Ảnh hưởng của môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Trần Thị Xuân Anh1, Nguyễn Phương Thảo2 Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Ngày nhận: 02/06/2024 Ngày nhận bản sửa: 02/09/2024 Ngày duyệt đăng: 23/09/2024
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Nền tảng lý thuyết bao gồm Lý thuyết hành vi có kế hoạch, Lý thuyết đại diện và Lý thuyết các bên liên quan. Từ dữ liệu khảo sát 227 nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam, nhóm tác giả tiến hành đánh giá mô hình và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu thông qua phương pháp PLS-SEM. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh được có mối quan hệ giữa vấn đề ESG và quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó yếu tố quản trị có ảnh hưởng lớn nhất, tiếp theo là yếu tố xã hội và yếu tố môi trường. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số khuyến nghị đối với nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư.
Impact of ESG on individual investors’ investment decisions on Vietnam stock exchanges
Abstract: The research was conducted to analyze the influence of environmental, social, and governance (ESG) on the investment decisions of individual investors in the Vietnam Stock Market. Theoretical background includes the Theory of Planned Behavior, Agency Theory, and Stakeholder Theory. From survey data of 227 individual investors in Vietnam, the authors conducted the model evaluation and tested research hypotheses through the PLS-SEM method. Empirical research results have proven a relationship between ESG issues and investment decisions of individual investors on the Vietnamese stock market, in which governance factors have the greatest influence, followed by social and environmental factors. Based on the research results, the article proposes some recommendations for individual investors in Vietnam in the process of making investment decisions.
Keywords: ESG, Investment Decisions, Individual Investor, Investment Horizon, Stock market Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2755
Tran, Thi Xuan Anh1, Nguyen, Phuong Thao2 Email: anhttx@hvnh.edu.vn1, 23a4010600@hvnh.edu.vn2 Organization of all: Banking Academy of Vietnam
40
Từ khóa: ESG, Quyết định đầu tư, Nhà đầu tư cá nhân, Thời hạn đầu tư, Thị trường chứng khoán
1. Giới thiệu
nhiều nhà đầu tư nhìn nhận lại chiến lược đầu tư. Xu hướng đầu tư vào doanh nghiệp có nền tảng quản trị tốt, trách nhiệm với môi trường, xã hội với mục tiêu phát triển bền vững được dự báo sẽ rõ rệt hơn trong thời gian tới. Để có những luận giải khoa học hơn, nhóm nghiên cứu đã làm rõ mối quan hệ giữa ESG và quyết định đầu tư của nhà đầu tư (NĐT) cá nhân trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trên cơ sở khảo sát 227 nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam. Kết quả cho thấy yếu tố quản trị có ảnh hưởng lớn nhất, tiếp theo là yếu tố xã hội và yếu tố môi trường. Phần tiếp theo của bài viết sẽ trình bày cụ thể kết quả nghiên cứu bao gồm phần 2 cơ sở luận trình bày các lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên cứu và tổng quan các nghiên cứu trước đó; phần 3 giới thiệu phương pháp nghiên cứu; phần 4 bao gồm kết quả nghiên cứu và thảo luận, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị và kết luận trong phần 5.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở luận
Phát triển bền vững (PTBV) đang là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của quốc gia, doanh nghiệp bao gồm các khía cạnh bền vững về môi trường, xã hội và quản trị (ESG- Environment, Social, Governance). Theo PwC (2022), gần 80% các doanh nghiệp đã đặt ra cam kết hoặc đang lên kế hoạch sớm thực hành ESG do tác động từ nhu cầu của người tiêu dùng, người lao động và các nhà đầu tư (NĐT). Việc thực hiện các nguyên tắc về ESG không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ cộng đồng và thị trường, mà còn tạo ra cơ hội mới và giúp tăng cường vị thế cạnh tranh trên thị trường, góp phần quan trọng vào việc hình thành một môi trường kinh doanh tích cực và bền vững tại các quốc gia. Các nhà đầu tư thay vì chỉ quan tâm đến các kết qủa kinh doanh và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp đã tích hợp những yếu tố ESG vào quá trình phân tích đầu tư hướng tới việc cân bằng giữa những lợi ích xã hội và lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp trong những năm gần đây. Tại Việt Nam, từ năm 2017, Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE) đã giới thiệu chỉ số phát triển bền vững Việt Nam (VNSI) bao gồm 20 doanh nghiệp có điểm chỉ số phát triển bền vững cao nhất niêm yết trên HOSE. Điều này cũng hàm ý rằng ESG chính thức trở thành yếu tố được cân nhắc đưa vào quyết định phân tích đầu tư ở thị trường Việt Nam, với mục đích cung cấp góc nhìn rộng hơn về rủi ro và cơ hội đầu tư vào cổ phiếu của một công ty. Bên cạnh đó, những biến động thất thường trên thị trường chứng khoán hiện nay đã khiến
ESG là cụm từ viết tắt bởi E- Environmental (Môi trường); S- Social (Xã hội) và G- Governance (Quản trị doanh nghiệp), được giới thiệu lần đầu tiên trong báo cáo “Who cares wins” do Hiệp ước Toàn cầu của Liên Hợp Quốc (United Nations, 2005) xuất bản năm 2003 nhằm tập trung vào các nhà đầu tư và nhà phân tích chính thống về tính trọng yếu và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các vấn đề về môi trường, xã hội và quản trị. Nội hàm về ESG đã được đề cập đến
41
từ khá sớm, thể hiện bằng thuật ngữ CSR (Corporate Social Responsibility)- hàm ý trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trích từ cuốn sách “Social Responsibilities of the Businessman” (1953) viết bởi Nhà kinh tế học Howard Bowen. Theo United Nations (2005), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là “một khái niệm về hoạt động quản lý theo đó các công ty tích hợp các mối quan tâm về xã hội và môi trường trong hoạt động kinh doanh của họ và tương tác với các bên liên quan” và được chia thành bốn lĩnh vực chính: nhân quyền (Tuyên bố chung về Nhân quyền), quyền lao động (Tuyên bố của Tổ chức Lao động Quốc tế về Các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc), các nguyên tắc về môi trường (Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển) và chống tham nhũng (Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng), (UNIDO, 2022). Với xu hướng ưu tiên phát triển bền vững, các chiến lược về ESG của doanh nghiệp ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư và các bên liên quan của doanh nghiệp. Những cam kết mạnh mẽ về ESG góp phần nâng cao vị thế, uy tín và trách nhiệm của doanh nghiệp, và đứng trên góc độ tài chính, đây có thể xem là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, tạo cơ hội để doanh nghiệp gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu hút nguồn lực từ các bên liên quan (UNIDO, 2022). Đối với các nhà đầu tư theo đuổi mục tiêu dài hạn và quản trị rủi ro các khoản đầu tư chặt chẽ, các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính cũng như các yếu tố mang tính xu hướng dẫn dắt, như về đầu tư trách nhiệm, đầu tư bền vững luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định. Đây là những yếu tố tạo ra hiệu quả đầu tư ở cả hai khía cạnh là tỷ suất sinh lợi vượt trội so với chỉ số tham chiếu, đồng thời quản trị rủi ro hiệu quả với mức biến động thấp,
