) 99,2(98,6-99,8) 13,1 46,1 53,9 Sinh lực Giới Nam Nữ 101 354 414 Học vấn ≤ 10 >10 (TTSK tốt hơn) 28 740 3,6(1,6-5,7) 96,1(94,3-98,4) Ức chế

≤15 >15 (ít ức chế hơn) 218 550 28,4(24,0-32,8) 71,6(67,2-75,9) Kiểm soát (kiểm soát cảm xúc) 23,3 39,3 23,6 13,8 37,4 62,6 Mù chữ và cấp một Cấp 2 Cấp 3 Đại học và sau đại học Tôn giáo: Có Không

≤ 10 >10 Lo âu ≤15 >15 (ít lo âu hơn) 607 161 90 678 79(72,6-85,5) 20,9(14,5-27,4) 11,7(9,2-14,2) 88,3(85,8-90,8)

Tỷ lệ người có tổng điểm GWB từ 0‐60, 61‐72  và 73‐100, được mô tả là “ức chế nặng”, “ức chế  trung bình” và “ khỏe mạnh” lần lượt là 13,9%,  59,8% và 26,3%.

37,9 18,5 14,2 19,5 9,9 Công nhân Kinh doanh CNVC Nội trợ Khác

Tỷ lệ lo lắng về sức khỏe, hài lòng thỏa mãn,  sinh lực, ức chế, tự kiểm soát và lo âu lần lượt là  74,7%, 99,2%, 96,1%, 71,6%, 20,9% và 88,3%.

22,9 57,2 19,9 179 302 181 106 287 481 Nghề nghiệp 291 142 109 150 76 Kinh tế xã hội 176 439 153 Nghèo Trung bình Giàu Họat động thể lực

19,0 48,1 32,9 Ít Trung bình Cao

21,1 78,9 Không Có

3  trong  6  thang  điểm  có  điểm  TTSK  khỏe  mạnh  cao  nhất  là  thỏa  mãn  (khỏe  mạnh  khỏe  mạnh)  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  (99,2%),  thứ  hai  là  sinh lực (96,1%) và lo âu là 88,3%. Ngược lại, 3  trong  6  thang  điểm  có  tỷ  lệ  TTSK  khỏe  mạnh  thấp  nhất  lần  lượt  là  tự  kiểm  soát  (79%)  (mất  kiểm  soát),  ức  chế  (28,4%),  và  lo  lắng  về  sức  khỏe (25,3%) (Bảng 2).

38,4 61,6 146 369 253 Sở hữu nhà 162 606 Nơi cư trú 295 473 Ngoại ô Nội thành

Bảng 3: Tỷ lệ TTSK và các yếu tố nguy cơ ở người  18‐60t tại thị xã TDM, tỉnh BD (n=768).

Đối tượng nghiên cứu có 46,1% là nam giới,  53,9% là nữ giới. Hơn ¾ đối tượng nằm trong độ  tuổi từ 25‐54. Người có trình độ học vấn cấp 2 và  cấp 3 chiếm khoảng 65% và tỷ lệ người có trình  độ tiểu học hoặc mù chữ chiếm khoảng 23%. Tỷ  lệ hộ gia đình nghèo và giàu gần tương đương  nhau, khoảng 20% (bảng 1).

Khỏe mạnh Ứcc chế nặng và trung bình Đặc điểm Chi- square n % n % Tuổi

Bảng 2: Tỷ lệ và thang điểm tình trạng SKTT của  người dân 18‐60 tuổi, thị xã TDM, tỉnh BD (n=768).

4,5 Đặc điểm n %, KTC 95% Tình trạng sức khỏe (TTSK) 18-24 25-34 35-44 45-54 55-60 23 51 61 48 19 25,8 25,5 29,9 27,6 18,8 66 149 143 126 82 74,2 74,5 70,1 72,4 81,2 Giới

0,1 Ức chế nặng Ức chế trung bình Khỏe mạnh 107 459 202 13,9(10,5-17,3) 59,8(55,2-64,3) 26,3(21,6-31,0) Nam Nữ 95 107 26,8 25,9 73,2 74,1

Thang điểm (Điểm càng cao=TTSK càng tốt) Lo lắng về sức khỏe 259 307 Trình độ học vấn 1441 21,2 38 78,8

3,5 ≤10 >10 (TTSK tốt hơn) 194 574 25,3(20,3-30,2) 74,7(69,8-79,6) Hài lòng, thỏa mãn Mù chữ và cấp một Cấp 2 Cấp 3 82 50 27,2 27,6 220 131 72,8 72,4

493

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

0,02

0,47-0,95

32 30,2 74 69,8 Ngoại thành Đại học và sau đại học Nội thành 1 0,67

6,9* Có Không 60 142 Tôn giáo 20,9 29,5 227 339 79,1 70,5 Nghề nghiệp

0,8

Công nhân Kinh doanh CNVC Nội trợ Khác 210 107 80 111 58 27,8 24,7 26,6 26,0 23,7 72,2 75,3 73,4 74,0 76,3

Bảng 4 cho thấy phân tích đa biến gồm tôn  giáo, hoạt động thể lực, nơi cư ngụ và SKTT. Các  đối tượng có tôn giáo bị ức chế cao gấp 1,5 lần  đối tượng không có tôn giáo (OR=1,57; KTC 95%  = 1,1‐2,2). Tương tự, các đối tượng hoạt động thể  lực trung bình và nhiều bị ức chế cao gấp 1,6 lần  những đối tượng ít hoạt động thể lực (OR=1,66;  KTC 95% = 1,1‐2,4). Những đối tượng sống ở nội  thành  ít  bị  ức  chế  hơn  các  đối  tượng  sống  ở  ngoại ô 0,67 lần.

0,9 Nghèo Trung bình Giàu 81 35 29 39 18 Tình trạng kinh tế xã hội 51 113 38 29,0 25,7 24,8 71,0 74,3 75,2

BÀN LUẬN

125 326 115 Hoạt động thể lực

Tình trạng sức khỏe tâm thần (GWB)

7,1* Ít Trung bình Cao 51 92 59 34,9 24,9 23,3 95 277 194 65,1 75,1 76,7 Sở hữu nhà

2,8 Không Có 51 151 31,5 24,9 111 455 68,5 75,1 Nơi cư ngụ

*: p ≤0,05

Các tiêu chuẩn tham khảo của Mỹ cho thấy  71%  người  trưởng  thành  ở  trong  tình  trạng  “khỏe mạnh”, 15% “ức chế trung bình” và 13,5%  “ức chế nghiêm trọng”. Kết quả từ mẫu nghiên  cứu  những  người  trưởng  thành  ở  một  thị  xã  công  nghiệp  hóa  nhanh  tại  Việt  Nam  cho  thấy  SKTT  kém  hơn  rất  nhiều  so  với  tiêu  chuẩn  của  Mỹ,  với  26,3%  các  đối  tượng  có  mức  độ  “khỏe  mạnh”, 59,8% “ức chế trung bình”, và 13% “ức  chế nặng”. Tỷ lệ ức chế trung bình và nặng cao ở  người trưởng thành trong nghiên cứu gợi ý rằng  vấn  đề  sức  khỏe  tâm  thần  là  một  vấn  đề  y  tế  công  cộng  nghiêm  trọng  trong  dân  số  trưởng  thành ở Việt Nam.

Có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  trong  điểm số GWB ở các đối tượng nghiên cứu hoạt  động thể lực ít, trung bình và nhiều. Tỷ lệ GWB  khỏe mạnh ở các đối tượng hoạt động thể lực ít  thì  cao  hơn  các  đối  tượng  hoạt  động  thể  lực  trung  bình  và  nhiều:  34,9%  so  với  24%.  Tỷ  lệ  GWB  khỏe  mạnh  ở  các  đối  tượng  có  tôn  giáo  thấp hơn các đối tượng không tôn giáo (20,9% so  với  29,5%).  Tỷ  lệ  GWB  khỏe  mạnh  ở  các  đối  tượng  sống  ở  thành  thị  cao  hơn  các  đối  tượng  sống ở vùng ngoại ô (29% so với 22%) (Bảng 3).

4,5* Ngoại ô (0) Nội thành(1) 65 137 22,0 29,0 230 336 78,0 71,0

Bảng 4: Phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ ảnh  hưởng SKTT ở các đối tượng 18‐60 tuổi tại thị xã  TDM, tỉnh BD (n=768).

0,01

p Biến độc lập KTC 95%

1,1-2,2

Tỷ lệ “khỏe mạnh” rất thấp ở các đối tượng  trong  mẫu  nghiên  cứu  này  là  do  mức  độ  mất  kiểm  soát  bản  thân,  ức  chế  và  lo  lắng  về  sức  khỏe cao. Các đối tượng có tôn giáo có mức độ  tự kiểm soát cao hơn những đối tượng không có  tôn giáo; tuy nhiên những đối tượng có tôn giáo  lại  có  tình  trạng  ức  chế  và  lo  lắng  về  sức  khỏe  nhiều hơn những đối tượng không có tôn giáo.  Các đối tượng hoạt động thể lực trung bình hoặc  nặng  có  mức  độ  ức  chế  cao  hơn  những  đối  tượng  ít  hoạt  động  thể  lực.  Những  đối  tượng  sống  ở  ngoại  ô  dễ  mất  kiểm  soát  bản  thân  hơn  những  đối  tượng  sống  ở  khu  vực  nội  thành.  Nhận biết những điểm đáng chú ý này là quan

0,01

Không Có

1,1-2,4

Ít Trung bình và nhiều OR Tôn giáo 1 1,57 Hoạt động thể lực 1 1,66 Nơi cư ngụ

494

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  trọng do chúng có liên quan đến tỷ lệ bệnh tật,  tử vong và tuổi thọ.

giữa GWB và các yếu tố nguy cơ bởi vì cỡ mẫu  nhỏ  không  đủ  để  phân  tích  các  nhóm  không  đồng  nhất.  Thứ  ba,  dữ  liệu  thu  thập  được  trong nghiên cứu là sự tự ghi nhận qua phỏng  vấn,  do  đó  các  câu  trả  lời  có  thể  chỉ  là  sự  thể  hiện  mong  muốn  của  người  được  phỏng  vấn.  Cuối  cùng,  kết  quả  phải  thận  trọng  để  khái  quát cho các dân số khác ở Việt Nam.

Mặc  dù  có  những  giới  hạn,  kết  quả  gợi  ý  rằng  nghiên  cứu  sâu  hơn  về  chủ  đề  này  là  cần  thiết.  Cỡ  mẫu  lớn  hơn  có  thể  giúp  làm  rõ  mối  liên  quan  giữa  các  yếu  tố  xã  hội,  trầm  cảm  và  sức khỏe. Hiểu biết những mối quan hệ này có  thể  quan  trọng  để  phát  triển  thành  công  can  thiệp  dự  phòng  và  điều  trị  nhằm  duy  trì  khỏe  mạnh và ngăn ngừa sự tiến triển từ tình trạng lo  âu trung bình và nhẹ, ức chế và căng thẳng đến  tình  trạng  trầm  cảm  nghiêm  trọng  ở  các  đối  tượng nghiên cứu.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Số  liệu  từ  mẫu  nghiên  cứu  này  trái  ngược  với  giả  định  rằng  mức  độ  hoạt  động  thể  lực  cao  có  mối  liên  quan  chắc  chắn  với  SKTT  tốt.  Điều không mong đợi này có thể do mẫu dân  số  nghiên  cứu  có  tỷ  lệ  cao  các  đối  tượng  là  công nhân, buôn bán nhỏ và nội trợ ‐ là những  người  có  hoạt  động  thể  lực  nhiều  nhưng  có  tình trạng kinh tế xã hội thấp. Mức độ SKTT ở  nhóm  có  tôn  giáo  thì  thấp  hơn  có  ý  nghĩa  so  với nhóm không có tôn giáo. Tuy nhiên, lý do  dẫn  đến  kết  quả  này  không  rõ  ràng;  có  thể  là  do những người có tôn giáo có tình trạng căng  thẳng  và  mối  lo  lắng  về  sức  khỏe  nhiều  hơn.  Những đối tượng nghiên cứu sống ở nội thành  có  tỷ  lệ  sức  khỏe  tốt  cao  hơn  những  người  sống ở khu vực ngoại ô. Điều này có thể được  giải thích là do những người sống ở ngoại ô có  nhiều  mối  lo  lắng  về  sức  khỏe  hơn  những  người sống ở nội thành bởi vì khoảng cách về  địa lý và vị trí kinh tế xã hội thấp hơn. Những  nghiên  cứu  trước  cho  thấy  rằng  những  người  có  vị  trí  kinh  tế  xã  hội  thấp  hơn  chịu  đựng  nhiều  vấn  đề  sức  khỏe  hơn  và  ít  có  khả  năng  sử dụng các dịch vụ y tế dự phòng hoặc phát  hiện bệnh tật ở giai đoạn chưa có triệu chứng.

Nghiên  cứu  cho  thấy  tình  trạng  SKTT  kém  chiếm tỷ lệ cao ở nhóm đối tượng tự kiểm soát  kém,  lo  lắng  về  sức  khỏe  nhiều,  và  trầm  cảm.  Hiểu  biết  những  mối  quan  hệ  này  có  thể  có  ý  nghĩa y tế công cộng sâu sắc. Vì vậy, cần xem xét  các nguyên nhân dẫn đến những kết quả này và  các  phương  tiện,  phương  pháp  giúp  đỡ  nhóm  đối tượng này.

Đây là nghiên cứu đầu tiên được thực hiện  trên  một  mẫu  dân  số  địa  phương  đại  diện  và  đưa ra một số kết luận đại diện cũng như bộc  lộ vai trò các yếu tố xã hội liên quan đến tình  trạng SKTT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Hyman  S  et  al  (2006).  Mental  disorders.  In:  Disease  control  priorities  related  to  mental,  neurological  developmental  and  substance  abuse  disorders,  2nd  ed.  Geneva,  World  Health  Organization,:1‐20.

2. Mathers  CD,  Loncar  D  (2006),  Projections  of  global  mortality  and  burden  of  disease  from  2002  to  2030,  Public  Library  of  Science Medicine, , 3:e442.

3. World  Health  Organization  (2006),  Neurological  disorders:

public health challenges, Geneva, 2006.

4. World  Health  Organization  (2002),  Revised  Global  Burden  of

Disease (GBD) 2002 estimate, Geneva, 2004.

5. World Health Organization (2003), World Health Report 2003,

Shaping the future, Geneva, 2003.

Tuy nhiên, số liệu trong nghiên cứu này có  nhiều  hạn  chế.  Thứ  nhất,  đây  là  thiết  kế  cắt  ngang  nên  chỉ  đưa  ra  một  cái  nhìn  một  thời  điểm về tình trạng kinh tế xã hội và sức khỏe  tâm  thần  trong  dân  số  nghiên  cứu.  Điều  này  cũng có nghĩa là khó thể thiết lập mối quan hệ  nhân quả tồn tại giữa các yếu tố xã hội và sức  khỏe  tâm  thần.  Thứ  hai,  dữ  liệu  trong  nghiên  cứu không đủ mạnh để xác định mối liên quan

495

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

THÁI ĐỘ, KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH   ĐỐI VỚI LỆNH CẤM HÚT THUỐC LÁ NƠI CÔNG CỘNG   TẠI ĐIỂM GIAO THÔNG CÔNG CỘNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đặng Văn Chính*, Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Bùi Thị Kiều Anh*, Hồ Hữu Tính*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Khói thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, cứ mỗi 6 giây có một  người tử vong vì khói thuốc lá. Mỗi năm trên thế giới có 5 triệu người chết vì khói thuốc lá và con số này có thể  lên 8 triệu vào năm 2030.Việt Nam là nước có tỷ lệ hút thuốc lá cao trên thế giới, 40.000 trường hợp chết liên  quan đến thuốc lá trong năm 2008. Khói thuốc lá không chỉ gây hại sức khỏe cho người hút mà còn ảnh hưởng  đến những người hít phải nó(3). Do đó giảm tỷ lệ hút thuốc lá và hút thuốc lá thụ động là một trong những việc  làm hết sức cần thiết.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kiến thức, thái độ và thực hành đối với quy định cấm hút thuốc của người  dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng ở sân bay Tân Sơn Nhất, ga Sài Gòn, bến xe Miền Đông và bến  xe Miền Tây.

Phương pháp nghiên cứu: Quan sát tại các địa điểm đã chọn và phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn

sẵn.

Kết quả: Tỷ lệ hút thuốc lá của đối tượng nghiên cứu là 25%, hút thuốc lá tại các bến xe/sân bay là 58%.  Hơn 30% đối tượng nghiên cứu không nhận thức được rằng hút thuốc có thể gây ra các bệnh tim mạch và đột  qụy. 90% đối tượng nghiên cứu biết về quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng nhưng 16% người không hút  thuốc đã không phản ứng gì khị bị hút thuốc lá thụ động. Đối tượng hút thuốc chủ yếu là hành khách. Hơn 2/3  hành khách không nhìn thấy bảng “cấm hút thuốc” tại các bến xe/sân bay. Những người không hút thuốc lá có  tỷ lệ hiểu biết tác hại của khói thuốc lá cao hơn những người hút thuốc lá.

Kết luận: Cấm hút thuốc nơi công cộng cần được thực thi và kiểm soát tại các khu vực có can thiệp càng

sớm càng tốt.

Từ khóa: Kiến thức; thái độ; thực hành; nghị định cấm hút thuốc lá nơi công cộng.

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF PUBLIC SMOKING BAN AT PUBLIC  TRANSPORTATION SITES IN HO CHI MINH CITY

Dang Van Chinh*, Bui Thi Kieu Anh*, Nguyen Thi Bich Ngoc*, Ho Huu Tinh*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 497 ‐ 502

Background:  Cigarette  smoke is well‐known to be the single most preventable cause of death in the world  today, killing one people every six seconds. Cigarette smoke causes over 5 million deaths each year and is expected  to cause over 8 million deaths yearly by 2030. Viet Nam is among the countries with the highest smoking rates in  the  world,  nearly  40,000  deaths  were  attributed  to  smoking  in  2008.  Cigarette  smoke  is  harmful  to  not  only  smokers but also passive smokers.

Objectives: To identify passengers‘knowledge, attitude and practice of the smoking ban decree at Tan Son

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

496

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Nhat airport, Sai Gon railway station, Eastern coach station and Western coach station.

Method: This was a cross‐sectional survey based on observation and direct interview.

Results: 25% of the study subjects were smokers and 58% of them admitted that they had smoked at public  transport  stations  /airports.  More  than  a  third  of  respondents  were  not  aware  that  smoking  could  cause  heart  disease and stroke. Around 90% had awareness of public smoking ban decree. Passengers were mainly smokers.  66% of the study subjects reported that they didn’t see ʺno smokingʺ signs at public transport stations/airports.  Non‐smokers had a higher prevalence of knowing smoking harm than smokers.

Conclusion: Public smoking ban needs to be implemented and enforced in public transportation settings as

soon as possible.

Key words: Knowledge; attitude; practice; public smoking ban decree.

ĐẶT VẤN ĐỀ

dụng  phương  tiện  giao  thông  công  cộng  ở  các  nơi  có  triển  khai  dự  án  bao  gồm:  sân  bay  Tân  Sơn Nhất, ga Sài Gòn, bến xe Miền Đông và bến  xe Miền Tây.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ hút thuốc lá ở  nam  giới  cao  nhất  trên  thế  giới,  với  56,1%  nam  giới và 1,8% nữ giới hút thuốc. Tỷ lệ hút thuốc lá  thụ động tại nơi làm việc là 49% và 71% ở nhà.  Theo  WHO  nếu  không  có  các  biện  pháp  can  thiệp  kịp  thời,  đến  năm  2020  sẽ  có  10%  dân  số  Việt Nam chết vì liên quan đến khói thuốc lá(3).

Phỏng  vấn  792  hành  khách  tại  các  đơn  vị  triển khai dự án bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Quan  sát tại các địa điểm đã chọn để đánh giá sự tuân  thủ  của  họ  với  các  yêu  cầu  của  chương  trình,  quan sát các biển hiệu  không  hút  thuốc,  và  ghi  nhận  bằng  chứng  của  việc  hút  thuốc  trong  các  khu vực cấm hút thuốc.

KẾT QUẢ

Bảng 1: Đặc tính mẫu của đối tượng (n=792).

Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  là  thành  phố  trẻ,  năng động và đông dân nhất Việt Nam với dân  số  trên  7  triệu  người(2).  Tỷ  lệ  hút  thuốc  lá  ở  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  cao,  53%  nam  và  2%  nữ.  Mức  độ  sử  dụng  phương  tiện  giao  thông  công  cộng  đến  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  cả  đường bộ và đường thủy ước tính đạt 400 triệu  lần/năm. Ga Sài Gòn chuyên chở 1,1 triệu hành  khách mỗi năm với 10 chuyến ra vào mỗi ngày.  Số hành khách đến sân bay Tân Sơn Nhất có thể  đạt  15  triệu  mỗi  năm.  Lượng  hành  khách  đến  bến xe miền Đồng và miền Tây có thể lên đến 20  triệu mỗi năm với khoảng 2500 xe cho mỗi bến(1).

Dự  án  hướng  tới  việc  hỗ  trợ  nhằm  củng  cố  việc  thi  hành  không  khói  thuốc  ở  các  khu  vực  giao thông vận tải, bao gồm tổ chức chính quyền  dưới sự kiểm soát của Sở Giao thông vận tải, hai  bến xe lớn chủ yếu, ga Sài Gòn, taxi, sân bay Tân  Sơn Nhất tại thành phố Hồ Chí Minh. Việc thực  hiện hiệu quả dự án này sẽ có tác động đáng kể  đến thành phố và cả nước.

Đặc điểm Tuổi 18-34 35-54 55-84 Giới Nam Nữ Trình độ học vấn ≤ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên N 481 223 88 525 267 57 178 237 320 % 60,7 28,2 11,1 66,3 33,7 7,2 22,5 29,9 40,4

Mục tiêu

Hơn  một  nửa  đối  tượng  nghiên  cứu  nằm  trong  độ  tuổi  18‐34  tuổi.  Nam  giới  nhiều  gấp  2  lần nữ giới. Các đối tượng được phỏng vấn chủ  yếu có trình độ học vấn từ trung học phổ thông  trở lên.

Bảng 2: Kiến thức về tác hại của thuốc lá.

Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành đối  với  quy  định  cấm  hút  thuốc  của  người  dân  sử

Đặc điểm n %

497

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

n 38 36 Đặc điểm Nơi làm việc Nơi công cộng

Nghiên cứu Y học  Kiến thức về hút thuốc lá gây tổn hại sức khỏe (n=792) 94,4 5,6

Có Không 748 44

Kiến thức về những căn bệnh do thuốc lá gây ra (n=748)

% 18,9 17,9 Nếu bạn đang hút thuốc nơi công cộng và được yêu cầu ngưng hút thuốc thì bạn sẽ làm gì? (n=201) 118 Ngưng hút thuốc ngay lập tức 57 Đi chỗ khác để hút thuốc 7 Vẫn hút thuốc 12 Khác 58,7 28,4 3,5 5,9

734 671 536 493 493 29 Bệnh hô hấp Ung thư Bệnh tim mạch Đột quỵ Cao huyết áp Khác

Có Không 724 68

98,1 89,7 71,7 65,9 65,9 3,9 Tác hại của hút thuốc lá thụ động đối với sức khỏe (n=792) 91,4 8,6 Giữa hút thuốc lá và hút thuốc lá thụ động, cái nào có hại hơn (n=724)

25,4%  các  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  đang  hút  thuốc  và  hút  trung  bình  khoảng  12.5  điếu thuốc mỗi ngày và bắt đầu hút thuốc ở tuổi  21. Gần nửa trong số họ thường xuyên hút thuốc  lá trong nhà hàng hoặc quán cà phê, 22% ở nhà,  19% tại nơi làm việc và 18% tại các khu vực công  cộng. Nếu những người đang hút thuốc lá được  yêu  cầu  ngưng  hút  thuốc  thì  khoảng  hơn  một  nửa  trong  số  họ  (58,7%)  sẽ  ngưng  hút¸  chỉ  có  3,5% trong số họ vẫn tiếp tục hút thuốc lá tại nơi  đó (Bảng 3).

410 153 134 27 Hút thuốc lá thụ động Như nhau Hút thuốc lá Không ý kiến

Bảng 4: Thái độ đối với quy định cấm hút thuốc nơi  công cộng (n=792).

n 715 % 90,3 56,6 21,1 18,5 3,8 Hút thuốc lá thụ động gây ra những căn bệnh (n=724) 97,9 89,5 72 66,7 67,2 2,1 Bệnh hô hấp Ung thư Bệnh tim mạch Đột quỵ Cao huyết áp Khác 709 648 521 483 491 15 Đặc điểm Biết về quy định cấm hút thuốc nơi công cộng

Người không hút thuốc làm gì khi người ngồi bên cạnh họ hút thuốc lá? (n= 591)

Hơn một phần ba số người được hỏi không  nhận thức được rằng hút thuốc có thể gây ra các  bệnh tim mạch và đột quỵ. Khoảng 1/5 số người  được hỏi cho rằng hút thuốc  lá  là  ít  có  hại  hơn  hút thuốc lá thụ động (Bảng 2).

316 107 96 53,5 18,1 16,2 Rời khỏi chỗ ngồi, mở cửa hoặc bật quạt Yêu cầu họ ngưng hút thuốc Yêu cần họ đi chỗ khác hút thuốc

94 2 Không làm gì cả Khác

Bảng 3: Tình trạng hút thuốc lá tại 4 điểm nghiên  cứu.

Hoàn toàn không tán thành Không tán thành Không biết Tán thành Hoàn toàn tán thành 26 47 124 104 491

15,9 0,3 Mức độ tán thành quy định cấm hút thuốc ở nơi công cộng 3,3 5,9 15,7 13,1 62 Mức độ tán thành việc xử phạt những người hút thuốc lá nơi công cộng?

% n 62,0 491 25,4 201 12,6 100 88,0 88 5,0 5 5,0 5 2 2,0 12,5 (9,7)

Hoàn toàn không tán thành Không tán thành Không biết Tán thành Hoàn toàn tán thành Bạn có nghĩ rằng những người hút thuốc lá nơi công cộng chấp nhận trả tiền khi bị phạt? Có

Không 163 104 112 93 320 302 692 20,6 13,1 14,1 11,7 40,4 38,1 61,9 Đặc điểm Tình trạng hút thuốc (n=792) Chưa bao giờ hút thuốc Hiện đang hút thuốc Đã bỏ hút thuốc Lý do bỏ hút thuốc (n=100) Lo lắng cho sức khỏe bản thân Lo lắng cho sức khỏe gia đình Hút thuốc tốn nhiều tiền Quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng Số điếu thuốc hút trung bình trong 1 ngày (n=201) Tuổi trung bình bắt đầu hút thuốc (n=201) Địa điểm thường hút thuốc (n=201) Quán cà phê Tại nhà 20,9 (5,7) 40,8 22,4 82 45

498

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc điểm n % cộng? (n=275)

Hành khách Tài xế Lơ xe 262 43 18

Bảng 4 cho thấy hầu hết (90,3%) biết về quy  định cấm hút thuốc nơi công cộng. Hơn một nửa  số người được hỏi (53,5%) trả lời rằng họ sẽ rời  khỏi chỗ ngồi của họ, mở cửa hoặc chuyển sang  chỗ  ngồi  khác  hoặc  bật  quạt  khi  bên  cạnh  có  người  hút  thuốc  lá.  Khoảng  một  phần  sáu  (15,9%) người không hút thuốc đã không làm gì  nhưng  bị  hút  thuốc  lá  thụ  động.  Ba  phần  tư  (75%) số người được hỏi ủng hộ  quy  định  cấm  hút thuốc ở nơi công cộng. 1/5 số người được hỏi  không đồng ý với quy định xử phạt.

95,3 15,6 6,6 Ở đó có ai yêu cầu người hút dừng việc hút thuốc lá không? 51,6 48,4 Có Không 142 133 Ai là người yêu cầu dừng việc hút thuốc? (n=142)

84 42 29 39 59,2 29,6 20,4 19,4 Hành khách Tài xế Lơ xe Bạn có hút thuốc lá trên các phương tiện giao thông cộng cộng không? (n=201)

Bảng 5: Tình trạng hút thuốc lá thụ động (n=792).  %

n

13,3 (23,0) Việc bán thuốc lá trên phương tiện giao thông công cộng 11,6 88,4 Có Không 92 700 Đặc điểm Số lần trung bình mỗi tuần bị hút thuốc lá thụ động

Địa điểm đối tượng nghiên cứu thường bị hút thuốc lá thụ động

Xe  buýt  được  sử  dụng  nhiều  nhất  (80%).  Một  phần  tư  (24,6%)  số  người  được  hỏi  trả  lời  rằng  họ  đã  không  nhìn  thấy  các  biển  báo  cấm  hút  thuốc  lá  trên  phương  tiện  giao  thông.  60%  đã  nhìn  thấy  có  người  hút  thuốc  lá  trên  các  phương tiện giao thông công cộng mà họ đã sử  dụng gần đây mà chủ yếu là hành khách (95%).

Những người trả lời phỏng vấn cho rằng họ  tiếp  xúc  với  khói  thuốc  lá  thụ  động  trung  bình  13,3 lần mỗi tuần ở những nơi công cộng, hoặc  nơi  làm  việc  và  ở  nhà.  Hơn  một  nửa  số  người  được phỏng vấn (64,9%) tiếp xúc thường xuyên  với khói thuốc lá thụ động ở nơi công cộng.

Những  người  hút  thuốc  trên  các  phương  tiện giao thông công cộng được yêu cầu không  hút thuốc lá bởi hành khách (59%), tài xế và lơ xe  (50%). Chỉ có 12% cho biết thuốc lá bán trên các  phương tiện giao thông công cộng.

Nơi công cộng Nơi làm việc Tại nhà 456 148 99 64,9 21,1 14,1

Bảng 6: Hành vi đối với việc hút thuốc trên các  phương tiện giao thông công cộng (n=792).  n

%

Bảng 7: Hành vi đối với việc hút thuốc lá tại các bến  xe/ sân bay (n=792).

Đặc điểm N %

Những người đang hút thuốc hút thuốc tại các bến xe/ sân bay (n=201)

Đặc điểm Chuyến đi cuối cùng của bạn gần đây nhất cách ngày phỏng vấn? < 1 tuần 1-4 tuần 1-3 tháng > 3 tháng 399 127 123 143 Có Không 116 85 57,7 42,3 Có người hút thuốc lá ở các bến xe/sân bay không? 50,4 16,0 15,5 18,1 Bạn sử dụng phương tiện giao thông công cộng gì cho chuyến đi gần đây nhất?

550 242 Có Không

Xe bus/ xe đò Máy bay Tàu lửa 632 81 79

79,8 10,2 10,0 Bạn có thấy bảng “ Cấm hút thuốc” trên các phương tiện giao thông công cộng không? 69,4 30,6 Tại đó có ai yêu cầu họ ngừng hút thuốc không? (n=550) 8,4 91,6 46 504

Có Không 597 195

Có Không Tại các bến xe/sân bay có để biển hiệu “ cấm hút thuốc” không? Có Không 66,0 34,0 523 269 75,4 24,6 Bạn có thấy người hút thuốc lá trên các phương tiện giao thông công cộng không? Tại các bến xe/sân bay có bán thuốc lá không?

Có Không 275 517 Có Không 601 191 75,9 24,1 60,6 39,4 Ai hút thuốc lá trên những phương tiện giao thông công

499

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

đường  hô  hấp  và  ung  thư.  Tuy  nhiên,  khoảng  một phần ba trong số những người trả lời không  biết rằng hút thuốc lá có thể gây ra các bệnh tim  mạch, đột quỵ và các vấn đề sức khỏe khác. Một  trong sáu hành khách nghĩ rằng hút thuốc lá thụ  động ít có hại hơn hút thuốc lá chủ động.

Khoảng  58%  người  hút  thuốc  thừa  nhận  có  hút thuốc lá tại các bến xe / sân bay mà họ có đi  đến  gần  đây.  Chỉ  có  8,4%  những  người  nhìn  thấy  có  người  hút  thuốc  lá  yêu  cầu  họ  ngừng  hút.  Khoảng  66%  số  người  được  hỏi  cho  biết  rằng  họ  không  nhìn  thấy  bảng  ʺcấm  hút  thuốc  láʺ tại các bến xe / sân bay. Nhiều người trong số  họ (76%) trả lời rằng các bến xe / sân bay có bán  thuốc lá.

Bảng 8: Sự khác biệt trong kiến thức và thái độ về tác  hại của hút thuốc lá và quy định cấm hút thuốc của  người hút thuốc và không hút thuốc.

Hút thuốc lá Đặc điểm n (%) Kiến thức về tác hại của thuốc lá

Có Không 182 (90,6) 19 (9,4) Kiến thức về quy định cấm hút thuốc

Thiếu  kiến  thức  về  nguy  cơ  ảnh  hưởng  sức  khỏe  liên  quan  đến  hút  thuốc  lá  và  ý  định  bỏ  thuốc lá ở những người hút thuốc còn thấp cho  thấy sự cần thiết phải tăng cường nhận thức của  cộng  đồng  về  những  nguy  hiểm  của  việc  hút  thuốc và những lợi ích của việc bỏ hút thuốc lá.  Hầu  hết  đối  tượng  nghiên  cứu  trả  lời  có  quy  định cấm hút thuốc lá nơi công cộng. Trong tất  cả những người này, 75% số người được hỏi ủng  hộ lệnh cấm hút thuốc lá nơi công cộng. Số liệu  này  phù  hợp  với  nhiều  nghiên  cứu  ở  các  nước  đang  phát  triển  khác.  Có  một  mối  liên  hệ  giữa  tình trạng hút thuốc và thái độ đối với quy định  cấm  hút  thuốc  lá  nơi  công  cộng.  Kết  quả  từ  nghiên cứu này cho thấy cộng đồng mong muốn  có  một  môi  trường  không  khói  thuốc  lá  nhưng  tỷ lệ tiếp xúc với khói thuốc lá ở nơi công cộng  vẫn còn rất cao.

Có Không 184 (91,5) 17 (8,5) Hành vi hút thuốc lá nơi công cộng

*: p <0,01

Trong số các phương tiện vận tải công cộng,  xe buýt / xe đò đã được sử dụng nhiều nhất. Tuy  nhiên,  tỷ  lệ  hành  khách  không  nhìn  thấy  biển  hiệu  ʺcấm  hút  thuốc  láʺ  trên  phương  tiện  giao  thông công cộng như xe buýt và tàu hỏa còn cao.  Hơn hai phần ba số người được hỏi cho biết họ  đã không nhìn thấy biển hiệu ʺcấm hút thuốc láʺ  tại các trạm giao  thông  công  cộng.  Hầu  hết  các  hành khách trả lời rằng thuốc lá đã được bán tại  các trạm giao thông công cộng và mọi người có  thể mua nó một cách dễ dàng.

Bảng 8 cho thấy sự khác biệt trong kiến thức  về  tác  hại  của  việc  hút  thuốc,  kiến  thức  và  thái  độ  đối  với  quy  định  cấm  hút  thuốc  nơi  công  cộng  của  người  hút  thuốc  và  không  hút  thuốc.  Hầu như người hút thuốc và không hút thuốc lá  đều có kiến thức về tác hại thuốc lá. Tuy nhiên,  những người không hút thuốc có tỷ lệ hiểu biết  cao hơn so với người hút thuốc. Sự khác biệt này  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  <0,01).  Những  người  không hút thuốc ủng hộ quy định cấm hút thuốc  nhiều hơn những người hút thuốc.

Rất không đồng ý Không đồng ý một phần Không biết Đồng ý một phần Rất đồng ý 23 (11,4) 28 (13,9) 41 (20,4) 32 (15,9) 77 (38,3) Không hút thuốc lá n (%) 566 (95,8)* 25 (4,2) 531 (89,8) 60 (10,8) 3 (0,51)* 19 (3,2) 83 (14) 72 (12,2) 414 (70,1)

BÀN LUẬN

Khoảng  60%  người  được  hỏi  cho  biết  đã  thấy có người hút thuốc lá trên các phương tiện  giao  thông  công  cộng.  Những  người  hút  thuốc  bao gồm các hành khách, tài xế và lơ xe. Trong  số những người hút thuốc hiện tại, khoảng 14%  thừa  nhận  rằng  họ  đã  hút  thuốc  lá  trên  các  phương tiện giao thông công cộng và 58% tại các  bến  xe/  sân  bay  trong  chuyến  đi  gần  đây  nhất.  Hầu hết trong số  này  trả  lời  rằng  không  có  bất

Mẫu  nghiên  cứu  bao  gồm  792  hành  khách  được  chọn  ngẫu  nhiên  tại  bốn  địa  điểm  giao  thông công cộng trong thành phố Hồ Chí Minh.  Hầu hết những người trả lời hiểu rằng hút thuốc  có  hại  cho  sức  khỏe  và  có  thể  gây  ra  các  bệnh

500

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  kỳ  người  nào  nhắc  nhở  người  hút  thuốc  lá  không nên hút thuốc ở khu vực công cộng.

Cấm hút thuốc nơi công cộng cần được thực  thi  và  kiểm  soát  tại  các  khu  vực  có  can  thiệp  càng  sớm  càng  tốt.  Biển  hiệu  ʺcấm  hút  thuốcʺ  nên được đặt tại các trạm giao thông công cộng.  Thực  hiện  thúc  đẩy  và  tăng  cường  thông  báo  thường  xuyên  các  tác  hại  của  thuốc  lá  nhằm  nâng cao sự chấp nhận của xã hội và hỗ trợ lệnh  cấm hút thuốc lá nơi công cộng.

Tỷ lệ người hút thuốc hiện nay trong tổng số  những người tham gia nghiên cứu là 25,4%. Hơn  một nửa số người hút thuốc hiện tại đã không có  ý định bỏ hút thuốc. Trong số những người hút  thuốc hiện tại có ý định bỏ thuốc lá, 63% trả lời  rằng  họ  sẽ  bỏ  hút  thuốc  trong  hơn  6  tháng  tới.  Các  lý  do  phổ  biến  là  quan  tâm  đến  sức  khỏe  của  họ  (86%)  và  cho  sức  khỏe  của  gia  đình  (20%).

KHUYẾN NGHỊ

Những nơi công cộng có mái che và nơi làm  việc của các khu vực của dự án có nhiều người  tiếp xúc với khói thuốc thụ động cần được chú  trọng  nhiều  hơn  trong  việc  thi  hành  quy  định  cấm hút thuốc lá.

Cần  tăng  cường  hiểu  biết  của  các  hành  khách  sử  dụng  phương  tiện  giao  thông  công  cộng  về  các  mối  nguy  hại  sức  khỏe  liên  quan  đến việc hút thuốc và hút thuốc thụ động.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh (2008). Báo cáo  của Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008  2. Tổng cục dân số ‐ kế hoạch hóa gia đình (2009), Báo cáo tổng điều

tra dân số và nhà ở 1/4/2009.

3. World  Health  Organization  (2010),  Global  adult  tobacco  survey

(GATS) Viet Nam 2010, page 11.

Thông  điệp  phòng  chống  thuốc  lá  của  các  vấn đề sức khỏe khác nhau nên được thông báo  rộng  rãi  ở  tất  cả  các  địa  điểm  của  dự  án  hàng  ngày.

501

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

NHẬN THỨC NGHỊ ĐỊNH CẤM HÚT THUỐC LÁ   TẠI CÁC NƠI GIAO THÔNG CÔNG CỘNG   Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – MỘT NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH

Đặng Văn Chính*, Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Bùi Thị Kiều Anh*, Hồ Hữu Tính*, Nguyễn Tuyết Ngọc*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ nam giới hút thuốc lá cao nhất trên thế giới, và khoảng 2/3 phụ  nữ, hơn một nửa trẻ em là đối tượng thường xuyên hút thuốc lá thụ động. Hút thuốc lá thụ động thường xảy ra  ở nhà và nơi công cộng, đặc biệt trên các phương tiện giao thông công cộng.

Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả nhận thức đối với nghị định cấm hút thuốc của người quản lý, nhân viên ở  những nơi được dự án tăng cường thực thi cấm hút thuốc lá tại các cơ sở giao thông công cộng thuốc lá bắt đầu  triển khai bao gồm sân bay Tân Sơn Nhất (TSNA), ga Sài Gòn (SGRS), bến xe miền đông (ECS), bến xe miền  tây (WCS), công ty taxi Mai Linh (MLTC) và công ty taxi Vinasun (VSTC).

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng bản phỏng vấn bán cấu trúc để tìm hiểu nhận thức về sự nguy hiểm

của hút thuốc lá, sự cần thiết và giá trị của những quy định cấm hút thuốc lá.

Kết quả nghiên cứu: Tất cả nhân viên đã nhận thức được tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe và các lệnh  cấm hút thuốc nơi công cộng. Hầu hết trong số họ cũng nhận thức được hút thuốc thụ động gây hại cho sức khỏe  của họ.Tuy nhiên, các nhân viên không có sự hiểu biết đầy đủ về sự nguy hiểm của việc hút thuốc và làm thế nào  để thực thi các quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng. Không có công ty nào có bảng kiểm tra môi trường  không khói thuốc. Những người được phỏng vấn đã tán thành và hỗ trợ các nghị định cấm hút thuốc lá và muốn  thi hành nghị định. Tuy nhiên, họ không có bất kỳ nguồn tài chính nào để có thể sử dụng cho việc thực hiện nghị  định này.

Kết luận: Để dự án thành công cần có sự hợp tác chặt chẽ với Sở giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân

thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các dự án môi trường không khói thuốc.

Từ khóa: Hút thuốc lá; hút thuốc lá thụ đông; nơi giao thông công cộng; nghị định cấm hút thuốc lá nơi

công cộng

ABSTRACT

PERCEPTION OF PUBLIC SMOKING BAN AT PUBLIC TRANSPORTATION SITES: A QUALITATIVE  STUDY

Dang Van Chinh*, Bui Thi Kieu Anh*, Nguyen Thi Bich Ngoc*, Ho Huu Tinh*, Nguyen Tuyet Ngoc*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 503 ‐ 507

Background:  Vietnam  is  a  country  with  the  highest  smoking  rates  for  men  in  the  world,  and  about  two  thirds  of  women  and  more  than  half  of  children  exposed  to  passive  smoking.  Passive  smoking  often  occurs  at  homes and public places, especially public transportation sites.

Objectives:  To  describe  the  perception  of  the  smoking  ban  decree  of  managers,  and  staff  at  public  transportation  sites,  including  Tan  Son  Nhat  airport  (TSNA),  Sai  Gon  railway  station  (SGRS),  East  coach  station  (ECS),  Western  coach  station  (WCS),  Mai  Linh  taxi  company  (MLTC)  and  Vina  Sun  taxi  company  (VSTC).

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

502

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Method: A semi‐structured interview format was used to explore the awareness of dangers of smoking, and

necessity, and value of the smoking ban regulations.

Results: All employees were aware of smoking harm to health and the public smoking ban regulations. Most  of them were also aware of the harm of passive smoking. However, staffs did not have the full understanding of  the danger of smoking and how to enforce the public smoking ban regulations. In practice, no companies had a  checklist for smoke free environment. Interviewees approved and supported the smoking ban decree and wanted to  enforce the public smoking ban decree. However, they did not have any financial sources that could be used to  implement this decree at public transportation sites.

Conclusion: The close co‐operation with the Department of Transportation and HCM People’s Committee

is necessary to implement the smoke free projects successfully.

Key words: Smoking; passive smoking; public transportation sites; public smoking ban decree

ĐẶT VẤN ĐỀ

Dự  án  hướng  tới  việc  hỗ  trợ  nhằm  củng  cố  việc  thi  hành  không  khói  thuốc  ở  các  khu  vực  giao thông vận tải, bao gồm tổ chức chính quyền  dưới sự kiểm soát của Sở Giao thông vận tải, hai  bến xe lớn chủ yếu, ga Sài Gòn, taxi, sân bay Tân  Sơn Nhất tại thành phố Hồ Chí Minh. Việc thực  hiện hiệu quả dự án này sẽ có tác động đáng kể  đến triển khai nghi định không hút thuốc lá noi  công cộng ở thành phố nói riêng và cả nước nói  chung.

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ hút thuốc lá ở  nam  giới  cao  nhất  trên  thế  giới,  với  56,1%  nam  giới  và  1,8%  nữ  giới  hút  thuốc(3).  Theo  một  số  nghiên cứu gần đây, khoảng 2/3 phụ nữ và hơn  một  nửa  trẻ  em  là  đối  tượng  hút  thuốc  lá  thụ  động không chỉ ở những nơi công cộng mà còn  ở tại gia đình. Những người hút thuốc có thể hút  thuốc  hầu  như  ở  mọi  nơi  bao  gồm  cả  các  phương tiện giao thông công cộng.

Mục tiêu

Mô tả nhận thức cán bộ quản lý đối với nghị  định  cấm  hút  thuốc  ở  những  nơi  được  giao  thong  công  cộng  mà  triển  khai  dự  án  cấm  hút  thuốc lá nơi công công được triển khai bao gồm  sân  bay  Tân  Sơn  Nhất  (TSNA),  ga  Sài  Gòn  (SGRS),  bến  xe  miền  đông  (ECS),  bến  xe  miền  tây  (WCS),  công  ty  taxi  Mai  Linh  (MLTC)  và  công ty taxi Vinasun (VSTC).

PHƯƠNG PHÁP

Thành phố Hồ Chí Minh được xem như một  thành phố trẻ, năng động và đông dân nhất Việt  Nam  với  dân  số  trên  7  triệu  người(2).  Tỷ  lệ  hút  thuốc  lá  ở  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  cao,  53%  nam  và  2%  nữ.  Mức  độ  sử  dụng  phương  tiện  giao  thông  công  cộng  đến  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh cả đường bộ và đường thủy ước tính đạt  400 triệu lần/năm (. Ga Sài Gòn chuyên chở 1,1  triệu hành khách mỗi năm với 10 chuyến ra vào  mỗi ngày. Số hành khách đến sân bay Tân Sơn  Nhất có thể đạt 15 triệu mỗi năm. Lượng  hành  khách đến bến xe miền Đồng và miền Tây có thể  lên đến 20 triệu mỗi năm với khoảng 2500 xe cho  mỗi bến(1).

Sử dụng bản phỏng vấn bán cấu trúc để tìm  hiểu nhận thức về sự nguy hiểm của hút thuốc  lá,  sự  cần  thiết  và  giá  trị  của  những  quy  định  cấm hút thuốc lá.

Dự án tăng cường thực thi cấm hút thuốc lá  tại các cơ sở giao thông công cộng thuốc sẽ được  triển khai ở các địa điểm trên để nhằm thực thi  việc cấm hút thuốc lá ở các địa điểm giao thông  công cộng, bao gôm tăng cường bảng hiệu “cấm  hút  thuốc  lá.  Đội  thực  thu  nhằm  nhắc  nhở  những hành khác hút thuốc và “tập huấn về tác  hại của thuốc lá”

Thiết kế nghiên cứu khảo sát được sử dụng  bằng  cách  quan  sát  các  địa  điểm  của  dự  án  để  đánh giá việc tuân thủ quy định cấm hút thuốc,  quan  sát  việc  treo  dán  các  biển  hiệu  cấm  hút  thuốc lá và ghi nhận bằng chứng bất kỳ của việc  hút thuốc tại khu vực cấm hút thuốc. Bên cạnh  đó là phỏng vấn 5 nhà quản lý, 21 nhân viên tại  địa điểm bằng cách sử dụng bảng câu  hỏi.  Các

503

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tuy nhiên, họ không có bất kỳ nguồn tài chính  nào để có thể sử dụng cho việc thực hiện Nghị  định này tại nơi công cộng.

Nghiên cứu Y học  cuộc thảo luận nhóm tập trung vào nhận thức về  sự nguy hiểm của việc hút thuốc, mức độ  tuân  thủ  các  quy  định  cấm  hút  thuốc  lá,  những  khó  khăn và kỳ vọng trong việc thực hiện dự án.

Ban chỉ đạo môi trường không khói thuốc

Bảng  kiểm  môi  trường  không  khói  thuốc  ở  những nơi công cộng có mái che được sử dụng  để đánh giá chứng cứ của việc hút thuốc và mức  độ tuân thủ các quy định cấm hút thuốc lá của  mỗi địa điểm triển khai dự án.

KẾT QUẢ

Ban chỉ đạo môi trường không khói thuốc đã  được  thành  lập  tại  SGRS,  MLTC,  WCS  và  ECS.  Tuy nhiên, hầu hết các nhà quản lý và nhân viên  báo cáo rằng họ không biết về các uỷ ban và các  hoạt  động  của  họ,  điều  này  cho  thấy  rằng  các  hoạt động của họ vẫn còn hạn chế. Hai trong số  sáu công ty thành lập các đội thực thi qui định;  đó  là  SGRS  và  MLTC.  Nhóm  thực  thi  qui  định  SGRS bao gồm sáu nhân viên an ninh chịu trách  nhiệm  nhắc  nhở  hành  khách  không  được  hút  thuốc  tại  các  trạm  trong  khi  nhóm  thực  thi  qui  định MLTC bao gồm các nhà quản lý chịu trách  nhiệm giám sát các tài xế để ngăn ngừa họ hút  thuốc trong khu vực cấm

Mẫu nghiên cứu gồm 26 người, bao gồm cả  nhân  viên  và  nhà  quản  lý  của  sáu  công  ty.  Độ  tuổi trung bình là 37 tuổi. Nam giới chiếm tỷ lệ  cao hơn nữ. Tỷ lệ của các đối tượng nghiên cứu  tốt nghiệp cấp 3 hoặc cao hơn là 17/26. 5 trên 26  đối tượng nghiên cứu có hút thuốc, 9 trong số 26  đối tượng nghiên cứu trả lời đã từng hút thuốc  lá.

Tuy nhiên kiến thức chung của họ về tác hại  của  hút  thuốc  lá  và  hút  thuốc  lá  thụ  động  vẫn  còn  giới  hạn.  Hơn  nữa,  họ  không  nhận  được  nhiều quyền lợi trong việc giám sát và tuân thủ  nghị  định  cấm  hút  thuốc  nơi  công  cộng.  Tất  cả  những  người  tham  gia  nghiên  cứu  cần  phải  được cung cấp thêm nhiều thông tin, kỹ năng và  những  cơ  chế  pháp  lý  để  có  thể  bắt  buộc  hành  khách tuân thủ các quy định cấm hút thuốc.

Tất cả nhân viên (26/26) đã nhận thức được  tác  hại  của  thuốc  lá  cho  sức  khỏe  và  các  lệnh  cấm hút thuốc nơi công cộng. Hầu hết trong số  họ cũng nhận thức được hút thuốc thụ động gây  hại  cho  sức  khỏe  của  họ.  Tất  cả  các  đối  tượng  nghiên cứu phản đối việc hút thuốc lá thụ động.  Tất  cả  đồng  ý  rằng  mọi  người  nên  ngăn  chặn  việc  hút  thuốc  lá  thụ  động.  Mặc  dù  mọi  người  biết  tác  hại  của  việc  hút  thuốc  cũng  như  hút  thuốc lá thụ động.

Các hoạt động vì môi trường không thuốc  lá

Thông  báo  về  môi  trường  không  thuốc  lá  qua  loa  phóng  thanh  đã  được  thực  hiện  mỗi  ngày  một  lần  tại  SGRS,  đặc  biệt  là  4  lần  một  ngày  tại  ECS.  Vấn  đề  môi  trường  không  khói  thuốc  thường  được  đề  cập  trong  cuộc  họp  trực  tuyến  hàng  tuần  được  tổ  chức  tại  MLTC.  Hút  thuốc lá bị cấm ở những nơi công cộng, nhưng  việc thực thi còn yếu kém.

Tuy nhiên, hầu hết các  nhân  viên  không  có  sự  hiểu  biết  đầy  đủ  về  sự  nguy  hiểm  của  việc  hút  thuốc  và  làm  thế  nào  để  thực  thi  các  quy  định  cấm  hút  thuốc  lá  công  cộng.  Đa  số  hiểu  rằng  hút  thuốc  lá  cũng  như  hút  thuốc  lá  thụ  động có thể gây ra các bệnh đường hô hấp, ung  thư. Tuy nhiên, họ không biết hút thuốc và hút  thuốc lá thụ động cũng có thể gây ra các vấn đề  sức  khỏe  khác  chẳng  hạn  như  các  vấn  đề  sức  khỏe bà mẹ và trẻ em.

Hoạt động chống hút thuốc lá

Trong thực tế, không có công ty nào có bảng  kiểm tra môi trường không khói thuốc. Hầu hết  người  được  phỏng  vấn  đã  tán  thành  và  hỗ  trợ  các  nghị  định  cấm  hút  thuốc  lá  và  muốn  thi  hành Nghị định cấm hút thuốc lá nơi công cộng.

Phòng hút thuốc lá riêng biệt dành cho hành  khác chỉ được xây dựng tại SGRS và TSNA. Tuy  nhiên,  phòng  hút  thuốc  lá  tại  SGRS  rất  nhỏ.  SGRS là nhà ga đường sắt duy nhất ở thành phố  Hồ  Chí  Minh.  Nhiều  người  đến  và  đi  ở  SGRS

504

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

dẫn  cụ  thể  của  chính  phủ  về  hình  phạt  cho  những người vi phạm. Tài xế và lơ xe cũng thấy  khó  khăn  trong  việc  nhắc  nhở  hành  khách  ngừng hút thuốc lá trên xe bởi vì các hành khách  có  thể  không  thực  hiện  theo  quy  định  và  bỏ  chuyến xe, vì thế các tài xế bị mất lợi ích.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  mỗi ngày. Đó là lý do tại sao nhiều hành khách  hút  thuốc  bên  ngoài  phòng  hút  thuốc  lá  chẳng  hạn  như  trong  căng‐tin  hoặc  hành  lang  vì  họ  cảm thấy không thoải mái khi hút thuốc lá trong  căn phòng nhỏ như vậy. Tuy nhiên, họ hiếm khi  được nhắc nhở phải hút thuốc trong phòng hút  thuốc.

Ngoài  ra,  pháp  luật  không  chỉ  định  rõ  ai  là  người  chịu  trách  nhiệm  đưa  ra  hình  phạt  cho  hành khách vi phạm. Bên cạnh đó, hành khách  quá nhiều trong khi  số  lượng  các  nhân  viên  tại  những  nơi  này  thì  rất  ít.  Trường  hợp  các  hành  khách  vi  phạm  là  những  người  nghèo  họ  sẽ  từ  chối trả tiền phạt.

Giám  sát  sự  tuân  thủ  lệnh  cấm  hút  thuốc  công  cộng  được  thực  thi  khá  tốt  tại  MLTC.  MLTC đã có một đội giám sát cho việc tuân thủ  quy định cấm hút thuốc lá của các tài xế taxi và  một đường dây nóng để báo cáo khi tài xế taxi  hút  thuốc.  Tuy  nhiên,  không  có  các  hoạt  động  như vậy đối với hành khách, bởi vì họ sợ mất lợi  ích. Nếu hành khách hút thuốc lá thì được nhắc  nhở không hút thuốc trong khu vực công cộng,  họ  có  thể  phản  ứng  bằng  cách  đi  một  xe  taxi  khác của công ty khác, kết quả là lợi ích giảm.

Một  số  lượng  lớn  các  tài  xế  và  phụ  xe  là  những người hút thuốc. Điều này sẽ làm cho dự  án  khó  khăn  hơn  trong  việc  thực  hiện  môi  trường không khói thuốc bởi vì họ cho rằng cần  phải  hút  thuốc  để  tránh  bị  ngủ  trên  những  chuyến đi dài. Điều này có thể là do thiếu kiến  thức  về  nguy  cơ  sức  khỏe  liên  quan  đến  hút  thuốc, dẫn đến kết quả ý định bỏ thuốc lá trong  số những người này là rất thấp.

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

Trong khi đó, SGRS đã có một đội giám sát  gồm sáu người giám sát việc tuân thủ lệnh cấm  hút  thuốc  tại  nơi  công  cộng.  Họ  thường  nhắc  nhở hành khách không hút thuốc trong khu vực  công cộng. Tuy nhiên, nhóm  giám  sát  gồm  sáu  người là không đủ. Rõ ràng là quá ít để giám sát  một số lượng đáng kể hành khách ở SGRS.

Nhìn chung bằng chứng về sự kém tuân thủ  có ở tất cả các địa điểm của dự án. Người được  phỏng  vấn  không  muốn  để  nhắc  nhở  hành  khách  hút  thuốc  lá  không  hút  thuốc  lá  ở  nơi  công  cộng  bởi  vì  họ  sợ  sự  gây  hấn  hoặc  không  tuân thủ của những người hút thuốc.

Để dự án thành công cần có sự hợp tác chặt  chẽ  với  Sở  giao  thông  vận  tải  và  Ủy  ban  nhân  dân  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  trong  việc  thực  hiện các dự án môi trường không khói thuốc.

Để đảm bảo thực hiện thành công quy định  cấm  hút  thuốc  nơi  công  cộng,  những  điều  sau  đây cần được thực hiện:

Thúc  đẩy  rộng  rãi  lệnh  cấm  hút  thuốc  lá

công khai đối với nhân viên.

Người tham gia phỏng vấn bao gồm cả nhân  viên và người quản lý đều hy vọng rằng kết quả  của dự án này sẽ có nhiều hứa hẹn, mang lại lợi  ích  về  sức  khỏe  cho  mọi  người.  Điều  kiện  làm  việc sẽ tốt hơn, tránh được cảnh các nhân viên tụ  tập  nói  chuyện  và  ngăn  chặn  cháy,  nổ  do  hút  thuốc  lá.  Người  tham  gia  phỏng  vấn  cho  rằng  dự  án  sẽ  mất  nhiều  thời  gian  để  thực  hiện  và  duy  trì.  Để  bắt  buộc  hành  khách  tuân  thủ  quy  định cấm hút thuốc công cộng, các đội thi hành  nên lịch sự khi nhắc nhở hành khách không hút  thuốc lá ở nơi công cộng. Tốt hơn là nên chỉ cho  hành  khách  thấy  các  tài  liệu  về  nghị  định  cấm  hút thuốc nơi công cộng trong khi họ nhắc nhở  và sau đó áp dụng phạt tiền trên người vi phạm.

Tăng cường lực lượng thực thi dự án.

Phổ biến các thông điệp chống hút thuốc và  cấm hút thuốc ở những nơi công cộng tại các địa  điểm can thiệp.

Đối  tượng  nghiên  cứu  nhân  viên  và  nhà  quản  lý  thấy  khó  khăn  trong  việc  đưa  ra  hình  phạt  cho  những  người  vi  phạm  lệnh  cấm  hút  thuốc ở nơi công cộng vì không có bất kỳ hướng

505

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

thuốc  nơi  công  cộng  sẽ  bị  xếp  hạng  thấp  trong  vấn  đề  khen  thưởng.  Hoạt  động  của  lệnh  cấm  hút  thuốc  nơi  công  cộng  được  đánh  giá  theo  bảng kiểm tra môi trường không khói thuốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh (2008). Báo cáo  của Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008  2. Tổng cục dân số ‐ kế hoạch hóa gia đình (2009), Báo cáo tổng điều

tra dân số và nhà ở 1/4/2009.

3. World  Health  Organization  (2010),  Global  adult  tobacco  survey

(GATS) Viet Nam 2010, page 11.

Nhân viên cần được đào tạo để phổ biến các  thông điệp về sự nguy hiểm của hút thuốc lá cho  hành  khách.  Dự  án  cần  cung  cấp  các  biển  báo,  tài liệu giáo dục, video, và hình ảnh về sự nguy  hiểm của việc hút thuốc nhằm làm tăng sự hiểu  biết của hành khách. Việc bán thuốc lá đã được  đề nghị cần phải bị cấm tại nơi công cộng. Điều  này có thể là phương tiện mạnh mẽ để giảm hút  thuốc lá tại địa điểm dự án. Nhân viên trong tất  cả các công ty vi phạm quy định về lệnh cấm hút

506

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BMI TRONG QUẦN THỂ TRẺ EM VIỆT NAM 6 – 10 TUỔI   TRONG 1992‐1997

Đặng Văn Chính*, RS Day2**, B Selwyn3***, YM Maldonado4****

TÓM TẮT

Mục tiêu nghên cứu: Theo dõi chỉ số BMI trong quần thể trẻ em Việt Nam từ 6‐10 tuổi trong khoảng thời

gian 5 năm từ 1992‐93 đến 1997‐98.

Phương pháp nghiên cứu: Các dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu có được từ khảo sát mức sống dân  cư Việt Nam (VLSS) tiến hành từ 1992‐1993 và 1997‐1998, sử dụng thiết kế mẫu cụm nhiều bậc để xác định  mẫu đại diện quốc gia của trẻ em Việt Nam từ 6‐10 tuổi. Ước tính sự phổ biến và xu hướng của chỉ số BIM ở trẻ  em, bằng cách sử dụng các ngưỡng BMI được đề xuất bởi tổ chức quốc tế về béo phì.

Kết quả: Sự gia tăng có ý nghĩa thống kê đã được nhận thấy ở chỉ số BMI của trẻ em Việt Nam. Tăng BMI  ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Tỉ lệ trẻ em ở Việt Nam có nguy cơ bị thừa cân và béo phì tăng đáng kể từ 0,4%  năm 1992 đến 0,8% vào năm 1997. Giới và điều kiện kinh tế xã hội là những yếu tố dự báo quan trọng ảnh  hưởng đến chỉ số BMI của trẻ em từ 6‐10 tuổi.

Kết luận: Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn tiếp tục báo động vấn đề về chế độ dinh dưỡng ở Việt  Nam, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Cân nặng thời thơ ấu có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến trong lượng  của lứa tuổi sau này, vì vậy các can thiệp sớm về dinh dưỡng cho trẻ em là rất quan trọng.

Từ khóa: BMI (chỉ số khối cơ thể), ngưỡng BMI, SES (tình trạng kinh tế‐xã hội).

ABSTRACT

BMI AMONG COHORT OF VIETNAMESE CHILDREN 6 – 10 YEARS OF AGE, 1992‐1997

Dang Van Chinh, RS Day, B Selwyn, YM Maldonado

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 508 ‐ 513

Objectives: To track BMI among a cohort of Vietnamese children 6 – 10 years of age at onset in the 5 years

time period from 1992 – 1993 to 1997‐ 1998.

Methods: The data used in this study came from the Vietnam Living Standard Survey (VLSS) conducted  from 1992 ‐1993 and 1997‐ 1998 using multi – stage cluster sample design to produce nationally representative  samples  of  Vietnam  children  ages  6  ‐10  years.  The  prevalence  and  trends  of  BMI  for  children  were  estimated,  using BMI cutoff points proposed by International Obesity Task.

Results: There were statistically significant increases in BMI among Vietnamese children. Increases in BMI  in  urban  were  more  than  those  in  rural  areas.  The  mean  prevalence  of  at  risk  of  overweight  and  overweight  among  Vietnam  children  significantly  increased  from  0.4%  in  1992  to  0.8%  in  1997.  Gender  and  SES  were  significant predictors of BMI among children 6‐10 years old.

Conclusions:  Underweight  children  continued  to  signal  an  important  nutrition  problem  in  Vietnam,

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh  ∗∗ Khoa Dịch tễ và kiểm soát bệnh, Đại học Texas, Đại học Y tế Công cộng Houston  ∗∗∗ Khoa Quản lý, chính sách và sức khỏe cộng đồng, ĐHTH Texas, Đại học YTCC Houston  ∗∗∗∗ Khoa Toán, Đại học kỹ thuật Michigan

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

507

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  especially in rural areas. The weight status of children at earlier ages is likely to significantly influence that at  later ages, making early nutrition interventions for children very important.

Key words: BMI (Body Mass Index), cutoff points, SES (socio‐economic status).

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khung lấy mẫu

Thiết  kế  được  sử  dụng  là  mẫu  cụm  nhiều  bậc. Khung lấy mẫu được dựa trên cuộc điều tra  dân  số  tại  Việt  Nam  năm  1989  do  Tổng  cục  Thống  kê  thực  hiện  có  4.800  hộ  gia  đình  được  lựa chọn theo kết quả khảo sát mức sống dân cư  Việt  Nam  VLSS  năm  1992,  và  4350  được  lựa  chọn  trong  lần  khảo  sát  mức  sống  dân  cư  Việt  Nam  VLSS  năm  1997,  mẫu  trong  nghiên  cứu  này  được  lựa  chọn  trong  4.800  hộ  đã  được  nghiên cứu vào năm 1992. Do  đó,  trẻ  em  trong  các hộ gia đình có thể được kiểm tra hai lần, mỗi  lần trong từng cuộc điều tra.

Biện pháp khảo sát

Các nghiên cứu gần đây cho thấy thừa cân ở  trẻ em đang gia tăng ở các nước đang phát triển,  những quốc gia đang có những thay đổi nhanh  chóng về phát triển kinh tế ‐ xã hội(5,4), chẳng hạn  như  Việt  Nam,  phải  đối  mặt  với  những  thách  thức lâu dài của việc giải quyết vấn đề suy dinh  dưỡng ở vùng nông thôn, bên cạnh đó phải giải  quyết  các  vấn  đề  về  tình  trạng  tăng  tỷ  lệ  thừa  cân ở khu vực đô thị. Số liệu là cần thiết để làm  dữ liệu xác định phạm vi và yếu tố quyết định  thừa cân. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là  để  theo  dõi  chỉ  số  BMI  trong  quần  thể  trẻ  em  Việt Nam từ 6‐10 tuổi trong khoảng thời gian từ  1992‐93 (2) đến 1997‐98 (3).

PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế nghiên cứu

Đây là nghiên cứu phân tích mô tả dựa trên  dữ liệu từ cuộc khảo khảo sát mức sống dân cư  Việt Nam (VLSS) thực hiện trong giai đoạn 1992‐ 1993 (1992 VLSS)(2), và giai đoạn 1997‐1998 (1998  VLSS)(3). Văn phòng Tổng cục thống kê đã cung  cấp các dữ liệu có sẵn và cấp giấy phép cho sử  dụng các dữ liệu cho nghiên cứu này.

Bộ câu hỏi cho hộ gia đình trong cả hai cuộc  khảo sát đều dựa trên cùng định dạng được sử  dụng bởi Ngân Hàng Thế Giới trong cuộc điều  tra nghiên cứu về khảo sát mức sống trong dân  cư, nhưng họ đã điều chỉnh để phù hợp với Việt  Nam  và  đã  thực  hiện  khảo  sát  thử  tại  địa  phương. Tất các các dữ liệu khảo sát hộ gia đình  của 2 cuộc điều tra điều được quản lý bởi nhân  viên y tế. Khảo sát VLSS chỉ thực hiện một lần vì  là nghiên cứu theo chiều dọc (bảng điều khiển),  khảo  sát  4.305  hộ  gia  đình  được  thực  hiện  hai  lần.

Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam

Định nghĩa suy dinh dưỡng

Ngưỡng  BMI  để  phân  loại  giữa  nhóm  suy  dinh  dưỡng  và  bình  thường  ở  trẻ  em  6‐10  tuổi  dựa trên phân loại BMI được phát triển bởi Must  và cộng sự, và dựa trên dữ liệu NHANES I dành  cho đối tượng 6‐18 tuổi. Được sử dụng rộng rãi  hơn để xác định suy dinh dưỡng thời thơ ấu và  thiếu niên, đã được đề nghị áp dụng cho nhóm  trẻ em từ 10‐19 tuổi bởi chuyên gia của Tổ chức  Y tế thế giới(9).

Kiểm soát chất lượng dữ liệu

VLSS  đầu  tiên  (1992‐1993)(2)  được  thực  hiện  bởi Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Tổng cục Thống kê  tại Hà Nội. VLSS lần thứ hai (1997‐1998)(3) được  tiến  hành  chỉ  bởi  DSO.  Cả  hai  cuộc  điều  tra  VLSS  được  tài  trợ  bởi  chương  trình  thống  nhất  phát triển quốc gia và cơ quan phát triển quốc tế  của  Thụy  Điển.  Các  cuộc  điều  tra  là  một  phần  của nghiên cứu đo lường tiêu chuẩn cuộc sống,  điều tra hộ gia đình được tiến hành trong một số  nước  đang  phát  triển  với  sự  hỗ  trợ  kỹ  thuật  từ  Ngân  Hàng  Thế  Giới.  Chi  tiết  các  khung  lấy  mẫu và thu thập dữ liệu trong ngày trong năm  1992‐1993 VLSS và năm 2000 GNS đã được mô  tả trước đó (2‐7).

Nhóm khảo sát, bao gồm  cả  nhân  viên  y  tế  và  giám  sát  viên,  đã  trải  qua  đào  tạo.  Bao  gồm  thu thập dữ liệu tại các hộ gia đình, khu vực đô

508

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Trung bình Giàu Rất giàu 391 301 271 22,8 18,7 15,4 21,4 16,5 14,8 416 341 282

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thị  và  khu  vực  nông  thôn.  Bài  kiểm  tra  tiêu  chuẩn  đã  được  thực  hiện  để  đánh  giá  xem  các  học  viên  có  thực  hiện  đúng  các  phép  đo  nhân  trắc học theo công thức chuẩn cho sẵn.

Phân tích thống kê

Học vấn của chủ hộ 1025 560 208 56,1 30,6 11,4 56,1 30,6 11,4 1025 560 208

35 Tiểu học Cấp 2, cấp 3 Trung cấp nghề, cao đẳng Đại học 1,9 1,9 35

Quy mô hộ gia đình 100 291 1437 ≤ 3 người 4 người ≥5 người 4,3 16,8 78,9 5,5 15,9 78,6

525 1294 9 35,2 64,0 0,8 78 307 1443 Phân nhóm BMI trong năm 1992 644 1169 15 28,7 70,8 0,5 Suy dinh dưỡng Bình thường Nguy cơ thừa cân và thừa cân

‡ tiểu học, dưới tiểu học và mù chữ; Đại học

Kết hợp hai mặt cắt ngang của dữ liệu, VLSS  năm  1992(2)  và  VLSS  năm  1997(3)  để  thiết  lập  bảng  điều  tra  dữ  liệu  cho  các  phân  tích  theo  chiều dọc, trong thiết kế nghiên cứu này, trẻ em  trong nhóm từ 6‐10 tuổi được lựa chọn trong cả  hai cuộc điều tra VLSS năm 1992  và  1997  được  xác định. Do đó, phân tích được tiến hành ở cấp  độ cá thể, sử dụng phân tích GEE để thiết lập sự  đồng nhất quan sát trong từng cụm. BMI của trẻ  em trong năm 1992 được phân loại dựa trên tiêu  chuẩn  phân  loại  của  IOTF  vào  các  nhóm  suy  dinh dưỡng, bình thường, nguy cơ thừa cân và  thừa cân.

bao gồm đại học và sau đại học

Tổng 1828 100 100 1828

KẾT QUẢ

Đặc tính của quần thể nghiên cứu  Bảng 1: Đặc tính của trẻ em Việt Nam từ 1992‐1997.

