Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG BỘ MÔN TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN

BÀI GIẢNG NGUYÊN LÝ THỊ GIÁC

(Dùng cho sinh viên ngành Truyền thông Đa phương tiện) Lƣu hành nội bộ

Tập thể biên soạn: 1. GV. Trần Nguyễn Duy Trung 2. GV. Đỗ Thúy Hằng

Thái Nguyên, 2014

1

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

BÀI GIẢNG NGUYÊN LÝ THỊ GIÁC

Chƣơng 1: Nguyên lý thị giác

1.1. Tổng quan về Nguyên lý thị giác 1.1.1. Khái niệm nguyên lý thị giác

Trong 5 giác quan của con người ―Thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác‖. Có thể nói thị giác chiếm tới 80% cảm thụ thế giới vật chất. Chính vì vậy việc hiểu rõ những khía cạnh của cảm thụ thị giác là cơ sở rất quan trọng để đánh giá. Nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình như hội họa, điêu khắc…

Thị giác là khả năng nhận và diễn giải thông tin từ ánh sáng đi vào mắt. Việc tri giác này còn được gọi là thị lực, sự nhìn. Những bộ phận khác nhau cấu thành thị giác được xem như là một tổng thể hệ thị giác và được tập trung nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lý, khoa học nhận thức, khoa học thần kinh và sinh học phân tử.

Nguyên lý là tổng hợp từ các nguyên nhân đã được nghiên cứu, về một đề tài, một sự kiện, một vận hành, một động cơ, một hệ thống, v.v...Có chứng minh giải trình theo kiến thức tổng hợp, phơi bày rõ hệ thống hoạt động của đối tượng nghiên cứu.

Là một bộ môn nghệ thuật thị giác, hội họa luôn đòi hỏi thỏa mãn những đòi hỏi của con mắt. Đó là những đòi hỏi sự thuận mắt, như là sự hài hòa, thăng bằng, nhưng con mắt cũng mau chán, muốn tìm đến nhũng cái mới, cái lạ. Tổng kết từ kinh nghiệm, những người làm nghiên cứu mỹ thuật đã xây dựng nên những quy luật về sự cân đối, quy luật nhịp điệu. Người sáng tác thực hiện việc sắp xếp các yếu tố tạo hình trên mặt phảng luôn hướng đến sự hài hòa, thuận mắt bằng các cách thức riêng, mới, tưởng chừng như không tuân theo một quy luật nào cả.

Như vậy, nguyên lý thị giác là sự nhận dạng những hiện tượng cảm nhận (nhìn) của mắt, chịu ảnh hưởng tâm lý (thị giác), phản ánh lại trong nhận thức con người về mọi vật xung quanh một cách tương đối, với nội dung thẩm mỹ (trong lĩnh vực đề cập - Mthuật). Sự nhận ra những tính chất cảm nhận của thị giác có tính quy luật được gọi là nguyên lý thị giác.

1.1.2. Vai trò của nguyên lý thị giác

Nguyên lý thị giác là nền tảng gốc rễ của mỹ học, mọi khuynh hướng cảm thụ dù thay đổi liên tục theo chiều dài lịch sử, nhưng vẫn phải đặt nền trên ''nguyên lý thị giác'', ngược lại nguyên lý thị giác là quy luật khách quan với mọi khuynh hướng, xu thế, thời trang, và cả phong cách. Nó làm công cụ hữu hiệu cho nghệ thuật tạo hình nói chung và tất cả các môn trong phạm vi mỹ học. Và thậm chí đối với các sản phẩm đề cao công năng, cũng phải ít nhiều liện hệ với nó. 1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý thị giác trong nghệ thuật tạo hình.

Trong sáng tác hội họa, nghệ thuật tạo hình tâm lý thị giác phụ thuộc vào rất nhiều

yếu tố:

2

Hình ảnh Khoảng cách Nhìn bao quát, nhìn tập trung Ảo giác Thói quen thị giác

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Nếu óc quan sát chính là yếu tố ban đầu giúp người họa sĩ tìm ý tưởng cho việc hình thành tác phẩm. Các họa sĩ thường diễn đạt nhận thức thị giác trong tác phẩm một cách sống động, hiện thực. Cũng có khi tác phẩm được nâng cao hơn hiện thực, hoặc tưởng tượng, diễn tả theo một cách nhìn dữ dội, khác biệt. Kinh nghiệm quan sát và cách nhìn tinh tế góp phần phát triển khả năng sáng tạo nghệ thuật qua đó tác động trở lại làm cho quá trình thị giác của người họa sĩ càng trở nên sắc bén và hiệu quả hơn. Thì sự nhìn, cái mà phần lớn chúng ta nhìn thấy đã được lưu lại trong bộ nhớ của não. Mắt là cơ quan nhìn nhận ngoại biên có khả năng thu nhận những thông tin mang tính thị giác như: hình dáng, kích thước, màu sắc và các chiều không gian. Khi mắt nhìn cảnh vật, hệ thần kinh dẫn các thông tin tới trung tâm não, tại đây có sự so sánh cực nhanh với tất cả những thông tin mà bộ nhớ của nóo đó ghi nhận để giải thích và hệ thống hóa các thông tin mới nhận được. Truyền đạt thị giác cần sử dụng ngôn ngữ có hiệu lực về những dữ liệu phục vụ thị giác, nó được hệ thống hóa và có dấu hiệu như tất cả các ngôn ngữ khác: Hình dáng, không gian, đường nét, màu sắc, ánh sáng, đậm nhạt.... là những dấu hiệu mà hầu hết các nghệ sĩ sử dụng để diễn đạt trong tác phẩm. Sự diễn đạt, miêu tả xuất phát từ nhận thức tác động tới kinh nghiệm quan sát thực tế. Chính quan sát thực tế làm nên thói quen của thị giác và mang lại cho chúng ta nhận biết về các luật nhìn trong không gian và trong tác phẩm.

