ACIAR
in Vietnam January Tháng 1 2016
<aciar.gov.au>
News
Regional workshop on beef markets and trade (p.2)
Rice farming in the Mekong Delta – adapting to climate stresses (p.4)
Retirement of Dr Nguyen Van Hao (p.6)
Story of Mrs Luyen – the vegetables grower in Moc Chau (p.8)
Project updates
First forum round towards sustainably developed
temperate fruits industry (p.12)
Mid-term review of the rice-shrimp project (p16)
Improving policies for forest plantations in Lao PDR and Vietnam (p.20)
Enhancement of production of Acacia and Eucalypt veneer processing (p.22)
Preliminary results of the oysters project (p.24)
Training corner
John Allwright fellowship (p.26)
John Dillon fellowship (p.28)
Australia, full of love from my heart (p.30)
Tin tức
Hội thảo quốc tế về thị trường bò thịt (p.3)
Trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long - ứng phó với biến đổi khí hậu (p.5)
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo nghỉ hưu (p.7)
Chuyện cô Luyến - nông dân trồng rau ở Mộc Châu (p.9)
Cập nhật từ dự án
Diễn đàn cấp tỉnh lần thứ nhất hướng tới phát triển bền vững
cây ăn quả ôn đới (p.13)
Đánh giá giữa kỳ của dự án tôm-lúa (p.17)
Hoàn thiện chính sách rừng trồng ở Lào và Việt Nam (p.21)
Tăng cường sản xuất ván mỏng từ gỗ keo và bạch đàn (p.23)
Kết quả bước đầu của dự án hàu (p.25)
Tin đào tạo
Chương trình học bổng John Allwright (p.27)
Chương trình học bổng John Dillon (p.29)
Australia, tình yêu tràn đầy trong tim tôi (p.31)
No matter where they work, on the fields, in laboratories or in management positions, women have always been an essential part in ACIAR Vietnam program
Bất kể là ở vị trí nào, trên đồng ruộng, trong phòng thí nghiệm hay ở vị trí quản lý, phụ nữ luôn đóng vai trò quan trọng trong chương trình ACIAR ở Việt Nam
33
TIN TỨC
<aciar.gov.au>
3
Tngày 30 tháng 11 năm 2015 đến ngày 3 tháng 12 năm 2015 tại
Bến Tre, một hội thảo quốc tế về thị trường bò thịt khu vực Đông
Nam Á Trung Quốc đã được tiến hành nhằm xác định các
hội thách thức liên quan đến nghiên cứu, phát triển hợp
tác trong ngành bò thịt khu vực Đông Nam Á Trung Quốc. Buổi
hội thảo do ACIAR tài trợ và do HELVETAS Việt Nam, Trường Đại
học Queensland, và ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre đồng tổ chức.
Hội thảo đã thu hút đông đảo khách mời từ các nước trong khu
vực bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Indonsia, Cambodia, Laos,
Myanmar, Thailand, Indonesia Đông Timo, các quan
phát triển/thương mại Úc gồm đại diện Bộ Nông Nghiệp Úc, Bộ
Ngoại Giao Thương Mại Úc, Hiệp hội Thịt Gia súc Úc, Hội
đồng Xuất Nhập khẩu Gia súc Úc và đại diện của chính quyền các
bang Queensland, Bắc Úc, Tây Úc và các bên tham gia dự án do
ACIAR tài trợ cùng các chuyên gia tư vấn đầu ngành.
Các báo cáo của các chuyên gia trong lĩnh vực cho thấy thị trường
thịt trong khu vực Đông Nam Á Trung Quốc đã trải qua
những thay đổi lớn trong những năm qua. Tăng trưởng kinh tế
đô thị hoá dẫn đến việc tiêu thụ thịt bò tăng cao trong khu vực.
Cụ thể từ năm 2000 đến 2013, trung bình lượng thịt bò tiêu thụ
tại Việt Nam và Trung Quốc tăng 8% và 4%, trong khi giá thịt tăng
tương ứng 8% và 11%.
Tuy nhiên, số lượng trong khu vực không tăng, đặc biệt, số
lượng thịt tại Trung Quốc (chiếm 69% trong khu vực) các
nước giảm trong cùng thời kỳ. Nguyên nhân bao gồm việc chi phí
cơ hội của lao động tăng ở những nước có tăng trưởng rộng, cơ
giới hoá nông trại làm giảm nhu cầu bò kéo, và nông dân bán bò
lúc giá cao nhằm tăng thu nhập. Ngành thịt trong khu vực chủ
yếu gồm các nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, nguồn cung không tăng
tương ứng với giá, đặc biệt về mảng chăn nuôi bò sinh sản, như
là với các ngành khác như gia cầm chăn nuôi lợn.