Đặc  điểm  dân  số  xã  hội  của  1.828  trẻ  em  trong  độ  tuổi  từ  6‐10  giai  đoạn  1992‐1997  được  trình  bày  trong  Bảng  1.  Cân  nặng  trung  bình,  chiều cao, chỉ số BMI phân bố theo độ tuổi, thời  gian, bao gồm sự thay đổi đáng kể toàn bộ chỉ số  BMI của các bé trai và bé gái, trung bình BMI có  sự thay đổi một cách đáng kể, ghi nhận được chỉ  số BMI năm 1997 lớn hơn năm 1992 là 2,1 kg/m2  (p=0,04). (Bảng 1)

1992 1997 % n % n Đặc tính Tuổi

20,2 19,4 21,4 18,71 20,2 6 7 8 9 10 370 355 392 342 369 20,2 19,4 21,4 18,71 20,2 370 355 392 342 369

Mối quan hệ giữa đặc tính nhân khẩu học  và dân số với chỉ số BMI

Giới

50,3 49,7 Nam Nữ 919 909

Phân  tích  dọc  xác  định  các  yếu  tố  tham  gia  vào sự thay đổi chỉ số BMI diễn ra từ năm 1992  đến năm 1997. Mô hình đánh giá nhóm tuổi, giới  tính,  vùng  cư  trú,  tình  trạng  kinh  tế  gia  đình,  trình độ học vấn của cha mẹ, số lượng các thành  viên  trong  gia  đình  theo  các  phân  nhóm  BMI  trong năm 1992.

83,3 16,7 Thành thị Nông thôn 50,3 919 909 49,7 Khu vực cư trú 1553 275 85 15 1522 306 Tình trạng kinh tế gia đình

22,9 20,2 Rất nghèo Nghèo 441 424 24,1 23,2 419 370

Phân tích đơn biến  Bảng 2: Sự khác biệt về trọng lượng trung bình, chiều cao và BMI theo giới tính, khu vực cư trú và tình trạng  kinh tế gia đình trong quần thể trẻ em Việt Nam 6‐10 tuổi từ 1992 – 1997.

Đặc tính

Cân nặng (M, SE†) 1997 Chiều cao (M, SE) 1997 1992 1992 1992 BMI (kg/m2) (M, SE) 1997 Sự khác biệt ‡ Sự khác biệt Sự khác biệt

509

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc tính

Cân nặng (M, SE†) 26,6 (,2) 30,0 (,3) 33,7 (,3) 38,0 (,4) 41,2 (,3) 33,5 (,3) 34,2 (,2) 10,6 (,2) 12,5 (,2) 14,4 (,2) 16,8 (,3) 18,2 (,2) 13,8 (,2) 15,1 (,2) BMI (kg/m2) Chiều cao (M, SE) (M, SE) 14,2 (,1) 15,1 (,1) 106,1 (,3) 132,7 (,4) 26,6 (,3) 14,0 (,1) 15,5 (,1) 111,4 (,3) 138,4 (,4) 27,0 (,3) 14,2 (,1) 16,4 (,1) 116,6 (,3) 143,0 (,4) 26,5 (,3) 14,3 (,1) 17,2 (,1) 121,4 (,4) 148,3 (,4) 26,9 (,4) 125,0 (,4) 151,3 (,4) 14,7 (,1) 17,9 (,1) 26,3(,3) 116,2 (,3) 142,7 (,4) 26,5 (,2) 14,5 (,03) 16,2 (,1) 115,9 (,3) 142,7 (,3) 26,8 (,2) 14,1 (,04) 16,6 (,1) 0,8 (,1) 1,5(,1) 2,2 (,1) 2,8 (,1) 3,2 (,1) 1,7 (,1) 2,5 (,1) 16,0 (,1) 17,5 (,1) 19,3 (,1) 21,2 (,2) 23,0 (,2) 19,6 (,1) 19,1 (,1)

6 Tuổi 7 8 9 10 Trẻ trai Giới Trẻ gái Khu vực cư trú Thành thị Nôngthôn 20,5(,2) 19,2(,1) 36,6(,5) 33,4(,2) 16,0(,3) 14,2(,1) 119,9(,6) 147,0(,6) 115,4(,2) 141,9(,3) 27,1(,3) 26,5(,1) 14,2(,07) 16,7(,1) 14,3(,03) 16,3(,1) 2,5(,1) 2,0(,04) Tình trạng kinh tế gia đình

†: M: trung bình; SE: độ lệch chuẩn.

‡: sự khác biệt giữa ước tính theo thời gian

Rất nghèo Nghèo Trung bình Giàu Rất giàu Tổng 18,5(,2) 19,2(,2) 19,3(,2) 19,8(,2) 20,7(,3) 19,4 (,1) 31,8(,3) 33,2(,4) 33,7(,4) 35,1(,5) 36,9(,5) 33,8(,2) 13,3(,2) 14,0(,2) 14,5(,3) 15,2(,3) 16,2(,3) 14,5(,1) 112,7(,4) 139,1(,5) 115,8(,4) 142,0(,5) 116,2(,4) 142,8(,5) 117,6(,5) 144,9(,6) 120,0(,6) 146,9(,6) 116,1(,2) 142,7(,2) 26,4(,3) 26,2(,2) 26,6(,3) 27,4(,3) 26,9(,3) 26,6(,1) 1,8(,1) 16,2(,1) 14,5(,1) 2,0(,1) 16,2(,1) 14,2(,1) 2,1(,1) 16,3(,1) 14,2(,1) 2,3(,1) 16,5(,1) 14,2(,1) 14,2(,1) 2,7(,1) 17,0(,1) 14,3(,03) 16,4(,05) 2,1(,04)

Phân tích đa biến †

Phân tích đơn biến Thô β SE§ p SE p

Hiệu chỉnh β 0,0 0,2 0,05 0,000 Trẻ trai Trẻ gái 0,0 0,04 0,07 0,58 Khu vực cư trú

Thành thị Nông thôn 0,13 0,11 0,25 0,04 0,08 0,66 0,0 0,0

Tình trạng kinh tế gia đình

0,1 0,31 0,1 0,6

Từ  năm  1992  đến  năm  1997,  chỉ  số  trung  bình  BMI  đã  tăng  lên  0,42  kg/m2(p  <  0.001),  nhưng sự thay đổi chỉ xảy ra trên hai nhóm và  chỉ thay đổi đáng kể trên các hộ gia đình giàu có  (β=0,27 kg/m2, p<0,049) (Bảng 3). So sánh chỉ số  BMI của trẻ em ở các hộ gia đình có trình độ học  vấn  thấp  với  các  trẻ  em  ở  các  gia  đình  có  trình  độ học vấn từ cấp hai trở lên thì có sự khác biệt  đáng kể về chỉ số BMI (β=‐0,16 kg/m2, p < 0,04).  Sau 5 năm, trẻ em từ 6‐10 tuổi ở nhóm cân nặng  bình  thường,  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa  cân  đã  có một sự thay đổi chỉ số trung bình BMI nhiều  hơn so với nhóm trẻ em suy dinh dưỡng (β=1,15  kg/m2,  p<0,001,và  β=3,81kg/m2,  p<0,001,  tương  ứng).

Rất nghèo Nghèo Trung bình Giàu Rất giàu

0,0 0,0 -0,02 0,07 0,82 -0,11 -0,06 0,03 0,08 0,65 0,02 0,11 0,85 0,02 0,09 0,81 0,27 0,14 0,049 0,34 0,10 0,001 Học vấn của chủ hộ 0,0 -0,16 0,08 0,04 -0,003 0,12 0,98 0,0 -0,12 0,06 0,03 -0,08 0,08 0,33

Tiểu học Cấp 2, cấp 3 Trung cấp nghề, cao đẳng Đại học

Phân tích đa biến  Bảng 3: Mối quan hệ giữa các yếu tố nhân khẩu học,  kinh tế gia đình với với chỉ số BMI trong quần thể trẻ  em Việt Nam 6‐10 tuổi, từ 1992‐1997.

Phân tích đa biến † -0,20 0,11 0,08 -0,01 0,08 0,9 ≤ 3 người 4 người ≥5 người 0,0 00 Phân tích đơn biến Thô β SE§ p SE p Hiệu chỉnh β Tuổi 0,000 Suy dinh dưỡng Bình thường 0,36 0,37 0,33 0,05 0,25 0,84 Kích cỡ hộ gia đình -0,20 0,17 0,24 -0,006 0,11 0,96 Phân nhóm BMI trong năm 1992 0,0 0,0 1,15 0,06 0,000 1,6 0,000 0,05 2 Giới 0,42 0,02 0,000 0,57 0,01 7 Nguy cơ thừa cân, 3,81 0,74 0,000 4,3 0,01 0,000

510

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Phân tích đa biến †

Phân tích đơn biến Thô β SE§ p SE p Hiệu chỉnh β

Sau khi đã hiệu chỉnh các biến khác, những  đứa trẻ không bị nhẹ cân trong năm 1992 thì sẽ  có khả năng không bị nhẹ cân trong 5 năm tới so  với  những  đứa  trẻ  bị  nhẹ  cân  khác  (OR  hiệu  chỉnh= 6,6, KTC 95%: 5,0‐8,6).

thừa cân †SE: độ lệch chuẩn

BÀN LUẬN

BMI và các nhóm BMI

Trong 5 năm (từ 1992 đến 1997), trung bình  BMI hiệu chỉnh của nhóm trẻ em từ 6‐10 tuổi đã  tăng  0,57kg/m2  (p<0,001).  Trung  bình  BMI  hiệu  chỉnh của các bé gái tăng 0,2kg/m2 so với các bé  trai (p<0,001). Trong năm 1997, các trẻ em ở các  gia đình giàu có thì có trung bình BMI cao hơn  các trẻ em sống trong các gia đình rất nghèo (β  hiệu chỉnh=0,34, p<0,001 ) sau khi đã hiệu chỉnh  các biến khác. Về cân nặng, trẻ em ở nhóm cân  nặng bình thường, có nguy cơ thừa cân và thừa  cân  thì  có  thay  đồi  trung  bình  BMI  cao  hơn  so  với  nhóm  trẻ  em  nhẹ  cân  sau  5  năm  (từ  năm  1992  đến  năm  1997)  (β  hiệu  chỉnh=  1,6kg/m2,  p<0,001.  β  hiệu  chỉnh=  4,3kg/m2,  p<0,001.  tương  ứng).

Nghiên cứu này cho thấy chỉ số BMI tăng lên  theo  nhóm  tuổi  và  trung  bình  BMI  giữa  các  nhóm  tuổi  tăng  0,42kg/m2  sau  5  năm.  Kết  quả  này phù hợp với kết quả nghiên cứu được tiến  hành  tại  Trung  Quốc(6).  Hai  nhà  nghiên  cứu  Trung Quốc là Luo và Hu đã phát hiện ra trẻ em  trong  độ  tuổi  2‐6  có  chỉ  số  BMI  tăng  0,2  kg/m2  mỗi năm ở vùng thành thị và 0,1 kg/m2 mỗi năm  ở  vùng  nông  thôn  từ  năm  1989  đến  năm  1998.  Điều quan trọng là cần lưu ý rằng các phát hiện  từ những nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc gia tăng  trong sự phân phối chỉ số BMI có thể liên quan  tới việc tăng tỷ lệ nguy cơ thừa cân và thừa cân  (1).

Mối  liên  quan  giữa  các  nhóm  BMI  trong  năm 1992 và trong năm 1997  Bảng 4: Mối quan hệ giữa chỉ số BMI trong hai năm  1992 và 1997 của trẻ em 6‐10 tuổi ở Việt Nam.

p Phân tích đơn biến KTC 95% ‡ Thô OR Phân tích đa biến † KTC 95%

Hơn nữa, các phát hiện từ phân tích đoàn hệ  trong nghiên cứu này cho thấy trẻ em Việt Nam  trong  nhóm  tuổi  6‐10  ở  nhóm  cân  nặng  bình  thường, có nguy cơ thừa cân và thừa cân có khả  năng chỉ số BMI cao hơn sau 5 năm so với nhóm  trẻ  cùng  độ  tuổi  bị  suy  dinh  dưỡng.  Điều  này  phù  hợp  với  những  phát  hiện  trước  đây  cho  rằng trẻ em trong nhóm có chỉ số BMI cao thì có  khả  năng  tiếp  tục  có  chỉ  số  BMI  cao  trong  khoảng thời gian sau đó (1).

p Hiệu chỉnh OR 1,0 1,0

16,1 1,8-

Gia tăng chiều cao, cân nặng và chỉ số BMI là  một đáp ứng chung của sự phát triển xã hội Việt  Nam trong thập kỷ qua, tuy nhiên gia tăng nguy  cơ thừa cân và thừa cân ở trẻ em khu vực thành  thị có thể là một đáp ứng đối với đời sống ít vận  động và không tiêu thụ hết năng lượng dư thừa.

§: (1) Không có nguy cơ thừa cân: suy dinh  dưỡng  và  cân  nặng  bình  thường  (2)  nguy  cơ  thừa cân và thừa cân.

§§:  (1)  suy  dinh  dưỡng  (2)  không  suy  dinh  dưỡng: cân nặng bình thường và có nguy cơ bị  thừa cân và thừa cân.

Trong  nghiên  cứu  này,  các  bé  gái  có  trung  bình BMI cao hơn các bé trai, phát hiện này đã  được  cân  nhắc  trong  một  nghiên  cứu  khác  tại  Châu  Á.  Điều  này  có  thể  có  liên  quan  đến  giai  đoạn dậy thì của các bé trai và các bé gái. Các bé  gái có xu hướng dậy thì sớm hơn so với các bé

142,7 0,01 18,4 2,9- 115,0 0,00 2 ,000 Mô hình 1§ Nhóm BMI Không có nguy cơ thừa cân Có nguy cơ thừa cân và thừa cân Mô hình 2§§ Nhóm BMI Suy dinh dưỡng Không thừa cân 1,0 3,1 2,4- 3,8 1,0 0,000 6,6 5,0- 8,6

511

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  trai  vì  vậy  chỉ  số  BMI  của  các  bé  gái  cũng  cao  hơn các bé trai trong gia đoạn này (8).

Trẻ em vùng nông thôn được cho rằng sẽ có  chỉ số BMI thấp hơn trẻ em vùng thành thị, tuy  nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  về  chỉ  số  BMI  giữa  trẻ  em  thành  thị  và  nông  thôn  trong  phân  tích  đoàn  hệ  của  nghiên  cứu  này.  Điều  này  gợi  ý  rằng  mức  độ  trẻ  em  tham  gia vào lao động nặng có sự  khác  biệt  giữa  hai  nhóm làm ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Bởi  vì, chỉ số BMI được đánh giá dựa trên sự kết hợp  giữa  lượng  mỡ  trên  cơ  thể  và  khả  năng  hoạt  động thể chất.

của  trẻ  em  nên  việc  sớm  cung  cấp  đầy  đủ  chất  dinh dưỡng cho trẻ em là rất quan trọng. Vì vậy,  một  chương  trình  y  tế  quốc  gia  kiểm  soát  suy  dinh  dưỡng  và  thừa  cân  ở  trẻ  em  6  tuổi  và  những  trẻ  lớn  hơn  nên  được  cung  cấp  cho  trẻ  em, các bậc cha mẹ và cho cả cộng đồng. Trẻ em  bị  suy  dinh  dưỡng  vẫn  là  một  vấn  đề  dinh  dưỡng quan trọng tại Việt Nam, đặc biệt là vùng  nông  thôn,  chênh  lệch  về  trình  độ  phát  triển  kinh tế xã hội giữa nông thôn và thành thị vẫn  còn  tồn  tại,  do  đó,  thông  tin  và  các  hoạt  động  can thiệp cần được thiết kế phù hợp với nhu cầu  của  các  đặc  điểm  kinh  tế  xã  hội  của  khu  vực  nông thôn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Flegal K, Troiano R (2000). Changes in the distribution of body  mass  index  of  adults  and  children  in  the  US  population.  Int  J  Obes Relat Metab Disord;24:807‐818.

2. General  Statistical  Office  of  Vietnam  (1993).  VietNam  Living

Standards Survey 1992–93. 1993.

3. General  Statistical  Office  of  Vietnam  (1999).  VietNam  Living

Standards Survey 1997–98. Hanoi Publisher 1999.

Phát  hiện  của  nghiên  cứu  này  cho  thấy,  trẻ  em có cha mẹ có trình độ học vấn dưới tiểu học  sẽ  tham  gia  lao  động  nhiều  hơn  các  trẻ  em  có  cha  mẹ  có  trình  độ  học  vấn  từ  trung  học  cơ  sở  trở  lên,  bởi  vì  những  đứa  trẻ  này  thường  sống  trong các gia đình nghèo hoặc sống ở vùng nông  thôn. Những trẻ em này thường có chiều cao và  cân nặng thấp hơn các nhóm trẻ em khác, vì vậy  chỉ số BMI của chúng cũng thấp hơn một chút so  với các nhóm tương ứng.

5.

4. Gillespie  S,  Haddad  LJ,  Allen  L  (2001).  Attacking  the  double  burden of malnutrition in Asia and the Pacific. Washington, DC:  International Food Policy Research Institute;   Jackson M, Samma M, Ashley D (2001). Nutritional status of 11– 12‐year‐old Jamaican children: coexistence of under‐ and over‐ nutrition in early adolescence. Pub Health Nutr;5(2):281‐288.  6. Luo  J,  Hu  FB  (2002).  Time  trends  of  obesity  in  pre‐school  1997.

from

in

to

children  1989  China  Int.J.Obes.Relat.Metab.Disord. 04;26(4):553‐558.

7. Must A, Jacques P, Dallal G, Bajema C,  Dietz  W  (1992).  Long‐ term  morbidity,  and  mortality  of  overweight  adolescents.  A  follow‐up of the Harvard Growth Study of 1922 to 1935. N Engl  J Med;327:1350‐1355.

8. Wang  Y  (2002).  Is  obesity  associated  with  early  sexual  maturation? A comparison of the association in American boys  versus girls. Pediatrics  11;110(5):903‐910.

Điểm mạnh của nghiên cứu này là dựa trên  VLSS để thực hiện trên cả hai mặt ngang và dọc  để  đánh  giá  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  trẻ  em  Việt  Nam.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  này  cũng  có  điểm  hạn  chế  là  không  thu  thập  được  đầy  đủ  thông về hoạt động thể chất cũng như các yếu tố  nguy cơ chính ảnh hưởng lên cân nặng. Do đó,  hoạt  động  thể  chất  là  một  yếu  tố  có  khả  năng  gây nhiễu lên chỉ số BMI trong phân tích này.

KẾT LUẬN

9. World Health Organization (1995). Physical status: the use and  interpretation  of  anthropometry.  Report  of  a  WHO  Expert  Committee.  World  Health  Organization  Tech  Rep  Ser  1995;854:1‐452.

Bởi  vì  tình  trạng  cân  nặng  trong  giai  đoạn  đầu có ảnh hưởng rất lớn đến cân nặng sau này

512

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH TRẠNG BMI CỦA TRẺ 11‐14 TUỔI Ở THÀNH THỊ VÀ   NÔNG THÔN VÀ CÁC YẾU TỐ XàHỘI LIÊN QUAN

Đặng Văn Chính*, Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Bùi Thị Kiều Anh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Thách thức mới đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam là tiếp tục giải quyết vấn đề

suy dinh dưỡng (SDD), trong khi phải ngăn chặn tỷ lệ thừa cân đang gia tăng khu vực thành thị.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tình trạng BMI của trẻ Việt Nam 11‐14

tuổi ở Biên Hòa tỉnh Đồng Nai và huyện Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh, sử dụng chuẩn tham khảo quốc tế.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Thu  thập  số  liệu  dựa  trên  phỏng  vấn  trực  tiếp:  tình  trạng  kinh  tế  xã  hội

(KTXH), hoạt động thể lực và nhân trắc học.

Kết  quả  nghiên  cứu:  Tỷ lệ hiện mắc SDD trung bình ở thành thị (11,9%) thấp hơn so với ở nông thôn  (17,9%). Tuổi, giới, vùng cư ngụ, tình trạng KTXH, hoạt động thể lực vừa và nặng là có ý nghĩa thống kê trong  việc dự đoán BMI trung bình sau khi hiệu chỉnh các biến số khác trong phân tích.

Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ hiện mắc nguy cơ thừa cân và thừa cân cao hơn ở thành thị, và tỷ  lệ SDD đáng chú ý ở trẻ 11‐14 tuổi vùng nông thôn, cả hai vấn đề trên là những vấn đề dinh dưỡng quan trọng  cần được quan tâm.

Từ khóa: BMI, trẻ em, Đồng Nai, Trà Vinh, suy dinh dưỡng, thừa cân.

ABSTRACT

BMI STATUS OF RURAL AND URBAN CHILDREN AGES 11 TO 14 YEARS OLD AND ITS SOCIAL  DETERMINANTS

Nguyen Thi Bich Ngoc*, Bui Thi Kieu Anh*, Dang Van Chinh*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 514 ‐ 520

Background:  The  new  challenge  for  developing  countries  like  Vietnam  is  to  continue  to  address  the

underweight problem, while tackling the rising prevalence of overweight in urban areas.

Objectives: To determine the prevalence and determinants of BMI among Vietnamese children ages 11 to  14 years in Bien Hoa city in Dong Nai and Cau Ngang district in Tra Vinh province, using an international  reference standard.

Method: This investigation was based on direct interviews that included a socioeconomic, physical activity

and body anthropometry was measured.

Results: The mean prevalence of underweight was less in urban (11.9%) than in rural areas (17.9%). Age,  gender,  area  of  residence,  SES,  and  moderate  and  vigorous  physical  activity  were  statistically  significant  in  predictors of mean BMI after adjusting the other covariates in analysis.

Conclusion: This study indicates a higher prevalence of at risk of overweight and overweight in urban areas,  and the notable prevalence of underweight among children who are 11‐14 years old in rural areas, both of which  are important nutritional problems that need to be addressed.

Key words: BMI, children, Dong Nai, Tra Vinh, underweight, overweight.

∗ Viện Vệ sinh Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

513

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐẶT VẤN ĐỀ

4%, cỡ mẫu tính được là 400. Cỡ mẫu được hiệu  chỉnh bằng kỹ thuật chọn mẫu cụm với hiệu ứng  thiết kế 1.6; do vậy cỡ mẫu là 800 trẻ. Tổng cộng  có 1600 trẻ tham gia nghiên cứu ở 2 khu vực.

Cơ cấu lấy mẫu

Tiến  hành  chọn  mẫu  cụm  từ  danh  sách  các  trường tiểu học ở thành phố Biên Hòa và huyện  Cầu  Ngang  trong  niên  học  2009‐2010.  Kết  quả  1600  trẻ  từ  8  đến  10  tuổi  được  chọn  mẫu  ngẫu  nhiên.

Suy dinh dưỡng trẻ em vẫn còn là một vấn  đề lớn ở các quốc gia đang phát triển, nơi nghèo  đói vẫn còn ảnh hưởng lớn(1). Tại Việt Nam, mặc  dù đã thực hiện nhiều nỗ lực nhằm cải thiện sức  khỏe  nhưng  suy  dinh  dưỡng  ở  trẻ  dưới  5  tuổi  vẫn  còn  cao.  Những  trẻ  suy  dinh  dưỡng  này  không phân bố đồng đều khắp cả nước, đặt biệt  ở vùng nông thôn; trong khi đó béo phì ở trẻ là  vấn  đề  đang  ngày  càng  được  quan  tâm  ở  khu  vực thành thị (2).

Tiêu chí đưa vào và loại trừ

Tất cả học sinh có thể được chọn nếu có mặt  tại trường vào ngày điều tra. 3 nhóm tuổi được  chọn bởi vì những trẻ từ 11 tuổi trở lên trả lời các  câu hỏi hoạt động thể lực có tính tin  cậy  nhiều  hơn. Những học sinh hoặc phụ huynh học sinh  từ chối tham gia vào cuộc điều tra sẽ được loại  trừ.  Những  học  sinh  ở  lại  lớp,  vắng  mặt  hoặc  học nhảy lớp sẽ bị loại trừ.

KẾT QUẢ

Một  số  các  nghiên  cứu  đánh  giá  tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng  và  thừa  cân  ở  trẻ  dưới  5  tuổi  và  người  lớn  đã  được  thực  hiện  trong  khi  chỉ  có  một số ít các nghiên cứu về tình trạng cân nặng  ở trẻ Việt Nam ở lứa tuổi từ 6 tuổi trở lên(3). Do  đó, nghiên cứu phạm vi và các yếu tố quyết định  đến vấn đề suy dinh dưỡng và thừa cân ở trẻ em  từ 6 tuổi trở lên ở thành thị và nông thôn là cần  thiết. Mục đích của nghiên cứu là xác định tỷ lệ  và các yếu tố quyết định đến tình trạng BMI của  trẻ  em  Việt  Nam  từ  11  đến  14  tuổi  ở  Biên  Hòa  tỉnh Đồng Nai (ĐN) và  huyện  Cầu  Ngang  tỉnh  Trà Vinh, sử dụng chuẩn tham khảo quốc tế(1,3).

Vùng nông thôn Trà Vinh Đặc điểm

Mục tiêu

Mục tiêu 1: Ước tính tỷ lệ suy dinh dưỡng và  nguy cơ thừa cân ở trẻ 11 đến 14 tuổi tại thành  phố Biên Hòa và huyện Cầu Ngang.

Bảng 1: Đặc tính mẫu của trẻ em Việt Nam 11‐14  tuổi ở Tp. Biên Hòa và Trà Vinh.  Vùng thành thị Đồng Nai % 24,8 25,1 25,1 25,0 44,4 55,6

Mục tiêu 2: Xác định các yếu tố xã hội quyết  định (tình trạng KTXH, hoạt động thể lực, trình  độ học vấn) liên quan đến BMI ở trẻ 11 đến 14  tuổi  tại  thành  phố  Biên  Hòa  và  huyện  Cầu  Ngang.

Tuổi (năm) 11 12 13 14 Giới tính Nam Nữ n 198 201 201 200 355 445 n 198 200 206 196 322 478 % 24,8 25,0 25,7 24,5 40,3 59,7 Tình trạng kinh tế xã hội

PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế nghiên cứu

Sử dụng 2 nghiên cứu cắt ngang.

Nghèo Trung bình Giàu Dân tộc Kinh Khmer 85 379 336 800 0 10,6 47,4 42,0 100,0 0 485 268 47 497 303 60,6 33,5 5,9 62,1 37,9

Cỡ mẫu nghiên cứu

Sử  dụng  công  thức  chọn  mẫu  ngẫu  nhiên

đơn: S = Z1‐α/2 p* (1‐p)/ d2

Trình độ học vấn của cha

406 320 50,8 40,0 612 164 76,5 20,5

Áp  dụng  công  thức  trên  với  p=  0,3  –  tỉ  lệ  phần  trăm  trẻ  nhẹ  cân  tại  Trà  Vinh  được  ước  tính  khoảng  30%;  α  =  0,05,  d:  giá  trị  tuyệt  đối=

74 9,2 24 3,0 ≤ cấp 2 Cấp 3 Trung học trở lên Trình độ học vấn của mẹ

514

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

(M, SE+) (M, SE) Vùng nông thôn Trà Vinh Đặc điểm

17,9 (0,3) 16,1 (0,2) 11 37,7 (0,7) 32,2 (0,4) 5,5 (0,8)** (M, SE) Tuổi (năm) 140,7 144,5 (0,5) (0,5) 3,8 (0,7) ** Vùng thành thị Đồng Nai % 61,0 32,8 n 488 262 n 711 82 % 88,9 10,2

50 6,2 7 0,9 18,4 (0,2) 16,9 (0,1) 150,7 (0,5) 146,5( 0,5) 12 42,2 (0,7) 36,5 (0,4) ≤ cấp 2 Cấp 3 Trung học trở lên Nghề nghiệp của cha

18,9 (0,3) 17,5 (0,2) 154,3 (0,5) 150,6 (0,5) 13 45,2 (0,7) 39,9 (0,5) 69 55 6,9 8,6

18,9 (0,2) 18,2 (0,2) 1,7 (0,3) ** 1,6 (0,3) ** 1,4 (0,3) ** 0,7 (0,3)* 157,4 (0,5) 155,2 (0,5) 14 46,9 (0,6) 44,1 (0,5) 4,2 (0,7) ** 3,7 (0,7) ** 2,2 (0,7) * 5,7 (0,8) ** 5,3 (0,9) ** 2,9 (0,8) ** 11 23 41 118 369 124 14,8 46,1 15,5 1,4 2,9 5,1 Giới 91 78 9,8 11,4

18,7 (0,2) 16,9 (0,1) 153,7 (0,6) 149,5 (0,6) Nam 44,7 (0,6) 38,2 (0,5) Làm việc nhà nước Kinh doanh Công nhân Bán hàng Làm nông có lương Nông dân Tự làm chủ 1,9 5,1 543 22 67,9 2,7 15 41 Nghề nghiệp của mẹ 18,4 (0,1) 17,4 (0,1) 150,2 (0,3) 147,4 (0,3) Nữ 41,7 (0,4) 38,1 (0,3) 1,8 (0,2) ** 1,0 (0,2) ** 4,2 (0,8) ** 2,8 (0,5) ** 6,5 (0,8) ** 3,6 (0,5 )** 24 32 4,0 3,0 Tình trạng KTXH

5 15 129 41 226 167 5,1 28,2 20,9 0,6 1,9 16,2

69 11 1,4 8,6

17,5 (0,3) 18,2 (0,2) 19,2 (0,2) 17,0 (0,1) 17,5 (0,2) 17,6 (0,4) 0,5 (0,3)* 0,6 (0,2)* 1,6 (0,5)* 38,4 Nghè (0,8) o 41,6 Trung bình (0,5) Giàu 45,7 (0,6) 37,0 (0,3) 39,9 (0,5) 39,6 (1,2) 1,3 (0,9) 1,7 (0,7) 6,2 (1,6)** 147,7 (0,9) 150,9 (0,4) 153,8 (0,5) 147,1 (0,4) 150,3 (0,5) 149,3 (1,4)

+:  M:  Trung  bình;  SE:  Sai  số  chuẩn;  ‡:Ước  lượng  về  sự  khác  nhau  giữa  ĐN  và  TV;  *:  p  <0,05, **p <0,001 (t‐test)

Tỷ lệ trẻ em gái nhiều hơn các trẻ em trai, tỷ  lệ trẻ em sống trong các gia đình giàu có ở Đồng  Nai cao hơn so với Trà Vinh. Có sự tương phản  về  trình  độ  giáo  dục  của  cha  mẹ  giữa  vùng  thành  thị  và  nông  thôn.  32,8%  cha  mẹ  ở  thành  thị học đến  trung  học  so  với  các  bà  mẹ  ở  vùng  nông thôn (10,2%) và cha (20,5%). Nghề nghiệp  chính  của  cha  mẹ  ở  nông  thôn  là  nông  dân,  trong  khi  nông  dân  chiếm  tỷ  lệ  rất  nhỏ  ở  khu  vực thành thị (bảng 1).

Bảng 2 cho thấy có sự khác biệt về cân nặng  trung bình, chiều cao và chỉ số BMI của trẻ em ở  độ tuổi 11‐14 giữa trẻ em thành thị và nông thôn  theo giới tính, tuổi tác và tình trạng kinh tế gia  đình. Trẻ em thành thị nặng (4,8 kg) và cao hơn  trẻ em ở nông thôn ở cả hai giới và trong nhóm  gia đình giàu (3,5 cm). Ngoài ra, giữa các trẻ em  thành thị chỉ số BMI cũng lớn hơn (1,3 kg/m2).

Làm việc nhà nước Kinh doanh Công nhân Bán hàng Làm nông có lương Nông dân Tự làm chủ Tổng 445 113 800 3 320 800 0,4 40,0 100,0 55,6 14,1 100,0 18,5 (0,1) 17,1 (0,1) 151,7 (0,3) 148,2 (0,3) Tổng 42,9 (0,3) 38,1 (0,2) 1,3 (0,1) ** 0,7 (1,0) 0,6 (0,7) 4,5 (1,4) * 3,5 (0,4) ** 4,8 (0,4) **

Bảng 2: Sự khác nhau về trung bình chiều cao, cân  nặng và BMI ở TPHCM và Tiền Giang lứa tuổi 11‐ 14 theo giới tính và KTXH.

Khu vực

Bảng 3: Tần suất sử dụng thức ăn của trẻ em 11‐14  tuổi ở mỗi tỉnh.

Thành thị Nông thôn Thàn h thị Nông thôn

N =800

Khu vực Nôn Thàn g h thị thôn Trà Vinh Đồn gNai Đồn g Nai Trà Vinh Đặc tính Khu vực Thà Nôn nh g thị thôn Đồn Trà g Vinh Nai Đồng Nai (mỗi tuần) Trà Vinh (mỗi tuần) ≤1 1-3 % % 1-3 % ≥4 %

Khác biệt ‡ Cânnặng (kg) Khác biệt‡ Chiều cao(cm) BMI (kg/cm2) ≤1 % 30,4 0 ≥4 % 7,1 89,4 15,6 54,0 89,1 10,9 46,7 46,3 0 10,6 Thịt Gia cầm Thịt lợn Khá c biệt‡

515

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Thịt bò Nam

Nữ 16,7 (3,1) 10,3 (2,9) 69,0 (3,5) 85,3 (2,5) 22,1 (4,2) 8,2 (2,1) 75,6 (4,5) 88,2 (3,2) 2,3 (1,4) 3,6 (1,7) 17,6 58,3 Cá và hải sản 29,1 48,3 27,9 56,6 53,0 20,8 24,1 22,6 15,5 26,2 1,2 57,0 16,7 14,5 28,9 69,9 37,0 6,0 56,8 26,5 26,4 59,1

47,1 24,1 28,8 48,9 35,5 15,6 Nam Trứng Sữa và các phẩm từ sữa Bánh ngọt và kẹo

Nữ 15,2 (3,6) 9,2 (0,7) 65,6 (2,8) 80,9 (1,7) 25,8 (3,5) 12,5 (1,7) 71,1 (4,0) 83,9 (2,2) 3,1 (1,2) 3,6 (1,3) 14,3 (2,2) 4,3 (2,4) Giới tính 19,1 (3,0) 9,9 (2,2) Dân tộc Nước giải khát 44,2 29,8 Các loại đậu 18,9 34,5 90,5 7,1 87,4 10,2 Rau củ Trái cây 26,0 46,6 2,4 2,4 45,0 13,2 77,9 50,0 35,9 19,1 37,3 49,5 19,6 2,5 39,8 10,2 Kinh - - -

Khmer - - - 20,5 (2,2) 13,5 (1,9) 75,2 (2,1) 84,4 (1,1) 4,2 (1,0) 2,0 (1,4)

≤ Cấp 2

Cấp 3

Tần số tiêu thụ thịt ≥ 4 lần trong một tuần ở  thành thị cao hơn khu vực nông thôn, đặc biệt là  thịt bò (17,6% so với 1,2%) và thịt gia cầm (15,6%  so với 7,1%). Tuy nhiên, trẻ em ở khu vực nông  thôn  lại  tiêu  thụ  nhiều  cá  và  các  loại  hải  sản  nhiều  hơn  trẻ  em  ở  thành  thị  (57,0%  so  với  29,1%). Nhìn chung, trẻ em ở cả hai khu vực đều  sử dụng rau và thịt lợn trong các bữa ăn nhiều  hơn các loại thực phẩm khác (bảng 3).

Cao đẳng và Đại học 14,0 (2,2) 10,3 (2,5) 6,7 (4,0) 74,1 (1,6) 75,3 (3,6) 68,9 (5,3) 18,0 (2,6) 17,1 (1,6) 20,8 (3,2) 78,9 (3,1) 78,6 (1,3) 75,0 (5,9) 3,1 (1,2) 4,3 (1,6) 4,2 (4,4)

≤ Cấp 2

Cấp 3

Bảng 4: Tỷ lệ thiếu cân, cân nặng trung bình, nguy  cơ thừa cân và thừa cân của trẻ em 11‐14 tuổi ở khu  vực thành thị và nông thôn theo giới tính, SES và  trình độ học vấn của cha mẹ.

Cao đẳng và Đại học 13,3 (1,9) 10,3 (1,3) 6,0 (3,7) 76,4 (1,2) 69,8 (3,2) 74,0 (5,2) 18,1 (2,3) 15,9 (3,6) 14,3 (13,3) 79,0 (2,7) 76,8 (5,5) 71,4 (14,1) 2,8 (1,1) 7,3 (3,7) 14,3 (13,3)

Nghèo Thiếu cân Thiều cân Đặc điểm Nguy cơ thừa cân và thừa cân Nguy cơ thừa cân và thừa cân Nông thôn Trà Vinh Cân nặng bình thườ ng %, SE %, SE Giàu Thành thị Đồng nai Cân nặng bình thườ ng %, SE %, SE %, SE %, SE+

Tổng 16,5 (2,8) Trung bình 14,5 (3,1) 7,7 (1,1) 11,9 (1,8) Học vấn của cha 11,8 (1,3) 14,4 (3,0) 24,3 (6,6) Học vấn của mẹ 10,2 (1,9) 19,8 (2,6) 20,0 (5,6) Kinh tế gia đình 5,9 (3,4) 11,6 (3,4) 18,8 (2,0) 14,0 (2,4) 77,6 (3,6) 73,9 (3,8) 73,5 (2,5) 74,1 (1,9) 19,4 (2,9) 14,2 (1,4) 23,4 (7,8) 17,9 (2,2) 78,4 (3,2) 81,0 (1,6) 70,2 (7,4) 78, 8(2,5) 2,3 (0,7) 4,9 (1,7) 6,4 (2,5) 3,4 (1,0) 11 Nam

Nữ

Ở  khu  vực  thành  thị,  tỷ  lệ  thiếu  cân,  trọng  lượng bình thường và nguy cơ thừa cân và thừa  cân của trẻ em 11‐14 tuổi là 11,9%, 74,1%, 14,0%  tương ứng ở khu vực nông thôn là: 17,9%, 78,8%  và 3,4% (bảng 4).

12 Nam

Nữ

Bảng 5: Mối liên quan hồi quy tuyến tính của phân  loại BMI và các yếu tố nhân khẩu học, kinh tế ‐ xã hội  ở trẻ em Việt Nam trong độ tuổi 11‐14.

13 Nam

Nữ Đặc tính

Phân tích đơn biến Muphân tích đa biến † Nhẹ cân Nguy cơ Nhẹ cân Nguy cơ thừa cân thừa cân và thừa và thừa cân cân 16,3 (3,6) 12,3 (2,8) 10,6 (3,9) 5,2 (2,5) 17,0 (6,1) 9,3 (3,9) 58,7 (3,9) 74,5 (6,0) 69,4 (1,6) 84,5 (1,8) 65,9 (6,5) 78,5 (2,7) Tuỗi 25,0 (4,9) 13,2 (4,1) 20,0 (5,1) 10,3 (1,9) 17,0 (4,1) 12,1 (1,9) 14 29,4 (8,6) 20,0 (3,8) 25,3 (7,3) 9,4 (3,1) 27,1 (5,3) 11,6 (3,2) 67,6 (8,7) 73,1 (4,0) 72,3 (6,9) 88,0 (3,2) 68,2 (6,6) 87,6 (3,9) 2,9 (1,6) 6,9 (2,1) 2,4 (1,7) 2,6 (1,0) 4,7 (2,1) 0,8 (0,8) ORth P OR thô P OR P OR P

516

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

0,60 0,78 0,87(0, (95%CI ) 0, 80 0,90(0,2 4, 3,39) 0,8 6 Làm nông có lương ô (95% CI) hiệu chỉnh (95%CI) 0,43 25, 3,00) 0,59 0,61(0, 0, 09 1,09(0,4 3, 2,78) 0,8 3 Nông dân 0,00 0,4 1 0, 00 0,16 35, 1,09) 0,04 0,11(0, 0, 09 1,41(0,7 2, 2,78) 0,2 7 Tự làm chủ 0,77(0 ,26, 2,32) 0,74(0 ,32, 1,70) 0,16(0 ,01, 2,48) 01, 1,57) 0,85(0 ,23, 3,16) 1,22(0 ,53, 2,80) 1,63(1 ,02, 2,59)

0,00 Giới Nam Nữ Nghề nghiệp của mẹ 1,0 1,0 1,0 1,0 0,0 1 0, 00 Làm việc nhà nước hiệu chỉnh (95% CI) 0,71 (0,62, 0,82) 1,0 0,47 (0,37, 0,61) 0,95 (0,84, 1,08) 1,0 0,48 (0,33, 0,70) 0,34 0,77 (0,70, 0,85) 1,0 0,01 0,43 (0,35, 0,55) Tuổi (năm) 0,93 (0,80, 1,09) 1,0 0,47 (0,32, 0,70) 0,54 0,21 0,55(0, Khu vực cư trú 0, 16 1,10(0,3 2,3,74) 0,8 6 Kinh doanh 0,32 0,1 5 0, 01 0,22 23, 1,34) 0,07 0,08(0, 0, 01 1,07(0,3 4, 3,39) 0,9 0 Công nhân

†  Điều  chỉnh  theo  các  biến  số  được  liệt  kê;  phân  loại  BMI:  Thiếu  cân,  cân  nặng  bình  thường, and nguy cơ thừa cân và thừa cân.

0,12 Dân tộc 0,83 02, 0,31) 0,08 0,30(0, 0,0 6 0, 03 0, 06 1,47(0,4 1, 5,33) 0,5 1 Bán hàng 1,65 (0,56, 4,86) 1,0 0,34 (0,08, 1,44) 0,77 (0,53, 1,12) 1,0 0,62 (0,37, 1,03) 0,16 4,41 (1,88, 10,34) 1,0 0,63 0,14 (0,03, 0,73) Thành thị 0,71 (0,42, 1,18) Nông thôn 1,0 0,90 (0,56, 1,45) 0,81 08, 1,09) 0,93 1,01(0, 0, 99 0,95(0,0 9, 9,91) 0,9 6 Nghèo Tình trạng kinh tế Làm nông có lương 0,32 0,93 0, 11 0,5 2 0, 41 1,27(0,2 6, 6,20) 0,7 4 Nông dân 32, 3,15) 0,28 0,74(0, 33,1,66 ) Giàu 0,03 0,53 0, 01 0,0 1 0, 22 1,61(0,3 4, 7,55) 0,5 0 Tự làm chủ 1,0 Trung bình 0,82 (0,44, 1,55) 0,49 (0,28, 0,83) 1,0 0,50 2,99 (0,75, 11,93) 0,02 5,33 (2,43, 11,70) 1,0 1,88 (0,48, 7,32) 2,70 (1,13, 6,48) 0,74(0 ,25, 2,18) 0,37(0 ,07, 2,10) 1,14(0 ,29, 4,54) 0,80(0 ,10, 6,33) 1,04(0 ,36, 3,03) 0,77(0 ,31, 1,95) 0,10 0,66(0, 32,1,35 ) 1,65(0 ,70, 3,88) 2,39(0 ,90, 6,36) 2,42(0 ,85, 6,89) 1,08(0 ,16, 7,34) 1,82(0 ,56, 5,88) 1,26(0 ,82, 6,25) 1,0 0,84 (0,47, 1,51) 0,50 (0,36, 0,69) Trình độ học vấn của cha ≤ cấp 2 0,54 0,13 Tối thiểu (giờ/ tuần) 0,94(0,9 0, 0,99) 0, 71 0,0 2 0, 11 0,3 9 1,01(0 ,98, 1,04) Cấp 3 0,07 0,77 0, 06 0,5 6 0, 01 0,8 6 Vừa và mạnh mẽ (giờ/ tuần) Hoạt động thể chất 0,02 0,99 (0,95, 1,04) 0,83 1,06 (1,00, 1,35) 0,97 (0,86, 1,09) 0,92 (0,87, 0,98) 0,99 (0,90, 1,09) 1,06 (1,00, 1,04) Trung học trở lên 1,0 0,73 (0,38, 1,41) 0,57 (0,20, 1,61) 1,0 0,31 1,42 (0,91, 2,20) 0,25 2,67 (1,45, 4,94) 1,0 0,77 (0,40, 1,49) 0,89 (0,23,3, 50) 1,0 0,65 (0,36, 1,18) 0,89 (0,38, 2,08) Trình độ học vấn của mẹ ≤ cấp 2 1,0 0,01 0,17 2,56(1, 0, 00 1,0 0,88(0,6 5, 1,20) 0,3 8 Cấp 3

Phân tích đơn biến

0,18 90, 3,44) 0,18 1,56(1,

Thiếu cân

0, 01 0,52(0,1 3, 2,01) 0,3 0 Trung học trở lên 1,0 1,67(1 ,23, 2,28) 0,51(0 ,77, 2,90) 56, 4,21) 1,0 0,80(0 ,57, 1,12) 0,45(0 ,13, 1,56)

Nghề nghiệp của cha 1,0 1,0 1,0 1,0 Làm việc nhà nước 0,08 0,58 0,59(0, 0, 06 1,08(0,3 6, 3,25) 0,8 7 Kinh doanh

0,01 34, 1,03) 0,26 0,12(0, 0, 01 1,06(0,3 8, 2,97) 0,9 1 Công nhân

Giới  tính,  tình  trạng  kinh  tế  gia  đình,  nghề  nghiệp của cha và hoạt động thể chất là các yếu  tố xã hội quyết định tới tình trạng thiếu cân ở trẻ  em.  Các  trẻ  em  gái  ít  có  khả  năng  bị  thiếu  cân  hơn các trẻ em trai là 53%(OR = 0,47; KTC 95%:  0,32‐0,70) (Bảng 8). Trẻ em có cha thất nghiệp thì  có tỷ lệ thiếu cân cao hơn các trẻ em có cha làm  quan  chức  nhà  nước  (OR=1,63;  KTC  95%:  1,02‐ 2,59). Trẻ em có hoạt động thể chất tối thiểu mỗi

0,04 04, 0,36) 0,35 0,22(0, 0, 01 0,85(0,4 8, 1,49) 0,5 2 Bán hàng 0,58(0 ,31, 1,08) 0,23(0 ,09, 0,57) 0,30(0 ,10, 0,90) 08, 0,60) 1,28(0 ,48, 3,40) 1,63(0 ,64, 4,11) 1,20(0 ,78, 1,84)

517

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Bàn luận

Nghiên cứu Y học  tuần thì 8% ít có khả năng bị thiêu cân (OR=0,92;  KTC 95%: 0,87, 0,98).

Phân tích đa biến

Thiếu cân

Tỷ lệ thiếu cân ở trẻ em 11‐14 tuổi rất cao ở  khu  vực  nông  thôn  và  vẫn  còn  đáng  kể  trong  khu  vực  thành  thị.  Tỷ  lệ  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa cân cao trong cả hai khu vực thành thị và  nông thôn, đặc biệt là đối với các trẻ em trai. Cả  hai yếu tố thiếu cân và nguy cơ thừa cân và thừa  cân ở trẻ em đều cho thấy vấn để y tế công cộng  tại  Việt  Nam,  giống  như  các  nước  đang  trong  thời kì quá độ trên thế giới.

Tỷ  lệ  trẻ  em  thiếu  cân  ở  độ  tuổi  11‐14  vẫn  còn  cao  ở  các  vùng  nông  thôn  cũng  như  trong  khu vực đô thị có thể được giải thích một phẩn  do các chương trình dinh dưỡng quốc gia chưa  chú  trọng  các  vấn  đề  dinh  dưỡng  trong  từng  nhóm tuổi.

Các trẻ em gái (OR thô =0,48; KTC 95%: 0,33‐ 0,70) ít có khả năng bị thiếu cân hơn các trẻ em  trai  là  55%  (Bảng  8).  Trẻ  em  sống  trong  các  hộ  gia đình giàu thì 50% ít có khả năng bị thiếu cân  (OR  điều  chỉnh  =0,50;  KTC  95%:  0,36‐0,69).  Trẻ  em có hoạt động thể chất tối thiểu mỗi tuần thì  8%  ít  có  khả  năng  bị  thiếu  cân  (OR=0,92;  KTC  95%: 0,90, 0,99). Tuy nhiên, tuổi, khu vực cư trú,  nhóm dân tộc thiểu số Khmer, học vấn của cha  mẹ và nghề nghiệp của cha mẹ chưa tìm thấy có  mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng  thiếu cân ở trẻ em.

Nguy cơ thừa cân và thừa cân

Những trẻ em lớn thêm 1 tuổi thì khả năng  bị nguy cơ thừa cân và thừa cân giảm 29% (OR  hiệu  chỉnh=0,71,KTC  95%:  0,62‐0,82)  (Bảng  8).  Các trẻ em gái thì có nguy cơ thừa cân và thừa  cân  ít  hơn  các  trẻ  em  trai  53%  (OR  hiệu  chỉnh=  0,47;  KTC  95%:  0,37‐0,61).  Trẻ  em  trong  các  hộ  gia đình giàu có khả năng thừa cân và thừa cân  gấp  3  lần  các  trẻ  em  trong  hộ  gia  đình  nghèo  (OR hiệu chỉnh=2,70; KTC 95%: 1,13‐6,48).

Mối  liên  quan  giữa  tình  trạng  kinh  tế  gia  đình và dinh dưỡng của trẻ em đã được nghiên  cứu  trên  nhiều  quốc  gia  và  kết  quả  cho  thấy  rằng, phát triển kinh tế xã hội đã cải thiện chỉ số  BMI của trẻ em. Nghiên cứu của  chúng  tôi  cho  thấy có mối liên quan quan trọng giữa tình trạng  dinh dưỡng và tình trạng kinh tế gia đình. Việc  gia tăng nguy cơ thừa cân và thừa cân trong số  những trẻ em sống tại khu vực đô thị có thể là  một phản ứng với các đặ tính của cuộc sống, khả  năng cung cấp thực phẩm, khẳ năng tiếp cận và  khả năng giảm tiêu thụ.

Những  trẻ  em  có  mẹ  có  học  vấn  cao  thì  có  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa  cân  1,67  (adjusted  OR=1,67; KTC 95%: 1,23, 2,28) so với các trẻ em  có mẹ học tiểu học hoặc trung học.

Những trẻ em có cha làm công nhân thì ít có  khả năng bị nguy cơ thừa cân và thừa cân hơn  những trẻ em có cha làm quan chức nhà nước là  77% (OR = 0,23, KTC 95%: 0,09‐0,57).

Kết  quả  từ  việc  phân  tích  số  liệu  tổng  hợp  cho  thấy  bốn  yếu  tố  có  thể  dự  đoán  trước  tình  trạng thiếu cân, bao gồm: giới tính, tuổi tác, tình  trạng  kinh  tế  gia  đình  và  hoạt  động  thể  chất.  Nếu  là  nữ,  càng  lớn  tuổi,  gia  đình  giàu  có  và  hoạt động thể lực thường xuyên thì ít có nguy cơ  bị thiếu cân.

Khu  vực  cư  trú,  nhóm  dân  tộc  thiểu  số  Khmer, tình trạng kinh tế gia đình, học vấn của  cha, nghề nghiệp của cha mẹ, hoạt động thể chất  là những yếu tố chưa tìm thấy mối liên quan có  ý nghĩa thống kê với nguy cơ thừa cân và thừa  cân của trẻ em (bảng 5).

Kết quả cũng cho thấy năm yếu tố có thể dự  đoán  trước  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa  cân,  bao  gồm: giới tính, tuồi, tình trạng kinh tế gia đình,  học vấn của cha mẹ và nghề nghiệp của cha mẹ.  Các  trẻ  em  ở  gia  đình  nghèo  thì  có  nguy  cơ  bị  thiếu cân cao hơn các trẻ em sống trong các gia  đình  giàu  có.  Sự  khác  biệt  này  có  thể  do  khẩu  phần ăn hàng ngày khác nhau ở các trẻ em này.  Trẻ em trong các gia đình giàu sẽ tiêu thụ nhiều

518

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  thực phẩm dinh dưỡng, dẫn đến ít có khả năng  bị  thiếu  cân  và  có  nhiều  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa cân.

Nghiên cứu này tiến hành dựa trên việc lấy  mẫu xác suất với cỡ mẫu lớn từ hai quần thể. Vì  vậy, nghiên cứu cũng dựa trên tính đại diện chỉ  số BMI ở trẻ em trong các khu vực này. Kết quả  cho thấy có sự khác biệt đáng kể tình trạng dinh  dưỡng  của  trẻ  em  giữa  khu  vực  thành  thị  và  nông thôn, đặc biệt của những trẻ em thiếu cân  và thừa cân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Gillespie S, Haddad LJ, Allen L(2001). Attacking the double burden  of malnutrition in Asia and the Pacific.  International  Food  Policy  Research Institute: Washington, D.C

2. Malina RM, Peña RME, Little BB (2008). Secular change in the  growth status of urban and rural schoolchildren aged 6‐13 years  in Oaxaca, southern Mexico. Ann Hum Biol; 35(5):475‐89.  3. Neovius  M,  Linné  Y,  Barkeling  B,  Rössner  S

(2004).  Discrepancies  between  classification  systems  of  childhood  obesity. Obes Rev; 5: 105‐114

Nguy cơ thiếu cân và thừa cân ở các trẻ em  trai thì cao hơn các trẻ em gái, cho thấy một sự  khác biệt về giới trong việc chi phí năng lượng.  Lý do chưa rõ rang nhưng điều này có thể giải  thích một phần do các trẻ em trai trong gia đình  nghèo  ít  có  khả  năng  được  cung  cấp  đủ  thực  phẩm hơn dẫn đến bị thiếu cân. Ngoài ra, có thể  họ  còn  phải  lao  động  thể  lực  nhiều  hơn,  tham  gia  vào  các  công  việc  ngoài  trời  phải  tiêu  hao  nhiều  năng  lượng  hơn.  Các  trẻ  em  trai  sống  trong  các  gia  đình  giàu  có  sẽ  được  cung  cấp  lương  thực  đầy  đủ  hơn,  nhưng  các  trẻ  em  trai  này lại ít vận động có thể dẫn đến nguy cơ thừa  cân và thừa cân.

519

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ PHÒNG BỆNH   ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI DÂN TỪ 35 TUỔI TRỞ LÊN   TẠI HÒA BÌNH‐XUYÊN MỘC‐BÀ RỊA VŨNG TÀU NĂM 2011

Hoàng Thị Bích Yến*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Đặng Văn Chính*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh trong đó có đái tháo đường (ĐTĐ). Các yếu tố liên

quan đến bệnh không lây trong đó có bệnh ĐTĐ là lối sống, thói quen ăn uống, vận động.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ về kiến thức, thái độ, thực hành và các yếu tố có liên quan về phòng

bệnh ĐTĐ týp 2 của người dân từ 35 tuổi trở lên tại Hoà Bình ‐ Xuyên Mộc – BRVT.

Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả dựa trên phỏng vấn trực tiếp 530 người.

Kết quả: Tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành tốt về phòng bệnh ĐTĐ là 21%, 25%, 16%. Có  mối liên quan giữa kiến thức, thái độ về phòng bệnh với học vấn, giữa kiến thức, thái độ, thực hành với nghề  nghiệp, và giữa thực hành về phòng bệnh với nhóm tuổi, giới.

Kết luận: Tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành tốt về phòng bệnh ĐTĐ còn thấp. Vì thế cần phải  tăng  cường  công  tác  truyền  thông  nhằm  nâng  cao  kiến  thức  cho  người  dân,  đồng  thời  đẩy  mạnh  thực  hành  phòng bệnh đặc biệt xét nghiệm đường huyết định kỳ.

Từ khóa: Kiến thức; thái độ; thực hành; bệnh tiểu đường‐tuýp 2.

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATTITUDE, AND PRACTICE RELATED TO CONTROLLING DIABETES MELLITUS  IN HOA BINH COMMUNE, XUYEN MOC DISTRICT, BA RIA VUNG TAU PROVINCE, 2011

Hoàng Thị Bích Yen, Nguyen Do Nguyen, Dang Van Chinh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 521 ‐ 526

Background:  Chronic non‐communicable diseases including diabetes have been increasing quickly. Risky

factors related to non‐communicable diseases are lifestyle, eating habits, and physical activity.

Objectives:  To  determine the rate of knowledge, attitude, practice of residents above 35 years old in Hoa

Binh – Xuyen Moc – BRVT and factors related to the prevention of type 2 diabetes.

Method:  This was a cross‐sectional study of the KAP of diabetes provention among 530 residents in Hoa

Binh commune.

Results: The proportions of people with good KAP of diabetes prevention were still low (21%, 25%, 16%,  respectively).  There  was  a  significant  relationship  between  knowledge,  attitude  and  educationl,  between  knowledge, attitude, practice and jobs, and between practice and age group, sex in this study.

Conclution:  The  proportions  of  people  with  good  KAP  of  diabetes  prevention  were  still  low.  Therefore,  communication  needs  to  be  enhanced  to  improve  knowledge  for  people,  and  diabetes  prevention  practice,  especially periodic monitoring of blood sugar levels, should be reinforced.

∗ Viện Vệ sinh Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh.  ∗∗ Khoa Y tế Công cộng‐ Đại học Y dược TPHCM

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

520

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Key words: Knowledge; attitude; practice; type 2‐diabetes.

Xác định tỉ lệ người dân có thái độ về phòng

ĐẶT VẤN ĐỀ

bệnh ĐTĐ týp 2.

Xác  định  tỉ  lệ  người  dân  có  thực  hành  về

phòng bệnh ĐTĐ týp 2.

Xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái  độ,  thực  hành  về  phòng  bệnh  ĐTĐ  týp  2  với  giới, học vấn, nghề nghiệp, tuổi, hôn nhân.

Vào những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ  21,  đái  tháo  đường  (ĐTĐ)  là  một  trong  những  bệnh không lây phát triển nhanh nhất. Theo Tổ  chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2000 đã có 157,3  triệu người mắc bệnh, dự báo năm 2025 con số  này là 300 triệu chiếm 5% dân số thế giới(4).

Xác  định  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  với

thực hành phòng bệnh ĐTĐ týp 2.

Xác định mối liên quan giữa thái độ với thực

hành phòng bệnh ĐTĐ týp 2.

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Việt  Nam  không  xếp  vào  10  nước  có  tỉ  lệ  mắc  ĐTĐ  cao  nhưng  lại  là  quốc  gia  có  tốc  độ  phát  triển  bệnh  nhanh(4).  Trong  10  năm  qua,  số  bệnh nhân ĐTĐ đã tăng 3‐4 lần ở khu vực thành  thị.  Khu  vực  nông  thôn  trước  đây  thường  rất  hiếm gặp bệnh ĐTĐ thì nay bệnh đã trở nên phổ  biến (4).

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu: Áp dụng công thức

Công thức lấy mẫu trong nghiên cứu

Z21‐α/2 × p(1‐p)

N = k ×

d2

Với: Z = 1,96 (độ tin cậy 95%), d = 0,05, α = 5  %., p = 0,363 trị số ước muốn của tỉ lệ người dân  có  kiến  thức  đúng  về  bệnh  ĐTĐ  (tham  khảo  nghiên  cứu  “Điều  tra  dịch  tễ  bệnh  ĐTĐ  tỉnh  BRVT 2004‐2005” Tiêu Văn Linh, Võ Việt Dũng,  Trần Thanh Bình)

Hệ số thiết kế k = 1,5 (cid:206) N = 530 người

Chọn mẫu  theo  phương  pháp  xác  xuất  tỉ  lệ  với  kích  thước  dân  số  (PPS  ‐  Probability  proportionate  to  size),  chọn  30  cụm  mỗi  cụm  phỏng vấn 18 người.

KẾT QUẢ

Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (BRVT), trong những  năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế  thì tỉ lệ bệnh nhân ĐTĐ tại các cơ sở khám chữa  bệnh đang ngày một gia tăng. Theo kết quả điều  tra  dịch  tễ  ĐTĐ  tại  tỉnh  BRVT  năm  2004‐2005,  của  Tiêu  Văn  Linh,  Trần  Thanh  Bình,  Võ  Việt  Dũng  trên  nhóm  đối  tượng  từ  30‐64  tuổi.  Tỉ  lệ  ĐTĐ 4%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose 4,6%(5).  Mặt khác một nghiên cứu vào năm 2008 tại các  thành  phố  lớn  của  Việt  Nam  có  khoảng  65%  trong số người bị bệnh ĐTĐ đã không biết mình  bị  mắc  bệnh,  và  rất  nhiều  trường  hợp  khi  phát  hiện  được,  thì  bệnh  đã  có  những  biến  chứng  nghiêm trọng(1). Qua đó thấy rằng kiến thức của  người dân về bệnh còn rất hạn chế, và việc thiếu  kiến  thức  đã  mang  lại  nhiều  thiệt  hại  nghiêm  trọng về kinh tế cũng như sức khoẻ. Nghiên cứu  này  tiến  hành  nhằm  xác  định  “Kiến  thức,  thái  độ, thực hành về bệnh ĐTĐ của người dân Hoà  Bình  ‐  Xuyên  Mộc  ‐  BRVT”.  Để  có  những  biện  pháp  can  thiệp  phù  hợp  và  góp  phần  cải  thiện  vấn đề sức khoẻ cho địa phương.

Bảng 1. Kiến thức về bệnh ĐTĐ (n = 530).

Tỉ lệ (%)

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên  cứu  này  nhằm  mục  đích  tìm  hiểu  KAP của người dân địa phương về phòng bệnh  ĐTĐ. Các mục tiêu cụ thể:

Xác  định  tỉ  lệ  người  dân  có  kiến  thức  về

bệnh ĐTĐ týp 2.

67 Kiến thức Biết xét nghiệm đường huyết Biết về yếu tố nguy cơ 26

Thừa cân, béo phì Lối sống ít vận động Tăng huyết áp Uống nhiều rượu bia 81 71 41 36 Tần số 355 139 427 376 216 193

521

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tỉ lệ (%)

cho  thấy  kiến  thức  về  phòng  bệnh  của  người  dân tại điạ phương rất thấp, những hiểu biết về  phòng  bệnh  còn  chưa  đầy  đủ,  hầu  hết  chỉ  biết  đến vài yếu tố nguy cơ, tỉ lệ biết đầy đủ về biện  pháp phòng bệnh còn rất khiêm tốn (Bảng 2).

34 23

Bảng 3. Thái độ về phòng bệnh ĐTĐ (n = 530).

12 62 54 47 Tần số Tỉ lệ (%) 27

89 74

12 57 48 Thái độ Đồng ý bệnh nguy hiểm Đồng ý kiểm tra đường huyết định kỳ Đồng ý bệnh có thể phòng ngừa Thái độ về phòng bệnh chung 472 393 181 132 34 25

Trong các đối tượng tham gia nghiên cứu, tỉ  lệ có thái độ tích cực chiếm tỉ lệ khá cao. Thái độ  cho  rằng  bệnh  nguy  hiểm  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  89%  tuy  nhiên  tỉ  lệ  không  có  thái  độ  chung  về  phòng bệnh chiếm đa số gấp 3 lần nhóm có thái  độ tích cực (25%) (Bảng 3).

Kiến thức Người trên 40 tuổi Hút thuốc lá Biết về dấu hiệu của bệnh Tiểu nhiều Ăn nhiều Sụt cân nhanh Uống nhiều Biết về biến chứng của bệnh Bệnh tim mạch Suy thận Loét bàn chân Mù loà Tai biến mạch máu não Tử vong Tần số 179 121 65 328 287 249 141 64 300 252 249 175 154 157 47 33 29 29

Bảng 4. Thực hành về phòng bệnh ĐTĐ (n = 530).

Thực hành Tần số Tỉ lệ (%)

Khảo sát kiến thức: Biết cách phát hiện bệnh  bằng  xét  nghiệm  đường  huyết  chiếm  tỉ  lệ  khá  cao 67%, nhưng bên cạnh đó sự hiểu biết về các  yếu tố biến chứng của bệnh, dấu hiệu của bệnh  và các yếu tố nguy cơ của bệnh có tỉ lệ tương đối  thấp từ 12‐26%. Trong đó biến chứng được biết  đến  nhiều  nhất  là  bệnh  tim  mạch  chiếm  57%,  yếu tố nguy cơ được biết đến nhiều nhất là thừa  cân béo phì với 81% (Bảng 1).

67 61 57 55 54

Bảng 2. Kiến thức về phòng bệnh ĐTĐ (n = 530).

52 Tần số Tỉ lệ (%) 30 11 16 Hạn chế ăn ngọt Tăng cường vận động thể lực Không hút thuốc lá Tăng cường sử dụng rau xanh Hạn chế sử dụng rượu bia Hạn chế sử dụng dầu, mỡ Kiểm soát huyết áp Kiểm tra đường huyết 1-2 lần/năm Thực hành chung về phòng bệnh 355 324 301 289 287 277 157 57 86

72 62 63 56 43 39 32

Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu,  tỉ  lệ  người  dân  có  thực  hành  chung  về  phòng  bệnh ĐTĐ chiếm tỉ lệ thấp chỉ chiếm 16% bé hơn  5,7  lần  so  với  nhóm  không  có  thực  hành  về  phòng bệnh. Trong đó tỉ lệ thực hành tương đối  tốt ở những phần hạn chế ăn ngọt, hạn chế dầu  mỡ,  tăng  cường  vận  động  thể  lực,  tuy  nhiên  những biện pháp phòng bệnh có liên quan đến  mật  thiết  đến  y  tế  thì  tỉ  lệ  thực  hành  đúng  rất  thấp  thực  hành  xét  nghiệm  đường  huyết  định  kỳ (11%), thực hành kiểm soát huyết áp là 30%  (Bảng 4).

26 21 Kiến thức về phòng bệnh Biết tăng cường vận động thể lực Biết xét nghiệm đường huyết định kỳ Biết ăn nhiều rau Biết hạn chế ngọt Biết hạn chế dầu mỡ Biết hạn chế uống rượu bia Biết hạn chế hút thuốc lá Kiểm soát huyết áp Biết về phòng bệnh chung 381 330 336 296 229 209 172 136 112

Kiến  thức  về  tăng  cường  vận  động  thể  lực  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  72%,  tỉ  lệ  có  kiến  thức  về  kiểm  soát  huyết  áp  thấp  nhất  (26%).  Kiến  thức  về  hạn  chế  ăn  ngọt,  ăn  nhiều  rau  xanh,  xét  nghiệm  đường  huyết  định  kỳ  tương  đối  cao,  ít  chênh  lệch  với  các  tỉ  lệ  dao  động  từ  56‐62%.  Phần  lớn  người  dân  không  có  kiến  thức  về  phòng  bệnh,  tỉ  lệ  kiến  thức  chung  chỉ  chiếm  ¼  (21%)  người  tham  gia  nghiên  cứu  có  kiến  thức  chung về phòng bệnh. Qua kết quả nghiên cứu

PR p Thực hành kiểm tra đường huyết

Bảng 5. Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành  về phòng bệnh ĐTĐ (n = 530).  Kiến thức kiểm tra

522

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

0 lần/năm (KTC 95%) 1 – 2 lần/năm

<0,001 đường huyết định kỳ Có (%) Không (%) 51 (15) 6 (3) 279 (85) 194 (97)

Thực hành hạn chế thức ăn ngọt p Kiến thức hạn chế thức ăn ngọt 5,2 (2,3-11,8) PR (KTC 95%) Có Không Có %) 213 (72) 83 (28) 0,006 1,2 (1,04-1,3) Không (%)

142 (61) 92 (39) Thực hành kiểm soát huyết áp p Kiến thức kiểm soát huyết áp PR (KTC 95%) Có (%) Có 55 (40) Không 81 (60) 0,001 1,7 (1,2-2,0) Không (%) 102 (26) 292 (74) Thực hành chung p Kiến thức chung Có Không

Mối liên quan giữa thực hành với kiến thức  về xét nghiệm đường huyết định kỳ có ý nghĩa  thống kê, nhóm có kiến thức có tỉ lệ thực hành  về  số  lần  xét  nghiệm  trong  năm  bằng  5,2  lần  nhóm không có kiến thức, (p < 0,001) (Bảng 5).

huyết định kỳ là yếu tố quan trọng để phát hiện  sớm bệnh 62% cho rằng nên xét nghiệm đường  huyết 1‐2 lần/năm. Kiến thức về hạn chế ăn ngọt  khá cao (56%), tỉ lệ này tương đối ít chênh lệch  so  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Tạ  Văn  Bình  và  cộng sự năm 2001(4). Vậy kết quả nghiên cứu này  phù  hợp  với  thực  trạng  bệnh  ĐTĐ  đang  có  xu  hướng  phổ  biến  trong  cộng  đồng,  dẫn  đến  số  lượng người có hiểu biết về bệnh cao và bệnh đã  thu  hút  nhiều  sự  quan  tâm  từ  phía  người  dân.  Chỉ  26%  người  cho  rằng,  kiểm  soát  huyết  áp  giúp phòng bệnh ĐTĐ. Đây là vấn đề rất quan  trọng, vì ảnh hưởng đến hiểu biết của người dân  về  cả  hai  căn  bệnh  hiện  đang  phổ  biến  trong  cộng đồng. Khi được hỏi về các biến chứng của  bệnh,  người  dân  trả  lời  không  rõ  lắm  hoặc  không biết và kiến thức chủ yếu là từ sách, báo,  rất hiếm trường hợp được cung cấp thông tin từ  NVYT. Tỉ lệ biết về biến chứng của bệnh chiếm  12%. Kiến thức về biến chứng của bệnh còn rất  thấp, cho thấy người dân chưa biết được mức độ  nguy  hiểm  của  bệnh,  chưa  thật  sự  thấy  được  tầm  quan  trọng  của  việc  phòng  bệnh.  Từ  đó  chưa có ý thức tốt trong việc phòng tránh bệnh.

0,001 PR (KTC 95%) 1,9 (1,3-2,8) Có (%) Không (%) 29 (26) 57 (14) 83 (74) 361 (86)

Thực hành

Mối liên quan giữa thực hành với kiến thức  về hạn chế ăn ngọt có ý nghĩa thống kê, nhóm có  kiến thức có tỉ lệ thực hành về hạn chế thức ăn  ngọt bằng 1,2 lần nhóm không có kiến thức, (p =  0,006) (Bảng 5).

Mối liên quan giữa thực hành với kiến thức  về  kiểm  soát  huyết  áp  có  ý  nghĩa  thống  kê,  nhóm  có  kiến  thức  có  tỉ  lệ  thực  hành  đúng  về  kiểm  soát  huyết  áp  bằng  1,7  lần  những  người  không có kiến thức, (p = 0,001) (Bảng 5).

Mối  liên  quan  giữa  thực  hành  chung  với  kiến  thức  chung  về  phòng  bệnh  có  ý  nghĩa  thống kê, những người có kiến thức chung có tỉ  lệ  thực  hành  chung  bằng  1,9  lần  những  người  không có kiến thức chung, (p = 0,001) (Bảng 5).

