PHẦN II - HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường toàn cầu
2. Trình bày được hệ thống quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam
3. Trình bày được những tồn tại và ưu tiên trong vấn đề sức khoẻ môi trường
ở Việt Nam
4. Nắm được các hoạt động và các bước lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi
trường
I. CHÍNH SÁCH VÀ CÁC XU HƯỚNG SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ
GIỚI
1. Khái niệm và định nghĩa về môi trường và sức khoẻ môi trường
Theo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi) Việt Nam (2005), Môi trường được định
nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan
hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và thiên nhiên.”
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người, bao gồm
cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, xã hội và
các yếu tố tâm lý trong môi trường. Khái niệm này cũng liên hệ đến lý thuyết và thực hành
của hoạt động đánh giá, chỉnh sửa, kiểm soát và ngăn ngừa các yếu tố trong môi trường có
thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của các thế hệ hiện tại và tương lai (định nghĩa được
Tổ Chức Y Tế thế giới sử dụng).
Hay nói cách khác: Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi trường
trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng.
2. Các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường quốc tế
2.1 Định hướng chiến lược trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường ở cấp quốc tế
Năm 1972, Lần đầu tiên, các vấn đề về môi trường và con người được xem xét và
giải quyết ở cấp toàn cầu tại Hội nghị của LHQ về Môi trường tổ chức tại Stockholm,
Thụy Điển. Tại Hội nghị này, 113 nước tham gia đã cùng đưa ra tuyên bố Stockholm, trong
đó khẳng định rõ:
o Hoạt động của con người vừa là nhân tố tích cực giúp tạo nên song cũng
chính là tác nhân phá huỷ môi trường sống của chính mình.
o Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người là các yếu tố tác động
1
trực tiếp tới sức khoẻ và sự phát triển kinh tế - xã hội của con người. Nhận thức rõ
được mối liên hệ mật thiết và quan trọng giữa sức khoẻ và môi trường, sau
Tuyên bố Stockholm năm 1972, hàng loạt sự kiện và văn bản ở cấp quốc tế đã
được tổ chức và công bố nhằm kêu gọi và đưa ra các định hướng giải quyết các
vấn đề về sức khoẻ môi trường ở cấp toàn cầu:
o Năm 1977, WHO cam kết thực hiện các mục tiêu toàn cầu về sức khoẻ. Trong đó
có 8 mục tiêu tập trung cho các vấn đề sức khoẻ môi trường; Hội nghị quốc tế lần thứ
nhất về Môi trường và sức khoẻ tổ chức năm 1991 tại Thụy Điển, với sự tham gia
của 81 quốc gia với mục tiêu kêu gọi toàn thể thế giới chủ động khởi xướng và
tham gia các hoạt động vì một môi trường trong lành và có lợi cho sức khoẻ con
người. Tại hội nghị này, các nước đã cùng nhau thảo luận, trao đổi và xác định
các mục tiêu chung về bảo vệ môi trường (vật lý, kinh tế, xã hội và chính trị) đảm
bảo có lợi cho sức khoẻ con người. Hội nghị quốc tế này sau đó diễn ra hai năm
một lần và tập trung thảo luận vào từng chủ đề cụ thể trong lĩnh vực sức khoẻ môi
trường. Thường thì sau mỗi lần hội nghị sẽ có một bản tuyên bố chung trong đó
có nêu rõ những định hướng và các khuyến nghị về việc triển khai các hoạt động sức
khỏe môi trường trên thế giới.
o Chương trình Nghị sự 21 được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi
trường và Phát triển năm 1992 đã xác định “Giảm thiểu các rủi ro về sức khoẻ gây
bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi trường” là một trong 5 chương
trình ưu tiên nhằm bảo vệ sức khoẻ con người ở cấp toàn cầu (Mục 6.34 của
Chương trình nghị sự 21).
o Tháng 8/1999, UNEP và WHO ký biên bản ghi nhớ về hợp tác để đẩy mạnh
các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường. Theo như đã xác định
trong Chương trình Nghị sự 21, mục tiêu chung của chương trình này là: “Giảm
thiểu các rủi ro, tác hại và duy trì một môi trường có chất lượng đạt mức an toàn và
không gây hại cho sức khoẻ con người”. Các mục tiêu cụ thể của chương trình là:
o Lồng ghép các mục tiêu đảm bảo an toàn về môi trường và sức khoẻ ở mức
thích hợp trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội chung;
o Thiết lập cơ sở hạ tầng để thực hiện ở cấp quốc gia các chương trình theo
dõi và quan trắc về tổn thương môi trường, giám sát rủi ro và đưa ra cơ sở
khoa học giảm thiểu chúng;
o Thiết lập các chương trình giải quyết ô nhiễm tại nguồn và tại các điểm tiêu
huỷ chất thải;
o Xác định và xây dựng hệ thống thông tin thống kê cần thiết cho việc đánh
giá tác động của môi trường và ô nhiễm tới sức khoẻ (đánh giá tác động sức
2
khoẻ môi trường) để đề ra các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm.
2.2 Các chương trình sức khoẻ môi trường được triển khai ở cấp toàn cầu
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, các lĩnh vực hoạt động sau đây được xác định là
các ưu tiên hành động chính: i) Ô nhiễm không khí đô thị; ii) Ô nhiễm không khí trong
nhà; iii) Ô nhiễm nước; iv) Ô nhiễm do sử dụng thuốc trừ sâu; v) Chất thải rắn; vi) Các vấn
đề về định cư; vii) Tiếng ồn; viii) Phóng xạ ion hoá và phi ion hoá; ix) Ảnh hưởng của bức
xạ cực tím; x) Sản xuất công nghiệp và năng lượng; xi) Quan trắc và đánh giá; xii) Theo
dõi và giảm thiểu tổn thương về môi trường; xiii) Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng các
phương pháp luận đánh giá.
Để triển khai các hoạt động ở cấp quốc tế, với vai trò là tổ chức của Liên hợp
quốc được giao điều phối các hoạt động trong khuôn khổ chương trình “Giảm thiểu các rủi
ro về sức khoẻ gây bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi trường”, Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) đã phối hợp với Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và các tổ
chức tài trợ quốc tế (ADB, WB, IMF, v.v) triển khai chương trình tổng thể “Bảo vệ môi
trường sống của con người”. Tính đến tháng 10/2005, đã có 13 chương trình nhánh được
ưu tiên triển khai, bao gồm:
2.2.1. Ô nhiễm không khí trong nhà:
Hơn 3 tỷ người trên thế giới phải phụ thuộc vào các loại nhiên liệu rắn (than
đá, than củi, gỗ củi, phân chuồng và phế liệu nông nghiệp) phục vụ cho sinh hoạt hàng
ngày. Đun nấu và tạo nhiệt từ các loại nhiên liệu này theo các phương thức truyền thống
(bếp than, bếp củi, bếp lò, v.v.) là nguồn chính gây ô nhiễm không khí trong nhà (do tạo
bụi mịn, CO, các khí gây ô nhiễm với mức vượt quá 20 lần tiêu chuẩn cho phép). Theo
thống kê trong báo cáo đánh giá sức khoẻ toàn cầu năm 2002 thì khoảng 2,7% gánh nặng
bệnh tật ở cấp toàn cầu là do ô nhiễm không khí trong nhà gây nên.
Mục tiêu chính của chương trình là:
o Hỗ trợ các nước đang phát triển trong triển khai các hoạt động nghiên
cứu, đánh giá và tăng cường năng lực
o Hỗ trợ công tác ra quyết định và xây dựng chính sách có liên quan đến
hoặc nhằm mục tiêu giảm thiểu gánh nặng bệnh tật gây bởi tình trạng ô
nhiễm không khí trong nhà.
2.2.2. Ô nhiễm không khí ngoài trời:
Chương trình xây dựng các hướng dẫn đánh giá tác động ô nhiễm không khí ngoài
trời lên sức khoẻ con người, hỗ trợ các nước triển khai các chương trình nghiên cứu,
đánh giá, tăng cường năng lực và phổ biến thông tin có liên quan.
3
2.2.3 An toàn hoá học:
Chương trình thiết lập các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu sử dụng an toàn các
loại hoá chất trong đời sống và sản xuất; hỗ trợ tăng cường năng lực ở cấp quốc gia về an
toàn hoá học.
2.2.4 Sức khoẻ môi trường cho trẻ em:
Trẻ em chiếm đến 2,3 tỷ người trên thế giới (từ 0-19 tuổi). Khoảng 40% bệnh
tật có liên quan tới các yếu tố môi trường là do nhóm trẻ em dưới 5 tuổi (chiếm 10%
dân số thế giới) phải gánh chịu. Mỗi năm ít nhất có khoảng 3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị chết
do các nguồn bệnh phát sinh từ môi trường (các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, sốt xuất huyết,
v.v.).
Chương trình này được triển khai nhằm mục tiêu:
o Xây dựng các hồ sơ quốc gia về tác động của môi trường tới sức
khoẻ trẻ em
o Xây dựng các chỉ thị đánh giá môi trường sống cho trẻ em
o Tăng cường năng lực quản lý và ra quyết định
o Hỗ trợ nghiên cứu, đánh giá
o Phổ biến và truyền bá các kinh nghiệm tốt.
2.2.5 Tác động của các trường điện từ:
Trong kỷ nguyên công nghệ, cộng đồng ngày càng lo ngại những tác động
có hại của trường điện từ lên sức khoẻ con người. Malboysson (1976) nghiên cứu
trên 160 đối tượng trong đó 84 là công nhân trạm điện, 76 là công nhân đường
dây. Bằng phương pháp phỏng vấn và khám nghiệm y học không nhận xét thấy có
biến đổi khác thường. Các số liệu về phơi nhiễm không rõ ràng, không có nhóm
chứng.
Các chương trình quốc tế về đánh giá tác động các trường điện từ lên sức khoẻ
con người được WHO khởi xướng từ năm 1996 nhằm kêu gọi các quốc gia và các tổ chức
quốc tế cũng hỗ trợ và tham gia nghiên cứu để đưa ra các căn cứ khoa học nhằm đánh giá
các tác động này.
2.2.6 Đánh giá tác động sức khoẻ môi trường:
Xây dựng các hướng dẫn và thúc đẩy áp dụng đánh giá sức khoẻ môi trường
trong giai đoạn xây dựng và vận hành các dự án phát triển kinh tế xã hội ở mọi
cấp.
2.2.7 Biến đổi môi trường toàn cầu:
Nhằm mục tiêu hỗ trợ nghiên cứu và đánh giá tác động của biến đổi môi trường và
khí hậu toàn cầu lên sức khoẻ người dân.
4
2.2.8 Sáng kiến liên kết các vấn đề về môi trường và sức khoẻ:
Nhằm khuyến khích các quốc gia nỗ lực gắn kết và lồng ghép các mối tương quan và
tác động về sức khoẻ môi trường trong các vấn đề phát triển chung về kinh tế và xã hội.
2.2.9 Bức xạ iôn hoá:
Thúc đẩy các nghiên cứu đánh giá tác động của bức xạ iôn hoá lên sức khoẻ người
dân và xây dựng các khuyến nghị/khuyến cáo/cảnh báo phục vụ giải quyết các sự cố, tai
nạn liên quan đến bức xạ iôn hoá ở các nước.
2.2.10 Y học lao động và bệnh nghề nghiệp:
Hỗ trợ các nước xây dựng và cập nhật thông tin trong hồ sơ quốc gia về các bệnh
nghề nghiệp, xây dựng các chương trình/kế hoạch liên quan đến giải quyết các bệnh
nghệ nghiệp và hỗ trợ thực thi các chương trình/kế hoạch này, tăng cường năng lực và
hỗ trợ phổ biến thông tin về các bệnh nghề nghiệp và nâng cao khả năng tiếp cận các
nguồn thông tin về bệnh nghề nghiệp cho các nhóm nhạy cảm.
2.2.11 Định lượng tác động của môi trường lên sức khoẻ:
Xây dựng các hướng dẫn và các phương pháp luận nhằm đánh giá và định lượng
được tác động của yếu tố môi trường lên sức khoẻ.