Việc mất cân đối cung cầu dẫn đến một số xu hướng quan
trọng sau đây. Trong khi số lượng giảm (-0.3%), lượng
xuất chuồng tăng (1.9%) và lượng thịt tăng (2.9%), điều này đồng
nghĩa với việc tăng tỉ lệ xuất chuồng trọng lượng bò, những chỉ
số đánh giá hiệu quả chăn nuôi. Trong khi ngành bò thịt khu vực
chủ yếu gồm các nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, vẫn có những điểm
sáng trong tăng trưởng ngành, đặc biệt trong lĩnh vực vỗ béo
và một số lĩnh vực chế biến và tiêu thụ.
Quan trọng hơn cả, thương mại xuất nhập khẩu đã đang
tăng mạnh trong những năm qua. Khối lượng thịt nhập
khẩu chính thức vào Trung Quốc, Việt Nam và Indonesia tăng
từ 100,000 tấn năm 2008 lên 430,000 tấn năm 2013. Ngoài ra
khoảng một triệu tấn được nhập khẩu vào Trung Quốc theo
đường tiểu ngạch từ các nước Brazil, Ấn Độ và Mỹ. Số lượng
nhập chính thức vào Trung Quốc, Việt Nam và Indonesia đạt hơn
900,000 con, ngoài ra khoảng 300,000 con được vận chuyển từ
Myanmar qua các nước Thái Lan, Lào và Campuchia để vào Việt
Nam và Trung Quốc.
Các chuyên gia đều thống nhất rằng tình trạng giao thương
và thịt bò trong khu vực dẫn đến tăng khả năng tiếp cận thịt đỏ
cho các hộ gia đình và cơ hội phát triển cho vùng nông thôn. Tuy
nhiên điều này cũng mang lại những hệ luỵ về bệnh dịch, an ninh
sinh học và lạm phát giá thức ăn trong khu vực. Cùng lúc đó, các
xu hướng của thị trường khu vực tăng trưởng thương mại
cũng có những tác động trực tiếp lên thị trường gia súc và/hoặc
thị trường của Úc, tuy nhiên phần lớn những tác động này còn
chưa được đo lường và hiểu rõ.
Các đại biểu tại hội thảo cũng thảo luận xác định những lỗ
hổng thách thức đối với sự tham gia của nông hộ nhỏ trong
chăn nuôi bò, hội nhập hợp tác trong khu vực, an ninh sinh học
tính chính xác của dữ liệu số liệu thống kê. Những yếu tố
trên sẽ giúp định hình các ý tưởng và hoạt động của dự án trong
tương lai cũng như những ưu tiên ngắn và dài hạn của các nước
trong khu vực.
Hội thảo quốc tế về thị trường bò thịt
Dr Rodd Dyer facilitating the discussion about impact of beef demand in
Asia on Australian beef industry
TS Rodd Dyer thúc đẩy thảo luận ảnh hưởng của nhu cầu về thịt bò tại
Châu Á đối với ngành bò thịt Úc
Bài viết của Phạm Lương, HELVETAS Swiss Intercooperation
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ TS Phạm Lương
<Luong.Pham@helvetas.org>
55
555
5
55
5
55
5
55
5
Các thẩm định viên đã đánh giá dự án “đạt chất lượng cao”,
thông qua một số kết quả nghiên cứu của dự án như sau:
Tác động của nước biển dâng được số hóa thành bản đồ độ
phân giải cao theo không gian mùa cho các kiểu ngập lũ và
rủi ro do xâm nhập mặn. Bằng các giống lúa cải tiến điều
chỉnh việc quản lý y trồng thích hợp, các bản đồ này có thể
được dùng cho việc thay đổi các kỹ thuật đã định trong các
hệ thống canh tác lúa ở đồng bằng.
Các giống lúa ngắn ngày chống chịu mặn, ngập năng suất
cao được phát triển, thử nghiệm ngoài đồng đã đệ trình
xin đăng ký nhà nước để được sản xuất đại trà (2014).
• Kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ, dễ sử dụng và tiết kiệm chi
phí, rất tiềm năng trong chiến lược thích ứng và giảm thiểu.
Kthuật này thể tiết kiệm 25% lượng nước sử dụng
giảm đến 50% lượng khí metan phát thải từ ruộng lúa.
Giống lúa ngắn ngày chống chịu mặn thể cho năng
suất cao hơn và thay thế cho giống lúa truyền thống Một Bụi
Đỏ trong hệ thống canh tác lúa tôm vùng mặn Bạc Liêu.
Dự án cũng đưa ra số liệu khí thải nhà kính giảm thiểu
phát thải đối với sản xuất lúa. Phát thải từ ruộng lúa cũng
chiếm tỉ lệ đáng kể trong các hoạt động gây khí thải nhà kính
tại Việt Nam.
Tiếp nối các nghiên cứu trước của IRRI các cơ quan đối tác dự
án từ Úc và Việt Nam, mục tiêu của dự án CLUES là tăng cường
khả năng thích ứng của các hệ thống sản xuất lúa ĐBSCL
cung cấp cho nông dân cán bộ khuyến nông các kỹ thuật
kiến thức nhằm cải thiện an ninh lương thực, không chỉ cho
vùng nghiên cứu còn mở rộng ra toàn cầu - Việt Nam đang
là nơi sản xuất lúa lớn thứ hai trên thế giới.
Hội thảo được xem một diễn đàn để thu thập các góp ý của
các tác nhân khác nhau trong việc chuyển giao các kết quả
nghiên cứu một cách rộng rãi được xem như một động tác
để hiệu chỉnh các phương thức nhân rộng và chiến lược kết
thúc dự án của CLUES.
Hiểu biết về những kết quả quan trọng của dự án thể giúp
hạn chế các thách thức của biến đổi khí hậu đối với ngành sản
xuất lúa gạo tại Việt Nam.
Các thông tin về CLUES thể tham khảo địa chỉ trang web
của dự án:
http://irri.org/networks/climate-change-affecting-land-use-in-
the-mekong-delta
Các giống lúa triển vọng kỹ thuật nông nghiệp đột phá
thể giúp nông dân vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)
thích ứng với thách thức khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu đã
được trình bày trong hội thảo ngày 14 tháng 9 năm 2015 tại
khách sạn Daewoo, Hà nội, Việt Nam. Các kỹ thuật canh tác lúa
đã được xác định thông qua các thí nghiệm của nông dân trong
bốn năm vừa qua tại An Giang, Bạc Liêu, Hậu Giang thành
phố Cần Thơ trong khuôn khổ một dự án của ACIAR.
Tham dự hội thảo TS Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ Nông
nghiệp Phát triển Nông thôn (MARD), Ông Layton Pike,
Phó Đại sứ Úc tại Việt Nam, cùng các đại diện của các Bộ liên
quan đến chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, các
đối tác và thành viên tham gia dự án, và các cơ quan tài trợ.
Vựa lúa của Việt Nam, ĐBSCL chiếm một nửa sản lượng lúa
hàng năm của cả nước. Nhưng nông dân trong khu vực đang
đương đầu với các tác động do thay đổi thời tiết như mực nước
biển dâng, là nguyên nhân gây ra xâm nhập mặn cho ruộng lúa.
Điều này đe dọa sự ổn định của sản xuất lúa trong cả nước.
Hội thảo đã thảo luận các kết quả của dự án Ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu lên sử dụng đất ĐBSCL: Thích ứng của các
hệ thống canh tác có lúa (CLUES)”. Đây là một dự án 4 năm vừa
kết thúc, do Trung Tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc
(ACIAR) tài trợ được thực hiện bởi Viện Nghiên cứu Lúa Quốc
tế (IRRI), cùng với các cơ quan nghiên cứu của Úc và Việt Nam.
Áp dụng phương pháp nghiên cứu đa ngành bao gồm các
nghiên cứu về thủy văn, giống, quản y trồng kinh tế
hội’ dự án CLUES đã cho ra các kết quả cụ thể ứng dụng cho
tương lai để hạn chế rủi ro từ nước biển dâng cũng như đưa
ra chiến lược thích ứng giảm nhẹ rủi ro cho hệ thống lúa”,
Reiner Wassmann, Giám đốc dự án Điều phối viên BĐKH
IRRI, đã phát biểu.