BÀN LUẬN

Kiến thức

Kiểm  tra  đường  huyết  định  kỳ  là  việc  làm  thật  sự  quan  trọng  và  cần  thiết,  nó  giúp  phát  hiện sớm bệnh, tiết kiệm tiền bạc, tiết kiệm thời  gian, khả năng chữa bệnh cao và ít gây tàn phế  đúngvới  phương  châm  “phòng  bệnh  hơn  chữa  bệnh” (4). Tuy nhiên tỉ lệ thực hành đúng về kiểm  tra đường huyết định kỳ là 11% con số  này  rất  khiêm tốn so với tỉ lệ thái độ và kiến thức tương  ứng, điều này cho thấy rằng tuy có kiến thức và  thái độ tốt nhưng tỉ lệ thực hành đúng vẫn chưa  cao.  Vì  không  chú  trọng  đến  việc  xét  nghiệm  đường  huyết  nên  khoảng  65%  người  dân  Việt  Nam  khi  đã  mắc  bệnh  ĐTĐ  mà  hoàn  toàn  không  biết  gì,  đến  khi  bệnh  có  những  biến  chứng  nguy  hiểm  mới  tìm  đến  dịch  vụ  y  tế  nhưng  lúc  đó  thì  đã  quá  muộn.  Điều  này  cho  thấy  chưa  có  sự  chủ  động  phòng  bệnh  trong  cộng đồng. Có thể vì họ chưa thấy được mức độ  nguy hiểm của bệnh để chủ động hơn trong việc

Tỉ lệ người dân có kiến thức chung về phòng  bệnh rất thấp (21%), tỉ lệ này thấp hơn nhiều so  với nghiên cứu tại 4 TP lớn Hà Nội, Huế, TP. Hồ  Chí Minh, Hải Phòng (36%)(4), xét nghiệm đường

523

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

giác,  phòng  bệnh  ở  nhóm  đối  tượng  nguy  cơ  này.  Có  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  phòng  bệnh  chung  với  thực  hành  phòng  bệnh  chung,  nhóm  có  kiến  thức  phòng  bệnh  chung  có  tỉ  lệ  thực hành phòng bệnh bằng 1,9 lần nhóm không  có kiến thức chung (bảng 8). Mặc dù không phải  tất cả các trường hợp khi có kiến thức thì có thực  hành phòng bệnh, nhưng từ kết quả nghiên cứu  ta thấy được việc có kiến thức đã cho thấy có sự  khác  biệt  khá  rõ  ràng  về  thực  hành  của  người  dân.  Qua  đó  cho  thấy  việc  cung  cấp  kiến  thức  cho  người  dân  thực  sự  cần  thiết  để  nâng  cao  nhận thức cũng như thực hành đúng trong cộng  đồng.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu mô tả, đối tượng là 530 người tại

Nghiên cứu Y học  phòng ngừa, đặc biệt là xét nghiệm đường huyết  định  kỳ.  Kiểm  soát  huyết  áp  là  một  việc  làm  quan trọng không chỉ giúp phòng bệnh ĐTĐ và  phòng được nhiều biến chứng  nguy  hiểm  khác  của  bệnh  THA.  Thực  hành  kiểm  soát  huyết  áp  trong  cộng  đồng  là  30%,  phản  ảnh  thực  trạng  chưa  có  sự  quan  tâm  đúng  mức  đến  sức  khoẻ  trong cộng đồng, việc đo huyết áp rất đơn giản  và  người  dân  có  thể  tự  thực  hiện  được.  Ngày  nay với máy đo huyết áp điện tử tạo điều kiện  rất  tốt  cho  người  dân  tự  kiểm  tra  huyết  áp  tại  nhà. Công tác y tế cần có sự quan tâm hơn nữa  đến việc kiểm soát huyết áp của người dân, nên  khuyến  khích  việc  đo  huyết  áp  tại  nhà  trong  công  tác  truyền  thông  giáo  dục  sức  khoẻ,  việc  làm đó sẽ mang lại sự chủ động hơn trong việc  nâng cao tỉ lệ thực hành tốt trong cộng đồng.

Hoà Bình – Xuyên Mộc – BRVT.

Mối  liên  quan  kiến  thức  về  phòng  bệnh  với thực hành về phòng bệnh.

Nhìn  chung  tỷ  lệ  người  dân  có  kiến  thức,  thái độ và thực hành về phòng bệnh là rất thấp  lần lượt là 21%, 25%, 16%.

Có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ về  phòng  bệnh  với  học  vấn,  học  vấn  cao  có  tỉ  lệ  kiến thức tốt, thái độ tích cực cao hơn nhóm học  vấn thấp.

Có  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  về  phòng  bệnh  với  nghề  nghiệp.  Nhóm CNVC có tỉ lệ kiến thức, có thái độ với có  thực  hành  về  phòng  bệnh  cao  hơn  nhóm  công  nhân.

Có mối liên quan giữa thực hành về phòng  bệnh  với  nhóm  tuổi,  Nhóm  ≥  45  có  tỉ  lệ  thực  hành cao hơn nhóm tuổi < 45.

Có  mối  liên  quan  giữa  thực  hành  đúng  với

giới, nữ có tỉ lệ thực hành cao hơn nam.

KIẾN NGHỊ

Qua khảo sát này xin trình bày một số kiến

nghị:

Vì bệnh có xu hướng trẻ hoá nên các chương  trình can thiệp cũng cũng cần mở rộng hơn nữa  nhóm đối tượng đích.

Qua nghiên cứu cho thấy, có mối liên quan  giữa  có  kiến  thức  về  xét  nghiệm  đường  huyết  định kỳ và thực hành xét nghiệm đường huyết  định  kỳ  (bảng  5),  như  vậy  có  kiến  thức  ảnh  hưởng tốt đến thực hành, kiểm tra đường huyết  định  kỳ  là  việc  làm  rất  quan  trọng  trong  việc  kiểm  soát  cũng  như  phát  hiện  sớm  bệnh.  Hầu  hết các nghiên cứu thực hiện tại Việt Nam có tỉ  lệ  kiến  thức  về  hạn  chế  ăn  ngọt  khá  cao(4),(5),  và  theo  kết  quả  nghiên  cứu  thì  có  mối  liên  quan  giữa  nhóm  có  kiến  thức  với  thực  hành  về  hạn  chế ăn ngọt, đó tín hiệu đáng mừng trong công  tác  phòng  bệnh  ĐTĐ.  Có  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  kiểm  soát  huyết  áp  với  thực  hành  kiểm  soát  huyết  áp,  nhóm  có  kiến  thức  có  tỉ  lệ  thực hành bằng 1,7 lần nhóm không có kiến thức  (bảng  7),  việc  kiểm  soát  huyết  áp  cũng  rất  cần  thiết trong việc phòng bệnh ĐTĐ, nên phát triển  nhiều  chương  trình  lồng  ghép  giữa  việc  truyền  thông  về  bệnh  ĐTĐ  và  THA,  và  đặc  biệt  là  những đối tượng đã mắc bệnh THA, cần tổ chức  các  buổi  nói  chuyện  chuyên  đề  và  tư  vấn  về  bệnh ĐTĐ cho những bệnh nhân đến khám tại  bệnh viện hoặc  trung  tâm  y  tế  về  nguy  cơ  mắc  bệnh  của  người  bệnh,  nhằm  nâng  cao  sự  cảnh

Triển khai xét nghiệm đường huyết tại tuyến  y tế cơ sở bằng phương pháp thử đường huyết

524

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  mao mạch để người dân được khám định kỳ và  phát hiện sớm bệnh ĐTĐ.

khuyến  khích  người  dân  tham  gia  xét  nghiệm  đường huyết định kỳ.

Truyền thông

3.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Alister  AMC  et  al(2001):  “Management  of  Hypertension  in  Canada: a rewiew of current guidelines”. CNAJ, Fed 20,164.  2. Amos A, Mc CD, Zimmet P (1997) “The sising globat burden of  diaberter, and its complications: estimates and projection to the  year 2010”. Diabetic Med 11, pp.85 – 89  Jardim  PCBV.,  Gondim  MRP.,  Monego  ET.,  Moreira  HG.,  Oliveira  VPV.,  Souza  WKSB.,  Scala  LCN.  (2007)  ʺHigh  blood  pressure and some risk factors in a Brazilian capitalʺ. Arquivos  Brasileiros de Cardiologia, Brazil, 88, (No. 04).

4. Tạ Văn Bình (2003) “Dịch tễ học bệnh đái tháo đường, các yếu  tố nguy cơ và các vấn đề liên quan đến quản lý bệnh đái tháo  đường tại khu vực nội thành 4 thành phố lớn”. NXB Y học Hà  Nội.

5. Tiêu Văn Linh, Trần Thanh Bình, Võ Việt Dũng (2006) “Điều tra  dịch tễ bệnh ĐTĐ tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu 2004‐2005”. Y học  Tp. Hồ Chí Minh, phụ bản, tập 4, số 10.

Công tác truyền thông phải được thực hiện  rộng rãi, ngoài việc cung cấp kiến thức về bệnh  cho những người đến khám tại trung tâm y tế và  bệnh  viện,  cần  tăng  cường  thêm  các  loại  hình  thông  tin  (đọc  bài  trên  loa  phát  thanh,  treo  áp  phích,  phát  tờ  rơi…)  để  người  dân  có  nhiều  cơ  hội  nắm  bắt  thông  tin  về  bệnh  hơn.  hiến  lược  chung của việc phòng ngừa tập trung vào tuyên  truyền,  giải  thích  để  người  dân  hiểu  rõ  về  các  yếu tố nguy cơ, thay đổi thói quen ăn uống, sinh  hoạt thể lực nhằm loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây  ĐTĐ  có  thể  thay  đổi  được.  Nhấn  mạnh  tầm  quan  trọng  của  xét  nghiệm  đường  huyết  và

525

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

HÀNH VI PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CỦA NGƯỜI DÂN   XàMỸ HẠNH TRUNG‐CAI LẬY‐TIỀN GIANG

Đặng Văn Chính*, Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Bùi Thị Kiều Anh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) đã và đang là vấn đề thời sự của nước ta với tỉ lệ mắc cao.

Mục  tiêu  nghiên  cứu: Xác định các yếu tố kinh tế xã hội liên quan đến hành vi phòng chống SXH của

người dân xã Mỹ Hạnh Trung, Cai Lậy, Tiền Giang.

Đối tượng và phướng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang kết hợp cả phương pháp định lượng và

định tính nhằm mô tả hành vi phòng chống SXH của người dân xã Mỹ Hạnh Trung, Cai Lậy, Tiền Giang.

Kết quả nghiên cứu: Các yếu tố làm cản trở hành vi phòng chống SXH gồm: người dân đánh giá thấp tác  hại của bệnh, việc dự trữ nước còn phổ biến, công tác vệ sinh môi trường chưa tốt, vai trò lãnh đạo của chính  quyền trong công tác phòng chống SXH chưa kiên quyết. Hơn 90% hộ gia đình đều sử dụng ít nhất một biện  pháp xua diệt muỗi nhưng các biện pháp dự phòng xa hơn như diệt bọ gậy và vệ sinh môi trường chưa tốt, dụng  cụ chứa nước chứa lăng quăng khá cao (60,3%).

Kết luận: Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về mức độ nghiêm trọng của bệnh cho người dân, huy động

sự tham gia đồng bộ của cộng đồng trong công tác vệ sinh môi trường.

Từ khóa: Sốt xuất huyết, Tiền giang, behavior, control, Aedes aegypty.

ABSTRACT

BEHAVIOR IN CONTROLLING DENGUE HEMORRHAGIC FEVER OF PEOPLE AT HANH TRUNG  COMMUNE, CAI LAY DISTRICT, TIEN GIANG PROVINCE, 2010.

Nguyen Thi Bich Ngoc*, Bui Thi Kieu Anh*, Dang Van Chinh*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 527 ‐ 532

Backgound: Dengue fever (DF) / Dengue hemorrhagic fever (DHF) is a disease with high morbility and

mortality.

Objectives: To determine socio‐economic factors related to the behaviors of controlling Dengue fever among

people.

Methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  using  both  quantitative  and  qualitative  methods  to  describe the behaviors of controlling DH / DHF among people at Hanh Trung commune, Cai Lay District, Tien  Giang province in 2010.

Results: This study found that people underestimated the harmful effects of DF/DHF; the households had  many water containers; the sanitation was insufficient; most of water containers had Aedes larvae (60.3 %); the  commune government leaders need to participate more actively in controlling DF/DHF.

Conclusions: Education should be focused on the severity of DF/DHF and the participation of communities

in sanitation and controlling larva.

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả liên lạc: Ts. Đặng Văn Chính

ĐT: 0908414986

Email: dangvanchinh@ihph.org.vn

526

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Key words: DF/DHF, Tien Giang, behavior, control, Aedes aegypty.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Xác định mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế  xã  hội  liên  quan  với  số  dụng  cụ  chứa  nước  có  lăng quăng.

triệu

Mô  tả  lý  do  làm  cản  trở  hành  vi  phòng

chống SXH.

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Theo  ước  tính  Tổ  chức  y  tế  thế  giới  có  trường  hợp  nhiễm  sốt  khoảng  50  Dengue/sốt xuất huyết Dengue mỗi năm (2). Việt  Nam là nơi có dịch SXH lưu hành với số ca mắc  hàng  năm  rất  cao  năm  2009,  tổng  số  ca  sốt  Dengue/sốt  xuất  huyết  Dengue  là  105.370  (122/100.000), trong đó có 87 ca tử vong chiếm tỉ  lệ 0,1% (1).

Nghiên  cứu  cắt  ngang  kết  hợp  cả  phương  pháp định lượng và định tính nhằm mô tả hành  vi phòng chống SXH của người dân và xác định  các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở hành vi này. Cỡ  mẫu ước tính theo phương pháp chọn mẫu cụm  là 282. Quan sát và phỏng vấn chủ hộ hoặc đại  diện  chủ  hộ.  Đồng  thời  tiến  hành  02  cuộc  thảo  luận  nhóm  trên  02  nhóm  đối  tượng  là  cán  bộ  làm công tác liên quan đến phòng chống SXH và  đối tượng đại diện hộ gia đình.

KẾT QUẢ

Bảng 1: Đặc điểm của dân số (n=282).

Trong những năm qua, huyện Cai Lậy luôn  nằm  trong  số  các  huyện  có  số  ca  mắc  SXH  cao  toàn tỉnh và có chiều hướng gia tăng, tăng từ 627  ca năm 2006 tới 1162 ca năm 2008. Trong đó, xã  Mỹ  Hạnh  Trung  thuộc  huyện  Cai  Lậy  có  số  ca  mắc  cao  đứng  thứ  ba  toàn  huyện.  Mỹ  Hạnh  Trung là một xã nông nghiệp, có nhiều điểm đặc  trưng của vùng nông thôn đồng bằng sông Bên  cạnh đó các hộ gia đình tại đây ít được cung cấp  nước  sạch  và  có  thói  quen  trữ  nước  trong  mùa  mưa. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu hành vi  phòng chống xuất huyết và các yếu tố liên quan  của  người  dân  ở  xã  Mỹ  Hạnh  Trung,  Cai  Lậy,  Tiền Giang là cần thiết và góp phần quan trọng  cho việc cải thiện hoạt động chương trình phòng  chống SXH cho địa phương cũng như các cộng  đồng tương tự ở các tỉnh phía Nam.

n 103 128 51 % 36,5 45,4 18,1

Mục tiêu tổng quát

Xác định các yếu tố kinh tế xã hội liên quan  đến hành vi phòng chống SXH của người dân xã  Mỹ  Hạnh  Trung,  huyện  Cai  Lậy,  tỉnh  Tiền  Giang.

Mục tiêu cụ thể

Xác định tỷ lệ người dân thực hiện các hành  vi phòng chống SXH (dọn dẹp xung quanh nhà,  sử  dụng  biện  pháp  xua  diệt  muỗi,  đậy  nắp  và  súc rửa thường xuyên dụng cụ chứa nước).

Xác định mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế  xã  hội  (kinh  tế  hộ  gia  đình,  trình  độ  học  vấn,  nghề  nghiệp,  hộ  gia  đình  có  trẻ  <  15  tuổi)  liên  quan với hành vi dọn dẹp xung quanh nhà và sử  dụng biện pháp xua diệt muỗi của người dân.

Nữ  giới  chiếm  tỷ  lệ  cao  gần  gấp  đôi  so  với  nam giới (65% so với 35%); độ tuổi tập trung lứa  tuổi  41‐60  tuổi.  Nông  dân  chiếm  hai  phần  ba

Đặc điểm Tuổi 20-40 41-60 > 60 Giới tính Nam Nữ Nghề nghiệp Nông dân Kinh doanh Khác Trình độ học vấn ≤ cấp 1 Cấp 2 ≥ cấp 3 Kinh tế hộ gia đình Thu nhập thấp Thu nhập trung bình Thu nhập giàu Hộ có trẻ < 15 tuổi Có Không 99 183 191 17 74 144 86 52 103 98 81 140 142 35,1 64,9 67,7 6,0 26,3 51,1 30,5 18,4 36,5 34,8 28,7 49,6 50,4

527

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nội dung Mất ngày công lao động Khác N 51 28 % 20,4 11,2

Nghiên cứu Y học  tổng các ngành nghề. Bên cạnh đó, phân nửa đối  tượng  được  phỏng  vấn  mù  chữ  hoặc  trình  độ  cấp 1. Khoảng 70% hộ gia đình thuộc hộ có thu  nhập thấp và trung bình. Tỷ lệ hộ gia đình có và  không  có  trẻ  dưới  15  tuổi  tương  đương  nhau  (Bảng 1).

Bảng 2: Nguồn nước hộ gia đình đang sử dụng  (n=282).

Nguồn nước

n

%

Bảng  3  cho  thấy  hầu  hết  người  dân  đều  có  kiến  thức  về  bệnh  sốt  xuất  huyết  (89%),  những  kiến  thức  mà  họ  có  được  chủ  yếu  từ  nguồn  thông tin báo, đài, tivi và từ nhân viên y tế đến  nhà  tuyên  truyền  vận  động  (70%  và  59%).  Khoảng  phân  nửa  người  dân  cho  rằng  bệnh  SXH có thể xảy ra ở người lớn và trẻ em.

Nước máy

230

81,6

Nước giếng đào

9

3,2

Bảng 4: Đánh giá của người dân trong công tác  phòng chống sốt xuất huyết.

Nước giếng khoan

56

19,9

Nước sông

6

2,1

Nước mưa

135

47,9

Bốn  phần  năm  người  dân  dùng  hệ  thống  nước  máy.  Tuy  nhiên,  gần  một  nửa  hộ  vẫn  sử  dụng  nước  mưa  cho  mục  đích  sinh  hoạt  và  ăn  uống (Bảng 2).

Nội dung Trách nhiệm chính phòng chống SXH Chính quyền Gia đình Không biết Đánh giá công tác phòng chống SXH Của chính quyền Rất tốt Tốt Trung bình Kém Rất kém Không biết Của gia đình Rất tốt Tốt Trung bình Kém n 16 225 11 13 177 79 10 1 2 12 165 101 3 % 5,7 90,4 3,9 4,6 62,8 28,0 3,6 0,4 0,7 4,3 58,5 35,8 1,1

Rất kém 0 0

Theo quan điểm người dân, công tác phòng  chống  sốt  xuất  huyết  chính  yếu  phải  dựa  vào  bản  thân  các  hộ  gia  đình  (90,4%).  Bên  cạnh  đó,  hơn  50%  người  dân  đánh  giá  chính  quyền  và  bản thân hộ gia đình đều thực hiện tốt chương  trình  phòng  chống  sốt  xuất  huyết  (62,8%  và  58,5%) (Bảng 4).

Không biết Tổng cộng 1 282 0,3 100

Các hành vi phòng chống sốt xuất huyết  Bảng 5: Hành vi dọn dẹp xung quanh nhà.

Môi trường Sạch Trung bình Kém n 89 108 85 % 31,6 38,3 30,1

Bảng 3: Kiến thức về phòng chống sốt xuất huyết.  % 11,4 88,6 59,2 7,6 14,4 0,8 70,8 6,4 11,2 80,0 8,8 6,4 92,0 1,6 44,4 1,2 53,2 1,2 25,6 75,6

Nội dung Biết về bệnh SXH (n=282) Không Có Nhờ vào đâu (n=250) Có người đến nhà vận động Họp dân tại ấp, xã Tài liệu truyền thông Xe cổ động trong chiến dịch Đài, loa phát thanh, tivi Khác (bệnh viện) Bệnh SXH có thể chữa khỏi(n=250) Không Có Không biết Bệnh SXH gây tử vong Không Có Không biết Đối tượng bị bệnh SXH Trẻ em Người lớn Cả hai Không biết Thiệt hại của SXH Mất người thân Hao tốn tiền của N 32 250 148 19 36 2 177 16 28 200 22 16 230 4 111 3 133 3 64 189

528

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

*: Dùng kiểm định Fisher.

Bảng  5  mô  tả  tỷ  lệ  hành  vi  dọn  dẹp  xung  quanh  nhà  hộ  gia  đình.  Trong  đó,  hai  phần  ba  môi  trường  xung  quanh  nhà  các  hộ  gia  đình  được đánh giá ở mức kém và trung bình.

Tổng cộng 282 100

Bảng 6: Mô tả dụng cụ chứa nước (n=282).

Bảng 7 thể hiện mối liên quan giữa các yếu  tố kinh tế xã hội với hành vi sử dụng biện pháp  xua  diệt  muỗi.  Hơn  90%  hộ  gia  đình  đều  sử  dụng ít nhất một biện pháp xua diệt muỗi. Tỷ lệ  hộ gia đình có kinh tế thấp không sử dụng bất  kỳ biện pháp xua diệt muỗi cao nhất so  với  hộ  có  kinh  tế  trung  bình  và  cao  lần  lượt  với  tỷ  lệ  9,7%,  1,1%,  7,4%.  Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  kinh  tế  hộ  gia  đình  với  việc  sử  dụng các biện pháp diệt muỗi với p = 0,029.

* M: trung bình, SD: độ lệch chuẩn

Không  có  mối  liên  quan  giữa  trình  độ  học  vấn, nghề nghiệp và hộ gia đình có trẻ nhỏ hơn  15 tuổi với biện pháp xua diệt muỗi.

Đặc tính DCCN Tỷ lệ DCCN có lăng quăng (n,%) DCCN có lăng quăng Đậy nắp DCCN Không đậy nắp DCCN Súc rửa không thường xuyên M (SD)* 7,6(5,9) 170 (60,3) 1,3(1,6) 3,8 (2,8) 2,1 (1,1) 2,3 (2,3)

Mô tả nội dung 02 cuộc thảo luận nhóm về  nội dung lý do làm cản trở hành vi phòng  chống SXH

Bảng  6  mô  tả  về  dụng  cụ  chứa  nước  trong  các hộ gia đình. Trung bình mỗi gia đình có 7,6  dụng  cụ  chứa  nước  và  tỷ  lệ  các  hộ  gia  đình  có  dụng  cụ  chứa  nước  chứa  lăng  quăng  khá  cao  (60,3%).

Mô tả hoạt động phòng chống sốt xuất huyết

đang diễn ra tại địa phương

Trung  bình  ở  mỗi  hộ  gia  đình  có  khoảng  4  dụng cụ chứa nước được đậy nắp kín, khoảng 2  dụng cụ chứa nước không đậy nắp. Trong số các  dụng  cụ  chứa  nước  không  đậy  nắp  thì  trung  bình  2  dụng  cụ  chứa  nước/hộ  gia  đình  không  súc rửa thường xuyên.

Bảng 7: Mối liên quan giữa yếu tố kinh tế xã hội với  hành vi sử dụng biện pháp diệt muỗi.

Chương  trình  phòng  chống  SXH  ở  xã  Mỹ  Hạnh  Trung  đã  triển  khai  nhiều  năm  bao  gồm  các hoạt động như tổ chức chiến dịch diệt lăng  quăng,  mạng  lưới  cộng  tác  viên,  phòng  chống  SXH trong trường học, xử lý ổ dịch nhỏ (ODN).  Tuy  nhiên  số  ca  mắc  SXH  ở  xã  khá  cao.  Trong  các năm 2007, 2008, 2009 bình quân mỗi năm xã  có 50 ca, riêng từ đầu năm đến cuối tháng 9 năm  2010 là 9 ca.

Sử dụng biện pháp xua diệt muỗi Đặc tính

p 0,5*

0,029*

Trong công  tác  phòng  chống  SXH,  ngành  y  tế giữ vai trò chủ đạo. Ngành giáo dục tham gia  rất tích cực và hiệu quả. Chi bộ ấp cũng thường  xuyên thực hiện công tác tuyên truyền. Ngoài ra  hội phụ nữ là bộ phận trực tiếp thực hiện công  tác phòng chống SXH. Mỗi năm hội phụ nữ đều  lên  kế  hoạch  họp  tổ  nhóm  tuyên  truyền,  vận  động  phòng  chống  SXH.  Đoàn  thanh  niên,  hội  nông dân còn hạn chế, chỉ tham gia khi có phát  động phong trào.

0,678*

Những thiệt hại do SXH

Có n (%) 133 (92,4) 82 (95,4) 50 (96,1) 93 (90,3) 97 (98,9) 75 (92,6) 181 (94,8) 16 (94,1) 68 (91,9) Không n (%) 11 (7,6) 4 (4,6) 2 (3,9) 10 (9,7) 1 (1,1) 6 (7,4) 10 (5,2) 1 (5,9) 6 (8,1) 0,435*

Người  dân  đánh  giá  thấp  tác  hại  của  bệnh  sốt xuất huyết, chủ yếu chỉ là thiệt hại về kinh tế,  mất  công  ăn  việc  làm  của  gia  đình.  Hầu  hết  người  dân  được  phỏng  vấn  cho  rằng  SXH  khó

Học vấn ≤ cấp 1 Cấp 2 ≥ Cấp 3 Kinh tế hộ gia đình Thấp Trung bình Cao Nghề nghiệp Nông dân Kinh doanh Khác Hộ gia đình có trẻ <15 tuổi Có Không 130 (92,9) 135 (95,1) 10 (7,1) 7 (4,9)

529

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

BÀN LUẬN

Nghiên cứu Y học  tử  vong  nếu  được  nhập  viện  kịp  thời.  Trung  bình một đợt nhập viên điều trị SXH tốn khoảng  1.000.000 đồng. Đối với trẻ dưới 6 tuổi số tiền trị  bệnh sẽ thấp hơn do được chế độ bảo hiểm.

Hành vi phòng chống SXH

Theo kết quả nghiên cứu, hầu hết các hộ dân  đều  biết  về  bệnh  SXH  88,6%,  trong  đó  70,8%  người  được  phỏng  vấn  biết  thông  tin  về  SXH  qua các kênh truyền thông như báo, đài hoặc ti  vi. Tỷ lệ này cao hơn so với các nghiên cứu như  nghiên cứu ở Đồng Tháp tỷ lệ người dân biết sốt  xuất huyết qua kênh truyền thông là 58,8%. Hầu  hết  người  dân  tiếp  cận  thông  tin  qua  các  kênh  truyền thông do đó đánh giá hiệu quả công tác  truyền  thông  thông  qua  khả  năng  tiếp  thu  của  người  dân  qua  các  kênh  truyền  thông  là  cần  thiết. Mặt khác, công tác vãng gia cần được chú  trọng vì khoảng 60% người dân nhận kiến thức  sốt xuất huyết từ cộng tác viên. Hiện nay, mạng  lưới cộng tác viên chưa bao phủ hết các xã trong  huyện và một số cộng tác viên họat động chưa  thật sự hiệu quả.

Các  hộ  gia  đình  chỉ  có  thể  vệ  sinh  xung  quanh  nhà,  vườn  tược  nhưng  ở  nơi  công  cộng  không có người thực hiện. Thậm chí một hộ gia  đình  vệ  sinh  trong  và  xung  quanh  nhà  rất  tốt  nhưng vẫn có nguy cơ mắc bệnh SXH do hàng  xóm không thực hiện. Hoạt động chăn nuôi của  người dân thường rửa dội nước xuống mương,  rãnh dẫn đến việc đọng nước. Việc súc rửa dụng  cụ chứa nước trong gia đình cũng gặp khó khăn  do  lu  hũ  chứa  nước  thường  nặng,  và  việc  súc  rửa  chủ  yếu  là  do  phụ  nữ  thực  hiện;  súc  rửa  thường xuyên dễ dẫn đến hư hỏng. Đây là các lý  do có thể giải thích tại sao, dụng cụ chứa nước  chứa lăng quăng.

Đánh giá công tác  phòng  chống  SXH  của  gia

Mối liên quan giữa hành vi sử  dụng  biện  pháp xua diệt muỗi và các yếu tố xã hội

đình và chính quyền

Không  ghi  nhận  sự  khác  biệt  giữa  học  vấn  và sử dụng các biện pháp xua diệt muỗi ở các hộ  gia đình. Giữa các hộ gia đình có sự khác nhau  về học vấn thì sự chênh lệch về tỷ lệ sử dụng các  biện pháp xua diệt muỗi không đáng kể, do đó  không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  trong trường hợp này.

Phòng  chống  SXH,  trách  nhiệm  là  của  cả  chính  quyền  và  người  dân  và  người  dân  chịu  trách nhiệm chính. Mặc dù, chiến dịch diệt lăng  quăng được  thực  hiện  với  sự  tham  gia  tích  cực  từ phía chính quyền và các ban ngành đoàn thể,  tuy nhiên sau chiến dịch các hoạt động diệt lăng  quăng không được duy trì.

Những  đề  xuất  cho  hoạt  động  phòng  chống

SXH

Có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  kinh  tế  hộ  gia  đình  và  việc  sử  dụng  các  biện  pháp xua diệt muỗi ở các hộ gia đình (p = 0,029).  Những  hộ  gia  đình  có  kinh  tế  trung  bình  hoặc  giàu  dễ  dàng  tiếp  cận  các  biện  pháp  xua  diệt  muỗi hơn các hộ gia đình nghèo.

Mô  tả  lý  do  làm  cản  trở  hành  vi  phòng  chống SXH

Chính  quyền  chỉ  đạo  các  ban  ngành  đoàn  thể tham gia tích cực thì công tác phòng chống  SXH  sẽ  thành  công.  Các  hoạt  động  cụ  thể  bao  gồm  xác  định  địa  bàn,  phân  công  cán  bộ  hay  đảng viên phụ trách phối hợp với cộng tác viên,  tổ  nhân  dân  tự  quản;  các  hoạt  động  này  phải  được  duy  trì  thường  sau  mỗi  được  chiến  dịch.  Cán bộ công nhân viên chức sẽ là những người  đi  đầu.  Khen  thưởng  trong  công  tác  phòng  chống SXH phải đến được cho các ấp.

Nghị  định  45/2005/NĐ‐CP  áp  dụng  hình

Thứ  nhất,  người  dân  đánh  giá  thấp  tác  hại  của bệnh sốt xuất huyết, bệnh xuất huyết không  phải là bệnh nguy hiểm chết người. Hầu hết cho  rằng các ca bệnh SXH là ở trẻ em, người lớn rất ít  bệnh  SXH.  Trẻ  dưới  6  tuổi  lại  có  bảo  hiểm  nên  không lo thiệt hại về tiền bạc.

thức phạt tiền rất khó thực hiện ở địa phương.

Thứ hai, việc dự trữ nước của người dân còn  phổ  biến,  đặc  biệt  vào  mùa  mưa.  Việc  dự  trữ

530

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

dụng cụ chứa nước, vệ sinh môi trường thấp. Đa  số  người  dân  có  sử  dụng  các  biện  pháp  diệt  muỗi và xua diệt muỗi cao, nhưng các biện pháp  dự phòng xa hơn như diệt lăng quăng và vệ sinh  môi  trường  chưa  tốt.  Do  vậy,  cần  huy  động  sự  tham gia đồng bộ của cộng đồng trong công tác  vệ sinh môi trường.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nước  một  phần  là  do  hệ  thống  cung  cấp  nước  chưa  ổn  định,  một  phần  là  để  giảm  chi  phí  sử  dụng  nước.  Dụng  cụ  chứa  nước  nhiều  nhưng  việc  đậy  kín  nắp  chưa  được  thực  hiện  triệt  để.  Biện pháp thả cá vào dụng  cụ  chứa  nước  được  thực hiện rất hạn chế. Hầu hết người dân không  thả cá vào dụng cụ chứa nước, đặc biệt là nước  uống.

Theo  kết  quả  nghiên  cứu,  phụ  nữ  là  người  súc  rửa  lu  thường  xuyên  vì  vậy  cần  tập  trung  hướng dẫn kỹ năng súc rửa lu phù hợp với thể  chất của phụ nữ. Bên cạnh đó, chính quyền cần  giải  quyết  vấn  đề  cung  cấp  điện  cho  nhà  máy  nước ổn định và nâng cao năng suất cấp nước là  một biện pháp hiệu quả trong phòng chống sốt  xuất huyết.

Thứ  ba,  công  tác  vệ  sinh  môi  trường  chưa  được  thực  hiện  tốt.  Do  đặc  điểm  vùng  nông  nghiệp, không có hệ thống thu gom rác thải nên  những vật phế thải thường được tập trung bên  ngoài  nhà.  Vào  mùa  mưa  rất  dễ  xảy  ra  đọng  nước và là nguồn chứa lăng quăng. Nghiên cứu  định tính cho thấy công tác vệ sinh môi trường  chưa được thực hiện triệt để do công tác tuyên  truyền chưa thật sự hiệu quả, người dân không  quan tâm tới nơi đọng nước.

Về  mức  độ  bệnh  sốt  xuất  huyết,  người  dân  chưa xem sốt xuất huyết là bệnh nặng cần quan  tâm. Do vậy, cần đẩy mạnh giáo dục về mức độ  trầm trọng của bệnh cho người dân.

Theo  đánh  giá  của  người  dân,  lãnh  đạo  chính  quyền  chưa  chỉ  đạo  trực  tiếp  công  tác  phòng chống SXH trong cộng đồng. Cần có văn  bản  phân  công  trách  nhiệm  cụ  thể  cho  từng  thành  viên  ban  chỉ  đạo  chương  trình,  từng  ban  ngành đoàn thể một cách rõ ràng. Trong đó lãnh  đạo  chính  quyền  chịu  trách  nhiệm  chính  trong  hoạt động phòng chống SXH.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Fernandez EA, Leontsini E, Sherman C, Chan AST, Reyes CE, et  al  (1998).  Trial  of  a  community‐based  intervention  to  decrease  infestation  of  Aedes  aegypti  mosquitoes  in  cement  washbasins  in  El  Progreso, Honduras. Acta Tropic,; 70(2): 171–183.

Thứ  tư,  vai  trò  lãnh  đạo  của  chính  quyền  trong công tác phòng chống SXH chưa tích cực  và  thường  xuyên.  Nghiên  cứu  định  lượng  cho  thấy một phần ba người dân đánh giá công tác  phòng  chống  SXH  của  chính  quyền  là  trung  bình, kém và rất kém. Nghiên cứu định tính chỉ  ra  rằng  chiến  dịch  diệt  lăng  quăng  được  thực  hiện  tích  cực  với  sự  tham  gia  tích  cực  từ  phía  chính  quyền  và  các  ban  ngành  đoàn  thể,  tuy  nhiên sau chiến dịch tình trạng diệt lăng quăng  không  được  duy  trì  thường  xuyên.  Lãnh  đạo  chính quyền chưa đến chỉ đạo trực tiếp công tác  phòng  chống  SXH  trong  cộng  đồng.  Việc  xử  phạt  theo  Nghị  định  45/2005/NĐ‐CP  chưa  áp  dụng  do  việc  xử  phạt  phức  tạp,  người  dân  nghèo và sợ mất tình làng nghĩa xóm.

2. Leontsini  E,  Gril  E,  Kendall  C,  Clark  GG(1993).  Effect  of  a  community‐based Aedes aegypti  control  program  on  mosquito  larval  production  sites  in  El  Progreso,  Honduras.  Transactions  of  the  Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene,; 87: 267–271.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Người dân có tỉ lệ hiểu biết cao về sốt xuất  huyết nhưng các thực hành về súc rửa, đậy nắp

531

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ MẠNG LƯỚI CỘNG TÁC VIÊN PHÒNG CHỐNG   SỐT XUẤT HUYẾT NĂM 2011

Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Hồ Hữu Tính*, Đặng Văn Chính*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Hoạt động giám sát phòng chống SD/SXHD của Viện Vệ sinh Y tế Công cộng tại một số tỉnh  gợi ý vấn đề tính hiệu quả trong việc kiểm soát côn trùng trong ở xã có mạng lưới cộng tác viên và xã không có  mạng lưới cộng tác viên.

Mục tiêu: Xác định hiệu quả hoạt động phòng chống sốt xuất huyết giữa xã có mạng lưới cộng tác viên so

với xã không có mạng lưới cộng tác viên.

Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, phỏng vấn trực tiếp qua bộ câu hỏi và quan sát các vật dụng

chứa nước.

Kết quả: Hầu hết số ca mắc ở xã có CTV thấp hơn xã không có CTV. Chỉ số BI ở xã không có CTV cao hơn  1,3 lần so với xã có CTV. 86,4% đối tượng phỏng vấn ở xã không có CTV biết về bệnh SXH, tỷ lệ này thấp hơn  xã có CTV (91,6%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về việc CTV tuyên truyền diệt lăng quăng và đánh giá  trách nhiệm PCSXH của chính quyền. Tuy nhiên, không có sự khác biệt trong việc dọn dẹp DCCN linh tinh ở xã  có CTV và xã không có CTV.

Kết luận: Hiệu quả của CTV đã mang lại một số kết quả đáng khích lệ; tuy nhiên không hằng định. Để duy  trì hiệu quả cần phải cân nhắc đến đặc điểm từng địa phương. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác truyền  thông thay đổi hành vi.

Từ khóa: CTV, phòng chống SXH.

ABSTRACT

EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF VILLAGE HEALTH VOLUNTEERS (VHVs) ON DENGUE  HAEMORRHAGIC FEVER PREVENTION IN 2011

Nguyen Thi Bich Ngoc*, Ho Huu Tinh*, Dang Van Chinh*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 533 ‐ 539

Background: According to the DF/DHF prevention surveillance in some Southern provinces carried by the  Institute  of  Hygiene  and  Public  Health  (IHPH),  it  is  suggested  that  Breteau  Index  (BI)  of  communes  having  program educators (PEs) and without program educators were not considerably different.

Objectives: To evaluate the effectiveness of program educators on Dengue haemorrhagic fever prevention.

Method: This was a cross‐sectional survey based on direct interviews and observation.

Results: The communes in which there were not PEs had more DF/DHF cases. BI in communes without PE  was 1.3 times higher than that in communes with PE. The prevalence of interviewees aware of Dengue fever in  communes with PEs was higher than that in communes without PEs (91.6% vs 86.4%). There was statistically  significant difference in VHVs communicate for people to kill laviar and evaluate the responsibility of authority.

Conclusion:  VHVs  network  has  brought  some  encouraging  results  but  not  constant.To  maintain  the

∗ Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Bích Ngọc

ĐT: 0946486422

Email: bichngoc95@yahoo.com

532

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  effectiveness of VHVs network and to replicate it to other communes, local characteristics should be considered  and education should be reinforced.

Key words: Village health volunteers, Dengue haemorrhagic fever prevention

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay hoạt động của mạng lưới cộng tác viên  cũng chỉ mới triển khai ở những xã trọng điểm  và hiệu quả hoạt động vẫn chưa được đánh giá  đầy đủ.

Sốt  Dengue/  Sốt  xuất  huyết  Dengue  (SD/SXHD) là bệnh truyền nhiễm do muỗi Aedes  Aegyptyvà là vấn đề y tế công cộng trên thế giới.  Hiện nay, SXH là nguyên nhân nhập viện và tử  vong  hàng  đầu  ở  trẻ  em  ở  nhiều  nước  Đông  Nam Á.

Các  hoạt  động  giám  sát  phòng  chống  SD/SXHD  của  Viện  Vệ  sinh  Y  tế  Công  cộng  tại  một số tỉnh gợi ý chỉ số Breateau (BI) ở vùng có  cộng tác viên và vùng không có mạng lưới cộng  tác viên không có sự khác biệt đáng  kể.  Vì  vậy  việc  đánh  giá  hiệu  quả  hoạt  động  của  cộng  tác  viên nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống dịch  SXH là rất cần thiết.

Mục tiêu

Tại  Việt  Nam,  số  ca  mắc  và  chết  do  SD/SXHD gia tăng kể từ năm 1994 trở lại đây.  Bệnh  dịch  SD/SXHD  lưu  hành  địa  phương  rộng rãi và tần số mắc bệnh hàng năm rất lớn:  năm có số mắc thấp nhất trên 50 nghìn trường  hợp  (1992),  năm  có  số  mắc  cao  nhất  354.517  trường  hợp  (1987).  Riêng  trong  năm  2010  có  128.831 trường hợp mắc SD/SXHD trong đó có  109 ca tử vong(7).

Mô  tả  hoạt  động  phòng  chống  sốt  xuất  huyết  ở  xã  có  mạng  lưới  cộng  tác  viên  và  xã  không  có  mạng  lưới  cộng  tác  viên  về  các  hoạt  động diệt lăng quăng, và tham gia xử lý ổ dịch  nhỏ.

So sánh tỉ lệ mắc, chết SXH của địa phương

từ 1/2011 đến 9/2011.

So  sánh  chỉ  số  Breteau  (BI),  chỉ  số  nhà  có  lăng  quăng  (HI),  chỉ  số  dụng  cụ  chứa  nước  có  lăng  quăng  (CI)  giữa  xã  có  công  tác  viên  và  xã  không có cộng tác viên.

PHƯƠNG PHÁP

Chương  trình  phòng  chống  SD/SXHD  bắt  đầu triển khai tại Việt Nam từ năm 1998. Những  hoạt động phòng chống SD/SXHD đã được triển  khai  như  diệt  muỗi  trưởng  thành  qua  phun  xịt  hóa chất diệt muỗi, diệt lăng quăng như súc rửa  các vật dụng chứa nước, thả cá vào các vật chứa  nước, xóa bỏ môi trường tạo điều kiện cho muỗi  sinh  sản  và  phát  triển  như  hoạt  động  vệ  sinh  môi  trường,  loại  bỏ  các  vật  dụng  chứa  nước  có  lăng  quăng.  Tất  cả  các  hoạt  động  này  đều  cần  đến vai trò của đội ngũ cộng tác viên(1).

Thiết kế  nghiên  cứu  cắt  ngang  nhằm  mô  tả  hiệu quả hoạt động phòng chống sốt xuất huyết  của mạng lưới cộng tác viên. Nghiên cứu được  thực  hiện  tại  tỉnh  Tiền  Giang,  Cần  Thơ,  Đồng  Tháp và Bình Dương. Mỗi tỉnh điều tra 2 xã có  CTV  SXH  và  2  xã  không  có  CTV  SXH  với  kỹ  thuật  lấy  mẫu  cụm.  Số  liệu  được  thu  thập  qua  phỏng vấn trực tiếp 784 chủ hộ và quan sát các  dụng cụ chứa nước (DCCN).

Nhiệm  vụ  của  các  cộng  tác  viên  bao  gồm  trong 4 hoạt động chính. Thứ nhất, vãng gia từ  50‐60 hộ gia đình trong địa bàn quản lý ít nhất 1  lần/tháng  để  tuyên  truyền  vận  động  về  phòng  chống  sốt  xuất  huyết  (PCSXH),  kiểm  tra  vật  chứa  nước,  theo  dõi  thông  báo  kịp  thời  các  trường hợp nghi ngờ mắc Dengue. Thứ hai, phối  hợp  cùng  với  nhà  trường  trong  việc  tuyên  truyền,  kiểm  tra  lăng  quăng.  Thứ  ba,  tham  dự  đầy  đủ  các  lớp  tập  huấn,  chiến  dịch  diệt  lăng  quăng,  xác  minh  ca  bệnh  và  xử  lý  ổ  dịch  nhỏ  (ODN). Cuối cùng là thực hiện việc báo cáo hoạt  động  hàng  tháng  về  Trạm  Y  tế  theo  qui  định.

533

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ

Mô tả hoạt động diệt lăng quăng và xử  lý  ODN ở xã có mạng lưới CTV và xã không  có CTV

Phân bố độ tuổi trong mẫu nghiên cứu ở các  xã có CTV và không có  CTV  gần  tương  đương  nhau. Tỷ lệ nữ giới cao gần gấp đôi so với nam  giới.  Tỷ  lệ  người  được  phỏng  vấn  có  trình  độ  học  vấn  ≤  cấp  1  cao  gấp  đôi  những  người  có  trình độ học vấn ≥ cấp 3. Đối tượng điều tra làm  nghề nông ở xã không có CTV cao hơn 1,5 lần so  với xã có CTV (39,0% so với 26,6%).

Bảng 2: Kiến thức phòng chống sốt xuất huyết ở hộ  gia đình xã có cộng tác viên và xã không có cộng tác  viên.

Đặc điểm p Không CTV Có CTV % n % n Biết bệnh SXH

0,02 Không Có 53 337 33 13,6 8,4 86,4 358 91,6 Biết bệnh SXH do muỗi đốt

Công  tác  xử  lý  ODN  ở  xã  có  CTV  và  xã  không có CTV không có sự khác biệt đáng kể vì  tất  cả  các  ODN  xảy  ra  trên  địa  bàn  các  xã  đều  được Trạm y tế (TYT) phối hợp với Trung tâm y  tế  (TTYT)  huyện,  UBND  xã  và  các  ban  ngành  đoàn  thể  xử  lý  theo  qui  định  của  Bộ  Y  tế.  Khi  ODN được ghi nhận và báo cáo về địa phương,  TYT sẽ tiến hành điều tra xác minh ca bệnh. Kế  tiếp  chính  quyền  xã  huy  động  các  Ban  ngành  đoàn thể (BNĐT) (hội phụ nữ, thanh niên) tham  gia các hoạt động diệt lăng quăng và vệ sinh môi  trường. TTYT huyện tham gia công tác giám sát  và phun hóa chất diệt muỗi.

0,50 Không Có 10 327 3,0 14 3,9 97,0 344 96,1 Loại muỗi gây SXH

0,03 Muỗi vằn Muỗi khác Không biết 218 55 54 66,7 261 75,0 37 16,8 10,6 50 16,5 14,4 SXH xảy ra nhiều nhất

Trong các đợt chiến dịch diệt lăng quăng đã  được  Trung  tâm  y  tế  đự  phòng  (TTYTDP)  tỉnh  triển khai trong năm 2011. Tất cả các xã nghiên  cứu đều đã tham gia thực hiện chiến dịch với sự  tham gia của đội ngũ CTV (ở những xã có CTV),  sự  tham  gia  của  chính  quyền  và  các  BNĐT.  Ở  các xã không có đội ngũ CTV sẽ có cộng tác viên  từ  các  chương  trình  Y  tế  khác  hỗ  trợ  thêm  cho  công tác PCSXH.

0,42 Trẻ em Mọi lứa tuổi Không biết 267 46 24 79,2 297 83,0 39 13,7 10,9 22 7,1 6,1

Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu.

Người dân ở xã không có CTV không biết về  bệnh  SXH  cao  gấp  1,6  lần  và  không  biết  hoặc  nhầm  lẫn  loại  muỗi  gây  bệnh  SXH  cao  gấp  1,3  lần  so  với  xã  có  CTV.  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê.

Có CTV Đặc điểm

Đặc điểm p n

Bảng 3: Thực hành phòng chống sốt xuất ở xã có  cộng tác viên và xã không có cộng tác viên.  Không CTV Có CTV n %

% Bảng cam kết PCSXH

<0,001 Không Có 0,06 280 100,0 146 40,7 0,0 213 59,3 69 ±6,8 5,6 ±8,9 Bao lâu súc rửa DCCN 4,5 Dẹp DCCN linh tinh tuần qua

0,73 Không Có 30 360 7,7 24 6,1 92,3 367 93,9 Muỗi trong nhà tuần qua

0,93 Không Có 39 349 10,1 40 10,2 89,9 351 89,8

% 83,4 16,6 69,8 30,2 40,4 40,9 18,7 26,6 28,1 6,4 28,1 10,8 Tuổi ≤ 60 > 60 Giới tính Nữ Nam Trình độ học vấn ≤ cấp 1 Cấp 2 ≥ cấp 3 Nghề nghiệp Nông dân Kinh doanh CBVC Nội trợ Khác Không CTV % n 85,6 334 14,4 56 65,4 255 34,6 135 41,5 162 41,3 161 17,2 67 39,0 152 20,0 78 4,6 18 25,4 99 11,0 43 n 326 65 273 118 158 160 73 104 110 25 110 42

534

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tỷ lệ người dân ở xã có CTV đánh giá chính  quyền thực hiện tốt công tác PCSXH cao hơn so  với xã không có CTV (89,5% so với 82,8%).

Bảng 5: Số ca mắc, chết sốt xuất huyết của địa  phương 9 tháng đầu năm 2011.

Việc dán bảng cam kết PCSXH ở xã có CTV  được  thực  hiện  tốt  hơn  xã  không  có  CTV,  sự  khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,001. Tần số  súc  rửa  các  dụng  cụ  chứa  nước  ở  xã  có  CTV  nhiều hơn xã không có CTV. Tuy nhiên, sự khác  biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Số ca mắc Số chết Địa điểm

Bảng 4: Đánh giá của người dân về trách nhiệm  phòng chống sốt xuất ở xã có cộng tác viên và xã  không có cộng tác viên.  Đặc điểm

p Không CTV Có CTV % % n n

Trách nhiệm chính PCSXH 22 2,6 0,03 Chính quyền Gia đình Không biết 10 5,6 362 92,8 359 91,8 18 2,6 4,6 10 Chính quyền thực hiện PCSXH

0,02 Tốt Trung bình Kém 323 82,8 350 89,5 39 10,0 60 15,4 2 1,8 7 0,5 Tỉnh Cần Thơ Quận Bình Thủy Huyện Cờ Đỏ Tỉnh Tiền Giang Huyện Gò Công Tây Thị xã Gò Công Tỉnh Đồng Tháp Huyện Tam Nông TP Cao Lãnh Tỉnh Bình Dương Huyện Tân Uyên TX Thủ Dầu Một Xã không CTV 25 3 8 10 9 25 90 30 Xã có CTV 8 2 4 10 4 19 146 14 Xã không CTV 0 0 0 0 0 0 0 0 Xã có CTV 0 0 0 0 0 0 0 0 Gia đình thực hiện PCSXH

Hầu hết các xã có CTV ở 4 tỉnh có số ca mắc  9  tháng  đầu  năm  2011  thấp  hơn  xã  không  có  CTV  ngoại  trừ  huyện  Tân  Uyên  tỉnh  Bình  Dương.

0,16 Tốt Trung bình Kém 343 88,0 358 91,6 43 11,0 8,2 1,0 4 0,2 32 1

Bảng 6: Chỉ số Breteau (BI), chỉ số nhà có lăng quăng (HI), chỉ số dụng cụ chứa nước có lăng quăng (CI) ở xã có  cộng tác viên và xã không có cộng tác viên.  Chỉ số BI

CI Địa điểm Chỉ số HI Xã không có CTV Xã có CTV Xã không có CTV Xã có CTV Xã không có CTV Xã có CTV Tỉnh Cần Thơ

Quận Bình Thủy Huyện Cờ Đỏ 20 39 38 35 16 26 21 25 6 9 7 10

Tỉnh Tiền Giang Huyện Gò Công Tây Thị xã Gò Công 53 27 29 20 26 16 20 18 7 4 4 3 Tỉnh Đồng Tháp

69 29 16 11 41 22 16 11 23 16 6 4 Huyện Tam Nông TP Cao Lãnh Tỉnh Bình Dương

Chỉ số HI trung bình không có sự khác biệt  đáng kể, ở xã có CTV là 19 và không có CTV là  23.  Ngoại  trừ  tại  Bình  Thủy,  Cần  Thơ  và  Tân  Uyên, Bình Dương.

Chỉ số BI trung bình ở xã không có CTV cao  hơn xã không có CTV (29 so với 37). Tuy nhiên ở  Tân  Uyên,  Bình  Dương  xã  có  CTV  có  chỉ  số  BI  cao gấp hơn xã không có CTV. Và ở Bình Thủy,  Cần Thơ xã có CTV có chỉ số BI cao gần gấp đôi  xã không có CTV.

CI trung bình ở xã không có CTV gần tương  đương  xã  có  CTV  (11  so  với  13).  Riêng  Đồng

Huyện Tân Uyên TX Thủ Dầu Một Trung bình 18 39 37 57 22 29 14 23 23 27 16 19 14 23 13 39 12 11

535

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

được điều chỉnh và công tác PCSXH ở tuyến xã  đang ngày một tốt hơn.

Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Nghiên cứu Y học  Tháp chỉ số CI ở xã không có CTV cao gấp 4 lần  xã có CTV. Tỉnh Bình Dương có sự khác biệt chỉ  số  CI  ở  2  huyện,  Tân  Uyên  xã  không  có  CTV  thấp  hơn  gần  3  lần  xã  có  CTV;  ngược  lại  Thủ  Dầu Một xã không có CTV chỉ số CI cao gần gấp  đôi xã không có CTV.

Bảng 7. Mối quan hệ giữa số nhà có dụng cụ chứa  nước có lăng quăng ở xã có cộng tác viên và xã không  có cộng tác viên.

Hầu hết các đối tượng nghiên cứu có độ tuổi  ≤ 60 và chiếm tỷ lệ gần tương đương nhau ở xã  không  có  CTV  và  có  CTV.  Có  sự  khác  biệt  về  nghề nghiệp ở xã có CTV và xã không có CTV.  Đối tượng điều tra làm nghề nông ở xã không có  CTV  cao  hơn  lần  so  với  xã  có  CTV.  Nữ  giới  chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới ở xã không  có CTV và ở xã có CTV. Tỉ lệ này tương tự với tỉ  lệ nghiên cứu về hành vi PCSXH ở Cai Lậy tỉnh  Tiền Giang năm 2010 (2).

Không CTV Tỉnh p % Có CTV % n n

16 26,5 0,51 0,82 Quận Bình Thủy Huyện Cờ Đỏ Tỉnh Cần Thơ 21,3 10 24,5 12 8 13 Tỉnh Tiền Giang

Tỷ lệ người được phỏng vấn có trình độ học  vấn ≤ cấp 1 cao gấp đôi những người có trình độ  học  vấn  ≥  cấp  3  cho  thấy  đây  là  điều  kiện  khó  khăn  cho  việc  tuyên  truyền  PCSXH  đến  các  hộ  gia đình.

26,5 16,3 0,45 0,76 Huyện Gò Công Tây 10 9 Thị xã Gò Công 20 18,7 13 8 Tỉnh Đồng Tháp

40,8 21,7 0,02 0,33 Huyện Tam Nông TP Cao Lãnh 9 7 18,4 14 20 10 Tỉnh Bình Dương

Kiến thức PCSXH

Trong  số  8  huyện  của  4  tỉnh,  chỉ  có  huyện  Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp là có sự khác biệt có  ý nghĩa thống kê.

16,3 22,5 0,22 0,45 Huyện Tân Uyên TX Thủ Dầu Một 13 8 26,5 16,3 8 11

BÀN LUẬN

Mô tả hoạt động diệt lăng quăng và  xử  lý  ODN ở xã có mạng lưới CTV và xã không  có CTV

Đa số người dân có kiến thức về bệnh SXH.  Khoảng 90% người dân có biết về bệnh SXH, tuy  nhiên  tỷ  lệ  ở  xã  có  CTV  cao  hơn  xã  không  có  CTV. Kết quả này tương tự với một nghiên cứu  khác ở Tiền Giang với tỷ lệ 88,6% người dân biết  về bệnh  SXH(4).  Tỷ  lệ  này  thấp  hơn  nghiên  cứu  KAP ở Cần Thơ năm 2007 với tỷ lệ 98,8% người  dân từng nghe nói về SXH(5). Bên cạnh đó, gười  dân  ở  xã  có  CTV  biết  chính  xác  muỗi  vằn  gây  bệnh SXH cao hơn xã không có CTV.

Thực hành PCSXH

Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ  hộ  gia  đình  được  CTV  đến  tuyên  truyền  diệt  lăng quăng trong tháng. 71,0% hộ gia đình ở xã  có  CTV  được  tuyên  truyền  trong  khi  tỷ  lệ  ở  xã  không  có  CTV  là  60,8%.  Những  xã  không  có  CTV nhưng vẫn được tuyên truyền về PCSXH là  do lồng ghép trong những đợt triển khai các đợt  chiến  dịch  diệt  lăng  quăng  và  hoạt  động  xử  lý  ODN. Tuy nhiên, việc dọn dẹp DCCN linh tinh  trong tuần qua không ghi nhận sự khác biệt ở xã  có  CTV  và  không  có  CTV.  Điều  này  cho  thấy  rằng,  mặc  dù  người  dân  đã  được  CTV  tuyên

Không  có  sự  khác  biệt  đáng  kể  giữa  hoạt  động PCSXH ở xã có CTV và xã không có CTV  trong  công  tác  xử  lý  ODN  và  tham  gia  chiến  dịch diệt lăng quăng. Điều này là do có sự tham  gia của chính quyền, các ban ngành đoàn thể và  đặt biệt là của các CTV của các chương trình Y tế  khác  ở  những  xã  không  có  CTV.  Đây  là  điểm  khác  biệt  so  với  nghiên  cứu  đánh  giá  chương  trình  giám  sát  và  kiểm  soát  SXH  năm  2009(3).  Vào thời điểm đánh giá năm 2009, sự tham gia  của  các  ban  ngành  đoàn  thể  vào  công  tác  kiểm  soát SXH còn rất hạn chế, chủ yếu là lực lượng  nhân viên y tế. Bên cạnh đó các chiến dịch diệt  lăng  quăng  vẫn  chưa  thực  hiện  tốt.  Tuy  nhiên  hiện nay phần lớn những điểm hạn chế trên đã

536

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  truyền  nhưng  hành  vi  PCSXH  chưa  có  sự  thay  đổi.

các xã đã được tuyên truyền diệt lăng quăng qua  các  đợt  xử  lý  ổ  dịch  nhỏ  và  các  chiến  dịch  diệt  lăng quăng.

Đánh giá trách nhiệm phòng chống SXH

Đa số người dân ở xã có CTV đánh giá chính  quyền tại địa phương đã thực hiện tốt và rất tốt  công tác phòng chống SXH. Điều này có thể gợi  ý xã có CTV người dân có cho rằng về sự quan  tâm  của  các  cấp  chính  quyền,  các  ban  ngành  đoàn  thể  đến  đến  chương  trình  kiểm  soát  SXH  nhiều hơn.

Số ca mắc SXH

Trong 4 xã điều tra có đến 3 xã có chỉ số BI  vượt  ngưỡng  dự  báo  dịch  (BI>20).  Chỉ  số  HI  ở  tất  cả  các  xã  đều  vượt  ngưỡng  dự  báo  dịch  (HI>5%). Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới Khu Vực  Tây  Thái  Bình  Dương  thì  khi  HI>5%  và/hoặc  BI>20%  cho  bất  kỳ  cộng  đồng  nào  là  dấu  hiệu  cho  biết  vùng  có  nguy  cơ  xảy  ra  dịch  SD/SXHD(6). Do vậy trong 4 xã điều tra đã có 3  xã có nguy cơ xảy ra dịch.

Đồng Tháp

Hiệu quả hoạt động của đội ngũ CTV phòng  chống SXH tại Đồng Tháp được thể hiện rõ qua  chỉ số BI khá thấp (16 và 11). Ở khu vực Thành  phố, chỉ số BI thấp hơn khu vực huyện, đặc biệt  là ở xã không có CTV với chỉ số BI thấp hơn 2,4  lần có thể là sau chiến dịch diệt lăng quăng. Sau  khi  thực  hiện  xong  chiến  dịch  diệt  lăng  quăng  thì  người  dân  không  chú  ý  đến  dọn  dẹp  nhà  cửa, súc rửa dụng cụ chứa nước.

Không khác biệt đáng kể số ca mắc SXH ở xã  có  CTV  thấp  hơn  xã  không  có  CTV.  Tuy  nhiên  với tiêu chí chọn xã có CTV là ở những xã trọng  điểm  SXH,  số  ca  mắc  thấp  ở  xã  có  CTV  gợi  ý  CTV  có  thể  có  tác  động  đến  hiệu  quả  của  chương  trình.  Tuy  nhiên  cần  so  sánh  thêm  với  các  mô  hình  PCSXH  khác  chẳng  hạn  như  mô  hình  PCSXH  trong  trường  học  và  đánh  giá  về  nhiều mặt như hiệu quả về mặt chi phí, nhân lực  để có thể nhân rộng mô hình hoặc thay đổi mô  hình  phù  hợp  với  tình  hình  thực  tế  từng  địa  phương.

Chỉ số BI, HI và CI

Cần Thơ

Có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  số  nhà có DCCN có lăng quăng ở huyện Tam Nông  do khác biệt về tình trạng dự trữ nước mưa của  người dân ở hai xã này.

Bình Dương

Qua điều tra 4 xã, chỉ có 1 xã có chỉ số BI <20  thuộc  về  xã  không  có  CTV  huyện  Tân  Uyên.  Cũng  tại  Tân  Uyên,  chỉ  số  BI  ở  xã  có  CTV  cao  gấp 3 lần xã không có CTV. Có thể điều này là  do  tỷ  lệ  sử  dụng  nước  máy  ở  xã  có  CTV  thấp  hơn xã không có CTV.

Qua điều tra 4 xã ở Cần Thơ, ngoại trừ 1 xã  không có CTV có chỉ số BI=20, các xã còn lại có  chỉ số BI trong khoảng 35‐40. Mặc dù xã không  có CTV nhưng chỉ số BI nằm trong giới hạn cho  phép vì xã vừa trãi qua đợt diệt lăng quăng xử  lý ODN. Bên cạnh đó là hoạt động tích cực của  trạm Y tế xã và sự nhiệt tình của cộng tác  viên  các chương trình y tế khác.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Tiền Giang

Số ca mắc ở xã có CTV thấp hơn số ca mắc ở  xã không có CTV. Mặc dù số ca mắc không có sự  chênh lệch đáng kể. Nghiên cứu này tại một thời  điểm nên khó đánh giá hiệu quả do mạng lưới  CTV  trong  việc  làm  giảm  số  ca  mắc  SXH.  Tuy  nhiên  mô  hình  CTV  có  một  số  hạn  chế  nhất  định. Thứ nhất, kinh phí sử dụng cho mỗi CTV  là rất thấp nhưng kinh phí cho cả hệ thống CTV  là rất tốn kém. Thứ hai, sự chỉ đạo của của chính

Tại  Tiền  Giang  chỉ  số  BI  ở  xã  có  CTV  thấp  hơn xã không có CTV (26 so với 40) và thấp hơn  chỉ  số  BI  trung  bình  do  tỉnh  giám  sát  (BI=54)(2).  Các  chỉ  số  HI  cũng  tương  tự,  chỉ  số  HI  trong  nghiên  cứu  thấp  hơn  nhiều  so  với  chỉ  số  giám  sát trung bình của tỉnh lần lượt là 19,4% ở xã có  CTV, 21,4% ở xã không có CTV so với 36% của  tỉnh.  (5). Tuy vậy chỉ số này là phù hợp với tình  hình thực tế vì ở các xã có chỉ số lăng quăng thấp

537

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

2. Bùi  Thị  Kiều  Anh,  Nguyễn  Thị  Bích  Ngọc,  Đặng  Văn  Chính.  (2010). Hành vi phòng chống sốt xuất huyết ở người dân xã Mỹ  Hạnh Trung huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang năm 2010. Đề tài  cấp cơ sở Viện Vệ sinh Y tế công cộng Tp.HCM

Nghiên cứu Y học  quyền và phối hợp giữa y tế và các ngành nghề  khác  có  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  hiệu  quả  hoạt  động của CTV.

3. Đặng Văn Chính, Lê Hoàng Ninh, Bùi Thị Kiều Anh, Bùi Đắc  Thành  Nam,  Nguyễn  Thị  Bích  Ngọc,  Dương  Tiểu  Phụng,  (2010). Đánh giá giám sát và kiểm soát Sốt xuất huyết Dengue  tại các tỉnh miền Nam Việt Nam năm 2009. Y học  Thành  phố  HCM, tập 14 (2) ‐2010, tr.38‐47.

4. Lê Đăng Ngạn (2011). Báo cáo hoạt động phòng chống sốt xuất

huyết tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2011. p.9.

Mặc  dù  đa  số  người  dân  đều  biết  về  bệnh  SXH tuy nhiên các chỉ số giám sát côn trùng đều  dịch  vượt  ngưỡng  cho  thấy  công  tác  truyền  thông PCSXH người dân cần phải thay đổi thích  hợp, nhằm thay đổi hành vi của người dân.

5. Lê Thành Tài, Nguyễn Thị Kim Yến (2008). Kiến thức, thái độ,  thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng chống sốt xuất  huyết Dengue của người dân xã Mỹ Khánh huyện Phong Điền  thành phố Cần Thơ năm 2007. Y học Thành phố Hồ Chí Minh,  tập 12 (4)‐2008, tr. 39‐44.

Tính hiệu quả của mạng lưới CTV vẫn chưa  hằng định, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.  Tuy  nhiên  để  nâng  cao  hiệu  quả  phòng  chống  dịch SXH cần xem xét sự phù hợp của mô hình  với từng địa phương.

6. Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  khu  vực  Tây  Thái  Bình  Dương  (2002).  Hướng  dẫn  giám  sát  Dengue  và  phòng  chống  véc  tơ.  NXB  Y  học Hà Nội. 2002. tr.18.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ Y tế (2001). Hướng dẫn phòng chống sốt Dengue và sốt xuất

huyết Dengue. Nhà xuất bản y học Hà Nội. 2001.

7. Viện Sốt rét Ký Sinh trùng ‐ Côn trùng Quy Nhơn (2010). Tình  hình dịch bệnh sốt xuất huyết trong năm 2010 và những vấn đề  cần  quan  tâm  giải  quyết.  Available  from:  http://www.impe‐ qn.org.vn, 22/02/2011.

538

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH HÌNH SỨC KHỎE HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ  NGUYỄN VĂN ẨN XàLONG THUẬN HUYỆN BẾN CẦU   TỈNH TÂY NINH NĂM 2011

Nguyễn Doãn Thành*, Dương Tiểu Phụng*, Ngô Ngọc Thùy Nhiên*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh hiện là một trong những địa phương có nhiều

khó khăn về kinh tế. Sức khỏe học sinh là vấn đề cần được quan tâm

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tình trạng sức khỏe học sinh, tỷ lệ bệnh tật phổ biến, bệnh học đường ở học  sinh trường trung học cơ sở (THCS) Nguyễn Văn Ẩn, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh năm  2011 và một số yếu tố liên quan đến bệnh học đường.

Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả tiến hành trên 496 học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS

Nguyễn Văn Ẩn, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Kết quả nghiên cứu: Sức khỏe học sinh loại A chiếm 14,92%, loại B chiếm 77,02% và loại C chiếm 8,06%.  Tỷ lệ cận thị là 4,44%; tỷ lệ cong vẹo cột sống (CVCS) là 24,19%; Tỷ lệ sâu răng là 37,9%. Có mối liên quan  giữa cận thị với thời gian học bài ở nhà, thời gian học thêm, thời gian sử dụng máy vi tính. Nghiên cứu cũng tìm  thấy có mối liên quan giữa CVCS với giới tính, khối lớp và thời gian sử dụng máy vi tính. Tất cả các lớp học đều  đạt tiêu chuẩn về ánh sáng nhưng đều không đạt về tiêu chuẩn kích thước bàn ghế, tuy nhiên, nghiên cứu này  cũng chưa tìm thấy mối liên quan giữa điều kiện ánh sáng, kích cỡ bàn ghế với tật cận thị và CVCS.

Kết luận: Dinh dưỡng kém dẫn đến thể lực kém ở học sinh là vấn đề cần được quan tâm. Tuy tỷ lệ cận thị  thấp hơn nhiều địa phương khác nhưng CVCS và bệnh về răng miệng chiếm tỷ lệ cao. Vì vậy, để chăm lo tốt sức  khỏe học sinh, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình cho vấn đề này.

Từ khóa: tình trạng sức khỏe học sinh, THCS Nguyễn Văn Ẩn, sức khỏe trường học

ABSTRACT

HEALTH STATUS OF PUPILS STUDYING AT NGUYEN VAN AN SECONDARY SCHOOL IN LONG  THUAN VILLAGE BEN CAU DISTRICT TAY NINH PROVINCE 2011

Nguyen Doan Thanh*, Duong Tieu Phung*, Ngo Ngoc Thuy Nhien*

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 540 ‐ 545

Background: The pupils’ heath and school related diseases are very concerned issues, especially in rural sites

with economic difficulties such as Long Thuan village, Ben Cau district Tay Ninh province.

Objectives: Determining the health status of pupils, the prevalence of common diseases and school related  diseases at Nguyen Van An secondary school in Long Thuan village, Ben Cau distric Tay Ninh province in 2011  and some relation factors to school related diseases.

Method: Cross‐sectional study conducted on 496 pupils from 6th to 9th grades at Nguyen Van An secondary

school in Long Thuan village, Ben Cau district, Tay Ninh province.

Results:  The  rate  of  pupils  with  level  A  in  health  classification,  which  is  assessed  as  good  health  status,  consists of 14,92%, level B – fairly good is 77,02%, and level C is 8,06%. The myopia rate is 4,44%; scoliosis  curve (SC) rate is 24,19%; tooth decay rate is 37,9%. There is a significant relationship between myopia with

539

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Doãn Thành   ĐT: 0989028559   Email: nguyendoan_thanh@yahoo.com  Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  time for studying at home, time for attending private tuition, time for using computer. The study also found a  correlation between SC with: gender, grade, and time  for  using  computer.  All  classes  meet  the  requirement  of  lighting standards but did not meet the standard of tables and chairs’ size. The study also found no association  between light conditions, size of tables and chairs with myopia and SC.

Conclussion: The poor nutrition status is a concerned issue at Nguyen Van An secondary school. Although  the rate of myopia is less than the one at other localities, the SC and periodontal diseases acquire rather high rates.  Therefore, it is necessary to have a strong coordination between school and families in order to have a good care in  pupil health.

Key words: health status of pupils, Nguyen Van An secondary school, school health.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định tình trạng sức khỏe học sinh, tỷ lệ  bệnh  tật  phổ  biến,  bệnh  học  đường  ở  học  sinh  trường  Trung  học  Cơ  sở  Nguyễn  Văn  Ẩn  xã  Long Thuận huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh năm  2011 và một số yếu tố liên quan đến các bệnh tật  học đường.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Cắt  ngang  mô  tả  tiến  hành  từ  tháng  7/2011

đến tháng 7/2012.

Địa điểm và đối tượng nghiên cứu

Toàn bộ học sinh đang học tại trường THCS  Nguyễn  Văn  Ẩn,  xã  Long  Thuận,  huyện  Bến  Cầu, tỉnh Tây Ninh có mặt trong thời điểm điều  tra.

Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu

Việt  Nam  hiện  đang  phải  đối  mặt  với  hai  gánh nặng suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì  ở  học  sinh.  Mặt  khác,  tuổi  học  đường  là  giai  đoạn  các  em  dễ  bị  tác  động  bởi  các  yếu  tố  môi  trường.  Hiện  nay,  các  bệnh  học  đường  ở  học  sinh đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là cận  thị  và  cong  vẹo  cột  sống  (CVCS)(4,8,2,5,1).  Cận  thị  làm giảm thị lực nhìn xa, giảm khả năng học tập  và thậm chí có thể gây mù làm giảm chất lượng  cuộc  sống  (10).  Bệnh  CVCS  ảnh  hưởng  đến  sự  phát  triển  cơ  thể  của  trẻ,  là  một  trong  những  nguyên  nhân  dẫn  đến  bệnh  lý  về  hô  hấp,  tuần  hoàn, vận động và có thể làm lệch khung chậu,  ảnh hưởng đến khả năng sinh nở của các em nữ  khi  làm  mẹ  sau  này(3,6).  Có  nhiều  nguyên  nhân  dẫn đến gia tăng tỷ lệ cận thị và CVCS, trong đó,  yếu tố  xã  hội  cũng  như  môi  trường  học  đường  đóng vai trò rất quan trọng.

Lấy mẫu toàn bộ học sinh đang học từ lớp 6

đến lớp 9 có mặt trong thời điểm điều tra.

Các biến số của nghiên cứu

Biến phụ thuộc: Cận thị, cong vẹo cột sống,

sâu răng, các bệnh thông thường khác.

Biến  độc  lập:  Giới,  tuổi,  tiền  sử  gia  đình  bị  cận thị, mang kính điều chỉnh khúc xạ, thời gian  học tập và giải trí, loại cặp sách, cường độ chiếu  sáng trong phòng học, kích thước bàn ghế...

Phương pháp thu thập

Sức  khỏe  học  đường  hiện  là  một  trong  những vấn đề y tế công cộng đang được Chính  phủ quan tâm. Tuy nhiên, việc phòng ngừa các  bệnh  tật  học  đường  vẫn  còn  là  một  thách  thức  lớn. Long Thuận là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất  trong  huyện  Bến  Cầu  tỉnh  Tây  Ninh,  công  tác  chăm  sóc  sức  khỏe  học  sinh  và  công  tác  y  tế  trường  học  còn  rất  nhiều  trở  ngại.  Vì  vậy,  tìm  hiểu sức khỏe học  sinh  tại  trường  trung  học  cơ  sở Nguyễn Văn Ẩn là việc làm thiết thực, bước  đầu góp phần hỗ trợ vùng khó khăn, hưởng ứng  tháng vì trẻ em hàng năm và cũng là hưởng ứng  Chương  trình  Mục  tiêu  Quốc  gia  Sức  khỏe  học  đường năm 2011. Đây cũng là cơ sở để tiến hành  các hoạt động can thiệp sau này.

‐ Sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn và thực hiện  thao tác kỹ thuật theo  thường  quy  kỹ  thuật  Y  học  lao  động  –  Vệ  sinh  môi  trường  (YHLĐ  –  VSMT) và Sức khỏe trường học để thu thập các  thông tin về:

540

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

‐ Điều kiện vệ sinh phòng học.

‐ Chiều cao, cân nặng học sinh.

‐ Khám mắt, khám CVCS, khám nội khoa.

Đặc tính Tần số (n) Tỷ lệ % - Khác 117 23,6

Xử lý và phân tích số liệu

Nhận  xét:  Khối  6  có  lượng  học  sinh  đông  nhất  với  32,8%,  thấp  nhất  là  khối  8  với  20,6%.  Cha  mẹ  chủ  yếu  là  nghề  nông,  tiếp  theo  là  lao  động tự do và buôn bán.

Đặc điểm về bàn ghế và ánh sáng lớp học

Bàn ghế

Nhập  liệu  bằng  phần  mềm  EpiData  3.1,  xử  lý bằng phần mềm Stata 8.0. Xác định tỷ lệ phần  trăm cận thị, CVCS, sâu răng và các bệnh khác.  Xác định mối liên quan giữa cận thị, CVCS với  các  yếu  tố  khác  bằng  phép  kiểm  t  và  chi  bình  phương ở ngưỡng ý nghĩa 0,05.

Theo  Quyết  định  số  1221/2000/QĐ‐BYT  về  phân  loại  kích  cỡ  bàn  ghế,  100%  bàn  ghế  đều  KHÔNG ĐẠT tiêu chuẩn .

KẾT QUẢ

Ánh sáng

Đặc tính mẫu nghiên cứu  Bảng 1. Đặc tính học sinh theo khối lớp, giới, nghề  nghiệp cha mẹ (N=496)

Đặc tính Tần số (n) Tỷ lệ % Khối lớp

Theo  thông  tư  liên  tịch  số  18/2011/TTLT‐ BGDĐT‐BYT  ngày  28/4/2011,  100%  phòng  học  đạt tiêu chuẩn về điều kiện chiếu sáng: lớp được  chiếu  sáng  tự  nhiên  đầy  đủ,  đảm  bảo  độ  chiếu  sáng đồng đều không dưới 100 lux.

Giới tính

Tình  trạng  sức  khỏe  học  sinh,  tỷ  lệ  bệnh  tật, bệnh học đường và một số yếu tố liên  quan

Phân loại sức khỏe học sinh  Bảng 2: Kết quả phân loại sức khỏe học sinh (n=496)

Nghề nghiệp cha

Phân loại sức khỏe Loại A Loại B Loại C Tần số 74 382 40 Tỷ lệ (%) 14,92 77,02 8,06 Nghề nghiệp mẹ - Khối 6 - Khối 7 - Khối 8 - Khối 9 - Nam - Nữ - Làm ruộng - Lao động tự do - Buôn bán - Khác - Làm ruộng - Lao động tự do - Buôn bán 163 125 102 106 246 250 285 77 26 108 240 67 72 32,8 25,2 20,6 21,4 49,6 50,4 57,5 15,5 5,2 21,8 48,4 13,5 14,5

Kết quả thể lực học sinh  Bảng 3: Tình trạng dinh dưỡng của học sinh (N=496)

Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 N 88 66 44 48 BMI 16,36 ± 2,45 17,02 ± 2,44 17,68 ± 2,25 18,93 ± 3,26 Nam Cân nặng Chiều cao 31,55 ± 6,72 138,32 ± 6,78 35,83 ± 8,63 144,16 ± 8,81 40,48 ± 8,05 150,63 ± 7,89 156,81 ± 8,71 46,96 ± 10,61 n 75 59 58 58 BMI 16,58 ± 2,59 17,77 ± 2,85 18,46 ± 2,42 18,81 ± 2,12 Nữ Chiều cao 141,8 ± 6,41 146,94 ± 5,89 150,37 ± 5,13 152,13 ± 4,96 Cân nặng 33,55 ± 6,78 38,57 ± 7,81 41,81 ± 6,04 43,58 ± 5,31

Nhận xét: Ở cả nam và nữ, chỉ số BMI và chiều cao đều tăng dần theo khối lớp, tuy nhiên BMI ở

học sinh khối 6 và khối 7 tập trung ở mức nhẹ cân so với chuẩn BMI của WHO (dưới 18,5).

Kết quả bệnh tật ở học sinh

Sâu răng Tai – Mũi - họng Da liễu Bướu cổ Tim – phổi Tiêu hóa Tiết niệu 188 (37,9) 44 (8,87) 28 (5,65) 4 (0,81) 0 0 0

Bệnh tật nói chung  Bảng 4. Tình hình bệnh tật học sinh (N=496)   n (%) 22 (4,44) 120 (24,19)

Tình hình bệnh tật Cận thị Cong vẹo cột sống

541

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

*: Phép kiểm Fisher.

**: Phép kiểm phi tham số Wilcoxon rank sum test.

Thần kinh 0 Bệnh n (%) Yếu tố p Có (%) Không (%) PR (KTC 95%) Cảm giác khó chịu khi mang cặp 288 (74,04) Không 0,079 Có 101 (25,96) 19 (17,76) Yếu tố p 88 (82,24) Yếu tố thời gian - - 0,01* * Sử dụng máy vi tính 0,088 Giới tính

0,171* Khối lớp

Nhận xét: Có mối liên quan giữa CVCS và

Bệnh cận thị và yếu tố liên quan  Bảng 5: Mối liên quan giữa cận thị với các yếu tố:  giới tính, khối lớp, tiền sử gia đình có người bị cận  thị, thời gian học tập và giải trí (N=496)   Bệnh n (%) Có (%) Không (%) 7 (2,85) 239 (97,15) 15 (6,0) 235 (94,0) 4 (2,45) 159 (97,55) 10 (8,0) 115 (92,0) 4 (3,92) 98 (96,08) 4 (3,77) 102 (96,23)

3 (13,64) 19 (86,36) 0,067*

Giới tính, với p<0,001, theo đó, tỷ lệ học sinh  nam  bị  CVCS  cao  hơn  học  sinh  nữ  6,86  lần  (PR=6,86; KTC 95%: 4,05 – 11,93).

19 (4,01) 455 (95,99) Tiền sử gia đình có người bị cận

- -

<0,001**

Khối lớp (p = 0,015 < 0,05), qua mỗi khối lớp,  tỷ lệ này lại tăng lên. Khối 8 có tỷ lệ CVCS cao  nhất với 29,41%, thấp nhất là khối 6 với 15,34%.

Yếu tố thời gian - - - -

Thời gian sử dụng máy vi tính, với p = 0,01<

0,05.

**: Phép kiểm phi tham số Wilcoxon rank sum test.

Nam Nữ Khối 6 Khối 7 Khối 8 Khối 9 Có người thân bị cận Không có người thân bị cận Học bài ở nhà/tuần Học thêm/tuần Sử dụng máy vi tính  *: Phép kiểm Fisher.

BÀN LUẬN

Về vấn đề dinh dưỡng

Nhận  xét: Có mối  liên  quan  giữa  cận  thị  và  thời gian học bài, thời gian học thêm, thời  gian  sử dụng máy vi tính, với p < 0,001.  Bệnh CVCS và yếu tố liên quan

Bảng 6: Mối liên quan giữa CVCS với giới tính, khối  lớp, loại cặp sách, cảm giác khó chịu khi mang cặp,  thời gian học tập và giải trí (N=496)

Bệnh n (%) Yếu tố p Có (%) Không (%) PR (KTC 95%)

< 0,001 6,86 (4,05 – 11,93) Nam Nữ Giới tính 98 (39,84) 148 (60,16) 22 (8,80) 228 (91,20) Khối lớp Khối 6 25 (15,34) 138 (84,66)

Khối 7 36 (28,80) 89 (71,20)

Kết  quả  BMI  và  chiều  cao  trung  bình  cho  thấy,  tăng  theo  khối  lớp  ở  cả  nam  và  nữ.  Tuy  nhiên,  theo  phương  pháp  phân  loại  của  công  trình KC10.10 cho hoc sinh của Việt Nam, phân  loại  chiều  cao  và  cân  nặng  học  sinh  ở  điều  tra  này  là  thấp  và  thực  tế  cũng  thấp  hơn  các  em  cùng  lứa  ở  khu  vực  ngoại  thành  TP  HCM(7).  Thực tế, đây là địa phương còn nhiều khó khăn  kinh tế, có nhiều gia đình đông con (trung bình  2,3  con/gia  đình)  nên  cha  mẹ  thiếu  điều  kiện  quan tâm đúng mức đến vấn đề dinh dưỡng cho  các  em.  Vì  thể  lực  kém,  dẫn  đến  phân  loại  sức  khỏe  học  sinh  chủ  yếu  tập  trung  ở  loại  B  (loại  trung bình), chiếm 77,02%, đáng ngại hơn là có  8,06% học sinh có thể lực loại C (loại kém).

0,015 Khối 8 30 (29,41) 72 (70,59)

Về tình hình bệnh tật ở học sinh

Khối 9 29 (27,36) 77 (72,64) 1 2,23 (1,24 – 4,00) 2,30 (1,24 – 4,24) 2,07 (1,12 – 3,82) Loại cặp Cặp một quai 372 (75,61)

Về cận thị và yếu tố liên quan, cho thấy, tỷ lệ có  tật  khúc  xạ  chiếm  5,24%  trong  đó  cận  thị  là  4,44%, và thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của  Trần Minh Tâm(7). Đây có thể do khác biệt về địa  điểm nghiên cứu, sự khác nhau giữa nông thôn

1,00*

120 (24,39) 0 0 Cặp hai quai Cặp xách tay 2 (100) 2 (100)

542

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, giáo dục  sức khỏe cho các em ở nhà trường và gia đình.  Vì bệnh này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe,  thẩm  mỹ  mà  sức  khỏe  răng  miệng  còn  là  một  trong những yếu tố quan trọng quyết định đến  thành công trong hoạt động giao tiếp.

KẾT LUẬN

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  với  thành  thị  và  vùng  kinh  tế.  Một  điều  đáng  lưu ý là có 16/22 em không biết mình bị cận, tỷ lệ  63,64%. Vì vậy, nếu không phát hiện sớm, số em  này sẽ dễ bị tăng độ cận thị, hưởng đến việc học  tập  và  hạn  chế  sinh  hoạt.  Các  yếu  tố  liên  quan  đến  cận  thị  là  thời  gian  học  bài,  thời  gian  học  thêm,  thời  gian  sử  dụng  máy  vi  tính  trong  nghiên  cứu  này  cho  thấy  phù  hợp  với  nghiên  cứu khác của chính tác giả và Trần Minh Tâm(7,9).

Môi trường học đường: 100% phòng học đạt  chuẩn về điều kiện chiếu sáng. Tuy nhiên, kích  thước bàn ghế ở tất cả các phòng học đều không  đạt chuẩn.

Tình trạng thể lực của học sinh còn kém, tầm  vóc còn thấp bé, dẫn đến phân loại sức khỏe chủ  yếu  là  loại  B  chiếm  77,02%,  loại  A  chỉ  chiếm  14,92%, đáng quân tâm là có 8,06% học sinh có  sức khỏe loại C.

Tỷ lệ cận thị là 4,44%, có mối liên quan  với  các yếu tố: thời gian học bài, thời gian học thêm,  thời gian sử dụng máy vi tính.

Tỷ lệ CVCS là 24,19%, chủ yếu là vẹo  dạng  chữ S và chữ C. Các yếu tố liên quan là giới, khối  lớp, thời gian sử dụng máy vi tính.

Tỷ lệ sâu răng của học sinh là 37,9%.

KIẾN NGHỊ

Về cong vẹo cột sống và mối liên quan,  ta  thấy,  có  24,19%  học  sinh  bị  CVCS,  thấp  hơn  kết  quả  nghiên cứu trên đối tượng học sinh tiểu học của  Phạm Kim Anh(5) nhưng đây là một con số đáng  lo  ngại  vì  trung  bình  10  em  đã  có  hơn  2  em  bị  CVCS,  chủ  yếu  là  vẹo  hình  chữ  S  và  chữ  C,  chiếm  20,77%.  Bệnh  CVCS  trong  điều  tra  này  cho thấy, ở nam và nữ có sự khác biệt có ý nghĩa  thống  kê,  trong  đó  tỷ  lệ  nam  bị  CVCS  cao  hơn  nữ  6,86  lần  (Bảng  6).  Kết  quả  này  cho  thấy,  có  thể do các em nữ thường xuyên để tâm hơn các  em nam về điều chỉnh tư thế khi ngồi học, đọc  sách,  xem  tivi…  Mặt  khác,  các  em  nam  ở  nông  thôn  thường  đảm  nhận  những  việc  nặng  hơn,  nên tư thế làm việc có khả năng ảnh hưởng đến  sự phát triển của cột sống. Ngoài ra, có mối liên  quan giữa CVCS và khối lớp, nghĩa là khối lớp  càng  lên  thì  tỷ  lệ  bị  CVCS  càng  tăng.  Hành  vi  ngồi sai tư thế thường hình thành từ những lớp  nhỏ, dần lớn lên sẽ thành thói quen, vì vậy ngày  qua  ngày  nguy  cơ  CVCS  càng  tăng  lên.  Trong  nghiên  cứu  này,  chưa  xác  định  được  mối  liên  quan giữa cận thị, CVCS với ba yếu tố ánh sáng  lớp học, kích cỡ bàn ghế và thời gian học tập ở  trường của học sinh.

Nhà trường cần nhanh chóng sửa chữa hoặc  bố trí lại bàn ghế cho phù hợp với tầm vóc của  các  em.  (theo  Thông  tư  liên  tịch  26/2011/TTLT‐ BGDĐT‐BKHCN‐BYT  hướng  dẫn  tiêu  chuẩn  bàn ghế học sinh trường tiểu học, trung học cơ  sở, trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào  tạo  ‐  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ  ‐  Bộ  Y  tế  ban  hành).

Về các bệnh khác ở tuổi học đường

Trang bị góc truyền thông và thường xuyên  đưa nội dung giáo dục sức khỏe vào các buổi nói  chuyện  đầu  tuần,  sinh  hoạt  tập  thể;  khuyến  khích  học  sinh  khám  răng  định  kỳ  và  vệ  sinh  răng miệng hàng ngày.

Tổ  chức  khám  sức  khỏe  định  kỳ  hàng  năm  nhằm phát hiện sớm, tư vấn và điều trị kịp thời  các trường hợp mới bị cận thị, CVCS, bệnh răng  miệng.

Chưa  phát  hiện  ca  bệnh  nào  về  tim  –  phổi,  tiêu hóa, tiết niệu, thần kinh; tỷ lệ bệnh da liễu là  5,65% và điều đáng nói là, tuy tỷ lệ thấp (0,81%)  nhưng tình trạng bướu cổ vẫn còn. Về bệnh răng  miệng,  tuy  đây  không  phải  là  bệnh  học  đường  nhưng là bệnh tuổi học đường,  chiếm tỷ  lệ  cao  nhất  trong  các  loại  bệnh,  trong  đó  sâu  răng  chiếm 37,9%, phần nào phản ánh tình trạng sức  khỏe răng miệng của các em và đòi hỏi cần đẩy

543

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

4.

5.

Gia  đình  cần  quan  tâm  đến  chế  độ  dinh  dưỡng và vận động của các em  nhiều  hơn  nữa  vì các em chỉ có thể phát triển toàn diện khi có  sự  phối  hợp  chặt  chẽ  giữa  gia  đình  và  trường  học.

6.

7.

8.

Tuy  nghiên  cứu  không  khảo  sát  về  tư  thế  ngồi  nhưng  việc  nhà  trường  phối  hợp  với  gia  đình hướng dẫn, thường xuyên nhắc nhở các em  điều  chỉnh  tư  thế  ngồi  đúng,  không  chỉ  ở  trường, khi ngồi học mà cả khi đọc truyện, sách  báo,  xem  tivi,  sử  dụng  máy  vi  tính  và  khi  lao  động là rất cần thiết.

9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Padhye AS, Khandekar R, Dharmadhikari S, Dole K, Gogate  P, Deshpande M (2009),ʺPrevalence of uncorrected refractive  error and other eye problems among urban and rural school  childrenʺ. Middle East Afr. J. Ophthalmol. 2009 Apr;16(2):69‐74.  Phạm  Kim  Anh.,  Lê  Thế  Thự.  (2006)  ʺCận  thị,  cong  vẹo  cột  sống và một số yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học quận 2  Thành  phố  Hồ  Chí  Minhʺ.  Tạp  chí  Y  học  thành  phố  Hồ  Chí  Minh, 10:143‐149.  Phạm Năng Cường (1998) Phòng chống bệnh cong vẹo cột sống  trong học sinh, Nhà xuất bản Y học, 10‐15.  Trần Minh Tâm, Đỗ Văn Dũng (2006) ʺTình hình tật cận thị  học đường ở học sinh cấp hai tại quận 9 Thành phố Hồ Chí  Minh  năm  2006ʺ.  Tạp  chí  Y  học  thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  11:(1)160‐167   Uzma  N,  Kumar  BS,  Khaja  MSBM.,  Zafar  MA,  Reddy  VD  (2009)  ʺA  comparative  clinical  survey  of  the  prevalence  of  refractive  errors  and  eye  diseases  in  urban  and  rural  school  childrenʺ. Can. J. Ophthalmol., 44, (3), 328‐33.  Viện  Vệ  sinh  Y  tế  Công  cộng  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  ‐  Tổ  chức Y tế thế giới (2010) ʺCác yếu tố xã  hội  ảnh  hưởng  đến  cận thị ở học sinh tiểu học và trung học phổ thông tỉnh Đồng  Nai năm 2010ʺ. Đề tài cấp cơ sở Viện Vệ sinh Y tế công cộng  Tp.HCM

2.

10. World  Health  Organization  (2010),  ʺVisual  impairment  and

blindnessʺ,http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs282/ en/

3.

Hashim SE, Tan HK, Wan‐Hazabbah WH, Ibrahim M (2008)  ʺPrevalence  of  refractive  error  in  malay  primary  school  children in suburban area of Kota Bharu, Kelantan, Malaysiaʺ.  Ann. Acad. Med. Singapore, 37, (11), 940‐6.  Ngô  Văn  Hoàng.,  Lê  Thị  Kim  Oanh.  (2006)  ʺTình  trạng  sức  khỏe  của  học  sinh  tiểu  học  tại  tỉnh  Long  Anʺ.  Tạp chí Y học  thành phố Hồ Chí Minh, 10:179‐183.  Nguyễn Huy Nga (2001) Sổ tay thực hành y tế trường học, Nhà  xuất bản Y học, Hà Nội, 28‐76.

544

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG Ở HỌC SINH TIỂU HỌC  QUẬN 5 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Doãn Thành*, Dương Tiểu Phụng*, Ngô Ngọc Thùy Nhiên*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Việt Nam đang phải đối mặt với hai gánh nặng, tiếp tục giải quyết vấn đề suy dinh dưỡng và

đối phó với tỷ lệ thừa cân béo phì đang gia tăng tại các thành phố, đặc biệt đối với đối tượng học sinh.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học

quận 5, TP.HCM.

Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.

Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ học sinh suy dinh dưỡng là 2,3%, 21,2% học sinh có nguy cơ bị thừa cân. Tỷ lệ  nam sinh có nguy cơ thừa cân và thừa cân cao hơn so với nữ sinh. Không có mối liên quan giữa tình trạng dinh  dưỡng với thời gian học tập, thời gian dành cho các hoạt động tĩnh tại, hoạt động vui chơi và thời gian làm công  việc nhà.

Kết  luận:  Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở giúp cho nhà trường và các cơ quan y tế xây dựng các chương  trình giáo dục sức khỏe cũng như các chương trình can thiệp nâng cao sức khỏe cho học sinh ngày càng hiệu quả  hơn.

Từ khóa: Tình trạng dinh dưỡng, học sinh tiểu học

ABSTRACT

NUTRITIONAL STATUS AMONG SCHOOL CHILDREN IN DISTRICT 5 HO CHI MINH CITY

Nguyen Doan Thanh, Duong Tieu Phung, Ngo Ngoc Thuy Nhien

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 546 ‐ 551

Background:  Vietnam confronts two burdens, continues to address the underweight problem and to deal

with increasing prevalence of overweight and obesity in urban settings, especially in students.

Objectives:  Determine  the  prevalence  and  determinants  of  nutritional  status  among  primary  school

children in district 5 Ho Chi Minh city.

Method: Cross‐sectional study.

Results: The percentage of underweight among school children was 2,3% and 21,2% for risk of overweight.  The  proportion  of  overweight  and  obesity  was  higher  in  male  students  compared  to  female.  There  was  no  significant association between nutritional status and time for study, sedentary activities, recreational activities,  and time for household work.

Conclusion:  The results will be basic to help either the schools or the health organizations to give health

education programs as well as intervention programs to improve student’s health more and more effective.

Key words: nutrional status, school children

ĐẶT VẤN ĐỀ

quan tâm ở các quốc đang phát triển, đặc biệt là  tại các khu vực thành thị(12). 5% số tử vong toàn  cầu được xác định là do thừa cân, béo phì(10).

Hiện nay, thừa cân và béo phì không chỉ gia  tăng  ở  các  quốc  gia  phát  triển  mà  còn  là  mối

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Doãn Thành   ĐT: 0989028559   Email: nguyendoan_thanh@yahoo.com

545

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

dựa  vào  trường  học  và  các  chương  trình  can  thiệp để nâng cao sức khỏe cho các em học sinh.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát

Xác  định  tỷ  lệ  và  các  yếu  tố  liên  quan  đến  tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học quận  5 TP. HCM.

Mục tiêu cụ thể

Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng, thừa cân, béo

phì ở học sinh tiểu học quận 5 TP. HCM.

Thừa cân béo phì ở trẻ đang gia tăng và trẻ  em  đặc  biệt  chịu  nguy  hiểm  từ  nó.  Vào  năm  2010,  gần  43  triệu  trẻ  dưới  5  tuổi  thừa  cân  và  khoảng 35 triệu trẻ là ở các quốc gia đang phát  triển. Trẻ béo phì có nguy cơ bị mắc béo phì khi  trưởng thành. Do đó, trẻ béo phì có nguy cơ dễ  mắc  nhiều  bệnh  nguy  hiểm  như  cao  huyết  áp,  tiểu đường type 2, ung thư, các bệnh tim mạch  và  các  vấn  đề  về  cơ  xương.  Theo  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO)  có  khoảng  36  triệu  (63%)  các  trường hợp tử vong toàn cầu là do những bệnh  không  lây  và  ước  tính  sẽ  tăng  lên  đến  52  triệu  vào năm 2030(11,13).

Xác định các yếu tố liên quan đến suy dinh  dưỡng,  thừa  cân,  béo  phì  ở  học  sinh  tiểu  học  quận  5  TP.  HCM:  hoạt  động  thể  lực,  tuổi  giới,  dân tộc, nghề nghiệp của cha mẹ.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả.

Trong  những  năm  gần  đây,  có  sự  gia  tăng  tỷ  lệ  thừa  cân  béo  phì  trẻ  em  tại  Việt  Nam,  đặc  biệt  là  ở  các  thành  phố.  Một  nghiên  cứu  của  Trần  Thị  Hồng  Loan  tại  TP.HCM cho thấy tỷ lệ thừa cân gia tăng từ  năm 1999 đến năm 2011.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Từ tháng 6‐12/2011 tại quận 5 TP.HCM.

Đối tượng nghiên cứu

Học  sinh  đang  học  tập  tại  các  trường  tiểu

học quận 5 TP.HCM.

Phương pháp chọn mẫu

Sự  phát  triển  kinh  tế  xã  hội  dẫn  đến  sự  gia  tăng  các  hoạt  động  tĩnh  tại  làm  ảnh  hưởng  đến  mô  hình  hoạt  động  thể  lực  của  trẻ. Thiếu vận động thể lực được tìm thấy là  một trong những yếu tố nguy cơ chính của  thừa  cân,  béo  phì(12)  và  là  yếu  tố  nguy  cơ  đứng  hàng  thứ  4  của  các  trường  hợp  tử  vong  trên  toàn  thế  giới  và  là  nguyên  nhân  của 6% các trường hợp tử vong toàn cầu(10).

Điều  tra  được  tiến  hành  tại  quận  5.  Chọn  ngẫu nhiên 3 trường tiểu học trong quận. Mỗi  trường chọn 145 học sinh. Chọn ngẫu nhiên 5  lớp/trường. Có tổng số 435 học sinh được điều  tra.

Công cụ và phương pháp thu thập dữ kiện  Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá bằng

BMI.

BMI= cân nặng (kilograms)/chiều cao2 (m).

BMI được đánh giá dựa vào quần thể tham

chiếu quốc tế .

Điều tra viên đo chiều cao và cân nặng học

sinh bằng thước và cân chuyên dụng.

Hoạt động thể lực: Phỏng vấn trực tiếp học

sinh.

Hiện tại Việt Nam phải đối mặt với hai gánh  nặng, tiếp tục giải quyết vấn đề suy dinh dưỡng  và  đối  phó  với  tỷ  lệ  thừa  cân  béo  phì  đang  gia  tăng tại các thành phố. Thừa cân béo phì là một  thách thức mới đối với Việt Nam. Tuy nhiên có  ít nghiên cứu về vấn đề này và thừa cân béo phì  ở  học  sinh  tiểu  học  vẫn  chưa  được  chú  ý  thích  đáng.  Vì  vậy  việc  xác  định  tỷ  lệ  thừa  cân,  béo  phì  cũng  như  suy  dinh  dưỡng  ở  học  sinh  và  những yếu tố liên quan là rất quan trọng nhằm  cung  cấp  cơ  sở  góp  phần  giúp  cho  nhà  trường  và  các  cơ  quan  y  tế  đưa  ra  các  chính  sách  y  tế  học  đường  về  chăm  sóc  sức  khỏe  cho  học  sinh  cũng  như  các  chương  trình  giáo  dục  thể  chất

Bộ câu hỏi bao gồm những mục sau:

546

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tình trạng dinh dưỡng: cân nặng, chiều cao,

BMI.

Đặc  tính  của  học  sinh:  tuổi,  giới,  dân  tộc,

nghề nghiệp của cha mẹ.

nghiên  cứu  về  tình  trạng  BMI  của  trẻ  em  từ  8  đến  10  tuổi  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm  2010  (15,3%).  Theo  một  cuộc  điều  tra  tại  thành  phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ thừa cân và béo phì của  trẻ dưới 5 tuổi vào năm 2009 cao gấp 4 lần so với  năm 1999 (8,8% vào năm 2009 và 2,2% vào năm  1999)(3).

thêm,  xem

Hoạt  động  thể  lực:  học  tại  trường,  phương  tiện đến trường, thời gian đi đến trường, học tại  truyền  hình,  đọc  nhà,  học  sách/truyện, chơi trò chơi  điện  tử,  tham  gia  các  hoạt động giải trí tại trường và tại nhà, làm việc  nhà.

Điều tra thử tiến hành ở 20 học sinh tiểu học  tại quận 5 TP.HCM để điều chỉnh bộ câu hỏi cho  phù hợp.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Đặc  diểm  và  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  học sinh

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nam sinh  (51,9%)  cao  hơn  nữ  sinh  (48,1%).  Phần  lớn  học  sinh  là  người  Kinh  (76,0%),  có  22,8%  học  sinh  thuộc  dân  tộc  Hoa.  Nghề  nghiệp  của  cha  chủ  yếu là kinh doanh (24,4%) và buôn bán (20,2%).  Tương tự, phần lớn nghề nghiệp của mẹ là buôn  bán (24,8%) và nội trợ (23,2%), rất ít người trong  số họ là công nhân (3,2%).

Tuy nhiên tỷ lệ dưới cân của học sinh trong  nghiên  cứu  thấp  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Thanh  Hà  và  Nguyễn  Văn  Thắng  tại  trường  tiểu  học  thuộc  tỉnh  Vĩnh  Phúc  vào  năm  2005(8). Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể  do đối tượng tham gia trong nghiên cứu này là  học sinh thành thị trong khi đó đối tượng trong  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Thanh  Hà  và  Nguyễn  Văn  Thắng  là  học  sinh  nông  thôn.  Một  vài  nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ dưới cân ở học sinh  nông  thôn  cao  hơn  ở  học  sinh  thành  thị.  Tỷ  lệ  dưới cân của học sinh nông thôn cao hơn thành  thị cũng được tìm thấy trong nghiên cứu về tình  trạng BMI của học sinh thành phố Hồ Chí Minh.  Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thừa cân béo  phì  ngày  càng  trở  thành  vấn  đề  quan  trọng  ở  học sinh, đặc biệt là học sinh sống tại các thành  thị. Hiện tại Việt Nam còn phải đối mặt với hai  gánh nặng, tiếp tục  giải  quyết  vấn  đề  suy  dinh  dinh dưỡng tại vùng nông thôn và đối phó với  sự  gia  tăng  tỷ  lệ  thừa  cân  và  béo  phì  tại  thành  thị. Vì vậy, lãnh đạo nhà trường và phụ huynh  nên  quan  tâm  đến  tình  trạng  dinh  dưỡng  của  các  em  và  cải  thiện  chế  độ  ăn  hàng  ngày  một  cách phù hợp và khuyến khích trẻ tham gia thể  dục thể thao nhiều hơn để trở nên khỏe mạnh.

Chỉ  có  2,3%  học  sinh  bị  dưới  cân  trong  khi  đó  tỷ  lệ  học  sinh  có  nguy  cơ  thừa  cân  và  thừa  cân  cao  gấp  hơn  10  lần  so  với  dưới  cân  (tỷ  lệ  nguy cơ thừa cân là 21,2% và 31,9% là thừa cân).  Kết quả nghiên cứu phù hợp với xu hướng gia  tăng  thừa  cân  trên  thế  giới,  đặc  biệt  là  tại  các  quốc gia đang phát triển. Tỷ lệ nguy cơ thừa cân  của  học  sinh  quận  5  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  trong nghiên cứu này cao hơn kết quả của một

Tỉ lệ suy dinh dưỡng, cân nặng bình thường, nguy cơ thừa cân và thừa cân ở học sinh theo  giới tính, tuổi, tôn giáo và nghề nghiệp của cha mẹ  Bảng 1. Tỉ lệ suy dinh dưỡng, cân nặng bình thường, nguy cơ thừa cân và thừa cân ở học sinh theo tuổi, giới,  tôn giáo và nghề nghiệp của cha mẹ (n=435)

SDD Cân nặng bình thường Nguy cơ thừa cân Đặc tính P

Giới tính

Tuổi Nam Nữ 6 tuổi 7 tuổi No. 3 7 2 2 % 1,3 3,4 13,3 2,6 No. 78 116 5 31 % 34,5 55,5 33,3 40,8 No. 49 43 1 17 Thừa cân % 42,5 20,6 46,7 34,2 No. 96 43 7 26 % 21,7 20,6 6,7 22,4 <0,0001

547

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

SDD Cân nặng bình thường Nguy cơ thừa cân Đặc tính P

Dân tộc

% 40,2 40,0 51,3 54,3 41,3 54,6 75,0 42,5 No. 3 1 1 1 7 3 0 3 % 2,9 1,2 1,3 1,3 2,1 3,0 0,0 2.8 No. 41 34 40 43 137 54 3 45 No. 22 22 13 17 72 20 0 24 Thừa cân % 35,3 32,9 30,8 22,9 34,9 22,2 25,0 32,1 No. 36 28 24 18 116 22 1 34 % 21,6 25,9 16,6 21,5 21,7 20,2 0,0 22,6 0,165 0,117

Nghề nghiệp của cha

42,1 53,4 31,8 46,9 50,0 40,0 50,0 47,2 1 3 0 2 0 0 1 1 1,8 3,4 0,0 3,0 0,0 0,0 8,3 1,4 24 47 20 31 19 2 6 34 13 12 18 12 12 0 1 15 19 26 25 21 7 3 4 22 33,3 29,6 39,7 31,8 18,4 60,0 33,3 30,6 22,8 13,6 28,6 18,2 31,6 0,0 8,3 20,8 0,353

Nghề nghiệp của mẹ

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình trạng dinh dưỡng của học sinh và giới tính.  Kết  quả  này  phù  hợp  với  kết  quả  của  một  vài  nghiên cứu cho thấy rằng giới tính là yếu tố liên  quan  với  tình  trạng  dinh  dưỡng.  Nghiên  cứu  cho thấy tỷ lệ thừa cân ở nam cao hơn so với nữ,  với tỷ lệ lần lượt là 42,5% và 20,6%. Tương tự, tỷ  lệ  nam  sinh  có  nguy  cơ  thừa  cân  (21,7%)  cũng  cao hơn nữ sinh (20,6%). Kết quả này cũng phù  hợp với kết quả của một vài nghiên cứu (8,3). Bên  cạnh đó, nữ sinh dưới cân nhiều hơn so với nam  sinh,  với  tỷ  lệ  lần  lượt  là  3,4%  và  1,3%.  Do  đó  những can thiệp nâng cao sức khỏe cho trẻ, đặc  biệt là về tình trạng dinh dưỡng nên xem xét vấn  đề giới tính để can thiệp trở nên hiệu quả hơn.

50,0 48,2 34,5 41,9 28,6 49,5 15,4 8 tuổi 9 tuổi 10 tuổi 11 tuổi Kinh Hoa Khác CB công nhân viên chức Kinh doanh Buôn bán NV văn phòng Lao động tự do Công nhân Thất nghiệp Khác CB công nhân viên chức Kinh doanh Buôn bán NV văn phòng Lao động tự do Công nhân Thất nghiệp Khác 0 2 4 0 1 1 1 0,0 1,9 6,9 0,0 7,1 1,0 7,7 19 52 20 13 4 50 2 7 24 15 3 3 20 5 18,4 22,2 25,9 9,7 21,4 19,8 38,5 31,6 27,8 32,8 48,4 42,9 29,7 38,5 0,215

12 30 19 15 6 30 5 tại  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm  2010(2).  Một  nghiên cứu về suy dinh dưỡng và thừa cân ở trẻ  em và trẻ vị thành niên tại Ý cho thấy có mối liên  quan  giữa  tình  trạng  dinh  dưỡng  và  tuổi(9).  Tương  tự,  không  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống kê giữa tình trạng dinh dưỡng và dân tộc.  Kết  quả  này  tương  tự  với  kết  quả  của  một  nghiên cứu về thừa cân ở học sinh 6 đến 11 tuổi  tại thành phố Hồ Chí Minh(6). Tuy nhiên tôn giáo  lại  được  tìm  thấy  là  yếu  tố  liên  quan  với  thừa  cân trong một nghiên cứu về tình trạng thừa cân  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh(7).  Vì  thế  cần  có  nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ mối liên quan  giữa  tình  trạng  dinh  dưỡng  với  tuổi,  dân  tộc  nhằm xây dựng những can thiệp nâng cao tình  trạng  dinh  dưỡng  theo  từng  nhóm  tuổi  và  tôn  giáo.

Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng  và các hoạt động thường ngày

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy  không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  tình trạng dinh dưỡng và tuổi của học sinh. Kết  quả này trái ngược với một vài nghiên cứu. Mối  liên quan giữa suy dưỡng và tuổi được tìm thấy  trong nghiên cứu về tình trạng BMI của học sinh

Kết quả nghiên cứu cho thấy học  sinh  thừa  cân  dành  nhiều  thời  gian  học  tập  ở  trường,  ở

548

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

dinh  dưỡng.  Nghiên  cứu  cũng  không  tìm  thấy  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  dinh  dưỡng  với  thời  gian  dành  cho  các  hoạt  động  vui  chơi  giải  trí  ở  trường  và  ở  nhà,  thời gian làm công việc nhà.

KIẾN NGHỊ

Cần xem xét vấn đề giới tính khi nhắm đến  đối  tượng  học  sinh  trong  các  chương  trình  phòng  ngừa  thừa  cân,  suy  dinh  dưỡng  và  những can thiệp nâng cao sức khỏe.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nhà mỗi tuần hơn học sinh dưới cân và học sinh  có  cân  nặng  bình  thường.  Tuy  nhiên  không  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  giữa  tình  trạng  dinh  dưỡng và thời gian dành cho các hoạt động tĩnh  tại như học tập, xem truyền hình, sử dụng máy  vi tính và chơi trò chơi điện tử cầm tay. Những  kết quả này khác với một vài nghiên cứu(4). Lối  sống tĩnh tại được tìm thấy là một trong những  yếu tố nguy cơ chính của thừa cân. Một nghiên  cứu về tình trạng thừa cân ở học sinh tại Mỹ cho  thấy việc xem truyền hình quá mức có liên quan  đến tình trạng thừa cân(9).

Nhà  trường  và  gia  đình  nên  hướng  dẫn  và  nhắc  nhở  học  sinh  để  các  em  có  thời  gian  học  tập, xem truyền hình, sử dụng máy vi tính hợp  lý ngay khi các em còn nhỏ. Bên cạnh đó, các em  cần được khuyến khích và nhắc nhở tăng cường  tham gia các hoạt động thể chất nhằm nâng cao  sức khỏe của các em.

Chương trình phòng ngừa thừa cân, đặc biệt  là tại các thành thị nên được đưa vào trường học  để giáo dục học sinh cách phòng ngừa thừa cân  béo  phì  ngay  khi  các  em  còn  nhỏ.  Các  chương  trình  phòng  ngừa  nên  hướng  đến  tăng  cường  các  hoạt  động  thể  chất  và  giảm  các  hoạt  động  tĩnh  tại  của  học  sinh  nhằm  cải  thiện  tình  trạng  cân nặng hiện tại và tương lai cho các em.

Cần  có  những  nghiên  cứu  sâu  hơn  để  xác  định  rõ  mối  quan  hệ  nhân  quả  tình  trạng  dinh  dưỡng với hoạt động thể chất và hoạt động tĩnh  tại.

Tương  tự,  một  vài  hoạt  động  thể  lực  bao  gồm  hoạt  động  vui  chơi  ở  trường,  ở  nhà,  làm  công  việc  nhà  được  tìm  thấy  không  liên  quan  với tình trạng dinh dưỡng. Kết quả này tương tự  với một nghiên cứu về tình trạng BMI được tiến  hành tại thành phố Hố Chí Minh vào năm 2010.  Mối  liên  quan  giữa  hoạt  động  thể  chất  và  tình  trạng cân nặng cũng không được tìm thấy trong  nghiên  cứu  này.  Tuy  nhiên,  so  với  một  vài  nghiên  cứu  trước  đây,  kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  ngược  lại  với  kết  quả  của  những  nghiên cứu này. Thiếu hoạt động thể chất là một  trong  những  yếu  tố  nguy  cơ  của  thừa  cân(5,9,4).  Một nghiên cứu khác về các yếu tố nguy cơ của  thừa cân tại Bắc Kinh, Trung Quốc cho thấy có  mối  liên  quan  giữa  hoạt  động  thể  chất  và  thừa  cân(5). Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng  và hoạt động thể chất có nhiều kết quả chưa rõ  ràng. Vì thế, cần có những nghiên cứu sâu hơn  để làm rõ các mối liên quan này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

KẾT LUẬN

2.

3.

4.

5.

CDC  (2010).  Dinh  dưỡng,  hoạt  động  thể  chất  và  béo  phì,  http://www.cdc.gov/Features/ObesityAndKids/  Đặng Văn Chính và cộng sự (2010) ʺTình trạng BMI của trẻ  em vùng thành thị và nông thôn từ 8 đến 10 tuổi và các yếu tố  xã hội liên quan.ʺ. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14, (2),  360‐365.  Gabriel  CG,  Corso  AC.,  Caldeira  GV.,  Gimeno  SG.,  Schmitz  BA.,  Vasconcelos  FA  (2010),  Các  yếu  tố  liên  quan  đến  thừa  cân và béo phì ở học sinh bang Santa Catarina, Brazil, 2010.  Arch. Latinoam. Nutr., (60), 4.  Janssen I, Katzmarzyk  PT.  (2005)  ʺSo  sánh  tỷ  lệ  thừa  cân  và  béo phì ở học sinh tại 34 quốc gia và mối liên quan của chúng  với mô hình hoạt động thể chất và chế độ ănʺ. Obes. Rev., 6,  (2), 123‐32.  Jiang J., Rosenqvist U., Wang H., Greiner T., Ma Y., Toschke  AM. (2006) ʺCác yếu tố nguy cơ của thừa cân ở trẻ 2‐6 tuổi tại  Bắc Kinh, Trung Quốcʺ. Int. J. Pediatr. Obes., 1, (2), 103‐8.

Tỷ  lệ  thừa  cân  ở  học  sinh  là  31,9%  và  tỷ  lệ  học sinh có nguy cơ thừa cân là 21,2%. giới tính  được tìm thấy là yếu tố liên quan đến tình trạng  dinh  dưỡng  trong  nghiên  cứu  này.  Tỷ  lệ  thừa  cân và nguy cơ thừa cân ở nam sinh cao hơn nữ  sinh. Nữ sinh bị dưới cân nhiều hơn nam sinh.  Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên  quan  giữa  tình  trạng  dinh  dưỡng  với  tuổi,  dân  tộc  và  nghề  nghiệp  của  cha  mẹ.  Không  có  mối  liên  quan  giữa  thời  gian  học  tập  tại  trường,  tại  nhà, thời gian học thêm mỗi tuần với tình trạng

549

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  6.

10. Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (2005).  10  sự  thật  về  béo  phì,  http://www.who.int/features/factfiles/obesity/facts/en/index6. html,

7.

11. Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (2009).  Đột  tử  do  các  bệnh  không  lây,  http://www.who.int/gho/ncd/mortality_morbidity/ncd_prem ature_text/en/index.html,

8.

12. Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  (2010).  Thừa  cân  và  béo  phì,  http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs311/en/index.ht ml,

13. Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (2010).  Tử  vong  do  các  bệnh  không  lây

9.

http://www.who.int/gho/ncd/mortality_morbidity/ncd_total/ en/index.html,

Lazzeri G., Rossi S., Pammolli A., Pilato V., Pozzi T., Giacchi  MV. (2008) ʺSuy dinh dưỡng và thừa cân ở trẻ  em  và  trẻ  vị  thành niên tại Tuscany (Ý)ʺ. J. Prev. Med. Hyg., 49, (1), 13‐21.  Lê Kim Quí (2010) ʺXu hướng tình trạng dinh dưỡng và các  bệnh liên quan tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2001–2010ʺ.  Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm, 6, (3‐4), 7‐9.  Ngô Văn Quang (2010) ʺThừa cân và các yếu tố liên quan ở  học  sinh  tiểu  học  tại  Đà  Nẵngʺ.  Tạp  chí  Dinh  dưỡng  và  thực  phẩm, 6, (3‐4), 77‐83.  Rose D., Bodor. JN. (2006) ʺSự không an toàn về thực phẩm  hộ gia đình và thừa cân ở học sinh: Những kết quả từ nghiên  cứu  theo  chiều  dọc  ở  trẻ  giai  đoạn  sớmʺ.  Pediatrics,  117,  (2),  464‐73.

550

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NHÂN LỰC CỦA Y TẾ DỰ PHÒNG   THÀNH PHỐ CẦN THƠ, NĂM 2010

Nguyễn Hoàng Lên*, Lê Vinh*, Nguyễn Vũ Linh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nhân lực y tế dự phòng là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe. Khảo  sát nhân lực y tế dự phòng (YTDP) là một việc làm cần thiết để tạo tiền đề cho việc hoạch định chính sách và  phát triển hệ thống y tế dự phòng theo đúng với sự phát triển của xã hội và nhu cầu nâng cao sức khỏe cho người  dân.

Mục tiêu: Xác định cơ cấu nhân lực của hệ Y tế dự phòng tuyến tỉnh, tại thành phố Cần Thơ năm 2010.

Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang; Kết hợp phương pháp nghiên cứu định

lượng và định tính.

Kết quả: Cơ cấu nhân lực chưa hợp lý: Tỷ lệ cán bộ YTDP rất thấp (1/10.000 dân). So với cả nước tỷ lệ bác  sĩ YHDP thấp hơn 6%, cán bộ y dược thấp hơn 6,3%; Chỉ có 30% được đào tạo đúng chuyên ngành. Chiến lược  đào tạo chưa phù hợp: Tỷ lệ cán bộ được đào tạo rất thấp (30%), chỉ có 5% là đào tạo đúng chuyên ngành.

Kết luận: Cần có chính sách cho hệ YTDP gia tăng độ thu hút của ngành: tăng lương, nâng cao phụ cấp  đặc thù. Xây dựng chiến lược đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ: tăng chỉ tiêu đào tạo nhất là BS YTDP; Tăng  cường đào tạo theo địa chỉ.

Từ khóa: Nhân lực, y tế dự phòng

ABSTRACT

ASSESSMENT OF HUMAN RESOURCE IN PREVENTIVE MEDICINE SECTOR,   CAN THO CITY IN 2010

Nguyen Hoang Len, Le Vinh, Nguyen Vu Linh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 552 ‐ 558

Background: Human resource of preventive medicine sector is one of the most important components for  health  care  services.  Assessment  of  its  human  resource  is  a  fundamental  activity  for  planning  policy  and  developing  strategy  of  preventive  medicine  system  to  keep  pace  with  the  developing  of  society  and  health  care  demand.

Objectives:  To  determine  the  human  resource  structure  in  terms  of  quantity  and  quality  of  preventive

medicine sector at provincial level of Can Tho City in 2010.

Methods:  The  cross‐sectional  study  design  was  used  with  combined  quantitative  and  qualitative

approaches.

Result: Structure of preventive medicine sector is unreasonable in terms of both quality and quantity: The  proportion  of  preventive  medicine  staff  is  very  low  (1/10,000  population).  The  proportion  of  medical  doctor  having preventive medicine specialist and the proportion of medical ‐ pharmacology staffs are less than 6% and  6.3%  respectively  compare  to  the  whole  country  statistics;  in  which  there  have  been  only  30%  of  them  were  trained  in  preventive  medicine  field.  Training  strategies  are  irrelevant:  the  proportion  of  trained  staff  is  low  (30%), and only 5% of them have been trained in the field of preventive medicine.

Conclusion: Relevant policies should be developed for preventive medicine sector to get more attractive to

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Hoàng Lên  ĐT: 0903909409   Email: nguyenhoanglen@ihph.org.vn

551

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  their  workers,  for  instance,  increase  in  staffʹs  salary  and  preventive  medicine  specific  allowances/incentives.  Training  strategies  should  be  developed  to  increase  the  capacity  of  human  resource  e.g.  increasing  quota  of  preventive medical student enrollment to University, more training for area where there is a lack of trained staffs.

Keywords: Human resource, preventive medicine

ĐẶT VẤN ĐỀ

Con người là thành tố quan trọng của mọi tổ  chức,  cơ  quan  nhằm  đảm  bảo  các  hoạt  động  được thực hiện để đạt được các mục tiêu đã đề  ra  của  cơ  quan.  Theo  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO),  nhân  lực  y  tế  là  nguồn  lực  trung  tâm  của mọi hệ thống y tế, nguồn nhân lực là yếu tố  cơ bản cho mọi thành tựu của ngành y tế(4).

tế dự phòng, xác định nhu cầu học tập phát triển  nghề nghiệp, nhu cầu vị trí công tác và các nhu  cầu  nghể  nghiệp  khác.  Câu  hỏi  hiện  nay  đang  được  nêu  ra  cho  qui  hoạch  phát  triển  nguồn  nhân lực y tế, đặc biệt là cán bộ y tế đang công  tác tại các đơn vị y tế dự phòng địa phương đó  là trong hệ y tế dự phòng tuyến tỉnh thì cơ cấu  nhân lực hiện nay của thành phố Cần Thơ như  thế nào?

Tại  các  quốc  gia  thuộc  khu  vực  Châu  Á  –  Thái Bình Dương, thiếu hụt nguồn nhân lực y tế  đang là một vấn đề nghiêm trọng cần phải được  xem xét như một phần không thể tách rời trong  tổng thể việc củng cố hệ thống y tế(2).

Để làm rõ vấn đề này cần có một nghiên cứu  làm rõ các vấn đề trong hệ y tế dự phòng: Cán  bộ  y  tế  đang  công  tác  đã  được  đào  tạo  từ  các  nguồn nào? Với những chuyên ngành gì? Đã và  đang  được  phân  công  làm  gì?  có  hài  lòng  với  nhiệm vụ đang được giao không? có những nhu  cầu  gì  trong  công  việc  hiện  nay?  Vì  thế,  chúng  tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Cơ cấu nhân lực  và các nhu cầu của cán bộ y tế dự phòng thành phố  Cần Thơ, năm 2010”.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Việt Nam cũng đang đương đầu với sự thiếu  hụt  về  các  nguồn  lực  y  tế,  đặc  biệt  sự  mất  cân  đối giữa các hệ chuyên ngành và phân bố giữa  các  vùng  miền.(3)  Hơn  nữa,  cùng  với  sự  phát  triển nền kinh tế thị trường, đang có sự chuyển  dịch nguồn nhân lực từ khu vực công lập sang  khu vực ngoài công lập. Trong đó ngành y tế với  chủ  trương  xã  hội  hoá  y  tế,  nhu  cầu  chăm  sóc  sức khỏe gia tăng, nên nguồn nhân lực y tế ngày  càng thiếu.

Cán bộ viên chức ‐ người lao động công tác  tại  các  trung  tâm  thuộc  hệ  y  tế  dự  phòng  của  thành  phố  Cần  Thơ  năm  2010  (theo  Thông  tư  liên  tịch  số  03/.2008/TTLT‐BYT‐BNV  ngày  25  tháng 4 năm 2008) bao gồm: Trung tâm Y tế dự  phòng thành phố Cần Thơ, Trung tâm Sức khoẻ  Lao  động  và  Môi  trường  thành  phố  Cần  Thơ,  Trung  tâm  Phòng  chống  HIV/AIDS  thành  phố  Cần  Thơ,  Chi  cục  Vệ  sinh  An  toàn  thực  phẩm  thành phố Cần Thơ.

Thiết kế và phương pháp nghiên cứu

Do nhu cầu đặc thù của ngành nghể y tế dự  phòng và tình trạng thiếu nhân lực, nhiều đơn vị  y tế dự phòng có cơ cấu thành phần cán bộ chưa  hợp  lý,  nhiều  cán  bộ  được  đào  tạo  các  chuyên  ngành chưa phù hợp với yêu cầu của công việc.  Ngoài ra cán bộ cũng giảm hứng thú, chưa yên  tâm  gắn  bó  với  công  tác  y  tế  dự  phòng.  Các  nguyên  nhân  bao  gồm  tiền  lương  và  thu  nhập  của cán bộ công tác trong lĩnh vực y tế dự phòng  thấp,  các  chế  độ  phụ  cấp,  đãi  ngộ  chưa  thoả  đáng(1).

Thiết  kế  nghiên  cứu  mô  tả  cắt  ngang,  kết  hợp  phương  pháp  nghiên  cứu  định  lượng  và  nghiên cứu định tính (thảo luận nhóm có trọng  tâm và phỏng vấn sâu).

Cỡ mẫu

Cỡ mẫu nghiên cứu định lượng

Để tăng cường kiện toàn màng lưới y tế địa  phương,  nhất  là  màng  lưới  tổ  chức  hệ  y  tế  dự  phòng, cần thiết phải xác định được thực trạng  đội ngũ cán bộ đang công tác trong lĩnh vực này  trong đó xem xét thực trạng thành phần cán bộ y

552

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Khảo sát toàn bộ cán bộ viên chức người lao

động của 04 Trung tâm.

Bảng 1: Những đặc tính chung của mẫu nghiên cứu  (n = 99)

Đặc tính

Cỡ mẫu nghiên cứu định tính

Nhóm tuổi

Phỏng vấn sâu 04 Giám đốc hoặc Phó Giám  đốc của 04 trung tâm thuộc hệ y học dự phòng  thành  phố  Cần  Thơ  và  32  cán  bộ  Quản  lý  các  khoa chuyên môn của 04 trung tâm thuộc  hệ  y  học dự phòng thành phố Cần Thơ.

Giới tính

Đối tượng loại trừ

Những đối tượng không đồng ý tham gia và  không  có  mặt  hoặc  bệnh  trong  thời  gian  khảo  sát.

Trình độ học vấn

Thời gian ‐ Địa điểm nghiên cứu

Nghiên  cứu  đã  được  tiến  hành  tại  Thành  phố  Cần  Thơ  từ  tháng  05/2010  đến  tháng  12/2010.

Tần suất Tỉ lệ % 23,23 17,17 36,36 23,23 50,51 49,49 1,01 3,03 6,06 28,28 61,62 100 14,28 18,37 1,02 0,00 1,02 8,16 8,16 23 17 36 23 50 49 1 3 6 28 61 99 14 18 1 0 1 8 8

Phương  pháp  thu  thập  và  phân  tích  xử  lý  số liệu

Tập  huấn  cho  người  khảo  sát:  Cán  bộ  Viện

Chức danh nghề nghiệp

VSYTCC.

13 13,27

35 35,71

98 73 100 73,74

Thu  thập  số  liệu  của  nghiên  cứu  định  lượng  bằng  cách  phỏng  vấn  trực  tiếp  bằng  bảng câu hỏi soạn sẵn, bản câu hỏi phỏng vấn  được  sử  dụng  cho  phỏng  vấn  sâu,  thảo  luận  nhóm có trọng tâm.

Tình trạng hôn nhân

Làm  sạch  số  liệu  và  sử  dụng  phần  mềm  thống  kê  Epi  Data  3.2  và  Stata  8.0  để  nhập  và  phân tích số liệu cho nghiên cứu định lượng .

Xếp  nhóm  các  nguyên  nhân  và  các  giải  pháp  thu  thập  theo  tỷ  lệ  %  và  trích  dẫn  các  ý  kiến đại diện.

Thảo  luận  nhóm,  phỏng  vấn  sâu  liệt  kê  các  nguyên  nhân  ‐  giải  pháp  theo  thứ  tự  ưu  tiên  (thống kê theo Phương pháp Pile Sort).

Kinh tế gia đình < 30 30 – 39 40 – 49 50 – 60 Nữ Nam Tiểu học Phổ thông cơ sở Phổ thông trung học Trung cấp – Cao đẳng Đại học và sau đại học Tổng Y sỹ Bác sỹ Dược sỹ Trung cấp Dược sỹ đại học Điều dưỡng – Y tá các loại Cử nhân Y các loại Kỹ thuật viên Y – Dược các loại Trung học – cao đẳng các ngành khác Cử nhân - Kỹ sư các ngành khác Tổng Có gia đình/sống như vợ chồng Độc thân/ly hôn/ly thân/góa Đủ Tạm đủ Thiếu Tổng 26 7 57 35 99 26,26 7,07 57,58 35,35 100

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Về kinh  tế  gia  đình,  đa  số  nhân  viên  YTDP  (93%)  tự  cho  rằng  thu  nhập  tạm  đủ  và  thiếu  thốn.  So  với  thu  nhập  hàng  tháng  từ  cơ  quan,  khoảng 60% thu nhập từ 3 triệu trở xuống, 35%  có thu nhập từ 3 – 5 triệu và đặc biệt chỉ có 5%  thu nhập hơn 5 triệu. Với mức thu nhập nầy mà  phải trang trải cho cuộc sống tại một đô thị loại  một thì nhận định của họ, tạm đủ và thiếu thốn  là hoàn toàn trung thực.

Các đặc điểm về dân số ‐ xã hội học

Các  đặc  điểm  thành  phần  nghề  nghiệp  hiện tại   Bảng 2: Đặc điểm thành phần nghề nghiệp hiện tại  của CBYT (04 Trung tâm)

Về  độ  tuổi  của  nhân  lực  YTDP,  tuổi  trung  bình của họ là 40,15. Đây là độ tuổi có nhiều vốn  sống  và  kinh  nghiệm  trong  công  việc.  Tuy  nhiên,  họ  sẽ  gặp  không  ít  khó  khăn  trong  việc  học hành nâng cao trình độ chuyên môn.

Đặc tính Tần suất Tỉ lệ %

553

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đặc tính

Được đào tạo đại học và sau đại học sau khi tốt nghiệp Tần suất Tỉ lệ % 2,02 5,05 13,13 6,06 1,01 2 5 13 6 1 16 Chức danh hiện tại

Chuyên ngành

Về chuyên ngành: chỉ có 30% làm việc theo  đúng chuyên ngành được đào tạo từ trường lớp.  Tỷ lệ cán bộ được đào tạo chuyên môn ngắn hạn  rất cao, (84 % được đào tạo < 4 năm).

Tổng 1-3 năm 4-6 năm > 6 năm Tổng Nhi Đa khoa Chuyên khoa khác Thực phẩm chuyên ngành khác Tần suất Tỉ lệ % 100,00 4,04 6,06 19,19 29,29 1,01 2,02 10,10 3,03 13,13 98 4 6 19 29 1 2 10 3 13

Chuyên ngành

Tỷ  lệ  cán  bộ  được  cử  đi  học  chuyên  môn  (ĐH,  sau  ĐH)  nhằm  nâng  cao  trình  độ  nghiệp  vụ đạt 30%. Tuy nhiên, chỉ 5% trong số đó được  đào tạo chuyên ngành y và thực phẩm. Với các  số liệu nêu trên, cho thấy mảng YTDP Cấn Thơ  có  lực  lượng  chuyên  ngành  cũng  như  hoạch  định chiến lược đào tạo chưa phù hợp.

16,16 33,33 13,13 10,10 100,00 0,00 2,02 0,00 3,03 1,01 18,18 26,26 0,00 0,00 33 13 10 99 0 2 0 3 1 18 26 0 0 5 5,05 0

Sự  hài  lòng  của  CBYT  với  công  việc  hiện  tại   Bảng 3: Sự hài lòng của CBYT với công việc hiện tại  (04 Trung tâm)

Hệ đào tạo Đặc tính

Phân công công việc đúng chuyên ngành Công việc đúng với sở thích

Thời gian đào tạo Sự hài lòng với vị trí công tác hiện nay

0,00 44,44 100,00 55,56 16,16 24,24 4,04 100,00 4,08 17,35 24,49 37,76 16,33 100,00 44 99 55 16 24 4 99 4 17 24 37 16 98 29 Thu nhập bình quân tháng do cơ quan cấp 29,90 52 53,61 Nơi đào tạo 3

Thu nhập như hiện nay đủ để sinh hoạt gia đình

Làm thêm để tăng nguồn thu nhập Đã tốt nghiệp Công việc làm thêm

Đặc tính Tiến sĩ – chuyên khoa II Thạc sĩ –chuyên khoa I Bác sĩ –dược sĩ đại học Cử nhân Y/dược Y tá, Điều dưỡng Y sỹ, dược sĩ trung học, hộ lý Cử nhân/kỹ sư khác Trung cấp khác Lao động khác Tổng Nội Ngoại Sản Nhi Nhiễm Đa khoa Chuyên khoa khác Chuyên ngành hoá – lý Chuyên ngành sinh học Chuyên ngành thực phẩm Chuyên ngành môi trường Chuyên ngành khác Tổng Chính quy Chuyên tu Tại chức Khác Tổng < 2 năm 2 năm 3 năm 4 năm > 4 năm Tổng Trường THCN tại tỉnh/TP không phải TP. HCM Trường ĐH tại tỉnh/TP không phải TP. HCM Trường THCN tại TP. HCM Trường ĐH tại TP. HCM Trường THCN nơi khác Tổng < 1 năm 1-3 năm 4-6 năm > 6 năm 3,09 12,37 1,03 100,00 4,08 13,27 22,45 60,20 12 1 97 4 13 22 59 Có Không Có Không Rất hài lòng Hài lòng Tạm chấp nhận <2 triệu 2-3 triệu >3-4 triệu >4-5 triệu >5-6 triệu > 6 triệu Đủ Tạm đủ Thiếu Có Không Buôn bán Khám bệnh Khác Tần suất Tỉ lệ % 89,90 10,10 91,92 8,08 9,09 59,60 31,31 8,08 51,52 21,21 14,14 1,01 4,04 7,07 57,58 35,35 28,28 71,72 10,10 5,05 13,13 89 10 91 8 9 59 31 8 51 21 14 1 4 7 57 35 28 71 10 5 13

554

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc tính

Phù hợp Không phù hợp Tần suất Tỉ lệ % 29,29 70,71 29 70

thực trạng chỉ 30% cán bộ đã được đào tạo đúng  chuyên ngành. Khoảng 56% muốn được đào tạo  theo hình thức vừa học – vừa làm đây là con số  thể hiện trách nhiệm cũng như tính gắn bó với  ngành và tình yêu nghề của cán bộ. Các con số  sau một lần nữa khẳng định sự gắn bó này. Có  94,95%  cán  bộ  không  có  mong  muốn  được  chuyển  đổi  phòng  ban  trong  cùng  cơ  quan  và  chỉ 2,02% có nhu cầu chuyển cơ quan khác.

Phù hợp Không phù hợp 34 65 34,34 65,66 Chế độ phụ cấp đặc thù cho hệ y tế dự phòng Chế độ chính sách khác cho hệ y tế dự phòng

Nhu cầu nơi công tác   Bảng 5: Nhu cầu nơi công tác của CBYT (04 Trung  tâm)

Đặc tính Tần suất Tỉ lệ % Có 5 5,05

Không 94 94,95 Nhu cầu chuyển công tác qua Khoa/Phòng khác trong Trung tâm

Có nhu cầu tạo thêm điều kiện làm việc

Một điều tưởng chừng như bất hợp lý là đa  số (92%) cho rằng công việc đúng với sở thích và  90%  cho  rằng  họ  được  phân  công  công  việc  đúng chuyên ngành trong khi tỷ lệ được đào tạo  đúng chuyên ngành chỉ 30%. Tìm hiểu sâu hơn  có thể lý giải điều bất hợp lý này là do tính hiếu  học  và  khả  năng  vượt  khó  trong  việc  học  hỏi  nâng cao trình độ nghiệp vụ từ đồng nghiệp để  hoàn thành công việc. Và theo thời gian, trình độ  chuyên môn được tích lũy  từ  kinh  nghiệm  làm  việc  và  hướng  dẫn  từ  đồng  nghiệp  đủ  để  thực  hiện tốt công việc. Một lý do nữa giải thích điều  này là nhiệt tâm và tính gắn bó của cán bộ  đối  với nghề.

Nhu cầu tạo thêm điều kiện làm việc rất cao,  có 73,74 % cán bộ có mong muốn cải thiện điều  kiện làm việc. Điều này có nguyên nhân  tương  đối rõ ràng là trong năm 2009, các trung tâm nêu  trên vừa được tách ra. Vì vậy, văn phòng, cơ sở,  điều  kiện  làm  việc  còn  thiếu  thốn  là  điều  dễ  hiểu.

Về sự hài lòng đối với công việc hiện tại, chỉ  có  9%  cho  rằng  rất  hài  lòng  với  công  tác  hiện  nay, 60% cho rằng hài lòng và 31% cho rằng chỉ  tạm  chấp  nhận.  Điều  này  dễ  dàng  giải  thích  vì  với  thu  nhập  như  trên  cộng  với  chế  độ  ưu  đãi  nghề nghiệp chưa tốt lắm (71% cho rằng chế độ  phụ  cấp  đặc  thù  không  phù  hợp  và  66%  cho  rằng chế độ chính sách không phù hợp) thì một  tỷ lệ cao cán bộ hài lòng với công việc sẽ khó đạt

Có nhu cầu chuyển công tác qua cơ quan khác Có Không Có Không 73 26 2 97 73,74 26,26 2,02 97,98

Nguyên  nhân  và  giải  pháp  để  đảm  bảo  nguồn nhân lực các loại từ thảo luận nhóm  và phỏng vấn sâu 24 cán bộ lãnh đạo Trung  tâm, khoa, phòng

Nhu cầu học tập phát triển nghề nghiệp   Bảng 4: Nhu cầu học tập phát triển nghề nghiệp (04  Trung tâm)

Nguyên  nhân  gây  khó  khăn  trong  việc  tuyển

Đặc tính

dụng cán bộ

Đa số các cán bộ cho rằng thu nhập của cán  bộ y tế dự phòng hiện nay thấp so với các ngành  khác; so với bác sĩ điều trị lại càng thấp hơn.

Có nhu cầu đào tạo liên tục

Cán bộ thuộc lĩnh vực y tế dự phòng phải đi

công tác nhiều hơn.

Thời gian muốn đào tạo

Có nhu cầu đào tạo nâng cao

Đa số các bác sĩ sau khi tốt nghiệp ra trường  thích làm công tác điều trị hơn, làm công tác y tế  dự  phòng  nghề  nghiệp  bác  sĩ  không  được  đề  cao,  tay  nghề  chuyên  môn  không  được  phát  triển.

Khoảng 72% cán bộ có nhu cầu đào tạo nâng  cao nghề nghiệp. Điều này hoàn toàn hợp lý với

Hình thức muốn đào tạo Có Không Ngắn hạn Trung hạn Dài hạn Học ĐH Học SĐH Không có nhu cầu Tập trung Vừa học vừa làm Học theo tín chỉ Tần suất Tỉ lệ % 71,72 28,28 15,15 28,28 28,28 26,26 25,25 28,28 20,20 40,40 11,11 71 28 15 28 28 26 25 28 20 40 11

555

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Chưa  có  định  hướng  nghề  nghiệp  cho  sinh

viên từ các trường Đại học Y.

Mối liên quan giữa các yếu tố nhân lực và  các đặc tính mẫu

Chế độ chính sách và đãi ngộ của Nhà nước  đối với cán bộ y tế thuộc lĩnh vực y tế dự phòng  chưa thỏa đáng.

Chế  độ  ưu  đãi  học  hành  nhằm  nâng  cao  trình độ chuyên môn chưa được quan tâm đúng  mức.

Giữa  phân  công  công  việc  đúng  chuyên  ngành  và  trình  độ  học  vấn,  chức  danh  nghề  nghiệp có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p <  0,05),  trong  đó  người  có  trình  độ  học  vấn  tiểu  học  lại  có  khả  năng  phân  công  đúng  chuyên  ngành  cao  hơn  so  với  những  trình  độ  học  vấn  khác. Ngoài ra người có chức danh tiến sĩ/CKII  có  khả  năng  được  phân  công  đúng  chuyên  ngành so với các chức danh nghề nghiệp khác.

Trong công tác tuyển dụng nhân sự gặp rất  nhiều khó khăn từ Sở nội vụ do chỉ tiêu chung  của toàn tỉnh, từ đó phân bổ chỉ tiêu cho y tế còn  hạn  chế  cho  nên  số  lượng  biên  chế  cho  phép  tuyển dụng còn thiếu so với yêu cầu thực tế.

Ngân sách cấp cho hoạt động trong lĩnh vực  y tế dự phòng chưa đáp ứng kịp thời và chưa đủ  để hoạt động.

Giải pháp

Sau đây là một số giải pháp mà đa số cán bộ

đồng ý:

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  phân  công  công  việc  đúng  sở  thích  và  trình  độ  học  vấn.  Người  có  trình  độ  học  vấn  trung  cấp/cao đẳng được phân công công việc đúng sở  thích  bằng  0,92  lần  người  có  trình  độ  học  vấn  tiểu học (p=0,024). Người có trình độ học vấn đại  học/sau đại học được phân công công việc đúng  sở thích bằng 0,86 lần người có trình độ học vấn  tiểu học (p<0,001).

Để nhằm thu hút cán bộ công tác trong hệ y  tế  dự  phòng  đề  nghị  tăng  lương,  tăng  phụ  cấp  nghề nghiệp. Có chính sách thu hút nhân tài.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  phân công công việc đúng sở thích và chức danh  nghề nghiệp. Người có chức danh cử nhân/kĩ sư  được  phân  công  công  việc  đúng  sở  thích  bằng  0,87  lần  người  có  chức  danh  tiến  sĩ/CKII  (p=0,010).

Nâng cao chính sách ưu đãi cho cán bộ làm  YTDP  trong  mọi  lĩnh  vực,  đặc  biệt  trong  việc  đào tạo nâng cao, cụ thể như: hạ chuẩn đầu vào,  mở  rộng  đào  tạo  sau  đại  học  hệ  YTDP  cho  các  đối tượng là cán bộ đại học không thuộc ngành  y.

Duy trì đào tạo chuyên tu bác sĩ hệ 4 năm ở  các trường Đại học Y, đào tạo theo nhu cầu của  địa phương.