từ đó giúp nhà đầu tư đạt được mục tiêu tài chính bền vững, dài hạn. Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory) khẳng định việc doanh nghiệp đảm bảo lợi ích cân bằng giữa các bên liên quan (nhà quản trị, cổ đông, người lao động…) góp phần tích cực vào phát triển bền vững của doanh nghiệp, thay vì chỉ tập trung tối đa hoá giá trị cho các cổ đông, doanh nghiệp (Freeman, 1984). ESG được coi là nguồn lợi thế cạnh tranh khi các doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ đối với xã hội, từ đó tạo được uy tín và niềm tin trong xã hội. Parmar & cộng sự (2011) cho rằng doanh nghiệp có thể củng cố danh tiếng và hiệu quả tài chính bằng cách tập trung vào nhu cầu và lợi ích của các bên liên quan, đặc biệt là qua việc quản lý ESG. Nghiên cứu cho rằng công bố thông tin về ESG không chỉ là cách thể hiện danh tiếng mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với nhân viên, khách hàng và nhà đầu tư, góp phần nâng cao danh tiếng và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo ESG, nhà đầu tư có cơ sở để đánh giá và phân tích doanh nghiệp chi tiết hơn. Thay vì xung đột lợi ích như lý thuyết đại diện, hiệu quả tài chính và xã hội có thể hỗ trợ lẫn nhau một cách tích cực đối với các doanh nghiệp chú trọng đến các bên liên quan. Lý thuyết đại diện (Agency theory) của Jensen & Meckling (1976) nghiên cứu về mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện trong một tổ chức. Lý thuyết này cho rằng, khi người được đại diện ủy quyền cho người đại diện thực hiện nhiệm vụ thay cho mình, các lợi ích không trùng khớp có thể dẫn đến mối quan hệ xung đột. Cách tiếp cận này xem xét xung đột lợi ích và đề xuất biện pháp loại bỏ nó. Trong doanh nghiệp có hệ thống quản trị và kiểm soát nội bộ mạnh mẽ, hội đồng quản trị có thể thực hiện hoạt động giám sát và kiểm toán hiệu quả hơn (Carter & cộng
42
sự, 2003). Lý thuyết này cũng áp dụng vào hoạt động ESG, cho rằng thực hành ESG không mang lại lợi ích cho cổ đông vì có thể làm giảm lợi nhuận. Nhiều nghiên cứu (Peng & Isa, 2020; Allouche & Laroche, 2005; Brown & cộng sự, 2006; Schuler & Cording, 2006; Barnea & Rubin, 2010; Borghesi & cộng sự, 2014; Kao & cộng sự, 2018) đã ủng hộ kết luận này. Những nền tảng lý thuyết nêu trên cho thấy ESG trở thành xu hướng đầu tư hướng đến phát triển bền vững của doanh nghiệp, đây cũng là yếu tố được các nhà đầu tư xem xét ra quyết định đầu tư vì ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ suất lợi nhuận vượt trội và mục tiêu tài chính dài hạn.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
Sultana & cộng sự (2017) chỉ ra rằng quản trị là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với việc ra quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, tiếp theo là các yếu tố xã hội và cuối cùng là môi trường, trong khi kỳ hạn đầu tư không có nhiều ý nghĩa. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự quan tâm của NĐT đối với các yếu tố ESG, khuyến khích việc xây dựng báo cáo ESG của doanh nghiệp và duy trì sự ổn định của TTCK ở Bangladesh, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia. Mehwish & Kakakhel (2022) cho thấy các NĐT rất nhạy cảm với các yếu tố ESG. Tác động tổng hợp của ba yếu tố này mang lại lợi ích thống kê và tích cực cho việc đầu tư. Quyết định đầu tư của NĐT tại TTCK Pakistan bị ảnh hưởng đáng kể và được chi phối bởi các yếu tố quản trị, xã hội, và môi trường. Kết quả nghiên cứu cũng khuyến nghị NĐT nên đầu tư vào các công ty thực hiện tốt ESG để tăng cường nguồn vốn đầu tư. Li & cộng sự (2023) nghiên cứu về cách NĐT cá nhân tại Hoa Kỳ giao dịch cổ phiếu và xây dựng danh mục đầu tư dựa trên tin tức liên quan đến hoạt động ESG
của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy NĐT cá nhân ở Hoa Kỳ xem xét các tin tức về ESG như một yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư của họ, đặc biệt là tin tức liên quan đến "Lãnh đạo và Quản trị". Điều này phản ánh sự quan trọng của yếu tố quản trị trong việc ra quyết định đầu tư của NĐT. Huỳnh (2023) đã khám phá và tìm hiểu mối quan hệ các thành tố Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) và các ảnh hưởng của những thành tố này đến hiệu quả tài chính của công ty và cuối cùng là ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các cá nhân. Kết quả cho thấy trong số ba trụ cột của ESG là môi trường, xã hội và quản trị, cộng với biến trung gian tình hình tài chính của doanh nghiệp và công nghệ số, chỉ có môi trường, quản trị và tình trạng tài chính có tác động đáng kể đến quyết định đầu tư của các cá nhân được nghiên cứu. Nghiên cứu đã chứng minh vai trò cốt lõi của các yếu tố này trong việc hình thành nhận thức và lựa chọn của các NĐT cá nhân. Những nghiên cứu trước đó hầu hết đều dẫn tới kết luận rằng các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị có tác động tích cực đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, tuy rằng với mỗi kết luận về mức độ tác động từng yếu tố là khác nhau. Do vậy, vẫn còn những khoảng trống nghiên cứu trong lĩnh vực này. Thứ nhất, để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố ESG đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu. Các nghiên cứu về ESG chủ yếu phân tích về ảnh hưởng của ESG đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Trần & Nguyễn, 2024; Đào & Chu, 2023; Đỗ & cộng sự, 2023) chưa có nhiều nghiên cứu phân tích cụ thể tác động của ESG đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân tại Việt Nam. Thứ hai, kết quả các nghiên cứu trước hầu hết chứng minh rằng các nhân tố E, S, G có
43
Thời hạn đầu tư
Yếu tố môi trường
Yếu tố xã hội
Quyết định đầu tư
Yếu tố quản trị
Nguồn: Đề xuất của nhóm tác giả
Hình 1. Mô hình nghiên cứu
giả sẽ sử dụng phần mềm Smart PLS3 để mô tả dữ liệu và kiểm định mô hình, từ đó đưa ra kết quả của nghiên cứu.