Khi nhìn bất cứ cái gì tức là chúng ta đã tác động tới những kích thích thị giác và tạo ra những hình ảnh chủ quan. Mọi người không phải ai cũng có cùng một cảm nhận, cùng một khả năng đánh giá khi nhìn thấy một đồ vật hoặc một hình tượng. Nhiều nhà bác học đã khám phá ra trí não con người có xu hướng theo đuổi những ―Quy tắc‖ chính xác khi trí não đã hình thành một hình ảnh.  Hình ảnh

Ánh sáng tác động vào bề mặt các vật thể, gây ra những hiệu quả về độ chói và màu sắc là những thứ mắt ta có thể cảm thụ được. Thông qua những hiệu quả đó, ta nhận thức được một số thuộc tính của vật thể như; hình dáng, khối lượng, chất liệu, màu sắc riêng và vị trí của vật trong không gian đó là những ảnh thị giác, cũng gọi là hình ảnh.

Muốn nhìn thấy hình ảnh phải đồng thời có ba điều kiện; ánh sáng, vật thể và sự nhìn.

Không đủ ba điều kiện đó thì hình ảnh sẽ không xuất hiện như các trường hợp:

- Nhìn trong đêm tối.

- Nhìn giữa ban ngày nhưng vật bị che khuất hoặc vắng bóng.

- Vật nằm giữa ánh sáng nhưng người nhìn không sử dụng thị giác.

Hình ảnh chỉ là những hiện tượng được ghi nhận bằng thụ cảm thị giác và chỉ phản ánh được bề ngoài của thực tế khách quan một cách phiến diện đôi khi sai lệch nhưng vẫn đủ để tin cậy. Những điều mắt thấy tai nghe bao giờ cũng được coi là bằng chứng về một sự kiện có thật.

3

Cũng do tính chất phiến diện ấy, ta mới có ý niệm về hình thể, nhõn đó sáng tạo ra một phương tiện diễn đạt đơn giản nhất, đó là đường nét, một yếu tố vốn không có trong thực tế. Hình thể bao gồm hình và thể. Hình được quy định trong một đường viền khép kín, vốn là đường ranh giới giữa phần nhìn thấy được và phần bị che khuất của vật, giúp ta phân biệt giữa nền và vật này với vật khác. Thể là bản chất của vật, có thể nhân biết nhờ sự phản

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

ứng của nó với ánh sáng. Có những hình vô thể như các nét vẽ kỉ hà trên mặt giấy chẳng hạn. Có những thể vô hình như hơi, khớ. Cú những thể mà hình không ổn định như nước, khúi… Vậy hình thể là ảnh của một đối tượng đang có mặt trong không gian và trực tiếp tác động vào thị giác.

Do tính chất sai lệch, hình ảnh không bao giờ phản ánh đúng kích thước và hình dáng thật của vật thể. Ví dụ: Miệng lọ có hình tròn lại có dạng elip, mặt bàn hình chữ nhật lại có dạng hình thang hay một tứ giác không đều… hình dáng và kích thước của mọi vật đều bị sai lệch như vậy khi ta đứng gần lại hay xa dần vật thể.

Khi vật đang chuyển động thì hình ảnh còn bị hoen nhòe và biến dạng nhiều hơn, đi

đến méo mó tùy theo chất của chuyển động.

Như vậy là ở trạng thái tĩnh hay động, hình ảnh nào cũng đều thiếu hoàn chỉnh và không phản ánh đầy đủ thực chất của sự vật, nhưng sự xuất hiện hình ảnh đối với thị giác vẫn mang tính quy luật: với một vật như thế, điều kiện nhìn như thế, hình ảnh tất phải hiện ra như thế và ai cũng thấy thế. Nhờ đó ta nhận định về sự vật vẫn đúng.

Do những đặc điểm nói trên, việc truyền đạt không gian lên mặt phẳng mới thực hiện được. Một elip được trình bày trên mặt phẳng làm ta liên tưởng đến hình tròn trong không gian. Cũng vậy hai đường thẳng gặp nhau có thể gợi cảm nghĩ về sự song song, bởi vì đấy là hiện tượng rất quen mắt trong thực tế.

Hình ảnh có hai trường hợp: vật nổi và hình nổi.

Vật nổi: Là một khối có vị trí trong không gian. Có hai nguyên nhân gây nên hiệu quả nổi:

- Sự chồng hai kết quả ghi nhận tương đối khác nhau của hai mắt trước cùng một đối tượng (Trường hợp nhìn bằng hai mắt)

- Sự ảnh hưởng không đồng đều của ánh sáng vào các diện khác nhau trên bề mặt của vật (Trường hợp nhìn bằng một mắt hay nhìn bằng hai mắt khi vật ở xa).

Nhờ đấy, có thể nhận thức được vật nổi từ một điểm nhìn hay hai điểm nhìn.

Trường hợp thứ hai hình nổi: Là sự biểu hiện vật nổi trên mặt phẳng mà vẫn cho cảm

giác gần đúng như khi nhìn trực tiếp vào vật thể. Hình ảnh biểu hiện đó goị là hình nổi.

Những điều ta thấy ở sự vật và những điều ta hiểu về nó tuy khác nhau rất xa nhưng nếu kết hợp được cả hai ta sẽ tạo được trên mặt phẳng những hình ảnh sinh động.  Khoảng cách.

Muốn có hình ảnh của vật thể, ta phải tạo ra giữa mắt và vật một khoảng cách. Không có khoảng cách đó, hay khoảng cách không thoảng đáng, vật sẽ bưng lấy mắt không cho thấy gì hết, hoặc chỉ thấy một hình ảnh méo mó, không đủ tin cậy.

4

Cũng do khoảng cách, ta nhận định được vị trí của vật trong không gian cũng như quan hệ giữa vật nọ với vật kia. Vật ở gần có khoảng cách nhỏ, ở xa có khoảng cách lớn hơn. Những khoảng cách lớn nhỏ ấy làm cho hình ảnh của vật bị co giãn, khi gần hơn thì lớn, khi xa hơn thì nhỏ đi, nhưng dù co giãn thế nào kích thước của hình ảnh cũng không đúng như kích thước thực tế của vật, và nói chung là nhỏ hơn. Vì vậy ta luôn phải đánh giá các kích thước đó bằng cách ước lượng. Dường như tỉ lệ co giãn của kích thước bao giờ cũng