Tăng  chỉ  tiêu  đào  tạo  hàng  năm  cho  hệ

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  phân công công việc đúng sở thích và kinh tế gia  đình.  Người  có  điều  kiện  kinh  tế  tạm  đủ  được  phân công công việc đúng sở thích bằng 0,92 lần  người có điều kiện kinh tế đủ (p=0,001). Người  có điều kiện kinh tế thiếu được phân công công  việc  đúng  sở  thích  bằng  0,79  lần  người  có  điều  kiện kinh tế đủ (p=0,002).

YTDP mà cụ thể là BS YTDP.

Phân quyền tuyển dụng nhân sự cho ngành

y tế, hạn chế tác động từ Sở nội vụ.

Tăng chỉ tiêu biên chế hàng năm cho ngành

YTDP.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  sự  hài  lòng  với  vị  trí  hiện  nay  và  kinh  tế  gia  đình. Người có kinh tế gia đình thiếu có sự hài  lòng với vị trí hiện nay bằng 0,60 lần người kinh  tế gia đình đủ (p=0,002).

Tăng  kinh  phí  hoạt  động  cho  lĩnh  vực  y  tế

dự phòng.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  chế  độ  phụ  cấp  đặc  thù  và  trình  độ  học  vấn.  Người có trình độ học vấn PTTH có chế độ phụ  cấp đặc thù bằng 0,48 lần người có trình độ học

556

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

72%  cán  bộ  có  nhu  cầu  được  đào  tạo  nâng

cao.

Chỉ  có  khoảng  5%  mong  muốn  chuyển  phòng ban và 2 % mong muốn chuyển sang cơ  quan khác.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  vấn  tiểu  học  (p=0,070).  Người  có  trình  độ  học  vấn  trung  cấp/cao  đẳng  có  chế  độ  phụ  cấp  đặc  thù bằng 0,44 lần người có trình độ học vấn tiểu  học  (p<0,001).  Người  có  trình  độ  học  vấn  đại  học/sau đại học có chế độ phụ cấp đặc thù bằng  0,14  lần  người  có  trình  độ  học  vấn  tiểu  học  (p<0,001).

Nguyên nhân gây nên hạn chế nguồn nhân  lực

Thu nhập thấp.

Thiếu định hướng nghề nghiệp.

Chế  độ  ưu  đãi  nghề  nghiệp  và  chính  sách

ngành thấp.

Cơ  chế  tuyển  dụng  còn  nhiều  bất  cập;  số

lượng biên chế hạn chế.

KIẾN NGHỊ

Giải pháp bảo đảm nguồn nhân lực

Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  chế  độ  chính  sách  khác  và  trình  độ  học  vấn.  Người  có  trình  độ  học  vấn  PTTH  có  chế  độ  chính sách khác bằng 0,48 lần người có trình độ  học  vấn  tiểu  học  (p=0,070).  Người  có  trình  độ  học vấn trung cấp/cao đẳng có chế độ chính sách  khác  bằng  0,51  lần  người  có  trình  độ  học  vấn  tiểu học (p<0,001). Người có trình độ học vấn đại  học/sau đại học có chế độ chính sách khác bằng  0,19  lần  người  có  trình  độ  học  vấn  tiểu  học  (p<0,001).

Tăng lương, nâng cao phụ cấp nghề nghiệp

và ưu đãi học hành

KẾT LUẬN

Duy  trì  hệ  chuyên  tu  và  tại  chức,  đào  tạo

theo nhu cầu.

Tăng  chỉ  tiêu  đào  tạo  hàng  năm  cho  hệ

YTDP mà cụ thể là BS YTDP.

Tỷ lệ cán bộ YTDP là 1/10.000 dân, chiếm tỷ  trọng  4,38%  tổng  số  cán  bộ  y  tế  ngành  (so  với  tổng  số  CBYT  khu  vực  đồng  bằng  sông  Cữu  Long).

Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên .

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Tỷ  lệ  bác  sỹ  là  0,15/10.000  dân,  chiếm  tỷ  trọng  3.75  %  tổng  số  cán  bộ  y  tế  ngành  (so  với  tổng  số  CBYT  khu  vực  đồng  bằng  sông  Cữu  Long).

2.

30%  cán  bộ  YTDP  được  đào  tạo  đúng

chuyên ngành.

3.

Bộ Y tế (2009). Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực và hệ  thống đào tạo y tế đến năm 2020.  Lyn  N.  Henderson  &  Jim  Tulloch  (2008),  ʺIncentives  for  retaining and motivating health workers in Pacific and Asian  countriesʺ, Human Resources for Health 2008.  Nguyen Bach Ngoc, Nguyen Bich Lien & Nguyen Lan Huong  (2005),  ʺHuman  Resource  for  Health  in  Vietnam  and  mobilization of medical doctors to commune health centersʺ,  Asia Pacific Action Alliance on Human Resources for Health.  4. WHO (2006), The world health report 2006: working together

69%  cán  bộ  YTDP  hài  lòng  với  công  việc  hiện  tại  và  90%  thích  công  việc  đang  làm,  92%  cho  rằng  mình  được  phân  công  đúng  chuyên  ngành.

for health, WHO Press, Geneva 2006.

557

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

MỘT SỐ YẾU TỐ XàHỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE   CÔNG NHÂN NHẬP CƯ TẠI XàBÌNH HÒA, THỊ XàTHUẬN AN,   TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2011.

Lê Hoàng Ninh*, Trịnh Hồng Lân*, Trần Thức Thiện*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sự hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, điều kiện sống ở các khu nhà trọ  chật chội, tồi tàn, tình trạng dinh dưỡng kém có tác động không nhỏ đến tình trạng sức khoẻ của người lao động  nhập cư. Ngoài ra người lao động còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nguy cơ, tác hại nghề nghiệp tại nơi làm  việc, đặc biệt đối với những người được thuê làm tại nhà hoặc ở những phân xưởng làm việc tách biệt với bên  ngoài.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ của từng yếu tố xã hội và ảnh hưởng của các yếu tố này đến sức khỏe

của công nhân nhập cư ở xã Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương năm 2011.

Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 400 đối tượng là công nhân nhập cư đang làm việc trên

địa bàn xã Bình Hòa, thị xã Thuận An bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn.

Kết  quả  và  phân  tích: Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số là công nhân trẻ 78,5% có độ tuổi từ 30 trở  xuống và 61% là lao động nữ. Về trình độ học vấn, chủ yếu là trung học cơ sở có tỷ lệ 41% và trung học phổ  thông có tỷ lệ 32%. Hầu hết công nhân thuê phòng riêng có nhà vệ sinh riêng (71%). Công nhân có hút thuốc là  12,3% và sử dụng rượu bia là 25,5%.. Tỷ lệ công nhân có tiếp xúc với các yếu tố độc hại là 14%, tỷ lệ công nhân  được khám sức khỏe định kỳ tại nơi làm việc là 72,5%; tỷ lệ công nhân được khám bệnh nghề nghiệp tại nơi làm  việc là 51,5%. Về chăm sóc sức khỏe và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khảo sát ghi nhận có 33,3% số công  nhân không kiểm tra sức khỏe, tỷ lệ công nhân không có thẻ bảo hiểm y tế là 13,5%. Trong mối quan hệ xã hội  với người dân tại địa phương, có đến 92,5% công nhân được người dân địa phương đối xử thân thiện, bên cạnh  đó 95,7% công nhân cảm thấy an toàn khi sống tại nơi đây. Ngoài ra nghiên cứu còn tìm thấy được mối liên  quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng sức khỏe với một số yếu tố xã hội như: tình trạng hôn nhân, gia đình có  con nhỏ, điều kiện sống xung quanh, thời gian làm việc, mức độ căng thẳng, mệt mỏi trong công việc, khám bệnh  nghề nghiệp và cảm thấy an toàn khi sống tại địa phương.

Kết luận: Kết quả nghiên cứu là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách có những phương hướng, kế hoạch  để hỗ trợ công nhân, đặc biệt là công nhân nhập cư ổn định đời sống sống vật cũng như tinh thần, góp phần  nâng cao năng lực sản xuất trong bối cảnh hiện đại hóa của đất nước.

Từ khóa: công nhân nhập cư, các yếu tố xã hội ảnh hưởng sức khỏe

ABSTRACT

SOCIAL DETERMINANTS AFFECTED TO IMMIGRANT LABOR’S HEALTH IN BINH HOA  VILLAGE, THUAN AN TOWN, BINH DUONG PROVINCE, 2011.

Le Hoang Ninh, Trinh Hong Lan, Tran Thuc Thien

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 559 ‐ 566

Background:  The  limited  accessibility  to  health  care  service,  bad  life  condition  in  the  narrow  boarding  house,  and  low  nutrition  condition  of  laborers  influence  health  of  the  immigrants  in  city.  In  addition,  the

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKII. Trịnh Hồng Lân

ĐT: 0903736894   Email: trinhhonglan@ihph.org.vn

558

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  immigrants  are  isolated  from  the  unfamiliar  society,  block  their  approach  to  local  community.  Moreover,  they  have got working injury, woman violence especially with the workers who are rented to work at home or in the far  away and separated factories..

Objectives: To determine proportion of social factors and the influence to immigrant worker health in Binh

Hoa village, Thuan An town, Binh Duong province.

Methodology:  This  was  the  cross‐sectional  study  among  400  immigrant  workers  in  Binh  Hoa  village,  Thuan  An  twon,  Binh  Duong  province.  Data  was  collected  though  direct  interviews  using  structured  questionaire.

Result:  Most  of  workers  aged  younger  than  30  years  old  with  78,5%  and  61%  for  female.  As  regard  education, the number of workers had junior high school and high schools degree accounted for 41% and 32%  respectively.  Survey  on  housing  conditions  in  the  boarding  rooms/  houses  revealed  that  most  of  workers  had  rooms with private toilet (71%). The proportion of workers smoking were 12,3% and using alcohol were 25,5%.  Workers exposed to the risk factors in the working settings were 14%. The proportion of workers received pediodic  health examined and occupational disease examined at workplaces were 72,5% and 51,5% respectively. As regard  the health care and the access to health care services, survey indicated that 33,3% of workers were not pediodically  medical  checked,  the  percentage  of  workers  without  health  insurance  card  were  13,5%.  In  social  relationships  with the local people, study showed that up to 92,5% of workers were in a friendly neighbourhoods. In addition,  95,7%  of  workers  felt  safe  as  living  in  this  local.  In  addtion,  there  was  a  statistically  significant  association  between health of worker and some social components such as: marital status, having children, living conditions,  working time, the level of stress, fatigue, occupational disease examined, and felt safe as living in this.

Conclusion: Study results are the foundation to bring out healthier policies, set up plan to help the worker,  especially to help immigrant to improve their mental and physical life, and contribute to improve the productive  capacity in Viet Nam modernization background.

Keyword: immigrant worker, social determinants on the health status

ĐẶT VẤN ĐỀ

những phân xưởng làm việc  tách  biệt  với  bên  ngoài.  Bên  cạnh  việc  thiếu  quan  tâm  đến  các  bệnh mãn tính, những người lao động nhập cư  có  thể  không  đến  các  nơi  chăm  sóc  y  tế  vì  không đủ khả năng tài chính cũng như tâm lý  sợ mất việc làm nếu như bị phát hiện có bệnh  truyền nhiễm(7.

Bình Dương là một tỉnh trọng điểm về phát  triển công nghiệp của khu vực phía nam với 28  khu công nghiệp đang hoạt. Bình Dương đã thu  hút  rất  nhiều  dân  nhập  cư  từ  các  địa  phương  khác.

Viện  Vệ  sinh  ‐  Y  Tế  Công  Cộng  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  đã  phối  hợp  với  văn  phòng  Tổ  Chức  Y  Tế  Thế  giới  (WHO)  tại  Việt  Nam  phụ  trách  các  chức  năng  về  các  yếu  tố  xã  hội  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  nhằm  cải  thiện  tình  trạng  sức khỏe của người Việt Nam, trong đó bao gồm  người lao động. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để

Theo  kết  quả  một  số  điều  tra,  nghiên  cứu  cho thấy nhiều người dân nhập cư không được  tiếp cận với điều kiện nhà ở tốt, nước sạch và  vệ sinh môi trường. Hơn nữa công việc và điều  kiện làm việc tốt  sẽ  đảm  bảo  về  tài  chính,  địa  vị  xã  hội  và  sự  phát  triển  của  con  người(2.Sự  hạn  chế  trong  việc  tiếp  cận  các  dịch  vụ  chăm  sóc sức khỏe, điều kiện sống ở các khu nhà trọ  chật  chội,  tồi  tàn,  tình  trạng  dinh  dưỡng  kém  có tác động không nhỏ đến tình trạng sức khoẻ  của người lao động nhập cư. Thêm vào đó, sự  cô lập của xã hội trong môi trường sống xa lạ  cũng  là  yếu  tố  gây  cản  trở  việc  tiếp  cận,  hòa  nhập  với  mạng  lưới  cộng  đồng  người  dân  tại  địa  phương(10.  Ngoài  ra  người  lao  động  còn  chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nguy cơ, tác hại  nghề  nghiệp  tại  nơi  làm  việc,  đặc  biệt  đối  với  những  người  được  thuê  làm  tại  nhà  hoặc  ở

559

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

An, tỉnh Bình Dương ít nhất 1 năm (từ tháng 4  năm 2010).

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Nghiên cứu Y học  các  nhà  hoạch  định  chính  sách  có  những  phương  hướng,  kế  hoạch  để  hỗ  trợ  công  nhân,  đặc biệt là công nhân nhập cư ổn định đời sống  sống vật cũng như tinh thần, góp phần nâng cao  năng  lực  sản  xuất  trong  bối  cảnh  hiện  đại  hóa  của đất nước.

Tình trạng sức khỏe của công nhân  Bảng 1: Tình trạng sức khỏe của mẫu khảo sát (N=  400)

Mục tiêu nghiên cứu

Tần số Tỷ lệ (%)

Xác định tỷ lệ của từng yếu tố xã hội và ảnh  hưởng  của  các  yếu  tố  này  đến  tình  trạng  sức  khỏe của công nhân nhập cư ở xã Bình Hòa, thị  xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Tình trạng bệnh tật hiện tại

Tiền sử bệnh tật

‐  PHƯƠNG  PHÁP

Đặc tính Có bị bệnh Không bị bệnh Bệnh đường hô hấp Bệnh đường tiêu hóa Bệnh tai mũi họng Bệnh khác 54 346 106 97 49 148 13.50 86.50 26.6 24.4 12.3 36.7

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả.

Dân số mục tiêu

Tình  trạng  bệnh  tật  hiện  tại  của  công  nhân  chiếm tỷ lệ là 13,5%; các bệnh hiện mắc chủ yếu  của  công  nhân  như  viêm  dạ  dày,  viêm  xoang,  viêm họng… Đây là các bệnh chủ yếu liên quan  tới lối sống và môi trường sống.

Công  nhân  nhập  cư  tại  xã  Bình  Hòa,  thị  xã

Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe  công nhân

Nghiên cứu thực hiện tại xã Bình Hòa, thị xã

Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Cỡ mẫu

Đặc điểm dân số học  Bảng 2: Mối liên quan giữa đặc điểm dân số với tình  trạng sức khỏe.

400 đối tượng.

Nghiên  cứu  được  tiến  hành  bằng  cách  phỏng vấn trực tiếp đối tượng ngay tại nhà trọ  hoặc phòng trọ.

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân p PR (KTC 95%) Các đặc điểm Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%) Không Tốt N (%) Giới tính

Kỹ thuật chọn mẫu  Lấy mẫu hai bậc

Chọn ra 4 ấp trong tổng số 8 ấp của xã Bình

Hòa.

Lập  danh  sách  các  hộ  dân  cư  trong  mỗi  ấp  đã  chọn,  chọn  ra  100  hộ  nhà  trọ  trong  mỗi  ấp  cụm. Hộ nhà trọ đầu tiên được chọn ngẫu nhiên,  hộ  nhà  trọ  tiếp  theo  được  chọn  theo  phương  pháp cổng liền cổng cho đến khi đủ cở mẫu.

Nam 156 (39) 128 (82) 28 (18) 0.93 1.01 (0.91 – 1.1) Nữ 244 (61) 201 (82.4) 43 (17.6) Nhóm tuổi 18 – 24 176 (44) 147 (83.5) 29 (16.5) 0.66 25 – 30 0.86 (0.62 – 1.21) 138 (34.5) 114 (82.6) 24 (17.4) Trên 30 86 (21.5) 68 (79.1) 18 (20.9)

Đối tượng chọn vào nghiên cứu

Người  được  phỏng  vấn  phải  là  công  nhân  nhập  cư  đang  sinh  sống  tại  phòng  trọ  đó  và  đồng ý tham gia nghiên cứu.

Trình độ học vấn 2 (0.5) 1 (50) 1 (50) Mù chữ Tiểu học 0.54* 66 (16.5) 1.2 (0.92 – 1.55) 54 (81.8) 12 (18.2)

Công  nhân  được  chọn  từ  18‐50  tuổi  và  có  thời gian lao động tại xã Bình Hòa, thị xã Thuận

134 (81.7) 30 (18.3) Trung học cơ sở 164 (41.0) Trung học 128 103 25

560

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân Tình trạng sức khỏe chung của công nhân p PR (KTC 95%) P Các đặc điểm PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%) Thông tin hộ gia đình/ phòng trọ Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%) Tốt N (%) Không Tốt N (%) Không Tốt N (%) (19.5) phổ thông (32.0) (80.5) Mức sống Trung cấp Dư dã 2 (8.7) 23 (5.7) 2 (13.3) 15 (3.8) 21 (91.3) 13 (86.7) Cao đẳng Vừa đủ 8 (2.0) 7 (87.5) 1 (12.5) 169 (89.9) 188 (47.0) 19 (10.1) <0.00 1 Đại học 9 (2.3) 9 (100) 0 (0.0) Thiếu chút ít 95 (77.2) 123 (30.7) 28 (22.8) Tình trạng hôn nhân 1.04 (0.84 - 1.3) 1 0.86 (0.77– 0.95) 0.78 (0.67- 0.91) Không đủ chi tiêu 52 (70.3) 74 (18.5) 22 (29.7) Độc thân 0.009 0.88 (0.81 – 0.97) 186 (46.5) 48 (67.6) 23 (32.4)

* Kiểm định fisher

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình trạng sức khỏe với mức sống của công nhân  (p<0,05).  Những  công  nhân  có  mức  sống  túng  thiếu,  không  đủ  chi  tiêu  đa  phần  là  đã  có  gia  đình,  thu  nhập  thấp,  bên  cạnh  đó  các  chi  phí  sinh hoạt điện nước với mức giá cao hơn vì phải  câu  nhờ  điện,  trả  lũy  tiến  theo  phần  vượt  gây  nên  nhiều  khó  khăn  về  mức  sống  cho  công  nhân.

Mẫu  nghiên  cứu  có  39%  là  nam  và  61%  là  nữ, đa số là công nhân trẻ (78,5% có độ tuổi từ  30 trở xuống, trong đó nhóm tuổi thanh niên trẻ  18‐24  tuổi  chiếm  tới  44%.  Về  trình  độ  học  vấn,  chủ yếu là trung học cơ sở có tỷ lệ 41% và trung  học phổ thông có tỷ lệ 32%. Điều này phù hợp  với  thực  tế  hiện  nay  của  các  doanh  nghiệp  đòi  hỏi công nhân có độ tuổi còn trẻ, nhưng không  đòi hỏi trình độ học vấn phải cao.

Khảo  sát  còn  cho  ta  thấy  có  22,56%  công  nhân  có  con  nhỏ.  Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  sức  khỏe  với  hộ  gia  đình có con nhỏ của công nhân (p<0,05).

Đã có gia đình 213 (53.5) 166 (50.5) 163 (49.5)

Điều kiện nhà ở  Bảng 4: Mối liên quan giữa điều kiện nhà ở với tình  trạng sức khỏe.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình trạng sức khỏe với tình trạng hôn nhân của  công nhân, với p=0,009 và PR = 0,88 ; KTC 95% =  0,81 – 0,97. Theo  đó  công  nhân  đã  lập  gia  đình  có  tình  trạng  sức  khỏe  tốt  chỉ  bằng  0,88  lần  so  với công nhân độc thân.

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân P Điều kiện nhà ở PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%) Không Tốt N (%)

Đặc điểm hộ gia đình, phòng trọ  Bảng 3: Mối liên quan giữa đặc điểm hộ gia đình với  tình trạng sức khỏe.

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân 284 (71) 228 (80.3) 56 (19.7) P 0.023 PR (KTC 95%) Thông tin hộ gia đình/ phòng trọ Tổng (N= 400) N (%) 1.12 (1.03 – 1.21) Tốt N (%) Không Tốt N (%) 116 (29) 101 (89.9) 15 (10.1)

Hộ gia đình có con nhỏ Có 0.005 Loại hình phòng trọ Phòng riêng có phòng vệ sinh riêng Phòng riêng có phòng vệ sinh chung Điều kiện sống tự đánh giá Khó khăn 0.84 (0.73 – 0.97) 81 (22.6) 58 (71.6) 23 (28.4) 63 (69.2) <0.001 Không Bình thường 278 (77.4) 271 (84.9) 48 (15.1) 1 3.08 (1.71 – 5.56) 1.7 (0.71 – 91 (22.8) 262 (65.5) 229 (87.4) 28 (30.8) 33 (12.6)

561

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

công nhân N (%)

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân P Tốt N (%) Điều kiện nhà ở Không Tốt N (%) PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%)

Không

* Kiểm định fisher

3.79) Thuận lợi Sử dụng rượu bia (n=400) Có 37 (78.7) 81 (79.4) Không Tốt N (%) 10 (21.3) 47 (11.7) 0.385 0.95 (0.85 – 1.06)

102 (25.5) 298 (74.5) 248 (83.2) 21 (20.6) 50 (16.8)

Mức độ sử dụng rượu bia (n=102) Uống ít

Uống vừa

0.209 49 (74.3) 1.19 (0.99 – 1.44) 17 (25.7)

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình trạng sức khỏe với loại hình phòng trọ của  công  nhân  (p=0,023).  Theo  đó  công  nhân  thuê  phòng riêng nhưng có nhà vệ sinh chung có tình  trạng  sức  khỏe  tốt  hơn  so  với  công  nhân  thuê  phòng riêng có nhà vệ sinh riêng.

Tỷ lệ công nhân sử dụng rượu bia là 25,5%  với  mức  độ  ít  (từ  1  đến  2  chai  bia)  chiếm  tỷ  lệ  chủ yếu là 64,7%. Tỷ lệ các yếu tố nguy cơ tương  đối thấp còn do mẫu nghiên cứu có 39% là nam  giới.

Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình trạng sức khỏe với điều kiện sống của công  nhân  (p<0,001  và  PR  =  3,08  ;  KTC  95%  =  1,71  –  5,56). Theo đó công nhân có điều kiện sống bình  thường  có  tình  trạng  sức  khỏe  tốt  hơn  3  lần  so  với công nhân có điều kiện sống khó khăn.

32 (88.6) 4 (11.4) 66 (64.7) 35 (35.3)

Một số yếu tố về lối sống  Bảng 5: Đặc điểm hút thuốc lá của công nhân.

Điều kiện lao động  Bảng 7: Mối liên quan giữa môi trường lao động với  tình trạng sức khỏe.

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân Tình trạng sức khỏe chung của công nhân p PR P Tổng N (%) Môi trường lao động PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%) Tốt N (%) Không Tốt N (%) Không Tốt N (%)

Hút thuốc lá (n=400) Có 49 (12.3) 8 (16.3) 19 (4.7) 18 (94.7) 1 (5.3) 0.781 41 (83.7) Ngành nghề chính Hóa chất, mỹ phẩm 1.01 (0.89 – 1.16) 351 (87.7) 288 (82) 63 (18)

53 (13.3) 41 (77.4)

Không Hút thuốc lá mỗi ngày (n=49) Có

Không

* Kiểm định fisher

0.21 0.85 (0.67 – 1.07) 202 (50.5) 156 (77.2) 43 (87.7) 7 (16.3) 1.00 (0.68 – 1.47) 0.678 * Điện, điện tử 59 (14.8) 55 (93.2) 4 (6.8) Cơ khí, máy móc Dệt may, da giày Nông sản 51 (12.7) 44 (86.3) 12 (22.6) 46 (22.8) 7 (13.7) 36 (83.7) 6 (12.3) 5 (83.3) 1 (16.7) Trung bình số điếu được hút trong 1 ngày: 9 điếu ± 5 điếu 16 (4.0) 15 (93.7) 1 (6.3)

Khác (bảo vệ, tạp vụ, lái xe …) Mức độ làm việc Nặng nhọc 59 (14.8) 38 (64.4)

Tỷ lệ công có hút thuốc lá là 12,3%. Trong số  đó  có  đến  87,7%  công  nhân  ghi  nhận  là  hút  thuốc  lá  mỗi  ngày  với  số  điếu  được  hút  trung  bình mỗi ngày là 9 điếu.

Khó khăn 44 (11.0) 30 (68.2) 21 (35.6) 14 (31.8) <0.00 1

Bảng 6: Tình hình sử dụng rượu bia của công nhân.

1 1.18 (0.51 – 2.72) 1.37 (1.13 – 1.66) 36 (11.9) Bình thường 297 (74.2) 261 (88.1) Tổng p PR Tình trạng sức khỏe chung của

562

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

63 (15.8) 13 (20.6) 1.09 (1.0 - 1.19) Tình trạng sức khỏe chung của công nhân Dịch vụ công theo chỉ định Dịch vụ tư P 20 (13) 154 (38.5) Môi trường lao động 50 (79.4) 134 (87) PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%)

* Kiểm định fisher

Không Tốt N (%) 5 (1.3) 5 (100) 0.11* Thói quen khi mắc bệnh Không làm gì cả Tự mua thuốc 216 (54) 1.24 (0.95 – 1.6) (0) 46 (21.3) Đến cơ sở y tế 25 (14) 179 (44.7) 170 (78.7) 154 (86)

1.07 (0.96 – 1.2) Tiếp xúc các yếu tố độc hại trong môi trường lao động Có 0.268 56 (14) 49 (87.5)

Không 344 (86) 280 (81.4) 7 (12.5) 64 (18.6)

Khám sức khỏe định kỳ hằng năm Có 0.308 1.06 (0.94 – 1.17) 290 (72.5) 242 (83.5)

Tỷ  lệ  công  nhân  tự  đi  kiểm  tra  sức  khỏe  hằng năm là 66,7%. Tỷ lệ công nhân có bảo hiểm  y  tế  là  86,5%.  Nơi  khám  chữa  bệnh  mà  công  nhân  thường  xuyên  sử  dụng  là  dịch  vụ  công  (45,7%) bên cạnh đó dịch vụ tư cũng tỷ lệ đáng  kể (38,5%). Về thói quen khi mắc bệnh đáng chú  ý là tỷ lệ công nhân tự mua thuốc chiếm tỉ lệ khá  cao (54%).

Ngành  nghề  chủ  yếu  tại  địa  phương  là

ngành dệt may chiếm tỷ lệ đa số 50,5%.

Không 48 (16.5) 110 (27.5) 87 (79) 23 (21)

Quan hệ xã hội  Bảng 9: Mối liên quan giữa quan hệ xã hội với tình  trạng sức khỏe.

Kết quả khảo sát về điều kiện lao động còn  cho  thấy  công  nhân  thừa  nhận  có  tiếp  xúc  với  các yếu tố độc hại có đến 14%.

Quan hệ xã hội P PR (KTC 95%) Tổng (N= 400) N (%)

Khảo sát còn tìm thấy được mối liên quan có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  sức  khỏe  với  mức độ làm việc của công nhân (p<0,001). Tỷ lệ  công nhân được khám sức khỏe định kỳ tại nơi  làm việc là khá cao (72,5%.) .

Tốt N (%) Tình trạng sức khỏe chung của công nhân Khôn g Tốt N (%)

Thân thiện với người dân địa phương Có 0.405 370 (92.5)

Chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ sức khỏe  Bảng 8: Mối liên quan giữa chăm sóc sức khỏe với  tình trạng sức khỏe.

1.07 (0.88 – 1.32) Không 30 (7.5) 306 (82.7) 23 (76.7) 64 (17.3) 7 (23.3)

Tình trạng sức khỏe chung của công nhân p PR Chăm sóc sức khỏe Tổng (N= 400) N (%) Cảm thấy an toàn tại địa phương Có 61 (16) <0.001* 2.04 (1.15 – 3.6) Tốt N (%) Không 322 383 (95.7) (84) 17 (4.3) 7 (41) 10 (59) Không Tốt N (%)

Sử dụng thẻ BHYT Có 346 (86.5) 0.588 1.03 (0.89 – 1.19) Không 54 (13.5) 286 (82.7) 43 (79.6) 60 (17.3) 11 (20.4)

Công nhân cảm thấy được an toàn khi sống  tại địa phường có tình trạng sức khỏe tốt hơn 2  lần  so  với  công  nhân  cảm  thấy  không  an  toàn  (p<0,001;  PR=2,04;  KTC  95%  =1,15  –  3,6).  Cho  thấy  chính  quyền  địa  phương  cần  tăng  cường  công tác đảm bảo an ninh địa phương, và công  tác  truyền  thông  thay  đổi  hành  vi,  can  thiệp

0.143 Nơi khám bệnh thường sử dụng Dịch vụ công 183 (45.7) 1 1.07 (0.97 – 1.17) 145 (79.2) 38 (20.8)

563

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Thông tin phòng trọ của công nhân

Nghiên cứu Y học  giảm tác hại cho nhóm đối tượng có nguy cơ cao  như nghiện chích ma túy, mại dâm…

Phần lớn công nhân sống cùng với gia đình  của  mình  (62,3%).  Bên  cạnh  đó  có  22,56%  số  công  nhân  có  con  nhỏ.  Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa thống kê giữa tình trạng sức khỏe với hộ  gia đình có con nhỏ và mức sống của công nhân  (p<0,05).

Điều kiện nhà ở

PR p- value STDs,HIV/AIDS và Kế hoạch hóa gia đình Tổng (N= 400) N (%) Tốt N (%)

Các bệnh STDs và thực hiện kế hoạch gia  đình  Bảng 10: Mối liên quan giữa các bệnh STD, kế hoạch  hóa gia đình với tình trạng sức khỏe.   Tình trạng sức khỏe chung của công nhân Khôn g Tốt N (%)

Hầu hết công nhân thuê phòng riêng có nhà  vệ  sinh  riêng  (71%)  và  phòng  riêng  có  nhà  vệ  sinh chung (27,3%) Có mối liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa tình trạng sức khỏe với loại hình  phòng  trọ  của  công  nhân  (p<0,05).  Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  sức  khỏe với điều kiện sống của công nhân (p<0,05) .

Không

Biết về một số bệnh STDs Có 0.57 0.97 (0.88 – 1.06)

253 (63.3) 147 (36.7 206 (81.4) 123 (83.7) 47 (18.6) 24 (16.3)

Một số yếu tố lối sống

Không

Phần trăm những công nhân hiện đang hút  thuốc là 12,3% ; nhưng trong số đó có đến 87,7%  công  nhân  ghi  nhận  là  hút  thuốc  lá  hằng  ngày  với  số  điếu  được  hút  trung  bình  mỗi  ngày  là  9  điếu ± 5 điếu. Có đến 25,5% số công nhân hiện  có  sử  dụng  rượu  bia.  Không  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa  tình  trạng  sức  khỏe  với  lối  sống  của  công nhân.

Sử dụng dụng cụ tránh thai Có 54 (76) 17 (34) 0.097 0.89 (0.77 – 1.03) 26 (15) 71 (29.1) 173 (70.9) 147 (85)

Điều kiện lao động

Có  14  %  công  nhân  làm  việc  có  tiếp  xúc  thường xuyên với yếu tố độc hại tại nơi làm việc.  Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình  trạng  sức  khỏe  với  mức  độ  làm  việc  của  công  nhân (p<0,05).

Tỷ lệ công nhân biết về một số bệnh STDs là  63,3% và tỷ lệ công nhân nữ có sử dụng dụng cụ  tránh thai là 29,1%. Các dụng cụ tránh thai đang  được sử dụng chủ yếu là bao cao su, thuốc uống  và  đặt  vòng.  Phần  lớn  công  nhân  nhập  cư  có  tuổi  đời  rất  trẻ,  sống  tự  do,  trình  độ  văn  hóa  thấp, chủ yếu lao động phổ thông nên ít có điều  kiện tiếp cận được các phương tiện truyền thông  giáo  dục  sức  khỏe  nên  kiến  thức  về  phòng  chống các bệnh Stds và HIV/Aids đối với họ rất  mù  mờ,  thậm  chí  chưa  nhận  thức  được  tác  hại  của những bệnh lây truyền.

Chăm  sóc  sức  khỏe  và  tiếp  cận  dịch  vụ  chăm sóc sức khỏe

KẾT LUẬN

Tỷ  lệ  công  nhân  không  kiểm  tra  sức  khỏe  hằng  năm  là  33,3%.  Tỷ  lệ  công  nhân  không  có  thẻ bảo hiểm y tế là 13,5% nguyên nhân chủ yếu  là  do  cơ  quan  chủ  quản  không  cung  cấp.  Tỷ  lệ  công  nhân  sử  dụng  dịch  vụ  công  là  45,7%;  kế  đến  dịch  vụ  tư  là  38,5%.  Không  tìm  thấy  mối  liên quan giữa tình trạng sức khỏe với chăm sóc  và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Đặc tính mẫu nghiên cứu có 39% là nam và  61%  là  nữ,  đa  số  là  công  nhân  trẻ  78,5%  có  độ  tuổi từ 30 trở xuống, trong đó nhóm tuổi thanh  niên trẻ 18‐24 tuổi chiếm tới 44%. Về tình trạng  hôn nhân thì có tới 53,5% công nhân đã lập gia  đình. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  tình  trạng  sức  khỏe  với  tình  trạng  hôn  nhân:  công nhân đã lập gia đình có tình trạng sức khỏe  tốt thấp hơn 0,88 lần so với công nhân độc thân.

564

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

đặc  biệt  là  cung  cấp  bảo  hiểm  y  tế,  khám  bệnh  nghề nghiệp định kỳ cho công nhân.

Quan  hệ  xã  hội  với  người  dân  tại  địa  phương

Các  doanh  nghiệp  nên  thường  xuyên  tổ  chức các buối nói chuyện về an toàn vệ sinh lao  động,  bệnh  nghề  nghiệp  giúp  người  lao  động  nhận  rõ  những  yếu  tố  nguy  cơ  ảnh  hưởng  sức  khỏe  như  các  yếu  tố  độc  hại  trong  môi  trường  lao  động,  cũng  như  quyền  lợi  khi  khám  bệnh  nghề nghiệp.   TÀI LIỆU KHAM KHẢO

Nghiên  cứu  ghi  nhận  được  có  đến  92,5%  công  nhân  được  người  dân  địa  phương  đối  xử  thân  thiện  hòa  nhã,  bên  cạnh  đó  95,7%  công  nhân cảm thấy an toàn khi sống tại nơi đây. Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tình  trạng  sức  khỏe  với  sự  an  toàn  tại  địa  phương  của công nhân (p<0,001; PR=2,04; KTC 95% =1,15  – 3,6).

1.

Các  bệnh  lây  nhiễm  STDS,  HIV  và  thực  hiện kế hoạch hóa gia đình

2.

3.

4.

5.

Tỷ lệ công nhân biết về một số bệnh Stds là  63,3%  và  các  biện  pháp  phòng  ngừa  tương  đối  cao (97% cho rằng quan hệ chung thủy sẽ tránh  được các bệnh lây nhiễm, 72% cho rằng sử dụng  bao  cao  su…)  Tỷ  lệ  công  nhân  nữ  có  sử  dụng  tránh thai là 29,1%, các dụng cụ tránh thai đang  được sử dụng chủ yếu là bao cao su, thuốc uống  và đặt vòng.

KIẾN NGHỊ

6.

7.

Trước hết cần nâng cao nhận thức cho người  lao động nhập cư, trong đó có nữ công nhân lao  động với việc tập trung vào nội dung pháp luật,  kiến thức xã hội, hợp đồng lao động, bảo hiểm  xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn vệ sinh lao động  và chính sách lao động nữ.

8.

9.

10.

Tăng  cường  các  hoạt  động  tư  vấn,  tuyên  truyền  lưu  động  tại  doanh  nghiệp  khu  công  nghiệp,  khu  chế  xuất  giúp  chủ  doanh  nghiệp  nhận  thức  rõ  hơn  việc  thực  hiện  nghiêm  chỉnh  pháp luật, đặc biệt là thực hiện tốt việc quản lý  sức khỏe công nhân và vệ sinh an toàn lao động,

11.

Gwatkin D và cộng sự. (2000). Sự khác biệt về kinh tế xã hội  trong dinh dưỡng, sức khỏe và dân sứ ở Việt Nam. Chuyên  đề đói nghèo của Ngân hàng Thế Giới.  Joan  B,  Carles  M,  Vilma  S  (2007).  Điều  kiện  làm  việc  và  bất  công y tế. WHO,2007.  Lê Hoàng Ninh, Lê Vinh, Vũ Trọng Thiện và cộng sự (2007).  Các yếu tố xã hội liên quan đến sức khỏe. WHO bulettin on  social determinants, WHO & Viện Vệ sinh Y tế công cộng tp  Hồ Chí Minh, 2007.  Lê  Hoàng  Ninh,  Phùng  Đức  Nhật,  Dương  Thị  Minh  Tâm.  (2010). Nghiên cứu hành vi sức khỏe và tình trạng sức khỏe  cư dân tỉnh Bình Dương năm 2009. Tạp chí Y Học TP.Hồ Chí  Minh, Tập 14 – phụ bản số 2 ‐ 2010: trang 86‐91.  Orielle S, Alec I và cộng sự (2005). Hướng đến khái niệm cơ  cấu trong phân tích và hành động trong các yếu tố xã hội ảnh  hưởng  sức  khỏe.  Uỷ  ban  các  yếu  tố  xã  hội  ảnh  hưởng  sức  khỏe, 2005.  Richard  W,  Michael  M  (2003).  Các  yếu  tố  môi  trường  và  xã  hội  liên  quan  đến  sức  khỏe.  Trung  tâm  sức  khỏe  và  xã  hội  quốc  tế.  Trung  tâm  sức  khoẻ  thành  thị  Văn  phòng  đại  diện  WHO tại khu vực Châu Âu năm 2003.  Tổ chức lao động quốc tế (2004). Hướng đến một thỏa thuận  công bằng cho người lao động nhập cư trong nền kinh tế toàn  cầu.  Hội  nghị  lao  động  quốc  tế,  kỳ  họp  thứ  92,  báo  cáo  VI,  năm 2004.   Tổ chức Y Tế Thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương. (2006).  Hòa nhập đói nghèo và giới tính vào chương trình y tế. Phân  hệ cơ bản về đói nghèo, 13‐15.  Tổng cục thống kê, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2004). Chất  lượng cuộc sống của người di cư tại Việt Nam. Khảo sát về di  cư ở Việt Nam năm 2004: Những phát hiện chủ yếu.  Trung  Tâm  Bảo  Vệ  Sức  Khỏe  và  Môi  Trường  Bình  Dương.(2010), Báo cáo tổng kết năm 2008, 2009, 2010.  Ủy  ban  Kinh  Tế  và  Xã  Hội  về  Châu  Á  Thái  Bình  Dương  (2003).  Di  cư  và  đói  nghèo  ở  Châu  Á:  Bangladesh,  Trung  Quốc, Philippines và Việt Nam. Bangkok, năm 2003.

565

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KHẨU PHẦN MUỐI ĂN CỦA NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TẠI HÀ NỘI,  THỪA THIÊN HUẾ VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Thu Hiền*, Lê Thị Hợp*, Nguyễn Thị Lâm*, Đỗ Thị Ngọc Diệp**, Phan Thị Liên Hoa***

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Khẩu phần muối ăn (NaCl) đã được chứng minh là một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh  tăng huyết áp (THA). Tuy nhiên, đã hơn một thập kỷ qua, chưa có nghiên cứu đánh giá lượng tiêu thụ muối của  người Việt Nam trên quy mô lớn, trong khi tỷ lệ THA đang gia tăng ở nước ta.

Mục  tiêu: Xác định khẩu phần muối NaCl trong gia vị của người trưởng thành tại Hà Nội, Thừa Thiên

Huế, và thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả đã được triển khai trong năm 2008 ‐2009. Tổng số  1518 người từ 20 tuổi trở lên đã tham gia nghiên cứu. Khẩu phần gia vị được thu thập bằng phương pháp cân  đong tại gia đình. Hàm lượng Natri trong từng gia vị được phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp, từ  đó tính được hàm lượng muối ăn trong gia vị đó dựa vào trọng lượng phân tử của NaCl. Khẩu phần muối ăn  được tính toán bằng khẩu phần gia vị x hàm lượng muối ăn trong gia vị.

Kết quả: Khẩu phần muối trung bình ở đối tượng nghiên cứu là 11,7 ± 5,5 g/ ngày, không có sự khác nhau  giữa nông thôn và thành thị. Khẩu phần muối trung bình ở nam (12,7 g/ ngày) cao hơn có ý nghĩa thống kê so  với nữ (10,5 g/ ngày), p< 0,05. Khẩu phần này cao nhất ở Thừa Thiên Huế (12,3 g/ ngày), sau đó đến thành phố  Hồ Chí Minh và Hà Nội (tương ứng là 11,1 và 10,7 g/ ngày).

Kết luận: Khẩu phần muối của người trưởng thành tại các địa điểm nghiên cứu đều cao hơn gấp 2 lần so  với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Cần có những nghiên cứu can thiệp trong những năm tới để giảm  khẩu phần muối, góp phần dự phòng tăng huyết áp cho cộng đồng.

Từ khóa: Khẩu phần muối ăn, người trưởng thành.

ABSTRACT

SODIUM SALT INTAKE IN ADULTS IN HANOI, THUA THIEN HUE, AND HO CHI MINH CITY

Vu Thi Thu Hien, Le Thi Hop, Nguyen Thi Lam, Đo Thi Ngoc Diep, Phan Thi Lien Hoa

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 567 ‐ 571

Background:  Sodium salt intake has been widely known as one of the risk factors of high blood pressure.  However, there has not been any large survey on sodium salt consumption in whole country since over 10 years,  while prevalence of high blood pressure has been increasing in Vietnam.

Objectives:  to assess sodium salt intake in seasonings in adults living in Hanoi capital, Thua Thien Hue

province, and Ho Chi Minh city.

Methods: A cross‐ sectional study was conducted in 2008‐ 2009. A total of 1518 subjects participated in the  study.  Seasoning  intake  was  evaluated  by  weighing  method  at  household.  Sodium  content  in  seasonings  was  assessed by High‐performance liquid chromatography (HPLC) method, then sodium salt content in the seasoning  was  calculated  based  on  molecular  weight  of  NaCl.  Therefore,  sodium  salt  intake  was  equal  to  amount  of

∗∗ Trung tâm Dinh Dưỡng Tp. Hồ Chí Minh

∗ Viện Dinh Dưỡng  ∗∗∗ Trung tâm Y tế Dự phòng Thừa Thiên Huế  Tác giả liên lạc: TS. Vũ Thị Thu Hiền

ĐT: 0983640470  Email: hienvuthithu@yahoo.com

566

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  seasonings multiply with content of sodium salt in the seasonings.

Results:  Mean  sodium  salt  intake  in  studied  subjects  was  11,7  ±  5,5  g/  day.  There  was  no  significant  difference  of  salt  intake  between  urban  and  rural  areas.  Mean  sodium  salt  intake  in  males  (12,7  g/  day)  was  higher  than  that  in  females  (10,5  g/  day),  p<  0,05.  The  intake  was  highest  in  Thua  Thien  Hue  (12,3  g/  day),  followed by Ho Chi Minh city (11,1 g/ day) and Ha Noi (10,7 g/ day).

Conclusion:  In  conclusion,  sodium  salt  intakes  in  adults  in  studied  sites  were  2  times  higher  than  recommendation of World Health Organization. Intervention studies should be conducted in future to reduce salt  intake in order to control high blood pressure in community.

Key words: Sodium salt intake, adult.

ĐẶT VẤN ĐỀ

cấp  số  liệu  cho  các  can  thiệp  cộng  đồng  dự  phòng tăng huyết áp.

‐  PHƯƠNG  PHÁP

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả.

Thời gian và địa điểm

Từ tháng 10/2008 – tháng 2/2009, tại Hà Nội,

Thừa Thiên Huế, Tp. Hồ Chí Minh.

Đối tượng nghiên cứu

Khẩu phần muối Natri (hay còn gọi là muối  ăn, có công thức hóa học là Clorua Natri: NaCl),  từ lâu đã được thừa nhận là một yếu tố nguy cơ  đáng  kể  với  bệnh  tim  mạch  và  tăng  huyết  áp  (THA)(8).  Vì  vậy,  giảm  khẩu  phần  muối  Natri  được khuyến cáo là giải pháp không dùng thuốc  hiệu  quả  nhất  trong  điều  trị  và  dự  phòng  THA(7,1).  Khuyến  cáo  của  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO) là khẩu phần muối Natri ở người trưởng  thành  nên  hạn  chế  ở  mức  <  5g/  ngày  (tương  đương  với  <  2g  Natri)  để  góp  phần  giảm  nguy  cơ THA, bệnh tim mạch và đột quỵ(10).

Người  trưởng  thành  từ  20  tuổi  trở  lên,  thường xuyên dùng bữa ăn tại gia đình. Không  chọn những phụ nữ mang thai/ đang cho con bú  và người đang có chế độ ăn kiêng, hoặc đang có  nhiễm trùng cấp tính tại thời điểm điều tra.  Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:

Cỡ mẫu

Tính theo công thức ước tính khẩu phần:

N=Z21‐α/2 (σ2/e2)

Trong đó: n là cỡ mẫu, z = 1.96 với α = 0.05, σ  là độ lệch chuẩn (ước tính = 2,0 dựa vào nghiên  cứu  trước),  e  là  sai  số  ước  lượng  giữa  giá  trị  trung bình của mẫu so với quần thể, ước tính là  0,26.

Muối Natri từ lâu đã được dân gian sử dụng  như là một gia vị làm tăng sự ngon miệng và vị  đậm  đà  của  món  ăn.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  đánh giá thực trạng khẩu phần ăn muối Natri ở  người  Việt  nam  còn  rất  ít,  do  việc  định  lượng  muối trong khẩu phần rất khó khăn và có nhiều  sai  số.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lê  Viết  Định  năm  1990  tại  tỉnh  Khánh  Hòa  cho  thấy:  lượng  NaCl  trung  bình  là  9,5  ±  2,0  g/  ngày/  người.  Theo  tác  giả  Phan  Thị  Kim  và  cộng  sự  năm  1993  thì  khẩu  phần  này  ở  người  trưởng  thành  từ  15  tuổi  trở  lên  là  13,9  ±  1,7  g/  ngày/  người,  cao  hơn  nhiều  so  với  mức  khuyến  cáo  của  Tố  chức  Y  tế  Thế  giới(4,5).  Từ  đó  đến  nay  cũng  chưa  có  nghiên  cứu  đánh  giá  lượng  tiêu  thụ muối của người Việt nam trên quy mô lớn,  trong khi tỷ lệ THA đang gia tăng ở nước ta(9,2).  Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu  về  khẩu  phần  ăn  muối  Natri  của  người  trưởng  thành từ 20 tuổi trở lên, tại Hà Nội, Thừa Thiên  Huế,  và  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  nhằm  cung

Do  đó,  tổng  số  đối  tượng  cần  thiết  cho  nghiên cứu là 227 người/ cụm điều tra. Sau khi  cộng  thêm  khoảng  10%  cho  những  đối  tượng  không đạt yêu cầu và việc lọc dữ liệu thì tổng số  đối  tượng  nghiên  cứu  là  255  người/  cụm  điều  tra. Như vậy, tổng số đối tượng nghiên cứu cần  thiết cho 3 tỉnh thành là: 255 người/ cụm x 6 cụm  = 1530 (người).

567

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Phương pháp chọn mẫu:

Tại  mỗi  tỉnh,  chọn  1  phường  đại  diện  cho  thành thị và 1 xã đại diện cho nông thôn để tiến  hành điều tra.

gia vị mà đối tượng sử dụng và gửi sang Nhật  để  phân  tích  hàm  lượng  Natri  bằng  phương  pháp  sắc  ký  lỏng  cao  áp  (HPLC).  Sau  đó  tính  hàm  lượng  muối  Natri  trong  gia  vị  dựa  vào  trọng lượng phân tử NaCl và hàm lượng Natri,  theo  công  thức:  hàm  lượng  muối  Natri  =  hàm  lượng Natri x 2,54.

Sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai  đoạn để lựa chọn hộ gia đình và các đối tượng,  với các bước như sau:

Khẩu  phần  muối  Na  =  khẩu  phần  gia  vị  x

Bước 1: Chọn 3 tỉnh thành là Hà Nội, Thừa

hàm lượng muối Natri trong gia vị.

Thiên Huế và Tp. Hồ Chí Minh.

Ghi chú

Bước  2:  Tại  mỗi  tỉnh  thành,  tiến  hành  chọn  ngẫu  nhiên  một  xã  nông  thôn  và  1  phường  thành thị từ danh sách các phường/ xã của tỉnh  đó để tiến hành nghiên cứu.

Trong những ngày điều tra, lượng muối/ gia  vị  mà  gia  đình  thường  dùng  để  nấu  thức  ăn  động vật, và lượng muối/ gia vị dùng để cho các  mục  đích  khác  như:  rửa  dao,  rửa  cá,  đánh  răng… được yêu cầu để riêng.

Trong những ngày điều tra, đối tượng được  yêu  cầu  ăn  tại  gia  đình.  Trong  trường  hợp  đối  tượng  vì  lý  do  khách  quan  mà  phải  ăn  bữa  ăn  ngoài  gia  đình  thì  đối  tượng  đó  được  loại  bỏ  khỏi phân tích thống kê.

Xử lý và phân tích số liệu

Bước 3: Lập danh sách các hộ gia đình trong  phường/ xã được chọn và đánh mã số cho từng  hộ gia đình. Từ danh sách đó, chọn hộ gia đình  đầu tiên bằng cách chọn một mã số ngẫu nhiên.  Tất  cả  người  trưởng  thành  từ  20  tuổi  trở  lên  trong hộ gia đình đó, đáp ứng đủ các tiêu chuẩn  chọn  mẫu,  đã  được  mời  tham  gia  nghiên  cứu.  Sau đó, dùng phương pháp “vết dầu loang” để  tiếp cận và chọn các hộ gia đình tiếp theo cho tới  khi lựa chọn được đủ 250 người trưởng thành từ  20 tuổi trở lên cho mỗi phường/ xã.

Phương pháp và kỹ thuật áp dụng

Tuổi,  trình  độ  học  vấn,  nghề  nghiệp…được

thu thập bằng phương pháp phỏng vấn

Khẩu phần các chất dinh dưỡng được đánh  giá bằng phương pháp hỏi ghi 24 giờ qua trong  3 ngày liên tiếp.

Số  liệu  được  nhập  bằng  phần  mềm  EPI‐  INFO,  khẩu  phần  được  nhập  và  ước  tính  bằng  phần  mềm  ACCESS.  Xử  lý  số  liệu  bằng  phần  mềm  SPSS.  Trước  khi  sử  dụng  phép  phân  tích  thống kê, số liệu được kiểm tra xem có phân bố  chuẩn  hay  không.  Với  những  biến  phân  bố  không  chuẩn,  phép  biến  đổi  Log  đã  được  sử  dụng để hiệu chỉnh. Dùng Test T để so sánh các  số trung bình và và Test Khi bình phương để so  sánh các tỷ lệ.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Có 12 đối tượng đã ăn ngoài gia đình trong  quá trình điều tra. Như vậy, kết quả được trình  bày với tổng số 1518 đối tượng tham gia nghiên  cứu, trong đó có 702 nam và 816 nữ.

Khẩu  phần  gia  vị:  thu  thập  bằng  phương  pháp  cân  đong  tại  gia  đình  trong  3  ngày  liên  tiếp,  sử  dụng  loại  cân  thực  phẩm  với  độ  chính  xác  1g.  Nghiên  cứu  viên  đến  nhà  đối  tượng  để  cân tất cả các lọ gia vị trước khi chế biến món ăn  và sau khi gia đình đã ăn xong bữa. Khẩu phần  gia  vị  của  cả  gia  đình  được  tính  bằng  hiệu  số  trọng  lượng  của  lọ  gia  vị  trước  và  sau.  Khẩu  phần gia vị của đối tượng được tính bằng khẩu  phần  gia  vị  của  cả  gia  đình  x  hệ  số  ăn  của  đối  tượng so với cả gia đình.

Biến số

Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu  Nông thôn (n = 802) 45.5 (15.6) 27.0** 21.6**

Xác  định  hàm  lượng  muối  Natri  trong  các  gia  vị:  nghiên  cứu  viên  thu  thập  tất  cả  các  loại

Thành thị (n = 716) 45,7 (15.6) 13.4 13.7 Tuổi (năm) Trình độ học vấn < lớp 5 (%) Nghề nghiệp chính là lao động nặng (%) Năng lượng khẩu phần (Kcal) 1966 (510) 1898 (463)*

568

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

đến Tp. Hồ Chí Minh (11,1 g/ ngày) và Hà Nội  (10,7 g/ ngày).

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  Số liệu được trình bày dưới dạng Trung bình (SD) hoặc  %. So sánh giữa nông thôn và thành thị bằng Test T hoặc  Test Khi bình phương. *: p < 0,05 **: p < 0,01.

BÀN LUẬN

Tuổi trung bình của đối tượng là 45,6 (năm).  Theo kết quả Bảng 1, không có sự khác nhau có  ý nghĩa thống kê về tuổi giữa khu vực thành thị  và  nông  thôn.  Năng  lượng  khẩu  phần  ở  nông  thôn  thấp  hơn  có  ý  nghĩa  so  với  thành  thị  (p<  0,05). Tỷ lệ đối tượng có trình độ học vấn thấp (<  5  năm  đi  học)  và  có  nghề  nghiệp  chính  là  lao  động nặng ở nông thôn cao hơn so với ở thành  thị (p< 0,01).

Bảng 2: Khẩu phần muối Natri theo địa điểm nông  thôn‐ thành thị (g/ ngày)

Số liệu được trình bày dưới dạng Trung bình (SD).

Khẩu  phần  muối  Natri  trung  bình  ở  đối  tượng nghiên cứu là 11,7 ± 5,5 g/ngày, thấp hơn  so  với  nghiên  cứu  trước  ở  người  trưởng  thành  Việt  nam(5),  nhưng  vẫn  cao  gấp  đôi  so  với  khuyến  cáo  của  WHO(10).  Đây  là  một  gợi  ý  dự  báo mối nguy cơ đáng kể đối với bệnh tim mạch  và cao huyết áp ở Việt nam. Kết quả của chúng  tôi  cũng  đồng  thuận  với  các  nghiên  cứu  ở  các  nước khác là: Khẩu phần muối Natri ở nam giới  cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở nữ giới(3).  So  với  các  nước  xung  quanh,  khẩu  phần  muối  Natri  của  người  nam  trưởng  thành  Việt  nam  (12,7  g/  ngày)  thấp  hơn  người  cùng  độ  tuổi  ở  Hàn Quốc (13,6 g/ ngày),  tương  đương  với  Bắc  Kinh‐  Trung  Quốc  (12,7  g/  ngày),  cao  hơn  ở  Osaka‐ Nhật Bản (10,7 g/ ngày)(3).

Khẩu  phần  muối  Natri  trung  bình  ở  cả  3  tỉnh/  thành  là  11,7  ±  5,5  g/  ngày,  không  có  sự  khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nông thôn  và thành thị (Bảng 2).

Thành thị (n = 716) Nông thôn (n = 802) 11,5 (5,8) 12,0 (5,1) Chung 11,7 (5,5)

Bảng 3: Khẩu phần muối Natri theo giới (g/ ngày)

Số liệu trình bày dưới dạng Trung bình (SD). So sánh  giữa nam và nữ bằng Student T test

Kết quả ở Bảng 3 cho thấy: Khẩu phần muối  trung bình ở nam là 12,7 g/ ngày, cao hơn có ý  nghĩa thống kê so với nữ (10,5 g/ ngày), với p<  0,05.

12.3

12.5

Điểm  mạnh  của  nghiên  cứu  là:  cỡ  mẫu  đủ  lớn,  được  chọn  theo  phương  pháp  ngẫu  nhiên  phân tầng tại 3 tỉnh/ thành đại diện cho 3 miền  Bắc, Trung, Nam. Phương pháp thu thập số liệu  sử dụng cân thực phẩm với độ chính xác tới 1g.  Hơn nữa, đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt nam  sử  dụng  phương  pháp  phân  tích  trong  Labo  (phương  pháp  HPLC)  để  phân  tích  hàm  lượng  Natri  trong  từng  loại  gia  vị  mà  đối  tượng  sử  dụng, từ đó kết hợp  với  cân  đong  lượng  gia  vị  mà đối tượng sử dụng tại gia đình để tính toán  khẩu phần muối Natri. Đây là điểm mạnh nhất  của nghiên cứu.

12

11.7

Nam (n = 702) 12,7 (5,6) Nữ (n = 816) 10,5 (6,4) P 0,04

) y à g n

/

11.5

g ( i

11.1

11

10.7

10.5

ố u m n ầ h p

10

u ẩ h K

9.5

Chung

Hà Nội

TT Huế

Tp. HCM

Hình 1: Khẩu phần muối Natri theo tỉnh/ thành phố

Hình 1 cho thấy: Khẩu phần muối Natri cao  nhất  ở  Thừa  Thiên  Huế  (12,3  g/  ngày),  sau  đó

Tuy  nhiên,  phương  pháp  đánh  giá  khẩu  phần  muối  Natri  ăn  vào  bằng  cân  đong  lượng  muối chế biến và thêm vào bữa ăn chưa phải là  phương  pháp  lý  tưởng  nhất  để  ước  tính  khẩu  phần  Natri  và  nguy  cơ  bệnh  tim  mạch.  Một  lượng  không  nhỏ  Natri  từ  các  thực  phẩm  cũng  góp  phần  làm  tăng  nguy  cơ  của  bệnh  này.  Phương pháp định lượng Natri trong nước tiểu  24  giờ  sẽ  giúp  ước  tính  được  chính  xác  khẩu  phần  Natri  và  mối  liên  quan  với  bệnh  tim  mạch(6). Nhưng phương pháp đó sẽ rất tốn kém  và khó khả thi ở cộng đồng với cỡ mẫu lớn. Vì

569

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

2.

3.

4.

5.

Nghiên cứu Y học  vậy,  chúng  tôi  tin  rằng,  với  cỡ  mẫu  lớn  và  các  phương pháp phân tích/ thu thập số liệu chuẩn  xác  tại  cả  Labo  và  ở  cộng  đồng,  số  liệu  của  nghiên cứu này mang tính đại diện cao, có thể là  cơ sở dữ liệu cho các can thiệp dự phòng.  Mặc  dù  vậy,  nghiên  cứu  cũng  có  hạn  chế  là  không  đánh  giá  được  hàm  lượng  muối  trong  dưa/  cà  muối  sẵn.  Tuy  nhiên,  số  đối  tượng  ăn  dưa/  cà  muối  sẵn  trong  những  ngày  điều  tra  không đáng kể nên không ảnh hưởng nhiều đến  kết quả nghiên cứu.

KẾT LUẬN

6.

Khẩu  phần  muối  Natri  trung  bình  ở  đối  tượng  nghiên  cứu  là  11,7  ±  5,5  g/ngày,  cao  hơn  gấp 2 lần so với khuyến nghị của WHO.

7.

Khẩu  phần  muối  ở  nam  (12,7  g/  ngày)  cao

hơn so với ở nữ (10,5 g/ ngày), p< 0,05.

KHUYẾN NGHỊ

8.

9.

Cần  có  những  nghiên  cứu  can  thiệp  và  truyền  thông  cho  cộng  đồng  hạn  chế  sử  dụng  gia  vị  có  muối  cho  bữa  ăn  để  dự  phòng  tăng  huyết áp.

Hoang VM, Byass P, Dao LH, Nguyen TK, Wall S (2007). Risk  factors  for  chronic  disease  among  rural  Vietnamese  adults  and  the  association  of  these  factors  with  sociodemographic  variables:  findings  from  the  WHO  STEPS  survey  in  rural  Vietnam, 2005. Prev Chronic Dis; 4(2):A22.  Joossens JV, Hill MJ, Elliott P, et al (2010) Dietary Salt, Nitrate  and Stomach Cancer Mortality in 24 Countries. International  Journal ol Epidemiology; Vol. 25, No. 3; 2010, pp.494‐ 50.  Lê Viết Định (1991). Điều tra lượng muối ăn trong khẩu phần  hàng ngày ở vài địa phương vùng đồng bằng miền biển tỉnh  Khánh Hoà / Lê Khánh Hoà ‐ Nội khoa ‐ Năm 1991, số 3, tr. 6‐ 10.  Phan Thị Kim, Nguyễn Thị Lâm, Hoàng Thế Yết, Trần Ngọc  Hà, Nguyễn Thanh Hà (1993). Tìm hiểu lượng muối ăn vào,  thải ra theo nước tiểu 24 giờ và bệnh tăng huyết áp ở một số  địa phương. Tạp chí vệ sinh phòng dịch, tập III, số 3 (11); 47‐  50.  Polónia  J,  Maldonado  J,  Ramos  R,  Bertoquini  S,  Duro  M,  Almeida C, Ferreira J, Barbosa L, Silva JA, Martins L (2006).  Estimation  of  salt  intake  by  urinary  sodium  excretion  in  a  Portuguese  adult  population  and  its  relationship  to  arterial  stiffness. Rev Port Cardiol.;25(9):801‐17.  Sacks  FM,  Svetkey  LP,  Vollmer  WM,  et  al  (2001).  Effects  on  blood  pressure  of  reduced  dietary  sodium  and  the  Dietary  Approaches  to  Stop  Hypertension  (DASH)  diet.  DASH‐ Sodium  Collaborative  Research  Group.  N Engl J Med;  344:3– 10.  Schröder  H,  Schmelz  E,  Marrugat  J  (2002).  Relationship  in  a  representative  between  diet  and  blood  pressure  Mediterranean population. Eur J Nutr; 41(4):161‐7.  Tran TM, Komatsu T, Nguyen TK, Nguyen VC, Yoshimura Y,  Takahashi K, Wariishi M, Sakai T, Yamamoto S (2001). Blood  pressure,  serum  cholesterol  concentration  and  their  related  factors in urban and rural elderly of Ho Chi Minh City. J Nutr  Sci Vitaminol (Tokyo); 47(2):147‐55.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

10. World  Health  Organization  (WHO),  2007.  Reducing  salt  intake in Population. Report of a WHO forum and Technical  meeting, Geneva.

He FJ; Marciniak M; Visagie E, et al (2009). Effect of Modest  Salt  Reduction  on  Blood  Pressure,  Urinary  Albumin,  and  Pulse  Wave  Velocity  in  White,  Black,  and  Asian  Mild  Hypertensives. Hypertension; 54:482.

570

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

RỐI LOẠN CƠ XƯƠNG NGHỀ NGHIỆP VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN  Ở NỮ CÔNG NHÂN TẠI CÔNG TY CHẾ BIẾN THỦY SẢN TỈNH BÀ  RỊA‐VŨNG TÀU NĂM 2011

Lê Thị Hải Yến*, Trịnh Hồng Lân

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: RLCX là một loại bệnh lý gây ra cảm giác đau nhức, mệt mỏi cho công nhân làm việc trong tư  thế gò bó trong một thời gian dài, từ đó ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của họ. Ngành chế biến thủy sản là  ngành mà trong đó công nhân phải làm việc với tư thế đứng trong thời gian dài, vì vậy có nguy cơ mắc RLCX  cao. Tại Bà Rịa‐Vũng Tàu các nghiên cứu về RLCX ở công nhân chế biến thủy sản chưa có, vì vậy nghiên cứu  được tiến hành để tìm hiểu thực trạng cũng như tìm ra giải pháp phòng ngừa RLCX ở công nhân.

Mục tiêu: Xác định được tỷ lệ bệnh RLCX nghề nghiệp và các yếu tố liên quan ở nữ công nhân công ty chế

biến thủy sản Bà Rịa ‐Vũng Tàu.

Phương pháp nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 419 nữ công nhân tại công ty chế

biến thủy sản Bà Rịa‐Vũng Tàu. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi đóng phỏng vấn trực tiếp các nữ công nhân.

Kết  quả:  Tỷ  lệ  RLCX  của  công  nhân  rất  cao  lên  đến  85,4%.  Các  RLCX  chủ  yếu  là  đau  nhức  vai  phải  (48%), vai trái (46,5%), cẳng chân phải (42,2%) và vùng thắt lưng (33,2%). Các yếu tố nguy cơ có thể làm tăng  nguy cơ RLCX ở công nhân chế biến thủy sản bao gồm: độ ẩm không đạt chuẩn, thời gian làm việc, tư thế làm  việc, thời gian nghỉ giữa ca, tính chất công việc.

Kết luận và kiến nghị : Công ty chế biến thủy sản Bà Rịa‐Vũng Tàu cần thực hiện các biện pháp sau để cải  thiện điều kiện lao động và phòng chống RLCX cho người lao động: nên tổ chức các khoảng nghỉ ngắn (5‐10  phút) sau mỗi khoảng thời gian lao động khoảng 120 phút; tổ chức tập thể dục cho công nhân 10 phút/lần; tạo  điều kiện cho công nhân thường xuyên thay đổi tư thế, có thể bố trí ghế ngồi cao cho công nhân trong ca làm  việc.

Từ khóa: Rối loạn cơ xương nghề nghiệp, công nhân chế biến thủy sản

ABSTRACT

OCCUPATIONAL MUSCULOSKELETAL DISORDERS AND RELATED FACTORS AMONG  SEAFOOD PRODUCTION FEMALE WOKERS OF BARIA‐VUNGTAU SEAFOOD PROCESSING  FACTORY IN 2011

Le Thi Hai Yen, Trinh Hong Lan

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 572 ‐ 577

Background:  Occupational musculoskeletal disorders (OMDs) are conditions that causes aches and pains  for workers who work with restricted posture for a long time and results in a decrease of worker’s performance.  Seafood processing is an industry in which workers have to work in standing posture for a long time, so they have  a high possibility of acquiring OMDs. In Ba Ria‐Vung Tau province, there are not any studies on OMDs among  seafood  production  workers.  Hence,  this  study  is  carried  out  to  explore  the  prevalence  of  OMDs  among  these  workers so that the authorities can figure out proper measures to prevent OMDs among them.

Objectives: Identify the prevalence of OMDs and related factors among seafood production female workers

of BaRia‐VungTau seafood processing factory.

ĐT: 0972164497  Email: bshaiyen@gmail.com

571

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Hải Yến  Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Methods:  A  cross‐sectional  study  was  conducted  on  419  female  workers  of  BaRia‐VungTau  seafood  processing factory. A structures questionnaire was used to collect data through face‐to‐face interviews. The data  was entried with Epi.Data ver 3.12 and analysed with Stata ver 10.0.

Result:  The  proportion  of  OMDs  of  female  workers  was  extremly  high  (85.4%).  Main  OMDs  symtoms  were right shoulder pains (48%), left shoulder pains (46.5%), right leg pains (42.2%), and waist pains (33.2%).  Factors that increased the risk of OMDs included high moisture, working time, working postures, breaks time  between shifts, and kinds of work.

Conclusion: The factory should implement following measures to prevent OMDs for their workers: short  breaks (about 5‐10 minutes) should be applied between 120‐minutes shifts, workers should have time to change  their posture frequently, and workers should do 10‐minutes exercises in each shift.

Keywords: Occupational musculoskeletal disorders, seafood production workers.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ  những  bất  cập  này  cùng  với  thực  tế  là  tại  tỉnh  Bà  Rịa  ‐  Vũng  Tàu  chưa  có  công  trình  nghiên cứu nào về RLCX trong ngành chế biến  thủy  sản,  chúng  tôi  nhận  thấy  cần  thiết  phải  tiến hành nghiên cứu về tình trạng RLCX nghề  nghiệp ở công nhân chế biến thuỷ sản để từ đó  đưa  ra  một  số  giải  pháp  phòng  chống  RLCX  cho  công  nhân,  đồng  thời  góp  phần  mang  lại  sự  ổn  định  sức  khoẻ  cho  nguồn  nhân  lực  ngành chế biến thủy sản tại Bà Rịa ‐ Vũng Tàu.

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Các  công  trình  nghiên  cứu  trên  thế  giới  về  rối  loạn  cơ  xương  (RLCX)  cho  thấy  RLCX  là  bệnh  lý  thường  gặp  ở  những  người  phải  làm  việc  ở  những  tư  thế  lao  động  khó  khăn,  gò  bó  kéo dài liên tục, trong đó tư thế thường gặp nhất  là tư thế đứng hoặc ngồi liên tục trong nhiều giờ  liền. Ảnh hưởng của RLCX hiếm khi gây ra các  trường hợp tai nạn lao động nặng hay tử vong,  nhưng  nó  làm  cho  người  lao  động  phải  chịu  đựng  sự  đau  mỏi  nhiều  vị  trí  trên  cơ  thể.  Ở  Birtish Columbia, có tới hơn 50% các vấn đề về  sức khoẻ của người lao động là do RLCX(12,3).

Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả với  đối  tượng  là  nữ  công  nhân  có  tuổi  nghề  trên  1  năm đang làm việc tại công ty chế biến thủy sản  tỉnh  Bà  Rịa  –  Vũng  Tàu  có  mặt  tại  thời  điểm  nghiên cứu từ ngày 09/4 ‐13/4/2011.

Cỡ mẫu nghiên cứu

Lấy mẫu toàn bộ đối với công nhân. Ngoài  ra  nghiên  cứu  còn  lấy  mẫu  môi  trường  trong  công ty.

Ngành  chế  biến  thuỷ  sản  là  ngành  công  nghiệp trong đó công nhân luôn phải giữ tư thế  hai  cánh  tay  gần  như  cố  định  để  thao  tác  bóc  tôm hoặc các thao tác ít vận động hơn nhưng lặp  đi  lặp  lại  nhiều  lần  suốt  ca  làm  việc  cũng  gây  đau  mỏi  vai,  cánh  tay,  cổ  tay,  cẳng  tay,  cổ  và  ngón tay. Điều này dẫn đến công nhân có nguy  cơ cao mắc RLCX.

Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp  với  bộ  câu  hỏi  đóng  đối  với  công  nhân.  Riêng  đối với môi trường lao động, sử dụng các công  cụ  đo  lường  chính  xác  để  đo  lường  các  chỉ  số  nhiệt độ, độ ẩm, vận tốc gió, tiếng ồn, bụi, ánh  sáng, điện từ trường, tại các vị trí làm việc văn  phòng và sản xuất của công ty.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ngành chế biến  thuỷ sản có 10 công ty với hơn 4000 người lao  động. Trong những năm qua, công ty chế biến  thuỷ sản Bà Rịa ‐Vũng Tàu chấp hành đầy đủ  việc khám sức khỏe định kỳ, khám bệnh nghề  nghiệp  cho  công  nhân.  Trong  các  đợt  khám  sức  khỏe  định  kì,  tình  trạng  RLCX  của  công  nhân chưa được thống kê đầy đủ, trong hồ sơ  khám sức khoẻ định kỳ chỉ ghi nhận một cách  chung  chung  một  vài  triệu  chứng  của  cơ  xương khớp mà không có chẩn đoán cụ thể.(13)

Các  đặc  tính  dân  số‐xã  hội  học  của  mẫu  nghiên cứu  Bảng 1: Các đặc tính của mẫu nghiên cứu (n = 419)

572

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc tính Tỉ lệ (%) Tương đối đầy đủ Không đầy đủ 102 7 24,3 1,7 Tần số (n) Tuổi

Thời gian làm việc 190 229 ≤8h >8h 45,4 54,6 Khám sức khỏe định kỳ ≤20 21-30 31-40 >40 26 264 93 36 6,2 63,0 22,2 9,6 Trình độ học vấn Có Không 419 0 100,0 0,0 Khám bệnh nghề nghiệp

Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 THCN, CĐ, ĐH 11 208 158 42 2,6 49,7 37,7 10,0 Có Không 393 26 93,8 6,2 Cơ sở làm việc

Cơ sở 1 Cơ sở 2 85 334 20,3 79,7 Thâm niên làm việc Tình trạng sức khỏe 166 153 100 00 39,6 36,5 23,9 0,0

Khảo  sát  về  các  yếu  tố  liên  quan  đến  điều  kiện  lao  động  bao  gồm  môi  trường  làm  việc,  trang bị bảo hộ lao động, điều kiện nơi làm việc,  mối quan tâm cải thiện môi trường làm việc của  công  ty  đều  cho  thấy  kết  quả  khả  quan.  Điều  này cho thấy, mặc dù các yếu tố này được đánh  giá dựa trên sự sự nhìn nhận của phía người lao  động,  song  phần  nào  nói  lên  sự  quan  tâm  của  người sử dụng lao động trong việc cải thiện điều  kiện nơi làm việc.

Độ tuổi chiếm tỷ lệ nhiều nhất là 21‐40 tuổi  (85,2%)  trong  đó  nhóm  tuổi  21‐30  chiếm  đến  63%.  Kết  quả  này  tương  tự  với  một  số  nghiên  cứu  trong  và  ngoài  nước.(11,1,10,7)  Kết  quả  cũng  phù hợp với thực tế vì ngành chế biến thuỷ sản  là một ngành đòi hỏi công nhân phải có độ tuổi  trẻ, nhanh nhẹn, thích hợp với công việc đòi hỏi  sự  kiên  nhẫn  và  khéo  léo.  Có  đến  87,4%  đối  tượng có trình độ từ cấp 3 trở xuống. Điều này  cũng  phù  hợp  thực  tế  vì  trong  ngành  chế  biến  thuỷ  sản,  công  nhân  chủ  yếu  là  lao  động  thủ  công  nên  không  đòi  hỏi  trình  độ  học  vấn  cao  trước khi vào làm.

Về  thâm  niên  làm  việc,  có  đến  76,4%  đối  tượng làm việc từ 1‐10 năm nhưng đa số là 1‐5  năm  (53,5%).  Kết  quả  này  tương  tự  với  một  số  nghiên cứu tại Việt Nam (11,10).

Tỷ  lệ  nhân  công  làm  việc  >  8  giờ/ngày  cao  hơn  <  8  giờ/ngày  (54,6%  so  với  45,4%).  Lý  giải  điều  này  là  do  thời  điểm  khảo  sát  là  vào  mùa  cao điểm các đơn đặt hàng nhiều nên nhân công  phải làm tăng ca > 8 giờ/ngày. Đây là một trong  những yếu tố nguy cơ gây RLCX cho nhân công  vì làm tăng thời gian thực hiện các thao tác tĩnh  của công nhân.

1-5 năm 6-10 năm 10-15 năm >15 năm 224 96 22 77 53,5 22,9 5,2 18,4 Tốt Khá Trung bình Yếu Đào tạo, huấn luyện về ATVSLĐ Có Không 401 18 95,7 4,3

Các yếu tố về điều kiện lao động và chăm  sóc sức khỏe của mẫu nghiên cứu  Bảng 2. Các yếu tố về điều kiện lao động và chăm sóc  sức khỏe công nhân (n = 419)

Yếu tố Tần số (n) Tỉ lệ (%) Môi trường làm việc

Tỷ lệ khám sức khỏe định kì, lao động bệnh  nghề  nghiệp,  và  tập  huấn  về  ATVSLĐ  rất  cao  (lần  lượt  là  100%,  93,8%,  95,7%).  Điều  này  cho  thấy sự quan  tâm  đến  sức  khỏe  của  nhân  công  cũng  như  sự  tuân  thủ  các  quy  định  của  pháp  luật trong sử dụng lao động tại công ty chế biến  thủy  sản  Bà  Rịa‐Vũng  Tàu.  Hằng  năm,  công  ty  đều  tổ  chức  khám  sức  khỏe  và  đào  tạo  về  ATVSLĐ cho công nhân(2,13).

Quá lạnh Lạnh Bình thường 9,3 75,4 15,3

Đầy đủ 39 316 64 Bảo hộ lao động 310 74,0

573

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Các  yếu  tố  khác  liên  quan  đến  công  việc  của mẫu nghiên cứu  Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến công việc (n=419)

Yếu tố Tỉ lệ (%)

Đặc  điểm  môi  trường  lao  động  của  hai  cơ  sở sản xuất  Bảng 4. Kết quả đo kiểm tra môi trường lao động tại  2 cơ sở của công ty chế biến thuỷ sản

Tần số (n) Tư thế lao động chủ yếu Cơ sở 1 Cơ sở 2 Đặc tính Đạt n (%) Đứng Luôn thay đổi 356 63 85,0 15,0 Các tư thế lao động kết hợp Nhiệt độ (n=25) 25 (100) Độ ẩm (n=25) 25 (100) Không đạt n (%) 0 (0) 0 (0) Đạt n (%) 25 (100) 22 (88) Không đạt n (%) 0 (0) 3 (12)

35 (100) 0 (0) 35 (100) 0 (0) Vận tốc gió (n=25)

Ánh sáng (n=25) 35 (100) 41 (100) 10 (100) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 25 (100) 41 (100) 10 (100) 0 (0) 0 (0) 0 (0)

Cúi Vặn mình Nhoài người Tính chất công việc Đơn điệu, liên tục Đơn điệu, ngắt quãng Đa dạng, liên tục 239 34 189 260 32 127 57,0 8,1 45,1 62,1 7,6 30,3 10 (100) 0 (0) 10 (100) 0 (0) Ồn (n=25) Bụi (n=25) Điện từ trường (n=25) Nghỉ giữa ca

419 00 100 0,0 Có Không Tập thể dục giữa ca

Các  yếu  tố  như  nhiệt  độ,  vận  tốc  gió,  ánh  sáng, độ ồn, bụi, điện từ trường được lấy tại 25  vị trí tại cơ sở 1 và 2 đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh  cho phép. Tuy nhiên về độ ẩm có 3 mẫu không  đạt  tại  khu  chế  biến  4,  6,  8  thuộc  cơ  sở  2.  Các  nghiên  cứu  khác  chỉ  ra  rằng  độ  ẩm  cao  có  tác  động  rất  bất  lợi  cho  hoạt  động  điều  nhiệt,  dẫn  tới phát sinh một số bệnh nghề nghiệp.(5)

0 100 0 100 Có Không

Tình trạng RLCX nghề nghiệp  Bảng 5. Tỷ lệ rối loạn cơ xương và tỷ lệ các vị trí đau  mỏi ở nữ công nhân (n=419)  RLCX Có Không

Tư thế lao động chủ yếu của các đối tượng là  tư thế đứng chiếm đến 85%. Lao động ở tư thế  đứng  đòi  hỏi  sự  căng  thẳng  cơ  nhiều  hơn  kèm  theo kích thước vùng vận động không thích hợp  có thể dẫn đến một số bệnh lý ở tư thế này. Mặt  khác, do phải duy trì tư thế đứng trong một thời  gian dài nên người  lao  động  sẽ  chóng  mệt  mỏi  hơn so với lao động ở tư thế ngồi. Bên cạnh đó,  tính  chất  công  việc  đơn  điệu  (69,7%)  góp  phần  gây  nên  sự  nhầm  lẫn  định  hình  về  thời  gian,  khiến công nhân sẽ cảm thấy thời gian dài hơn,  từ đó có thể rơi vào trạng thái ức chế thần kinh  và buồn ngủ làm giảm năng suất lao động (8).

Thời  gian  nghỉ  giữa  ca  của  công  nhân  trực  tiếp < 60 phút chiếm tỷ lệ lên đến 93,8%. Đây là  qui  định  chung  về  thời  gian  nghỉ  hiện  nay  của  các cơ sở sản xuất chế biến thủy hải sản. Ngoài  ra, 100% công nhân không tập thể dục giữa ca,  nguyên nhân là do công ty chưa tổ chức tập thể  dục tập thể trong ca làm việc. Đây chính là hai  yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe  cũng như gây nên RLCX ở công  nhân  chế  biến  thủy sản.

Tần số (n) 358 61 Tỉ lệ (%) 85,4 14,6

Đau mỏi chủ yếu ở các vị trí Cổ Vai trái Vai phải Cánh tay trái Cánh tay phải Cẳng tay trái Cẳng tay phải Cổ tay trái Cổ tay phải Bàn tay trái Bàn tay phải Thắt lưng Cẳng chân trái Cẳng chân phải Bàn chân trái Bàn chân phải 153 195 201 48 56 51 59 97 92 80 77 139 173 177 131 136 36,5 46,5 48,0 11,5 13,4 12,1 14,1 23,2 22,0 19,1 18,4 33,2 41,3 42,2 31,3 32,5

574

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Kết  quả  khảo  sát  cho  thấy  tỷ  lệ  công  nhân  cho rằng RLCX ảnh hưởng đến công việc và giấc  ngủ là rất cao (96,3% và 94,4%).

Mối  liên  quan  giữa  RLCX  và  các  yếu  tố  khảo sát  Bảng 7. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p< 0,05)  giữa rối loạn cơ xương với các yếu tố khảo sát  (n=419)

Đặc tính p PR (KTC 95%) RLCX Có (%) Không (%) Bộ phận làm việc

<0,001 2,56 (1,51 – 4,35) Gián tiếp Trực tiếp 9 (34,6) 349 (88,8) 17 (65,4) 44 (11,2) Độ ẩm

Tỷ  lệ  công  nhân  nữ  có  RLCX  trong  nghiên  cứu này là rất cao lên đến 85,4%. Bên cạnh đó, vị  trí  bị  đau  mỏi  nhiều  nhất  chính  là  ở  vai  trái  (46,5%),  vai  phải  (46,5%),  cẳng  chân  phải  (42,2%),  cẳng  chân  trái  (41,3%).  Các  tỷ  lệ  trên  đều thấp hơn so với các nghiên cứu trong nước,  nhưng lại cao hơn nghiên cứu ở nước ngoài(6,1,4).  Điều  này  có  thể  do  các  nguyên  nhân  có  liên  quan đến tư thế đứng và làm việc liên tục bằng  hai  tay  đã  gây  nên  những  vị  trí  đau  nhức  mỏi  này. Ngoài ra có thể do áp lực về lương thưởng,  điều kiện làm việc quá ẩm đối với bàn tay, găng  tay  và  bao  tay  không  vừa  kích  cỡ  cũng  có  thể  góp phần làm giảm lực cầm nắm, sự gò bó, lặp  lại các thao tác  trong  khi  làm  việc,  tư  thế  đứng  gò bó, kéo dài đã ảnh hưởng đến sự đau mỏi ở  các vị trí trên.

0,03 0,91 (0,83-0,99) Không đạt 235 (88,4) 123 (80,4) Đạt 31 (11,6) 30 (19,6) Môi trường làm việc

0,003 1,19 (1,02-1,39) Bình thường 47 (73,4) Lạnh/Quá lạnh 311 (87,6) 17 (26,6) 44 (12,4) Thời gian làm việc

0,002 1,13 (1,05-1,23) ≤8h >8h 39 (20,5) 22 (9,6) 151 (79,5) 207 (90,4) Tư thế làm việc chủ yếu

Nghiên  cứu  cũng  so  sánh  vị  trí  đau  mỏi  ở  các  giai  đoạn  khác  nhau  gồm  đầu  ca,  giữa  ca,  cuối ca. Kết quả cho thấy đầu ca, công nhân đau  mỏi  ở  cổ  (18,1%),  vai  trái  (16,7%)  và  vai  phải  (16%). Tuy nhiên cho đến giữa ca  và  cuối  ca  vị  trí  đau  mỏi  lại  là  cẳng  chân  phải  (36,5%  và  53,9%),  cẳng  chân  trái  (50,8%  vào  cuối  ca).  So  sánh sự khác biệt về tỷ lệ đau nhức mỏi ở các vị  trí vào đầu ca và cuối ca, kết quả đều cho thấy có  sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05.

Giữa RLCX và bộ phận làm việc có mối liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  trong  đó  công  nhân  làm  việc  trực  tiếp  có  khả  năng  mắc  RLCX  cao  gấp 2,56 lần so với công nhân làm việc gián tiếp  (bảng  7).  Kết  quả  này  tương  tự  với  một  số  nghiên cứu trong nước khảo sát trên công nhân  ngành chế biến thủy sản(7,11,2).

<0,001 1,29 (1,09 – 1,54) Luôn thay đổi 43 (68,3) 315 (88,5) Đứng 20 (31,8) 41 (11,5)

Ảnh  hưởng  của  RLCX  đến  công  việc  và  giấc ngủ  Bảng 6. Vị trí đau mỏi gây trở ngại nhiều nhất đến  công việc và giấc ngủ

Đặc tính Tần số (n) Tỉ lệ (%) Mức độ gây trở ngại đến công việc (n=358)

Không trở ngại Trở ngại ít Phải nghỉ việc 10 100 158 28 53,1 44,1

Đối  với  các  yếu  tố  liên  quan  đến  điều  kiện  làm  việc,  chỉ  có  yếu  tố  độ  ẩm,  môi  trường  làm  việc  và  điều  kiện  nơi  làm  việc  là  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  RLCX  (p  <  0,05)  (bảng  7).  Hay  nói  cách  khác,  công  nhân  làm  ở  môi trường có độ ẩm không đạt chuẩn, lạnh đều  có  khả  năng  mắc  RLCX  cao  hơn  so  với  công  nhân  làm  ở  môi  trường  có  độ  ẩm  đạt  chuẩn.  Điều này cũng đã được chứng minh qua nhiều  nghiên cứu(10,7).

Thời gian phải nghỉ việc (n=158) ≤3 ngày >3 ngày 104 54 65,8 34,2 Mức độ gây trở ngại đến giấc ngủ (n=358)

Phân  tích  mối  liên  quan  giữa  thời  gian  làm  việc và RLCX cho thấy có ý nghĩa thống kê (p <  0,05) trong đó công nhân làm việc > 8 giờ sẽ có  khả  năng  mắc  RLCX  cao  gấp  1,13  lần  so  với

Không trở ngại Trở ngại ít Gây trở ngại mỗi đêm 20 204 134 5,6 57,0 37,4

575

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

khoảng thời gian lao động khoảng 120 phút giữa  các ca lao động; tổ chức tập thể dục 10 phút/lần;  tạo điều kiện cho công nhân thường xuyên thay  đổi  tư  thế,  có  thể  bố  trí  ghế  ngồi  cao  cho  công  nhân trong ca làm việc.

Nghiên cứu Y học  người làm việc ≤ 8 giờ. Kết quả này phù hợp với  nghiên  cứu  của  Trịnh  Hồng  Lân  khi  cho  rằng  nếu không có sự nghỉ ngơi giữa  các  chu  kì  của  một  công  việc  nào  đó  sẽ  làm  tăng  nguy  cơ  RLCX.(14) Kết quả nghiên cứu cũng tương tự với  kết quả của Ngô Thị Tuyết Anh(6).

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

4.

Kết quả phân tích cũng cho thấy có mối liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  tư  thế  lao  động  và RLCX (bảng 7). Công nhân làm việc ở tư thế  đứng sẽ có khả năng mắc RLCX cao gấp 1,29 lần  so  với  công  nhân  có  tư  thế  thường  xuyên  thay  đổi.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp  với  nhận  định  của Du Lee P.Estvella và Anjali Nag, PK Nag(1,14).

KẾT LUẬN

5.

6.

7.

8.

9.

Anjali N, Nag PK (2005). ʺTỷ lệ đau mỏi cơ xương ở nữ công  nhân trong các xí nghiệp chế biến cá.ʺ. Báo cáo khoa học tóm tắt,  NXB Y Học Hà Nội, tr 61.  Bộ Y tế, Viện giám định y khoa (1997). Tiêu chuẩn sức khỏe  phân loại để khám tuyển, khám định kỳ. Hà Nội.  Canadian Center for  Occupational  Health  and  Safety  (2005),  Work – related Musculoskeletal disorders    http://www.ccohs.ca/oshanswers/diseases/rmirsi.html, 4/7/2011.  Harn‐Che  C,  Yin‐Ching  K,  Shun‐Shen  C,  Hsin‐Su  Y  (1993)  ʺPrevalence  of  shoulder  and  upper‐limb  disorders  among  workers in the fish‐processing industryʺ. Scand J Work Environ  Health, 19, 12‐31.  Hoàng Văn Bính (2010). Vệ sinh lao động, NXB Khoa học và kỹ  thuật, Hà Nội, tr 13‐622.  Lan  Anh,  Báo  Tuổi  Trẻ  Onine.  Bệnh  vì...  đứng.  http://www.baomoi.com/Home/SucKhoe/tuoitre.com.vn/Benh‐vi‐  dung/2977957.epi, 24/7/2011.  Lê Quang Liêm, Bùi Lê Vĩ Chinh, Mai Minh Thúy (2011), Kết  quả nghiên cứu về môi trường lao động, cơ cấu bệnh tật, bệnh lý có  tính chất nghề nghiệp của công nhân chế biến thuỷ sản đông lạnh  Bình Định.   http://www.dostbinhdinh.org.vn/MagazineNewsPage.asp?TinTS_I D=871&  TS_ID=86,  tạp  chí  Khoa  học  công  nghệ,  sở  KHCN  Bình Định, 4/5/2011.  Nguyễn Bạch Ngọc, cộng sự (2000) Ecgonomi trong thiết kế và  sản xuất, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.  Nguyễn Đức Đàn (2001) ʺAn toàn sức khoẻ tại nơi làm việcʺ.  Tạp chí Lao động xã hội Hà Nội, 1, tr 32‐33.

10. Nguyễn  Trường  Sơn,  Phạm  Văn  Thức,  Trần  Quỳnh  Chi,  Nguyễn Thị Ngân (2007) ʺNghiên cứu đặc điểm môi trường  lao động,cơ cấu bệnh tật và một số bệnh lý có tính chất nghề  nghiệp  của  công  nhân  chế  biến  Thuỷ  sản  Hải  Phòngʺ.  Công  trình NCKH về phát triển Y tế biển lần 2, tr 123‐ 138.

11. Trần Anh Tuấn, Lê Thành Tài (2010) ʺTình trạng môi trường  lao động và sức khoẻ nữ công nhân xí nghiệp chế biến Thủy  Sản Trà Kha tỉnh Bạc Liêu năm 2009ʺ. Tạp chí Y Hoc Tp. Hồ Chí  Minh, 14, (Phụ bản số 2), tr 134 – 139.

Nghiên  cứu  được  tiến  hành  trên  419  công  nhân  nữ  tại  công  ty  chế  biến  thủy  sản  Bà  Rịa‐ Vũng  Tàu  nhằm  đánh  giá  tình  trạng  RLCX  ở  công nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, công ty  chế biến thủy sản Bà Rịa‐Vũng Tàu có sự quan  tâm  dành  cho  công  nhân  khi  tỷ  lệ  công  nhân  được  khám  sức  khỏe  định  kì,  khám  sức  khỏe  bệnh nghề nghiệp, và được đào tạo về ATVSLĐ  rất  cao  (>  90%).  Tuy  nhiên  kết  quả  nghiên  cứu  cũng cho thấy tỷ lệ RLCX của công nhân còn rất  cao  lên  đến  85,4%.  Các  RLCX  chủ  yếu  là  đau  nhức vai phải (48%), vai trái (46,5%), cẳng chân  phải (42,2%) và vùng thất lưng (33,2%). Các vị trí  đau  mỏi  này  đều  ảnh  hưởng  đến  công  việc  và  giấc ngủ của công nhân từ đó tác động đến sức  khỏe  cũng  như  hiệu  suất  làm  việc  của  họ.  Các  yếu tố này bao gồm: độ ẩm không đạt chuẩn (3  mẫu tại 3 khu vực chế biến), thời gian làm việc,  tư thế làm việc, thời gian nghỉ giữa ca, cũng như  tính chất công việc.

12. Trịnh Hồng Lân (2008). Ecgonomi và những ứng dụng của nó  trong  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc.  Luận  án  tiến  sĩ  ‐  Chuyên  ngành Dịch tễ học. ĐH Y Dược. TP Hồ Chí Minh.

KIẾN NGHỊ

13. Trung tâm YTDP tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2011). Báo cáo tổng  kết  hoạt  động  2010  và  kế  hoạch  hoạt  động  năm  2011  về  chương trình Vệ sinh lao động.

14. Vũ Xuân Trung (biên dịch) (2001). ʺRối loạn cơ xương nghề  nghiệp‐ vấn đề toàn cầuʺ. Bản tin sức khỏe và an toàn lao động.  Viện  nghiên  cứu  khoa  học  kỹ  thuật  bảo  hộ  lao  động  Việt  Nam,  02/2001, tr 8‐9.

Dựa  trên  kết  quả  nghiên  cứu,  công  ty  chế  biến  thủy  sản  Bà  Rịa‐Vũng  Tàu  cần  thực  hiện  các điều sau để cải thiện điều kiện lao động và  phòng chống RLCX cho người lao động: nên tổ  chức các khoảng nghỉ ngắn (5‐10 phút) sau mỗi

576

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

KIẾN THỨC THÁI ĐỘ THỰC HÀNH AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM  CỦA NGƯỜI KINH DOANH THỨC ĂN ĐƯỜNG PHỐ TẠI PHƯỜNG  BÌNH HƯNG, TP. PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2011

Nguyễn Văn Thành*, Nguyễn Đỗ Nguyên**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề Phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết của tỉnh Bình Thuận, là phường có số cơ sở kinh  doanh thức ăn đường phố nhiều nhất trong toàn thành phố, và là cửa ngõ đầu mối giao lưu buôn bán hải sản  tươi sống. Điều kiện vệ sinh tại một số cơ sở kinh doanh là kém, và nhiều người kinh doanh chưa đảm bảo đầy đủ  những nguyên tắc qui định về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Mục  tiêu  Xác định tỷ lệ có kiến thức, thái độ, thực hành đúng về an toàn vệ sinh thực phẩm của những  người kinh doanh thức ăn đường phố tại phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, năm  2011.

Phương pháp Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên toàn bộ 151 người kinh doanh thức ăn  đường phố. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp về kiến thức, thái độ, và thực hành về an toàn vệ  sinh thực phẩm. Một bảng kiểm cũng được sử dụng để quan sát những điều kiện vệ sinh của cơ sở kinh doanh  và những thực hành của người chế biến. Những câu hỏi về kiến thức, thái độ, và thực hành được xây dựng dựa  theo những tiêu chuẩn của Bộ Y tế về an toàn thực phẩm thức ăn đường phố.

Kết quả Tỉ lệ có kiến thức đúng về an toàn vệ sinh thực phẩm là rất cao, trừ những kiến thức về dụng cụ  đựng riêng cho thức ăn sống và chín; mạng tạp dề, khẩu trang, và đội mũ chụp tóc; đặc biệt chỉ có 1% có kiến  thức đúng về tầm quan trọng của việc chọn nguyên liệu thực phẩm phải có nguồn gốc rõ ràng. Thái độ về an  toàn vệ sinh thực phẩm là tốt, nhưng tỉ lệ đồng ý về việc mang tạp dề, khẩu trang, và mũ chụp tóc là thấp. Tỉ lệ  thực hành đúng về an toàn thực phẩm là cao, nhưng chỉ có 50% người kinh doanh có giấy chứng nhận tập huấn  về an toàn vệ sinh thực phẩm, và giấy chứng nhận sức khoẻ còn hiệu lực. Chỉ có 17% có hoá đơn chứng minh  nguồn gốc nguyên liệu thực phẩm, và những thực hành sử dụng tạp dề, khẩu trang, và đội mũ là rất thấp.

Kết luận Kiến thức, thái độ, và thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm của người kinh doanh thức ăn đường  phố tại phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết là khá tốt. Tập huấn và giám sát vẫn là cần thiết để củng cố  và làm tốt hơn nữa những thành quả đã đạt được.

Từ khóa An toàn vệ sinh thực phẩm, thức ăn đường phố, thành phố Phan Thiết

ABSTRACT

KNOWLEDGE, ATTITUDES, AND PRACTICES CONCERNING FOOD HYGIENE AND SAFETY  AMONG STREET FOOD HANDLERS AT BINH HUNG WARD OF PHAN THIET CITY, BINH THUAN  PROVINCE IN 2011

Nguyen Van Thanh, Nguyen Do Nguyen

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 578 ‐ 583

Background Binh Hung is the ward having the most street food services in Phan Thiet city of Binh Thuan

∗ Chi cục An toàn Vệ sinh thực phẩm tỉnh Bình Thuận  **: Bộ Môn Dịch Tễ, Khoa Y Tế Công Cộng, Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKI Nguyễn Văn Thành

ĐT: 0918073785   Email: bsthanh785@gmail.com

577

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  province, and also the main market of fresh seafood distribution. The sanitary condition of some services was bad,  and many street food handlers did not strictly follow food hygiene and safety regulations.

Objectives  To  identify  the  proportion  of  street  food  handlers  having  correct  knowledge,  attitudes,  and

practices concerning food hygiene and safety.

Methods  A descriptive cross‐sectional study was conducted among all 151 street food  handlers.  Subjects  were directly interviewed about knowledge, attitudes, and practices concerning food hygiene and safety. Sanitary  condition and practices were also measured by observing using a checklist. The questionnaire was constructed  based on the Ministry of Health criteria for street food safety.

Results  The  proportion  of  street  food  handlers  having  correct  knowledge  was  very  high,  except  the  knowledge relating to storing cooked and raw food separately; wearing apron, mask, and cap; and only 1% knew  the necessity of purchasing only raw food materials with an identified origin. Most subjects had positive attitude,  but the proportion agreeing to wear apron, mask, and cap was low. Most subjects had proper practices, but only  50%  had  a  certificate  of  attending  a  training  course  in  food  hygiene  and  safety,  and  a  valid  health  certificate.  Only 17% showed a receipt identifying the origin of raw food materials purchased, and few subjects wore apron,  mask, or cap.

Conclusions Street food handlers at Binh Hung ward of Phan Thiet city were found to have relatively good  knowledge, attitudes, and practices concerning food hygiene and safety. Training and supervision activities were  still necessary to improve the current status.

Key words food hygiene and safety, street food, Phan Thiet city

ĐẶT VẤN ĐỀ

lưới cung cấp thực phẩm vì đa dạng, tiện lợi, và  giá cả phù hợp với đa số người lao động có thu  nhập  thấp.  Kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  đã  tạo  việc  làm  cho  số  đông  người  lao  động.  Bên  cạnh việc tiện lợi cũng xuất hiện nhiều nguy cơ  tiềm  ẩn  gây  ngộ  độc  thực  phẩm  và  các  bệnh  truyền qua đường thực phẩm, do người chế biến  thiếu  kiến  thức  và  thực  hành  chưa  đúng  về  an  toàn  vệ  inh  thực  phẩm,  hạ  tầng  cơ  sở  và  điều  kiện  vệ  sinh  môi  trường  kém.  Đây  là  vấn  đề  đang  được  các  nhà  quản  lý  và  khoa  học  y  tế  quan tâm, và đang là mối lo ngại cho người tiêu  dùng về tính an toàn.

Trong thời gian  qua,  Việt  Nam  đã  có  nhiều  nỗ  lực  trong  công  tác  bảo  đảm  an  toàn  thực  phẩm,  và  an  toàn  thực  phẩm  đã  có  những  chuyển  biến  tích  cực  ở  nhiều  địa  phương,  đặc  biệt ở những thành phố lớn. Tuy nhiên, vẫn còn  những  thách  thức  lớn.  Ngộ  độc  thực  phẩm  và  các  mối  nguy  đe  dọa  mất  an  toàn  thực  phẩm  tiếp tục là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối  với sức khỏe cộng đồng, an sinh xã hội, và tăng  trưởng kinh tế. Các giải pháp giải quyết vấn đề  này đang được đặt ra rất cấp bách(2). Theo thống  kê của Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, Bộ Y tế,  kể từ tháng 1, 2010 đến ngày 15/8/2010, trên toàn  quốc đã xảy ra 123  vụ  ngộ  độc  (trong  đó  có  34  vụ ngộ độc trên 30 người) làm 4.387 người mắc,  3.078 người đi viện, và 37  trường  hợp  tử  vong.  So  sánh  với  cùng  kỳ  năm  2009,  số  vụ  ngộ  độc  tăng 23 vụ (23%), số mắc tăng 658 người (17,6%),  số người đi viện tăng 99 người (3,3%), và số tử  vong  tăng  19  người  (27,6%).  Còn  nhiều  khó  khăn trong việc kiểm soát an toàn vệ sinh thực  phẩm,  đặc  biệt  đối  với  thức  ăn  đường  phố(2).  Thức ăn đường phố rất quan trọng trong mạng

Phường  Bình  Hưng,  thành  phố  Phan  Thiết  của tỉnh Bình Thuận, là phường có số cơ sở kinh  doanh thức ăn đường phố nhiều nhất trong toàn  thành phố, và là cửa ngõ đầu mối giao lưu buôn  bán hải sản tươi sống. Số cơ sở kinh doanh thức  ăn đường phố là 133, và hơn 18 cơ sở bán rong.  Qua  quan  sát,  có  thể  thấy  điều  kiện  vệ  sinh  tại  một số cơ sở kinh doanh là kém, và nhiều người  kinh  doanh  chưa  đảm  bảo  đầy  đủ  những  nguyên  tắc  qui  định  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm.  Theo  báo  cáo  của  trạm  y  tế  phường  từ  năm  2005  trở  lại  đây  chưa  có  vụ  ngộ  độc  thực

578

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

quản  thức  ăn  chín  ≤4  giờ;  bàn  chế  biến  thực  phẩm  và  nơi  bày  bán  thực  phẩm  phải  kê  cao  cách mặt đất từ 60cm trở lên; rửa tay trước khi  chế biến hoặc sau đi vệ sinh với nước sạch và xà  phòng;  không  được  đeo  nhẫn  hoặc  sơn  móng  tay, mang tạp dề, đeo khẩu trang, đội mũ chụp  tóc khi chế biến thực phẩm và bán thức ăn; dùng  kẹp gắp để lấy thức ăn; phải được tập huấn về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm;  và  phải  khám  sức  khỏe định kỳ hàng năm.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  phẩm lớn nào xảy ra, tuy nhiên, trong bối cảnh  của dự phòng, một khảo sát về an toàn vệ sinh  thực phẩm tại một địa bàn có nguy cơ cao là cần  thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ  lệ  có  kiến  thức,  thái  độ,  thực  hành  đúng  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  của  những  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  tại  phường  Bình  Hưng,  thành  phố  Phan  Thiết,  tỉnh  Bình  Thuận,  năm 2011. Kết  quả của  nghiên cứu sẽ là những  thông tin hữu ích cho những chương trình giám  sát và giáo dục sức khoẻ về an toàn vệ sinh thực  phẩm tại địa phương.

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP

Nhóm biến số về thái độ đo lường xem đối  tượng nghiên cứu có đồng ý về những nội dung:  khi  mua  nguyên  liệu  thực  phẩm  phải  có  hóa  đơn,  chứng  từ  để  chứng  minh  có  nguồn  gốc  xuất  xứ  rõ  ràng;  tập  huấn  về  an  toàn  vệ  sinh  thực phẩm; khám sức khỏe định kỳ  hàng  năm;  và mang tạp dề, đeo khẩu trang, và đội mũ chụp  tóc khi chế biến thực phẩm.

theo  Quyết  định

Nhóm biến số về thực hành là những biến số  nhị giá (đúng, sai) khảo sát những nội dung: xử  lý  rác  thải,  chất  thải,  chất  thải  (nước  rửa  chén  bát, dụng cụ) phải được đổ hàng ngày, không sử  dụng chất  phụ gia thực  phẩm  nằm  ngoài  danh  mục cho phép của Bộ Y tế; dùng túi nylon, hộp  nhựa  sạch  để  đựng  thực  phẩm;  chùi  rửa  dụng  cụ bằng nước sạch với xà phòng sau mỗi lần chế  biến. Những thực hành được đo lường qua quan  sát  gồm  có:  có  hóa  đơn  chứng  từ  chứng  minh  nguyên  liệu  thực  phẩm  có  nguồn  gốc;  thực  phẩm  chín,  sống  được  đựng  riêng  biệt;  bàn  và  giá để thức ăn cao ≥ 60cm; nơi bán hàng cách xa  cống rãnh, nhà vệ sinh từ 5m trở lên; có tủ kính  để  chứa  đựng  thực  phẩm;  có  dụng  cụ  chế  biến  thức  ăn  (dao,  thớt,  thau)  riêng  cho  thực  phẩm  sống, chín; thực phẩm để ăn sống được rửa dưới  vòi nước chảy, loại bỏ vết nhiễm bẩn; có thùng  đựng rác, và thùng đựng rác có nắp đậy; thùng  đựng  thức  ăn  thừa  có  nắp  đậy;  cho  nước  thải  vào cống rãnh; người chế biến, bán hàng rửa tay  sạch, không đeo đồ trang sức, không sơn móng  tay, lấy thức ăn bằng kẹp gắp, không bốc bằng  tay  trần,  có  đeo  tạp  dề,  mang  khẩu  trang,  đội  mũ;  có  giấy  chứng  nhận  khám  sức  khỏe  còn

Một  nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  được  tiến  hành trên toàn bộ 151 người kinh doanh thức ăn  đường  phố  tại  phường  Bình  Hưng,  thành  phố  Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, năm 2011. Tiêu chí  đưa  vào  là  những  người  chủ  cơ  sở  đang  kinh  doanh thức ăn đường phố từ 15 tuổi trở lên, có  sức khỏe bình thường, có khả năng trả lời phỏng  vấn,  và  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu.  Những  người  được  chọn  nhưng  vắng  mặt  sau  ba  lần  tiếp  cận  sẽ  bị  loại.  Đối  tượng  nghiên  cứu  được  phỏng vấn trực tiếp với một bộ câu hỏi cấu trúc  chặt chẽ để tìm hiểu kiến thức, thái độ, và thực  hành  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm.  Một  bảng  kiểm  cũng  được  sử  dụng  để  quan  sát  những  điều  kiện  vệ  sinh  của  cơ  sở  kinh  doanh  và  những  thực  hành  của  người  chế  biến.  Những  câu hỏi về kiến thức, thái độ, và thực hành được  số  xây  dựng  dựa  3199/2000/QĐ‐BYT  ngày  11/9/2000  của  Bộ  Y  tế  về  những  tiêu  chuẩn  cơ  sở  đạt  vệ  sinh  an  toàn  thực phẩn thức ăn đường phố(1). Nhóm biến số  về kiến thức là những biến số nhị giá (đúng, sai)  về  những  nội  dung:  chọn  nguyên  liệu  thực  phẩm  có  nguồn  gốc  rõ  ràng;  sử  dụng  nguồn  nước máy để chế biến thực phẩm, rửa dụng cụ;  nơi  chế  biến  thực  phẩm  và  nơi  bày  bán  thực  phẩm  phải  cách  xa  nguồn  ô  nhiễm  ≥5  mét;  vệ  sinh  dụng  cụ  trước  và  sau  chế  biến  bằng  nước  sạch với xà phòng; dụng cụ chứa đựng riêng cho  thực  phẩm  sống  hoặc  chín;  bảo  quản  thức  ăn  chín  đã  chế  biến  trong  tủ  kính;  thời  gian  bảo

579

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  hiệu  lực;  có  giấy  chứng  nhận  tập  huấn  về  an  toàn vệ sinh thực phẩm.

Kiến thức Thời gian bảo quản thức ăn ≤4 giờ Dùng kẹp gắp để lấy thức ăn

72 (82) 123 (82) Dụng cụ đựng riêng cho thực phẩm sống, chín 52 (34) 42 (28) 1 (1) Mang tạp dề, khẩu trang, mũ chụp tóc Chọn nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc rõ ràng

Bảng 3. Thái độ về an toàn vệ sinh thực phẩm, tần số  và (%), (N=151)

Thái độ đồng ý

136 (90) 134 (89) 130 (86) 61 (40)

Những biến số nền gồm nhóm tuổi (15‐<30,  30‐<50, và 50 tuổi trở lên), giới  (nam,  nữ),  trình  độ học vấn (≤ cấp 1, cấp 2, và cấp 3 trở lên), thời  gian hành nghề (dưới 24 tháng, từ 24 tháng trở  lên), thức ăn không dùng lửa (là loại thực phẩm  có  thể  ăn  ngay  mà  không  cần  nấu  do  đã  được  làm chín trước đó hoặc là loại thức ăn dùng ăn  sống) hoặc thức ăn có dùng lửa và làm chín tại  chỗ (là loại thức ăn mà người bán phải chế biến  bằng  cách  nấu  chín  tại  nơi  bán  hàng).  Dữ  kiện  được phân tích bằng phần mềm Stata phiên bản  10.0. Thống kê mô tả gồm có tần số và tỉ lệ phần  trăm.

43 (29) Tập huấn về an toàn vệ sinh thực phẩm Khám sức khỏe định kỳ hàng năm Chọn nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc Mang tạp dề, khẩu trang, mũ chụp tóc khi chế biến Mang tạp dề, khẩu trang, mũ chụp tóc khi bán hàng

KẾT QUẢ

Bảng 4. Thực hành đúng về an toàn vệ sinh thực  phẩm, tần số và (%), (N=151)

Thực hành

Bảng 1. Đặc tính của mẫu nghiên cứu, tần số và (%)  (N=151)

Đặc tính

Nhóm tuổi (năm) 15-<30 30-<50 ≥ 50 Nữ 13 (9) 103 (70) 32 (21) 100 (68) Trình độ học vấn

151 (100) 146 (98) 144 (98) 144 (97) 144 (97) 129 (96) 138 (95) 143 (95) 134 (93) 128 (90)

25 (17) 71 (48) 51 (35) 111 (77) 117 (79) Cấp 1 trở xuống Cấp 2 Cấp 3 trở lên Thời gian hành nghề ≥24 tháng (n=145) Kinh doanh thức ăn không dùng lửa (n=149)

Bảng 2. Kiến thức đúng về an toàn vệ sinh thực  phẩm, tần số và (%), (N=151)

Kiến thức Sử dụng nguồn nước sạch để chế biến 132 (89) 130 (88) 130 (86) 113 (79) 113 (78) 118 (78) 74 (50) 75 (50) Không sơn móng tay 29 (21) Chùi rửa dụng cụ sau mỗi lần chế biến Bàn và giá để thức ăn cao ≥60cm* Người chế biến rửa tay sạch* Nước thải cho vào cống rãnh* Có thùng đựng rác* Rửa thực phẩm ăn sống có loại bỏ vết bẩn* Đựng thực phẩm sống, chín riêng biệt* Sử dụng bao gói sạch đựng thực phẩm Lấy thức ăn bằng kẹp gắp* Có dụng cụ riêng chế biến thực phẩm sống, chín* Bán hàng cách xa cống rãnh ≥5m* Nắp đậy thùng thức ăn thừa* Không sơn móng tay* Nắp đậy thùng rác* Có tủ kính đựng thực phẩm* Không đeo trang sức* Giấy chứng nhận sức khỏe còn hiệu lực* Giấy chứng nhận tập huấn an toàn vệ sinh thực phẩm* Thực phẩm để ăn sống rửa dưới vòi nước chảy*

* Qua quan sát

150 (99) Rửa tay trước khi chế biến và sau khi đi vệ sinh 149 (99) 148 (99) Bảo quản thức ăn chín đã chế biến trong tủ kính 149 (99) 148 (98) 147 (98) 147 (97) 144 (95) 140 (93) 141 (93) Hóa đơn nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc* 25 (17) 22 (15) 19 (13) 13 (9) 7 (5) 2 (1) Đeo tạp dề* Bốc thức ăn bằng tay trần* Sử dụng chất phụ gia Mang khẩu trang* Đội mũ*

Sử dụng nguồn nước sạch để rửa dụng cụ Không đeo nhẫn Vệ sinh dụng cụ trước và sau chế biến Nơi bày bán thực phẩm cách mặt đất ≥60cm Nơi bày bán cách xa nguồn ô nhiễm Về tập huấn kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm Khám sức khỏe định kỳ Bàn chế biến cách mặt đất ≥60cm Nơi chế biến xa nguồn ô nhiễm 139 (92) 139 (92) 129 (85)

580

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đa số có thời gian hành nghề từ 24 tháng trở  lên,  điều  này  cho  thấy  kinh  doanh  thức  ăn  đường phố là công việc mua bán nhỏ ít vốn, phù  hợp với những người có thu nhập thấp nên khả  năng  họ  sẽ  gắn  bó  lâu  dài.  Loại  thực  phẩm  không  dùng  lửa  chiếm  tỷ  lệ  79%,  cao  hơn  kết  quả  nghiên  cứu  tại  phường  Hiệp  Thành,  quận  12,  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm  2006  (58%)(4).  Có thể do sức ép về công việc và thời gian của  người lao động, và sự phát triển của công nghệ  thực  phẩm  bao  gói  sẵn  nên  đa  số  họ  dùng  sản  phẩm chế biến sẵn.

Kiến thức, thái độ, và thực hành về an toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  của  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  tại  thành  phố  Phan  Thiết

Phần  lớn  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  tại  phường  Bình  Hưng,  thành  phố  Phan  Thiết  có  độ  tuổi  từ  30‐<50  tuổi,  đa  số  là  nữ,  có  trình độ học vấn cấp 2 và cấp 3 trở lên, có thời  gian  hành  nghề  từ  24  tháng  trở  lên,  và  kinh  doanh thức ăn không dùng lửa (bảng 1). Tỉ lệ có  kiến thức đúng về an toàn vệ sinh thực phẩm là  rất  cao,  trừ  những  kiến  thức  về  dụng  cụ  đựng  riêng  cho  thức  ăn  sống  và  chín;  mạng  tạp  dề,  khẩu trang, và đội mũ chụp tóc; đặc biệt chỉ có  1% có kiến thức về tầm quan trọng của việc chọn  nguyên  liệu  thực  phẩm  phải  có  nguồn  gốc  rõ  ràng  (bảng  2).  Thái  độ  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm là tốt, nhưng tỉ lệ đồng ý về việc mang tạp  dề, khẩu trang, và mũ chụp tóc là thấp (bảng 3).  Tỉ lệ thực hành đúng về an toàn thực thực phẩm  là  cao,  nhưng  chỉ  có  50%  người  kinh  doanh  có  giấy  chứng  nhận  tập  huấn  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm,  và  giấy  chứng  nhận  sức  khoẻ  còn  hiệu lực (bảng 4). Chỉ có 17% có hoá đơn chứng  minh  nguồn  gốc  nguyên  liệu  thực  phẩm,  và  những thực hành sử dụng tạp dề, khẩu trang, và  đội mũ là rất thấp.

BÀN LUẬN

Những  đặc  tính  của  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  tại  thành  phố  Phan  Thiết

Kiến  thức  đúng  về  sử  dụng  nguồn  nước  sạch  để  chế  biến  thực  phẩm  chiếm  tỷ  lệ  99%,  tương đương với kết quả nghiên cứu tại phường  Hiệp  Thành,  quận  12,  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm  2006(3).  Điều  này  thể  hiện  sự  hiểu  biết  và  mối quan tâm về sử dụng nguồn nước sạch để  chế  biến  thực  phẩm.  Hầu  hết  những  kiến  thức  khác  liên  quan  đến  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  cũng  rất  cao.  Những  dữ  kiện  của  bảng  4  cho  thấy thực hành đúng liên quan đến những kiến  thức này là cao tương ứng, trong khi chỉ có 50%  đối  tượng  nghiên  cứu  có  giấy  chứng  nhận  tập  huấn  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm.  Như  vậy  kiến  thức  mà  họ  có  được  không  phải  từ  tập  huấn chính qui mà do tự tìm hiểu, hoặc có thể từ  những nhắc nhở của các đoàn giám sát định kỳ.  So  với  một  nghiên  cứu  tại  Thuận  An,  Bình  Dương, năm 2004 thì  kiến  thức  của  người  kinh  doanh thức ăn đường phố tại Bình Hưng, Phan  Thiết là tốt hơn(5). Bản chất một địa điểm du lịch  của thành phố Phan Thiết, và khách hàng mà họ  phục  vụ  hầu  hết  là  khách  du  lịch  có  thể  liên  quan đến kết quả này.

Đa số người kinh doanh thức ăn đường phố  là  nữ,  trong  tuổi  lao  động,  điều  này  cho  thấy  kinh doanh chế biến thức ăn đường phố là một  ngành nghề thích hợp với phụ nữ hơn nam giới,  vì đây là công việc phổ thông mang tính nội trợ.  Trình  độ  học  vấn  từ  cấp  3  trở  lên  chiếm  tỷ  lệ  35%, từ cấp 2 trở xuống là 65%, tỷ lệ này cao hơn  kết  quả  nghiên  cứu  của  Trương  Ngọc  Toàn  tại  phường 13, quận Bình Thạnh năm 2006 (49%)(4).  Với trình độ học vấn hạn chế họ khó có thể tìm  công việc khác có thu nhập ổn định tại các khu  resort hoặc các nhà máy xí nghiệp ở địa phương,  và kinh doanh thức ăn đường phố là một nghề  dễ làm, thiết thực để cải thiện điều kiện kinh tế  gia đình.

Chỉ có 34% có kiến thức đúng về việc không  nên đựng chung thức ăn sống và chín. Câu hỏi  liên quan đến nội dung này ”Theo anh/chị thực  phẩm  chín  có  nên  chứa  đựng  chung  với  thực  phẩm  sống?”  với  ba  đáp  án  ”có”,  ”không”,  và

581

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

kinh doanh thức ăn đường phố tại phường Bình  Hưng,  thành  phố  Phan  Thiết.  Những  dữ  kiện  thực  hành  được  đánh  giá  qua  quan  sát  có  tính  khách quan và chính xác.

Nghiên cứu Y học  ”không biết” có thể là kém giá trị và đưa đến sai  lệch thông tin. Tỉ lệ có kiến thức đúng về mang  tạp  dề,  khẩu  trang,  mũ  chụp  tóc  cũng  thấp,  có  thể  vì  đối  tượng  nghiên  cứu  nghĩ  đến  sự  cần  thiết của các trang bị này nhằm bảo hộ cho bản  thân  họ  hơn  là  bảo  đảm  việc  tránh  lây  nhiễm  cho thực phẩm. Có thể thấy tỉ lệ có thái độ đồng  ý với những nội dung này cũng thấp tương ứng  (bảng  3),  từ  đó,  tỉ  lệ  đối  tượng  có  đeo  tạp  dề,  mang khẩu trang, hoặc mũ chụp tóc là rất thấp  (bảng  4).  Một  lý  giải  khác  cho  tỉ  lệ  thực  hành  thấp  của  những  nội  dung  này  là  đa  số  người  kinh doanh thức ăn đường phố phải làm cả hai  việc  chế  biến  và  phục  vụ,  do  đó,  những  loại  trang phục này có thể gây cản trở cho việc tiếp  xúc và di chuyển khi phục vụ khách hàng.

Sai lệch thông tin có thể xảy ra trong nghiên  cứu  này  do  một  số  câu  hỏi  phỏng  vấn,  như  đã  bàn  luận  bên  trên.  Bên  cạnh  đó,  đối  tượng  nghiên  cứu  thường  là  những  người  chủ  cơ  sở  hoặc  người  trực  tiếp  chế  biến  nên  họ  ngại  tiếp  xúc khi có cán bộ y tế đến vì tưởng rằng có đoàn  kiểm  tra  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm,  do  đó,  những  thông  tin  được  cung  cấp  có  thể  không  trung  thực.  Việc  đánh  giá  thực  hành  qua  quan  sát là khách quan, tuy nhiên, vẫn còn chủ quan  trong  một  số  trường  hợp,  thí  dụ,  đánh  giá  về  khoảng cách giữa nơi chế biến thực phẩm và các  nguồn  ô  nhiễm,  độ  cao  so  với  mặt  đất  của  nơi  bày thực phẩm. Một số biến số bị mất dữ kiện,  đặc  biệt  với  phần  quan  sát,  có  thể  ảnh  hưởng  đến tính chính xác của kết quả.

Dù còn một số hạn chế, kết quả của nghiên  cứu cho thấy kiến thức, thái độ, và thực hành an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  của  người  kinh  doanh  thức  ăn  đường  phố  tại  phường  Bình  Hưng,  thành  phố  Phan  Thiết  là  khá  tốt.  Tập  huấn  và  giám sát vẫn là cần thiết để củng cố và làm tốt  hơn nữa những thành quả đã đạt được.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

3.

4.

Chỉ 1% có kiến thức đúng về sự cần thiết của  việc chọn nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc  rõ ràng, có thể vì câu hỏi liên quan là kém giá trị  và khó không đúng mức (Theo anh/chị để chọn  nguyên liệu thực phẩm có nguồn gốc an toàn thì  cần có những loại giấy tờ gì?).  Trong  khi  đó,  câu  hỏi  về  thái  độ  tương  ứng  với  nội  dung  này  (Anh/chị  có  đồng  ý  khi  mua  nguyên  liệu  thực  phẩm phải có đủ giấy tờ chứng minh thực phẩm  có nguồn gốc rõ ràng không?) là dễ hiểu hơn và  có phần gợi ý, và kết quả tương ứng là 86% có  thái độ đồng ý (bảng 3). Tuy nhiên, qua quan sát  chỉ có 17% đối tượng nghiên cứu có đủ hoá đơn  chứng  nhận  nguồn  gốc  của  nguyên  liệu  thực  phẩm  (bảng  4).  Thái  độ  đồng  ý  là  cao  nhưng  thực hành lại kém cho thấy tính chấp nhận được  của  thực  hành  này  là  không  cao  vì  việc  mua  nguyên liệu kèm hoá đơn chứng từ là phức tạp,  hoặc có giá mắc. Tính chấp nhận được của một  loại  thực  hành  cũng  có  thể  giải  thích  cho  tỉ  lệ  thấp  của  thực  hành  rửa  thực  phẩm  để  ăn  sống  dưới vòi nước chảy, là một việc làm mất  nhiều  thời gian.

5.

Những điểm mạnh và hạn chế của nghiên  cứu

Bộ Y tế (2010), Ban hành tiêu chuẩn cơ sở đạt vệ sinh an toàn thức  ăn  đường  phố.  2000,  Quyết  định  số  3199/2000/QĐ‐BYT:  Hà  Nội.  Quốc  hội,  Luật  An  toàn  thực  phẩm.  2010  Luật  số  55/2010/QH12: Hà Nội.  Cập  nhật  thực  trạng  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  và  các  giải  pháp. (2010); Available from:   http://thucphamvadoisong.vn/dien‐dan‐nha‐quan‐ly/   Huỳnh Thị Việt Hồng, Nguyễn Đỗ Nguyên (2007). Kiến thức,  thái độ, thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm của người kinh  doanh thức ăn đường phố tại phường Hiệp thành, quận 12,  TP. HCM năm 2006. Y Học TP. HCM. 2007. Tập 11. Phụ bản  số 1. 2007:41‐45.  Trương Ngọc Toàn (2006). Kiến thức và Thực hành về an toàn  vệ sinh thực phẩm ở người trực tiếp chế biến thức ăn đường  phố  tại  phường  1,  quận  Bình  thạnh.  Tiểu  luận  CK1,  Khoa  YTCC. 2006, Đại học Y Dược TP.HCM: TP.Hồ Chí Minh.  Võ Thị Quí (2010). Kiến thức và Thực hành an toàn vệ sinh  thực phẩm của người trực tiếp chế biến thức ăn đường phố  tại xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tiểu  luận CK1, Khoa YTCC. 2010, Đại học Y Dược TP.HCM.

Với  mẫu  nghiên  cứu  được  chọn  toàn  bộ  những kết quả của nghiên cứu mô tả đúng thực  trạng  về  an  toàn  vệ  sinh  thực  phẩm  của  việc

582

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

583

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

TỈ LỆ THỰC HÀNH ĐÚNG BIỆN PHÁP TRÁNH THAI HIỆN ĐẠI VÀ  CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA PHỤ NỮ LỨA TUỔI SINH ĐẺ CÓ  CHỒNG TẠI HUYỆN HÓC MÔN, TP. HỒ CHÍ MINH

Châu Thị Anh*, Lê Hoàng Ninh*

TÓM TẮT

Đặt  vấn  đề:  Gia tăng dân số là vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Hiện nay, bình quân mỗi năm  tăng hơn 80 triệu người. Trong khi đó đất đai, nguồn nước sạch, các điều kiện môi trường sống thì có hạn thậm  chí còn bị suy giảm vì việc khai thác, sử dụng quá mức các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho các họat động  sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, phát triển kinh tế, điều này lại ảnh hưởng đến chất lượng môi trường sống.  Sử dụng đúng BPTT hiện đại có hiệu quả sẽ giúp giảm sinh và giúp giãn cách giữa các lần sinh Cũng như việc  tăng tỉ lệ số người sử dụng biện pháp tránh thai sẽ giúp tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên được hạ thấp Do đó, việc  tìm hiểu giữa thực hành đúng các BPTT và những yếu tố liên quan là cần thiết.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thực hành đúng biện pháp tránh thai (BPTT) hiện đại và các yếu tố liên quan của

phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ có chồng tại huyện Hóc Môn,Tp. Hồ Chí Minh.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Cắt ngang mô tả và phân tích trên 890 phụ nữ có chồng sử dụng biện pháp  tránh thai hiện đại tại huyện Hóc Môn,Tp. HCM. Các đối tượng được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi về các yếu tố  dân số học, điều kiện kinh tế, nguồn thông tin về kế hoạch hóa gia đình, thực hiện từ tháng 2 đến tháng 3 năm  2010.

Kết quả:Tỉ lệ thực hành đúng đối với người sử dụng dụng cụ tử cung (DCTC) là 52,70% ; đối với người  sử dụng thuốc viên tránh thai (TVTT) là 92,30% ; đối với người sử dụng bao cao su (BCS) là 82,30%. Đối với  DCTC: Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa học vấn, nhóm nghề lao động trí óc của vợ, nhóm nghề lao  động trí óc của chồng, điều kiện nhà ở, có kiến thức đúng và thực hành đúng. Đối với TVTT: Có mối liên quan  có ý nghĩa thống kê giữa lứa tuổi từ 35trở lên so với lứa tuổi dưới25 về thực hành đúng. Không có mối liên quan  giữa thực hành đúng và có được tư vấn trước khi sử dụng TVTT nhưng nếu người tư vấn là người thân hoặc  nhận thuốc từ cộng tác viên dân số thì có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với thực hành đúng. Đối với BCS:  Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa có tôn giáo là Thiên chúa giáo của vợ và chồng, có được tư vấn trước  khi sử dụng, người tư vấn là cộng tác viên dân số, có kiến thức đúng với thực hành đúng.

Kết luận:Tỉ lệ thực hành đúng các BPTT hiện đại có tỉ lệ lần lượt là 52,70%; 82,30% và 92,30% (DCTC,  BCS, TVTT). Một số yếu tố liên quan chung nhất đến việc thực hành đúng là việc tư vấn trước khi sử dụng  BPTT, có kiến thức đúng về BPTT thì thực hành sẽ đúng hơn.

Từ khoá: tỉ lệ thực hành đúng DCTC, TVTT, BCS; mối liên quan.

ABSTRACT

THE PREVALENCE AND FACTORS ASSOCIATED WITH THE RIGHT PRACTICE OF MODERN  CONTRACEPTIVE METHODS AMONG CURRENTLY MARRIED WOMEN OF REPRODUCTIVE  AGE GROUP (15‐49 YEARS) IN HOC MON DISTRICT HO CHI MINH CITY.

Chau Thi Anh, Le Hoang Ninh

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. CKII. Châu Thị Anh

ĐT: 0938662121   Email: anhchau1960@yahoo.com

584

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 584 ‐ 592

Background:  Population  growth  is  a  global  issue  and  cause  for  concern  for  the  entire  human  race.  The  global  population  annually  increases  to  more  than  80  million  people,  on  average,  while  land,  clean  water  and  environment  are  limited  and  depleted  by overusing  natural  resoursces  for  industrializing,  farming  and  developing economics, leading to a diminished quality of life. Using the right practice of modern contraceptive  effectively will decrease the birth rate and birth spacing. As well, rising the rate of using modern contraceptive  methods will diminish the rate of population growth. Therefore, estimating the prevalence and factors associated  with right practice of modern contraceptive methods is necessarily.

Objective:  To  estimate  the  prevalence  and  factors  associated  with  right  practice  of  modern  contraceptive  methods among currently married women of reproductive age group (15‐49 years) in Hoc Mon district Ho Chi  Minh city.

Methods: A community based cross‐sectional survey was conducted from February 2010 to March 2010.  We interviewed 890 currently married women of reproductive age group (15‐49 years) in Hoc Mon district, Ho  Chi Minh city. Information regarding socio‐demographic factors, economic condition, their source of information  for the message of family planning and reason of using any modern contraceptive method.

Results:  The  prevalence  of  right  practice  on  using  the  intrauterine  device  (IUD),  oral  contraceptive  pills  (OC),  condom  were  52.70%,  92,30%,  82,30%,  respectively.  To  IUD:  There is  a statistically  significant  relationship between  the  respondentʹs  educational  status,  the  groups  of  wife’s  mental  work,  the  groups  of  husband’s mental work, living status, and the right knowledge, the right practice of using IUD. To OC: There is  a statistically significant relationship between the age group greater than 35, compared to the age groupod less  than 25, and the right practice. There is no statistically significant relationship between the right practice and the  respondents  who  were  consulted  before  using  OCs.  However,  if  the  respondents  were  consulted  from  closed  relatives  or  received  OCs  from  health  workers,  there is  a statistically  significant  relationship with  the  right  practice.  To  Condom:  There is  a statistically  significant  relationship between  religion  (Cathollics),  the  respondents  who  were  consulted,  the  consultants  who  are  family  planning  volunteer  workers  and  the  right  knowledge, the right practice.

Conclusions:  The  prevalence  of  right  practice  on  using  the  intrauterine  device  (IUD),  oral  contraceptive  pills (OC), condom were 52.70%, 92,30%, 82,30%, respectively. The most common factor associated with the  right  practice  is  that  the  respondents  were  consulted  before  using  modern  contraceptive  methods.  Having  the  right knowledge of using modern contraceptive methods will lead to the right practice.

Key  words: right practice on using the intrauterine device (IUD), oral contraceptive pills (OC), condom;

association.

ĐẶT VẤN ĐỀ

thiên  nhiên  để  phục  vụ  cho  các  họat  động  sản  xuất công nghiệp, nông nghiệp, phát triển kinh  tế  lại  ảnh  hưởng  đến  chất  lượng  môi  trường  sống(6).

Gia  tăng  dân  số  là  vấn  đề  được  quan  tâm  trên toàn thế giới. Thực vậy, ngày 11.07.1987 là  ngày  thế  giới  kỷ  niệm  em  bé  thứ  5  tỷ  ra  đời  ở  Nam Tư, đến nay chỉ có 24 năm dân số thế giới  đã  gần  7  tỷ  người,  tăng  2  tỷ  người,  bình  quân  tăng mỗi năm hơn 80 triệu người. Trong khi đó  đất  đai,  nguồn  nước  sạch,  các  điều  kiện  môi  trường sống có hạn thậm chí còn bị suy giảm vì  việc khai thác, sử dụng quá mức các tài nguyên

Tại Hóc Môn, theo số liệu báo cáo 5 năm gần  đây  tỉ  suất  sinh  còn  khá  cao  từ  hơn  15‰  đến  hơn 16‰ mỗi năm, tỉ lệ sinh con thứ ba vẫn còn  cao  chiếm  đến  7%;  dân  số  tăng  nhanh  so  với  trước  đây,  từ  246.683  người  năm  2004  đến  345.003  người  năm  2010,  tăng  gần  100.000  dân.  Hàng năm có từ 3.700 đến 4.500 cháu bé được ra

585

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Đặc điểm Tần số(n=890) Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi

Nghiên cứu Y học  đời, cần có các hoạt động chăm sóc y tế về thai  sản, tiêm chủng mở rộng, chăm sóc bệnh tật cho  trẻ(8).

Việc sử dụng các BPTT hiện đại có hiệu quả  sẽ giúp giảm sinh và giúp giãn cách giữa các lần  sinh. Cũng như việc tăng tỉ lệ số người sử dụng  biện pháp tránh thai sẽ giúp tỉ lệ phát triển dân  số tự nhiên được hạ thấp.

< 25 25-29 30-34 35-39 40+ 53 166 237 226 208 6,00 18,70 26,60 25,40 23,30 Học vấn:

<= Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Trên cấp 3 186 449 203 52 20,90 50,50 22,80 5,80 Dân tộc

Như vậy, việc tìm hiểu xác định tỉ lệ người  có  sử  dụng  BPTT  hiện  đại  đúng  cũng  như  các  yếu tố có liên quan đến việc sử dụng BPTT hiện  đại không đúng sẽ là cơ sở khoa học cho các nhà  lập  kế  hoạch  y  tế  địa  phương  xem  lại  các  họat  động thông tin ‐ giáo dục ‐ truyền thông cho các  đối tượng nguy cơ, cũng như việc cung cấp các  dịch vụ kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) của hệ  thống  dân  số  ‐  y  tế  có  kế  họach  hoạt  động  sát  hợp  nhằm  mục  đích:  giảm  sinh,  giảm  tỉ  lệ  sinh  con thứ ba, đảm bảo phát triển kinh tế gia đình  và địa phương tốt hơn, giữ vững an sinh xã hội.

Kinh Hoa Khác Tôn giáo Phật giáo Thiên Chúa giáo Khác 98,50 0,80 0,70 73,20 12,20 14,60

Mục tiêu nghiên cứu:

Xác  định  tỉ  lệ  phụ  nữ  lứa  tuổi  sinh  đẻ  có  chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại tại  huyện Hóc Môn.

‐  Số  phụ  nữ  ở  nhóm  tuổi  30‐34  và  35‐39  chiếm tỉ lệ nhiều nhất (26,6 % và 25,4%), chiếm  hơn ½ số phụ nữ khảo sát.

Xác  định  tỉ  lệ  phụ  nữ  có  chồng  sử  dụng

đúng các BPTT hiện đại tại huyện Hóc Môn.

‐  Trình  độ  học  vấn  cấp  2  chiếm  đa  số

(50,5%).

‐ Dân tộc Kinh chiếm tuyệt đại đa số (98,5%).

Xác định các yếu tố liên quan đến việc phụ  nữ  có  chồng  sử  dụng  đúng  các  BPTT  hiện  đại:  đặc trưng của nhóm nghiên cứu và các dịch vụ  kế hoạch hoá gia đình tại địa phương.

877 7 6 651 109 130 Nghề nghiệp 807 83 243 647 Nhóm lao động chân tay Nhóm lao động trí óc Kinh tế gia đình Nghèo Không nghèo 90,70 09,30 27,30 72,70

‐  PHƯƠNG  PHÁP

– Nghề nghiệp lao động chân tay chiếm đại  đa số (87,2%), nhóm lao động trí óc chiếm thấp  (8,8%).

ĐỐI  TƯỢNG  NGHIÊN CỨU

– Kinh tế nghèo chiếm gần 1/3 dân số nghiên

cứu (27,3%), không nghèo chiếm 72,7%.

Đối tượng nghiên cứu

Bảng 2. Tình trạng sử dụng BPTT n= 890

Phụ  nữ  có  chồng  tuổi  sinh  đẻ  có  sử  dụng  một  BPTT  phổ  biến  bao  gồm:  đặt  DCTC,  sử  dụng  BCS,  sử  dụng  viên  uống  tránh  thai,  sống  tại Hóc Môn từ 6 tháng trở lên.

Phương pháp nghiên cứu

Cắt ngang mô tả và phân tích.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n=890)

Biến số Tình trạng sử dụng BPTT Có Không Loại BPTT đang sử dụng Thuốc viên tránh thai Thuốc tiêm Thuốc cấy Bao cao su Vòng tránh thai Tần suất 691 183 17 04 183 278 Tỉ lệ 78,00 26,50 2,00 0,60 26,50 40,00

586

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

(KTC 95%)

Cơ cấu tỉ lệ sử dụng các BPTT như sau

* DCTC chiếm nhiều nhất 40,0%.

* Kế đó BCS và TVTT uống có tỉ lệ sử dụng

bằng nhau = 26,50 %

Đúng Không Nghề nghiệp của chồng Biến số Triệt sản nữ Triệt sản nam Khác Tần suất 12 02 12 Tỉ lệ 1,70 0,30 2,40 1,4 (1,1 – 1,9) Thuộc nhóm lao động trí óc. Thuộc nhóm lao động chân tay 25 (65,79) 108 (45,19) 13 (34,21) 131 (54,81) 0,01 Điều kiện nhà ở Ở riêng 1,00

*  Thuốc  tiêm  tránh  thai  được  sử  dụng  còn

thấp 2,5 %

* Triệt sản nữ, thuốc cấy và triệt sản nam có

tỉ lệ rất thấp.

‐  Về  nghề  nghiệp  của  chồng:  Những  người  có nghề nghiệp thuộc nhóm lao động trí óc có tỉ  lệ thực hành đúng là 1,4 lần (KTC 95 %: 1,1 – 1,9  với p = 0,01) so với nhóm lao động chân tay và  sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,05).

Ở chung nhà chồng 0,001 0,60 (0,48 – 82 (40,80) 51 (67,10) 119 (59,20) 25 (32,90) 0,76)

Bảng 3. Thực hành chung về DCTC (n=277).  Thực hành chung Đúng - chính xác: Không đúng :

Tỉ lệ người trả lời đúng – chính xác cả 3 câu

về thực hành DCTC chỉ có 52,70%.

Tỉ  lệ  người  trả  lời  chưa  đúng  về  thực  hành

‐  Về  điều  kiện  nhà  ở:  Những  phụ  nữ  có  chồng mà ở chung với gia đình cha mẹ có tỉ lệ có  kiến thức đúng bằng 0,60 lần (KTC 95 %: 0,48 –  0,76  với  p  =0,001)  phụ  nữ  có  chồng  mà  có  nhà  riêng  và  sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p<0,05).

DCTC là 47,30%.

146 131 52,70 47,30

Bảng 6. Liên quan giữa kiến thức đúng và thực hành  đúng về DCTC

Đặc tính P

Bảng 4. Mối liên quan giữa thực hành DCTC và đặc  tính mẫu  Đặc tính

KTC 95% P PR (KTC 95%)

Những người có kiến thức đúng về DCTC có  tỉ  lệ  thực  hành  đúng  bằng  1,50  lần  (KTC  95  %:  1,18  –  1,90  với  p  =  0,001)  so  với  người  có  kiến  thức  chưa  đúng.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống kê (p < 0,05 %).

Kiến thức DCTC Không Đúng Thực hành 61 (61,00) 39 (39,00) Đúng ** 1,00 Chưa đúng 72 (49,68) 105 (59,52) 0,001 1,00 1,50 (1,18 -1,90) Kiến thức DCTC Không Đúng Học vấn ≤ Cấp 1 15 (31,90) 32 (68,10) Cấp 2 Cấp 3 53 (33,30) 106 (66,70) 0,85 1,04 (0,65 – 1,67) 25 (43,90) 32 (56,10) 0,22 1,37 (0,82 – 2,28) Trên cấp 3 7 (50,00) 7 (50,00) 0,18 1,56 (0,80 – 3,06)

Bảng 7.Thực hành cách uống TVTT (n = 183)

‐  Về  thực  hành  đúng  và  trình  độ  học  vấn:  Những người có trình độ văn hoá trên cấp 3 có tỉ  lệ thực hành đúng cao hơn 1,68 lần (KTC 95 %:  1,05 – 2,68 với p =0,03) so với người có trình độ  văn  hoá  ≤  cấp  1.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống kê.

Tần số Tỷ lệ (%) 117 63,90

52 28,40

‐  Về  nghề  nghiệp:  Những  người  có  nghề  nghiệp thuộc nhóm lao động trí óc có tỉ lệ thực  hành đúng là 1,5 lần (KTC 95 %: 1,1 – 2,1 với p =  0,03) so với nhóm lao động chân tay và sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Tỉ lệ người có thực hành đúng – chính xác về

TVTT đạt 63,90 %.

14 07,70 Điểm thực hành Nhóm thực hành đúng – chính xác (5 điểm) Nhóm thực hành đúng – cơ bản (4 điểm) Nhóm thực hành chưa đúng (0 – 3 điểm)

Bảng 5. Liên quan thực hành đúng DCTC và yếu tố  chồng.

Tỉ lệ người có thực hành đúng – cơ bản trở

lên về TVTT chiếm tỉ lệ rất cao là 92,30 %.

Đặc tính P PR Thực hành DCTC

587

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Tỉ lệ người thực hành chưa đúng chiếm tỉ lệ

thấp 7,70 %.

