
40
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Ảnh hưởng của môi trường, xã hội và quản trị (ESG)
đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên
thị trường chứng khoán Việt Nam
Trần Thị Xuân Anh1, Nguyễn Phương Thảo2
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Ngày nhận: 02/06/2024 Ngày nhận bản sửa: 02/09/2024 Ngày duyệt đăng: 23/09/2024
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích ảnh hưởng của các yếu tố
môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá
nhân trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Nền tảng lý thuyết bao gồm Lý
thuyết hành vi có kế hoạch, Lý thuyết đại diện và Lý thuyết các bên liên quan.
Từ dữ liệu khảo sát 227 nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam, nhóm tác giả tiến
hành đánh giá mô hình và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu thông qua
phương pháp PLS-SEM. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh được
có mối quan hệ giữa vấn đề ESG và quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó yếu tố quản trị có ảnh hưởng
lớn nhất, tiếp theo là yếu tố xã hội và yếu tố môi trường. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, bài viết đề xuất một số khuyến nghị đối với nhà đầu tư cá nhân tại
Việt Nam trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư.
Impact of ESG on individual investors’ investment decisions on Vietnam stock exchanges
Abstract: The research was conducted to analyze the influence of environmental, social, and governance
(ESG) on the investment decisions of individual investors in the Vietnam Stock Market. Theoretical
background includes the Theory of Planned Behavior, Agency Theory, and Stakeholder Theory. From
survey data of 227 individual investors in Vietnam, the authors conducted the model evaluation and tested
research hypotheses through the PLS-SEM method. Empirical research results have proven a relationship
between ESG issues and investment decisions of individual investors on the Vietnamese stock market, in
which governance factors have the greatest influence, followed by social and environmental factors. Based
on the research results, the article proposes some recommendations for individual investors in Vietnam in
the process of making investment decisions.
Keywords: ESG, Investment Decisions, Individual Investor, Investment Horizon, Stock market
Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2755
Tran, Thi Xuan Anh1, Nguyen, Phuong Thao2
Email: anhttx@hvnh.edu.vn1, 23a4010600@hvnh.edu.vn2
Organization of all: Banking Academy of Vietnam

TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
41
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Từ khóa: ESG, Quyết định đầu tư, Nhà đầu tư cá nhân, Thời hạn đầu tư, Thị
trường chứng khoán
1. Giới thiệu
Phát triển bền vững (PTBV) đang là xu thế
tất yếu trong quá trình phát triển của quốc
gia, doanh nghiệp bao gồm các khía cạnh
bền vững về môi trường, xã hội và quản trị
(ESG- Environment, Social, Governance).
Theo PwC (2022), gần 80% các doanh
nghiệp đã đặt ra cam kết hoặc đang lên kế
hoạch sớm thực hành ESG do tác động từ
nhu cầu của người tiêu dùng, người lao
động và các nhà đầu tư (NĐT). Việc thực
hiện các nguyên tắc về ESG không chỉ giúp
doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao từ cộng đồng và thị trường, mà còn tạo
ra cơ hội mới và giúp tăng cường vị thế
cạnh tranh trên thị trường, góp phần quan
trọng vào việc hình thành một môi trường
kinh doanh tích cực và bền vững tại các
quốc gia. Các nhà đầu tư thay vì chỉ quan
tâm đến các kết qủa kinh doanh và hiệu
quả tài chính của doanh nghiệp đã tích hợp
những yếu tố ESG vào quá trình phân tích
đầu tư hướng tới việc cân bằng giữa những
lợi ích xã hội và lợi nhuận đạt được của
doanh nghiệp trong những năm gần đây.
Tại Việt Nam, từ năm 2017, Sở Giao dịch
Chứng khoán TPHCM (HOSE) đã giới
thiệu chỉ số phát triển bền vững Việt Nam
(VNSI) bao gồm 20 doanh nghiệp có điểm
chỉ số phát triển bền vững cao nhất niêm
yết trên HOSE. Điều này cũng hàm ý rằng
ESG chính thức trở thành yếu tố được cân
nhắc đưa vào quyết định phân tích đầu tư
ở thị trường Việt Nam, với mục đích cung
cấp góc nhìn rộng hơn về rủi ro và cơ hội
đầu tư vào cổ phiếu của một công ty. Bên
cạnh đó, những biến động thất thường trên
thị trường chứng khoán hiện nay đã khiến
nhiều nhà đầu tư nhìn nhận lại chiến lược
đầu tư. Xu hướng đầu tư vào doanh nghiệp
có nền tảng quản trị tốt, trách nhiệm với
môi trường, xã hội với mục tiêu phát triển
bền vững được dự báo sẽ rõ rệt hơn trong
thời gian tới.
