
Ỷ Lan
Ỷ Lan (1044?–1117) là một Hoàng phi, Hoàng thái hậu nhà Lý, vợ thứ của vua
Lý Thánh Tông, mẹ đẻ của vua Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam.
Bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính, khiến đất nước dưới triều Lý được hưng
thịnh, những đóng góp cho hoàng triều Lý nhất là về Phật giáo và tài năng trị nước
của bà đều được sử gia khen ngợi và tán dương.
Tuy vậy, để có thể có quyền hành nhiếp chính đất nước, bà đã mưu kế dựa vào
Lý Thường Kiệt, phế truất và sát hại Thái hậu nhiếp chính tiền nhiệm là Thượng
Dương Hoàng thái hậu. Việc làm này đã gây nên nhiều tranh cãi xung quanh bà.
Thân thế và sự nghiệp
Tên, xuất thân
Theo truyện thơ nói về Ỷ Lan có tên là "Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu cổ lục
thần tích quốc ngữ diễn ca văn" (Văn diễn ca bằng quốc ngữ thần tích sao chép từ bản
cổ Hoàng Thái hậu thứ ba triều Lý) của Trương Thị Trong (? - ?), một Thị nội cung
tần của chúa Trịnh Cương, thì bà có tên là Lê Khiết Nương [1]. Cũng có nguồn cho

rằng bà có tên là Lê Thị Yến hay Lê Thị Khiết [2]. Tuy nhiên, bà được biết nhiều hơn
qua cái tên Ỷ Lan (tên trong tước phong, và có nghĩa là “tựa vào cây lan”).
Theo truyền thuyết, Ỷ Lan sinh ngày 7 tháng 3 năm Giáp Thân (1044) tại
hương Thổ Lỗi (sau đổi là Siêu Loại. Đời Nguyễn thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh; nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội)[3].
Tuy nhiên trong truyện thơ trên, không nói rõ bà sinh năm nào, chỉ cho biết cha
bà họ Lê (có nguồn ghi tên là Lê Công Thiết), làm chức quan nhỏ ở kinh thành Thăng
Long; và mẹ (truyện thơ chỉ ghi hiệu là Tĩnh Nương, có nguồn ghi tên là Vũ Thị
Tình), là một người làm ruộng tại hương Thổ Lỗi.
Đến năm Ỷ Lan 12 tuổi, thì mẹ ốm mất; cha lấy mẹ kế họ Đồng, nhưng ít lâu
sau ông cũng qua đời. Kể từ đó, bà chung sống với người mẹ kế, và hai người rất
thương quí nhau [4].
Vào cung, được vua sủng ái
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ toàn thư, quyển 3) chép:
..."Tục truyền rằng vua (Lý Thánh Tông) cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu
nghiệm, mới đi chơi khắp chùa quán. Xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến
xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ đứng tựa trong bụi cỏ lan. Vua
trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu phong làm Ỷ Lan phu nhân"...[5].
Theo truyện thơ trên, thì đó là năm Giáp Thìn (1064) khi vua Lý Thánh Tông
đến chùa Thổ Lỗi cầu tự và mở hội tuyển cung nữ. Song có nguồn cho rằng đó là vào
mùa xuân năm 1063, khi vua đi cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), qua
hương Thổ lỗi, ngài vén rèm nhìn ra, thấy từ xa có người con gái tựa vào cây lan và

cất tiếng hát trong trẻo...Sau khi đưa người con gái ấy vào cung, nhà vua cho xây
dựng một cung điện riêng (nay là đình Yên Thái, phường Hàng Gai, Hà Nội), và đặt
tên là cung Ỷ Lan...[2].
Sinh con trai được phong làm phi
Ỷ Lan vào cung, được cho xây cung Ỷ Lan để ở, phong vào bậc Phu nhân, gọi
là Ỷ Lan phu nhân. Về chuyện này, sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ toàn thư,
quyển 3) chép:
"Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai chi hội
hậu nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa[6]...Nhà sư dạy cho Bông
thuật đầu thai thác hóa, Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa
chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm.
Đồng Bông ở phía tây trước cửa chùa, nay hãy còn...Mùa xuân, tháng Giêng (năm
1066), Hoàng tử (Lý) Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng thái tử (sau này là
vua Lý Nhân Tông), đổi niên hiệu, đại xá, và phong mẹ là Ỷ Lan phu nhân làm Thần
phi...Năm Mậu Thân (1068), đổi hương Thổ Lỗi làm hương Siêu Loại [7], vì là nơi
sinh của Nguyên phi[5].
Truyện thơ "Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu cổ lục thần tích quốc ngữ diễn ca
văn" kể tương tự, nhưng chi tiết hơn: Khi Ỷ Lan đã vào cung, vua sai Thái giám
Nguyễn Bông đi cầu tự. Ông này bèn đến chùa Thánh Chúa gặp nhà sư Đại Điên. Nhà
sư bày kế cho Nguyễn Bông đầu thai để kiếp sau được làm Hoàng đế. Trở về cung,
Nguyễn Bông rình trộm Ỷ Lan tắm bị bắt gặp, xử tội chém. Sau đó, Ỷ Lan có thai, đủ
tháng sinh được con trai là Lý Càn Đức. Nhà vua mừng rỡ phong Ỷ Lan làm Thần
phi. Ít năm sau (1068), lại sinh thêm một người con trai nữa (không rõ tên, sau được