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư của NĐT, song có một số nghiên cứu đưa ra kết luận ngược lại. Nghiên cứu của Rusu (2020) xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG), hiệu quả tài chính doanh nghiệp (CFP) và hành vi đầu tư. Kết quả chỉ ra rằng việc tích hợp ESG và hành vi kinh doanh có trách nhiệm vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp ảnh hưởng không đáng kể đến việc phân tích cổ phiếu hoặc phân bổ vốn của NĐT. Từ những cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu nêu trên, trong bài nghiên cứu này nhóm tác giả tập trung phân tích ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. Để thực hiện, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu bao gồm biến phụ thuộc là quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, các biến độc lập là “môi trường”, “xã hội” và “quản trị”, biến điều tiết là thời hạn đầu tư.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác giả áp dụng mô hình PLS-SEM để tiến hành đánh giá số liệu và kiểm định các giả thuyết, từ đó đánh giá mô hình và làm rõ các giả thuyết nghiên cứu từ nguồn dữ liệu khảo sát thu thập được. Sau đó nhóm tác
Để thu thập thông tin của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam, nhóm tác giả thiết kế bộ câu hỏi khảo sát bao gồm 02 phần: Phần 1- Thu thập thông tin cá nhân của NĐT (05 câu hỏi) và Phần 2- Quan điểm của NĐT về các vấn đề môi trường, xã hội và quản trị trong doanh nghiệp (15 câu hỏi) trên Google Form và được gửi tới các NĐT qua các trang mạng xã hội, các diễn đàn, hội nhóm, các công ty chứng khoán tại Việt Nam … Kết quả đã thu được tổng 227 câu trả lời hoàn chỉnh từ những NĐT tham gia. Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng câu hỏi đóng vì loại câu hỏi này mang lại tỷ lệ phản hồi cao hơn, dữ liệu dễ mã hóa và phân tích (Rowley, 2014). Nhóm câu hỏi ở Phần 2 được tác giả sử dụng Thang đo Likert 5 bậc có điểm từ 1-5 tương ứng lần lượt là:1- Hoàn toàn không đồng ý; 2- Không đồng ý; 3- Bình thường; 4- Đồng ý; 5- Hoàn toàn đồng ý. (Chi tiết tại Bảng 3). Thời gian thực hiện khảo sát: từ ngày 05/04/2024 đến ngày 20/04/2024. Kết quả của khảo sát thu được 227 câu trả lời hoàn chỉnh (tác giả đã loại đi 10 phiếu do
44
Bảng 1. Thống kê mô tả mẫu về thông tin cá nhân của NĐT
Thành phần Số người Tỷ lệ (%) Nhóm
Nam 134 59,03 Giới tính Nữ 93 40,97
Dưới 23 tuổi 78 34,36
Từ 24-29 tuổi 104 45,81
Độ tuổi Từ 30-39 tuổi 37 16,30
Từ 40-54 tuổi 7 3,08
Trên 55 tuổi 1 0,44
THCS/THPT 25 11,01
Cao đẳng 57 25,11
Trình độ học vấn Đại học 123 54,19
Thạc sỹ 18 7,93
Tiến sỹ 4 1,76
Dưới 2 năm kinh nghiệm 139 61,23
Từ 2-5 năm kinh nghiệm 76 33,48 Kinh nghiệm đầu tư Từ 5-7 năm kinh nghiệm 8 3,52
Trên 7 năm kinh nghiệm 4 1,76
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ kết quả khảo sát
hội và quản trị trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư. Bảng 2 dưới đây mô tả kết quả thu thập được về biến phụ thuộc.
3.2.2. Biến độc lập
có câu trả lời bị khuyết, bỏ trống). Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của Rowley (2014), nhóm tác giả đã thu thập thông tin về đặc điểm cá nhân của các nhà đầu tư tham gia khảo sát được tác giả thống kê trong Bảng 1.
Bảng 2. Thống kê về biến phụ thuộc trong mô hình
3.2. Các biến nghiên cứu
Số người Tỷ lệ (%) Câu hỏi: Tỷ lệ đầu tư mà anh/chị muốn thực hiện vào các doanh nghiệp có những kế hoạch đầu tư và triển khai thực hành ESG là bao nhiêu? Mã biến Nội dung lựa chọn 0% 20 8,81
Dưới 25% 40 17,62
TYLE Từ 25-50% 59 25,99
Từ 50-75% 79 34,8
Trên 75% 29 12,78
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
3.2.1. Biến phụ thuộc Trong mô hình, biến phụ thuộc là quyết định đầu tư của các NĐT cá nhân. Để đo lường biến phụ thuộc, nhóm tác giả sử dụng một biến quan sát được gọi là biến TYLE, tức tỷ lệ đầu tư vào doanh nghiệp có hoạt động ESG trong danh mục đầu tư của NĐT. Kế thừa kết quả nghiên cứu của Rowley (2014), biến TYLE được sử dụng để đo lường mức độ quan tâm và ưu tiên của NĐT đối với các yếu tố môi trường, xã
45
4- Đồng ý; 5- Hoàn toàn đồng ý.
Tương tự như các nghiên cứu của Haniffa & Cook (2002), Saleh & cộng sự (2010), Rouf (2011) để đo lường mức độ công bố thông tin ESG, tác giả đã sử dụng bảng câu hỏi khảo sát (Bảng 3) để thu thập thông tin về các biến quan sát được sử dụng để đo lường các biến độc lập trong mô hình. Mỗi biến độc lập được đo lường bằng 5 biến quan sát, mỗi biến quan sát tương ứng với một câu hỏi trong Phần 2 của bộ câu hỏi khảo sát, các câu hỏi được tác giả sử dụng Thang đo Likert 5 bậc có điểm từ 1-5 tương ứng lần lượt là: 1- Hoàn toàn không đồng ý; 2- Không đồng ý; 3- Bình thường;
3.2.3. Biến điều tiết Theo Dorfleitner & Utz (2014), thời hạn đầu tư của các NĐT có trách nhiệm xã hội có tác động lớn đến tỷ lệ đầu tư có trách nhiệm xã hội trong danh mục đầu tư của họ và sự sẵn sàng hy sinh lợi nhuận từ quỹ SRI của NĐT, điều này ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chung. Do vậy, để mô hình có tính liên kết hơn, cũng như gắn với thực tế, tác giả sử dụng một biến điều tiết là thời hạn đầu tư- THOIHAN. Bảng 4 dưới đây mô tả kết quả thu thập trên cơ sở câu hỏi
Bảng 3. Các nhân tố và biến quan sát trong mô hình
Nội dung câu hỏi khảo sát Thang đo
Mã Yếu tố môi trường: Anh/chị quan tâm đến những vấn đề về môi trường nào dưới đây khi xem xét quyết định đầu tư?
1-5 E1 Hậu quả của hiện tượng biến đổi khí hậu như là sự nóng lên toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, ... Xử lý chất thải một cách hợp lý 1-5 E2
1-5 E3 Sử dụng tối ưu nguồn vật liệu, nước, tận dụng nguồn năng lượng mặt trời để tiết kiệm điện Giảm các khí độc hại từ quá trình sản xuất 1-5 E4
Sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường 1-5 E5
Yếu tố xã hội: Anh/chị quan tâm đến những vấn đề xã hội nào dưới đây khi xem xét đầu tư vào doanh nghiệp?
Sức khỏe và sự an toàn của đội ngũ nhân viên cũng như người lao động 1-5 S1
1-5 S2 Những chính sách phúc lợi xã hội đảm bảo công bằng cho tất cả cán bộ, nhân viên và người lao động Duy trì mối quan hệ tốt với chính phủ và cộng đồng 1-5 S3
Tôn trọng các công ước cơ bản về nhân quyền 1-5 S4
1-5 S5 Tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo nhằm phát triển kỹ năng, năng lực làm việc của nhân viên
Yếu tố quản trị: Anh/chị quan tâm đến những vấn đề quản trị nào dưới đây khi xem xét đầu tư vào doanh nghiệp?