30-34 39 (92,90) 03 (07,10) 0,05 0,89 (0,82 –0,96) 35-39 45 (93,80) 03 (06,30) 0,003 0,89 (0,83 –0,96) 40 (88,90) 05 (11,10) 0,002 0,85 (0,76 –0,94) 40 +

Bảng 8. Liên quan thực hành VUTT và nguồn thông  tin

*Ở nhóm tuổi 35‐39, tỉ lệ có thực hành đúng  bằng  0,89  lần  (KTC  95  %:  0,83  –  0,96  với  p  =  0,003)  so  với  nhóm  tuổi  dưới  25.  Sự  khác  biệt  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Đặc tính P PR(KTC 95%) Thực hành về TVTTU Đúng Không

Trước khi sử dụng TVTTU, có được tư vấn 2 (8,70) Có

*Ở  nhóm  tuổi  từ  40  trở  lên,  tỉ  lệ  có  thực  hành đúng bằng 0,85 lần (KTC 95 %: 0,76 – 0,94  với p = 0,002) so với nhóm tuổi dưới 25. Sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Không 0,84 12 (7,50) 1,01 (0,88 –1,16) 21 (91,03) 148 (92,5) Chức danh người tư vấn Nhân viên y tế 1,00

KTC 95% P Cộng tác viên dân số 9 (11,25) 3 (4,55) 0,13

0 (0,0) 0,00 Người thân (bạn bè, gia đình) 1,10 (0,89 –1,18) 1,20 (1,1 – 1,3) 71 (88,75) 63 (95,45) 14 (100,0)

Bảng 10. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành  trong sử dụng thuốc viên tránh thai uống  Đặc tính Kiến thức TVTT Không Đúng Thực hành 0 (0,0)

Đúng 29 (100,0) Không 140 (90,9) 14 (9,1) 0,09 1,1 (1,05- 1,15) Nhân viên y tế

Cộng tác viên dân số Nhận thuốc từ 6 (25,00) 2 (4,00) 0,04

Những người có kiến thức đúng về TVTT có  thực  hành  đúng  bằng  1,1  lần  (KTC  95  %:  1,05‐  1,15  với  p  =  0,09)  so  với  nhóm  có  kiến  thức  không đúng. Sự khác biệt này không có ý nghĩa  thống kê.

Tự mua tại nhà thuốc 5 (4,76) 0,05 1,30 (1,01– 1,6) 1,30 (1,01 – 1,6) 18 (75,00) 48 (96,00) 100 (95,74)

Bảng11. Thực hành đúng về BCS tránh thai

‐  Người  được  tư  vấn  về  thuốc  viên  tránh  thai từ người thân có tỉ lệ thực hành đúng bằng  1,20lần (KTC 95 %: 1,1 – 1,30 với p = 0,001) so với  người  được  tư  vấn  từ  nhân  viên  y  tế.  Sự  khác  biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

*Gom nhóm: Tỉ lệ phụ nữ có thực hành đúng về BCS đạt  82,30 %.

Tỉ lệ phụ nữ có thực hành đúng – chính xác

về BCS chiếm 19,90 %.

‐ Người nhận thuốc từ CTV dân  số  có  tỉ  lệ  thực  hành  đúng  về  thuốc  viên  tránh  thai  bằng  1,30 lần (KTC 95 %: 1,01 – 1,6 với p = 0,04) so với  người nhận thuốc từ nhân viên y tế. Sự khác biệt  này có ý nghĩa thống kê (p <0,05).

Tỉ lệ phụ nữ có thực hành đúng –cơ bản về

BCS chiếm 62,40 %.

Tỉ lệ phụ nữ có thực hành chưa đúng về BCS

chiếm 17,70 %.

‐ Người tự mua thuốc từ nhà thuốc có tỉ lệ  thực  hành  đúng  về  thuốc  viên  tránh  thai  bằng  1,30 lần (KTC 95 %: 1,01 – 1,6 với p = 0,05) so với  người nhận thuốc từ nhân viên y tế. Sự khác biệt  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Điểm Thực hành đúng – chính xác Thực hành đúng –cơ bản Thực hành chưa đúng Tần số 36 113 32 Tỉ lệ 19,90 62,40 17,70

Bảng12. Liên quan giữa thực hành về bao cao su và  đặc tính mẫu  Đặc tính

PR(KTC 95%)

Bảng 9. Liên quan giữa thực hành về TVTT uống  với các đặc tính mẫu.  Đặc tính

KTC 95% P Thực hành TVTT uống Phật giáo Đúng

0,001 Thiên Chúa giáo Không Tuổi* 00 11 (100) 1,00 Thực hành BCS P Đúng Không Tôn giáo 25 (20,50) 00 (00.00) 97 (79,50) 30 (100,0) 1,32 (1,20 -1,44) < 25 25-29 34 (91,90) 03 (08,10) 0,08 0,87 (0,80 –0,97)

588

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Khác 0,68 22 (75,90) 07 (24,10) 0,95 (0,76 – 1,19)

Bảng16. Thực hành BCS và công tác cung cấp dịch vụ,  thông tin, tư vấn.

P KTC 95% Đặc tính Thực hành về BCS Đúng Không đúng

Trước khi sử dụng bao cao su, có được tư vấn kỹ về biện pháp ngừa thai này không:

1,50 (1,07-2,12) Có 126 (86,90) Không 15 (57,70) 19 (13,10) 11 (42,31) 0,003

Về  Tôn  giáo:  Tỉ  lệ  có  thực  hành  đúng  ở  người  theo  đạo  Thiên  Chúa  và  người  theo  tôn  giáo khác so với người theo đạo Phật là: 1,32 lần  (KTC  95  %:  1,20  ‐1,44  với  p  <  0,0001),  0,95  lần  (KTC 95 %: 0,76 – 1,19 với p = 0,68).  Bảng13. Liên quan giữa thực hành về bao cao su và yếu tố  tôn giáo của chồng

Đặc tính P KTC 95%

Tỉ lệ thực hành đúng ở người có được tư vấn  về BCS trước khi sử dụng bằng 1,50 lần (KTC 95  %: 1,07‐ 2,12 với p = 0,0003) so với người không  được tư vấn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống  kê.

Thực hành về BCS Đúng Không Tôn giáo của chồng 1,00 93 (83,78) 18 (16,22) 30 (100,00) 00 (00,00) 0,001 1,25 (1,15-

BÀN LUẬN

1,36) Phật giáo Thiên Chúa giáo Khác 26 (66,67) 13 (33,33) 0,58 0,80 (0,63- 1,00)

Những đặc điểm chung của dân số nghiên  cứu

Có 890 người được chọn từ quần thể phụ nữ  có  chồng  tuổi  sinh  đẻ  ở  Hóc  Môn.Trong  đó  số  phụ  nữ  có  sử  dụng  phương  pháp  ngừa  thai  chiếm  78,10  %  (n=691)  là  tương  đương  với  mặt  bằng  chung  của  thành  phố.  Tỉ  lệ  phụ  nữ  sử  dụng  các  biện  pháp  tránh  thai  hiện  đại  là  98,30%.

Phần  này  chỉ  cắt  1  phần  của  bảng  nên  bỏ  luôn phần kiểmTỉ lệ thực hành đúng ở người có  chồng theo Thiên Chúa giáo so với người người  có chồng theo Phật  giáo  là  1,25  lần  (KTC  95  %:  1,15‐ 1,36 với p = 0,001). Sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê.  Bảng14. Thực hành BCS và công tác cung cấp dịch vụ,  thông tin, tư vấn.

P KTC 95% Đặc tính Thực hành về BCS Đúng Không đúng

Mức  độ  học  vấn  phổ  biến  là  ở  cấp  2  và  3  chiếm đại đa số 73,30 % nên khả năng tiếp nhận  các BPTT là phù hợp. Trình độ từ đại học trở lên  chiếm rất thấp 5,80 %.

Về  nghề  nghiệp:  nhóm  lao  động  chân  tay,  giản đơn chiếm đa số 90,7 % điều này phản ánh  đúng điều kiện kinh tế ‐ xã hội tại Hóc Môn, là  một vùng nông thôn đang trong giai đoạn đô thị  hoá..

Trước khi sử dụng bao cao su, có được tư vấn kỹ về biện pháp ngừa thai này không Có 126 (86,90) 19 (13,10) Không 15 (57,70) 11 (42,31) 0,003 1,50 (1,07-2,12)

Tỉ lệ thực hành đúng ở người có được tư vấn  về BCS trước khi sử dụng bằng 1.50 lần (KTC 95  %: 1,07‐ 2,12 với p = 0,0003) so với người không  được tư vấn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống  kê.  Bảng 15. Mối liên quan kiến thức – thực hành BCS tránh  thai

Điều  kiện  kinh  tế  gia  đình  nghèo  theo  qui  định  của  thành  phố  chiếm  27,3  %  đã  phản  ánh  huyện Hóc môn là một trong những địa phương  còn nghèo của thành phố.

P Đặc tính PR (KTC 95%) Thực hành về BCS Đúng

Đây  là  những  thách  thức  đối  với  sự  phát  triển kinh tế ‐ xã hội huyện Hóc Môn nói chung  và đối với công tác DS ‐ KHHGĐ nói riêng.

Không đúng Kiến thức Đúng 113 (87,60) 16 (12,40) 0,003 1,30 (1,04-

Không 36 (69,23) 16 (30,77) 1,53)

Tình hình sử dụng các BPTT

Tỉ  lệ  phụ  nữ  lứa  tuổi  sinh  đẻ  có  sử  dụng  BPTT  hơn  78%.  Trong  đó  BPTT  hiện  đại  chiếm  97,6 %, còn lại là các biện pháp truyền thống.

Người  có  kiến  thức  đúng  thì  có  thực  hành  đúng bằng 1,30 lần (KTC 95 %: 1,04‐1,53 với p =  0,003) so với người có kiến thức chưa đúng. Sự  khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

589

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Loại  BPTT  được  sử  dụng  nhiều  nhất  là  là  DCTC  chiếm  40,5%  người  có  sử  dụng;  2  biện  pháp  tránh  thai  còn  lại  có  tỉ  lệ  bằng  nhau  và  bằng 26,25 %.

đủ để có thể mua nhà hoặc một số có lý do để ở  chung với gia đình thì ở riêng có tỉ lệ thực hành  đúng thấp hơn ở chung. Điều này có thể được lý  giải thông qua việc tư vấn của người thân thay  vì  là  nhân  viên  y  tế  thông  qua  việc  trao  đổi  thường xuyên vì điều kiện ở chung.

Theo  phân  bố  người  có  sử  dụng  các  BPTT  theo nhóm tuổi: phụ nữ ở độ tuổi từ 25‐34 chiếm  tỉ  lệ  có  sử  dụng  BPTT  nhiều  nhất  45,30  %,  và  cũng là lứa tuổi có khả năng thụ thai cao nhất.

Thực hành chung về DCTC  Tỉ lệ người trả lời đúng về thực hành chung = 52,7%.

Ở nghiên cứu cùa tôi có tỉ lệ thực hành đúng  cao hơn nghiên cứu ở Cần Thơ được thực hiện  năm  2003  có  thể  do  ý  thức  bảo  vệ  sức  khoẻ  về  bản  thân  người  phụ  nữ  được  nâng  cao  hơn  trước  đây  vì  các  phương  tiện  truyền  thông  đại  chúng  phát  triển  nhanh  chóng,  điều  kiện  sống  của người dân cũng được nâng lên, việc truyền  thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng được  các  ngành  hữu  quan  đẩy  mạnh  nên  cũng  tác  động  rất  nhiều  đến  thực  hành  đúng  về  DCTC.  So sánh với nghiên cứu khác:

Nội dung

Kiến thức đúng DCTC Thực hành đúng DCTC HócMôn (2011) Cần Thơ (2003)[1] 40,00 16,80 36,10 52,70

Các yếu tố liên quan

Qua  phân  tích  đơn  biến  mối  liên  quan  với

thực hành:

Một  nghiên  cứu  ở  Nigeria  (2008)(1).  Phiếu  khảo sát của tất cả các khách hàng có dụng cụ tử  cung chèn ở phòng khám kế hoạch hóa gia đình  trong  một  thời  gian  sáu  năm  đã  được  xem  xét.  Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, đã có 852  người  chấp  nhận  biện  pháp  tránh  thai  mới  ra  trong  đó  39,7%  chấp  nhận  dụng  cụ  tử  cung  tránh  thai.  Tuổi  nhóm  khách  hàng  là  25‐29  (32,5%).  Chấp  nhận  sử  dụng  dctử  cung  tránh  thai  làphổ  biến  nhất  trong  số  các  khách  hàng  (65,1%).  Đa  số  đãkết  hôn  (90,0%),  Thiên  Chúa  giáo (98,8%) và 72,8% có trình độgiáo dục trung  học.  Nguồn  cung  cấp  thông  tin  về  DCTC  từ  phòng  khám  (65,7%)  và  bạn  bè  /  người  thân  (21,3%)  là  những  nguồn  phổ  biến  nhất  của  thông tin về ngừa thai. Hầu hết (93,5%) của các  khách hàng có thiết bị tránh thai trong tử cung.  Đau  bụng  dưới  (5,5%),  ngứa  âm  đạo  (5,3%)  là  biến chứng thường gặp nhất. Kết luận: Các chấp  nhận của dụng cụ tử cung tránh thai nghiên cứu  đã được giới trẻ chấp nhận, cần tăng cường giáo  dục phụ nữ. Tăng cường phương tiện thông tin  đại  chúng  tham  gia  trong  việc  phổ  biến  thông  tin  chính  xác  về  các  thiết  bị  tránh  thai  trong  tử  cung  để  chung  dân  chúng,  việc  giới  thiệu  sau  sinh  và  sau  phá  thai  bằng  cách  sử  dụng  DCTC  tránh thai(1).

Về thuốc viên tránh thai

So sánh giữa kiến thức và thực hành về cách

uống thuốc trong nghiên cứu:

Qua đây ta thấy: những người có kiến thức  đúng  càng  cao  thì  sẽ  có  thực  hành  đúng  càng  cao và ngược lại.

Thực hành và công tác thông tin tư vấn:

Có mối liên quan giữa học vấn và thực hành.  Có mối liên quan giữa  nhóm  nghề  lao  động  trí  óc  và  thực  hành.  Có  mối  liên  quan  giữa  nhóm  nghề nghiệp là lao động trí óc của chồng và thực  hành. Có mối liên quan về điều kiện nhà ở  với  thực hành đúng. Có mối liên quan với được tư  vấn trước khi đặt DCTC và thực hành đúng. Có  mối  liên  quan  với  kiến  thức  về  DCTC  và  thực  hành  đúng.  Có  mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  đúng  và  thực  hành  đúng.  Đây  là  điều  hiển  nhiên,  do  vậy  công  tác  thông  tin  ‐  giáo  dục  –  truyền thông càng phải được nâng cao vì có kiến  thức đúng thì thực hành mới đúng.

‐ Ở người được tư vấn về thuốc viên tránh  thai từ người thân có tỉ lệ thực hành đúng bằng  1,2 lần (KTC 95 %: 1,1 – 1,30 với p = 0,001) so với

Điều kiện nhà ở và thực hành DCTC đúng: ở  chung với cha mẹ vợ hoặc chồng thường gặp ở  các cặp vợ chồng trẻ khi điều kiện kinh tế chưa

590

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

‐Có  mối  liên  quan  giữa  thực  hành  đúng  và  người tư vấn chứng tỏ vai trò quan trọng trong  công tác giáo dục, truyền thông của nhân viên y  tế và CTV dân số, người thân.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  người  được  tư  vấn  là  nhân  viên  y  tế.  Sự  khác  biệt này mang ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Điều  này có thể được lý giải do những người thân cận  có  thời  gian  tiếp  xúc  với  đối  tượng  nhiều  hơn  nên kỹ năng thực hành của đối tượng được tốt  hơn so với điều kiện tiếp xúc với nhân viên y tế.  Cũng có thể lý giải là do nhân viên y tê đang bị  quá tải về nhiệm vụ khi làm việc nên ít có thời  gian tư vấn.

‐Việc  tư  vấn  cho  người  sử  dụng  BPTT  rất  quan  trọng.  Waren  M.  cho  rằng,  không  được  cung cấp đầy đủ thông tin thì ngưới phụ nữ sẽ  thường cho rằng những triệu chứng không liên  quan là do phương pháp tránh thai gây ra.

‐  Ở  người  nhận  thuốc  từ  CTV  dân  số  và  mua  từ  hiệu  thuốc  có  tỉ  lệ  thực  hành  đúng  về  thuốc  viên  tránh  thai  bằng  1,3  lần  (KTC  95  %:  1,01  –  1,6  với  p  =  0,04)  và  1,30  lần  (KTC  95%:  1,01‐1,60  với  p  =  0,05)  so  với  người  nhận  thuốc  từ  nhân  viên  y  tế.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa  thống kê (p <0,05). Ta lý giải tương tự như trên  về vai trò gần gũi của những người thân, người  mà có tiếp xúc thường xuyên.

‐Vai trò của nhân viên y tế, cộng tác viên dân  số  và  người  thân  đối  với  việc  tư  vấn  BPTT  có  thay đổi. Nếu trước đây vai trò của nhân viên y  tế là chủ đạo trong công tác tư vấn thì hiện nay  với  các  phương  tiện  truyền  thông  đại  chúng  như: phát thanh, truyền hình, internet, sách báo,  tài  liệu..  cũng  góp  phần  quan  trọng  vào  việc  cung  cấp  các  thông  tin  về  phương  pháp  tránh  thai nhưng sự thân cận gần gũi của người thân  trong gia đình, của CTV dân số,.. là quan trọng  hơn như đã phân tích ở trên.

Thực hành bao cao su và các mối liên quan  Thực hành đúng và các yếu tố liên quan

Tỉ lệ phụ nữ có thực hành đúng về BCS đạt

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

82,30 %.

Qua  phân  tích  đơn  biến  có  mối  liên  quan

như sau:

2.

‐Giữa kiến thức đúng và thực hành đúng.

3.

‐Được  tư  vấn  về  BCS  trước  khi  sử  dụng  và

thực hành đúng.

4.

‐Được  tư  vấn  là  từ  cộng  tác  viên  dân  số  và

thực hành đúng.

Kết luận

5.

6. 7.

Ti  lệ  phụ  nữ  sử  dụng  các  BPTT  là  78,10  %,  trong đó sử dụng BPTT hiện đại là 98,30%. Còn  gần  22  %  phụ  nữ  lứa  tuổi  sinh  đẻ  không  sử  dụng bất kỳ BPTT nào.

8.

9.

10.

Về thực hành DCTC đúng thì chỉ đạt ở mức  50%, thực hành sai chủ yếu là vấn đề tái khám  và  giữ  sổ  theo  dõi  đặt  DCTC.  Các  BPTT  khác  như TVTT, BCS tỉ lệ thực hành đúng lần lượt là  92,30 % và 82,30%.

Qua phân tích mối liên quan với thực hành

đúng thì:

Abasiattai  M,  Bassey  EA,  Udoma  EJ  (2008)  ʺProfile  of  intrauterine  contraceptive  device  acceptors  at  the  University  of Uyo Teaching Hospital, Uyo, Nigeriaʺ. Ann. Afr. Med., 7,  (1), 1‐5.  Cục  Thống  kê  (2010)  ʺNiên  giám  thống  kê  giai  đoạn  2005  ‐  2009ʺ. NXB Hà Nội.  Đại học Y dược, bộ môn phụ sản ‐ Sản phụ khoa Y dược TP.  Hồ  Chí  Minh  (2000)  ʺBài  giảng  Sản  Phụ  khoaʺ.  TP.  Hồ  Chí  Minh.  Hall  KS,  Castano  PM,  Stone  PW,  Westhoff  C  (2010)  ʺMeasuring  oral  contraceptive  knowledge:  a  review  of  research  findings  and  limitationsʺ.  Patient  Educ.  Couns.,  81,  (3), 388‐94.  Nguyễn Đỗ Nguyên (2006) ʺPhương pháp nghiên cứu khoa  học trong y khoa, tài liệu lưu hành nội bộʺ.  Nguyễn Văn Lơ (2006) ʺBài giảng Dân số họcʺ.  Phan Hữu Thuý Nga (2003) ʺKiến thức ‐ Thái độ ‐ Thực hành  về  Dụng  cụ  tử  cung  tránh  thai  của  phụ  nữ  chấp  thuận  sử  dụng  tại  khoa  sản,  đề  tài  cấp  cơ  sở‐Bệnh  viện  đa  khoa  Cần  Thơ năm 2003ʺ.  Phòng  Y  tế  huyện  Hóc  Môn  (20‐5,  2006,  2007,  2008,  2009,  2010) ʺBáo cáo công tác kế hoạch hoá gia đình ʺ.  Sarina  S,  Sarab  HBS.  (2008)  ʺWomenʹ  s  Knowledge  of  Commonly  Used  Contraceptive  methodsʺ.  Wisconsin  Medical journal, 107, 2008, pp327‐320.  Stanton  L.  Deveaux  S.  Lunn  S.  Yu  N.  Brathwaite  X,  Li  L.  Cottrell C, Harris R, Clemens S, Marshall (2009) ʺCondom‐use  skills checklist: a proxy for assessing condom‐use knowledge  and skills when direct observation is not possibleʺ. J. Health  Popul. Nutr., 27, (3), 406‐13.

591

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  11. Trần Thiện Thuần (2010) ʺBài giảng Khoa học hành vi, tài liệu

13. Xiao  M,  Wang  (1983)  ʺBirth  control  techniques  in  Chinaʺ.

lưu hành nội bộʺ.

China Popul. Newsl., 1, (2), 1‐7.

12. Uỷ banThường vụ quốc hội (2003) ʺPháp lệnh dân sốʺ.

592

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ TÁC HẠI NGHỀ NGHIỆP Ở CÔNG  NHÂN NGÀNH MAY CÔNG NGHIỆP TẠI MỘT SỐ TỈNH PHÍA NAM

Trịnh Hồng Lân*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và tác hại nghề nghiệp được triển khai rất rộng rãi ở các nước  công nghiệp phát triển như ở Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu. Tuy vậy, ở Việt Nam những hướng nghiên cứu và ứng  dụng triển khai trong lĩnh vực này lại rất hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu ứng dụng các nguyên tắc Écgônômi  để thăm dò chức năng và đánh giá các yếu tố nguy cơ tại các vị trí lao động của ngành may là một vấn đề rất mới  hiện nay đối với tất cả các tỉnh thành phía Nam.

Mục tiêu đề tài : Xác định các yếu tố nguy cơ, tác hại nghề nghiệp của công nhân may công nghiệp một số

tỉnh khu vực phía Nam trong giai đoạn 2007 – 2008.

Phương pháp nghiên cứu : Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Kết quả nghiên cứu: Ghế ngồi cho công nhân may chưa phù hợp với các nguyên tắc của Écgônômi : ghế  bằng gỗ cứng, không có tựa lưng, không điều chỉnh được chiều cao. Tạo ra nguy cơ cao đau thắt lưng cho công  nhân khi phải ngồi liên tục, kéo dài. Cường độ lao động rất cao và thời gian lao động kéo dài, không có các khoảng  thời gian nghỉ ngắn trong suốt ca lao động tạo nguy cơ căng thẳng, mệt mỏi và rối loạn cơ xương (RLCX) cho  người lao động. Môi trường lao động tại các phân xưởng may vào các thời điểm khảo sát tồn tại chủ yếu là gánh  nặng nhiệt (vi khí hậu nóng) nhất là vào buổi chiều và mùa khô. Dễ gây cảm giác mệt mỏi, căng thẳng cho người  lao động, gây “stress nhiệt”. Tỷ lệ stress nghề nghiệp là khá cao với tỉ lệ chung của công nhân may là 71% và có  mối liên quan giữa độ tuổi, và thâm niên công tác với tình trạng stress nghề nghiệp. Những công nhân có tuổi  đời ≥ 31 tuổi, thâm niên công tác cao có tỉ lệ bị stress nghề nghiệp thấp hơn hẳn so với các nhóm công nhân có độ  tuổi trẻ hơn và có thâm niên công tác thấp hơn. (p < 0,001). Tỷ lệ RLCX nghề nghiệp chung của cả ba công ty là  83%. Những công nhân ngồi máy may công nghiệp trong các dây chuyền may có tỉ lệ RLCX nghề nghiệp 88 %,  cao hơn hẳn so với công nhân lao động gián tiếp (73%) và công nhân cắt vải (64%). (p < 0,001). Những công  nhân làm việc luôn thay đổi tư thế ít bị RLCX hơn công nhân phải ngồi liên lục hay đứng liên tục (p < 0,05).

Khuyến  nghị : Công ty nên trang bị loại ghế ngồi mềm, có điều chỉnh được chiều cao và có tựa lưng cho  công nhân may công nghiệp để hạn chế đau thắt lưng cho công nhân. Để giảm mức độ căng thẳng, mệt mỏi và  phòng chống rối loạn cơ xương cho người lao động, các công ty nên xem xét áp dụng chế độ nghỉ ngắn khoảng 5  ‐ 7 phút (4 – 5 lần/ca lao động), kết hợp với các bài tập thể dục/vận động ngay tại vị trí lao động.

Từ khóa : các yếu tố nguy cơ, tác hại nghề nghiệp, RLCX, stress nghề nghiệp.

ABSTRACT

SOME RISK FACTORS AND OCCUPATIONAL HAZARDS AT GARMENT INDUSTRY WORKERS IN  SOME SOUTHERN PROVINCES OF VIETNAM

Trinh Hong Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 593 ‐ 599

Background:  Study  on  risk  factors  and  occupational  hazards  to  be  implementated  widely  in  industrial  development countries such as the U.S., Japan, Western Europe. However, the research and applications deployed  in  this  field  is  very  limited  in  Vietnam.  Therefore,  the  study  of  the  principles  of  Ergonomics  to  explore  the

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: TS. Trịnh Hồng Lân

ĐT: 0903736894

Email: trinhhonglan07@gmail.com

593

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  function and evaluate of risk factors in the workplaces of garment workers is a current issue for all the southern  provinces.

Objectives:  Determine  risk  factors,  occupational  hazards  at  garment  industry  workers  in  some  southern

provinces of VietNam in the period 2007 – 2008.

Method: cross‐sectional study.

Results: Seats for workers may not conform to the principles of ergonomics. Hard wooden seats have no  backrest, height unadjustable. Risk of back pain caused to workers as sitting continuously prolonged. Working  environment in the garment factories in the survival time of the survey is mainly thermal burden (micro‐climate  is hot) especially in the afternoon and the dry season. Easily causing feelings of fatigue, stress for workers, heat  stress. Proportion of occupational stress is high with the overall incidence of garment workers was 71% and there  was an association between age and seniority high stress occupation rate lower than in the age group of workers  younger and lower work seniority. (p<0.001). Proportion of occupational musculoskeletal disorders of the whole  three  companies  is  83%.  The  workers  sit  in  the  industrial  sewing  machine  sewing  lines  rates  occupational  musculoskeletal  disorders  88%,  much  higher  than  indirect  workers  (73%)  and  workers  cut  fabric  (64%)  (p  <0.001). The workers, always changing positions, are less musculoskeletal disorders than workers to sit or stand  continuously (p <0.05).

Recommendations: The company should equip soft‐seat, with adjustable height and backrest for garment  workers to minimize occupational back pain for workers. Order to reduce stress levels, fatigue and prevention of  musculoskeletal  disorders  for  workers,  companies  should  consider  application  of  a  short  break  for  about  5‐7  minutes  (4‐5  times  /  shift)  associated  with  the  exercise  at  work  place.  Highly  labor  intensity  and  prolonged  duration of labor, without the short break period during the work shift the risk of creating tension, fatigue and  musculoskeletal disorders for workers.

Keywords: risk factors, occupational hazards, occupational musculoskeletal disorders, occupational stress

ĐẶT VẤN ĐỀ

vậy, điều kiện lao động ngành may công nghiệp  vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tác hại cho  sức khỏe người lao động.

Trong  quá  trình  công  nghiệp  hóa,  hiện  đại  hóa đất nước, ngành may được coi là một ngành  kinh tế mũi nhọn, chiếm một vị trí hết sức quan  trọng  trong  nền  kinh  tế  quốc  dân.  Ngành  may  mặc với tổng sản lượng trên 2 tỉ sản phẩm mỗi  năm  mang  về  cho  nền  kinh  tế  nước  ta  nguồn  ngoại tệ rất lớn. Từ năm 2007, ngành dệt – may  đã  vượt  qua  cả  dầu  thô  và  trở  thành  mặt  hàng  mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cho đất  nước.  Ngành  may  mặc  còn  có  đóng  góp  to  lớn  cho xã hội khi nó giải quyết được một số lượng  rất lớn công ăn việc làm cho nhiều lao động trẻ,  trong đó đa số là lao động nữ.

Trên thế giới, những nghiên cứu về tâm sinh  lý lao động và Écgônômi để đánh giá các yếu tố  nguy cơ và tác hại nghề nghiệp được triển khai  rất  rộng  rãi  ở  các  nước  công  nghiệp  phát  triển  như  ở  Mỹ,  Nhật  Bản,  Tây  Âu.  Tuy  vậy,  ở  Việt  Nam  những  hướng  nghiên  cứu  và  ứng  dụng  triển khai trong lĩnh vực này lại rất hạn chế. Do  vậy,  việc  nghiên  cứu  ứng  dụng  các  nguyên  tắc  Écgônômi và sử dụng các nghiệm pháp tâm sinh  lý lao động để thăm dò chức năng và đánh giá  các  yếu  tố  nguy  cơ  tại  các  vị  trí  lao  động  của  ngành may là một vấn đề rất mới hiện nay đối  với tất cả các tỉnh thành phía Nam.

Đề  tài  nghiên  cứu  khoa  học  này  được  thực  hiện với mục tiêu tổng quát: “Xác định các yếu  tố nguy cơ, tác hại  nghề  nghiệp  của  công  nhân

Trong  những  năm  gần  đây,  các  chủ  doanh  nghiệp đã  đầu  tư  nhiều  kỹ  thuật  và  công  nghệ  tiên  tiến  trên  thế  giới  nhằm  tăng  năng  suất  và  chất  lượng  sản  phẩm,  đồng  thời  góp  phần  cải  thiện điều kiện môi trường lao động, hạn chế các  tác  hại  nghề  nghiệp  cho  người  lao  động.  Tuy

594

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Phương pháp phân tích

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  may công nghiệp một số tỉnh khu vực phía Nam  trong giai đoạn 2007 – 2008”.

Các phương pháp thống kê.

Nhằm giải quyết ba mục tiêu cụ thể sau:

Thống kê mô tả

1. Xác định các yếu tố nguy cơ, tác hại nghề

Tần  số  và  tỉ  lệ  phần  trăm  đối  với  các  biến

nghiệp tại các phân xưởng may.

định tính.

Trung  bình  và  độ  lệch  chuẩn  với  các  biến

định lượng.

Thống kê phân tích

2. Xác định được tỉ lệ hiện mắc một số triệu  chứng bệnh lý thường gặp ở công nhân  ngành may công nghiệp: các rối loạn cơ  xương  nghề  nghiệp  và  stress  nghề  nghiệp.

3. Xác  định  mối  liên  quan  giữa  các  yếu  tố  nguy cơ và những ảnh hưởng của nó lên  sức khỏe người lao động.

ÐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Xác  định  sự  khác  biệt  giữa  hai  mẫu  nghiên  cứu  trước  lao  động  (đầu  ca)  và  sau  lao  động  (cuối  ca)  của  công  nhân  bằng  phép  kiểm  t‐test  bắt  cặp  sau  khi  kiểm  định  tính  đồng  nhất  phương  sai  hai  nhóm  nghiên  cứu.  Các  sự  khác  biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

Ðối tượng nghiên cứu   Người lao động :

Các  phân  xưởng  may,  qui  trình  công  nghệ,

Phép  kiểm  chi  bình  phương  được  sử  dụng  để xác định mối liên quan giữa những biến độc  lập  Mối  liên  quan  được  xác  định  bằng  tỉ  số  chênh OR và khoảng tin cậy 95%.

và thiết bị lao động.

Ðịa điểm và thời gian nghiên cứu

Phân tích hồi quy đa biến bằng mô hình hồi  quy logistic để xác định mối liên quan giữa các  yếu tố có liên quan đến tình trạng sức khỏe.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Các  công  ty  may  công  nghiệp  trên  địa  bàn  khu  vực  Tp.  Hồ  Chí  Minh,  Đồng  Nai  và  Bình  Dương trong khoảng thời gian 2007 – 2008.

Kết quả Điều tra đánh giá về điều kiện lao  động

Thiết kế nghiên cứu  Mô tả cắt ngang có phân tích.

Ðặc điểm mẫu điều  tra,  nghiên  cứu  :  Độ  tuổi

Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

của đối tượng nghiên cứu

Số đơn vị được khảo sát: 3 xưởng may thuộc

3 công ty may.

Tuổi  đời  công  nhân  ngành  may  mặc  nhìn  chung là khá trẻ, có tới 65 % công nhân có tuổi  đời ≤ 35 tuổi. Trong đó riêng nhóm công nhân có  tuổi đời < 26 tuổi chiếm tỉ lệ 30%.

Cỡ mẫu chọn làm thử nghiệm đánh giá tâm  sinh lý lao động : 180 nữ công nhân (chọn theo  thứ tự danh sách công nhân, theo thứ tự 1, 3, 5

Thâm niên công tác của đối tượng nghiên cứu

Cỡ mẫu chọn làm đánh giá Écgônômi vị trí

lao động : 30 vị trí lao động.

Số  lượng  công  nhân  được  điều  tra  phỏng  vấn  được  tính  theo  cách  lấy  cỡ  mẫu  toàn  bộ  :  Trên thực tế số công nhân chúng tôi  lựa  chọn  được 1009 công nhân ngành may công nghiệp.

Bảng 1: Thâm niên công tác (n=1009)  Thâm niên công tác 1 – 5 năm 6 – 10 năm 11 – 15 năm Trên 15 năm Tổng cộng

N 396 219 218 176 1009 % 39 22 22 17 100

Phương pháp phân tích, xử lý số liệu

Giới tính của đối tượng nghiên cứu

Xử lý số liệu

Sử  dụng  phần  mềm  EPI‐2000  và

Công  nhân  ngành  may  thuộc  3  Công  ty  đa  phần là nữ giới (89%), nam công nhân chỉ chiếm

STATISTICA để nhập và xử lý số liệu.

595

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

trước mặt (vùng 1, 2), vùng ít vận động (vùng 3).  Khoảng  cách  mắt  –  vật  cần  quan  sát  của  công  nhân may nằm trong khoảng 35 ± 2, hoàn toàn  phù  hợp  với  tính  chất  công  việc  đòi  hỏi  chính  xác cao của nghề may công nghiệp và cũng rất  phù hợp với TCVSLĐ của Bộ Y tế.

Cường độ lao động, độ tập trung quan sát của

công nhân

Nghiên cứu Y học  tỉ lệ nhỏ (11%), nam giới chủ yếu làm ở bộ phần  là hơi và cắt. Những đặc tính này khá phù hợp  với  nghề  may  mặc  hiện  nay  nói  chung.  Mặt  khác, may công nghiệp là một công việc rất tĩnh  tại, tỉ mỉ nên cũng rất phù hợp với lao động nữ.  Vì vậy, trong các dây chuyền may công nghiệp  chúng  ta  thấy  đa  phần  là  nữ  công  nhân  (89%).  Các  số  liệu  điều  tra  về  tuổi,  giới  này  cũng  khá  phù  hợp  với  các  điều  tra  của  Nguyễn  Đình  Dũng, (2000 – 2003)(4,3).

Bảng 4: Cường độ lao động, độ tập trung quan sát (n  = 30)

Kết quả đánh giá Écgônômi vị trí lao động

Chỉ tiêu đánh giá 1. Cường độ lao động 2. Độ tập trung quan sát Tỉ lệ % trong 1 ca lao động 90 ± 1 95 ± 3

Kích thước (cm) ±SD

Kích thước các bàn ghế may công nghiệp:   Bảng 2: Kích thước các bàn ghế may công nghiệp, n  = 30  Các thành phần vị trí lao động

Người lao động hầu như phải ngồi lao động  liên  tục  bên  chiếc  máy  may  công  nghiệp  với  khoảng  trên  dưới  90%  tổng  thời  gian  lao  động  trong  ngày  (10  %  thời  gian  còn  lại  là  nghỉ  ăn  giữa ca, đi giải quyết vệ sinh cá nhân, dọn dẹp,  nhận bàn giao…). Công nhân may phải liên tục  quan sát các đường kim, mũi chỉ hầu như trong  suốt ca lao động. Mức độ tập trung quan sát khi  thực  hiện  các  thao  tác  là  khoảng  95%  thời  gian  lao động. Đây có thể chính là những nguy cơ cao  gây ra tình trạng căng thẳng và RLCX.

Kết quả khảo sát của chúng tôi về cường độ  lao  động  và  độ  tập  trung  quan  sát  cũng  hoàn  toàn  phù  hợp  với  kết  quả  điều  tra  nghiên  cứu  của một số tác giả nghiên cứu khác(5,2).

Chiều dài Chiều rộng Chiều cao 1. Bàn may 2. Ghế ngồi 108 ±1 100 ±2 55 ±1 30 ±1 75 ±1 45 ±3

Kết quả đánh giá môi trường lao động của  3 công ty :Kết quả khảo sát vi khí hậu

Các  bàn  máy  may  này  phần  lớn  có  nguồn  gốc từ các hãng máy của Nhật Bản. Do vậy, kích  thước bàn máy may công nghiệp của các công ty  may  hiện  nay  là  tương  đối  chuẩn  hóa  theo  nguyên tắc Écgônômi trong thiết kế. Đáng lưu ý  đó là hầu hết các bàn máy may có khả năng điều  chỉnh  chiều  cao  phù  hợp  với  từng  người.  Các  mép  ghế  nhìn  chung  cũng  đều  được  bo  tròn,  không  có  cạnh  sắc.  Tuy  vậy,  ghế  được  thiết  kế  không đồng bộ với bàn máy may. Nó được làm  bằng  gỗ  cứng,  không  có  đệm,  không  có  tựa  lưng,  lại  là  những  điểm  chưa  phù  hợp  với  các  nguyên  tắc  của  Écgônômi  trong  thiết  kế  ghế  ngồi cho công nhân may. Điều này sẽ góp phần  làm tăng nguy cơ đau mỏi cơ xương cho người  lao động ngồi làm việc liên tục.

Vùng thao tác của công nhân may công nghiệp  Bảng 3: Vùng thao tác của công nhân may, n= 30

Sâu (cm) ± SD Vùng thao tác Vùng 1 : vùng hoạt động thường xuyên

Tại thời điểm khảo sát vào mùa khô hầu hết  các mẫu đo của phân xưởng may của các công ty  có  nhiệt  độ  cao  vượt  tiêu  chuẩn  vệ  sinh  cho  phép từ 0,1 – 6,3oC, nhiệt độ tăng cao nhất tại các  phân xưởng may của công ty vào buổi chiều và  vào mùa khô. Nhìn chung nhiệt độ khảo sát vào  mùa khô cao hơn mùa mưa. Các kết quả nghiên  cứu,  khảo  sát  VKH  của  chúng  tôi  về  vào  mùa  khô khá phù hợp với các kết quả nghiên cứu của  Nguyễn  Trinh  Hương(6),  Nguyễn  Đình  Dũng(3).  Nguyễn Thu Hà(2).

Vùng thao tác của công nhân may  (Bảng  3)  cũng được thiết kế khá phù hợp với vùng hoạt  động thường xuyên, vùng thao tác chính ở ngay

30 ± 4 40 ± 10 (trước) 70 ± 5 (ra sau) Vùng 2 : vùng hoạt động chính Vùng 3: vùng với xa nhất (vùng ít vận động)

596

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

3,61 4,92 135.3 175.5 < 0.001 29.7 Công nhân may

Kết quả đánh giá ảnh hưởng của ĐKLĐ tới  sức khỏe công nhân

Gián tiếp 150.8 3,31 161.8 3,44 < 0.05 7.3

Ảnh hưởng của ĐKLĐ tới tần số nhịp tim   Bảng 5: Biến đổi tần số nhịp tim của các đối tượng  nghiên cứu trước và sau lao động (n = 180)

p Đối tượng khảo sát ĐLC ĐLC

Ở  cả  2  nhóm  công  nhân  may  và  nhân  viên  văn  phòng  ở  thời  điểm  sau  lao  động  đều  tăng  khá  nhiều  so  với  thời  điểm  khảo  sát  trước  lao  động. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <  0.001  và  p  <  0.05.  Những  sự  khác  biệt  về  thời  gian thực hiện vào thời điểm  sau  lao  động  này  có  thể  được  hiểu  là  do  mức  độ  căng  thẳng  của  nhóm  công  nhân  may  có  phần  nào  cao  hơn  so  với nhóm nhân viên văn phòng.

Tại thời điểm sau lao động đều thấy có sự tăng

rõ rệt của tần số nhịp tim so với trước lao động.

Công nhân may Gián tiếp Tần số nhịp tim Trước lao động Sau lao động Trung bình 74.5 75.6 Trung bình 85.9 0,70 < 0.05 80.6 0,40 < 0.05 0,58 0,48

Đánh  giá  ảnh  hưởng  của  ĐKLĐ  tới  sức  khỏe của công nhân

Ảnh hưởng của ĐKLĐ tới huyết áp   Bảng 6: Biến đổi HA của các đối tượng nghiên  cứu.(n = 180)

Tình hình stress nghề nghiệp ở 3 công ty   Bảng 8: Stress nghề nghiệp của các đối tượng nghiên  cứu, (n = 1009)

p Cộng Đối tượng khảo sát Stress nghề nghiệp Stress Không stress ĐLC ĐLC Công ty

Huyết áp tối đa Trước lao động Sau lao động Trung bình Công nhân may 103.8 107.5 1,11 1,27 1,31 < 0.05 1,38 < 0.05 Trung bình 110.1 112.4 Huyết áp tối thiểu Gián tiếp

Kết  quả  điều  tra  cho  thấy  tỉ  lệ  stress  nghề  nghiệp ở công nhân ngành may công nghiệp của  3  công  ty  may  là  khá  cao  71%.  Trong  đó,  riêng  Công  ty  HW.  (công  ty  có  vốn  đầu  tư  của  nước  ngoài) có tỉ lệ stress cao nhất là 86%. Có thể là áp  lực ở công ty nước ngoài có cao hơn là công ty  trong nước. Những nghiên cứu về stress ở công  nhân ngành may công nghiệp cho thấy cũng rất  phù hợp với các nghiên cứu đánh giá của nhiều  nhà khoa học khác(5).

Khảo sát sự thay đổi của tần số nhịp tim và  HA  của  công  nhân  may  và  nhân  viên  văn  phòng cho thấy tại thời  điểm  sau  lao  động  có  tần  số  nhịp  tim  và  HA  tăng  nhưng  không  nhiều  so  với  chỉ  số  bình  thường.  Tuy  vậy,  chúng ta vẫn thấy có sự tăng rõ rệt của tần số  nhịp tim và HA vào thời điểm sau lao động so  với trước lao động. (p <0.05). Điều này thể hiện  ngành  may  mặc  là  một  ngành  không  đòi  hỏi  gắng  sức  nhiều  tới  mức  làm  tăng  cao  chỉ  số  HA  và  mạch  ở  người  lao  động.  Khác  với  kết  quả nghiên cứu của Nguyễn Bạch Ngọc(2).

Công nhân may 68.6 69.2 Gián tiếp 0,98 0,98 73.6 73.6 0,86 < 0.05 0,89 < 0.05 Tần số Cty May ĐN. 277 Cty May PP. 225 Cty May HW. 219 721 Cộng Tỉ lệ (%) 67 66 86 71 Tần số 136 116 36 288 Tỉ lệ (%) 33 34 14 29 Tần số Tỉ lệ (%) 100 100 100 100 413 341 255 1009

Ảnh hưởng của ĐKLĐ tới khả năng tập trung

Tình hình RLCX nghề nghiệp ở 3 công ty  Bảng 9: RLCX nghề nghiệp của các đối tượng  nghiên cứu.(n = 1009)

chú ý của công nhân

Cộng Công ty

Bảng 7: Biến đổi thời gian thực hiện thử nghiệm chú  ý Platonop trước và sau lao động (n = 180)

Thời gian thực hiện

Sau lao động p Trước lao động Đối tượng khảo sát Thời gian thử nghiệm tăng (%) ĐLC ĐLC Cty May ĐN. Cty May PP. Cty May HW. Cộng RLCX nghề nghiệp RLCX Tần số Tỉ lệ (%) 86 85 76 83 Không RLCX Tần Tần số Tỉ lệ số (%) 14 413 15 341 24 255 1009 17 356 290 195 841 57 51 60 168 Tỉ lệ (%) 100 100 100 100 Trung bình Trung bình

597

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

hợp với các nghiên cứu đánh giá của nhiều nhà  khoa học trong nước(5).

Kết  quả  phân  tích  đánh  giá  mối  liên  quan

Tỉ lệ RLCX trong khảo sát của chúng tôi nhìn  chung là khá cao (76 – 86%) nhưng vẫn còn thấp  hơn so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thu  Hà (1998)(5) và Jin K, Sorock G.S (2006).

của ĐKLĐ với RLCX nghề nghiệp

Đánh  giá  mối  liên  quan  của  ĐKLĐ  với  sức khỏe công nhân

Bảng 11: Rối loạn cơ xương hiệu chỉnh theo các yếu  tố thâm niên làm việc, công việc, tư thế lao động và  tính chất công việc của công nhân. (n=1009)

Đặc điểm KTC 95%

Phân  tích  để  xác  định  mối  liên  quan  giữa  stress  nghề  nghiệp  với  các  đặc  tính  của  mẫu

OR hiệu chỉnh 1 Giá trị p*

Bảng 10: Stress nghề nghiệp hiệu chỉnh theo nhóm  tuổi đời, thâm niên công tác và tình trạng hôn nhân.  (n=1009)

1 Đặc điểm KTC 95%

1

Giá trị p 0,47 - 1,37 0,42 0,22 – 0,8 0,009 0,21 – 0,77 0,007

2,67 1,61 – 4,42 <0,001 2,34 1,44 – 3,78 0,001 3,39 1,96 – 5,87 <0,001 0,27 0,12 – 0,61 0,003 0,86 0,30 – 2,43 0,46 0,37 0,21 – 0,64 0,001 0,54 0,28 – 1,05 0,071 0,64 0,34 – 1,19 0,158 1

0,83 0,49 – 1,39 0,483

Kết  quả  khảo  sát  tìm  mối  liên  quan  giữa  RLCX nghề nghiệp với đặc tính mẫu cho thấy :  có  mối  liên  quan  giữa  thâm  niên  công  tác  và  RLCX nghề nghiệp. Theo đó công nhân có thâm  niên  từ  6‐10  năm  có  xu  hướng  bị  RLCX  nghề  nghiệp nhiều hơn công nhân có thâm niên dưới  5  năm  2,67  lần  (p<0,001;  OR=2,67;  KTC  95%  =  1,61‐ 4,42); công nhân có thâm niên từ 11‐15 năm  có  xu  hướng  bị  RLCX  nghề  nghiệp  nhiều  hơn  công  nhân  có  thâm  niên  dưới  5  năm  2,34  lần  (p<0,001;  OR=2,34;  KTC  95%  =  1,44‐  3,78);  công  nhân có thâm niên trên 15 năm có xu hướng bị  RLCX  nghề  nghiệp  nhiều  hơn  công  nhân  có  thâm  niên  dưới  5  năm  3,39  lần  (p<0,001;  OR=3,39; KTC 95% = 1,96‐ 5,87). Những kết quả  nghiên  cứu  này  cũng  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của Nguyễn Thu Hà (1998)(5).

Thâm niên 1-5 năm, Thâm niên 6-11 năm, Thâm niên 11-15 năm, Thâm niên trên 15 năm, Thợ may Thợ cắt, Thợ là,ủi, Gián tiếp, Tư thế đứng Tư thế ngồi, Tư thế luôn thay đổi, Công việc đơn điệu - liên tục Công việc đơn điệu - ngắt quảng, Công việc đa dạng, 0,35 0,22 – 0,54 <0,001 0,88 – 2,51 0,13 0,79 0,6 – 1,93 0,76 0,58 – 2,1 Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi Nhóm tuổi từ 26-30 tuổi Nhóm tuổi từ 31-35 tuổi, Nhóm tuổi trên 35 tuổi, Thâm niên từ 1-5 năm Thâm niên 6-11 năm, Thâm niên 11-15 năm, Thâm niên trên 15 năm, Độc thân Đã lập gia đình, OR hiệu chỉnh 1 0,8 0,42 0,39 1 1,49 1,08 1,1 1 0,96 0,68 – 1,36 0,83

KẾT LUẬN

Qua  các  kết  quả  nghiên  cứu,  chúng  tôi  có

Có  mối  liên  quan  giữa  stress  nghề  nghiệp  với  nhóm  tuổi  của  công  nhân  (p<0,05).  Có  mối  liên quan giữa độ tuổi và tình trạng stress nghề  nghiệp. Theo đó công nhân có nhóm tuổi từ 31‐ 35 tuổi có khuynh hướng ít bị stress nghề nghiệp  ít hơn công nhân dưới 25 tuổi 0,42 lần (p=0,009;  OR=0,42;  KTC  95%  =  0,22‐  0,8);  công  nhân  có  nhóm tuổi trên 35 tuổi có có khuynh hướng ít bị  stress nghề nghiệp hơn công nhân dưới 25 tuổi  0,39  lần  (p=0,007;  OR=0,39;  KTC  95%  =  0,21  ‐  0,77). Những công nhân có tuổi đời thấp thường  là  những  người  mới  vào  nghề,  trong  số  họ  đa  phần mới xuất thân từ các miền quê, chưa thể có  đủ  kinh  nghiệm  sống  và  cũng  chưa  thể  thích  nghi tốt được với các điều kiện lao động và điều  kiện sống như những công nhân có độ tuổi cao  hơn tại các khu công nghiệp trong các thành phố  lớn. Vì vậy, họ có nguy cơ bị stress nghề nghiệp  nhiều hơn cũng là điều dễ hiểu.

một số kết luận sau :

Những  nghiên  cứu  về  stress  ở  công  nhân  ngành may công nghiệp cho thấy cũng rất phù

598

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Về các yếu tố nguy cơ của ngành may công  nghiệp

ngành may công nghiệp, chúng tôi xin có một số  đề  xuất  kiến  nghị  các  công  ty  nên  ưu  tiên  thực  hiện một số giải pháp cải thiện sau :

Công ty nên trang bị loại ghế ngồi mềm, có  điều  chỉnh  được  chiều  cao  và  có  tựa  lưng  cho  công nhân may công nghiệp để hạn chế đau thắt  lưng cho công nhân.

Ghế ngồi cho công nhân may chưa phù hợp  với các nguyên tắc của Écgônômi : ghế bằng gỗ  cứng, không có tựa lưng, không điều chỉnh được  chiều cao. Tạo ra nguy cơ cao đau thắt lưng cho  công nhân khi phải ngồi liên tục, kéo dài.

Cường  độ  lao  động  rất  cao  và  thời  gian  lao  động kéo dài, không có các khoảng thời gian nghỉ  ngắn  trong  suốt  ca  lao  động  tạo  nguy  cơ  căng  thẳng, mệt mỏi và RLCX cho người lao động.

Công  ty  PP  may  nên  trang  bị  đồng  bộ  các  hệ  thống  làm  mát  bằng  màn  nước  cùng  với  quạt gió công nghiệp cho phân xưởng may để  giảm  nhiệt  độ  trong  phân  xưởng  vào  những  ngày nắng nóng.

Môi  trường  lao  động  tại  các  phân  xưởng  may vào các thời điểm khảo sát tồn tại chủ yếu  là gánh nặng nhiệt (vi khí hậu nóng) nhất là vào  buổi  chiều  và  mùa  khô.  Dễ  gây  “stress  nhiệt”  cho người lao động.

Những ảnh hưởng của điều kiện lao động  tới sức khỏe công nhân

Để  giảm  mức  độ  căng  thẳng,  mệt  mỏi  và  phòng  chống  rối  loạn  cơ  xương  cho  người  lao  động, các công  ty  nên  xem  xét  áp  dụng  chế  độ  nghỉ  ngắn  khoảng  5  ‐  7  phút  (4  –  5  lần/ca  lao  động), kết hợp với các bài tập thể dục/vận động  ngay  tại  vị  trí  lao  động  theo  phương  pháp  YOGA cho vùng đầu ‐ cổ, hai bả vai, 2 cổ tay, và  cột sống lưng.

Cần có các nghiên cứu sâu hơn về các RLCX  để  đưa  vào  nhóm  các  bệnh  nghề  nghiệp  được  bảo hiểm ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Có  sự  tăng  rõ  rệt  của  tần  số  nhịp  tim,  tăng  huyết áp tối đa và tối thiểu, tăng thời gian thực  hiện  và  số  lỗi  mắc  khi  thực  hiện  nghiệm  pháp  Platonop  vào  thời  điểm  sau  lao  động  so  với  trước lao động. Tất cả những thay đổi này có ý  nghĩa thống kê (p <0,05).

1.

2.

Tỷ lệ stress nghề nghiệp là khá cao với tỉ lệ  chung của công nhân may là 71% và có mối liên  quan  giữa  độ  tuổi,  và  thâm  niên  công  tác  với  tình trạng stress nghề nghiệp. (p < 0,001).

3.

4.

5.

6.

Tỷ  lệ  RLCX  nghề  nghiệp  chung  của  cả  ba  công  ty  là  83%.  Trong  đó  tỉ  lệ  RLCX  ở  nhóm  công  nhân  lao  động  trực  tiếp  trong  các  dây  chuyền may công nghiệp là 86% chiếm tỉ lệ cao  hơn  nhóm  lao  động  gián  tiếp  với  tỉ  lệ  73%.  Có  mối liên quan giữa thâm niên công tác và RLCX  nghề nghiệp (p < 0,05).  KHUYẾN NGHỊ

1,2),

(Số

11

tr.

Eastman Kodak Company (1990), “Lao động lặp lại”, Chuyên  đề YHLРtập 2. Viện YHLРvà VSMT, tr.128 ‐ 146.  Nguyễn  Bạch  Ngọc  và  C.S  (1994),  “Ðánh  giá  Ecgonomi  ÐKLРtại một phòng máy  vi  tính”,  Tập  san  Viện  YHLР và  VSMT, số 7, tr.35 ‐ 38.  Nguyễn Đình Dũng và CS (2003). Điều kiện lao động và gánh  nặng lao động ở công nhân tại các Công ty may thuộc Tổng  công ty Dệt – May Việt Nam. Đề tài NCKH cấp Bộ.  Nguyễn Đình Dũng, Trịnh Hồng Lân và CS (2000). Bước đầu  tìm  hiểu  tình  hình  đau  thắt  lưng  ở  công  nhân  may  công  nghiệp thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam. Đề tài NCKH  cấp Bộ.  Nguyễn  Thu  Hà  và  CS  (1998).  Tình  hình  đau  thắt  lưng  của  công nhân làm việc với tư thế bất lợi tại một cơ sở. Báo cáo đề  tài NCKH, Viện YHLÐ.   Nguyễn Trinh Hương (2001), “Đánh giá điều  kiện  lao  động  trong ngành may công nghiệp ở Việt Nam và đề xuất những  biện pháp cải thiện”, Tập san An toàn – Sức khỏe & MTLĐ,  16.. Hà

Nội.

Để cải thiện điều kiện làm việc và nhằm bảo  đảm năng suất, chất lượng sản phẩm đồng thời  giữ gìn sức khỏe lâu dài cho người lao động của

599

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÂM SINH LÝ LAO ĐỘNG   VÀ ERGONOMICS Ở MỘT SỐ CÔNG TY MAY CÔNG NGHIỆP   TẠI MỘT SỐ TỈNH PHÍA NAM

Trịnh Hồng Lân*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đánh giá các chỉ tiêu tâm sinh lý lao động và Écgônômi các vị trí lao động để xác định các yếu  tố nguy cơ và tác hại nghề nghiệp là hết sức cần thiết khi thực hiện công tác đo môi trường lao động (MTLĐ) tại  các doanh nghiệp.Điều này đã được qui định trong Thông tư 19/2011 của Bộ Y tế. Tuy vậy, hiện nay ở Việt  Nam việc triển khai đánh giá các chỉ tiêu hầu như chưa được thực hiện. Do vậy, việc nghiên cứu ứng dụng đánh  giá các chỉ tiêu tâm sinh lý lao động và Écgônômi các vị trí lao động là một vấn đề rất mới và cần thiết hiện nay.

Mục tiêu đề tài: Xác định một số chỉ tiêu tâm sinh lý lao động và Écgônômi các vị trí lao động tại một số

công ty may ở khu vực phía Nam trong giai đoạn 2007 – 2008.

Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Kết quả nghiên cứu: Ghế ngồi cho công nhân may chưa phù hợp với các nguyên tắc của Écgônômi : ghế  bằng gỗ cứng, không có tựa lưng, không điều chỉnh được chiều cao. Các bàn máy may công nghiệp đều được  thiết kế có khoảng trống cho chân của công nhân may khá phù hợp với chiều sâu khoảng 40 ± 1 cm và với chiều  cao 63 ± 2 cm hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn vệ sinh lao động (TCVSLĐ) trong việc thiết kế không gian để  chân. Vùng thao tác của công nhân may được thiết kế khá phù hợp với thiết kế vùng hoạt động thường xuyên,  vùng thao tác chính ở ngay trước mặt (vùng 1, 2), vùng ít vận động (vùng 3), hoàn toàn phù hợp với tính chất  công việc của nghề may công nghiệp và cũng rất phù hợp với TCVSLĐ. Các chỉ số nhân trắc của công nhân may  nằm trong giới hạn trung bình của ngưỡng 95% của nữ Việt Nam. Góc nhìn được thiết kế phù hợp. Có sự tăng  rõ rệt của tần số nhịp tim (TSNT), tăng huyết áp (HA) tối đa và tối thiểu, tăng thời gian thực hiện và số lỗi mắc  khi thực hiện nghiệm pháp Platonop vào thời điểm sau lao động (SLĐ) so với trước lao động (TLĐ), Nghiệm  pháp Bourdon cho thấy số lượng chữ cái tìm được vào thời điểm SLĐ giảm khá nhiều so với TLĐ. Tất cả những  thay đổi này có ý nghĩa thống kê (p <0.05). Cơ lực bàn tay của cả 2 nhóm đối tượng khảo sát cho thấy đều có sự  suy giảm rõ vào thời điểm SLĐ so với TLĐ. Sự thay đổi khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0.05.

Khuyến  nghị : Công ty nên trang bị loại ghế ngồi mềm, có điều chỉnh được chiều cao và có tựa lưng cho  công nhân may công nghiệp để hạn chế đau thắt lưng cho công nhân. Để giảm mức độ căng thẳng, mệt mỏi và  phòng chống rối loạn cơ xương cho người lao động, các công ty nên tạo điều kiện cho công nhân thường xuyên  thay đổi tư thế làm việc (không ngồi quá lâu), xem xét áp dụng chế độ nghỉ ngắn khoảng 5 ‐ 10 phút (4 – 5 lần/ca  lao động), kết hợp với các bài tập thể dục/vận động ngay tại vị trí lao động.

Từ khóa : Môi trường lao động, tâm sinh lý lao động, Écgônômi, các yếu tố nguy cơ, tác hại nghề nghiệp

ABSTRACT

ASSESSMENT OF SOME INDICATORS OF LABOUR PSYCHOPHYSIOLOGY AND ERGONOMICS  AT SOME GARMENT INDUSTRIAL COMPANIES IN THE SOUTHERN PROVINCES

Trinh Hong Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 600 ‐ 605

Background: Assessment of labour psychophysiology and ergonomic indicators at workplaces to determine  the risk factors and occupational hazards is essential for measuring the performance of the working environment

* Viện Vệ sinh – Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: TS. Trịnh Hồng Lân

ĐT: 0903736894

Email: trinhhonglan07@gmail.com

600

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  at the companies. This was stipulated in the Circular 19 issued in 2011 of the Ministry of Health. Therefore, the  research  and  applications  assessment  of  labour  psychophysiology  and  ergonomics  indicators  at  workplaces  is  necessary at present.

Objectives: Determine some indicators of labour psychophysiology and Ergonomics at workplaces in some

garment companies in the Southern during the period 2007 – 2008.

Method: Cross‐sectional study.

Results:  Seats  for  workers  may  not  conform  to  the  principles  of  ergonomics.  Hard  wooden  seats  have  no  backrest, height unadjustable. The industrial sewing machines are designed with space for garment workersʹ feet  quite suitable the depth of about 40 ± 1 cm and with a height of 63 ± 2 cm entirely consistent with labor hygiene  standards. Manipulate sector of garment workers are quite consistent with the design for regular activities, the  main manipulate in front (sector 1, 2), the sector of less active (sector 3) completely consistent with features of the  work  of  industrial  sewing  and  also  consistent  with  labor  hygiene  standards.  The  anthropometric  indicators  of  garment workers in the average limited threshold 95% of female Vietnam. Viewing angle is properly designed.  There was a significantly increased frequency of heart rate, high blood pressure, increase implementation duration  and mistakes when performing Platonop test at the time after working compared with previous working. Bourdon  test  that  measures  the  number  of  letters  found  at  the  after  working  dropped  in  comparison  with  the  previous  working. All these changes are statistically significant (p <0.05). Strength muscle of hand at the two groups of  respondents that have a clear decline compared with the after working and the previous working. The change of  this difference was statistically significant with p <0.05.

Recommendations:  Companies  should  equip  soft‐seat,  with  adjustable  height  and  backrest  for  garment  workers to minimize occupational back pain for workers. Order to reduce stress levels, fatigue and prevention of  musculoskeletal  disorders  for  workers,  companies  should  facilitate  workers  change  working  posture frequently  (not sitting too long), consider application of a short break for about 5‐10 minutes (4‐5 times / shift) associated  with the exercise at work place.

Keywords:  Workplace  Environment,  labour  psychophysiology,  ergonomics,  risk  factors,  occupational

hazards

ĐẶT VẤN ĐỀ

đo đạc môi trường ở tất cả các loại hình doanh  nghiệp,  đơn  vị.  Do  vậy,  việc  nghiên  cứu  và  sử  dụng các nghiệm pháp tâm sinh lý lao động để  thăm dò chức năng và đánh giá các yếu tố nguy  cơ  tại  các  vị  trí  lao  động  của  ngành  may  là  rất  cần thiết đối với tất cả các tỉnh thành phía Nam.

Đề  tài  nghiên  cứu  khoa  học  này  được  thực  hiện với mục tiêu: Xác định một số chỉ tiêu tâm  sinh lý lao động và Écgônômi các vị trí lao động  tại một số công ty may ở khu vực phía Nam.

ÐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ðối tượng nghiên cứu

Người  lao  động:  Các  phân  xưởng  may,  qui

trình công nghệ, và thiết bị lao động.

Trên  thế  giới,  những  nghiên  cứu,  đánh  giá  các chỉ tiêu về tâm sinh lý lao động và Écgônômi  để  đánh  giá  các  vị  trí  lao  động  nhằm  xác  định  các yếu tố nguy cơ và tác hại nghề nghiệp được  triển  khai  rất  rộng  rãi  ở  nhiều  nước  trên  Thế  giới.  Tuy  vậy,  ở  Việt  Nam  việc  triển  khai  đánh  giá  các  chỉ  tiêu  tâm  sinh  lý  lao  động  và  Écgônômi  khi  đo  đạc  MTLĐ  tại  các  doanh  nghiệp, đơn vị hầu như chưa được thực hiện tại  tất cả các tỉnh thành do năng lực các cán bộ y tế  lao động của các tỉnh trong lĩnh vực này lại rất  hạn chế. Mặt khác, theo qui định hiện hành của  Bộ  Y  tế,  các  chỉ  tiêu  tâm  sinh  lý  lao  động  và  Écgônômi phải được khảo sát đo đạc đồng thời  với các chỉ tiêu MTLĐ khác (các chỉ tiêu lý học,  hóa học, bụi và chỉ tiêu sinh học) khi tiến hành

601

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Ðịa điểm và thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu tại 03 công ty may công nghiệp  trên  địa  bàn  khu  vực  Tp.  Hồ  Chí  Minh,  Đồng  Nai và Bình Dương trong khoảng thời gian 2007  – 2008.

Thiết kế nghiên cứu  Mô tả cắt ngang.

công nhân may làm bằng gỗ cứng, không có tựa  lưng.  Chiều  dài  ghế  khoảng  108  ±1  cm,  chiều  rộng 55 ±1 cm, chiều cao cố định khoảng 75 ±1  cm.  Các  mép  nghế  nhìn  chung  cũng  đều  được  bo  tròn,  không  có  cạnh  sắc..  Như  vậy,  các  bàn  máy  may  đã  được  thiết  kế  hoàn  toàn  phù  hợp  với tiêu chuẩn VSLĐ trong thiết kế chiều cao bề  mặt làm việc cho công việc ngồi may của cả nam  và nữ công nhân may(1).

Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

Cỡ  mẫu  chọn  làm  thử  nghiệm  đánh  giá

Bảng 2: Khoảng trống cho chân của công nhân may  (± SD), n= 30

tâm sinh lý lao động : 180 nữ công nhân

Cỡ mẫu chọn làm đánh giá Écgônômi vị trí

lao động : 30 vị trí lao động.

Các khoảng trống Kích thước (cm) 1. Khoảng trống cho đầu gối (theo chiều sâu) 40 ± 1 20 ± 2

Phương pháp phân tích, xử lý số liệu

Xử lý số liệu

2. Khoảng trống cho đùi (mặt ghế - mép dưới bàn) 3. Chiều cao không gian chân 63 ± 2

:Sử  dụng  phần  mềm  EPI‐2000  và

STATISTICA để nhập và xử lý số liệu.

Phương pháp phân tích

Các phương pháp thống kê:

Trung  bình  và  độ  lệch  chuẩn  với  các  biến

định lượng.

Xác  định  sự  khác  biệt  giữa  hai  mẫu  nghiên  cứu  trước  lao  động  (đầu  ca)  và  sau  lao  động  (cuối  ca)  của  công  nhân  bằng  phép  kiểm  t‐test  bắt  cặp  sau  khi  kiểm  định  tính  đồng  nhất  phương  sai  hai  nhóm  nghiên  cứu.  Các  sự  khác  biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Các  bàn  máy  may  công  nghiệp  đều  được  thiết kế có khoảng trống cho chân của công nhân  may  khá  phù  hợp  với  chiều  sâu  khoảng  40  ±  1  cm và với chiều cao 63 ± 2 cm. Nhìn chung là tạo  cho công nhân có thể cử động và di chuyển chân  khá  thoải  mái  khi  ngồi.  Nhìn  chung  là  tạo  cho  công nhân có thể cử động và di chuyển chân khá  thoải  mái  khi  ngồi  và  hoàn  toàn  phù  hợp  với  tiêu chuẩn VSLĐ trong việc thiết kế không gian  để  chân(1).  Những  kết  quả  điều  tra  về  bàn  ghế  làm  việc  của  công  nhân  may  trong  nghiên  cứu  này  cũng  rất  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  gần  đây của Nguyễn Thu Hà (1998)(4) và nghiên cứu  Nguyễn Trinh Hương (2001)(5) về điều kiện làm  việc của một số công ty may ở phía Bắc.

Bảng 3: Vùng thao tác của công nhân may (± SD), n= 30

Sâu (cm) Vùng thao tác Vùng 1 : vùng hoạt động thường xuyên Vùng 2 : vùng hoạt động chính 30 ± 4 40 ± 10 (trước) 70 ± 5 (ra sau)

Kết quả đánh giá các thành phần chính của  vị trí lao động  Bảng1: Kích thước các thành phần vị trí lao động  (±SD), n= 30  Các thành phần vị trí lao động

Kích  thước  bàn  máy  may  công  nghiệp  của  hầu  hết  các  công  ty  may  hiện  nay  là  tương  đối  chuẩn hóa theo nguyên tắc Écgônômi trong thiết  kế. Tuy nhiên, với ghế ngồi của công nhân may  lại đa số không được chuẩn hóa theo các nguyên  tắc  của  Écgônômi  VTLĐ.  Các  nghế  ngồi  cho

Vùng  thao  tác  của  công  nhân  may  cũng  được  thiết  kế  khá  phù  hợp  với  thiết  kế  vùng  hoạt động thường xuyên, vùng thao tác chính ở  ngay  trước  mặt  (vùng  1,  2),  vùng  ít  vận  động  (vùng  3).  Vùng  thao  tác  của  công  nhân  may  cũng  được  thiết  kế  khá  phù  hợp  với  thiết  kế  vùng  hoạt  động  thường  xuyên,  vùng  thao  tác  chính ở ngay trước mặt (vùng 1, 2), vùng ít vận

Kích thước (cm) Chiều dài Chiều rộng Chiều cao Vùng 3: vùng với xa nhất (vùng ít vận động) 1. Bàn may 2. Ghế ngồi 108 ±1 100 ±2 55 ±1 30 ±1 75 ±1 45 ±3

602

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Tên kích thước Trị số đo thực tế (cm) Trị số đo ngưỡng 95%* 55,7 9. Dài mông – đầu gối

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  động (vùng 3), hoàn toàn phù hợp với tính chất  công việc của nghề may công nghiệp và cũng rất  phù hợp với TCVSLĐ của Bộ Y tế(1).

* (theo Bùi Thụ và CTV, 1983(2)

47,6 10. Chiều dài mông - khoeo 54 ± 2 47 ± 2

Bảng 4: Trị số góc giữa các đoạn cơ thể ở tư thế ngồi  may (±SD) n = 90

Tên các góc Trị số góc thực tế (độ) 1. Góc giữa đầu - mình Trị số góc tối ưu (độ) 35 25 35,0 ± 4,6 26,5 ± 3,2

2. Góc giữa đầu - đường thẳng đứng 3. Góc dạng cánh tay khi may 0 4. Góc khuỷu tay 95 0 21,4 ± 7,9 90,5 ± 6,2 22,5 ± 1,5

Do  công  nhân  may  chiếm  hầu  hết  (khoảng  90%)  nên  chúng  tôi  chỉ  chọn  các  nữ  công  nhân  may  để  đánh  giá.  Phân  tích  nhân  trắc  người  công nhân may công nghiệp cho thấy các chỉ số  nhân trắc của họ cũng nằm trong giới hạn trung  bình của ngưỡng 95% của nữ Việt Nam. Các kết  quả  nghiên  cứu  này  cũng  hoàn  toàn  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Thu  Hà,  Trần  Thanh Hà (1998)(4), Trịnh Hồng Lân (1998)(6).

0 25,2 ± 5,1

5. Góc giữa cẳng tay và bàn tay (gấp cổ tay) 6. Góc giữa cẳng tay - bàn tay (duỗi cổ tay) 7. Góc thân - đùi 115 115 8. Góc đùi - cẳng chân 118 10. Góc nhìn 15 – 45 110,5 ± 5,7 102,0 ± 7,8 9. Góc giữa cẳng chân - bàn chân 84,5 ± 18 35,5 ± 3,0

Kết quả đánh giá ảnh hưởng của điều kiện  lao động tới tâm sinh lý lao động của công  nhân   Bảng 6.: Biến đổi huyết áp (HA) của các đối tượng  nghiên cứu trước lao động và sau lao động, n = 180

Huyết áp tối đa TLĐ SLĐ p Đối tượng khảo sát ĐLC ĐLC

Trung bình 103.8 107.5 1,11 1,27 1,31 < 0.05 1,38 < 0.05 Trung bình 110.1 112.4 Huyết áp tối thiểu

Kết  quả  phân  tích  và  đánh  giá  tư  thế  lao  động  của  các  công  nhân  may  cho  thấy,  nhìn  chung người công nhân có tư thế ngồi khá thoải  mái.  Chỉ  có  cổ  tay  của  người  công  nhân  là  thường xuyên phải gấp – duỗi để thực hiện các  thao tác cần thiết khi may các chi tiết áo với một  góc trong khoảng từ 22 – 25o và góc dạng cánh  tay thường duy trì với một góc 21,4 ± 7,9, gây ra  gánh  nặng  cơ  tĩnh  cho  vùng  vai  gáy.  Góc  nhìn  của  người  công  nhân  may  cũng  được  thiết  kế  khá phù hợp đảm bảo cho người lao động quan  sát dễ dàng (khoảng 35,5o), cũng rất phù hợp với  TCVSLĐ của Bộ Y tế(1).

