NHẠC VIỆT – MỘT PHÁC THẢO

Bài 8: Nhạc Sài Gòn xưa

Sài Gòn xưa là Sài Gòn trước 75, không phải trong thập niên 30 hay 40. Tân

nhạc manh nha ở Sài Gòn nhưng lại hình thành và phát triển mạnh hơn ở phía

Bắc. Sau Hiệp định Geneve 54, Sài Gòn mới có Tân nhạc - nó như là một trung tâm

ca nhạc muôn mặt với một đội ngũ nhạc sĩ đa dạng, tạo nên trào lưu âm nhạc mới

gọi là Nhạc Sài Gòn. Có một sự thú vị khi xem xét hai dòng di cư Tân nhạc: Sau 54,

một số nhạc sĩ Tân nhạc miền Bắc tìm vào Nam thì ngược lại, nhiều nhạc sĩ miền

Nam lại ngược ra Bắc…

Khác với âm nhạc miền Bắc (diễn ra trong cùng thời điểm này) được xây dựng

và phát triển trên một nội dung và ý chí duy nhất là đấu tranh cách mạng và giương

cao lá cờ dân tộc, nhạc Sài Gòn lớn lên từ cái nền đa phong cách và thượng vàng hạ

cám: nhạc tuyên truyền tâm lý chiến, nhạc thương mại, nhạc nghệ thuật, nhạc uỷ mị

bình dân, nhạc trẻ (pop/rock), nhạc đấu tranh, nhạc phản chiến…đủ cả. Và có lúc nó

trở nên thoái hoá, loạn phát bên cạnh những đóng góp tích cực khác về mặt nghệ thuật

lẫn chính trị - xã hội.

Tôi muốn nhận diện nhạc Sài Gòn xưa bằng cách lướt qua một số nhạc sĩ và tác

phẩm đáng chú ý của họ trong những dòng nhạc ít nhiều tương đối có giá trị ở một vài

đóng góp đáng nhớ, còn những dòng nhạc dạng tâm lý chiến, tình ca lính cộng hoà,

nhạc uỷ mị mang âm hưởng quê hương trên nền tiết điệu boléro… chưa nhắc đến ở

đây.

Cung Tiến là một nhạc sĩ khai thác màu sắc lãng mạn của nhạc cổ điển châu

Âu nhiều nhất trong các bài hát theo âm hưởng demi-classical hoặc néo-classical. Năm

54, ông viết Thu vàng với tiết điệu valse rất Danube blue, mở đầu cho phong cách này

của ông. Sau đó là Hoài cảm bàng bạc F.Schubert. Ông còn những bài nổi tiếng khác

như Nguyệt cầm, Đêm Hoa đăng…Người đầu tiên ở Việt Nam mượn những chủ đề

nhạc cổ điển (nhưng có ghi rõ xuất xứ nhạc đề/theme đàng hoàng và không lạm dụng

khai thác) để trang trí và kết ngọc cảm tác trong các bài hát chính là ông.

Nhạc sỹ Phạm Đình Chương

Một người khác cũng nằm trong xu hướng nhạc trí thức và hoài cổ này (nhưng

ít Tây hơn) là Văn Phụng với các tác phẩm Ô mê ly, Bức hoạ đồng quê… đến tận bây

giờ vẫn thường được hát qua giọng ca Ánh Tuyết. Vũ Thành và Phạm Đình Chương

cũng là những người ”gần hội gần thuyền” của hai người trên. Vũ Thành có Giấc mơ

hồi hương, Nhặt cánh sao rơi, Thuỵ khúc…Phạm Đình Chương gây ấn tượng nối tiếp

từ những bài của những năm 50 (Tiếng dân chài, Được mùa…) để có thêm những Ly

rượu mừng, Mưa Sài Gòn-mưa Hà nội, Nửa hồn thương đau, Người đi qua đời tôi,

Mộng dưới hoa…phần lớn là phổ thơ.

Từ Công Phụng cũng man mác phong cách trên nhưng nhẹ hơn. Nếu những

người trên là cỗ xe song mã thì Từ Công Phụng đã mang bóng dáng ”máy hơi nước”.

Nhạc của ông cũng rất gần gũi với màu âm của Đoàn Chuẩn. Đó là sự nối tiếp ở một

cung bậc mới. Ông thường được nhắc đến với Trên đỉnh mùa đông. Và những giai

điệu - ca từ như: Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?..(Bây giờ tháng mấy) nổi tiếng qua

nhiều thế hệ mà bọn học trò chúng tôi thường say mê ngân nga rồi nghịch ngợm sửa

lại: Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em?

Ngô Thụy Miên là một salon tình ca khác, đượm màu áo trắng và mực tím.

Bấy giờ đã xuất hiện phố thị với xe máy chạy bằng động cơ diesel. Nhạc của ông là

nhạc mưa, nhạc mây và nhạc lụa. Những bài khó quên: Áo lụa Hà Đông (thơ Nguyên

Sa), Mùa thu cho em, Niệm khúc cuối, Paris có gì lạ không em? (thơ Nguyên Sa),

Giáng Ngọc…Ông chỉ viết khoảng trên chục bài nhưng bài nào cũng nổi tiếng (có

người lại thích khoe khoang viết hàng trăm bài nhưng số bài để người ta nhớ là con số

minimum).

Hết mùa áo trắng với tình buồn nhẹ thênh là bước đến những bản tình ca đau

đớn và thân phận hơn của Vũ Thành An. Nhạc của ông không còn là sương, là mây

như của Ngô Thụy Miên mà là ảo mờ khói thuốc: Một làn khói trắng ru đời vào quên

lãng…Đó là nỗi buồn một thế hệ sống mất niềm tin và tình yêu, chỉ còn là một bấu víu

vào hư ảnh. Với loạt bài 10 Tình khúc không tên của Vũ Thành An, ta có thể đọc thấy

thông điệp nghẹn ngào đó.

Khi tâm hồn mềm yếu không còn chỗ nương tựa trong tình yêu nữa thì tình yêu

khoả lấp bằng nhục cảm nhiều hơn. Nó được khúc xạ trong âm nhạc của đôi song ca

(và cũng là người sáng tác ca khúc) Lê Uyên-Phương. Nhạc của họ như Vũng lầy của

chúng ta, Nỗi buồn dâng hiến…chịu ảnh hưởng của phong trào hippy trên thế giới

.Trào lưu hiện sinh đã gây ảnh hưởng lên một thế hệ thanh niên thế giới vào thập niên

60 mà The Beatles cũng chịu tác động với khẩu hiệu ”Make love not war” để phản ứng

lại với chiến tranh.

Ở Việt Nam, Lê Uyên-Phương là người đầu tiên cổ suý nó và mang ái ân vào

âm nhạc như một thứ ma tuý để trốn tránh hiện thực. Sau này có Đức Huy, Trịnh

Nam Sơn xuất hiện ở tiền bán thập niên 70 cũng mang một phần tinh thần đó vào ca

khúc của mình, rồi nối dài nó cùng những năm tháng lưu vong trong dòng nhạc của

người Việt hải ngoại. Và lúc đó bên nhánh nhạc trẻ, một loại nhạc pop/rock hiện đại

hơn du nhập theo những đội quân viễn chinh, cũng là con dân của chủ nghĩa "không

biết đến ngày mai' ấy.

Nhạc trẻ vào Sài Gòn từ những năm đầu

thập niên 60 với hàng loạt ban nhạc nhái Mỹ từ

phong cách cho đến cái tên (xem bài Tân nhạc ở

Sài Gòn tạm chiếm). Phải đến khi có ban Phượng

Hoàng của Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà

thì nhạc trẻ Sài Gòn mới có gì đó sáng tạo hơn và

hoàn toàn bứt ra khỏi những nhạc ngữ tiền chiến

còn bàng bạc đó đây. Những Thương nhau ngày

mưa, Mặt trời đen… cũng là một mạch chảy tinh Nhạc sỹ Lê Hựu Hà

thần hiện sinh của một lớp trẻ tự cho rằng mình

đang lạc loài ngay trong ngôi nhà của mình, rồi yêu vội trong tuyệt vọng, rồi tìm quên

bằng ảo giác. Nhạc của Phượng Hoàng được coi là một trong những đại biểu thời kỳ

đó.

Nhưng ở Sài Gòn lúc này đâu phải chỉ có những dòng nhạc sentimental và

pop/rock. Một vầng dương khác đã mọc lên bên cạnh “mặt trời đen”: Nhạc của phong

trào du ca, phong trào sinh viên đấu tranh và nhạc phản chiến (xem bài Tân nhạc ở Sài

Gòn tạm chiếm nối tiếp dòng hùng ca của Tân nhạc buổi đầu và là một bè song thanh

với nhạc cách mạng ở miền Bắc. Nó như một thức tỉnh đối trọng với những cơn say

tuý luý trong "thú đau thương" của một bộ phận lớp trẻ miền Nam.

Có một người lãng du từ tình ca rồi một hôm nhìn lại thân phận da vàng trong

khói lửa chiến tranh, để viết lên những khúc ca phản chiến nổi tiếng. Đó là một trong

những nhạc sĩ đặc biệt và nổi danh nhất của Sài Gòn xưa và có lẽ của cả bây giờ: Trịnh

Công Sơn.