Tính độc lập và trách nhiệm của Hội đồng quản trị 1-5 G1
Kiểm soát các vấn đề tham nhũng và hối lộ trong doanh nghiệp 1-5 G2
Đảm bảo về quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông 1-5 G3
Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong báo cáo tài chính 1-5 G4
Tuân thủ các quy định của pháp luật 1-5 G5
Tổng cộng: 15 biến quan sát
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
46
Bảng 4. Thống kê về biến điều tiết trong mô hình
tố Môi trường (E) và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam?
Mã Số người Tỷ lệ (%)
55 24,23
78 THOIHAN 34,36
94 41,41 Nội dung lựa chọn Đầu tư ngắn hạn, dưới 1 năm Đầu tư trung hạn, từ 1-3 năm Đầu tư dài hạn, trên 3 năm
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
khảo sát về “Kỳ hạn đầu tư mà nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn?”.
3.3. Giả thuyết nghiên cứu
Quyết định đầu tư của NĐT cũng bị ảnh hưởng bởi yếu tố xã hội, không chỉ giới hạn ở yếu tố môi trường (Crifo & cộng sự, 2015). Các vấn đề xã hội là một trong những phần quan trọng trong việc xem xét ESG của NĐT vào quỹ hưu bổng của Úc (Zwaan & cộng sự, 2015). Perez-Gladish & cộng sự (2012) nhận thấy các vấn đề xã hội được ưu tiên hơn các vấn đề về môi trường và quản trị ở Úc. Trong số những điểm nổi bật của các vấn đề xã hội là quan hệ cộng đồng với người lao động, an toàn lao động cũng như nhân quyền (Berry & Junkus, 2013; Rakotomavo, 2011). Để tìm làm rõ liệu các NĐT ở Việt Nam có xem xét các vấn đề xã hội của các công ty trong quyết định đầu tư của họ hay không, nhóm tác giả đã xây dựng giả thuyết H2 đưa ra:
H2: Tồn tại mối quan hệ tích cực giữa yếu tố Xã hội (S) và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam?
Các nghiên cứu thực nghiệm đã biện luận khá rõ về ảnh hưởng của các thông tin về môi trường đến hành vi của NĐT, chẳng hạn, hiệu suất sử dụng năng lượng, năng lượng tái tạo, ô nhiễm không khí, nước hoặc tài nguyên, mất đa dạng sinh học, thay đổi chu trình nitơ và phốt pho, axit hóa đại dương và thay đổi trong việc sử dụng đất. Nakamura (2013) chỉ ra rằng đa số NĐT ở Nhật Bản quan tâm chủ yếu đến chính sách môi trường của tổ chức, tương tự như phát hiện của Zwaan & cộng sự (2015) tại Úc về nhận thức của NĐT với các vấn đề ESG. Nair & Ladha (2014) cũng nhận thấy rằng NĐT Ấn Độ coi môi trường là vấn đề quan trọng khi xem xét các mục tiêu phi kinh tế khi ra quyết định đầu tư. Với sự nhận thức ngày càng tăng của NĐT trên thế giới về các vấn đề môi trường khi ra quyết định đầu tư, việc nghiên cứu cách các NĐT cá nhân ở Việt Nam xem xét các vấn đề môi trường trong quyết định đầu tư của họ là rất quan trọng. Do đó, giả thuyết H1 được đưa ra:
Nghiên cứu của Crifo & cộng sự (2015) đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư đã xem xét kỹ các vấn đề về quản trị doanh nghiệp để phân tích hiệu quả về tài chính và kinh tế của doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Kết quả khảo sát của Zwaan & cộng sự (2015) đối với các nhà đầu tư tại Úc cho thấy hơn 64% số người được hỏi cho biết họ đặc biệt quan tâm đến vấn đề quản trị doanh nghiệp, tuy nhiên điều này hoàn toàn ngược lại với kết quả nghiên cứu trên TTCK của Brazil (Miralles-Quirós & cộng sự, 2018). Trong khi đó, nghiên cứu của Perez-Gladish & cộng sự (2012) kết luận rằng mặc dù các NĐT rất chú ý đến các vấn đề xã hội nhưng họ cũng lo ngại về lợi nhuận tài chính của mình, điều này dẫn tới họ ưu tiên về quản trị công ty hơn.
H1: Tồn tại mối quan hệ tích cực giữa yếu
47
Để minh chứng rõ hơn về vấn đề này trên TTCK Việt Nam, nhóm tác giả xem xét giả thuyết H3:
của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam H4c: Thời hạn đầu tư điều tiết mối quan hệ giữa yếu tố quản trị và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
H3: Tồn tại mối quan hệ tích cực giữa yếu tố Quản trị (G) và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam?
4.1. Đánh giá mô hình đo lường
4.1.1. Đánh giá chất lượng của biến quan sát Hair & cộng sự (2016) cho rằng hệ số tải ngoài (Outer loadings) cần lớn hơn hoặc bằng 0,708 biến quan sát đó là chất lượng. Trong 15 biến quan sát như đã được trình bày ở Bảng 3, có 02 biến quan sát có hệ số tải nhỏ hơn 0,708 là E2 (0,633) và G2 (0,498), các biến quan sát còn lại đều thỏa mãn điều kiện lớn hơn 0,708. Nếu loại bỏ hai biến này khỏi mô hình thì giá trị của độ tin cậy sẽ được cải thiện. Do vậy nhóm tác giả quyết định loại trừ hai biến quan sát E2, G2 khỏi mô hình.
Thời hạn đầu tư đề cập đến các chiến lược đầu của NĐT, bao gồm đầu tư ngắn hạn (dưới 1 năm), đầu tư trung hạn (từ 1 đến 3 năm) hoặc đầu tư dài hạn (trên 3 năm), nhằm xác định mục đích của một khoản đầu tư (Dorfleitner & Utz, 2014). Theo Perez- Gladish & cộng sự (2012), ở Úc, NĐT dài hạn sẽ chấp nhận giảm giá trị đầu tư trong ngắn hạn nếu có lợi nhuận tốt. Nghiên cứu của Fin (2012) cũng chỉ ra rằng hoạt động phi tài chính như môi trường, xã hội và quản trị của các công ty ảnh hưởng đến giá trị đầu tư trong dài hạn, với sự chú ý đặc biệt đến thời hạn đầu tư của các NĐT (Sørensen & Pfeifer, 2011). Do vậy, thời hạn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quyết định của NĐT cá nhân. Kết hợp thời hạn đầu tư như một yếu tố điều tiết có thể bổ sung vào các tài liệu về môi trường, xã hội và quản trị (ESG), dẫn đến hình thành các giả thuyết H4, H4a, H4b và H4c. Các giả thuyết này liên quan đến mối quan hệ giữa thời hạn đầu tư và các yếu tố môi trường, xã hội, quản trị và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân.