2.2.12. Bức xạ tia cực tím:
Nhằm nghiên cứu đánh giá và đề xuất các giải pháp hạn chế tác động xấu của tia
cực tím lên sức khoẻ.
2.2.13 Nước, vệ sinh và sức khoẻ:
Xây dựng năng lực cấp quốc gia và liên quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề về
bệnh tật liên quan đến việc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, các điều kiện vệ
sinh yếu kém; thúc đẩy các công nghệ sản xuất nước sạch quy mô vừa và nhỏ cho các
vùng sâu, vùng xa; quản lý và cấp nước hợp vệ sinh; tăng cường các hệ thống trao đổi
và phổ biến thông tin về nước sạch, vệ sinh môi trường và sức khoẻ và các hệ thống
thông tin trao đổi về công nghệ.
Riêng ở Châu âu, hầu hết các quốc gia đều ban hành và thực hiện Chương trình
hành động quốc gia về sức khoẻ và môi trường (NEHAP: National Environmental
Health Action Plan). Đây là một văn bản của chính phủ nhận định các vấn đề sức khoẻ
môi trường một cách toàn diện, chính thể và liên ngành. Trước khi quá trình hình thành
NEHAP bắt đầu, hầu hết các quốc gia chưa có sự kết hợp giữa chính sách môi trường và
chính sách y tế.
Sự phát triển của NEHAP ở Châu Âu bắt đầu từ Hội nghị Helsinki năm 1994,
kéo theo sự ra đời của Chương trình hành động sức khoẻ môi trường Châu Âu (EHAPE).
Đến tháng 6 năm 1999, trong Hội nghị bộ trưởng về Sức Khoẻ và Môi trường lần
5
thứ 3 tại London. các bộ trưởng môi trường và y tế đã cam kết tán thành và ủng hộ thực thi
NEHAPs ở quốc gia của mình.
Đến năm 2002, 43 nước Châu Âu (như Pháp, Bỉ, Anh, Đức, Nga, v.v.) đã
phát triển và bắt đầu triển khai thực hiện NEHAP. NEHAPs thường được đồng
thực hiện bởi nhiều ngành khác nhau từ các chuyên gia kỹ thuật và chuyên nghiệp,
các nhà chức trách quốc gia, của vùng và địa phương cũng như các tổ chức phi
chính phủ.
II. HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm về quản lý môi trường
Quản lý môi trường là tổng hợp các giải pháp kỹ thuật và giải pháp hành chính
nhằm bảo vệ môi trường không bị ô nhiễm hoặc khống chế mức ô nhiễm trong các giới
hạn cho phép, không gây tác hại cấp tính hay mãn tính lên sức khoẻ. Trong các trường hợp
không thể bảo vệ được môi trường khỏi các nguy cơ ô nhiễm, quản lý môi trường cũng
còn nhằm vào các giải pháp bảo vệ các đối tượng tiếp xúc, hạn chế các hậu quả của ô nhiễm
và giải quyết các hậu quả trên sức khoẻ.
1.1 Quản lý bằng các giải pháp kỹ thuật đối với môi trường đất, nước, không khí và
thực phẩm
Đất, nước, không khí và thực phẩm có mối liên hệ khăng khít với nhau. Đất
có thể chứa các yếu tố hoá học, sinh học và lý học. Các yếu tố này thường xâm
nhập vào các nguồn nước sinh hoạt để rồi từ đó tác động đến sức khoẻ con người.
Từ đất, các cây trồng, lương thực hay động vật là nguồn thức ăn cho người và các
động vật khác cũng có thể bị ô nhiễm. Các yếu tố ô nhiễm trong đất lại cũng có thể
từ các nguồn nước thải, rác thải cũng như khói bụi có chứa các yếu tố hoá học và
sinh học độc hại.
Bảo vệ đất, nước, không khí và thực phẩm không bị ô nhiễm nhiều khi phải
tiến hành song song. Ví dụ, muốn nguồn nước giếng đào sạch phải ngăn ngừa ô
nhiễm từ các hố xí mất vệ sinh. Muốn thực phẩm sạch phải áp dụng các biện pháp
khống chế ô nhiễm nguồn nước, đất và cây trồng. Các nguồn tài nguyên bị khai
thác không có tổ chức sẽ dẫn tới phá vỡ mối cân bằng sinh thái và cũng tạo ra các
nguy cơ ô nhiễm. Trong sinh hoạt, bảo vệ môi trường khỏi các nguồn ô nhiễm bao
gồm tổng hợp các giải pháp khống chế ô nhiễm như: quản lý chất thải rắn, chất
thải lỏng và khói bụi từ các nguồn phát sinh, quá trình vận chuyển và quá trình thu
gom xử lý.
Trong sản xuất, bảo vệ môi trường lao động bao gồm việc sử dụng các trang
thiết bị vệ sinh nhằm khống chế không cho phát sinh ô nhiễm, làm loãng, ngăn ngừa phát
tán ô nhiễm ra môi trường. Nếu các giải pháp trên không thực hiện được hoàn chỉnh, phải bổ
6
sung các biện pháp phòng hộ cá nhân. Cả trong sản xuất và sinh hoạt đều phải chú ý tới
việc quản lý sức khoẻ cộng đồng, phát hiện sớm các tác hại ở giai đoạn còn khả năng hồi
phục để điều trị hoặc phục hồi chức năng nếu hậu quả trên sức khoẻ là không chữa được.
Giám sát môi trường và giám sát sinh học là các hoạt động nhằm theo dõi, phát
hiện tình trạng ô nhiễm, tình trạng thấm nhiễm và tình trạng sức khoẻ bất thường để từ
đó có các phản ứng kịp thời. Các phương pháp dự báo, các kỹ thuật đo lường giám sát môi
trường và sinh học cần được sử dụng phù hợp với đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội
của một địa bàn, một địa phương và quốc gia. Ví dụ, khí xả các động cơ có sử dụng xăng
pha chì là nguồn ô nhiễm rất nguy hiểm với sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là sức khoẻ trẻ
em. Quản lý nguy cơ này có thể bằng rất nhiều giải pháp: cấm sử dụng xăng pha chì, tăng
cường giao thông công cộng, giám sát mức ô nhiễm chì trong không khí, khám sàng lọc
phát hiện tình trạng thấm nhiễm chì quá mức ở trẻ em và phát hiện các trường hợp nhiễm
độc chì để điều trị sớm.
1.2 Quản lý môi trường bằng chính sách, chiến lược, các giải pháp hành chính và luật lệ
Quản lý môi trường không chỉ bằng các giải pháp kỹ thuật đơn thuần mà cần các
giải pháp mang tính tổng thể, luật và hành chính. Do nguồn gốc của ô nhiễm môi
trường là từ quá trình sản xuất, các quá trình khai thác tài nguyên, các hoạt động của đời
sống hàng ngày của từng địa phương, từng nhóm dân cư, từng gia đình và từng cá thể nên
việc quản lý môi trường có rất nhiều bên liên quan (stakeholders) chứ không riêng gì
ngành y tế.
Ở tầm cỡ quốc tế cũng có rất nhiều các tổ chức tham gia vào việc hoạch định các
chính sách bảo vệ môi trường toàn cầu. Ví dụ: Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển Bền
vững của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua tại Rio de Janeiro tháng 6 năm 1992.
Mỗi quốc gia lại phát triển chính sách môi trường riêng của mình. Ngay các địa phương
cũng cần có các chính sách riêng để cụ thể hoá chính sách quốc gia nhằm giải quyết các
vấn đề tại địa phương. Không có chính sách phù hợp sẽ thiếu khả năng kiểm soát môi
trường tổng thể cũng như khó phát triển các giải pháp kỹ thuật. Có chính sách song chính
sách đó không được thể hiện bằng các văn bản pháp luật, bằng các quy định hành chính
thì hiệu lực của chính sách sẽ rất giới hạn.
Ở nước ta, Luật Bảo vệ Môi trường đã được ban hành năm 1993 (sửa đổi năm
2005). Dưới luật là các nghị định của Chính phủ nhằm hướng dẫn việc thực hiện luật. Dưới
các nghị định là các thông tư của chính phủ hoặc của các bộ ngành quy định chi tiết hơn các
điều khoản nhằm đưa luật vào cuộc sống. Nhiều thông tư lại phải ban hành dưới dạng thông
tư liên bộ mới có hiệu lực vì có những điều luật yêu cầu nhiều ngành và nhiều lĩnh vực tham
gia.
Trong từng bộ ngành, Bộ trưởng có thể ban hành các văn bản chỉ đạo ngành dọc của
mình, như các quyết định và các chỉ thị. Tại từng địa phương, Uỷ ban Nhân dân cấp
7
tỉnh, thành cũng ban hành các văn bản chỉ đạo trên địa bàn dựa trên các văn bản của Chính
phủ, bộ ngành và căn cứ vào các quyết định của Hội đồng Nhân dân cũng như cơ quan
Đảng bộ địa phương.
Qua hệ thống các văn bản pháp luật như trên đảm bảo cho các giải pháp kỹ thuật
được thực thi về mặt hành chính. Bên cạnh đó, để kiểm soát việc quản lý môi trường còn có
sự tham gia của hệ thống thanh tra của chính phủ và các bộ ngành, các địa phương.
2. Cấu trúc hệ thống quản lý môi trường
Vấn đề môi trường ở Việt Nam được ngành y tế đề cập đến đầu tiên và vào những
ngày đầu sau cách mạng Tháng Tám. Lúc này Đảng và Chính phủ đã phát động các phong
trào vệ sinh phòng bệnh mà nội dung chủ yếu là giữ gìn vệ sinh môi trường sinh hoạt và
vệ sinh trong gia đình. Hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường là nhiệm vụ do ngành y tế
đảm nhiệm với vai trò chính mãi tới tận thập kỷ 70. Sau đó, ngành công nghệ và môi
trường mới được thành lập và gánh vác nhiệm vụ với vai trò ngày càng tăng, không chỉ ở
cấp quốc gia mà còn ở cả các địa phương.
Hiện nay, về thể chế công tác quản lý nhà nước về sức khoẻ môi trường chủ yếu do
Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế trực tiếp đảm nhiệm với sự hợp tác của các bộ,
ngành ở cấp trung ương và phối hợp với các UBND tỉnh/thành phố, các cơ quan y tế và môi
trường trực thuộc các cấp này. Tại các địa phương, công tác quản lý về sức khoẻ môi
trường do các sở, các phòng về tài nguyên và môi trường và y tế đảm nhiệm theo sự chỉ
đạo trực tiếp của UBND tỉnh/thành phố và hướng dẫn về chuyên môn của các bộ, ngành
liên quan.
Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có đầu mối chuyên trách riêng để thống
nhất thực hiện công tác quản lý Nhà nước và tổ chức các dịch vụ về sức khoẻ môi
trường. Các chức năng quản lý Nhà nước và tổ chức dịch vụ sức khoẻ môi trường được
phân mảng và giao cho nhiều bộ ngành khác nhau như Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ
Y tế, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ công nghiệp, Bộ Lao động thương binh
và xã hội, Uỷ ban quốc gia dân số gia đình và trẻ em, v.v… Việc điều hoà, phối hợp công
tác sức khoẻ môi trường ở các ngành, các cấp mới ở giai đoạn mở đầu còn nhiều bất cập so
với đòi hỏi thực tế.
2.1 Nhiệm vụ cơ bản của ngành Tài nguyên và Môi trường
Ngày 5 tháng 8 năm 2002 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ nhất thông qua Nghị quyết số 02/2002/QH11 quy định danh sách các
bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ, trong đó có Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập trên cơ sở hợp nhất các đơn vị Tổng cục Địa
chính, Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, Cục Môi trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường), Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam và Viện Địa chất và Khoáng sản (Bộ
8
Công nghiệp) và bộ phận quản lý tài nguyên nước thuộc Cục quản lý nước và công
trình thuỷ lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường,
khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch
vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có
vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật.
Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ trong đó, ở lĩnh vực môi trường:
(1) Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định, biện pháp bảo vệ môi
trường, các chương trình, dự án về phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô
nhiễm, sự cố môi trường theo sự phân công của Chính phủ;
(2) Thống nhất quản lý hệ thống quan trắc môi trường quốc gia; tổng hợp,
xử lý số liệu về quan trắc môi trường và định kỳ đánh giá hiện trạng môi
trường, dự báo diễn biến môi trường;
(3) Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các
cơ sở sản xuất, kinh doanh; quy định các tiêu chuẩn môi trường và quản
lý thống nhất việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường theo quy định của pháp luật;
(4) Vận động các nguồn tài trợ, tiếp nhận vốn đầu tư của Nhà nước hỗ trợ
các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường và
quản lý việc sử dụng Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh), giúp Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trên địa
bàn tỉnh theo quy đinh của pháp luật.
Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công
tác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp
vụ của Bộ Tài nguyên và môi trường.
2.2 Các nhiệm vụ cơ bản của ngành y tế trong quản lý môi trường
Ở Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước về Y tế dự phòng có liên quan chặt chẽ
đến công tác quản lý sức khoẻ môi trường. Ở tuyến trung ương có Bộ Y tế (Cục Y tế dự
phòng, Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm) ở tuyến tỉnh có Sở y tế (Trung tâm y tế dự
phòng tỉnh), cấp huyện có (Trung tâm Y tế dự phòng huyện/Đội Y tế dự phòng) và
9
cấp xã có trạm y tế xã. Đây là các cơ quan tham gia quản lý các vấn đề Sức khoẻ môi
trường. Như vậy, hiện nay vẫn song hành hai hệ thống của hai bộ ngành cùng tham gia
quản lý môi trường cho dù đã có sự phân định ranh giới nhưng hoạt động chồng chéo ở
tuyến tỉnh là khó tránh khỏi. Ngành y tế chịu trách nhiệm chính trong giám sát các yếu tố
môi trường trực tiếp tác động đến sức khoẻ cộng đồng và sức khoẻ người lao động.
Trong khi đó, ngành môi trường và tài nguyên quản lý ở tầm vĩ mô hơn như đánh giá tác
động môi trường, tham gia phê duyệt các quy hoạch phát triển sản xuất, công nghiệp, dân
sự, đô thị v.v... Các hoạt động giám sát môi trường cũng được cơ quan này thực hiện chủ
yếu ở ngoài nhà máy.
Các bộ, ngành sản xuất cũng có một số trung tâm y tế lao động. Đây cũng là các hệ
thống quản lý môi trường lao động chịu sự giám sát và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của
các vụ, viện thuộc ngành y tế. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo 10 nhiệm vụ đối với các
cơ sở y tế như sau:
o Đề xuất và phổ biến các biện pháp dự phòng để bảo vệ sức khoẻ cộng
đồng. Cung cấp các cơ sở cũng như tham mưu với chính quyền các
chính sách, chiến lược bảo vệ sức khoẻ khỏi các nguy cơ từ ô nhiễm
môi trường. Thông tin cho các bộ ngành khác cũng như các cơ sở sản
xuất và các cộng đồng dân cư về các vấn đề sức khoẻ liên quan tới môi
trường. Đồng thời, khuyến khích các sáng kiến nhằm cải thiện môi
trường, thay đổi hành vi có lợi cho sức khoẻ.
o Nâng cao năng lực của cộng đồng trong xử lý các tác động của môi
trường lên sức khoẻ, bao gồm các giải pháp phòng bệnh do chính quyền
địa phương và người dân thực hiện.
o Tiến hành đánh giá các nguy cơ từ môi trường và tác động của môi
trường trên sức khoẻ. Ở đây, bao gồm các hoạt động theo dõi môi
trường, phát hiện những yếu tố độc hại đối với sức khoẻ từ môi trường
sản xuất, môi trường sinh hoạt công cộng và môi trường gia đình. Phát
hiện các nguy cơ do các hoạt động của các ngành khác, nhất là các ngành sản xuất có sử dụng nhiên liệu và nguyên liệu phát sinh độc hại
o Tiến hành các giám sát dịch tễ học đối với các bệnh có liên quan đến
môi trường. Thông báo hiện trạng cũng như những dự báo về tình hình.
sức khoẻ và các yếu tố độc hại từ môi trường cho những người có thẩm quyền ra các chính
sách phát triển kinh tế-xã hội.
o Đào tạo cán bộ vệ sinh phòng dịch cho các tuyến và các ngành liên quan.
o Cung cấp các dịch vụ cũng như triển khai các chương trình, dự án về
kiểm soát môi trường độc lập hoặc phối hợp với các ngành sản xuất
10
khác. Ví dụ: triển khai chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình
nước sạch và vệ sinh nông thôn (cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) v.v...
o Sẵn sàng tham gia cùng các bộ ngành, địa phương khác trong việc ứng
phó với các thảm hoạ tự nhiên cũng như thảm hoạ do con người gây ra.
Phối hợp với các cơ quan hữu quan để đưa ra các tiêu chuẩn tiếp xúc cho phép,
các giới hạn và chuẩn mực vệ sinh, chuẩn bị các văn bản có tính pháp quy trong
bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
o Phối hợp đánh giá tác động môi trường (EIA) và chủ động đề xuất các
giải pháp dự phòng, các quy trình theo dõi tình hình sức khoẻ một cách
có hệ thống.
o Đề xuất và tiến hành những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực sức
khoẻ môi trường và các giải pháp phòng ngừa.
III. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THỂ CHẾ VỀ SỨC KHỎE MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, vấn đề sức khoẻ môi trường đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm, được cụ thể hoá bằng hệ thống chính sách và thể chế. Trong số đó, Luật bảo
vệ môi trường năm 1993, xác định rất rõ: “Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt
đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
đất nước, của dân tộc và nhân loại; bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự
nghiệp phát triển bền vững của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường, khu vực và
toàn cầu”.
Các nội dung về sức khoẻ môi trường hiện nay mặc dù càn chưa có thể chế riêng
biệt, nhưng đã được lồng ghép trong hệ thống chính sách, chiến lược, kế hoạch quốc
gia có liên quan và khung pháp chế hiện hành.
1. Chiến lược, kế hoạch
Chiến lược về sức khoẻ môi trường của Việt Nam đã được xác định trong
các văn bản của nhà nước như: Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội 2001-2010;
Chiến lược Chăm sóc và Bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010; Chiến
lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến 2010 và Định hướng đến năm 2020; Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam; Chiến lược Quốc gia về Cấp
nước và Vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 và các kế hoạch hành động
liên quan.
Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2001-2020 đã xác định các mục tiêu liên
quan đến bảo vệ sức khoẻ và môi trường như: “Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ
11
em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi.
Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã
hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện”
Định hướng chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007 để cụ thể
hoá Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, cũng đã xác định: “Việc bảo vệ và
làm trong sạch môi trường thiên nhiên” là một trong những biện pháp nhằm nâng cao thể
chất con người”
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (ban hành theo Quyết định số
153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/8/2004) xác định các ưu tiên hành
động sau đây nhằm làm giảm tác hại do ô nhiễm môi trường đối với sức khoẻ nhân dân:
(cid:0) Đẩy mạnh công tác xây dựng và ban hành các chính sách và văn bản pháp qui về vệ
sinh môi trường, an toàn thực phẩm; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường
ngành và quốc gia; củng cố, tăng cường hệ thống giám sát và quy hoạch tổng thể mạng
lưới quan trắc môi trường quốc gia
(cid:0) Thiết lập các cơ chế kết hợp chăm sóc sức khoẻ với bảo vệ môi trường (cid:0) Xây dựng
định hướng quốc gia về sức khoẻ môi trường
(cid:0) Quản lý, giám sát môi trường lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp do ảnh hưởng
của các yếu tố độc hại, ô nhiễm trong môi trường lao động
(cid:0) Lập kế hoạch giám sát, thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải
nguy hại, đặc biệt là chất thải bệnh viện. Việc thực hiện kế hoạch phải
được các cơ quan bảo vệ môi trường giám sát.
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010 theo
Quyết định số 35/2001/QĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, đã đưa ra mục tiêu “Mọi người
đều được sống trong cộng đồng an toàn, môi trường trong sạch, phát triển tốt về thể chất và
tinh thần, giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi”.
Chiến lược Quốc gia về cấp nước và Vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/8/2000 trong Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg đã
cụ thể hoá các chủ trương, đường lối, chính sách chung được thể hiện trong các chiến lược
chung về phát triển bền vững, đề xuất các nội dung nghiên cứu nhằm áp dụng các công
nghệ cấp nước và vệ sinh môi trường phù hợp về môi trường và sức khoẻ.
2. Các luật liên quan đến sức khoẻ môi trường
Các nội dung chiến lược quan trọng nêu trên đã được thể hiện trong các văn bản luật
như: Luật bảo vệ Sức khoẻ Nhân dân ban hành năm 1989; các Luật bảo vệ Môi trường
ban hành năm 1993 và 2005; các luật về Đất đai, Khoáng sản, Tài nguyên nước.
Đặc biệt, Luật bảo vệ Sức khoẻ Nhân dân được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá
VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/6/1989 dành riêng một chương II “Vệ sinh
12
trong sinh hoạt và lao động, vệ sinh công cộng, phòng và chống dịch bệnh”.
Ngoài các văn bản luật và các chiến lược, còn có rẩt nhiều các Nghị quyết, Quyết
định, Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, các văn bản của Bộ Y Tế, Bộ tài nguyên và môi
trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp ban hành nhằm tăng
cường các hoạt động liên quan đến sức khoẻ môi trường.
Tuy nhiên việc xây dựng cũng như tổ chức thực hiện các chính sách trong các văn
bản trên thức tế vẫn còn nhiều bất cập; nhiều chính sách, chiến lược và quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương chưa tính đến sức khoẻ môi trường.
3. Những vấn đề tồn tại trong quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam
Trên thế giới, sau Tuyên bố Stockholm 1972, nhận thức rõ được mối liên hệ mật
thiết và quan trọng giữa sức khoẻ và môi trường, hàng loạt các sự kiện và văn bản ở cấp
quốc tế đã được tổ chức và công bố nhằm kêu gọi và đưa ra các định hướng giải quyết
các vấn đề về sức khoẻ môi trường ở cấp toàn cầu.
Quan điểm về việc gắn kết các vấn đề về sức khoẻ và môi trường cũng đã sớm
được quan tâm ở Việt Nam. Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã xác định “Môi trường
có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại; bảo vệ môi trường nhắm bảo vệ sức
khoẻ của nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành,
phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và
toàn cầu”. Trong nhiều văn bản tiếp đó, như chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn
2001-2010, Chiến lược Chăm sóc và Bảo vệ sức khoẻ nhân dân 2001-2010, Chỉ thị số
36-CT/TW ngày 26/8/1998 của Bộ Chính Trị về việc tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam và Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hường đến năm 2020 đều khẳng định tầm quan trọng của các hoạt động về sức
khoẻ môi trường.
Tuy nhiên,việc triển khai các hoạt động mang tính gắn kết giữa bảo vệ môi trường
với đảm bảo an toàn cho sức khoẻ người dân để tránh và hạn chế những rủi ro từ môi
trường sống ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn tồn tại những bất cập
và hạn chế nhất định. Trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội diễn ra nhanh chóng, trong
những năm sắp tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với hàng loạt những thách thức về sức khoẻ
môi trường như ô nhiễm môi trường gia tăng, hệ thống dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị
còn bất cập và chưa theo kịp xu thế đô thị hoá, chất lượng các dịch vụ vệ sinh môi
trường còn chưa cao, các vấn đề ô nhiễm và vệ sinh thực phẩm, an toàn hoá chất, dịch
bệnh, an toàn giao thông ngày càng nảy sinh phức tạp, v.v. Việc giải quyết các vấn đề này
đòi hỏi những nỗ lực liên ngành thu hút sự tham gia của các tổ chức chính phủ, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức tôn giáo, các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các
13
hoạt động sức khoẻ môi trường trong nước cũng cần được kết hợp chặt chẽ với các hoạt
động thuộc lĩnh vực này trong khu vực và trên toàn cầu.