TIN TỨC
<aciar.gov.au>
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ TS Ngô Đằng Phong <n.phong@irri.org>
Bài viết của Ngô Đằng Phong, IRRI
Trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long -
ứng phó với biến đổi khí hậu
Prof To Phuc Tuong answering participants' questions
GS Tô Phúc Tường trả lời câu hỏi của đại biểu
TS Nguyễn Văn Hảo vừa nghỉ hưu sau nhiều năm cống hiến
cho sự nghiệp nghiên cứu và phát triển nuôi trồng thủy sản ở
Việt Nam cũng như trong khu vực. Trước khi nghỉ hưu, ông
giữ cương vị Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản 2 (NCNTTS 2) ở Tp. Hồ Chí Minh, nơi ông đã xây dựng một
chương trình nghiên cứu vững mạnh. Ông cũng đảm trách
việc phát triển mối liên kết hợp tác với các quan trong
ngoài nước làm nền tảng cho những chương trình nghiên
cứu thành công. TS Hảo được nhiều người ngoài Việt Nam
biết đến thông qua vai trò quan trọng ông đã nắm giữ
trong việc nghiên cứu quản lý nguồn lợi thủy sản ở vùng sông
Mekong.
Trong suốt thời gian làm việc với TS Hảo, tôi ấn tượng nhất
ông bởi sự tận tâm ông dành cho cho công việc phát triển
truyền cảm hứng cho những cán bộ nghiên cứu trẻ. Ông
người đã đào tạo những thế hệ cán bộ nghiên cứu kế tục-
những người bây giờ đang nắm giữ cương vị quan trọng trong
quản lý và lãnh đạo. Tầm nhìn xa trông rộng về kế hoạch tiếp
theo cho tương lai của ông đã mang lại sự thuận lợi cho Viện
NCNTTS 2 và ngành nuôi trồng thủy sản.
Một trong những dự án hợp tác quốc tế cuối cùng của TS Hảo
đối tác với tổ chức ACIAR. Nhóm nghiên cứu dự án tôm
lúa sẽ nhớ sự lãnh đạo của ông. Những thành viên của dự án
từ trường Đại học New South Wales, Đại học Cần Thơ, Viện
Lúa Đồng bằng Sông Cửu Long (CLDRRI), Đại học Griffith, Viện
NCNTTS 2 Đại học Charles Sturt đã thời gian làm việc rất
tốt dưới sự lãnh đạo của TS Hảo. Quan điểm ‘chúng ta phải làm
cho xong việc’ của ông đã truyền nguồn cảm hứng cho nhóm
làm việc tích cực để đạt được những mục tiêu của dự án. Mặc
dù đã nghỉ hưu, ông vẫn tiếp tục tham gia vào dự án tôm lúa để
chuyển giao dần dần tất cả các trách nhiệm và sự lãnh đạo cho
TS Sáng và những cán bộ khác của Viện NCNTTS 2.
Dự án tôm lúa được phát triển từ ý tưởng của TS Hảo về cải
thiện sản lượng của tôm và lúa thông qua việc cải tiến lại thiết
kế đồng ruộng. Mục đích của nhóm nghiên cứu dự án thực
hiện ý tưởng của ông khi bước vào giai đoạn hai năm cuối của
dự án. Chúng tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với TS Hảo ông
đã dành nhiều thập niên cống hiến cho sự nghiệp phát triển
nuôi trồng thủy sản Việt Nam mong ước những điều tốt
đẹp cho ông khi nghỉ hưu. Ông vẫn sẽ người bạn của chúng
tôi và là nguồn cảm hứng cho chúng tôi làm việc để hướng tới
thành công!
Retirement of
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo nghỉ hưu
Bài viết của Jes Sammut, Trường đại học New South Wales (UNSW)
77
TIN TỨC
<aciar.gov.au>
7
Dr Hao and A/Prof Jes Sammut co-led the rice-shrimp farming
project; this was Dr Hao’s last major project before retirement
TS Hảo và PGS Jes Sammut đồng chủ nhiệm dự án tôm-lúa; đây là
dự án quan trọng cuối cùng của TS Hảo trước khi nghỉ hưu
Trước khi tham gia dự án này thì làm gì? Tại sao lại
quyết định tham gia dự án này ạ?