H4: Thời hạn đầu tư điều tiết mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường, xã hội, quản trị và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. H4a: Thời hạn đầu tư điều tiết mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. H4b: Thời hạn đầu tư điều tiết mối quan hệ giữa yếu tố xã hội và quyết định đầu tư
4.1.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Độ tin cậy của thang đo được đánh giá qua hai chỉ số chính là Cronbach’s Alpha và Composite Reliability (CR). Phùng (2024) cho rằng hệ số Cronbach’s Alpha với các giá trị càng cao thì mức độ tin cậy của cấu trúc càng cao. Cụ thể, các giá trị từ 0,60 đến 0,70 là có thể chấp nhận được trong nghiên cứu có tính khám phá, trong khi trong các giai đoạn cao hơn của nghiên cứu, thì các giá trị giữa 0,70 và 0,90 có thể được coi là thỏa đáng. Có thể thấy hệ số Cronbach’s Alpha của các biến trong mô hình đều nằm trong khoảng 0,70 đến 0,90, đây là mức có thể được coi là thỏa đáng. Khi đánh giá hệ số Composite Reliability (CR), Mai (2020) cho rằng trong một mô hình có tính chất khám phá, nếu hệ số này ≥ 0,6 là chấp nhận được và nếu trong trường hợp mô hình khẳng định, hệ số ≥ 0,7 là phù
48
Bảng 5. Các hệ số đánh giá mô hình đo lường
Biến quan sát Outer loadings Cronbach’s Alpha AVE Composite reli- ability Môi trường 0,856 0,931 0,693
E1 0,771
E2 0,633
E3 0,795
E4 0,851
E5 0,907
Xã hội 0,903 0,904 0,0723
S1 0,771
S2 0,876
S3 0,888
S4 0,846
S5 0,867
Quản trị 0,844 1,050 0,661
G1 0,774
G2 0,498
G3 0,726
G4 0,842
G5 0,900
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
Từ Bảng 5 có thể thấy cả ba nhân tố môi trường, xã hội và quản trị đều có hệ số AVE lớn hơn 0,5, cụ thể là 0,693; 0,723 và 0,661. Như vậy có thể kết luận rằng các yếu tố trong mô hình đều thể hiện giá trị hội tụ tốt.
hợp. Từ Bảng 5 có thể thấy rằng hệ số CR ở tất cả các biến được nghiên cứu trong mô hình đều lớn hơn 0,7. Như vậy, qua những đánh giá về hai chỉ số Cronbach’s Alpha và Composite Reliability (CR) có thể kết luận được thang đo có độ tin cậy tốt.
4.1.3. Đánh giá mức độ chính xác về sự hội tụ AVE Hệ số Average Variance Extracted (AVE) được sử dụng để kiểm tra độ hội tụ và phân tán của mô hình. Một mô hình tốt cần có hệ số AVE từ 0,5 trở lên (Hock & Ringle, 2006). Ngược lại, khi giá trị AVE nhỏ hơn 0,5 chứng tỏ rằng vẫn còn tồn tại nhiều sai số trong biến quan sát, dẫn tới mô hình chưa thực sự tốt (Hair & cộng sự, 2016).
4.1.4. Đánh giá tính phân biệt của thang đo Để đánh giá tính phân biệt của thang đo, các nghiên cứu trước đây thường dựa vào tiêu chí của Fornell-Larcker. Tuy nhiên tiêu chí này không tiếp cận một cách đáng tin cậy các vấn đề về giá trị phân biệt, nó thể hiện rất yếu khi hệ số tải của biến quan sát trong mỗi khái niệm khác biệt nhau ít. Do vậy các nhà nghiên cứu đề xuất đánh giá qua tỷ lệ đặc điểm dị biệt - đặc điểm đơn nhất (Heterotrait-monotrait- HTMT)
49
Bảng 6. Giá trị phân biệt theo hệ số HTMT
Quyết định Quản trị Thời hạn Môi trường Môi trường *thời hạn Quản trị *thời hạn Xã hội *thời hạn Môi trường
0,071 Môi trường*thời hạn 0,290 0,182 Quyết định
0,074 0,150 0,515 Quản trị
0,135 0,030 0,152 0,120 Quản trị*thời hạn 0,078 0,004 0,088 0,094 0,040 thời hạn
0,078 0,594 0,062 0,048 0,217 0,037 Xã hội*thời hạn
0,682 0,032 0,437 0,265 0,050 0,065 0,065 Xã hội
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
của các mối tương quan. Tiêu chuẩn HTMT của các cặp cấu trúc để đạt được giá trị phân biệt là 0,85 (<= 0,85) (Hair và cộng sự, 2016). Có thể thấy, tất cả các giá trị HTMT trong nghiên cứu đều nhỏ hơn nhiều so với ngưỡng 0,85, do vậy mô hình đạt yêu cầu về giá trị phân biệt.
4.2. Đánh giá mô hình cấu trúc
hình có giá trị 0,444 cho thấy rằng 44,4% sự thay đổi trong quyết định của NĐT cá nhân được giải thích bởi các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị, còn lại 55,6% là từ sai số hệ thống và các nhân tố khác nằm ngoài mô hình. Đánh giá hệ số tác động f2: Cohen (1988) đã phân loại mức độ tác động của biến độc lập trong mô hình SEM thành ba nhóm như sau: Mức độ tác động lớn với f2≥ 0,35; mức độ tác động trung bình với 0,15 ≤ f2< 0,35; mức độ tác động nhỏ với 0,02 ≤ f2< 0,15; và mức độ tác động cực kỳ nhỏ hoặc không tác động với f2< 0,02. Các yếu tố môi trường, xã hội, quản trị và thời hạn đều ảnh hưởng đến quyết định của NĐT với các mức độ khác nhau. Yếu tố quản trị có
Bảng 7. Kết quả các hệ số VIF, R2, f2
VIF R2 f2 Biến nghiên cứu 0,444 Quyết định
Môi trường 1,664 0,026
Quản trị 1,134 0,371
Thời hạn 1,018 0,019
Xã hội 1,773 0,039
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
Đánh giá mức độ cộng tuyến: các nhà nghiên cứu sử dụng hệ số phóng đại phương sai (VIF) để đánh giá mức độ cộng tuyến trong mô hình. Hair & Cộng sự (2016) cho rằng chỉ số VIF < 10 có thể chấp nhận được; tuy nhiên, để đảm bảo độ tin cậy chỉ số VIF không được lớn hơn 5. Từ Bảng 7 có thể thấy hệ số VIF của các biến độc lập đều nhỏ hơn 5 nên có thể kết luận rằng mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến. Đánh giá hệ số tổng thể xác định: Hệ số R2 biểu thị cho mức độ giải thích của các biến độc lập lên biến phụ thuộc trong mô hình. Hệ số R2 dao động trong khoảng từ 0 đến 1, hệ số này càng tiến gần về 1 nghĩa là mức độ giải thích cho biến phụ thuộc càng cao (Hair & cộng sự, 2016). Hệ số R2 trong mô
50
giữa yếu tố quản trị với quyết định đầu tư. Vì vậy, các giả thuyết H2, H3, H4 và H4c được chấp nhận.
tác động lớn (f2= 0,371), yếu tố môi trường và xã hội có tác động trung bình với f2 lần lượt là 0,026 và 0,039, cuối cùng là yếu tố thời hạn có tác động nhỏ với f2= 0,019.