Trong thời gian gần đây, sự phối hợp giữa hai cơ quan ở tầm vĩ mô là Bộ Tài
nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế đã có những chuyển biến tích cực, cụ thể là hai Bộ đã lần
đầu tiên hợp tác tổ chức các diễn đàn sức khoẻ môi trường ở ba miền và một Diễn đàn
Quốc gia về Sức khoẻ môi trường, vừa được tổ chức tháng 10/2006 tại Hà Nội, quy tụ
nhiều chuyên gia và cố vấn trong và ngoài nước cùng tham gia và thảo luận về các vấn đề
sức khoẻ môi trường nổi bật của Việt Nam. Trong hội nghị này, Báo cáo Quốc gia về sức
khoẻ môi trường năm 2006 đã được thảo luận. Đây là báo cáo đầu tiên về lĩnh vực này,
được xây dựng nhằm mục tiêu đánh giá hiện trạng các vấn đề sức khoẻ môi trường
trong giai đoạn vừa qua (2000-2005) và nêu lên một số định hướng ưu tiên nhằm giải
quyết các vấn đề nóng và bức xúc về sức khoẻ môi trường ở Việt Nam.
Báo cáo được xây dựng trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác giữa hai Bộ tài
Nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế nhắm đầy mạnh các hoạt động liên kết giữa môi trường
và sức khoẻ ở Việt Nam theo sáng kiến chung của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) và
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP).
IV. CÁC GIẢI PHÁP, HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC BƯỚC LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ
SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
1. Các giải pháp quản lý vệ sinh môi trường của ngành y tế
Đây là tập hợp các hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề phân, nước, rác thải
trong môi trường sinh hoạt và giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường công nghiệp,
nông nghiệp và sau đó là quản lý các chất thải rắn và lỏng ở quy mô lớn
hơn, nhất là sau khi có Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (1993). Sự phối hợp
của ngành y tế, ngành khoa học công nghệ-môi trường cùng với việc đưa ra các pháp
lệnh, nghị định của Quốc hội, của Chính phủ thể chế hoá các biện pháp bảo
vệ môi trường đã làm cho các hoạt động quản lý môi trường có cơ sở hơn và được đầu tư
tổng thể hơn.
Các văn bản về quy định tiêu chuẩn vệ sinh của ngành y tế đề xuất và ban
hành dựa trên các tiêu chuẩn của Liên Xô cũ và của Tổ chức Y tế Thế giới là bản
tiêu chuẩn rất ưu việt. Tuy nhiên, để thực hiện các tiêu chuẩn đó còn gặp rất nhiều
khó khăn do: ý thức tự giác của cộng đồng còn thấp, kinh tế khó khăn làm hạn chế
các biện pháp cải thiện môi trường, công nghệ lạc hậu cũng gây ra những vấn đề ô
nhiễm rất đáng lo ngại, quy hoạch đô thị cũng như quy hoạch khu kinh tế còn rất
yếu kém, di dân thiếu tổ chức, tệ nạn phá rừng và dân số gia tăng làm cho tốc độ
sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên tăng, các tập quán lạc hậu cùng các yếu tố
địa lý dân cư của nhiều vùng vẫn là mảnh đất tốt cho các công trình vệ sinh của hộ
gia đình tồn tại ở cấp độ rất thô sơ. (Ví dụ, tình trạng sử dụng cầu tiêu ao cá ở các
14
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng nuôi trâu bò dưới nhà sàn ở miền núi
phía Bắc v.v...).
Đặc điểm môi trường nông thôn nước ta vẫn là ô nhiễm bởi các chất thải hữu cơ.
Thêm vào đó là hoá chất bảo vệ thực vật làm ô nhiễm nguồn nước và làm nhiễm độc các
động thực vật thuỷ sinh. Các làng nghề ở nông thông đang trở thành nguồn ô nhiễm mới
hiện nay.
Đặc điểm môi trường thành phố là ô nhiễm công nghiệp trong cơ sở sản xuất và
nước thải, rác thải ra khu vực ngoại thành. Tình trạng "bóng rợp đô thị" ở các vùng ngoại ô
hứng chịu nước thải, rác thải của thành phố cũng đã được cảnh báo, song quản lý vấn đề
này còn có nhiều hạn chế. Thiếu quy hoạch đô thị tạo ra các yếu tố nguy cơ sức khoẻ môi
trường như mất vệ sinh nhà ở, tình trạng ngập lụt trong thành phố, khói xả của các động
cơ, tiếng ồn giao thông v.v... Lưu thông các loại thực phẩm không hợp vệ sinh cả về mặt
hoá học, lý học và vi sinh vật là các yếu tố độc hại khôn lường. Điều đáng lưu ý là những
gì đang xảy ra đối với môi trường ở Việt Nam rất giống với những gì đã xẩy ra ở các nước
có nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực. Ở đây, vai trò hợp tác quốc tế chưa phát
huy tác dụng, những sai lầm vẫn bị lặp lại mà không có biện pháp quản lý, phòng ngừa
thích hợp.
Vai trò của ngành y tế còn rất hạn chế trong cơ chế thị trường, nơi mà các quy luật
về lợi nhuận chi phối rất mạnh. Tuy nhiên, việc thay đổi các quy định, các chính sách để có
tính khả thi cao hơn, được chấp nhận nhiều hơn và có hiệu quả hơn là rất cần thiết. Các
quy định vệ sinh ban hành ở các nước phát triển cao thường quá khắt khe, trong khi đó
khả năng kiểm soát việc thực thi các quy định đó lại rất hạn chế. Điều này đặt ra cho các
nhà quản lý môi trường việc điều chỉnh các văn bản cho phù hợp.
2. Điều hành bằng pháp luật ở cấp quốc gia
Như đã đề cập ở trên, các văn bản do ngành y tế chuẩn bị và ban hành chủ yếu tác
động ở tầm vi mô nhiều hơn là ở tầm vĩ mô. Ví dụ, đưa ra các tiêu chuẩn vệ sinh về nguồn
nước, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh lao động v.v. Các văn bản do Bộ Tài nguyên và Môi
trường (trước đây là Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường) chỉ đạo các hoạt động
bảo vệ môi trường ở tầm vĩ mô hơn, có tính ngăn ngừa nhiều hơn và hướng về bảo vệ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên ở tầm chính sách và chiến lược. Ngày càng cần các văn bản
có tính liên bộ và văn bản của chính phủ trong điều phối các hoạt động bảo vệ sức khoẻ
môi trường.
Cũng cùng chung với tình trạng thực hiện các tiêu chuẩn vệ sinh, các văn bản tuy
có tính pháp lý cao của ngành tài nguyên - môi trường cũng gặp rất nhiều khó khăn. Trong
đó có năng lực của những người quản lý cấp tỉnh còn yếu, có sự bất cập giữa các văn bản
yêu cầu rất cao, rất ưu việt với mức đầu tư thấp về nguồn lực cho các cơ quan quản lý môi
trường.
15
3. Thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường
Việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường phụ thuộc vào mức thu nhập
quốc dân và chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu, khi mức bình quân thu nhập đầu người ở
mức thấp (khoảng dưới 1.000 USD / người / năm) thì mức ô nhiễm (ví dụ: ô nhiễm khí
SO2) trong môi trường càng tăng. Ở thời gian này, các mục tiêu kinh tế được đặt lên hàng
đầu, trong khi đó khả năng kỹ thuật lại còn hạn chế, mức đầu tư cho bảo vệ môi trường thấp
làm cho càng phát triển sản xuất thì nguy cơ thải SO2 ra môi trường càng nhiều. Đến giai
đoạn sau, khi nền kinh tế đã phát triển, những khó khăn ở giai đoạn đầu giảm đi, khả năng
đầu tư cho phòng chống ô nhiễm tăng lên, công nghệ ở trình độ cao hơn vì vậy mức ô nhiễm
sẽ giảm đi. Đây là một ví dụ cụ thể về ô nhiễm chất khí SO2 chỉ điểm của ô nhiễm môi
trường công nghiệp nhưng cũng có thể suy luận rộng ra cho nhiều yếu tố ô nhiễm khác.
Chúng ta cũng nhận thấy việc kiểm soát bằng luật lệ đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam là không dễ dàng. Cũng có thể dự đoán rằng chúng
ta đang ở thời kỳ mà mức ô nhiễm môi trường tăng tỉ lệ thuận với tăng trưởng kinh
tế. Vì vậy, các biện pháp quản lý môi trường cần được đặc biệt chú ý. Rất tiếc là
chúng ta chưa có các số liệu dự báo ô nhiễm đáng tin cậy, cũng như mức đầu tư
cho chống ô nhiễm còn rất hạn chế và khó tính toán. Như vậy, câu hỏi đặt ra cho
các nhà quản lý môi trường ở cấp vĩ mô là cần đầu tư bao nhiêu, giải quyết yếu tố
nào, yếu tố nào cần ưu tiên giải quyết trước v.v. hiện vẫn chưa tìm được câu trả lời
thoả đáng.
Việc vận động nhân dân làm sạch môi trường còn lúng túng vì chưa tìm được
giải pháp có tính duy trì. Ví dụ, vào giữa những năm 90' phong trào xoá cầu tiêu ao cá ở
Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện rầm rộ. Có tỉnh "xoá cầu tiêu ao cá" trong vài
tháng, song lúc đó không tìm được loại hố xí nào phù hợp và được cộng đồng chấp nhận
nên chỉ vài tháng sau, các "cầu cá" lại "tái lập" như trước đó. Vì vậy, khu vực này vẫn
lưu hành các bệnh dịch đường tiêu hoá như thương hàn, lỵ và cả bệnh tả.
Hiện nay, các phong trào "làng sức khoẻ" đang được Bộ Y tế phát động,
trong đó có việc khôi phục lại các chương trình vệ sinh nông thôn trước đây. Ở
thành phố, nhờ có sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới, nhiều nơi đang thực hiện
chương trình "thành phố lành mạnh", chương trình phòng chống bệnh bụi phổi
silic đang được hiện ở một số cơ sở có ô nhiễm bụi v.v. Cho dù có không ít cố
gắng của ngành y tế trong việc kiểm soát môi trường, tình hình ô nhiễm vẫn có xu
hướng gia tăng.
Những giải pháp khống chế ô nhiễm môi trường hiện nay do ngành y tế chỉ đạo, bao gồm:
(1) Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy để tăng cường quản lý
nhà nước về môi trường và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng
16
(2) Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng các cấp
(3) Phát triển nhân lực
(4) Đầu tư trang thiết bị theo dõi, giám sát môi trường và giám sát tình
hình sức khoẻ, bệnh tật
(5) Đảm bảo ngân sách, kể cả việc tạo nguồn thu dịch vụ
(6) Tổ chức và quản lý bộ máy
(7) Phối hợp liên ngành
(8) Xã hội hoá các hoạt động bảo vệ môi trường, nâng cao sức khoẻ.
4. Những hoạt động quản lý sức khoẻ môi trường
Những câu hỏi chính thường đặt ra cho người quản lý môi trường gồm:
(cid:0) Có những yếu tố môi trường nào có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng?
(cid:0) Mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ của yếu tố đó đến sức khoẻ cộng đồng ra
sao?
(cid:0) Có những giải pháp nào (hiện có) đang được sử dụng để ngăn ngừa
nguy cơ hiện tại và tác động lâu dài của ô nhiễm môi trường lên sức
khoẻ? Có những khiếm khuyết nào trong các giải pháp đó mà có thể
điều chỉnh được?
(cid:0) Có những giải pháp khả thi nào khác nhằm tăng cường sức khoẻ, cải
thiện môi trường?
(cid:0) Cần có các văn bản gì, quy định hành chính nào giúp cho việc thể chế
hoá, hành chính hoá các hoạt động quản lý môi trường?