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

tương ứng với khoảng cách, cho nên khi được biết khoảng cách ta có thể suy ra trạng thái của vật, và ngược lại tất nhiên đây chỉ là kích thước ước lượng. Vậy dựa vào đâu mà sự ước lượng có thể đạt tới mức gần như chính xác. Có thể kể ra nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, nhưng chỗ dựa chủ yếu vẫn là sự so sánh. Khi nhìn sự vật, dù muốn hay không, ta vẫn luôn vận dụng hai cách so sánh: Tương đối và tuyệt đối. - So sánh tương đối là dựa vào các tương quan về kích thước, màu sắc, độ đậm nhạt.v.v…giữa vật này với vật kia, hoặc giữa một vật với các vật xung quanh để đánh giá khối lượng hay mức độ xa gần của các vật thể. - So sánh tuyệt đối là dựa vào những vật mà ta đã biết rõ để đánh giá các vật khác cùng loại sau khi nhận dạng được. Đối với hội họa lối so sánh này càng có ý nghĩa, bởi vì đấy là một gợi ý rất hay cho việc thể hiện chiều thứ ba của không gian trên mặt phẳng bằng cách so sánh và đối chiếu, ta đã dễ dàng đưa vào tranh các khoảng cách theo chiều rộng, chiều cao và sự giảm dần khối lượng để làm tăng chiều sâu nên kết hợp với giảm dần sắc độ bao giờ cũng có ý vị hơn.  Nhìn bao quát và nhìn tập trung

Sự nhạy bén của thị giác giúp ta nắm bắt sự vật rất nhanh, nên chỉ trong khoảnh khắc, mắt ta có thể thu được một lượng hình ảnh khá lớn. Tuy nhiên trong cùng một lúc ta không thể hiểu ngay tất cả mà cần có một khoảng thời gian vừa đủ để nhận định, phân tích, sắp xếp và ghi nhớ, rồi mới truyền đạt lại được. Ví dụ: Khi nhìn vào một trang sách cho thấy ngay các dòng chữ, nhưng muốn biết nội dung của trang sách đó, ta phải đọc lần lượt từng chữ từng dòng theo đúng trình tự từ trên xuống dưới.

Nhìn cảnh vật tuy không giống như đọc sách, nhưng cũng phải có trình tự thì nhận thức mới đầy đủ và màu sắc. Thật vậy, có rất nhiều trường hợp người ta chỉ trông chứ không nhìn, hoặc chỉ thấy chứ không hiểu, dẫn tới kết quả nhìn sai và không truyền đạt đúng. Vì vậy cảm thụ thị giác cũng được chia thành các cấp độ: Trông, nhìn, ngắm, quan sát.v.v… Vì vậy khi nói đến nhìn đúng hay biết nhìn là nói đến phẩm chất ghi nhận của người quan sát trước đối tượng.

Để có kết quả đúng về đối tượng chúng ta cần kết hợp cân đối hai quá trình của sự nhìn

là:Nhỡn bao quát và nhìn tập trung.

- Nhìn bao quát là khả năng nghi nhận một lúc nhiều hình ảnh, nhưng không phải từng thứ riêng rẽ, mà từng ấy thứ không tách rời nhau, đồng thời cùng lọt vào mắt ta, chỉ giây lát cũng đủ để ghi nhận tất cả.

Khả năng này tạo thuận lợi cho việc nhận xét, dựng hình, bố cục.v.v… và nâng cao trí tưởng tượng, giúp ta hình dung được một tác phẩm còn nằm trong dự kiến. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở đú thỡ không đi được vào chiều sâu của sự vật và không tránh khỏi tình trạng sơ lược, dễ dãi trong sáng tác. Vì thế phải kết hợp với nhìn tập trung.

- Nhìn tập trung là khả năng phát hiện các chi tiết chủ yếu trong số các chi tiết hợp thành một tổng thể và duy trì được sự chú ý vào đấy để tiếp tục phát hiện thêm những điều mới.

5

Ví dụ: Người câu cá bên ao sen, thì sự tập trung ở đây không phải là những cánh sen hay lá sen mà đó chỉ là những mảng hồng hay mảng màu xanh. Mà sự tập trung ở đây chính là chiếc phao câu.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Nhìn đối tượng với sự tập trung cao độ như thế, ta có điều kiện tìm hiểu và phân tích kỹ lưỡng các chi tiết cần miêu tả để đánh giá vai trò, tác dụng của mỗi chi tiết đối với toàn cục. Trên cơ sở đó ta sẽ nhận ra đâu là trọng tâm, trọng điểm không thể thiếu, đâu là yếu tố phụ có thể lược bớt hay bỏ qua mà không sợ ảnh hưởng đến đại thể. Đây là tinh thần của lối nhìn tập trung.

Nhìn bao quát và nhìn tập trung thật ra không phải là hai lối nhìn riêng biệt mà chỉ là những bước nối tiếp và luân chuyển của sự nhìn khi ta quan sát và tìm hiểu đối tượng. Cái thật và cái đẹp chỉ bộc lộ với những ai biết nhìn. Truyền đạt lại thực tế, nói cho đúng chỉ là truyền đạt lại những hiểu biết về thực tế, vì vậy khi xem một bức vẽ, người ta sẽ thấy tác giả của nó có thật là biết nhìn hay không.  Ảo giác:

Là thụ cảm thị giác luôn luôn có những ngộ nhận, bị các hiện tượng đánh lừa hoặc

đánh giá không đúng các hiện tượng. Đó là ảo giác. Chúng ta có hai loại ảo giác: Ảo giác tâm lý và ảo giác sinh lý

+ Ảo giác tâm lý

Trong khi tiếp xúc tự nhiên, sự kết hợp giữa cảm giác trực quan và nhận thức lý tính đó giỳp ta hiểu sự vật từ hình thù đến bản chất. Những thứ đó khi đã định hình trong ý thức chúng ta, sẽ trở nên bền vững không dễ đảo lộn dù ở bất kỳ trạng thái nào. Ví dụ: Hai đường thẳng song song về nguyên tắc sẽ không thể đồng quy, nhưng khi chúng có hướng đi vào chiều sâu, dường như có khuynh hướng đồng quy.v.v…đó chính là nhìn thấy thế này mà hiểu ra thế khác, thì đó chính là ảo giác có tính chất tâm lý.

+ Ảo giác sinh lý: Là hiểu thế này nhưng lại thấy thế khác, do khả năng hạn chế về sinh lý của thị giác. Ta có thể tìm thấy rằng loại ảo giác này chỉ xảy ra trong mối quan hệ giữa các yếu tố tạo hình như: Nét, sắc độ hay màu sắc, cũng có khi giữa các yếu tố đó với nhau, đưa đến nhận định sai về kích thước, chiều hướng, độ sáng tối, màu sắc.v.v…

+ Nhận định sai về kích thước: Do cách bố trí hoặc có sự xen lẫn của một vài chi tiết phụ, một đoạn thẳng bỗng cho cảm giác dài thêm hoặc ngắn bớt so với độ dài thực tế của nó. Đối với diện tích hay hình khối cũng vậy. Gặp những trường hợp tương tự sẽ cho ta cảm giác chúng to ra hay nhỏ đi.

+ Nhận định sai về chiều hướng là những đường đi theo hướng bình thường bỗng bị

những yếu tố khác xen vào hoặc gây nhiễu sẽ cho cảm giác bị lệch hướng.

 Nhận định sai về không gian: Sự phối hợp đường nét có thể tạo nên phối cảnh của các hình khối và cho ta cảm giác về ba chiều không gian. Tuy vậy nhận định về chiều sâu vẫn có những hạn chế, nếu không có sự tham gia của những yếu tố tạo hình khác nữa, thì việc xem xét hình dạng các khối sẽ không tránh khỏi bị ngộ nhận.

 Nhận định sai về đậm nhạt, độ sáng tối hay đậm nhạt của một mảng nào đấy sẽ cho cảm giác tăng lên hay giảm đi một cách khác thường do những thay đổi về kích thước cũng như về quan hệ giữa nó với nền hoặc với mảng xung quanh.

6

 Nhận định sai về màu sắc: cũng như các độ sáng tối hay đậm nhạt, ảnh hưởng qua lại của màu sắc thường gây rất nhiều ngộ nhận. Trong những nguyên nhân làm cho màu sắc thay đổi. Trước hết phải kể đến các hiệu ứng của thị giác. Như nhìn chăm chú vào một mẩu giấy màu đỏ đặt trên nền màu trắng sẽ thấy một miếng sáng màu xanh lục hiện rõ dần và đè chồng lên gần khắp bề mặt của nó khiến màu đỏ ở đây nhợt đi và có xu thế ngả sang màu xám. Lúc này nếu mẩu giấy được nhấc ra khỏi nền, miếng màu xanh lục sẽ chiếm lĩnh

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

ngay vị trí của nó, trước rõ, sau mở dần rồi biến hẳn. Sự xuất hiện của màu xanh lục là một hiệu ứng thị giác, có tác dụng trung hòa màu đỏ để duy trì trạng thái cân bằng trong con mắt. Nếu mẩu giấy không phải là màu đỏ mà là một màu nào khác, màu xanh lam hoặc màu vàng tươi thì miếng sáng hiện ra không phải là màu xanh lục mà là màu da cam hoặc màu lam tím. Cứ như vậy, bất kỳ màu nào cũng đòi hỏi một màu duy nhất ứng với nó, theo quy luật cặp màu bổ túc.

Ảo giác nói chung không phải là trở ngại nghiêm trọng, mà trái lại, khi người ta đã chế ngự được thì nó đem lại những lợi ích. Nêu không có ảo giác, tức là con mắt lúc nào cũng nhìn đúng thì việc biểu hiện không gian lên mặt phẳng chắc là không thực hiện được và do đó cũng không có hội họa. phiền hơn nữa, người ta sẽ luôn vấp phải những điều chướng mắt, thậm chí rất quái đản, chỉ vì không thấy được ý nghĩa của sự bù trừ trong mối quan hệ giữa các vật, biểu hiện bằng những ảo giác, ví dụ: Chỉ thấy hai người to nhỏ khác nhau ở trước mắt chứ không biết rằng người kia nhỏ hơn chỉ vì ở xa hơn mà thôi, từ đấy suy ra muốn thể hiện mọi vật ở xa hơn tất phải thu nhỏ lại. thành ra sự đúng đắn máy móc không giúp ta hiểu đúng mà chỉ làm tăng thêm sự ngộ nhận.  Thói quen thị giác:

Do thói quen thị giác, mọi vật lớn nhỏ trong không gian hầu như đều được điều chỉnh kịp thời, tức là thu nhỏ lại hoặc phóng to ra sao cho vừa bằng kích thước thực tế của chúng vốn đã quen thuộc đối với mắt. Ví dụ: Nhân vật trên màn ảnh nhiều khi hiện ra rất lớn, ta vẫn không nghĩ rằng đấy là những nhân vật khổng lồ mà chỉ xem họ có tầm vóc như ta. Trái lại nhân vật trong ảnh dù là nhỏ xíu, ta không hề có ý nghĩ đấy là những người tí hon, mà luôn luôn hình dung ra bằng con người thật.

Thói quen ấy có những mặt lợi, hại là đã giúp cho việc ghi nhận và đánh giá các hiện tượng được bình ổn, nhưng đồng thời cũng tạo nên một sức ì, khiến các nhược điểm của tâm lý thị giác nhiều khi rất khó sửa, ví dụ: Luôn luôn đánh giá sai kích thước thực tế của các công trình, thường là phóng to những cái nhỏ và thu nhỏ những cái lớn, như một cái cốc được coi là to nếu dung lượng của nó vượt qua yêu cầu về uống, trong khi ấy một cái vại chứa nước có hình dáng lớn hơn lại bị xem là nhỏ chỉ vì thể tích của nó chưa đủ đáp ứng yêu cầu về đựng. Hay một ví dụ nữa đền Parthenon ở Hi Lạp trái lại, không lớn lắm nhưng lạ gây được cảm giác đồ sộ nhờ ở những diềm phù điêu chạy dài được trang trí bằng các hình nhân vật giống như người thật nhưng chiều cao thực tế chỉ bằng già nửa cỡ người thật.

Ta còn phải xét đến những thói quen có thể thay đổi và chỉ có tác dụng đối với từng cá nhân hay từng quần thể nào đó, do ảnh hường của môi trường sống, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, xã hội.v.v… Điều rõ ràng là có những hiện tượng rất quen thuộc với người này nhưng lại lạ lùng với người khác hoặc ngược lai. Do võy thúi quen thị giác cũng mang tính truyền thống và thường chuyển biến chậm so với thực tế. Vì vậy trong việc xây dựng phong cách nghệ thuật và bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ, sự tác động của ý thức tự giác vào thói quen đó là rất cần thiết.

7

Qua những điều vừa trình bày chúng ta đã thấy được thị giác thật không đơn thuần như những gì chúng ta đã nghĩ, mà nhiều lúc con mắt cũng cho chúng ta những hình ảnh tưởng chừng như là đúng, mà lai không đúng. Vậy để tránh được những cái nhìn sai lệch về sự vật, thể giới khách quan, chúng ta phải nắm vững được những đặc điển tâm sinh lý của thị giác thì cái nhìn mới cho ta hình ảnh đúng.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.2. 10 định luật thị giác

10 định luật thị giác được phát triển từ nguyên tắc Gestalt là một thuật ngữ tâm lý học có nghĩa là “thể thống nhất” hay còn gọi là nguyên tắc “nhóm”của thị giác. Nó đề cập đến lý thuyết về nhận thức thị giác phát triển bởi nhà tâm lý học người Đức trong những năm 1920. Những lý thuyết đó cố gắng để mô tả cách người có xu hướng tổ chức thành các nhóm yếu tố thị giác hoặc thể thống nhất khi một số nguyên tắc được áp dụng. Những nguyên tắc đó là: 1.2.1. Định luật khoảng cách (sự gần)

Định luật khoảng cách là một khái niệm thị giác đề cập đến xu hướng nhìn thấy để nhóm hình dạng với nhau nếu chúng gần nhau. Nhóm nói chung sẽ được coi là một đơn vị duy nhất.

Những nét, những điểm hay những hình thể của tín hiệu thị giác chỉ ở gần nhau về khoảng cách thì chúng sẽ tạo thành mối liên kết theo chiều ngang hay dọc (phụ thuộc vào độ gần của khoảng cách ngang hay dọc). Tức là hình thể nào ở gần nhau bao giờ cũng tác động vào thị giác con người mạnh hơn ở xa.

Định luật khoảng cách xảy ra khi các yếu tố được đặt gần nhau. Chúng có xu hướng

được coi là một nhóm.

Ví dụ 1: Dưới đây chứng minh những thanh nào gần nhau thì hợp thành một cặp. Ở

đây ta có 6 thanh nhưng do sự gần nhau về khoảng cách mà thành 3 cặp

H1 H2

Các chấm không liên kết với nhau theo chiều ngang mà theo chiều dọc vì khoảng cách

của chúng ở chiều dọc gần hơn ở chiều ngang.

Ví dụ 2:

8

9 hình vuông được đặt trên không gần gũi. Họ được coi là hình dạng riêng biệt.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Khi các hình vuông được cho gần, thống nhất xảy ra. Trong khi họ tiếp tục được hình

dạng riêng biệt, chúng đang cảm nhận như là một nhóm.

Ví dụ 3:

Những hình trên tạo thành một thể thống nhất (hình dạng của một cây) vì khoảng cách

của chúng.

Ví dụ 4:

Các nhóm chúng ta thấy 1 + 2 = là một nhóm 3 + 4 = là nhóm khác Tương tự như vậy, bên trái, ba nhóm điểm trong ba dòng. Điều gì xảy ra với các dấu chấm cách đều nhau? Nguyên tắc gần hoặc tiếp giáp nói rằng điều đó là gần nhau sẽ được xem như thuộc về nhau.

Ví dụ 5:

9

(Lưu ý: Định luật khoảng cách không yêu cầu hình dạng giống hệt nhau, giống như trong nhóm bên phải) Ví dụ 6:

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

"Chiếc bè của chiến thuyền Medusa" (Raft of the Medusa) là một bức tranh sơn dầu được họa sĩ lãng mạn người Pháp Théodore Géricault (1791-1824) vẽ trong thời gian 1818-1819. Bức tranh được hoàn thành khi ông 27 tuổi và nó trở thành một biểu tượng cho chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Nhóm người dựa trên sự gần gũi.

(Lưu ý: có nhiều nhóm hiện tại hơn hai xác định ở trên)

1.2.2. Định luật sự tƣơng tự (sự giống, đồng đều, đồng đẳng)

Định luật sự tương tự là một khái niệm thị giác đề cập đến xu hướng nhìn thấy để nhóm hình dạng với nhau nếu chúng trực quan giống nhau. Các hình dạng không phải là

hoàn toàn giống hệt nhau. Nhóm nói chung sẽ được coi là một đơn vị duy nhất.

Định luật sự tương tự có tính chất giống nhau về cấu trúc, hình thể, chất liệu màu sắc...

tạo hiệu quả thị giác về mặt không gian hình thành mối kết nối của các hình thể đó.

Tương tự xảy ra khi đối tượng trông giống như nhau. Người ta thường cảm nhận chúng

như là một nhóm hoặc mẫu.

10

Ví dụ 1:

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Tương tự tạo ra năm nhóm.

Giống nhau của hình dạng tạo ra một nhóm.

Những điểm đánh dấu màu vàng là gần nhưng dường như không tạo ra một nhóm vì chúng thiếu sự tương đồng tốt.

Những điểm đánh dấu màu xanh rất gần và triển lãm tương tự tốt.

11

Ví dụ 2:

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Trong ví dụ trên (có 11 đối tượng riêng biệt) xuất hiện như là 1nhóm vì tất cả các hình

dạng này có tương tự.

Thống nhất xảy ra vì hình tam giác ở dưới cùng của biểu tượng con đại bàng trông

giống như hình dạng đã hình thành tia mặt trời - sunburst.

Khi tương tự xảy ra, một đối tượng có thể được nhấn mạnh nếu nó là khác mấy so với

những người khác. Này được gọi là bất quy tắc - anomally.

Các hình trên bên phải sẽ trở thành một tâm điểm bởi vì nó là không tương tự với các

hình dạng khác.

1.2.3. Định luật sự khép kín

Khép kín là một khái niệm thị giác đề cập đến xu hướng thị giác để tạo ra hình dạng

khép kín ngay cả khi một phần của hình dạng là mất tích.

Định luật khép kín xảy ra khi một đối tượng là không đầy đủ hoặc một không gian

không khép kín. Nếu đủ các hình dạng được chỉ định, người cảm nhận được toàn bộ bằng cách điền vào những thông tin mất tích hay còn thiếu.

Ví dụ 1:

12

Đóng cửa với những khoảng trống trong dòng.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Đóng cửa với những khoảng trống trong hình dạng.

Franz Marc Con chó nằm trong tuyết 1910-1911 Khép kín với những khoảng trống trong hình dạng.

13

Mặc dù gấu trúc trên là chưa hoàn chỉnh, nhưng thông tin củng đủ cho mắt ta hoàn thành hình dạng. Khi nhận thức của người xem hoàn thành một hình dạng, thì lúc đó định luật khép kín xảy ra.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.2.4. Định luật sự hẹp và rộng

Định luật hẹp và rộng là một khái niệm thị giác.

Định luật này nói rằng các hình thể nhỏ và có khoảng cách hẹp bao giờ củng tiến lên phía trước để trở thành hình. Và hình thể lớn có khoảng cách rộng thì lùi về phía sau để trở

thành nền

1.2.5. Định luật đƣờng liên tục

Liên tục là một khái niệm thị đề cập đến xu hướng thị giác để tạo ra các hình dạng liên

14

tục. Liên tục là phổ biến nhất (mặc dù không độc quyền) trưng bày trong nhận thức của

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

dòng và đề cập đến xu hướng "mang dòng về phía trước." Cụ thể hơn, có xu hướng tiếp tục số liệu mịn về phía thay đổi đột ngột hướng.

Nhìn thấy những điều như toàn bộ dòng (tuần tự) rõ ràng là quan trọng. Nhưng 'là

trong wholes có nghĩa là' mà ít bị gián đoạn thay đổi việc đọc toàn bộ dòng.

A đến O và Oto D là hai dòng. Tương tự như vậy, C đến O và O đến B là hai dòng. Các nguyên tắc liên tục dự đoán sự ưa thích con số liên tục. Chúng tôi cảm nhận được

con số như hai dòng vượt qua thay vì 4 dòng họp tại trung tâm.

Người có xu hướng để vẽ một đường liên tục tốt. Con người có xu hướng tiếp tục đường nét bất cứ khi nào các yếu tố của mô hình thiết lập một hướng ngụ ý. 1.2.6. Định luật của kinh nghiệm

15

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Bồ câu liên tưởng tới hòa bình

Sự chết chóc, nguy hiểm

Tháp Eiffel - biểu tượng hoa lệ của Paris

1.2.7. Định luật sự nhấn

Là một khái niệm thị giác.

Khoảng cách của các tín hiệu thị giác càng gần thì sẽ nhấn mạnh hình tổng thể. Nhưng

16

nếu càng xa thì hình tổng thể bị phá vỡ. Những hình thể đường nét tương ứng với đường diềm.Những đường ảo này nối giữa các tín hiệu thị giác sẽ tạo cho thị giác 1 cái ảo ảnh hình có đường viền liên tục.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.2.8. Định luật sự chuyển đổi

Là một khái niệm thị giác. Định luật này nói rằng. Khi 2 nhóm tín hiệu thị giác xuất hiện trên 1 mặt phẳng mà có tỉ lệ kích thước đối tượng tương đồng nhau sẽ tạo cho thị giác một sự chuyển đổi.

Cái nhỏ là hình, cái lớn là nền. Dù nền có đen hay trắng thì hình tròn bao giờ cũng là hình khép kín, vẫn nổi bạt và chiếm ưu thế, và ở đây định luật khép kín đã thắng định luật

17

chuyển đổi

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.2.9. Định luật sự cân đối Là một khái niệm thị giác Tất cả các tín hiệu thị giác khi xuất hiện mà có hình thể giống nhau, diện tích bằng

18

nhau thì nó tạo nên được tính chất cân đối song song.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.2.10. Định luật của sự tƣơng phản

Là một khái niệm thị giác Tương phản là một thủ pháp quan trọng cấu thành cái đẹp hình thức.

Từ thời hy lạp đã có quan niệm mỹ học (đối lập tạo nên hài hòa)

 Chúng ta có các cặp văn tương phản sau:

Tương phản chiều hướng Thẳng ———nghiêng

Trước ———sau Trên ————dưới  Tương phản hình thể:

Kỷ hà———–tự do ,cong

19

Vuông ———tròn

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

 Tương phản về đường nét  Tương phản về màu sắc  Tương phản về sắc độ  Tương phản về kích thước.

1.3. Sự biểu thị bằng ngôn ngữ thị giác 1.3.1. Điểm – nét - diện trong tạo hình

Điểm là nguồn gốc ban đầu, điểm dùng để chỉ ra một vị trí trong không gian. Điểm chuyển động sinh ra nét, nét chuyển động sinh ra diện, diện chuyển động sinh ra khối.  Điểm khái niệm: - Không nhìn thấy bằng mắt nhưng hiểu được bằng khái niệm và nhận thức. - Có vị trí trong không gian, không có kích thước.  Nét khái niệm: - Không nhìn thấy bằng mắt nhưng hiểu được bằng khái niệm và nhận thức

- Không có độ dày, độ rộng, nhưng có độ dài, có vị trí, hướng trong không gian - Các ―nét xuất thần‖, nét hình học, đường nét biểu hiện, nét mô phỏng…‖ trong lý luận,

phê bình nghệ thuật là nét khái niệm.  Điểm thị giác - Nhìn thấy bằng mắt. - Có vị trí, kích thước và hình dạng cụ thể.  Nét thị giác - Nhìn thấy bằng mắt.

- Có kích thước và hình dạng cụ thể. Có hướng trong không gian.

20

Ẩn dụ và diễn cảm của một số đường nét.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.3.2. Nét  Nghĩa của nét: Đặc tính lập lờ, hai mặt, đa nghĩa của đường nét khi tạo nên hình làm cho ta liên tưởng

đồng thời nhiều hình ảnh thị giác khác nhau. - Trong các loại đường nét không phải nét nào cũng có giá trị ngữ nghĩa như nhau, chúng

ta chia thành bốn loại đường nét sau: • Nét có nghĩa.

• Nét cấu tạo. • Nét đa nghĩa.

21

• Nét liên tưởng. + Nét có nghĩa: - Là loại nét mà khi thiếu nó hình sẽ không có nghĩa như mong muốn, tín hiệu cần thông tin sẽ mất.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

+ Nét cấu tạo: Là nét mà khi vắng nó người ta vẫn nhận ra hình một cách trọn vẹn thông qua liên

tưởng.

+ Nét đa nghĩa:

Là loại nét mang hai nghĩa trở lên

- Là biểu tượng của trường Đại Học Kiến Trúc của tác giả Bùi Quý Ngọc đã kết hợp nét

vừa có nghĩa hình vừa có nghĩ chữ. Tất cảcác nét ở đây đều mang hai nghĩa.

- Tác giả muốn sử dụng trong biểu tượng của triển lãm tuần kỳ ― Biennal Sydnei‖ ( tại

nhà hát Opêra Xinây) hai yếu tố: Một là 2 chử tắt B – S, và hình ảnh của con thiên nga.

Kiến Trúc Sư J.Uttron có hình ảnh ẩn dụ nhưmột con thiên nga trên biển. Chỉ một động tác khéo léo kết hợp 2 chử B- S đã cho ta hình ảnh một con thiên nga. Tất cả các nét ở

đây đều mang 2 nghĩa.

+ Nét liên tưởng:

Nét có thể bỏ được mà không ảnh hưởng gì đến hình nhưng nếu thiếu nét liên tưởng sẽ gây cảm giác thiếu, không rõ ràng.

Chú ý: Sự khác nhau của nét cấu tạo và nét liên tưởng là: nét cấu tạo có thể không có

22

cũng được nhưng nét liên tưởng không có sẽ gây sự thiếu thốn, không rõ ràng.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.4. Nguyên lý thị giác trong bố cục 1.4.1. Nguyên tắc cân bằng

Một trong số các nguyên tắc cần có nhất, quan trọng nhất là Nguyên tắc Cân bằng. Bất kỳ một thiết kế đồ họa, hay một tác phẩm nghệ thuật đều phải thực hiện tốt yếu tố cân

bằng. Nó là gì và làm thế nào là nó đạt được trên một bề mặt phẳng? Để trả lời câu hỏi này,

chúng ta phải nghĩ về một tác phẩm ba chiều của nghệ thuật. Nếu các phần không thể cân bằng hoặc được giữ, chúng sẽ đổ.

Đối với hình ảnh tạo ra trên một bề mặt bằng phẳng như một thiết kế hay một bức tranh

sơn dầu cùng một nguyên tắc cân bằng được áp dụng. Tuy nhiên, thay vì có thể chất cân bằng thực tế, các nghệ sĩ cần phải tạo ra một ảo giác về sự cân bằng, được gọi là cân bằng

giác.

thị

Trong cân bằng thị giác, mỗi khu vực của bức tranh cho thấy một trọng lượng hình ảnh

nhất định, một mức độ nhất định nhẹ hoặc nặng. Ví dụ, màu sắc ánh sáng xuất hiện nhẹ

hơn trọng lượng hơn so với màu tối. Màu rực rỡ ảnh hưởng thị giác nặng hơn màu sắc trung tính trong cùng khu vực.

Màu sắc ấm như màu vàng có xu hướng mở rộng diện tích về kích thước, trong khi màu lạnh như màu xanh có xu hướng giữ diện tích. Và trong suốt ảnh hưởng thị giác ít

nặng hơn các khu vực mờ đục.

Trong nguyên tắc cân bằng có hai dạng: Cân bằng đối xứng và Cân bằng bất đối xứng.

 Cân bằng đối xứng:

Đây là dạng cân bằng phổ biến trong tự nhiên. Chia ra bởi một trục giữa và không có

sự khác biệt trong hai bên.  Cân bằng bất đối xứng

Cân bằng bất đối xứng được sử dụng hầu hết trong các thiết kế và các tác phẩm nghệ

thuật.

Bất đối xứng cân bằng là khi cả hai bên trục trung tâm là không giống nhau, nhưng vẫn xuất hiện để lại cùng trọng lượng thị giác. Nó là một sự ‖cảm thấy‖ cân bằng hoặc cân

bằng giữa các bộ phận của một thành phần hơn là thực tế. Nếu các nghệ sĩ có thể cảm nhận, đánh giá và ước tính các yếu tố khác nhau và trọng lượng thị giác, điều này sẽ cho phép

23

anh ta / cô ấy tạo sự cân bằng tổng thể.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Chúng ta có thể sử dụng các yếu tố, màu sắc, kích thước, hình dáng, không gian, số

lượng, sắc độ để tạo nên Cân bằng bất đối xứng.

Trong thiết kế đồ họa bắt buộc phải có sự cân bằng.

Bức bữa tiệc cuối cùng của Davinci là ví dụ mẫu mực về yếu tố Cân Bằng trong nghệ

thuật

1.4.2. Nguyên tắc tƣơng phản

Sau nguyên tắc Cân bằng thì nguyên tắc Tương phản cũng là một nguyên tắc cần chú ý

24

cho thiết kế của bạn.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Tương phản trong nghệ thuật và thiết kế xảy ra khi hai yếu tố liên quan là khác nhau. Quá nhiều điểm giống nhau của các thành phần trong thiết kế sẽ trở thành đơn điệu. Nói

cách khác việc sử dụng tương phản quá ít có thể gây ra một thiết kế nhạt nhẽo và nhàm chán. Mặt khác quá nhiều tương phản có thể là khó hiểu.

Tương phản xảy ra ra khi bạn sử dụng cùng lúc Màu sắc (Nóng – Lạnh), Đường nét ( Thẳng – cong, ngang- đứng v.v.), Hình khối (Đặc – rỗng, Lớn – nhỏ), Hình dạng (Vuông

– Tròn), Chất liệu (Mịn – thô ráp) Nhịp điệu (Nhanh – Chậm), Không gian (rộng – hẹp), Đồng nhất – Khác biệt, Hướng v.v.

Để có sự tương phản màu sắc bạn cần hiểu vòng tròn màu. Trong vòng tròn màu, hai

màu nắm đối diện nhau tạo nên tương phản mạnh nhất.