4.3. Kiểm định các giả thuyết
Tuy nhiên, hai giả thuyết H4a và H4b có hệ số hồi quy chuẩn hóa lần lượt là -0,094 và -0,031, chỉ ra rằng khi kết hợp yếu tố môi trường với thời hạn và yếu tố xã hội với thời hạn, hai yếu tố này có tác động ngược chiều đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân. Hơn nữa, cả hai giả thuyết đều có giá trị P lớn hơn 0,05. Vì vậy, cả hai giả thuyết H4a và H4b đều bị bác bỏ.
5. Kết luận và khuyến nghị
Một trong số những đặc điểm của mô hình PLS-SEM là không giả định dữ liệu được phân phối chuẩn, điều này hàm ý rằng các kiểm định ở mức ý nghĩa tham số được sử dụng trong phân tích hồi quy không thể được áp dụng để kiểm định xem các hệ số như trọng số ngoài, hệ số tải ngoài, và hệ số đường dẫn là có ý nghĩa hay không. Thay thế điều đó, PLS-SEM dựa trên thủ tục bootstrap phi tham số để kiểm định các hệ số về mức ý nghĩa của chúng. Khi xét ở mức ý nghĩa 5%, giả thuyết H1 có hệ số tác động chuẩn hóa dương là 0,156 và giá trị P = 0,019 < 0,05, vì vậy được chấp nhận. Điều này chỉ ra rằng yếu tố môi trường ảnh hưởng đến quyết định đầu tư với mức độ ảnh hưởng là 0,156. Tương tự, các giả thuyết H2, H3, H4 và H4c đều đáp ứng điều kiện giá trị P < 0,05, kèm theo hệ số hồi quy chuẩn hóa tương ứng là 0,196; 0,484; 0,105 và 0,135. Dữ liệu cho thấy có một mối tương quan cùng chiều giữa yếu tố xã hội, quản trị, thời hạn và sự kết hợp
Nghiên cứu đã chứng minh được rằng có mối quan hệ giữa ESG và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên thị trường Việt Nam cũng như đã đánh giá được mức độ tác động của ESG đến quyết định của NĐT cá nhân Việt Nam khi đầu tư trên TTCK. Thứ nhất, kết quả phân tích mô hình cho thấy có mối quan hệ giữa ESG và quyết định của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. Sự thay đổi trong quyết định đầu tư của NĐT cá nhân được giải thích bởi 44,4% thông qua các yếu tố về ESG, còn lại 55,6% được giải thích bởi các yếu tố khác ngoài mô hình. Yếu tố quản trị có
Bảng 8. Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
Mối quan hệ Giá trị T Giá trị p Giả thuyết Hồi quy chuẩn hóa (O) H1 Môi trường → Quyết định đầu tư 0,156 2,338 0,019
H2 Xã hội → Quyết định đầu tư 0,196 2,727 0,006
H3 Quản trị → Quyết định đầu tư 0,484 10,273 0,000
H4 Thời hạn → Quyết định đầu tư 0,105 2,12 0,034
H4a Môi trường*thời hạn → Quyết định đầu tư -0,094 1,494 0,135
H4b Xã hội*thời hạn → Quyết định đầu tư -0,031 0,489 0,625
H4c Quản trị*thời hạn → Quyết định đầu tư 0,135 2,304 0,021
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
51
mức độ ảnh hưởng lớn nhất là 0,484 cho thấy khi các điều kiện về quản trị doanh nghiệp tăng lên 1% sẽ tác động làm tăng 48,4% trong quyết định đầu tư của NĐT cá nhân. Quản trị là yếu tố đầu tiên mà các NĐT xem xét đến khi đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bởi quản trị có tốt thì mới có những điều kiện thuận lợi để phát triển môi trường, và xã hội. Yếu tố môi trường và xã hội cũng có ảnh hưởng tích cực tới quyết định của NĐT cá nhân tuy nhiên mức độ ảnh hưởng sẽ nhỏ hơn so với tác động của yếu tố quản trị với mức ảnh hưởng lần lượt là 0,156 và 0,196. Kết quả này khá tương đồng với các nghiên cứu trước đó của Nakamura (2013), Zwaan & cộng sự (2015), Nair & Ladha (2014). Ngoài ra, kết quả minh chứng rõ ràng hơn sự phù hợp đối với những NĐT cá nhân theo trường phái phân tích cơ bản trên TTCK Việt Nam. Cụ thể, NĐT sẽ tập trung vào việc đánh giá BCTC của công ty, sự kiện, tin tức về ngành và nền kinh tế từ đó đo lường giá trị nội tại của chứng khoán, đây là một phương pháp phù hợp với các NĐT theo chiến lược trung và dài hạn (Stock Insight, 2023). Do vậy, việc đảm bảo tính công khai, minh bạch trong BCTC là một yếu tố quan trọng, giúp xây dựng lòng tin của NĐT và giúp họ có cơ hội đánh giá chính xác và nắm bắt được rủi ro đầu tư, từ đó tạo ra lựa chọn đầu tư thông minh và hiệu quả (Minh Lâm, 2023). Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Sultana, Dalilawati Zainal và Norhayah Zulkifli (2017) tại TTCK Bangladesh. Theo DNSE (2024): “Quản trị doanh nghiệp là một trụ cột được quan tâm nhiều vì có tính liên hệ rõ ràng nhất đến hiệu quả đầu tư. Theo khảo sát của viện CFA (2020) về ESG, gần 74% các nhà phân tích có sử dụng và tương tác trụ cột Quản trị doanh nghiệp vào hoạt động phân tích và quá trình ra quyết định
đầu tư so với 54% của hai trụ cột còn lại.” Thứ hai, kết quả nghiên cứu cũng chứng minh được thời hạn đầu tư có tác động tích cực đến quá trình điều tiết mối quan hệ giữa yếu tố ESG và quyết định đầu tư của NĐT cá nhân tại Việt Nam, tương tự như kết quả nghiên cứu của Perez-Gladish & cộng sự (2012), Sørensen & Pfeifer (2011). Với hệ số chuẩn hóa dương (0,105) cho tác động cùng chiều giữa thời hạn đầu tư và ảnh hưởng của ESG đến quyết định đầu tư. Với những NĐT dài hạn, họ thường quan tâm vào những yếu tố tạo ra giá trị bền vững cho doanh nghiệp. Quá trình PTBV là một quá trình dài mà doanh nghiệp cần có những định hướng hành động cụ thể, trước tiên là về quản trị doanh nghiệp, sau đó là hành động vì môi trường và xã hội. Do vậy khi thời hạn đầu tư càng tăng càng thể hiện được sự tác động lớn của các yếu tố ESG đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. “Đầu tư tích sản cổ phiếu là phương pháp đầu tư giá trị nhằm xây dựng thu nhập thụ động cao khi đầu tư vào các doanh nghiệp phát triển bền vững. Vì vậy, điều quan trọng nhất là tìm ra những doanh nghiệp tốt, phát triển bền vững và nắm giữ cổ phiếu lâu dài. Với phương pháp này, nhà đầu tư cần có mục đích rõ ràng để vượt qua mọi sóng gió ngắn hạn cũng như cạm bẫy trên thị trường chứng khoán” (Bình Nguyên, 2022). Phát triển bền vững là cả một quá trình lâu dài, cũng tương đồng với chiến lược đầu tư dài hạn của NĐT cá nhân tại Việt Nam. Từ những kết luận trên, nhóm tác giả đề xuất rằng NĐT nên tích hợp các yếu tố ESG vào kế hoạch đầu tư của họ thay vì chỉ dựa vào các chỉ số tài chính truyền thống. Điều này có thể được thực hiện bằng cách nghiên cứu các chỉ số phi tài chính như ESG và kết hợp với phân tích hoạt động kinh doanh để đề xuất chiến lược đầu tư phù hợp. NĐT có thể lựa chọn các cổ phiếu từ các công ty
52
triển khai hoạt động ESG, với giả định rằng những công ty này sẽ hoạt động hiệu quả hơn trong dài hạn. Để thực hiện điều này, NĐT có thể tham khảo danh sách các cổ phiếu trong chỉ số VNSI của HOSE, cũng như đầu tư theo các tiêu chí cụ thể như môi trường, xã hội hoặc quản trị. Họ cũng cần cập nhật thường xuyên về các tiêu chuẩn và chỉ số đánh giá ESG để có cơ sở đánh giá dữ liệu mà các doanh nghiệp cung cấp.