(cid:0) Hiện nay các luật lệ cũng như các văn bản pháp quy chỉ đạo công tác vệ
sinh phòng bệnh, ngăn ngừa các nguy cơ từ môi trường có phù hợp
không? điểm nào không phù hợp và cần phải điều chỉnh?
(cid:0) Cần có những chiến lược nào, tiêu chuẩn gì đối với chất lượng môi
trường? Để triển khai các chiến lược đó ở các địa phương, các bộ ngành
cần có những hướng dẫn gì?
Từ các câu hỏi trên, có 7 nhóm hoạt động quản lý môi trường (trình bày ở phần sau).
4.1 Xác định và đo lường mức độ ô nhiễm môi trường
Đây là nhiệm vụ đầu tiên và cũng là hoạt động cần nhiều nguồn lực nhất đối với
cơ sở y tế dự phòng địa phương. Mỗi nước với trình độ phát triển kinh tế cũng như điều
kiện địa lý môi trường, hệ thống chính sách xã hội khác nhau có những quan tâm không
giống nhau.
Ở các nước phát triển, người ta quan tâm nhiều đến ô nhiễm môi trường công
nghiệp, đô thị, đến việc khai thác các nguồn tài nguyên không tái sinh, đến tầng ôzôn,
17
đến khí xả động cơ và cả các vấn đề mà nước đang phát triển ít chú ý tới như thuỷ triều và
tình trạng nóng lên của trái đất... Trong khi đó, các nước đang phát triển lại chú ý tới các yếu
tố ô nhiễm môi trường truyền thống như vấn đề chất thải sinh hoạt, các yếu tố ô nhiễm vi
sinh vật, ký sinh trùng, hoá chất bảo vệ thực vật, ô nhiễm thực phẩm v.v... Ngay trong cùng
một quốc gia, các mối quan tâm về môi trường ở mỗi vùng cũng có các đặc trưng
riêng.
Trước khi xác định ô nhiễm môi trường của một địa phương, một khu vực
dân cư chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề quan tâm hàng đầu của cộng đồng là
gì, yếu tố nào đang và sẽ gây hậu quả lên sức khoẻ, yếu tố nào đã được nhận biết
hoặc chưa được nhân biết, mức độ ảnh hưởng ra sao, các khó khăn cản trở gì trong
quá trình phát hiện ô nhiễm, theo dõi, giám sát và kiểm soát ô nhiễm v.v... Dân số
đang sống trong tình trạng ô nhiễm là bao nhiêu, các nhóm dễ bị tổn thương là
những ai?
Việc xác định các yếu tố ô nhiễm có thể cần đến các kỹ thuật đo đạc, đánh giá ô
nhiễm. Song, không ít trường hợp các yếu tố ô nhiễm chỉ được ghi nhận có tính chất định
tính hoặc trên các suy luận lôgic.
Ví dụ: khi tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh còn thấp, nguy cơ ô nhiễm vi sinh
vật đường ruột trong đất và đặc biệt là trong nước sẽ rất cao. Ở đây, yếu tố có thể đo
lường được đó là các chỉ số vệ sinh của các nguồn nước sinh hoạt (coliform, BOD5,
NH3...) song các tác nhân gây bệnh đường ruột khác như các vi rút và vi khuẩn gây bệnh
tiêu chảy ở trẻ em lại rất khó xác định, nhất là khi thiếu các kỹ thuật la bô hiện đại, vì vậy
phải "mượn" các chỉ số vệ sinh để đánh giá ô nhiễm. Tương tự như thế, các yếu tố gây
ung thư trong môi trường rất nhiều song ít có khả năng đo lường chúng, trừ một vài nghiên
cứu có mức đầu tư khá lớn.
Phương pháp "kiểm kê" (inventory) các yếu tố ô nhiễm dựa trên các mô hình tính
toán cũng được khuyến cáo áp dụng một khi thiếu các kỹ thuật theo dõi giám sát môi
trường. Ví dụ, để xác định mức ô nhiễm khí SO2, SO3 trong môi trường do khói xả từ
các ống khói nhà máy sử dụng than đá, người ta có thể sử dụng phương pháp hoá học để
định lượng SO2, SO3 trong không khí, hoặc sử dụng hệ thống thiết bị theo dõi tự động
(monitoring). Trường hợp không có các kỹ thuật trên, người ta có thể tính toán lượng SO2,
SO3 thải vào không khí trong một tháng (hay 1 ngày đêm, 1 năm...) qua số liệu báo cáo về
lượng than đá đã sử dụng (trong than có một tỷ lệ lưu huỳnh xác định, khi đốt sẽ tạo thành
SO2, SO3... ).
Khi xác định yếu tố ô nhiễm, cần xác định cả số lượng quần thể dân cư cũng
như sinh vật có thể chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp do ô nhiễm môi trường. Ví dụ,
xem Bảng sau về tình hình ô nhiễm SO2 ở hai thành phố.
18
Bảng 4.1 Tình hình ô nhiễm SO2 ở hai thành phố A và B
Thành phố A Thành phố B
8.000.000 1.000.000 Dân số
Mức ô nhiễm SO2 (ppm)
0,40 1,40 (cid:0) Tối đa
0,10 0,10 (cid:0) Tối thiểu
0,25 0,25 (cid:0) Trung bình
Số dân tiếp xúc
4.200.000 510.000 (cid:0) Phụ nữ
600.000 150.000 (cid:0) Trẻ em
800.000 100.000 (cid:0) Người cao tuổi
Để đánh giá ô nhiễm có thể dựa vào các mức ô nhiễm, trong đó không chỉ
chú ý tới mức ô nhiễm trung bình, tỷ lệ số mẫu đo vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho
phép mà còn chú ý tới mức ô nhiễm tối đa (có những thời điểm ô nhiễm cao nhất)
có thể tác động cấp tính trên cộng đồng. Thêm vào đó mức giao động (tối đa, tối
thiểu) cũng cần được chú ý phân tích về quy luật ô nhiễm. Sau cùng, song lại
không kém phần quan trọng, đó là số dân phải tiếp xúc, trong đó có các đối tượng
rất nhạy cảm. Với ví dụ trên cho thấy mức độ nguy cơ ở thành phố B có phần cao
hơn song thành phố A tổng số dân tiếp xúc cũng như các nhóm dễ bị tổn thương
lại nhiều hơn. Rõ ràng là mức đầu tư cho phòng chóng ô nhiễm khí SO2 ở thành
phố A phải lớn hơn.
Xác định các yếu tố ô nhiễm cũng được phân theo các mức độ khác nhau:
(cid:0) Mức hộ gia đình hay còn gọi là "vi môi trường", trong đó các nguồn ô
nhiễm từ các công trình vệ sinh, bếp, khói thuốc lá, các hoá chất và cả
các thói quen có hại tới sức khoẻ khác.
(cid:0) Mức độ cộng đồng hay môi trường địa phương, trong đó các nguồn ô
nhiễm từ giao thông, các công trình công cộng, các cơ sở sản xuất trong
khu vực...
(cid:0) Mức độ ô nhiễm của một vùng lãnh thổ, vùng địa lý, nơi đó có các yếu
tố ô nhiễm từ môi trường thiên nhiên, độ cao, vùng khí hậu.
(cid:0) Mức độ ô nhiễm trong các cơ sở sản xuất, trong các nghề nghiệp: nông,
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ...
Nếu phối hợp với các loại yếu tố ô nhiễm ta sẽ có ma trận hệ thống hoá các yếu
tố ô nhiễm như sau:
19
Bảng 4.2 Mẫu ma trận hệ thống hoá các yếu tố ô nhiễm
Các loại yếu tố ô nhiễm Hoá học Lý học Sinh học
Mức hộ gia đình
Mức cộng đồng
Mức khu vực
Ô nhiễm tại các cơ sở sản xuất, trong các nghề nghiệp
4.2 Đo lường các yếu tố độc hại và đánh giá các nguy cơ cũng như hậu quả lên sức khoẻ
4.2.1 Đánh giá tiếp xúc với môi trường
Muốn đánh giá mức độ tiếp xúc với môi trường, việc đầu tiên là phải lấy mẫu. Ở
đây có 5 câu hỏi được đặt ra là:
(cid:0) Cần lấy mẫu trong bao lâu và
(cid:0) Bao lâu lại lấy mẫu một lần (tần suất lấy mẫu)?
(cid:0) Vị trí lấy mẫu ở đâu?
(cid:0) Yêu cầu về chất lượng số liệu phân tích đến đâu?
(cid:0) Cần có phương tiện lấy mẫu gì và kỹ thuật nào sử dụng trong phân tích mẫu?
Nội dung bài này không đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi trên đây mà lưu ý chúng
ta các câu hỏi của người quản lý môi trường đặt ra cho các nhà kỹ thuật môi trường và sẽ
được học trong những bài khác. Có không ít trường hợp không thể đo lường được mức độ
tiếp xúc (định lượng) mà chỉ ước lượng được nguy cơ (định tính). Ví dụ, trong vụ dịch hội
chứng viêm đường hô hấp cấp tính (SARS) năm 2003, khi tác nhân gây bệnh không biết cụ
thể, chỉ qua các xét nghiệm định nhóm vi rút biết được có thể là một loại corona vi
rút và càng không thể định lượng được số vi rút trong một mét khối không khí. Vì vậy,
không có lấy mẫu và phân tích mẫu trong môi trường. Khả năng duy nhất để xác định
nguy cơ là số người đã từng tiếp xúc gần gũi với người bệnh điển hình (index case).
Mức độ ô nhiễm mà một cộng đồng phải tiếp xúc càng cao quá tiêu chuẩn tiếp xúc
cho phép thì nguy cơ càng nhiều. Thêm vào đó, thời gian tiếp xúc cũng đóng vai trò rất
quyết định. Thời gian tiếp xúc càng dài thì nguy cơ càng cao. Tuy nhiên, có những yếu tố
tác hại gây ảnh hưởng cấp tính hoặc tối cấp tính thì chỉ trong một thời gian tiếp xúc rất
ngắn cũng có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ, thậm chí có thể gây tử vong (ví dụ, tiếp xúc với hơi
khí CO).
Để lấy mẫu, người ta có thể sử dụng các phương tiện lấy mẫu cá nhân hoặc
các phương tiện lấy mẫu ngoài cộng đồng, nơi sản xuất... Để phân tích mẫu thu
được người ta sử dụng nhiều kỹ thuật phân tích hoá học, lý học, hoá lý và sinh
học. Các kỹ thuật này phải do các chuyên gia và kỹ thuật viên thực hiện. Kết quả
sau khi phân tích được tính toán theo các đơn vị khác nhau. Từ đó, người ta ước
20
tính ra liều tiếp xúc trung bình, liều tiếp xúc trung bình theo thời gian, liều tiếp xúc
đỉnh. Đối chiếu liều tiếp xúc với các tiêu chuẩn tiếp xúc cho phép để đưa ra nhận
định về nguy cơ và đưa ra các phương thức xác định những hậu quả của môi
trường trên sức khoẻ một cách thích hợp (trong trường hợp có tiêu chuẩn tiếp xúc
cho phép).
4.2.2 Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường lên sức khoẻ
Trong nhiều trường hợp, ảnh hưởng của môi trường lên sức khoẻ được xác định qua
các chỉ số mắc bệnh, tử vong do một số bệnh đặc trưng (bệnh đặc hiệu của một hoá chất
độc, một yếu tố lý học hay sinh vật học) hoặc một số bệnh không đặc trưng (môi trường chỉ
là yếu tố tác động làm tăng tỷ lệ mắc và chết). Ví dụ: nhiễm độc chì, bụi phổi silic và bệnh
phổi tắc nghẽn mãn tính không đặc hiệu.
Không ít các yếu tố môi trường rất khó xác định tác hại trên sức khoẻ do tính đặc
hiệu quá thấp. Trong cùng một điều kiện tiếp xúc, thậm chí cùng liều tiếp xúc song có
những cá thể hoặc nhóm người không hoặc ít bị ảnh hưởng hơn các cá thể, nhóm người
khác. Vì vậy, đánh giá ảnh hưởng của môi trường trên sức khoẻ phải dựa vào quy luật số
đông, vào tính phổ biến, trừ một số ngoại lệ.
Việc xác định ảnh hưởng của môi trường lên sức khoẻ dựa trên các số liệu thống kê
về tình hình mắc bệnh và/hoặc tình hình tử vong. Ngoài ra, còn có các nguồn số liệu từ
những kết quả khám phát hiện bệnh định kỳ, khám sàng lọc hoặc/và làm các xét
nghiệm đặc hiệu hoặc không đặc hiệu, điều tra phỏng vấn về tình hình sức khoẻ, ốm đau
của từng đối tượng v.v.
Ảnh hưởng của môi trường lên sức khoẻ thường hay giống với hiện tượng "tảng
băng nổi" với các mức ảnh hưởng khác nhau:
a. Tử vong
b. Mắc bệnh lâm sàng
c. Mắc bệnh thể tiền lâm sàng
d. Tiếp xúc quá mức, chưa mắc bệnh
e. Tiếp xúc trong giới hạn cho phép
Sơ đồ trên cho thấy: nếu chỉ có một vài trường hợp tử vong phải thấy rằng có rất
nhiều người đang bị bệnh ở thể lâm sàng hoặc tiền lâm sàng. Cũng như thế, khi một người
bệnh được phát hiện cũng có thể có rất nhiều người đang tiếp xúc quá mức nhưng chưa
mắc bệnh.
Trong khi nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường lên sức khoẻ người ta có thể dựa
vào một số nhóm bệnh mang tính "chỉ danh". Ví dụ, nếu thấy tỷ lệ bệnh phổi tắc nghẽn
mãn tính không đặc hiệu cao, có thể nghĩ nhiều đến các yếu tố ô nhiễm môi trường không
khí là bụi, hơi khí kích thích và khói. Nếu thấy tỷ lệ bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá cấp
21
tính cao, có thể nghĩ tới ô nhiễm nguồn nước do nước thải sinh hoạt hoặc ô nhiễm phân.
Một số yếu tố ô nhiễm có thể gây ra các rối loạn trong phân chia tế bào hoặc chỉ
ảnh hưởng tới tế bào sinh dục, gây ra quái thai hoặc dị tật bẩm sinh cho thế hệ sau mà
không thể hiện hậu quả trên thế hệ tiếp xúc. Trong trường hợp này đòi hỏi phải sử dụng các
phương pháp nghiên cứu di truyền học.
Khi nghiên cứu hậu quả của môi trường lên sức khoẻ phải chú ý rằng ngoài tác động
của môi trường, sức khoẻ còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như các yếu tố
gây stress, tình trạng dinh dưỡng và các thói quen sinh hoạt có hại cho sức khoẻ. Thêm vào
đó, khi tìm hiểu ảnh hưởng của yếu tố độc hại này, phải lưu ý rằng có thể có các yếu tố
độc hại khác cũng đã tác động lên tình trạng sức khoẻ cộng đồng. Các nghiên cứu dịch tễ
học với sự hỗ trợ của các xét nghiệm môi trường, các xét nghiệm sinh học và các khám xét
lâm sàng giúp cho việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa môi trường và sức khoẻ.
Khi xác định được những hậu quả của môi trường lên sức khoẻ cần tìm hiểu mối quan
hệ nhân quả, xác định mức độ nguy cơ và mức độ hậu quả của ô nhiễm môi trường để từ
đó xác định các vấn đề ưu tiên, các giải pháp ưu tiên cho các hoạt động làm giảm nhẹ hậu
quả, bảo vệ sức khoẻ và bảo vệ môi trường.
4.3 Đề xuất các giải pháp giảm nhẹ nguy cơ, ngăn ngừa hậu quả
Dựa trên các chính sách quốc gia về bảo vệ môi trường, bộ luật môi trường và các
điều trong các bộ luật khác có liên quan đến bảo vệ môi trường, căn cứ vào năng lực khống
chế và kiểm soát môi trường của các cơ sở y tế, của ngành công nghệ - tài nguyên - môi
trường và trên quá trình phân tích tình hình môi trường, hậu quả của môi trường lên sức
khoẻ của địa phương để đề xuất các giải pháp phù hợp với những ưu tiên, với nguồn lực có
thể có được, khả thi và có giải pháp hữu hiệu.
Nguyên tắc của các chiến lược môi trường dựa trên các nguyên lý cơ bản như:
công bằng, hiệu quả và cộng đồng tham gia. Các giải pháp có thể ở các mức khác nhau:
Dự phòng cấp I: ngăn không để xẩy ra ô nhiễm quá mức và không để xẩy ra hậu quả
xấu trên sức khoẻ. Ví dụ: các chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn;
các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm tại nguồn phát sinh (không sử dụng nguyên liệu
phát sinh độc hại, hạn chế nguồn nhiên liệu phát sinh khói, bụi, áp dụng công nghệ
Dự phòng cấp II: Trong trường hợp không thể khống chế được ô nhiễm và hậu quả xấu
sạch, bảo vệ khối cảm thụ v.v.)
lên sức khoẻ đã xẩy ra, lúc đó cần phải áp dụng các biện pháp quản lý sức khoẻ và
điều trị phù hợp ngăn không để bệnh tiến triển, không để thể dưới lâm sàng phát triển
thành thể lâm sàng.
Dự phòng cấp III: trong trường hợp đã bị bệnh, cần ngăn ngừa các tai biến nặng của
bệnh và hạn chế tử vong sớm. Ví dụ: Chương trình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (ARI),
22
chương trình tiêu chảy trẻ em (CDD), khám phát hiện sớm và điều trị cho các trường hợp
do ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp.
Việc chọn các vấn đề ưu tiên dựa trên kết quả đánh giá tác động môi trường
(EIA); trên năng lực ứng phó về mặt kỹ thuật, về nguồn lực sẵn có, trên diện tác
động của vấn đề, tính trầm trọng của vấn đề và trên đặc tính của cộng đồng chịu
nguy cơ (đặc điểm kinh tế, văn hoá: ưu tiên người nghèo, văn hoá thấp và tính dễ
bị tổn thương: bà mẹ, trẻ em...). Khi chọn các vấn đề ưu tiên cần có sự chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, được Hội đồng nhân dân ủng hộ, được các ban
ngành hữu quan hỗ trợ và cùng cộng tác. Việc lôi cuốn các cơ quan nhà nước chưa
đủ, phải có cả sự tham gia (tự nguyện hoặc cưỡng chế) đối với các cơ sở tư nhân.
Sau cùng, phải dung hoà được những lợi ích của các bên có liên quan, sao cho
mục tiêu bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ đạt được nhưng không hoặc ít gặp
phải sự phản ứng của cộng đồng hay những người có quyền ra chính sách phúc lợi
công cộng khác.
Trong quá trình xây dựng các chiến lược đã cần có sự tham gia liên ngành thì khi thực
thi cũng cần có sự đóng góp của liên ngành cùng với sự tham gia của cộng đồng. Chỉ riêng
các cơ sở y tế dự phòng thì không thể giải quyết được các vấn đề môi trường-sức khoẻ
cho dù hiện nay đã có luật. Việc điều chỉnh chính sách, thay đổi chiến lược cho phù hợp
với từng địa phương, từng cộng đồng ở các thời điểm khác nhau là hết sức cần thiết. Các
giải pháp đưa ra có thể theo một lịch trình dài nhiều năm, song cũng có thể chỉ trong một
tình huống, một thời gian giới hạn. Các giải pháp dài hạn phải lồng ghép trong quy hoạch
phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội của địa phương hay trong quy hoạch phát triển ngành y
tế. Các giải pháp ngắn hạn mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn khi ứng phó với các tình huống có
tính cấp bách song sau đó phải đưa ra các giải pháp có cơ sở hơn và vững bền hơn.
4.4 Xác định tính khả thi của các giải pháp
Như trên đây đã trình bày các yếu tố cần đưa ra để xem xét khi xác định các vấn đề
ưu tiên cần giải quyết, trong đó có tính khả thi về kỹ thuật (nghĩa là đã có giải pháp kỹ
thuật hiệu quả) và khả thi về tổ chức (nghĩa là đã có các tổ chức thực hiện khá hoàn chỉnh
để thực hiện các giải pháp kỹ thuật).
Tính khả thi còn tuỳ thuộc vào khả năng các nguồn lực (nhân lực, tài chính và thiết
bị).Không cỗ máy nào hoạt động mà không cần đến nguồn điện hoặc
nhiên liệu. Thiếu nguồn lực cũng như xe ô tô không có xăng, như một cơ sở sản
xuất nghèo nàn, yếu kém vì không có đủ nguyên liệu, nhiên liệu. Tính khả thi còn
thể hiện ở sự cam kết ủng hộ của chính ở đây quyền và sự tham gia của cộng
đồng. Sự cam kết không chỉ trên giấy mà phải bằng việc đảm bảo các nguồn lực
cần thiết.
4.5 Xây dựng hệ thống luật pháp, các văn bản pháp quy quản lý môi trường
23
Tất cả mọi hoạt động bảo vệ môi trường cần được thể chế hoá bằng các luật,
pháp lệnh, các nghị định của Chính phủ, Quốc hội, các thông tư hướng dẫn của các bộ,
ngành, quyết định của các cơ quan chính quyền và sự chỉ đạo của cơ quan Đảng. Việc
thanh tra môi trường cũng dựa trên các quy định có tính pháp lý. Thanh tra môi trường hoạt
động yếu cũng giống như tại nơi công cộng không có sự giám sát của lực lượng công an
vậy.
4.6 Điều chỉnh chính sách và luật lệ
Chính sách không phải là bất biến. Các điều luật định kỳ cũng được xem xét, sửa
đổi và bổ sung. Nhiệm vụ của các cơ quan y tế cũng như cơ quan môi trường trong khi
thực hiện các luật định phải phát hiện những điểm bất hợp lý, điểm thiếu hụt trong các
văn bản và đề xuất những sửa đổi lên cấp có thẩm quyền (cấp ra văn bản cũng là cấp phải
sửa đổi văn bản khi cần thiết).
4.7 Các chiến lược và chuẩn mực trong quản lý môi trường
Các chiến lược về môi trường phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của từng quốc
gia, từng địa phương, song các chuẩn mực về môi trường thì lại rất ít thay đổi. Hiện nay,
các tiêu chuẩn tiếp xúc hay tiêu chuẩn vệ sinh cho phép của Việt Nam cũng đã dựa trên
hầu hết các chuẩn mực quốc tê.
Như vậy, sẽ nẩy sinh mâu thuẫn giữa năng lực kiểm soát môi trường còn rất giới
hạn với những chuẩn mực quá cao so với khả năng áp dụng và khả năng tuân thủ trên thực tế.
Thêm vào đó, các chuẩn mực phải đi kèm với kỹ thuật chuẩn mực để đánh giá ô nhiễm môi
trường. Điều này cũng là một bất cập trong thực tế, khi các kỹ thuật đánh giá ô nhiễm ở
các tỉnh hiện nay còn rất giới hạn. áp dụng chuẩn mực nào, giới hạn nào là chấp nhận
được vẫn là các câu hỏi cần được xem xét thêm.
5. Vai trò của cộng đồng trong quản lý môi trường và bảo vệ sức khoẻ
Để giải quyết vấn đề môi trường, nhất là môi trường sinh hoạt, nhà ở,
đường phố, làng xóm và nơi sản xuất cần phải dựa vào cộng đồng. Đây cũng là
xương sống của việc xã hội hoá các hoạt động bảo vệ môi trường và bảo vệ sức
khoẻ.
