
- Khi dùng kết cấu hỗn hợp thép bê tông người ta nhận thấy ngay rằng việc tạo các chi tiết
neo để tăng lực dính giữa bê tông và thép là cực kỳ quan trọng và không thể thiếu được.
Đến năm 1954 khi mà hàng loạt các thí nghiệm về khả năng chịu trượt của các mấu neo
giữa bê tông và cốt thép được thực hiện thì mới có phương pháp tính.
* Ở Nhật Bản:
- Kết cấu liên hợp cũng xuất hiện từ rất sớm. Sau trận động đất ở Kanto (1923), người ta
phát hiện ra rằng kết cấu liên hợp thép – bê tông rất hiệu quả trong việc chống động đất.
Sau chiến tranh thế giới lần hai, yêu cầu cấp thiết là phải tìm ra loại vật liệu nhẹ, chịu lửa
tốt và thích ứng tốt với nhịp độ xây dựng nhanh chóng. Kết cấu thép được bọc bê tông đáp
ứng được yêu cầu đó và được ứng dụng rộng rãi.
- Sau trận động đất năm 1968 người ta phát hiện ra đại đa số các kết cấu bị phá hoại là do
trượt, nhất là các mối nối. Từ đó, người ta đã chú ý hơn đến tính toán các liên kết trong kết
cấu.
* Ở Việt Nam:
- Lý thuyết tính toán kết cấu liên hợp thép – bê tông đã được đưa vào giáo trình năm 1995
dựa trên lý thuyết tính toán của Nga và còn khá đơn giản.
- Thời gian gần đây có nhiều công trình sử dụng kết cấu liên hợp thép – bê tông như tại Hồ
Chí Minh có công trình Diamond Plaza, tại Hà Nội cũng sử dụng sàn liên hợp cho 500 m2
sàn nhà xưởng của Công ty xuất nhập khẩu Hồng Hà.
I.2. Một số ưu nhược điểm của kết cấu liên hợp thép – bê tông
(1) Khả năng chống ăn mòn của thép được tăng cường. Điều này có ý nghĩa đối với công
trình xây dựng ở vùng khí hậu có độ ẩm cao, công trình ven biển, các cấu kiện bị tiếp xúc
với môi trường ăn mòn.
(2) Khả năng chịu lực tốt. Đối với các cấu kiện được bọc bê tông, khả năng chịu lửa của
thép được đảm bảo tốt hơn là thép bọc ngoài.
(3) Khả năng chịu lực của vật liệu tăng (do thép chịu lực là chính) làm giảm kích thước
của cấu kiện, kết cấu thanh mảnh hơn so với kết cấu bê tông cốt thép thông thường, không
gian sử dụng và hiệu quả kiến trúc tăng. Điều này thấy rõ khi so sánh kích thước của cấu