Để có những luận giải khoa học hơn, nhóm
nghiên cứu đã làm rõ mối quan hệ giữa
ESG và quyết định đầu tư của nhà đầu
tư (NĐT) cá nhân trên thị trường chứng
khoán (TTCK) Việt Nam trên cơ sở khảo
sát 227 nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam.
Kết quả cho thấy yếu tố quản trị có ảnh
hưởng lớn nhất, tiếp theo là yếu tố xã hội
và yếu tố môi trường. Phần tiếp theo của
bài viết sẽ trình bày cụ thể kết quả nghiên
cứu bao gồm phần 2 cơ sở luận trình bày
các lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên
cứu và tổng quan các nghiên cứu trước đó;
phần 3 giới thiệu phương pháp nghiên cứu;
phần 4 bao gồm kết quả nghiên cứu và thảo
luận, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến
nghị và kết luận trong phần 5.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở luận
ESG là cụm từ viết tắt bởi E- Environmental
(Môi trường); S- Social (Xã hội) và G-
Governance (Quản trị doanh nghiệp), được
giới thiệu lần đầu tiên trong báo cáo “Who
cares wins” do Hiệp ước Toàn cầu của
Liên Hợp Quốc (United Nations, 2005)
xuất bản năm 2003 nhằm tập trung vào các
nhà đầu tư và nhà phân tích chính thống về
tính trọng yếu và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các vấn đề về môi trường, xã hội và quản
trị. Nội hàm về ESG đã được đề cập đến

Ảnh hưởng của môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến quyết định đầu tư
của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam
42 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
từ khá sớm, thể hiện bằng thuật ngữ CSR
(Corporate Social Responsibility)- hàm ý
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trích
từ cuốn sách “Social Responsibilities of
the Businessman” (1953) viết bởi Nhà kinh
tế học Howard Bowen.
Theo United Nations (2005), trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp là “một khái niệm
về hoạt động quản lý theo đó các công ty
tích hợp các mối quan tâm về xã hội và
môi trường trong hoạt động kinh doanh của
họ và tương tác với các bên liên quan” và
được chia thành bốn lĩnh vực chính: nhân
quyền (Tuyên bố chung về Nhân quyền),
quyền lao động (Tuyên bố của Tổ chức
Lao động Quốc tế về Các nguyên tắc và
quyền cơ bản tại nơi làm việc), các nguyên
tắc về môi trường (Tuyên bố Rio về Môi
trường và Phát triển) và chống tham nhũng
(Công ước Liên hợp quốc về chống tham
nhũng), (UNIDO, 2022).
Với xu hướng ưu tiên phát triển bền vững,
các chiến lược về ESG của doanh nghiệp
ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu
của các nhà đầu tư và các bên liên quan của
doanh nghiệp. Những cam kết mạnh mẽ
về ESG góp phần nâng cao vị thế, uy tín
và trách nhiệm của doanh nghiệp, và đứng
trên góc độ tài chính, đây có thể xem là một
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường, tạo cơ hội để doanh nghiệp gia tăng
khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu hút nguồn
lực từ các bên liên quan (UNIDO, 2022).
Đối với các nhà đầu tư theo đuổi mục tiêu
dài hạn và quản trị rủi ro các khoản đầu
tư chặt chẽ, các yếu tố ảnh hưởng đến nền
kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính cũng như
các yếu tố mang tính xu hướng dẫn dắt,
như về đầu tư trách nhiệm, đầu tư bền vững
luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định. Đây
là những yếu tố tạo ra hiệu quả đầu tư ở cả
hai khía cạnh là tỷ suất sinh lợi vượt trội
so với chỉ số tham chiếu, đồng thời quản
trị rủi ro hiệu quả với mức biến động thấp,
từ đó giúp nhà đầu tư đạt được mục tiêu tài
chính bền vững, dài hạn.
Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder
theory) khẳng định việc doanh nghiệp đảm
bảo lợi ích cân bằng giữa các bên liên quan
(nhà quản trị, cổ đông, người lao động…)
góp phần tích cực vào phát triển bền vững
của doanh nghiệp, thay vì chỉ tập trung
tối đa hoá giá trị cho các cổ đông, doanh
nghiệp (Freeman, 1984). ESG được coi
là nguồn lợi thế cạnh tranh khi các doanh
nghiệp thực hiện các nghĩa vụ đối với xã
hội, từ đó tạo được uy tín và niềm tin trong
xã hội. Parmar & cộng sự (2011) cho rằng
doanh nghiệp có thể củng cố danh tiếng và
hiệu quả tài chính bằng cách tập trung vào
nhu cầu và lợi ích của các bên liên quan,
đặc biệt là qua việc quản lý ESG. Nghiên
cứu cho rằng công bố thông tin về ESG
không chỉ là cách thể hiện danh tiếng mà
còn có ảnh hưởng tích cực đối với nhân
viên, khách hàng và nhà đầu tư, góp phần
nâng cao danh tiếng và sự thịnh vượng lâu
dài của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo
ESG, nhà đầu tư có cơ sở để đánh giá và
phân tích doanh nghiệp chi tiết hơn. Thay
vì xung đột lợi ích như lý thuyết đại diện,
hiệu quả tài chính và xã hội có thể hỗ trợ lẫn
nhau một cách tích cực đối với các doanh
nghiệp chú trọng đến các bên liên quan.
Lý thuyết đại diện (Agency theory) của
Jensen & Meckling (1976) nghiên cứu về
mối quan hệ giữa người đại diện và người
được đại diện trong một tổ chức. Lý thuyết
này cho rằng, khi người được đại diện ủy
quyền cho người đại diện thực hiện nhiệm
vụ thay cho mình, các lợi ích không trùng
khớp có thể dẫn đến mối quan hệ xung
đột. Cách tiếp cận này xem xét xung đột
lợi ích và đề xuất biện pháp loại bỏ nó.
Trong doanh nghiệp có hệ thống quản trị
và kiểm soát nội bộ mạnh mẽ, hội đồng
quản trị có thể thực hiện hoạt động giám sát
và kiểm toán hiệu quả hơn (Carter & cộng

TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
43
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
sự, 2003). Lý thuyết này cũng áp dụng vào
hoạt động ESG, cho rằng thực hành ESG
không mang lại lợi ích cho cổ đông vì có
thể làm giảm lợi nhuận. Nhiều nghiên cứu
(Peng & Isa, 2020; Allouche & Laroche,
2005; Brown & cộng sự, 2006; Schuler
& Cording, 2006; Barnea & Rubin, 2010;
Borghesi & cộng sự, 2014; Kao & cộng sự,
2018) đã ủng hộ kết luận này.
Những nền tảng lý thuyết nêu trên cho thấy
ESG trở thành xu hướng đầu tư hướng đến
phát triển bền vững của doanh nghiệp, đây
cũng là yếu tố được các nhà đầu tư xem xét
ra quyết định đầu tư vì ảnh hưởng trực tiếp
đến tỷ suất lợi nhuận vượt trội và mục tiêu
tài chính dài hạn.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
Sultana & cộng sự (2017) chỉ ra rằng quản trị
là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với việc
ra quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, tiếp
theo là các yếu tố xã hội và cuối cùng là môi
trường, trong khi kỳ hạn đầu tư không có
nhiều ý nghĩa. Nghiên cứu này nhấn mạnh
sự quan tâm của NĐT đối với các yếu tố
ESG, khuyến khích việc xây dựng báo cáo
ESG của doanh nghiệp và duy trì sự ổn định
của TTCK ở Bangladesh, góp phần vào sự
phát triển bền vững của quốc gia.
Mehwish & Kakakhel (2022) cho thấy các
NĐT rất nhạy cảm với các yếu tố ESG. Tác
động tổng hợp của ba yếu tố này mang lại lợi
ích thống kê và tích cực cho việc đầu tư. Quyết
định đầu tư của NĐT tại TTCK Pakistan bị
ảnh hưởng đáng kể và được chi phối bởi các
yếu tố quản trị, xã hội, và môi trường. Kết
quả nghiên cứu cũng khuyến nghị NĐT nên
đầu tư vào các công ty thực hiện tốt ESG để
tăng cường nguồn vốn đầu tư.
Li & cộng sự (2023) nghiên cứu về cách
NĐT cá nhân tại Hoa Kỳ giao dịch cổ
phiếu và xây dựng danh mục đầu tư dựa
trên tin tức liên quan đến hoạt động ESG
của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy NĐT cá nhân ở Hoa Kỳ xem xét các
tin tức về ESG như một yếu tố quan trọng
trong quyết định đầu tư của họ, đặc biệt là
tin tức liên quan đến "Lãnh đạo và Quản
trị". Điều này phản ánh sự quan trọng của
yếu tố quản trị trong việc ra quyết định đầu
tư của NĐT.
Huỳnh (2023) đã khám phá và tìm hiểu
mối quan hệ các thành tố Môi trường, Xã
hội và Quản trị (ESG) và các ảnh hưởng
của những thành tố này đến hiệu quả tài
chính của công ty và cuối cùng là ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư của các cá
nhân. Kết quả cho thấy trong số ba trụ cột
của ESG là môi trường, xã hội và quản trị,
cộng với biến trung gian tình hình tài chính
của doanh nghiệp và công nghệ số, chỉ có
môi trường, quản trị và tình trạng tài chính
có tác động đáng kể đến quyết định đầu tư
của các cá nhân được nghiên cứu. Nghiên
cứu đã chứng minh vai trò cốt lõi của các
yếu tố này trong việc hình thành nhận thức
và lựa chọn của các NĐT cá nhân.
Những nghiên cứu trước đó hầu hết đều
dẫn tới kết luận rằng các yếu tố môi trường,
xã hội và quản trị có tác động tích cực đến
quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, tuy
rằng với mỗi kết luận về mức độ tác động
từng yếu tố là khác nhau. Do vậy, vẫn còn
những khoảng trống nghiên cứu trong lĩnh
vực này.
Thứ nhất, để phân tích ảnh hưởng của các
yếu tố ESG đến quyết định đầu tư của NĐT
cá nhân hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có
nhiều nghiên cứu. Các nghiên cứu về ESG
chủ yếu phân tích về ảnh hưởng của ESG đến
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Trần
& Nguyễn, 2024; Đào & Chu, 2023; Đỗ &
cộng sự, 2023) chưa có nhiều nghiên cứu
phân tích cụ thể tác động của ESG đến quyết
định đầu tư của NĐT cá nhân tại Việt Nam.
Thứ hai, kết quả các nghiên cứu trước hầu
hết chứng minh rằng các nhân tố E, S, G có

Ảnh hưởng của môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến quyết định đầu tư
của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam
44 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư
của NĐT, song có một số nghiên cứu đưa
ra kết luận ngược lại. Nghiên cứu của Rusu
(2020) xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố
môi trường, xã hội và quản trị (ESG), hiệu
quả tài chính doanh nghiệp (CFP) và hành
vi đầu tư. Kết quả chỉ ra rằng việc tích hợp
ESG và hành vi kinh doanh có trách nhiệm
vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp
ảnh hưởng không đáng kể đến việc phân
tích cổ phiếu hoặc phân bổ vốn của NĐT.
Từ những cơ sở lý thuyết và tổng quan
nghiên cứu nêu trên, trong bài nghiên cứu
này nhóm tác giả tập trung phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường, xã hội và
quản trị đến quyết định đầu tư của NĐT cá
nhân trên TTCK Việt Nam. Để thực hiện,
nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu
bao gồm biến phụ thuộc là quyết định đầu
tư của NĐT cá nhân, các biến độc lập là
“môi trường”, “xã hội” và “quản trị”, biến
điều tiết là thời hạn đầu tư.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác
giả áp dụng mô hình PLS-SEM để tiến
hành đánh giá số liệu và kiểm định các giả
thuyết, từ đó đánh giá mô hình và làm rõ
các giả thuyết nghiên cứu từ nguồn dữ liệu
khảo sát thu thập được. Sau đó nhóm tác
giả sẽ sử dụng phần mềm Smart PLS3 để
mô tả dữ liệu và kiểm định mô hình, từ đó
đưa ra kết quả của nghiên cứu.
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Để thu thập thông tin của NĐT cá nhân
trên TTCK Việt Nam, nhóm tác giả thiết
kế bộ câu hỏi khảo sát bao gồm 02 phần:
Phần 1- Thu thập thông tin cá nhân của
NĐT (05 câu hỏi) và Phần 2- Quan điểm
của NĐT về các vấn đề môi trường, xã
hội và quản trị trong doanh nghiệp (15 câu
hỏi) trên Google Form và được gửi tới các
NĐT qua các trang mạng xã hội, các diễn
đàn, hội nhóm, các công ty chứng khoán tại
Việt Nam … Kết quả đã thu được tổng 227
câu trả lời hoàn chỉnh từ những NĐT tham
gia. Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng
câu hỏi đóng vì loại câu hỏi này mang lại
tỷ lệ phản hồi cao hơn, dữ liệu dễ mã hóa
và phân tích (Rowley, 2014). Nhóm câu
hỏi ở Phần 2 được tác giả sử dụng Thang
đo Likert 5 bậc có điểm từ 1-5 tương ứng
lần lượt là:1- Hoàn toàn không đồng ý; 2-
Không đồng ý; 3- Bình thường; 4- Đồng ý;
5- Hoàn toàn đồng ý. (Chi tiết tại Bảng 3).
Thời gian thực hiện khảo sát: từ ngày
05/04/2024 đến ngày 20/04/2024. Kết
quả của khảo sát thu được 227 câu trả lời
hoàn chỉnh (tác giả đã loại đi 10 phiếu do
Yếu tố môi trường
Yếu tố xã hội Quyết định đầu tư
Thời hạn đầu tư
Yếu tố quản trị
Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả
Hình 1. Mô hình nghiên cứu