Cộng đồng tham gia vào quản lý môi trường trước hết là phải ý thức được vấn đề
môi trường có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của chính cộng đồng và của
từng thành viên trong cộng đồng. Nói điều này rất dễ, song thực hiện lại rất khó,
một khi kinh tế eo hẹp, người ta nghĩ nhiều đến năng suất và lợi nhuận hơn là việc
bỏ tiền, bỏ công cho các hoạt động vệ sinh công cộng. Tự chịu trách nhiệm với
môi trường sống của cộng đồng, của gia đình và với sức khoẻ của mình là yếu tố
quan trọng nhất trong lôi cuốn cộng đồng tham gia. Cộng đồng tham gia còn thể
hiện ở tổ chức các thành viên trong cộng đồng để thực hiện những nhiệm vụ
24
chung. Ở đây, cộng đồng phải tham gia vào việc theo dõi môi trường, xác định
những vấn đề tồn tại trong bảo vệ môi trường sống, môi trường làm việc của chính
họ, tìm các giải pháp cũng như nguồn lực thích hợp và lên kế hoạch, thực hiện kế
hoạch làm sạch môi trường, phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ sức khoẻ của chính gia
đình và cộng đồng của mình. Không ít người đến nay vẫn coi xã hội hoá với nghĩa
huy động sự đóng góp tài chính của cộng đồng. Điều này không sai, song chỉ đúng
được một phần. Cũng không ít người lại thổi phòng vai trò của cộng đồng trong
việc lập kế hoạch xử lý môi trường. Về bản chất cũng như lý luận không có gì sai
song ở mỗi nước, mỗi địa phương lại có luật lệ, quy định khác nhau. Nếu người
không nắm nguồn lực tài chính trong tay thì làm thế nào để có thể lập kế hoạch
khả thi được? Nếu ngân sách được chỉ đạo từ tuyến trên thì tự mỗi cộng đồng có
được tự ý chi tiêu tiền ngân sách không? nếu cộng đồng không có quỹ riêng mình,
việc chủ động đóng góp ngày công đã đủ chưa? v.v.v
Những cải tiến cục bộ, những việc làm trong phạm vi gia đình, những hoạt động
chi phí không nhiều và hoàn toàn có thể do cộng đồng quyết định từ khâu xác định vấn
đề, lập kế hoạch và thực hiện. ở Việt Nam cũng có các bài học kinh nghiệm hay trong
chương trình vệ sinh nông thôn và vệ sinh công nghiệp, trong đó với sự hỗ trợ rất ít của cơ
quan y tế, tự cộng đồng đã tiến hành các hoạt động cải thiện môi trường sống (ví dụ bài
học của huyện Vị Thanh ở Cần Thơ). Người ta cũng đưa ra khái niệm về "Chăm sóc
môi trường ban đầu (Primary environmental care), trong đó tự các nhóm cộng đồng tổ
chức với nhau, sự hỗ trợ bên ngoài rất nhỏ giúp họ hiểu và áp dụng các kỹ thuật bảo
vệ môi trường dựa trên nhu cầu của chính cộng đồng. Chăm sóc môi trường ban đầu dựa
trên nguyên tắc phối hợp ba thành tố: (a) làm thoả mãn nhu cầu cơ bản của cộng đồng;
(b) bảo vệ và sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên môi trường và (c) nâng cao năng lực
bảo vệ môi trường của cộng đồng.
Có 9 hướng dẫn sau đây giúp cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường của mình:
i) Hoạt động can thiệp dựa trên nhu cầu và kiến thức sẵn có của cộng đồng. Ví dụ, không
ai không cần có nước sạch để dùng (có nhu cầu), ít nhiều một địa phương đều biết tìm nguồn
nước sạch cho mình. Tác động bên ngoài chỉ nhằm hướng dẫn họ tìm nguồn nước sạch
hơn, bảo vệ nguồn nước và áp dụng các biện pháp đun sôi, lọc nước khi
nguồn nước có nguy cơ bị nhiễm bẩn.
ii) Dựa trên tổ chức cộng đồng (xóm phố) và tổ chức hành chính của địa phương. Ví dụ,
hiện nay có phong trào làng văn hoá, làng sức khoẻ, các hương ước của làng, xóm, phố
đưa ra có các quy định vệ sinh riêng, cũng có những cách xử phạt người vi phạm. Cùng
với những quyết định của hệ thống hành chính địa phương, có thể hướng cộng đồng thực
hiện những hoạt động bảo vệ và thanh khiết môi trường phù hợp.
iii) Dựa trên các nguồn lực cũng như các kỹ thuật sẵn có của địa phương, thêm vào
25
đó là những hỗ trợ rất nhỏ nhằm giớithiệu hay điều chỉnh các giải pháp kỹ thuật có tính
khoa học và hiệu quả hơn (bổ sung cho các phương pháp dân gian, phương pháp theo
kinh nghiệm).
iv) Huy động cộng đồng tham gia quản lý môi trường, lập kế hoạch,
thực hiện, theo dõi và đánh giá.
v) Bắt đầu các hoạt động bằng một số công việc/dự án có tính kích thích, lan toả sang
các hoạt động khác. Ví dụ, chương trình lồng ghép của UNICEF hỗ trợ cho nông thôn
một số tỉnh bắt đầu bằng việc tẩy giun cho trẻ em định kỳ và xây dựng ba công trình vệ
sinh, sau đó lan sang các hoạt động chăm sóc sức khoẻ trẻ em, kế hoạch hoá gia đình v.v.
vi) Hoạt động phải linh hoạt, mềm dẻo.
vii) Các hoạt động cần được duy trì song không đóng khung trong một số hoạt động mà
bổ sung thêm, điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Điều này rất quan trọng, vì mỗi cộng
đồng có các đặc điểm riêng, ngay cùng một cộng đồng ở các thời điểm khác nhau có
nhu cầu cũng như cách giải quyết không giống nhau. Thêm vào đó, quá trình hoạt động
bảo vệ môi trường là một chuỗi các đáp ứng, là một quá trình động và khá biện chứng.
Ở một địa phương, nếu khăng khăng theo đuổi một giải pháp cũng chẳng khác nào cứ
duy trì một đơn thuốc chữa cho nhiều bệnh khác sau đó.
viii) Nhân rộng các kinh nghiệm thành công và thông báo, rút kinh ghiệm các trường
hợp thất bại.
ix) Cán bộ dự án, người chỉ đạo tuyến trên phải có thái độ đúng, phải biết lắng nghe, biết
quan sát, biết nghĩ và biết ra quyết định dựa vào nhu cầu của cộng đồng.
6. Lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi trường ở tuyến cơ sở
Việc lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi trường phải dựa trên các chính sách và
chiến lược của quốc gia, khả năng của các nguồn lực, những vấn đề bức bách của cộng
đồng địa phương và của các nhóm dễ bị tổn thương. Kế hoạch quản lý sức khoẻ môi
trường được xây dựng ở nhiều cấp độ. Cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh và cả cấp cơ sở.
Kế hoạch từ cấp tỉnh trở lên mang tính định hướng chiến lược đầu tư cho sức khoẻ môi
trường.
Trong mục này sẽ đề cập tới kế hoạch can thiệp ở tuyến thực thi các chính sách-
tuyến cơ sở. Ở đây các hoạt động quản lý môi trường rất cụ thể và rất gần gũi với cộng
đồng. Xuất phát điểm của các kế hoạch không chỉ đơn thuần thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch trên giao, thông qua hướng dẫn kế hoạch của Sở y tế, Trung tâm vệ sinh phòng dịch
tỉnh theo một quy trình mà còn phải có những sáng tạo (đảm bảo tính mềm dẻo) cũng
như phải đáp ứng nhu cầu cấp thiết nhất trên địa bàn dân cư, hay cơ sở sản xuất. Muốn
xây dựng kế hoạch dựa trên nhu cầu của cộng đồng song lại phải tuân theo một quy trình
nhất định, nếu không sẽ chỉ là các hoạt dộng đối phó, chạy theo thành tích để hoàn thành
26
kế hoạch nhưng thực thế người dân lại ít được hưởng lợi, hoặc chi phí tốn kém mà lợi
ích thấp hoặc gặp phải phản ứng của cộng đồng cũng như của chính quyền địa phương,
phản ứng của các chủ sản xuất, làm cho giải pháp thiếu hiệu quả và không có tính khả
thi, tính duy trì thấp.
Cách lập kế hoạch trình bày trong Sơ đồ 2 giúp giảm bớt một số vấn đề tồn tại của
cách lập kế hoạch thụ động.
6.1 Các bước lập kế hoạch giải quyết vấn đề
Xác định vấn đề cần can thiệp (1)
Tìm hiểu, phân tích kỹ về vấn đề can thiệp (2)
Đề xuất giải pháp và quy trình can thiệp (3)
Đặt kế hoạch sau can thiệp (4)
Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch (5)
Theo dõi, giám sát (6)
Câu hỏi đặt ra cho giai đoạn này là: Cần phải can thiệp gì để cải thiện điều kiện vệ sinh và
tăng cường sức khoẻ cho cộng đồng của địa phương mình. Các câu hỏi tiếp theo là:
(cid:0) Vấn đề sức khoẻ môi trường này cụ thể là gì?
(cid:0) Làm thế nào mà ta biết được đó là vấn đề sức khoẻ môi trường?
(cid:0) Vấn đề đó có thường hay xẩy ra hay không và kéo dài trong bao lâu?
(cid:0) Các hậu quả của vấn đề môi trường lên sức khoẻ và đời sống của cộng đồng
(cid:0) Làm thế nào để biết là hậu quả đó đã giảm hoặc được giải quyết nếu ta đưa ra giải
pháp can thiệp?
6.3 Phân tích, tìm hiểu vấn đề dự định can thiệp
Khi đã xác định được vấn đề cần can thiệp, bước tiếp theo là phải phân tích để hiểu
rõ vấn đề qua việc đặt một số câu hỏi (trước khi can thiệp) sau đây:
(cid:0) Ai sẽ tham gia vào quá trình can thiệp và ai sẽ được hưởng lợi, ai sẽ bị ảnh hưởng?
(cid:0) Vấn đề xẩy ra ở đâu?
(cid:0) Vấn đề xẩy ra khi nào?
(cid:0) Hậu quả của vấn đề ô nhiễm môi trường trên sức khoẻ và kinh tế xã hội là gì?
(cid:0) Tại sao có vấn đề đó?
Ở giai đoạn này, người ta khẳng định lại vấn đề cần can thiệp và phân tích các
nguyên nhân dẫn đến vấn đề này. Các kỹ thuật về căn nguyên, sử dụng các nguồn số
liệu sẵn có và các kết quả khảo sát môi trường, đánh giá tình trạng sức khoẻ bệnh tật sẽ
làm cho các suy luận có cơ sở hơn. Các kỹ thuật đặt câu hỏi "nhưng - tại sao" cũng khá
phù hợp nếu không có khả năng và/hoặc không cần khảo sát môi trường bằng các thiết bị
27
kỹ thuật. Các phương pháp làm việc nhóm, phương pháp chuyên gia kết hợp với các số liệu
sẵn có về sức khoẻ cộng đồng, với kinh nghiệm của các địa phương khác, nước khác đều rất
có ích và với độ tin cậy có thể chấp nhận được.
6.4 Đề xuất giải pháp và quy trình can thiệp
Sử dụng kết quả của bước (1) và (2) để đề xuất các giải pháp phù hợp. Nếu có thể
được, nên có những thử nghiệm diện hẹp để rút kinh nghiệm trong quản lý chương trình
can thiệp, tìm ra các yếu tố làm tăng hiệu quả can thiệp và nhất là được cộng đồng chấp
nhận cao nhất.
6.5 Lập kế hoạch can thiệp
Để kế hoạch khả thi phải cân nhắc 3 yếu tố:
(cid:0) Đầu vào
(cid:0) Giải pháp kỹ thuật, giải pháp tổ chức và các cản trở khi thực hiện
(cid:0) Kết quả mong đợi.