Với những phân tích và đề xuất của tác giả, các doanh nghiệp có thể tham khảo và áp dụng thực tiễn vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình, từ đó có thể có những hành động nhằm triển khai vấn đề phát triển bền vững trong doanh nghiệp của mình. Về phía các NĐT, họ có thể gia tăng nhận thức về ESG, thấy được sự ảnh hưởng trực tiếp của từng yếu tố môi trường, xã hội và quản trị đến quyết định đầu tư của mình.■
Tài liệu tham khảo
Ajzen, I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179- 211. https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T Allouche, J., & Laroche, P. (2005), A meta-analytical investigation of the relationship between corporate social and financial performance, Revue de Gestion des Ressources Humaines, 57(1), 18–41. Barnea, A., & Rubin, A. (2010), Corporate Social Responsibility as a Conflict Between Shareholder, Journal of Business Ethics, 97(1), 71–86. https://doi.org/10.1007/s10551-010-0502-2 Berry, T. C., & Junkus, J. C. (2013), Socially Responsible Investing: An Investor Perspective, Journal of Business Ethics, 112(4), 707–720. DOI: 10.1007/s10551-012-1567-0
Bình Nguyên (2022), Chủ tịch AzFin Việt Nam: Điều quan trọng khi đầu tư tích sản cổ phiếu là tìm ra doanh nghiệp phát triển bền vững, Báo Quân đội nhân dân, truy cập lần cuối ngày 30 tháng 04 năm 2024, từ https://www.qdnd. vn/kinh-te/cac-van-de/chu-tich-azfin-viet-nam-dieu-quan-trong-khi-dau-tu-tich-san-co-phieu-la-tim-ra-doanh- nghiep-phat-trien-ben-vung-712547
Borghesi, R., Houston, J. F., & Naranjo, A. (2014), Corporate socially responsible investments: CEO altruism, reputation, and shareholder interests, Journal of Corporate Finance, 26, 164–181. https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2014.03.008 Brown, W. O., Helland, E., & Smith, J. K. (2006), Corporate philanthropic practices, Journal of Corporate Finance, 12(5), 855–877. https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2006.02.001 Carter, D. A., Simkins, B. J., & Simpson, W. G. (2003), Corporate Governance, Board Diversity, and Firm Value, Financial Review, 38(1), 33–53. DOI: 10.1111/1540-6288.00034
CFA Institute (2020), Future of Sustainability in Investment Management, CFA Institute. Cohen J. E. (1988), Statistical power analysis for the behavioral sciences, Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, Inc.
Crifo, P., Forget, V. D., Teyssier, S. (2015), The price of environmental, social and governance practice disclosure: An experiment with professional private equity investors, Journal of Corporate Finance, 30, 168–194. DOI: 10.1016/j. jcorpfin.2014.12.006 Đào Thị Thanh Bình & Chu Huy Anh (2023), Tác động của các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, Tạp Chí Tài Chính, 809, 58–60. De Zwaan, L., Brimble, M., & Stewart, J. (2015), Member perceptions of ESG investing through superannuation, Sustainability Accounting, Management and Policy Journal, 6(1), 79–102. DOI: 10.1108/SAMPJ-03-2014-0017 DNSE (2024), Đầu tư theo xu hướng phát triển bền vững tiêu chí ESG, https://www.dnse.com.vn/senses/tin-tuc/dau-tu- theo-xu-huong-phat-trien-ben-vung-voi-tieu-chi-esg-33698320
Đỗ Thị Mộng Thường, Trịnh Quốc Trung, Văn Cập Huy, Đào Lê Kiều Oanh (2023), Mối quan hệ giữa hoạt động môi trường, xã hội và hiệu quả tài chính trong lĩnh vực ngân hàng: Nghiên cứu các ngân hàng Châu Á, Tạp Chí Kinh Tế và Phát Triển, 308(2), 26–37. https://doi.org/10.33301/JED.VI.1018 Dorfleitner, G., & Utz, S. (2014), Profiling German-speaking socially responsible investors, Qualitative Research in Financial Markets, 6(2), 118–156. DOI: 10.1108/QRFM-07-2012-0024 Fin, R.F.F (2012), Environmental, social and governance investing from an idea to getting it done, InFinance 2012, 126(42). https://doi.org/10.3390/su10061831
Freeman (1984). A stakeholder approach to strategic management. Gibson, K. (2012), Stakeholders and Sustainability: An Evolving Theory, Journal of Business Ethics, 109(1), 15–25. DOI: 10.1007/s10551-012-1376-5 Gopi, M., & Ramayah, T. (2007), Applicability of theory of planned behavior in predicting intention to trade online,
53
International Journal of Emerging Markets, 2(4), 348–360. DOI: 10.1108/17468800710824509 Hair, J. F. J., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2016), A primer on partial least squares structural equation Modelling (PLS-SEM) (2nd ed.), SAGE Publications. Haniffa, R.M. & Cooke, T.E. (2002), Culture, corporate governance and disclosure in Malaysian corporations, Abacus, 38(3), 317-349.