Công nhân may Nhân viên VP Công nhân may Nhân viên VP 68.6 69.2 0,98 0,98 73.6 73.6 0,86 < 0.05 0,89 < 0.05

Tên kích thước

Bảng 5: Trị số nhân trắc một số đoạn cơ thể nữ công  nhân may ở tư thế ngồi (±SD);n = 90  Trị số đo thực tế (cm)

Trị số đo ngưỡng 95%* 40,6 42 ± 1

118,8 115 ± 3

Khảo sát, đánh giá  về  những  thay  đổi  của  huyết áp (HA) của 2 nhóm công nhân may và  nhân viên văn phòng trước lao động (TLĐ) và  sau lao động (SLĐ) cho thấy : ở cả 2 nhóm SLĐ  đều  có  HA  tối  đa  và  tối  thiểu  đều  nằm  trong  giới hạn bình thường. Điều này thể hiện ngành  may mặc là một ngành không đòi hỏi gắng sức  nhiều tới mức làm tăng cao chỉ số HA ở người  lao  động.  Tuy  nhiên,  ở  cả  2  nhóm  đối  tượng  nghiên cứu đều có HA tối đa và tối thiểu SLĐ  đều tăng cao hơn so với TLĐ. Sự thay đổi này  có ý nghĩa thống kê với p <0.05. (Thể hiện tính  chất  công  việc  khác  nhau  nhưng  đều  có  sự  căng thẳng nhất định).

1. Chiều cao ngồi (đất – nếp khoeo) 2. Chiều cao sàn nhà – đỉnh đầu 3. Cao đất – đầu gối 48,1 4. Cao mặt ghế - mào chậu 21,6 5. Chiều rộng mông 38,0 6. Cao ghế - khủyu tay 25,6 69,4 47 ± 1 21 ± 1 37 ± 1 25 ± 1 70 ± 2

78,5 77 ± 2 p

Bảng 7: Biến đổi tần số nhịp tim (TSNT) của các đối  tượng nghiên cứu TLĐ và SLĐ (n = 180)  Tần số nhịp tim Đối tượng khảo

7. Khoảng cách với tối đa ra trước (nắm tay) 8. Khoảng cách từ lưng – với tối đa ra trước

603

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

sát TLĐ SLĐ ĐLC ĐLC nghiệm tăng (%) Trung bình Trung bình ĐLC ĐLC 3,61 4,92 135.3 175.5 < 0.001 29.7

3,31 3,44 Công nhân may Nhân viên VP Trung bình 74.5 75.6 0,58 0,48 Trung bình 85.9 80.6 0,70 < 0.05 0,40 < 0.05 150.8 161.8 < 0.05 7.3

Số lỗi khi khi thực hiên

1.3 0,04 3.3 0,2 <0.001

Khảo  sát  sự  thay  đổi  của  TSNT  của  công  nhân may và nhân viên văn phòng cho thấy tại  thời  điểm  SLĐ  đều  thấy  có  sự  tăng  rõ  rệt  của  TSNT  so  với  TLĐ.  Sự  thay  đổi  này  có  ý  nghĩa  thống kê với p <0.05. Theo Thường qui kỹ thuật  của  Bộ  Y  tế,  2002  thì  công  việc  làm  cho  TSNT  trong  lao  động  khoảng  90  nhịp/phút  chỉ  được  xếp loại gánh nặng thể lực loại I (trong 6 loại)(7).  Như vậy, chúng ta có thể thấy với mức tăng của  TSNT của công nhân ngành may vẫn nằm trong  giới hạn tối đa cho phép, thậm trí là trong vùng  trị số tối ưu. Điều này chứng tỏ nghề may công  nghiệp không đòi hỏi nhiều về thể lực.

1.08 0,01 3.2 0,2 <0.001 Công nhân may Nhân viên VP Công nhân may Nhân viên VP

Bảng 8: Biến đổi cơ lực bàn tay tối đa của các đối  tượng nghiên cứu TLĐ và SLĐ (n = 180)  Cơ lực bàn tay phải SLĐ TLĐ

P Đối tượng khảo sát ĐLC ĐLC

Trung bình 27.1 32.4 0,58 1,23 Trung bình 23.8 30.9 0,51 < 0.05 1,23 < 0.05 Cơ lực bàn tay trái

Khảo sát về khả năng chú ý thông qua thử  nghiệm Platonop cho thấy, thời gian thực hiện  nghiệm  pháp  ở  cả  2  nhóm  công  nhân  may  và  nhân  viên  văn  phòng  ở  thời  điểm  SLĐ  đều  tăng khá nhiều so với thời điểm khảo sát TLĐ.  Trong  đó,  đáng  chú  ý  là  ở  nhóm  công  nhân  may có thời gian thực hiện nghiệm pháp SLĐ  tăng  cao  hơn  so  với  TLĐ  tơi  29,7  %.  Đạt  mức  căng  thẳng  loại  III  theo  hướng  dẫn  của  Thường  qui  kỹ  thuật  của  Bộ  Y  tế,  2002  (mức  căng  thẳng  cao  nhất  là  loại  IV)(7)  (mức  căng  thẳng cao nhất là loại IV). Những sự khác biệt  về  thời  gian  thực  hiện  thử  nghiệm  chú  ý  Platonop  là  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  <  0.001  và  p  <  0.05.  Những  sự  khác  biệt  về  thời  gian  thực  hiện  và  số  lỗi  thực  hiện  vào  thời  điểm  SLĐ này có thể được hiểu là có thể do mức độ  căng thẳng của nhóm công nhân may có phần  nào  cao  hơn  so  với  nhóm  nhân  viên  văn  phòng.

24.1 28.9 0,52 1,15 21 27.6 0,45 < 0.05 1,14 < 0.05 Công nhân may Nhân viên VP Công nhân may Nhân viên VP

Bảng 10 : Biến đổi số lượng chữ cái trong ba phút  của nghiệp pháp Bourdon TLĐ và SLĐ

Số lượng chữ cái tìm được TLĐ SLĐ p Đối tượng khảo sát ĐLC ĐLC

Trung bình 98.0 102.2 2,47 2,19 Trung bình 88.5 95.6 1,99 <0.05 2,20 <0.05

Kết quả khảo sát biến đổi cơ lực bàn tay của  cả 2 nhóm đối tượng khảo sát cho thấy đều có sự  suy giảm rõ vào thời điểm SLĐ so với TLĐ. Sự  thay đổi khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p  <0.05. Những điều này chứng tỏ mặc dù ngành  may không đòi hỏi cơ lực nhiều, nhưng mức độ  gắng sức của công nhân may vẫn cao hơn so với  các  lao  động  gián  tiếp.  Nó  được  thể  hiện  bằng  mức độ suy giảm cơ lực vào thời điểm SLĐ của  công  nhân  may  hơn  hẳn  so  với  nhân  viên  văn  phòng.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  phù  hợp với kết quả nghiên cứu của Trịnh Hồng Lân  (1998)(6) và Nguyễn Bạch Ngọc (1994)(3).

Công nhân may Nhân viên VP Công nhân may Nhân viên VP Số lỗi khi khi thực hiên 1.9 2.28 0,18 0,18 5.6 5.02 0,39 <0.001 0,38 <0.001

P Thời gian thử

Bảng 9: Biến đổi thời gian thực hiện thử nghiệm chú  ý Platonop TLĐ và SLĐ (n = 180)  Đối tượng khảo sát

Kết  quả  khảo  sát  đánh  giá  mức  độ  căng  thẳng  thần  kinh  của  hai  nhóm  công  nhân  may  công nghiệp và nhân viên văn phòng thông qua  nghiệm  pháp  Bourdon  cho  thấy  :  số  lượng  chữ  cái tìm được vào thời điểm SLĐ giảm khá nhiều  so  với  TLĐ  của  cả  2  nhóm  công  nhân  may  và

Thời gian thực hiện SLĐ TLĐ

604

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

số  lượng  chữ  cái  tìm  được  vào  thời  điểm  SLĐ  giảm khá nhiều so với TLĐ. Tất cả những thay  đổi này có ý nghĩa thống kê (p <0.05).

Cơ  lực  bàn  tay  của  cả  2  nhóm  đối  tượng  khảo sát cho thấy đều có sự suy giảm rõ vào thời  điểm SLĐ so với TLĐ. Sự thay đổi khác biệt này  có ý nghĩa thống kê với p <0.05.

KIẾN NGHỊ

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  nhân  viên  văn  phòng.  Sự  khác  biệt  này  là  có  ý  nghĩa thống kê (p < 0.05). Mặt khác, nhóm nhân  viên văn phòng dò tìm được nhiều chữ cái hơn  so với nhóm công nhân may ở cả thời điểm TLĐ  và  SLĐ.  Về  mức  độ  mắc  lỗi  khi  thực  hiện  nghiệm  pháp  Bourdon  cho  thấy,  vào  thời  điểm  SLĐ, công nhân ở cả 2 nhóm đối tượng khảo sát  đều mắc nhiều lỗi hơn so với thời điểm TLĐ. Sự  khác  biệt  này  là  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  <  0.001.

KẾT LUẬN

Qua  các  kết  quả  nghiên  cứu,  chúng  tôi  có

một số kết luận sau :

Để cải thiện điều kiện làm việc và nhằm bảo  đảm năng suất, chất lượng sản phẩm đồng thời  giữ gìn sức khỏe lâu dài cho người lao động của  ngành may công nghiệp, chúng tôi xin có một số  đề  xuất  kiến  nghị  các  công  ty  nên  ưu  tiên  thực  hiện một số giải pháp cải thiện sau :

Ghế ngồi cho công nhân may chưa phù hợp  với các nguyên tắc của Écgônômi : ghế bằng gỗ  cứng, không có tựa lưng, không điều chỉnh được  chiều cao. Tạo ra nguy cơ cao đau thắt lưng cho  công nhân khi phải ngồi liên tục, kéo dài.

Công ty nên trang bị loại ghế ngồi mềm, có  điều  chỉnh  được  chiều  cao  và  có  tựa  lưng  cho  công nhân may công nghiệp để hạn chế đau thắt  lưng cho công nhân.

Các  bàn  máy  may  công  nghiệp  đều  được  thiết kế có khoảng trống cho chân của công nhân  may  khá  phù  hợp  với  chiều  sâu  khoảng  40  ±  1  cm  và  với  chiều  cao  63  ±  2  cm  hoàn  toàn  phù  hợp  với  tiêu  chuẩn  VSLĐ  trong  việc  thiết  kế  không gian để chân.

Để  hạn  chế  gánh  nặng  cơ  tĩnh  cho  vùng  lưng  và  vùng  vai  gáy  dễ  gây  rối  loạn  cơ  xương, các Công ty nên cố gắng tạo điều kiện  cho người lao động thường xuyên thay đổi tư  thế trong ca làm việc, tổ chức tập thể dục giữa  giờ, cho người lao động nghỉ ngắn 5 – 10 phút  sau mỗi 2 giờ làm việc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. 2. 3.

4.

Vùng thao tác của công nhân may được thiết  kế  khá  phù  hợp  với  thiết  kế  vùng  hoạt  động  thường xuyên, vùng thao tác chính ở ngay trước  mặt (vùng 1, 2), vùng ít vận động (vùng 3), hoàn  toàn  phù  hợp  với  tính  chất  công  việc  của  nghề  may  công  nghiệp  và  cũng  rất  phù  hợp  với  TCVSLĐ.

5.

Các  chỉ  số  nhân  trắc  của  công  nhân  may  nằm trong giới hạn trung bình của ngưỡng 95%  của  nữ  Việt  Nam.  Góc  nhìn  được  thiết  kế  phù  hợp.

6.

7.

Bộ Y tế (2003). Tiêu chuẩn Vệ sinh lao động, NXB Y học, 2003.   Bùi Thụ (1983). Nhân trắc Ecgonomi. Nhà xuất bản Y học   Nguyễn  Bạch  Ngọc  và  C.S  (1994),  “Ðánh  giá  Ecgonomi  ÐKLРtại một phòng máy  vi  tính”,  Tập  san  Viện  YHLР và  VSMT, số 7, tr.35 ‐ 38.  Nguyễn  Thu  Hà  và  CS  (1998).  Tình  hình  đau  thắt  lưng  của  công nhân làm việc với tư thế bất lợi tại một cơ sở. Báo cáo đề  tài NCKH, Viện YHLÐ.  Nguyễn Trinh Hương (2001), “Đánh giá điều  kiện  lao  động  trong ngành may công nghiệp ở Việt Nam và đề xuất những  biện pháp cải thiện”, Tập san An toàn – Sức khỏe & MTLĐ,  Hà Nội. (Số 1,2), tr. 11 – 16.  Trịnh Hồng Lân (1998). Can thiệp ecgonomi để cải thiện điều  kiện làm việc tại một số Vị trí lao động. Luận văn Thạc sỹ y  học 1998. Đại học Y Hà Nội.  Viện YHLРvà VSMT (2002), Thường qui kỹ thuật YHLРvà  VSMT, Bộ Y tế. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

Có  sự  tăng  rõ  rệt  của  tần  số  nhịp  tim,  tăng  huyết áp tối đa và tối thiểu, tăng thời gian thực  hiện  và  số  lỗi  mắc  khi  thực  hiện  nghiệm  pháp  Platonop  vào  thời  điểm  sau  lao  động  so  với  trước lao động, Nghiệm pháp Bourdon cho thấy

605

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

KLEBSIELLA PNEUMONIAE VÀ ENTEROBACTER HORMAECHEI   SỞ HỮU GEN blaKPC ĐỀ KHÁNG CARBAPENEM TẠI VIỆT NAM

Trần Nhật Phương*, Phạm Hùng Vân**

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Carbapenem, kháng sinh dự trữ cuối cùng cho các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng đã bị vô  hiệu hóa bởi một số vi khuẩn gram âm. Sự bùng phát dịch bệnh do K. pneumoniae và một số vi khuẩn đường  ruột có mang gen mã hóa cho β‐lactamase KPC đang là một vấn đề quan ngại trong lâm sàng trên toàn thế giới.

Mục tiêu nghiên cứu: Báo cáo ghi nhận sự đề kháng carbapenem tại Việt Nam trên K.pneumoniae và Ent.

hormaechei là do sở hữu gen mã hóa cho enzyme β‐lactamase KPC (blaKPC).

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Độ nhạy kháng sinh (KS) của các K.  pneumoniae này được thực hiện theo

phương pháp MIC và kỹ thuật giải trình tự xác định gen blaKPC.

Kết quả: Thử nghiệm độ nhạy cảm theo CLSI, xác định MIC, xác nhận gen blaKPC bằng kỹ thuật PCR và  giải trình tự các gen này, 9 chủng K. pneumoniae và 1 chủng Ent.hormaechei trong số 21 mẫu nghiên cứu mang  gen blaKPC‐2.

Kết  luận: cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn của sự gia tăng đề kháng carbapenem bởi tác nhân này đồng thời

cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh trên diện rộng.

Từ khóa: K.pneumoniae, Ent. hormaechei, KPC, carbapenem, kháng thuốc

ABTRACT

CARBAPENEM RESISTANT KLEBSIELLA PNEUMONIAE AND ENTEROBACTER HORMAECHEI  POSSESSING BLAKPC GENES IN VIET NAM

Tran Nhat Phuong, Pham Hung Van

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012:  606 ‐ 609

Backgroud: Having reserved as a last line antimicrobial of defense against serious and invasive infection,  carbapenems are used to treat life‐threatening infections of extremely drug resistant  gram  negative  pathogens.  The  emergence  of  epidemics  causing  by  K.  pneumoniae  possessing  KPC  b‐lactamase  is  world‐wide  clinical  concerns. The encoding genes for this enzyme have been confirmed on conjugated plasmid that can be transmitted  from  one  species  to  another.  Routine  testing  based  on  existing  break‐points  may  make  false  identify  of  KPC  producers as susceptible ones. This can be risk potential of increasing illness, deaths, longer stay in hospital and  spreading of infection.

Objectives: Report about resistance antibiotics carbapenem of K.pneumoniae and Ent. hormaechei in Viet

Nam causing by genes coded enzyme (cid:31)‐lactamase KPC (blaKPC).

Methods:  the  sensitivily  of  antibiotics  for  K.  pneumoniae  by  MIC  and  determine  gen  blaKPC  by

sequencing technique.

Results: 9 strains of K.pneumoniae and 1 strain of Enterobacter hormaechei among 21 strains resistance to  carbapenem  were  confirmed  positive  with  both  carbapenemase  activity  and  blaKPC  gene.  Amplicons  were  bidirectionally sequenced on ABI 3130XL Genetic Analyser by BigDye terminator method and all are KPC‐2.

**Trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.

∗ Công ty Nam Khoa  Tác giả liên lạc: Ths. Trần Nhật Phương  ĐT: 0913881887

Email: sunphuong2000@yahoo.com

606

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Conclusion: KPC producing K. pneumoniae and Ent. Hormaechei in this report show that it is a potential

risk for clinical diseases and infection control if they are to spread in hospital or community.

Key words: K.pneumoniae, Ent. hormaechei, KPC, carbapenem, antimicrobial resistance

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

đa

Các

và  mồi

chuyên

biệt(8)

Carbapenem  là  loại  kháng  sinh  dự  trữ  cuối  cùng để điều trị bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng  hay  nhiễm  trùng  do  xâm  lấn  đe  dọa  đến  tính  mạng của bệnh nhân gây ra bởi các vi khuẩn gây  bệnh gram âm(9). Sự bùng phát dịch bệnh nhanh  chóng  do  Klebsiella  pneumoniae  tiết  men  K.  pneumoniae carbapenemase (KPC), là một vấn đề  nan giải hiện nay(1,10). Enzyme β‐lactamases KPC  thuộc  nhóm  enzyme  serine  carbapenemases  và  thường  đựơc  phát  hiện  ở  K.  pneumoniae  và  Escherichia  coli.  Enzyme  này  thủy  phân  và  làm  giảm  hoạt  lực  của  hầu  hết  các  KS  β‐lactam  và  hiện nay đã đuợc phát hiện có ở nhiều nhóm VK  đường  ruột  như  K.  oxytoca,  Enterobacter  spp.,  Salmonella  spp.,  Citrobacter  freundii,  and  Serratia  spp. và ở Pseudomonas aeruginosa(9).

Độ nhạy KS của các K. pneumoniae này được  thực hiện theo phương pháp đề nghị bởi CLSI[1].  MIC  được  xác  định  bằng  phương  pháp  pha  loãng  nồng  độ  kháng  sinh  sử  dụng  các  chủng  chuẩn  E.  coli  ATCC  25922  và  K.  pneumoniae  ESBL(+)  ATCC  700603.  Các  chủng  đối  chứng  được  sử  dụng  trong  xác  định  phenotype  bằng  kỹ  thuật  Hodge  test  là  K.  pneumoniae  KPC  (+)  ATCC  1705  và  K.  pneumoniae  KPC(‐)  ATCC  năng(7)  đoạn  mồi  1706(2).  blaKPCuF:5’CAGCTCATTCAAGGGCTTTC‐ 3’;blaKPCu‐R:5’AGTCATTTGCCGTGCCATAC‐ blaKPC‐F:  3’;  5’TGTCACTGTATCGCCGTCTAG3’;  blaKPCR:5’TACTGCCCGTTGACGCCCAATCC ‐3’  mã  hóa  cho  gen  blaKPC,  được  khuếch  đại  với  chu  trình  nhiệt:  950C/5  phút  ;  40  chu  kỳ  ở  940C/30giây,  550C/30  giây,  720C/1  phút  và  720C/10 phút trên máy PCR MyCycler (Bio‐Rad,  Mỹ).  Các  sản  phẩm  PCR  được  giải  trình  tự  hai  chiều  bằng  phương  pháp  BigDye  Terminator  trên máy ABI 3130XL Genetic Analyser (Applied  Biosystem, Mỹ). Kết quả giải trình tự được phân  tích so sánh trực tuyến với các trình tự chuẩn đã  được  công  bố  trên  chương  trình  BLAST  của  NCBI. Kết quả được thống kê mô tả và phân tích  trên phần mềm excel.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Gen  blaKPC  được  xác  định  hiện  diện  trên  plasmid  do  vậy  chúng  có  thể  được  chuyển  từ  nhóm VK này sang nhóm  VK  khác,  đây  là  vấn  đề đáng ngại trong kiểm soát lây nhiễm(5). Có rất  ít thuốc KS được dùng trong điều trị các bệnh do  các  nhóm  VK  tiết  men  β‐lactamases  này,  đó  là  aminoglycosides,  glycylcyclines,  polymyxins,  hay kết hợp KS(9). Mối quan tâm hàng đầu hiện  nay là các phương pháp phát hiện các nhóm VK  tiết KPC dựa trên điểm giới hạn (break point) có  những hạn chế do vậy có thể gây nên vấn đề gia  tăng tỷ lệ bệnh và tử vong, hay phải điều trị lâu  dài cũng như là sự lan truyền của bệnh trong BV  và cộng đồng.

Trong  thời  gian  12  tháng  từ  tháng  6  năm  2010 đến tháng 6 năm 2011, 18 trong số 21 chủng  phân lập từ bệnh phẩm ở nhiều bệnh viện được  nghiên  cứu  đề  kháng  với  ít  nhất  một  carbapenem nhưng chỉ có 9 chủng là các chủng  có  ESBL  dương  tính.  1  chủng  là  E.  absureae  dương tính với hoạt tính carbapenemase nhưng  âm  tính  với  gen  blaKPC;  9  chủng  Klebsiella  pneumoniae  và  1  chủng  Enterobacter  hormacheii  được  xác  nhận  dương  tính  với  cả  thử  nghiệm  Hodge và gen blaKPC.

Tháng  6  năm  2010  đến  tháng  6  năm  2011,  phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Triển khai của  Công  ty  Công  Nghệ  Sinh  Học  Nam  Khoa,  TP.  Hồ Chí Minh nhận được các mẫu bệnh phẩm tại  các bệnh viện ở Việt Nam từ những bệnh nhân  nhiễm trùng huyết và đã xác nhận được đây là  các chủng K. pneumoniae tiết men KPC. Các bệnh  nhân được xác nhận không đi du lịch hay chữa  bệnh  tại  các  khu  vực  có  sự  hiện  diện  KPC  trên  thế giới đã được công bố.

607

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Bảng 1: Đặc điểm kháng đa kháng sinh, ESBL và có kiểu hình KPC (+) của các chủng kháng đa kháng sinh phân  lập tại Việt Nam

blaKPC ID Kết quả định danh ESBL Hodge

K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae

Trước  khi  giải  trình  tự,  sản  phẩm  PCR  dương tính với gen blaKPC được tinh sạch bằng  QIAquick PCR purification (Qiagen, Mỹ) và xác  định nồng độ cũng như độ tinh sạch bằng điện  di trên chip (Agilent 2100 Analyser) cho kết quả  độ tinh sạch cao với các sản phẩm kích thứơc ổn  đinh trong khoảng 408 – 411bp.

khoảng 359bp thì có thể xác định enzyme được  mã  hóa  là  KPC‐2.  Trên  cơ  sở  đó,  chúng  tôi  sử  dụng  phần  mềm  Primer  Premier  5.0  (Premier  Biosoft,  Mỹ)  để  tìm  vị  trí  cắt  giới  hạn  của  enzyme  này  trên  các  gen  blaKPC  dương  tính  nhằm xác định kiểu gen này trong nghiên cứu.  Kết  quả  cho  thấy  chỉ  có  duy  nhất  một  trình  tự  cắt  bởi  BstNI  tại  các  vị  trí  từ  358  –  362bp  ở  các  chủng  có  chứa  gen  blaKPC.  Như  vậy  có  thể  khẳng  định  các  chủng  có  blaKPC  dương  tính  trong nghiên cứu của chúng tôi  thuộc  kiểu  gen  KPC‐2 (hình1).

Kết  quả  giải  trình  tự  các  gen  blaKPC  này  được  so  sánh  với  các  trình  tự  tham  khảo  trên  ngân  hàng  NCBI  với  độ  tương  đồng  98  ‐  100%  so  với  trình  tự  mang  mã  số  GI23484176  của  K.  pneumoniae ATCC 1705.

K. pneumoniae tiết men KPC được phát hiện  lần  đầu  tiên  tại  một  bệnh  viện  ở  Bắc  Carolina  năm  2001,  và  đã  lan  tràn  lên  đến  35  tiểu  bang  của nứơc Mỹ(6). Sau đó đã được phát hiện tại các  quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ  khác  như  ở  Pháp  năm  2005,  Nam  Phi  năm  2006  (Villegas),  Israel  (Leavit,  2007),  Hy  Lạp  (Cuzon,  G.  2008),  Trung  Quốc năm 2008 (Ze‐Qing Wei, và cs)(4).

Để  phân  biệt  3  loại  blaKPC1,2,3  Justin  M.  Cole  và  cộng  sự(3)  dựa  trên  kết  quả  điện  di  sản  phẩm PCR của gen blaKPC sau khi ủ với 2 loại  enzyme  cắt  giới  hạn  BstNI  và  RsaI.  Nếu  sản  phẩm điện di chỉ cho một vạch duy nhất là KPC‐ 1;  nếu  sản  phẩm  cho  là  2  hoặc  3  vạch  thì  sẽ  là  KPC‐2 và KPC‐3 theo thứ tự đó. Ngoài ra, khi xử  lý bằng enzyme BstNI, nếu trình tự mã hóa bla‐ KPC  bị  cắt  ở  nucleotide  C  tại  các  vị  trí  trong

1 2 3 4 5 Enterobacter asbureae 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae E. hormaechei K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae Shigella boydii K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae K. pneumoniae - - + - - - - + - + + - - + + + + - - + - Biện luận theo đường kính vòng vô khuẩn Mero R R R R I R R S R R S R R S S R S R R I R Imi R R R R R R R S R R S R R S S R S R R S R Biện luận theo Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) ERT MERO DORI R R R I I R R S R R S R I S S R S R R S S R R R R R R R R R R S R R S R R S R R R R R R R I R R R S R R S R I S S R S I R R R - + + + + + + - + - - + + + - + - + - + - KPCu - + + + - + + - + - - + + - - - - + - + - KPC - + + + - + + - + - - + + - - - - + - + -

608

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

có  hoạt  tính  carbapenemase  nhưng  không  phát  hiện  gen  blaKPC.  Điều  này  là  do  phương  pháp  cloverleaf  (MHT)  chỉ  dùng  để  phát  hiện  hoạt  tính  carbapenemase  chứ  không  phân  biệt  được  các loại enzyme carbapenemases.

KẾT LUẬN

Cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn của sự gia tăng  đề  kháng  carbapenem  bởi  K.  pneumoniae  và  Enterobacter  mang  gen  blaKPC,  là  một  vấn  đề  đáng  quan  tâm  trong  kiểm  soát  sự  lây  lan  của  dịch bệnh trên diện rộng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

Hình 1: 1 điểm cắt giới hạn của enzyme BstNI tại vị  trí 358 bp và 361bp trên trình tự blaKPC dương  tính.

Institute

and  Laboratory  Standard

2.

(2010),  for  Antimicorbial  Susceptibility

3.

4.

5.

6.

(Landman,

baumannii

7.

Mặc  dù  chưa  có  điều  kiện  thực  hiện  việc  kiểm  tra  độ  tương  đồng  về  di  truyền,  sự  hiện  diện  của  gen  mã  hóa  cho  enzyme  KPC‐2  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  ở  9  chủng  K.  pneumoniae  và  1  chủng  Ent. hormaechei  cho  thấy  sự đề kháng với carbapenem trong các vi khuẩn  gây  bệnh  ở  Việt  Nam  cũng  là  một  vấn  đề  cần  quan tâm trong lâm sàng bởi vì gen kháng này  cũng  đã  đựơc  phát  hiện  do  lan  truyền  từ  K.  pneumoniae cho các vi khuẩn gram âm khác trên  thế  giới  như  tại  Mỹ:  K.  oxytoca  (Yigit,  2003),  (Miriagou,  2003),  E.  coli,  Israel  Sallmonella  (Navon‐venezia,  2006),  Pseudomonas  aeruginosa,  Acinobacter  2007),  Enterobacter  ở  Anh  (Woodford,  2007),  Serratia  marcescens ở Trung Quốc (Zhang, 2007), E. coli và  Enter. cloacae ở Pháp (Petrella, 2008)(4).

8.

spread

states,

35

Bradford  PA,  Bratu  S,  Urban  C,  Visalli  M,  Mariano  N,  Landman  D  (2004),  Emergence  of  carbapenem‐resistant  Klebsiella  species  possessing  the  class  A  carbapenem‐ hydrolyzing  KPC‐2  and  inhibitor‐resistant  TEM‐30  β‐ lactamases in New York City. Clin Infect Dis. 39:55–60.  Clinical  Performance  Standards  Testing: Twenty Information Supplement, 30, M100‐S20.  Cole, JM., et al. (2009).ʺDevelopment and evaluation of a real‐ time  PCR  assay  for  detection  of  Klebsiella  pneumoniae  carbapenemase genesʺ, Journal of clinical microbiology. 47(2),  322‐326.  Gootz TD et al., 2009, “Genetic Organizartion of Transposase  regions  surrouding  blaKPC  carabapenemase  genes  on  plasmids  from  klebsiella  strains  isolated  in  a  New  York  city  hospital”,  Antimicrobial  Agents  and  Chemotherapy,  53,  5:  1998 – 2004.  Grobner  S  et  al.  (2009).ʺEmergence  of  carbapenem‐non‐ susceptible  extended‐spectrum  {beta}‐lactamase‐producing  Klebsiella  pneumoniae  isolates  at  the  university  hospital  of  Tubingen, Germanyʺ, Journal of medical microbiology. 58(7),  p. 912‐922.  Naas T, Cuzon G, Villegas MV, et al (2008), Genetic structures  at  the  origin  of  acquisition  of  the  β‐lactamase  blaKPC  gene.  Antimicro Agents Chemother.52:1257–63.   Pournaras S, Protonotariou E, Voulgari E, et al (2009), Clonal  spread  of  KPC‐2  carbapenemase‐producing  Klebsiella  pneumoniae  strains  in  Greece  Journal  of  Antimicrobial  Chemotherapy.  Sternberg S, USA TODAY, 2010, “Drug‐resistant ʹsuperbugsʹ  hit  worldwide”  http://www.usatoday.com/yourlife/health/medical/2010‐09‐17‐ 1Asuperbug17_ST_N.htm).

9. Walther‐Rasmussen

J,  Hiby  N.

(2007),  Class  A

carbapenemases. J Antimicrob Chemother. 2007;60:470–82.

10. Woodford N,  Tierno  PMJr,  Young  K,  Tysall  L,  Palepou  MF,  Ward E (2004), Outbreak of Klebsiella pneumoniae producing  a new  carbapenem‐hydrolyzing  class  A  β‐lactamase,  KPC‐3,  in  a  New  York  medical  center.  Antimicrob  Agents  Chemother.48:4793–9.

Nguy cơ tiềm ẩn của sự lan truyền các chủng  tiết  men  blaKPC  và  một  số  giới  hạn  trong  việc  phát hiện (do MIC đối với carbapenem thấp hơn  so  với  chuẩn  đề  nghị  bởi  CLSI)  là  một  vấn  đề  cần  đặt  ra  trong  việc  phát  triển  phương  pháp  phát hiện chính xác enzyme này. Vì có thể xảy ra  hiện  tượng  đồng  biểu  hiện  với  các  β‐lactamase  khác  như  trong  trường  hợp  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  với  sự  hiện  diện  của  1  chủng  Ent.  absureae (5) và 2 chủng K. pneumoniae (14 và 16)

609

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

DỊCH TỄ HỌC PHÂN TỬ VI RÚT CA CÚM A(H3N2)v   ĐẦU TIÊN TRÊN NGƯỜI TẠI VIỆT NAM

Nguyễn Thanh Long*, Trần Ngọc Hữu*, Nguyễn Thu Ngọc *, Nguyễn Hoàng Anh*,Nguyễn Trung Hiếu*,

Hoàng Minh*, Nguyễn Thị Thanh Thương*, Nguyễn Thị Ngọc Thảo*,Đặng Thanh Giang*,

Phạm Thị Nhung*, Nguyễn Thị Minh Phượng

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Tại Hoa Kỳ sự lây nhiễm vi rút cúm từ heo sang người vẫn tiếp tục được ghi nhận,vi rút cúm  chủng A(H3N2)v phân lập trên người mới đây thừa hưởng 7 gen từ vi rút cúm H3N2 tái tổ hợp (TRS‐H3N2)  Bắc Mỹ và gen M từ vi rút cúm đại dịch A(H1N1) 2009. Toàn bộ vi rút cúm tái tổ hợp (H3N2)v có đặc tính  kháng nguyên rất gần với chủng vi rút cúm A/Minnesota/11/2010 là chủng được đưa ra chọn lựa làm vắcxin  (reassortant X‐203)(2).. Mặc dù sự lây nhiễm vi rút cúm từ heo sang người là không thường xuyên nhưng sự  phát hiện ra chủng cúm mới này chỉ ra một khả năng tái tổ hợp hơn nữa của virút cúm này dẫn đến sự hình  thành chủng mới có khả năng lan truyền từ người sang người. Tại Việt Nam, một nghiên cứu năm 2010 đã phát  hiện 6 ca cùng chủng H3N2 tái tổ hợp trên heo(2). Nhằm mục đích xem chủng cúm này đã có ở người tại Việt  Nam hay chưa, Trung Tâm Cúm Quốc Gia –Viện Pasteur TP.Hồ Chí Minh đã xét nghiệm hồi cứu toàn bộ ca  H3N2 phân lập được tại miền nam Việt nam trong năm 2011.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự hiện diện chủng virút cúm mới tại Việt Nam.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Mô tả, sau khi nhận được cảnh báo về vi rút cúm A(H3N2v)của Trung tâm  kiển soát các bệnh nhiễm Hoa ký (CDC) ngày 26/11/2011, Tháng 12 năm 2011 toàn bộ 14 ca người Việt nhiễm  A(H3N2) được phát hiện từ tháng 1 đến tháng 11năm 2011 tại miền nam Việt Nam được xét nghiệm thêm theo  kiến nghị của của Trung tâm kiểm soát các bệnh nhiễm Hoa ký (CDC)(Laboratory detection of Swine‐Origin  Triple Reassortant Influenza A(H3N2) with the A(H1N1)pdm09 virus M gene (SOIVtrH3N2‐M)(1).

Kết quả nghiên cứu: Phát hiện 01 ca A(H3N2)v

Kết luận: Cúm A(H3N2)v đã được xác định trên người tại Việt Nam.

Từ khóa: A(H3N2)v ; (TRS‐H3N2) ; A(H1N1) 2009 ; Reassortant X‐203; SOIVtrH3N2‐M

ABSTRACT

BIOLOGY MOLECULE OF THE FIRST CASE INFLUENZA A(H3N2)v IN VIET NAM

Nguyen Thanh Long, Tran Ngoc Huu, Nguyen Thu Ngoc, Nguyen Hoang Anh, Nguyen Trung Hieu,

Hoang Minh, Nguyen Thi Thanh Thuong, Tran Ngoc Thao, Dang Thanh Giang,Pham Thi Nhung,

Nguyen Thi Minh Phuong, Phan Cong Hung

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 610 ‐ 612

Background:  Human cases of swine influenza infection have been occurring in the Unites States.H3N2v  viruses  isolated  from  human  cases  recently  inherited  7  gene  segments  from  tr‐H3N2  North  American  swine  viruses and the M gene from a human H1N1pdm09 virus. All H3N2v viruses tested are antigenically close to  A/Minnesota/11/2010  vaccine  candidate  (reassortant  X‐203).  Although  the  infections  appear  infrequently,  the  isolation of Swine origin viruses from humans repeatedly demonstrates the potential of further reassortment of

∗ Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thành Long  ĐT: 0918126554

Email: longpasteurhcm@yahoo.com

610

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  such virus with other viruses which may be resulted in efficient transmission of novel viruses among humans.  Strengthening influenza surveillance plays a key role in early detection and dentification of novel influenza virus.  In Viet Nam, a study identified 6 cases of Swine A(H3N2)v in 2010(2). In order to indentify whether A (H3N2)v  influenza virus appear in human, the National Influenza Centre of Ho Chi Minh city Pasteur institute conducted  this study in 2011.

Objectives: Determining the presence new strain of influenza in Vietnam.

Method: Descriptive study. After received the warning of CDC about H3N2 virus on 26 November, 2011,  all of 14 Vietnamese cases infected with H3N2 who were identified from January to December 2011 in southern  Vietnam  were  tested  by  laboratory  detection  of  Swine‐Origin  Triple  Reassortant  Influenza  A(H3N2)  with  the  A(H1N1)pdm09 virus M gene (SOIVtrH3N2‐M)(1).

Results: one new strain of A(H3N2) was isolated from the 14 isolations of A(H3N2) in 2011.

Conclusion: The first Human case of influenza virus A(H3N2)v have been detected in Viet Nam in 2011.

Keyword: A(H3N2)v ; (TRS‐H3N2) ; A(H1N1) 2009 ; Reassortant X‐203; SOIVtrH3N2‐M

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mục tiêu nghiên cứu

Vi  rút  cúm  H3N2  lưu  hành  trên  người  từ  1968 và có mối liên hệ với những ca bệnh phức  tạp ở người trẻ tuổi, hơn nữa dịch gây nên bởi  H3N2 có bệnh cảnh trầm trọng hơn so với cúm  mùa  H1N1  và  cúm  B.  Năm  1997‐1998  vi  rút  cúm người H3N2 nhiễm vào heo và lan truyền  rộng rãi trên heo tại Bắc Mỹ, chủng H3N2 này  có  tên  là  TRS  H3N2  (Triple‐reassortant  swine  H3N2).  Chủng  cúm  TRS‐H3N2  có  đặc  điểm:  gen PB1 của chủng này có nguồn gốc từ vi rút  cúm người, gen PB2 và PA có nguồn gốc từ vi  rút  cúm  gia  cầm,  ba  gen  NP,  M  và  NS  có  nguồn  gốc  từ  vi  rút  cúm  heo,  chủng  này  đã  được phân lập trên heo tại Hoa Kỳ.

Tại  Hoa  Kỳ  Từ  1990  đến  2010  một  biến  chủng  của vi rút A(H3N2) xuất hiện với tên A(H3N2)v  được báo cáo, chủng này lúc đầu lan truyền có  tính gới hạn trên heo, chỉ có 1 ca duy nhất trên  người  được  báo  cáo,  nhưng  chỉ  trong  vòng  hai  tháng 9 và 10 năm 2010 đã phát hiện được 5 ca,  cả 5 ca này đều sống sót, 2 trong 5 ca phải nhập  viện.  Chỉ  có  12  ca  A(H3N2)v  tại  Hoa  Kỳ  trong  năm 2011 là bằng chứng về lây truyền từ người  sang người rất giới hạn.

Vi  rút  A(H3N2)v  2011  gần  như  đồng  nhất  với các vi rút A(H3N2)v phát hiện trước đó hai  năm  chỉ  có  gen  M  là  có  nguồn  gốc  từ  A(H1N1)pdm2009,  đặc  tính  kháng  nguyên  của  A(H3N2)v  có  nhiều  khác  biệt  với  cúm  mùa  H3N2  của  những  năm  1990  trở  về  trước  tuy  nhiên vẫn có một tỷ lệ nhỏ phản ứng chéo giữa  hai  chủng  này.  Đa  số  các  ca  trên  người  đều  có  tiền sử tiếp xúc với heo.

Tại  Việt  Nam  trong  năm  2010  đã  phát  hiện

ra 6 ca tại tỉnh Bình Dương(2).

611

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Câu  hỏi  được  đặt  ra  là  chủng  này  có  trên

người tại Việt Nam chưa?

giống

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Chủng  A(H3N2)v  Hoa  kỳ  2011  có  7  gen(HA,NA,PB1,PB2,PA,NP,NS)  với  chủng  A(H3N2)v  2005‐2010  Hoa  kỳ,gen  M  của  chủng  A(H3N2)v  2005‐2010  có  nguồn  gốc  từ  chủng  cúm  heo  nguyên  thủy  còn  gen  M  của  chủng  A(H3N2)v  Hoa  kỳ  2011  lại  có  chung  nguồn  gốc  với  gen  M  của  chủng  A(H1N1)pdm  2009(cúm heo Á‐Âu)

Tất  cả  các  ca  dương  tính  với  vi  rút  cúm  A(H3N2)  trên  người  tại  Việt  Nam  được  phát  hiện trong năm 2011 tại Trung Tâm Cúm Quốc  Gia ‐ Viện Pasteur TP.Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu

Chủng A(H3N2)v Việt Nam 2011 có toàn bộ  8 gen có nguồn gốc giống với chủng A(H3N2)v  2011 của Hoa kỳ, Toàn bộ 7 genes (HA,PB2, PB1,  PA,  NP,  M,  NS)  có  nguồn  gốc  giống  với  virút  A(H1N1)pdm20009,Chỉ  có  duy  nhất  gen  NA  là  có nguốn gốc khác biệt.

KẾT LUẬN

Hồi  cứu  là  phương  pháp  được  vận  dụng  trong  nghiên  cứu  này.Toàn  bộ  14  ca  H3N2  đã  được phát hiện trong năm 2011 được xét nghiệm  thêm theo thường qui được khuyến cáo của Tổ  chức  Y  Tế  thế  Gới(WHO)  và  trung  tâm  Kiểm  Soát  Bệnh  Truyền  Nhiễm  Hoa  Kỳ(CDC‐US)  bằng  phương  pháp  Realtimes  Rt‐PCR  sử  dụng  bốn  bộ  mồi  và  probe  cho  H1,H3,pdminfA  và  pdmH1 của CDC4.

Qua xét nghiệm hồi cứu toàn bộ 14 ca H3N2  (được phân lập tại Trung Tâm Cúm Quốc Gia ‐  Viện Pasteur TP.HCM năm 2011) bằng phương  pháp  Realtime  RT‐PCR  tại  Trung  Tâm  Cúm  Quốc Gia ‐ Viện Pasteur TP.HCM và Sequencing  tại  CDC  Hoa  Kỳ  đã  phát  hiện  ra  chủng  A(H3N2)v trên người tại Việt Nam.

Phương  pháp  xét  nghiệm  tại  Trung  Tâm  Cúm  Quốc  Gia  ‐  Viện  Pasteur  TP.HCM  là  Realtime  RT‐PCR,  tại  CDC  Hoa  Kỳ  là  Realtime  RT‐PCR và Sequencing.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Trong tổng số 14 ca H3N2, phát hiện ra 01 ca  A(H3N2)v  trên  người  đầu  tiên  tại  Việt  Nam  làmột bé gái sinh năm 2009 sống tại thành  phố  Hố Chí Minh.

Xin chân thành cảm ơn Alexander Klimov, Xiyan Xu, Stephen  Lindstrom – Trung tâm kiểm soát bệnh truyền nhiễm (Centers  for  Disease  Control  and  Prevention)  Hoa  Kỳ).  BK  Kapella‐ CDC‐Việt Nam. Mendsaikhan Jamsran‐Văn phòng Tổ chức Y  Tế thế gới tại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  1.

2.

Chủng  A(H3N2)v  2005‐2010  của  Hoa  kỳ  có  ba gen (HA,NA,PA) có nguồn gốc từ chủng cúm  nguyên thủy H3N2 người,hai gen (PB1, PB2) có  nguồn  gốc  từ  gia  cầm  Bắc  Mỹ,  ba  gen  (NP,M,NS)  có  nguồn  gốc  từ  cúm  heo  nguyên  thủy.

Guidance  to  laboratories  using  CDC  real‐time  RT‐PCR  diagnostic  kits‐Laboratory  detection  of  Swine‐Origin  Triple  Reassortant  Influenza  A(H3N2)  with  the  A(H1N1)pdm09  virus M gene(SOIVtrH3N2‐M)‐  http:/www.who.int/influenza/resources/document/manual  dianosis surveillance influenza/en/index.html  Long  TN,  Yasuaki  H,  Vu  PP,  Ha  TH  Le,  Ha  TN,Vu  TL,  Nobuhiro  T,  Takehiko  S  (2010)  Isolation  of  novel  triple‐ reassortant  swine  H3N2  influenza  viruses  possessing  the  hemagglutinin  and  neuraminidase  genes  of  a  seasonal  influenza  virus  in  Vietnam  in  2010.Influenza  and  Other  Respiratory Viruses DOI: 10.1111/j.1750‐2659.2011.00267.x.

612

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

THỰC TRẠNG CẢI THIỆN ĐIỀU KIỆN LÀM VIỆC CỦA CÁC ĐƠN VỊ  SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG TỪ NĂM 2005‐2010

Hồ Hoàng Vân*, Nguyễn Văn Chinh*

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Kết quả đo kiểm môi trường lao động có được các đơn vị sử dụng lao động làm cơ sở để cải

thiện điều kiện làm việc hay họ chỉ thực hiện theo quy định là chưa rõ.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự cải thiện các chỉ tiêu không đạt tiêu chuẩn 3733/ QĐ‐BYT về vi khí  hậu, ánh sáng, tiếng ồn, bụi, hơi khí độc của các đơn vị sử dụng lao động thực hiện kiểm tra môi trường lao  động tại TT Sức Khỏe Lao Động Môi Trường tỉnh Bình Dương từ năm 2005 đến năm 2010.

Phương  pháp  nghiên  cứu:  Thiết kế so sánh trước sau được tiến hành trên những đơn vị sử dụng lao

động thực hiện kiểm tra môi trường lao động tại TT Sức Khỏe Lao Động Môi Trường tỉnh Bình Dương.

Kết quả: Các đơn vị sử dụng lao động kiểm tra môi trường lao động đầy đủ (mỗi năm đều định kỳ kiểm  tra một lần) không cải thiện các chỉ tiêu không đạt tiêu chuẩn về vi khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, bụi, hơi khí  độc theo những khuyến nghị mà cơ quan chức năng cung cấp. Những đơn vị sử dụng lao động tuân thủ  không đầy đủ (kiểm tra môi trường lao động nhưng không liên tục qua các năm) chỉ cải thiện chỉ tiêu không  đạt về ẩm độ, tóc độ gió nhưng lại gia tăng tỷ lệ không đạt về ánh sáng (p<0,05).

Kết luận: Các đơn vị sử dụng lao động chưa sử dụng kết quả kiểm tra môi trường lao động để làm cơ sở

cải thiện điều kiện lao động.

Từ khóa: Môi trường lao động, vi khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, bụi, hơi khí độc

ABSTRACT

IMPROVEMENT OF WORKING ENVIRONMENT  OF LABOR EMPLOYERS  AT BINH DUONG PROVINCE FROM 2005 TO 2010.

Ho Hoang Van, Nguyen Van Chinh

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2012: 610 ‐ 612

Background: The question for the labor employers that do they base on the results of annual checking in  order to improve the working environment or they just made prescribed without regard to the improvement  of working conditions is known of the motivation underlying these practises.

Objectives: To verify the improvement of working environment from uncompleted targets of standard  no.  3733/QĐ‐BYT  such  as  microclimate,  light,  noise,  dust,  toxic  gas  that  do  checking  of  working  environment  at  Center  for  occupational  and  environmental  health  at  Binh  Duong  province  from  2005  to  2010.

Method:  A  comparative  study  was  conducted  among  the  labor  employers  checked  up  working

environment at center for occupational and environmental health at Binh Duong province.

Results: Labor employers had a good compliance with the regulations of checking up but had failed in  the improving working environment such as microclimate, light, noise, dust, toxic gas which were reminded  by the authorities. However, the others with a median compliance just had complied with the humidity and

∗ Trung tâm Sức Khỏe Lao Động Môi Trường Bình Dương  Tác giả liên lạc: BS.CKI. Hồ Hoàng Vân      ĐT: 0913639018

Email: hovan@yahoo.com.vn

613

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học  wind‐speed improving but against the light (p<0.05).

Conclusion: Labor employers have not applied the result  of  checking  up  working  environment  for  the

improving working environment.

Keyword: Working environment, microclimate, light, noise, dust, toxic gas

ĐẶT VẤN ĐỀ

2005‐2008 được chọn vào nghiên cứu. Tiêu chí  loại  ra  là  những  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  không  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  năm  2010.

Đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  được  thu tuyển bằng phần mềm Excel dựa trên báo  cáo  hàng  năm  tại  TTSKLĐMT  tỉnh  Bình  Dương để xác định những đơn vị tuân thủ đầy  đủ (mỗi năm đều định kỳ kiểm tra một lần) và  tuân  thủ  không  đầy  đủ  quy  định  về  kiểm  tra  môi trường lao động (kiểm tra môi trường lao  động nhưng không liên tục qua các năm). Trên  cơ sở dữ liệu có được sẽ tiến hành phân tích sự  cải  thiện  về  tỷ  lệ  các  yếu  tố  không  đạt  tiêu  chuẩn  QĐ  3733/2002/QĐ‐BYT  như  vi  khí  hậu,  ánh  sáng,  tiếng  ồn  và  hơi  khí  độc  từ  lần  đầu  kiểm tra môi trường lao động so với lần kiểm  tra vào năm 2010(1).

Dữ kiện được nhập bằng phần mềm Excel  và xử lý bằng Stata 10.0 qua phân tích bắt cặp  (Wilcoxon Signed‐Rank Test) mức ý nghĩa 5%.

KẾT QUẢ

Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Nghiên  cứu  tại  Bình  Dương  năm  2009  cho thấy các đơn vị sử dụng lao động chỉ kiểm  tra  môi  trường  lao  động  khi  họ  nhận  thức  đúng về các quy định của nhà nước về vệ sinh  an  toàn  lao  động,  đang  áp  dụng  tiêu  chuẩn  quản  lý  chất  lượng,  số  lượng  người  lao  động  của  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  trên  300,  thanh  tra  liên  ngành  yêu  cầu,  đặc  biệt  được  đối  tác  kinh doanh yêu cầu là điều kiện tiên quyết để  họ  tuân  thủ  các  quy  định  của  pháp  luật(2)(4).  Tuy  nhiên,  những  khuyến  nghị  trên  cơ  sở  kết  quả  đo  kiểm  môi  trường  lao  động  hằng  năm  mà  cơ  quan  chức  năng  cung  cấp  có  được  các  đơn vị sử dụng lao động làm cơ sở để cải thiện  điều  kiện  làm  việc  hay  họ  chỉ  thực  hiện  theo  quy  định  mà  không  quan  tâm  đến  việc  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc  là  chưa  rõ.  Do  đó  nghiên cứu được tiến hành trên những đơn vị  sử  dụng  lao  động  tuân  thủ  quy  định  về  kiểm  tra môi trường lao động từ năm 2005‐2010. Kết  quả  nghiên  cứu  sẽ  là  những  cơ  sở  vững  chắc  để  trả  lời  nhận  định  “các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động có  thật  sự  sử  dụng  các  kết  quả  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  hàng  năm  để  làm  cơ  sở  cho việc cải thiện điều kiện làm việc”  Mục  tiêu:  Xác  định  sự  cải  thiện  các  chỉ  tiêu  không đạt tiêu chuẩn 3733/ QĐ‐BYT về vi khí  hậu,  ánh  sáng,  tiếng  ồn,  bụi,  hơi  khí  độc  của  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  thực  hiện  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  tại  TT  Sức  Khỏe  Lao  Động  Môi  Trường  tỉnh  Bình  Dương  từ  năm  2005 đến năm 2010.

Biểu đồ 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu

ĐỐI  TƯỢNG ‐ PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN  CỨU

Số  lượng  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  tăng  theo  từng  năm (từ năm 2005‐2008) nhưng tỷ lệ các đơn vị  sử  dụng  lao  động  kiểm  tra  lại  môi  trường  lao  động vào năm 2010 kể từ lần kiểm tra đầu tiên

Nghiên  cứu  so  sánh  trước  sau  được  tiến hành trên những đơn vị sử dụng lao động  kiểm tra môi trường tại TTSKLĐMT tỉnh Bình  Dương. Tất cả các đơn vị sử dụng lao động bắt  đầu  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  từ  năm

614

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Tỷ lệ không đạt qua các năm (%)

Các yếu tố

6 năm 5 năm 4 năm 3 năm

0.21

0.02

0.11

Nhiệt độ

0.14

0.32

0.08

Trước 0.22 Năm 2010 0.10

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  hầu  như  không  tăng  theo  từng  số  năm  theo  dõi, chỉ khoảng 20%.  Phân  bố  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  tuân  thủ  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  theo  địa  điểm kinh doanh tính đến năm 2010

0.07

0.03

0

0

0

0 0.01

0 0.02

0 0.04

0

0 0.02

0 0.01

0 0.09

0.08 0.02

0.17 0.12

0.10 0.15

Ẩm độ Tốc độ gió Ánh sáng Tiếng ồn

0.18 0

0.17 0

0.15 0

Kiểm tra môi trường lao động đầy đủ (mỗi năm đều định kỳ kiểm tra một lần)

0

0.01 0

0 0.54

0 0.19

0.06 0.24

0.52 0.20

Bụi Hơi khí độc Nhiệt độ

0.16 0.05

0

0.20 0.04

0.19 0.10

0.25 0.07

0.09 0.03

0 0.01

Ẩm độ Tốc độ gió

0 0.03

0 0.06

0 0.09

Biểu đồ 2. Tỷ lệ đơn vị sử dụng lao động tuân thủ  đến năm 2010 theo địa điểm kinh doanh  So với các đơn vị sử dụng lao động hoạt  động  trong  khu  công  nghiệp  thì  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  ngoài  khu  công  nghiệp  có  tỷ  lệ  kiểm tra lại môi trường lao động vào năm 2010  kể  từ  lần  kiểm  tra  đầu  tiên  theo  từng  số  năm  theo dõi được (3 và 4 năm) cao hơn .  Phân bố các đơn vị sử dụng lao động tuân thủ  kiểm tra môi trường lao động theo ngành nghề  tính đến năm 2010

Trước Năm 2010 Trước 0.05 Năm 2010 Trước 0.07 Năm 2010 0.02 Trước 0.11 Năm 2010 0.08 Trước 0.01 Năm 2010 <0.01 Trước 0.16 0.125 Năm 2010 0.34 Trước 0.16 Năm 2010 0.18 Trước Năm 2010 0.15 Trước 0.18 Năm 2010 0.01 Trước 0.21 Năm 2010 0.19

0.09

0.12

0.09

Ánh sáng

0.05

0.10

0.16

Tiếng ồn

0

0.06 0

0.11 0

0.14 <0.01

Kiểm tra môi trường lao động không đầy đủ (kiểm tra môi trường lao động nhưng không liên tục qua các năm)

Bụi

Trước 0.17 Năm 2010 0.20 Trước Năm 2010 <0.01

0

0

0.01

0 0.19

0.46 0.34

0.44 0.14

0 0.27

Trước Năm 2010

Hơi khí độc

Biểu đồ 3. Phân bố số lượng đơn vị sử dụng lao  động tuân thủ đến năm 2010 theo ngành nghề

Tỷ lệ các mẫu đo không đạt tiêu chuẩn về  môi trường lao động qua các năm theo dõi liên  tiếp vẫn còn tồn tại dù đơn vị sử dụng lao động  có  tuân  thủ  đầy  đủ  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  hay  không,  trong  đó  tỷ  lệ  không  đạt  vẫn  còn  ở  mức  cao  ở  các  chỉ  tiêu  về  nhiệt  độ,  ánh  sáng, tiếng ồn, hơi khí độc

Những đơn vị sử dụng lao động tuân thủ  kiểm tra môi trường lao động định  kỳ  chủ  yếu  thuộc lĩnh vực may mặc.  Tỷ  lệ  các  chỉ  tiêu  không  đạt  tiêu  chuẩn  của  những đơn vị sử dụng lao động tuân thủ kiểm  tra môi trường lao động tính đến năm 2010  Bảng 1. Tỷ lệ các chỉ tiêu môi trường lao động không  đạt theo tiêu chuẩn 3733

Sự  cải  thiện  các  chỉ  tiêu  môi  trường  lao  động  không đạt tiêu chuẩn tính đến năm 2010.   Bảng 2. Sự cải thiện các chỉ tiêu môi trường lao động  từ lần đầu kiểm tra môi trường lao động so với năm  2010

615

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

Nghiên cứu Y học

Đầy đủ (mỗi năm đều định kỳ kiểm tra một lần)

Kiểm tra môi trường lao động

Không đầy đủ((kiểm tra môi trường lao động nhưng không liên tục qua các năm) Trung bình (khoảng tứ vị) [tỷ lệ không đạt tiêu chuẩn]

Trung bình (khoảng tứ vị) [tỷ lệ không đạt tiêu chuẩn]

N

p

Sau Năm 2010

p N

Trước Năm 2005

năm

Sau Năm 2010

Trước Năm 2005

6 liên tiếp Nhiệt độ

Ẩm độ

0 (0-0,28) 0,03 (0-0,54) 0,7 7

0

0

0 (0-0)

độ

0 (0-0)

Tốc gió

0,0 6

0,03 (0-0,23) 0 (0-0,30) 0,5 0 0 (0-0) 0,3 2 0 (0-0) <0, 01

0,12 (0,03- 0,23)

19

5

Ánh sáng

0,04 (0,01- 0,20) 0,08 (0- 0,08)

0,02 (0-0,02) 0,5 8

0,8 6

0,13 (0-0,30) 0,16 (0,03- 0,30)

Tiếng ồn

kê (p>0,05) các chỉ tiêu không đạt về môi trường  lao động. Tuy nhiên trên những đơn vị sử dụng  lao  động  không  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  đầy đủ chỉ cải thiện có ý nghĩa thống kê (p<0,05)  tỷ lệ không đạt về tốc độ gió, hơi khí độc nhưng  tỷ lệ không đạt về ánh sáng lại gia tăng. Ngoài  ra tỷ lệ các chỉ tiêu không đạt khác như nhiệt độ,  ẩm  độ,  tiếng  ồn  hơi  khí  độc  (ngoại  trừ  những  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  kiểm  tra  môi  trường  lao động không đầy đủ 3 năm liên tiếp)  không  có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê.  BÀN LUẬN

Bụi

0,08 (0,01-0,1) 0 (0-0)

0 (0-0)

0 (0-0)

0

khí

0 (0-0,38) 0 (0-0,38) 0,5 6 0,3 2

0,03 (0-0,07) 0,2 7 0,8 7 0,1 8

0,35 (0,32- 0,38) Năm 2010

Năm 2006

năm

Hơi độc 5 liên tiếp Nhiệt độ

0 (0-0)

Ẩm độ

0,09 (0- 0,19) Năm 2006 0,23 (0- 0,52) 0

0,19 (0-0,30) 0,4 2

0

0 (0-0)

0

0

độ

0 (0-0,14)

0

16

6

Tốc gió Ánh sáng

0 (0-0,04) 0,06 (0- 0,11)

Tiếng ồn

0 (0-0) 0,05 (0-0,22) 0,0 8 0 (0-0) 0,25 (0-0,35) 0,0 5

0 0

0 0

khí

Năm 2010 0 (0-0) 0,0 8 0 (0-0) 0,1 6 <0, 01 0,1 1 0 (0-0,08) 0 (0-0,12) 0,4 1

0

0

năm

Năm 2010

Năm 2007

Năm 2010

Năm 2007 0 (0-0)

Bụi Hơi độc 4 liên tiếp Nhiệt độ

Sự tuân thủ kiểm tra môi trường lao động  đến  năm  2010  cho  thấy  những  đơn  vị  sử  dụng  lao động hoạt động trong khu công nghiệp tuân  thủ  thấp  hơn  những  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  hoạt  động  ngoài  khu  công  nghiệp  kể  từ  năm  2007.  Tuy  nhiên,  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  kiểm tra môi trường lao động lại tập trung chủ  yếu thuộc các ngành may mặc, giày da, gỗ. Có lẽ  sản  phẩm  của  những  ngành  nghề  này  thường  hướng tới xuất khẩu, do đó yêu cầu của đối tác  nước ngoài cũng cao hơn nên số lượng đơn vị sử  dụng lao động này tuân thủ kiểm tra môi trường  lao động cũng cao hơn(2)(4).

Ẩm độ

0 (0-0)

0

0 (0-0)

độ

0 (0-0)

0 (0-0)

0 (0-0)

0

9

31

Tốc gió Ánh sáng

0 (0-0)

Tiếng ồn

0,05 (0- 0,18) 0 (0-0)

0 (0-0)

Bụi

0 (0-0,35) 0 (0-0,40) 0,7 4 0 (0-0) 0,3 4 0,0 1 <0, 01 0,5 9

0 (0-0,13) 0,09 (0- 0,23) 0,02 (0-0,1) 0,02 (0- 0,12) 0

0

0

0 (0-0,4) 0,3 0 0,1 6 0,9 3 0 (0-0,07) 0,1 9 0 (0-0,36) 0,9 5 0,1 5

0

khí

Năm 2010

năm

0,37 (0,16- 0,6) Năm 2008

0,2 2

0,16 (0- 0,40) Năm 2010

Năm 2008 0 (0-0)

0 (0-0)

Hơi độc 3 liên tiếp Nhiệt độ

0 (0-0)

Ẩm độ

0 (0-0)

0

0 (0-0)

0 (0-0)

0 (0-0)

độ

0

0 (0-00

22

13

Tốc gió Ánh sáng

0,06 (0-0,14) 0,05 (0- 0,18)

Tiếng ồn

0,06 (0- 0,18) 0,03 (0- 0,29) 0

0,5 6 0,1 6 0,1 6 0,04 (0-0,17) 0,9 4 0 (0-0,30) 0,4 6

0

Bụi

0 (0-0)

khí

Hơi độc

0 (0-0,28) 0 (0-0,20) 0,9 7 0,0 4 0,1 5 0,8 5 0,04 (0-0,11) 0 (0-0,11) 0,0 6 0 (0-0) 0,9 7 0 (0-0) 0,0 2

0,47 (0,17- 0,50)

0,33 (0- 0,73)

0,33 (0,1- 0,67)

0,8 5

Kết quả về đo kiểm môi trường lao động  cũng  như  những  kiến  nghị  từ  cơ  quan  chuyên  môn  là  cơ  sở  cho  việc  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc  nhưng  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  chưa  quan  tâm  đến  việc  cải  thiện  các  chỉ  tiêu  không  đạt  tiêu  chuẩn  .  Mặt  dù  mỗi  năm  TTSKLĐMT  luôn nhận được đề nghị từ các đơn vị sử dụng  lao động đo kiểm môi trường lao động và luôn  cung  cấp  những  giải  pháp  chuyên  môn  để  cải  thiện điều kiện làm việc v.v. nhưng những đơn  vị  sử  dụng  lao  động  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  đầy  đủ  6  năm,  5  năm,  4  năm,  3  năm  liên  tiếp  đều  không  có  sự  cải  thiện  đáng  kể  nào  (p<0,05)  nhằm  giảm  các  chỉ  tiêu  không  đạt  về  điều kiện làm việc (tỷ lệ không đạt về nhiệt độ,  ánh  sáng,  tiếng  ồn,  hơi  khí  độc  vẫn  còn  khá  cao)(bảng  2).  Hậu  quả  là  người  lao  động  vẫn  phải tiếp xúc với nhiều yếu tố độc hại qua nhiều  năm cho dù người lao động đang làm việc trong

Các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  tuân  thủ  đầy đủ quy định kiểm tra môi trường lao động  hầu như không có sự cải thiện có ý nghĩa thống

616

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012  những đơn vị sử dụng lao động tuân thủ đầy đủ  các quy định của pháp luật.

thực  hiện  quy  định  một  cách  hình  thức  nhằm  hợp thức hóa về thủ tục hành chính để đối phó  với các cơ quan chức năng. Có thể mức xử phạt  hành  chính  ở  những  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  không  thực  hiện  theo  quy  định  của  pháp  luật  thấp hơn rất nhiều so với những chi phí mà họ  thực hiện công việc đo kiểm hàng năm(3)(5). Đồng  thời, tỷ lệ các đơn vị sử dụng lao động kiểm tra  môi trường lao động qua các năm rất thấp, đa số  họ  không  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  theo  luật  định,  hoặc  chỉ  kiểm  tra  một  lần(5).  Nhưng  TTSKLĐMT tỉnh Bình Dương là cơ quan chuyên  môn về lĩnh vực vệ sinh lao động và bệnh nghề  nghiệp nhưng những yêu cầu và giải pháp đưa  ra  trên  cơ  sở  kết  quả  đo  kiểm  môi  trường  lao  động  chưa  tác  động  đến  sự  tuân  thủ  các  quy  định  cũng  như  sự  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc.  Đây  là  một  thực  trạng  phổ  biến  và  khó  chấp  nhận.

Một  số  chỉ  tiêu  dễ  khắc  phục  về  mặt  “hình thức” như ẩm độ, tốc độ gió thì có sự cải  thiện ở những đơn vị sử dụng lao động kiểm tra  môi  trường  lao  động  không  đầy  đủ  qua  các  năm. Thực tế những chỉ tiêu này rất dễ cải thiện  về mặt “con số”, bởi lẽ khi không đạt về các điều  kiện về ẩm độ thì họ có thể yêu cầu các cơ quan  chức năng đo kiểm lại vào buổi chiều v.v (thực  tế  cho  thấy  kiểm  tra  độ  ẩm  tại  các  đơn  vị  sử  dụng lao động vào buổi sáng hoặc những ngày  có mưa thì đa số các chỉ tiêu này sẽ không đạt,  hoặc chỉ tiêu về tốc độ gió khi không đạt tại một  vị trí nào đó thì họ sẽ khắc phục bằng cách trang  bị thêm quạt tại những vị trí không đạt và yêu  cầu cơ quan chức năng phúc tra lại những vị trí  trên v.v. ). Đó là những giải pháp tình thế, do đó  người lao động không được hưởng lợi nhiều từ  việc đo kiểm môi trường lao động của đơn vị sử  dụng lao động. Trên những đơn vị sử dụng lao  động tuân thủ không đầy đủ 3 năm liên tiếp thì  có  sự  cải  thiện  tỷ  lệ  không  đạt  về  hơi  khí  độc  (p<0,05)(bảng 2), tuy nhiên sự cải thiện này là do  sử dụng tiêu chuẩn đánh giá hơi khí độc ở năm  2008 là tiêu chuẩn trung bình 8 giờ và năm 2010  là từng lần tối đa, điều này dẫn đến sự cải thiện  giả tạo do tiêu chuẩn đánh giá nồng độ hơi khí  độc là khác nhau (tiêu chuẩn từng lần tối đa cho  phép nồng độ hơi khí độc trong môi trường làm  việc  là  cao  hơn  so  với  tiêu  chuẩn  trung  bình  8  giờ). Vì  vậy,  các  chỉ  tiêu  về  nhiệt  độ,  ánh  sáng,  ồn, hơi khí độc vẫn sẽ không đạt theo tiêu chuẩn  từ năm này qua năm khác bất kể đơn vị sử dụng  lao  động  có  kiểm  tra  môi  trường  lao  động  đầy  đủ theo quy định hay không.

Chúng ta chưa có những chế tài đủ sức  hướng  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  thực  hiện  nghiêm ngặt các quy định về vệ sinh lao động.  Để khắc phục các chỉ tiêu không đạt yêu cầu về  môi trường lao động gặp không ít khó khăn nếu  không  có  những  giải  pháp  căn  cơ  và  đồng  bộ.  Giải pháp bắt buộc đơn vị sử dụng lao động xây  dựng lại nhà xưởng, đổi mới công nghệ sản xuất  ngay  lập  tức  v.v  để  đổi  lại  một  điều  kiện  làm  việc  an  toàn  hơn  là  không  thể  thực  hiện.  Cũng  như  chúng  ta  thiếu  hẳn  những  lộ  trình  về  mặt  pháp luật nhằm đánh giá các tiêu chuẩn về điều  kiện  làm  việc  trước  khi  xây  dựng  nơi  làm  việc.  Trong khi cơ quan chuyên môn về y tế vẫn chỉ  dừng lại ở việc giám sát mà chưa có những biện  pháp chế tài hiệu quả nhằm thay đổi nhận thức  và tác động một cách hữu hiệu để tạo ra một nơi  làm việc an toàn.   KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ

Mặc  dù  các  đơn  vị  sử  dụng  lao  động  thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về đo kiểm  môi trường lao động hay không thì các chỉ tiêu  không đạt về vi khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, hơi  khí độc vẫn còn tồn tại theo thời gian.

Đơn  vị  sử  dụng  lao  động  “quên”  đo  kiểm môi trường lao động hằng năm, không cần  cải thiện điều kiện làm việc khi kết quả kiểm tra  môi  trường  lao  động  không  đạt  yêu  cầu  vẫn  được  mặc  nhiên  tiếp  tục  hoạt  động.  Trong  khi  đó TTSKLĐMT vẫn phải đưa ra hàng  loạt  kiến  nghị, giải pháp, tăng cường giám sát những đơn  vị  sử  dụng  lao  động  này  mà  chưa  nhận  được  thiện  chí  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc.  Họ  chỉ

Do vậy, cơ quan y tế cần tăng cường hợp  tác  với  các  cơ  quan  chức  năng  hoàn  thiện  hệ

617

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012

3.

4.

Bộ Y Tế (2002) ʺQuyết định số 3733/2002/QĐ‐BYT ʺ

5.

Bình Dương năm 2009ʺ. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14, (2),  199‐206.  Trần Thị Ngọc Lan (2008) Hệ thống các văn bản pháp luật về  vệ sinh an toàn nơi làm việc và chăm sóc sức khỏe Cho người  lao động, NXB Lao Động‐ Xã Hội,  Trung tâm phát triển và hội nhập quản trị (2010), Trách nhiệm  xã hội của doanh nghiệp,   http://www.vietnamforumcsr.net/default.aspx?portalid=1&tab id=17&itemid=5840v, truy cập ngày 01/01/2010  Trung  tâm  sức  khỏe  lao  động  môi  trường  tỉnh  Bình  Dương  (2010). ʺBáo cáo tổng kết năm 2006, 2007, 2008, 2009, 2010ʺ.

Nghiên cứu Y học  thống pháp luật về vệ sinh lao động, tập  trung  giám sát cũng như bắt buộc đơn vị sử dụng lao  động đánh giá tác động của quy trình công nghệ  và  nhà  xưởng  lên  điều  kiện  làm  việc  trước  khi  tiến hành xây dựng nhà xưởng.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. 2. Nguyễn  Văn  Chinh,  Huỳnh  Thanh  Hà,  Nguyễn  Thị  Nghĩa,  Nguyễn Đỗ Nguyên, Trịnh Hồng Lân (2010) ʺCác yếu tố liên  quan đến tuân thủ quy định về kiểm tra môi trường lao động,  khám sức khỏe định kỳ của các đơn vị sử dụng lao động tại

618

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng