
1
PHẦN II - HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường toàn cầu
2. Trình bày được hệ thống quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam
3. Trình bày được những tồn tại và ưu tiên trong vấn đề sức khoẻ môi trường
ở Việt Nam
4. Nắm được các hoạt động và các bước lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi
trường
I. CHÍNH SÁCH VÀ CÁC XU HƯỚNG SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ
GIỚI
1. Khái niệm và định nghĩa về môi trường và sức khoẻ môi trường
Theo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi) Việt Nam (2005), Môi trường được định
nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan
hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và thiên nhiên.”
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người, bao gồm
cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học,
sinh học, xã hội và
các yếu tố tâm lý trong môi trường. Khái niệm này cũng liên hệ đến lý thuyết và thực hành
của hoạt động đánh giá, chỉnh sửa, kiểm soát và ngăn ngừa các yếu tố trong môi trường có
thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của các thế hệ hiện tại và tương lai (định nghĩa được
Tổ Chức Y Tế thế giới sử dụng).
Hay nói cách khác: Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi
trường
trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng.
2. Các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường quốc tế
2.1 Định hướng chiến lược trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường ở cấp quốc tế
Năm 1972, Lần đầu tiên, các vấn đề về môi trường và con người được xem
xét và
giải quyết ở cấp toàn cầu tại Hội nghị của LHQ về Môi trường tổ chức tại
Stockholm,
Thụy Điển. Tại Hội nghị này, 113 nước tham gia đã cùng đưa ra tuyên bố Stockholm, trong
đó khẳng định rõ:
o
Hoạt động của con người vừa là nhân tố tích cực giúp tạo nên song cũng
chính là tác nhân phá huỷ môi trường sống của chính mình.
o
Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người là các yếu tố tác động

2
trực tiếp tới sức khoẻ và sự phát triển kinh tế - xã hội của con người.
Nhận thức rõ
được mối liên hệ mật thiết và quan trọng giữa sức khoẻ và môi trường, sau
Tuyên bố Stockholm năm 1972, hàng loạt sự kiện và văn bản ở cấp quốc tế đã
được tổ chức và công bố nhằm kêu gọi và đưa ra các định hướng
giải quyết các
vấn đề về sức khoẻ môi trường ở cấp toàn cầu:
o
Năm 1977, WHO cam kết thực hiện các mục tiêu toàn cầu về sức khoẻ.
Trong đó
có 8 mục tiêu tập trung cho các vấn đề sức khoẻ môi trường; Hội nghị quốc tế lần thứ
nhất về Môi trường và sức khoẻ tổ chức năm 1991
tại Thụy Điển, với sự tham gia
của 81 quốc gia với mục tiêu kêu gọi toàn thể thế giới chủ động khởi xướng và
tham gia các hoạt động vì một môi trường trong lành và có lợi cho sức khoẻ con
người. Tại hội nghị này, các nước đã cùng nhau thảo luận, trao đổi và xác định
các mục tiêu chung về bảo vệ môi trường (vật lý, kinh tế, xã hội và chính trị) đảm
bảo có lợi cho sức khoẻ con người. Hội nghị quốc tế này sau đó diễn ra hai năm
một lần
và tập trung thảo luận vào từng chủ đề cụ thể trong lĩnh vực sức khoẻ môi
trường. Thường thì sau mỗi lần hội nghị sẽ có một bản tuyên bố chung
trong đó
có nêu rõ những định hướng và các khuyến nghị về việc triển khai các hoạt động sức
khỏe môi trường trên thế giới.
o Chương trình Nghị sự 21 được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về Môi
trường và Phát triển năm 1992 đã xác định “Giảm thiểu các rủi ro
về sức khoẻ gây
bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi trường” là
một trong 5 chương
trình ưu tiên nhằm bảo vệ sức khoẻ con người ở cấp
toàn cầu (Mục 6.34 của
Chương trình nghị sự 21).
o
Tháng 8/1999, UNEP và WHO ký biên bản ghi nhớ về hợp tác để đẩy
mạnh
các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường. Theo như đã xác định
trong Chương trình Nghị sự 21, mục tiêu chung của chương trình này là: “Giảm
thiểu các rủi ro, tác hại và duy trì một môi trường có chất lượng đạt mức an toàn và
không gây hại cho sức khoẻ con người”. Các mục tiêu cụ thể của chương trình là:
o Lồng ghép các mục tiêu đảm bảo an toàn về môi trường và sức khoẻ ở mức
thích hợp trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội chung;
o Thiết lập cơ sở hạ tầng để thực hiện ở cấp quốc gia các chương trình theo
dõi và quan trắc về tổn thương môi trường, giám sát rủi ro và đưa ra cơ sở
khoa học giảm thiểu chúng;
o Thiết lập các chương trình giải quyết ô nhiễm tại nguồn và tại các điểm tiêu
huỷ chất thải;
o
Xác định và xây dựng hệ thống thông tin thống kê cần thiết cho việc đánh
giá tác động của môi trường và ô nhiễm tới sức khoẻ (đánh giá tác động sức

3
khoẻ môi trường) để đề ra các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa và giảm
thiểu ô nhiễm.