Trước đây mình trồng ngô, đậu là chủ yếu, rau cũng có nhưng
ít. Một lần được cử đi tham gia một lớp học về rau an
toàn, thấy được tầm quan trọng tiềm năng của rồi nảy
ra ý tưởng thành lập 1 tổ nhỏ trồng rau an toàn. Cùng lúc đó
thì dự án rau trái vụ của ACIAR bắt đầu được triển khai ở Mộc
Châu. Vì thế quyết đinh kết hợp với dự án, từ đó mới
tập trung vào rau trái vụ. Ban đầu nhóm chỉ có 19 người thôi.
Lúc đầu khi mới chuyển sang trồng rau an toàn trái vụ thì
có gặp khó khăn gì ạ?
Khó khăn thì nhiều, nhưng mà khó nhất vẫn là làm sao để cho
dân tin vào mô hình này. Ban đầu cách nghĩ, cách làm của mọi
người khó thay đổi lắm. họ cũng sợ làm rau này không
bán được. Ngay cả cán bộ của bản cũng không ủng hộ. Lúc tổ
chức tập huấn cho con, trưởng bản còn khóa cả nhà văn
hóa, không cho mượn phòng. Khó khăn, nhưng vẫn quyết
tâm làm. Ban đầu còn lấy sổ đỏ nhà ra để thế chấp vay ngân
hàng, đầu trang thiết bị chế đóng gói, rồi mua ô vận
chuyển.
Bên cạnh đó thì lúc mới chuyển sang trồng rau an toàn
khác lắm, quy trình trồng phức tạp với khắt khe hơn nhiều.
Ngay từ ban đầu đã phải kiểm tra mẫu đất, nước, nếu
lượng hóa học đạt mức cho phép mới được cấp chứng nhận
là vùng đủ điều kiện sản xuất rau an toàn. Lúc dùng phân bón
với thuốc trừ sâu phải đúng thời điểm, đúng liều lượng, đúng
loại, chỉ được dùng thuốc có trong danh mục cho phép của Bộ
Nông nghiệp.
Rồi thì nếu như trước kia chỉ trồng rau đơn thuần thì bây giờ
vừa trồng rau vừa phải ghi chép cẩn thận nữa. Dùng loại phân
nào, thuốc nào phải ghi lại tên, mã, mua ở đại lý nào, nơi sản
xuất, ngày sản xuất, quá trình bón hàng ngày. Ngoài ra mỗi hộ
còn một nông dân, khi thu mua phải ghi lại để sau
này nếu cần có thể truy ra lô rau này là do ai trồng. Nghe đơn
giản thế thôi nhưng ban đầu mất nhiều thời gian lắm. Trong
bảy, tám tháng đầu cô và cán bộ dự án phải vận động, khuyến
khích, theo sát bà con từng bước để họ quen dần. Đến bây giờ
thì bà con thành thạo rồi, ghi chép ổn định.
Dự án đã hỗ trợ như thế nào trong thời gian đó ạ?
Đầu tiên dự án giúp nhóm của cô mang tất cả các giống rau về
trồng thử nghiệm tại vườn nhà. Trong quá trình sản xuất thì
TIN TỨC
<aciar.gov.au>
99
9
Bài viết của Đinh Thị Huyền Trâm
Chuyện cô Luyến - nông dân trồng rau ở Mộc Châu
Kết nối thị trường, nâng cao giá trị nông sản và cải thiệt cuộc sống cho các nông hộ nhỏ vùng Tây Bắc Việt Nam là
một trong những ưu tiên của chương trình ACIAR. Trong những năm gần đây ACIAR đã nghiên cứu xây dựng
thành công một số chuỗi giá trị nông sản cho vùng đất nhiều tiềm năng nhưng còn nhiều khó khăn này. Một trong
số các dự án ở đây đã giúp nông dân Mộc Châu nâng cao thu nhập nhờ bán rau trái vụ tại một số siêu thị ở Hà Nội
bước đầu xây dựng được thương hiệu rau an toàn Mộc Châu. Nguyễn Thị Luyến, Chủ nhiệm Hợp tác (HTX)
Lưu Luyến ở Mộc Châu, tỉnh Sơn La là một trong những nhân tố tích cực đóng góp cho thành công này. Sau đây là
tâm sự của cô qua cuộc trò chuyện với chúng tôi vào tháng 12 năm 2016 về những khó khăn thách thức cũng như
sự nỗ lực của cô trong thời gian qua.
Xem tiếp trang 11 >>More on page 10 >>
Mrs Luyen in her garden
Cô Luyến tại vườn nhà