phong tước Sùng Hiền hầu)...[8], Ỷ Lan thần phi liền được phong làm Nguyên phi [9],
đứng đầu hoàng phi trong cung, chỉ dưới Thượng Dương hoàng hậu.
Làm Nhiếp chính lần thứ nhất
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm
Thành. Tin cậy, trước khi đi nhà vua trao quyền điều khiển chính sự ở triều đình cho
Ỷ Lan nguyên phi. Ra trận, vua đánh mãi không được, bèn "đem quân về đến châu Cư
Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên), thì nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm
hóa hòa hợp, trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua
nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì
hay sao!". Bèn quay lại đánh nữa, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và 5 vạn người
dân... Năm sau (1070), Chế Củ xin đem đất ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (tức
vùng Quảng Bình và Quảng Trị) để chuộc tội...[5].
Mưu đoạt quyền bính
Tháng Giêng năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông lâm bệnh nặng rồi
mất[10]. Sau đó, Lý Càn Đức (sinh 1066, tức mới 6 tuổi) lên nối ngôi, tức là vua Lý
Nhân Tông, tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích là
Thượng Dương hoàng hậu, họ Dương, làm Hoàng thái hậu, và để cho Thái hậu
Thượng Dương cùng dự việc triều chính[11], có Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công
việc[5].
Sau đó, theo học giả Hoàng Xuân Hãn, một cuộc xung đột nội bộ đã xảy ra
trong chốn cung đình. Ban đầu phe Thượng Dương Hoàng thái hậu được Thái sư Lý
Đạo Thành ủng hộ nên được cầm quyền; nhưng sau đó thì phe Linh Nhân Hoàng thái
phi (tức Ỷ Lan) đắc thắng, nhờ có Thái úy Lý Thường Kiệt ủng hộ [12].

Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ toàn thư, quyển 3) chép sơ lược việc này
như sau:
"Quý Sửu (1073)...Giam Hoàng thái hậu họ Dương,...(bởi) Linh Nhân có tính
ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già
khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác hưởng, thế thì sẽ để mẹ
già vào đâu?" Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung
Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông...(còn) Thái sư Lý Đạo
Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An
Làm Nhiếp chính lần thứ hai
Đoạt được quyền nhiếp chính và trở thành Hoàng thái hậu, năm 1074, không
nghĩ đến hiềm khích cũ, Ỷ Lan lại cho vời Lý Đạo Thành về triều rồi trao chức Thái
phó bình chương quân quốc trọng sự, để cùng với tướng phụ chính là Lý Thường Kiệt
ra tài ổn định và phát triển đất nước. Nhờ vậy mà quân đội nhà Lý đủ sức “phá Tống,
bình Chiêm” [14]…
Sử cũ còn chép rằng, vào mùa xuân năm Quý Mùi (1103), chính Hoàng thái
hậu Ỷ Lan đã phát tiền ở kho nội phủ để chuộc con gái nhà nghèo bị bán do ở đợ, đem
họ mà gả cho những người đàn ông góa vợ. Và trước khi mất mấy tháng (tháng 2 năm
Đinh Dậu, 1117), bà còn đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi [5].
Vốn là người sùng đạo Phật, và là "người tu tại gia" [15]; về già, Hoàng thái
hậu Ỷ Lan càng để tâm làm việc thiện, xây chùa và nghiên cứu về đạo Phật. Tính đến
năm (1115), bà đã cho xây cất 150 chùa, đền, trong đó có chùa Từ Phúc ở quê hương
(Dương Xá, Gia Lâm) [2].