2.2 Các chương trình sức khoẻ môi trường được triển khai ở cấp toàn cầu
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, các lĩnh vực hoạt động sau đây được xác
định là
các ưu tiên hành động chính: i) Ô nhiễm không khí đô thị; ii) Ô nhiễm
không khí trong
nhà; iii) Ô nhiễm nước; iv) Ô nhiễm do sử dụng thuốc trừ sâu; v) Chất thải rắn; vi) Các vấn
đề về định cư; vii) Tiếng ồn; viii) Phóng xạ ion hoá và phi ion hoá; ix) Ảnh hưởng của bức
xạ cực tím; x) Sản xuất công nghiệp và năng
lượng; xi) Quan trắc và đánh giá; xii) Theo
dõi và giảm thiểu tổn thương về môi
trường; xiii) Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng các
phương pháp luận đánh giá.
Để triển khai các hoạt động ở cấp quốc tế, với vai trò là tổ chức của Liên
hợp
quốc được giao điều phối các hoạt động trong khuôn khổ chương trình “Giảm
thiểu các rủi
ro về sức khoẻ gây bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi
trường”, Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) đã phối hợp với Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và các tổ
chức tài trợ quốc tế (ADB, WB, IMF, v.v) triển
khai chương trình tổng thể “Bảo vệ môi
trường sống của con người”. Tính đến
tháng 10/2005, đã có 13 chương trình nhánh được
ưu tiên triển khai, bao gồm:
2.2.1. Ô nhiễm không khí trong nhà:
Hơn 3 tỷ người trên thế giới phải phụ thuộc vào các loại nhiên liệu rắn
(than
đá, than củi, gỗ củi, phân chuồng và phế liệu nông nghiệp) phục vụ cho sinh
hoạt hàng
ngày. Đun nấu và tạo nhiệt từ các loại nhiên liệu này theo các phương
thức truyền thống
(bếp than, bếp củi, bếp lò, v.v.) là nguồn chính gây ô nhiễm
không khí trong nhà (do tạo
bụi mịn, CO, các khí gây ô nhiễm với mức vượt quá 20 lần tiêu chuẩn cho phép). Theo
thống kê trong báo cáo đánh giá sức khoẻ toàn
cầu năm 2002 thì khoảng 2,7% gánh nặng
bệnh tật ở cấp toàn cầu là do ô nhiễm
không khí trong nhà gây nên.
Mục tiêu chính của chương trình là:
o Hỗ trợ các nước đang phát triển trong triển khai các hoạt động nghiên
cứu, đánh giá và tăng cường năng lực
o Hỗ trợ công tác ra quyết định và xây dựng chính sách có liên quan đến
hoặc nhằm mục tiêu giảm thiểu gánh nặng bệnh tật gây bởi tình trạng ô
nhiễm không khí trong nhà.
2.2.2. Ô nhiễm không khí ngoài trời:
Chương trình xây dựng các hướng dẫn đánh giá tác động ô nhiễm không khí
ngoài
trời lên sức khoẻ con người, hỗ trợ các nước triển khai các chương trình
nghiên cứu,
đánh giá, tăng cường năng lực và phổ biến thông tin có liên quan.

4
2.2.3 An toàn hoá học:
Chương trình thiết lập các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu sử dụng an toàn các
loại hoá chất trong đời sống và sản xuất; hỗ trợ tăng cường năng lực ở
cấp quốc gia về an
toàn hoá học.
2.2.4 Sức khoẻ môi trường cho trẻ em:
Trẻ em chiếm đến 2,3 tỷ người trên thế giới (từ 0-19 tuổi). Khoảng 40%
bệnh
tật có liên quan tới các yếu tố môi trường là do nhóm trẻ em dưới 5 tuổi
(chiếm 10%
dân số thế giới) phải gánh chịu. Mỗi năm ít nhất có khoảng 3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị chết
do các nguồn bệnh phát sinh từ môi trường (các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, sốt xuất huyết,
v.v.).
Chương trình này được triển khai nhằm mục tiêu:
o
Xây dựng các hồ sơ quốc gia về tác động của môi trường tới sức
khoẻ trẻ em
o Xây dựng các chỉ thị đánh giá môi trường sống cho trẻ em
o Tăng cường năng lực quản lý và ra quyết định
o Hỗ trợ nghiên cứu, đánh giá
o Phổ biến và truyền bá các kinh nghiệm tốt.
2.2.5 Tác động của các trường điện từ:
Trong kỷ nguyên công nghệ, cộng đồng ngày càng lo ngại những tác động
có hại của trường điện từ lên sức khoẻ con người. Malboysson (1976) nghiên cứu
trên 160 đối tượng trong đó 84 là công nhân trạm điện, 76 là công nhân đường
dây. Bằng phương pháp phỏng vấn và khám nghiệm y học không nhận xét thấy có
biến đổi khác thường. Các số liệu về phơi nhiễm không rõ ràng, không có nhóm
chứng.
Các chương trình quốc tế về đánh giá tác động các trường điện từ lên sức
khoẻ
con người được WHO khởi xướng từ năm 1996 nhằm kêu gọi các quốc gia
và các tổ chức
quốc tế cũng hỗ trợ và tham gia nghiên cứu để đưa ra các căn cứ
khoa học nhằm đánh giá
các tác động này.
2.2.6 Đánh giá tác động sức khoẻ môi trường:
Xây dựng các hướng dẫn và thúc đẩy áp dụng đánh giá sức khoẻ môi trường
trong giai đoạn xây dựng và vận hành các dự án phát triển kinh tế xã hội ở mọi
cấp.
2.2.7 Biến đổi môi trường toàn cầu:
Nhằm mục tiêu hỗ trợ nghiên cứu và đánh giá tác động của biến đổi môi
trường và
khí hậu toàn cầu lên sức khoẻ người dân.

5
2.2.8 Sáng kiến liên kết các vấn đề về môi trường và sức khoẻ:
Nhằm khuyến khích các quốc gia nỗ lực gắn kết và lồng ghép các mối tương
quan và
tác động về sức khoẻ môi trường trong các vấn đề phát triển chung về
kinh tế và xã hội.
2.2.9 Bức xạ iôn hoá:
Thúc đẩy các nghiên cứu đánh giá tác động của bức xạ iôn hoá lên sức khoẻ người
dân và xây dựng các khuyến nghị/khuyến cáo/cảnh báo phục vụ giải quyết các sự cố, tai
nạn liên quan đến bức xạ iôn hoá ở các nước.
2.2.10 Y học lao động và bệnh nghề nghiệp:
Hỗ trợ các nước xây dựng và cập nhật thông tin trong hồ sơ quốc gia về các
bệnh
nghề nghiệp, xây dựng các chương trình/kế hoạch liên quan đến giải quyết
các bệnh
nghệ nghiệp và hỗ trợ thực thi các chương trình/kế hoạch này, tăng
cường năng lực và
hỗ trợ phổ biến thông tin về các bệnh nghề nghiệp và nâng cao
khả năng tiếp cận các
nguồn thông tin về bệnh nghề nghiệp cho các nhóm nhạy
cảm.
2.2.11 Định lượng tác động của môi trường lên sức khoẻ:
Xây dựng các hướng dẫn và các phương pháp luận nhằm đánh giá và định
lượng
được tác động của yếu tố môi trường lên sức khoẻ.
2.2.12. Bức xạ tia cực tím:
Nhằm nghiên cứu đánh giá và đề xuất các giải pháp hạn chế tác động xấu
của tia
cực tím lên sức khoẻ.
2.2.13 Nước, vệ sinh và sức khoẻ:
Xây dựng năng lực cấp quốc gia và liên quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề về
bệnh tật liên quan đến việc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, các
điều kiện vệ
sinh yếu kém; thúc đẩy các công nghệ sản xuất nước sạch quy mô
vừa và nhỏ cho các
vùng sâu, vùng xa; quản lý và cấp nước hợp vệ sinh; tăng cường các hệ thống trao đổi
và phổ biến thông tin về nước sạch, vệ sinh môi
trường và sức khoẻ và các hệ thống
thông tin trao đổi về công nghệ.
Riêng ở Châu âu, hầu hết các quốc gia đều ban hành và thực hiện Chương
trình
hành động quốc gia về sức khoẻ và môi trường (NEHAP: National
Environmental
Health Action Plan). Đây là một văn bản của chính phủ nhận định
các vấn đề sức khoẻ
môi trường một cách toàn diện, chính thể và liên ngành.
Trước khi quá trình hình thành
NEHAP bắt đầu, hầu hết các quốc gia chưa có sự kết hợp giữa chính sách môi trường và
chính sách y tế.
Sự phát triển của NEHAP ở Châu Âu bắt đầu từ Hội nghị Helsinki năm
1994,
kéo theo sự ra đời của Chương trình hành động sức khoẻ môi trường Châu
Âu (EHAPE).
Đến tháng 6 năm 1999, trong Hội nghị bộ trưởng về Sức Khoẻ và
Môi trường lần