Khó có thể xác định một cách rõ ràng trong ba yếu tố trên, yếu tố nào là quan
trọng nhất. Nếu chỉ dựa vào đầu vào, dễ dàng bi quan đếu đầu vào không đủ, nhưng sẽ
không thể làm gì nếu thiếu nguồn lực. Nếu dựa vào kết quả mong đợi, dễ lâm vào xu hướng
duy ý chí, nhưng nếu không biết rõ cái định cần đạt thì làm sao có thể tìm kiếm nguồn lực
và giải pháp phù hợp được? Trong quá trình cân nhắc
giữa đầu vào và kết quả mong đợi, luôn tính toán các giải pháp can thiệp để: sử dụng
nguồn lực hạn chế một cách có hiệu quả nhất để đạt mục tiêu đã đề ra.
Trong bản kế hoạch phải định rõ các mục tiêu. Mỗi mục tiêu lại có thể được
thực hiện bằng một hoặc nhiều giải pháp. Mỗi giải pháp lại cấu thành bởi nhiều nhóm
hoạt động và hoạt động cụ thể. Đối với từng hoạt động, phải phân công người, cơ quan
chịu trách nhiệm chính, cơ quan và tổ chức hỗ trợ. Các nguồn lực cần thiết cho các giải
pháp cũng phải được xác định rõ: bao nhiêu, ai cấp, cấp khi nào, cơ chế nào, văn bản nào
cho phép sử dụng các nguồn lực đó. Kết quả đầu ra cần được thể hiện rõ bằng các chỉ số đo
lường được. Có thể có 2 nhóm chỉ số đầu ra: (1) Chỉ số về các hoạt động (performance) đã
được thực hiện (ví dụ, tỷ lệ lượng rác thải được được thu gom và xử lý, tỷ lệ trẻ em được
xét nghiệm phân tìm trứng giun v.v.). (2) Các chỉ số hiệu quả (impact) thể hiện trên các tỷ
lệ mắc, tỷ lệ chết, hiệu quả lợi ích kinh tế v.v.
Trong bản kế hoạch cũng phải ghi rõ cơ chế tổ chức, quản lý hoạt động can thiệp. Các hoạt
động theo dõi giám sát cũng như công cụ và phương pháp theo dõi giám sát các hoạt động
can thiệp.
V. CÁC ĐỊNH HƯỚNG ƯU TIÊN VỀ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Bảo vệ sức khoẻ và hạnh phúc trong cuộc sống của con người là mục đích cao nhất
và khái quát nhất của mọi hoạt động xã hội ở mức cá nhân, cộng đồng, quốc gia và quốc
28
tế. Mục đích này chỉ có thể đạt được khi môi trường được bảo vệ và không ngừng cải
thiện. Ở Việt Nam để chuyển hoá từ quan điểm chính sách, chiến lược về việc gắn kết giữa
bảo vệ môi trường với bảo vệ sức khoẻ nhân dân thành các hành động trực tiếp ảnh hưởng
và tác động tích cực tới hoạt động xã hội và đời sống nhân dân, trong thời gian tới cần phải
ưu tiên các định hướng sau:
(1) Củng cố và hoàn thiện hệ thống chính sách, tổ chức thể chế và khung pháp lý
về sức khoẻ môi trường: Mặc dù quan điểm về chính sách và các định hướng
chiến lược về sức khoẻ môi trường đã được khẳng định song vẫn chưa xác định
được lộ trình, các giải pháp để cụ thể hoá các định hướng chung này. Do vây, cần
sớm xây dựng và ban hành kế hoạch hành động quốc gia về sức khoẻ, môi trường để
giúp các bộ, ngành, các địa phương xác định rõ các nhiệm vụ và định hướng cụ thể
của từng giai đoank trong lĩnh vực hoạt động này. Hiệu quả của các hoạt động sức
khoẻ môi trường phụ thuộc rất nhiều vào việc triển khai các cơ chế hợp tác và phối
hợp liên ngành. Chính vì vậy, cân phải tổ chức đánh giá năng lực hiện tại, nhu
cầu sắp tới và cân nhắc việc giao chức năng điều phối hoạt động sức khoẻ môi
trường cho bộ, ngành, cụ thể nào đó hoặc thành lập cơ quan điều phối ở cấo quốc
gia nhằm sớm tạo lập được các cơ chế phối hợp liên ngành hoạt động hiệu quả và
bền vững.
(2) Triển khai các chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và mọi tầng lớp xã hội về các vấn đề sức khoẻ môi trường: Các nội
dung tuyên truyền về bảo vệ môi trường và sức khoẻ cần phải được gắn kết chặt chẽ
với nhau và được triển khai sâu, rộng, đảm bảo đến được từng người dân. Bên cạnh
đó, cần sớm xác lập hành lang pháp lý cho công tác phổ biến, cảnh báo thông tin về
rủi ro sức khoẻ môi trường để đảm bảo tính xác thực và chuẩn xác của các thông tin
được công bố giúp người dân tự bảo vệ và phòng tránh rủi ro.
(3) Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, điều tra, đánh giá tác động môi trường đến
sức khoẻ cộng đồng: Công tác này có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp tạo cơ sở
khoa học cho việc xác định rõ các định hướng và ưu tiên hành động trong lĩnh
vực sức khoẻ môi trường ở các cấp, các vùng, các địa phương cụ thể. Do tính
chất phức tạp của mối liên hệ giữa sức khoẻ môi trường ở các cấp, các vùng, các
địa phương cụ thể cũng như các đặc tính tiềm ẩn của các tác động môi trương flên
sức khoẻ con người, các chương trình điều tra và đánh giá cần phải
được triển khai dài hạn và có tính hệ thống. Do vật, cần sớm xây dựng
các cơ chế tài chính phù hợp và khung pháp lý nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
của các hoạt động nghiên cứu, điều tra, khảo sát trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường
(4) Tăng cường và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực về sức khoẻ
môi trường: Việc triển khai các hoạt động có tính gắn kết giữa bảo vệ môi trường
29
và sức khoẻ nhân dân ở Việt Nam mới chỉ ở bước đầu, do vậy nhu cầu học hỏi và
nắm bắt kinh nghiệm của các nước, quốc gia tiên tiến cũng như chia sẻ thông tin
với các quốc gia trong khu vực là rất lớn. Trong thời gian tới, cần phải đẩy mạnh
hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, đặc biệt là trong công
tác nghiên cứu, điều tra và đánh giá tác động của ô nhiễm môi trường lên sức khoẻ
người dân làm thế nào để các hoạt động này trực tiếp hỗ trợ và tạo cơ sở khoa học
cho công tác ra quyết định của các cơ quan quản lý liên quan.
Ở cấp bộ, ngành các định hướng hành động trên cần phải được ưu tiên triển khai
theo các nội dung hoạt động cụ thể để có thể sớm giải quyết triệt để các vấn đề nóng, bức
xúc của ngành và từng bước cải thiện chất lượng môi trường chung và sức khoẻ của toàn
dân. Thực trạng về sức khoẻ môi trường ở Việt Nam cho thấy đối với từng ngành, cần
phải triển khai sớm các nội dung ưu tiên sau đây:
(1) Tài nguyên và Môi trường: Thực hiện điều tra và đánh giá tác động của ô nhiễm môi
trường tới sức khoẻ người dân giúp dự báo và cảnh báo các rủi ro về sức khoẻ môi
trường cho các cấp quản lý và cộng đồng; quản lý và kiểm soát chặt chẽ các nguồn ô
nhiễm (khí thải, nước thải, rác thải, tiếng ồn, và các nhân tố gây ô nhiễm khác) để đảm bảo
an toàn và nâng cao chất lượng môi trường sống phục vụ công tác bảo vệ sức khoẻ người
dân.
(2) Y tế: Tăng cường các hoạt động phòng, chống, chữa trị các bệnh và dịch bệnh liên
quan đến chất lượng môi trường; Phòng chống các tình trạng ngộ độc do thực phẩm, do sử
dụng nước không đủ tiêu chuẩn vệ sinh; Phòng ngừa các bệnh hiểm nghèo, dịch bệnh do
môi trường bị ô nhiễm.
(3) Nông, lâm, ngư nghiệp: Ưu tiên về kiểm soát và sử dụng các hoá chất dùng trong
nông, lâm, ngư nghiệp; đảm bảo sản xuất và sử dụng các thực phẩm và các sản phẩm đạt
mức an toàn trong sử dụng; đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người lao động sản xuất.
(4) Công nghiệp: Kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm khí thải, nước thải, rác thải tại nguồn;
hạn chế và xử lý triệt để các phế thải nguy hại, đặc biệt là các chất độc hại khó phân huỷ; sử
dụng các công nghệ sạch và tiên tiến (tiết kiệm nguyên liệu, sinh ra ít phế thải); đảm bảo
an toàn sức khoẻ; kịp thời phòng chống và điều trị bệnh tật cho người làm việc tại hiện
trường.
(5) Xây dựng và công chính: Nhanh chóng cải thiện các dịch vụ cấp nước an toàn, nhà ở, vệ
sinh môi trường; lồng ghép các vấn đề sức khoẻ môi trường trong quy hoạch nông thôn và
đô thị.
(6) Giao thông: Kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường do các hoạt động giao thông vận
tải và tình hình tai nạn giao thông.
(7) Du lịch, thương mại, dịch vụ: Tăng cường và đẩy mạnh công tác đảm bảo vệ sinh và an
30
toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường ở các khu vui chơi, giải trí, du lịch, thương mại và
dịch vụ.
(8) Văn hoá, giáo dục: Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành nhằm đẩy mạnh công tác
truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về các vấn đề, rủi ro và các
biện pháp phòng tránh rủi ro sức khoẻ môi trường.
Song song với các ưu tiên hoạt động ở các ngành, một số nội dung ưu tiên hoạt
động sau đây cần phải được triển khai sâu, rộng đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ
của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương.
(cid:0) Xử lý các điểm nóng về sức khoẻ môi trường tại các địa phương: Đối với các làng
ung thư, các vùng môi trường bị ô nhiễm nặng do hoạt động công nghiệp, thủ công nghiệp
kiểu làng nghề, các địa điểm bị ô nhiễm do chất độc da cam cần phải nhanh chóng đưa ra
các giải pháp xử lý, phục hồi, cải tạo và nâng cao chất lượng môi trường song song với các
chính sách ưu đãi về cung cấp dịch vụ y tế và ưu tiên khám chữa bệnh cho các nhóm dân
cư bị ảnh hưởng trong vùng.
(cid:0) Kiểm soát dư lượng các hoá chất độc hại trong các loại hàng hoá tiêu dùng (đặc biệt
là các mặt hàng thực phẩm, đồ uống, đồ chơi và đồ dùng cho trẻ em): Cần nhanh chóng
nghiên cứu và triển khai áp dụng các quy định về việc bắt buộc cung cấp thông tin về hoá
chất trên các mặt hàng tiêu dùng song song với việc đẩy mạnh tuyên truyền về
các rủi ro về sức khoẻ do lạm dụng và sử dụng không an toàn các hoá chất dùng trong
thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng.
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2001). Báo cáo tổng kết công tác y tế lao động 1991-2000 và định
hướng kế hoạch 2000-2010. Hà Nội, 6-2001.
2. Bộ môn Sức khoẻ Môi trường - Đại học Y tế Công cộng (2006). Giáo trình sức
khoẻ môi trường (dùng cho cử nhân), NXB Y học, Hà Nội
3. Bộ môn Vệ sinh - Môi trường - Dịch tễ, Đại học Y Hà Nội (1997). Vệ sinh -
Môi trường -Dịch tễ, tập II, NXB Y học, Hà Nội.
4. Cục Bảo vệ Môi trường (2006). Tổng quan tình hình Quốc tế trong lĩnh vực
sức khoẻ môi trường. Hà Nội 11-2006
5. Cục Y Tế Dự Phòng Việt Nam (2006). Thực trạng sức khoẻ môi trường ở Việt
Nam và các giải pháp. Hà Nội, 11-2006.
6. WHO (1983). Environmental Health Criteria 27, Geneva.
7. WHO (1992). Our plannet, our health. Geneva.
8. WHO (1993). Health, Environment and Development, Geneva.
9. MALBOYSSON, E. (1976) Medical control of men working within electrical
fields..
32