Hock, M., & Ringle, C.M. (2010), Local strategic networks in the software industry: An empirical analysis of the value continuum, International Journal of Knowledge Management Studies, 4(2), 132–151. DOI: 10.1504/ IJKMS.2010.030789
Howard R. Bowen (1953), Social responsibilities of the businessman, University of Lowa Press. Huỳnh Lê Khôi (2023), Các yếu tố của báo cáo ESG ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của cá nhân vào doanh nghiệp – biến trung gian tình hình tài chính của doanh nghiệp và công nghệ số, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure, Journal of Financial Economics, 3(4), 305–360. Kao, E. H., Yeh, C.-C., Wang, L.-H., & Fung, H.-G. (2018), The relationship between CSR and performance: Evidence in China, Pacific-Basin Finance Journal, 51, 155–170. DOI: 10.1016/j.pacfin.2018.04.006 Leal Filho, W., Brandli, L., Kuznetsova, O., & Paço, A. M. F. (2015), Integrative approaches to sustainable development at university level, Springer International Publishing. Li, Q., Watts, E., & Zhu, C. (2023), Retail investors and ESG news, SSRN Electronic Journal. https://doi.org/10.2139/ ssrn.4384675 Mai Anh Vũ (2020), Sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu PLS – SEM trong kiểm định các mô hình nghiên cứu khoa học, Tạp chí Tài chính, 722+723 (1-2), 127-129. Mehwish, Afeef, M., & KakaKhel, S. J. (2022), ESG Factors and their Influence on the Investment Behavior of Individual
Investor: A Case from Pakistan, International Journal of Business and Management Sciences, 3(3), 21–45. Minh Lâm (2023). Bài 1: Minh bạch thông tin để bảo vệ quyền, lợi ích nhà đầu tư và doanh nghiệp, từ https:// tapchitaichinh.vn/bai-1-minh-bach-thong-tin-de-bao-ve-quyen-loi-ich-nha-dau-tu-va-doanh-nghiep.html truy cập lần cuối ngày 01 tháng 05 năm 2024.
Miralles-Quirós, M. M., Miralles-Quirós, J. L., & Gonçalves, L. M. V. (2018), The value relevance of environmental, social, and governance performance: The Brazilian case, Sustainability (Switzerland), 10(3), 1-15. https://doi. org/10.3390/su10030574 Nakamura, E. (2013), The impact of shareholders’ types on corporate social responsibility: evidence from Japanese firms, Journal of Global Responsibility, 4(1), 113–130. https://doi.org/10.26668/businessreview/2023.v8i6.2476
Nguyễn Thị Ngọc Diệp & Nguyễn Minh Kiều (2013), Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân tại sàn giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp Chí Khoa Học Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh - Kinh Tế Và Quản Trị Kinh Doanh, 8(2), 3–17. Parmar, BL,Freeman, RE,Harrison, JS,Wicks, AC,Purnell, L,de Colle, S. (2011). Stakeholder theory: The state of the art. The Academy of Management Annals, 4(1): 403–445. http://doi.org/10.5465/19416520.2010.495581 Pwc (2022), Báo cáo mức độ thực hành ESG tại Việt Nam năm 2022, truy cập tại https://www.pwc.com/vn/vn/ publications/vietnam-publications/esg-readiness-2022.html
Peng, L. S., & Isa, M. (2020), Environmental, social and governance (Esg) practices and performance in shariah firms: Agency or stakeholder theory? Asian Academy of Management Journal of Accounting and Finance, 16(1), 1–34. https://doi.org/10.21315/aamjaf 2020.16.1.1 Pérez-Gladish, B., Benson, K., & Faff, R. (2012), Profiling socially responsible investors: Australian evidence, Australian Journal of Management, 37(2), 189–209. https://doi.org/10.1177/0312896211429158 Phùng Thanh Bình (2024), Ước lượng, đánh giá và diễn giải mô hình PLS-SEM sử dụng SmartPLS 4, Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Phùng Việt Hà, Ngô Thị Hồng Ngọc, Vũ Thế Văn & Hồ Diễm Quỳnh (2022), Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp Chí Công Thương, 8, 351–356. Rakotomavo, M. T. J. (2011), Preferences of retail investors and institutions for corporate social performance, Journal of Sustainable Finance and Investment, 1, 93–102. https://doi.org/10.3390/su14074095
Rounok, N., Qian, A., & Alam, M. A. (2023), The Effects of ESG issues on investment decision through corporate reputation: Individual investors’ perspective, International Journal of Research in Business and Social Science, 12(2), 73–88. DOI: 10.20525/ijrbs.v12i2.2354 Rowley, J. (2014), Designing and using research questionnaires, Management Research Review, 37(3), 308–330. https:// doi.org/10.1108/MRR-02-2013-0027 Rusu, D. I. (2020). The impact of environmental, social and governance factors on firm performance, Journal of Public Administration, Finance and Law, 17, 301–319.
54
Saleh, M., Zulkifli, N. & Muhamad, R. (2010), Corporate social responsibility disclosure and its relation on institutional ownership: evidence from public listed companies in Malaysia, Managerial Auditing Journal, 25(6), 591-613. Sayema Sultana, Dalilawati Zainal and Norhayah Zulkifli (2017), The Influence of Environmental, Social and Governance (ESG) on Investment Decisions: The Bangladesh Perspective, Pertanika Journal of Social Science and Humanities, 25(S), 155-174. Schuler, D. A., & Cording, M. (2006), A Corporate Social Performance–Corporate Financial Performance Behavioral Model for Consumers, Academy of Management Review, 31(3), 540–558. DOI: 10.5465/AMR.2006.21318916 Sørensen, O. B., & Pfeifer, S. (2011), Climate change issues in fund investment practices, International Social Security Review, 6(4), 57–71. DOI: 10.5604/01.3001.0014.3558 Sreekumar Nair, A., & Ladha, R. (2014), Determinants of non-economic investment goals among Indian investors, Corporate Governance, 14(5), 714–727. DOI: 10.1108/CG-09-2014-0102
Sultana, S., Zainal, D., & Zulkifli, N. (2017), The influence of environmental, social and governance (ESG) on investment decisions: The Bangladesh perspective, Pertanika Journal of Social Sciences and Humanities, 25(11), 155–173. https://www.mdpi.com/2071-1050/14/5/2959 Sultana, S., Zulkifli, N., & Zainal, D. (2018), Environmental, social and governance (ESG) and investment decision in Bangladesh, Sustainability (Switzerland), 10(6), 1–19. https://doi.org/10.3390/su10061831 Stock Insight (2023). Phân tích cơ bản là gì? Sơ lược về trường phái đầu tư cơ bản, truy cập lần cuối ngày 01 tháng 05 năm 2024, từ https://stockinsight.hsc.com.vn/phan-tich-co-ban-chung-khoan/
Trần Thị Xuân Anh & Nguyễn Thùy Linh (2023), Ảnh hưởng của môi trường, xã hội và quản trị (ESG) đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp- bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, 158, 1-21. https://doi.org/10.38203/jiem.vi.062023.1067
UNIDO (United Nations Industrial Development Organization) (2022), What is Corporate Social Responsibility? truy cập lần cuối ngày 15/03/2024 từ https://www.unido.org/our-focus/advancing-economic-competitiveness/competitive- trade-capacities-and-corporate-responsibility/corporate-social-responsibility-market-integration/what-csr
United Nations (2005), Who cares wins, The Global Compact Initiative, truy cập lần cuối ngày 15 tháng 03 năm 2024 từ https://d306pr3pise04h.cloudfront.net/docs/issues_doc%2FFinancial_markets%2Fwho_cares_who_wins.pdf