25

Tương phản về hình khối – người thiếu nữ và bóng của người này.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Tương phản về chất liệu được sử dụng khá phổ biến trong nhiếp ảnh

Tác phẩm này hiện diện tương phản về sắc độ và đường nét (cột chống và sợi xích) Và còn rất nhiều ví dụ bạn có thể thấy khắp nơi ở các thiết kế, các tác phẩm nghệ thuật.

Có thể nói nguyên tắc tương phản là nguyên tắc phổ biến nhất của các nhà thiết kế và các họa sĩ.

Tương phản và Cân bằng cần sự phối hợp chặt chẽ. Bạn có thể sử dụng tương phản

theo một số quy luật kinh điển như Golden Ratio với các tỉ lệ: 1:414, 1:618. 1.4.3. Nguyên tắc chuyển động - Movement

Chuyển động là con đường đôi mắt của chúng ta theo khi chúng ta nhìn vào một tác

phẩm nghệ thuật.. Mục đích của chuyển động là tạo ra sự thống nhất trong các tác phẩm nghệ thuật khi dùng mắt để theo dõi.

Nó có thể đạt được bằng cách sử dụng sự nhịp điệu, sắp xếp, nét bút v.v. Chuyển động

quan hệ công tác với nhau bằng liên kết các thành phần khác nhau của một tác phẩm với

nhau.

Bằng cách sắp xếp các yếu tố thành phần theo một cách nào đó, một nghệ sĩ/ nhà thiết

26

kế kiểm soát sự chuyển động của mắt của người xem trong và xung quanh các thành phần với các bức tranh/ thiết kế.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Yếu tố chuyển động trong nhiếp ảnh.

Vangogh là một trong những họa sĩ bậc thầy về sử dụng nét bút tạo sự chuyển động

27

trong các tác phẩm.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Sắp xếp các yếu tố có chủ ý nhằm tạo sự liên lạc, chuyển động gắn kết trong một tác

phẩm.

1.4.4. Nguyên tắc nhấn mạnh – Emphasis

Nhấn mạnh là sự nhấn mạnh của một khu vực cụ thể tập trung hơn là trình bày một mê

cung của các chi tiết quan trọng tương đương.

Trong nghệ thuật và đặc biệt trong thiết kế Nhấn mạnh là một nguyên tắc không thể

thiếu của mỗi thiết kế, mỗi tác phẩm.

Chúng ta có thể dùng các nguyên tắc Cân Bằng bất đối xứng, Tương phản, Chuyển động, để tạo nên nhấn mạnh nổi bật cho một đối tượng, cho một thông điệp mà bạn muốn

truyền tải từ sáng tạo của mình.

Ví dụ đơn giản về Nguyên tắc nổi bật với việc sử dụng màu nóng (mặt trời), màu lạnh (khung cảnh). Đồng thời dòng sông tạo thành đường dẫn hướng mắt người xem vào yếu tố

nổi bật nhất. Một cách để đạt được nhấn mạnh là tạo ra trung tâm của sự quan tâm, hay còn gọi là

28

một tâm điểm. Một khu vực trung tâm là khu vực mà mắt có xu hướng tập trung vào đó. Nó là trọng tâm của sự chú ý của người xem.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân. Trong tác phẩm này xuất hiện Chuyển động từ tay thiếu nữ, tới bông hoa, tớ gương mặt, rôì tới bờ vai, rồi lại chạy tới tay, tạo thành một

vòng khép kín. Khiến gương mặt ghé vào bông hoa thành trung tâm nổi bật của tác phẩm. Cách thứ hai để tạo ra sự nhấn mạnh là bằng cách tương phản yếu tố chính với các vật

khác, hoặc nhấn mạnh có thể được tạo ra bởi một thay đổi đột ngột về hướng, kích thước, hình dạng, kết cấu, giai điệu, màu sắc hoặc đường nét.

1.4.5. Nguyên tắc đồng nhất

Đồng nhất là nguyên tắc phổ biến trong thiết kế hiện đại. Nguyên tắc này đề nghị

người thiết kế sử dụng những yếu tố, đối tượng, màu sắc giống nhau xuyên suốt trong các tác phẩm của mình.

Bạn biết Unity đã đạt được khi tất cả các khía cạnh của thiết kế bổ sung cho nhau chứ

không phải là cạnh tranh cho sự chú ý. Nó phục vụ để tăng cường mối quan hệ giữa các

yếu tố thiết kế và liên quan đến các chủ đề chính được thể hiện trong tác phẩm.

Ví dụ bạn nên sử dụng tối đa 2-3 loại font , 2-3 màu sắc, không quá 2-3 layout cho một

29

thiết kế của mình Đồng nhất cũng là 1 nguyên tắc của việc thiết kế những Bộ nhận diện thương hiệu (BIS)

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Unity là mối liên kết giữa các yếu tố khác nhau trong nghệ thuật và thiết kế.

Đồng nhất hoàn thành khi tạo ra: Đồng nhất tạo cảm giác riêng tư – Đồng nhất cung

cấp cho các yếu tố xuất hiện một cảm giác chúng thuộc về nhau.

Một số cách để tạo sự đồng nhất cho tác phẩm của bạn là: Làm chúng giống nhau. Tạo

sự liên tục. Sắp xếp có liên kết và Đặt gần nhau. 1.4.6. Nguyên tắc nhịp điệu - Rhythm

Nhịp điệu xuất hiện rất phổ biến trong đời sống chúng ta. Bạn có thể gặp nó trong những bài hát, những hàng gạch, những hoa văn lặp đi lặp laị, những hàng cây bên đường,

những dãy nhà bạn đi qua v.v.

Nhịp điệu chính là sự nhắc lại (đều, nhanh- chậm, dày đặc – thưa thớt) một cách có chủ

đích các hình dạng, hình khối, màu sắc

Sử dụng Nhịp Điệu tốt giúp bạn truyền tải cảm xúc của mỗi thiết kế, mỗi tác phẩm.

Ví dụ: Bạn sử dụng 1-2 màu liên tục khiến tác phẩm có sự yên bình, ổn định nhưng cũng có thể nhàm chán (nếu không thành công), sử dụng vài gram màu sinh động liên tục

30

khiến tác phẩm có sự vui tươi hoặc lộn xộn (nếu không thành công)

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

1.4.7. Nguyên tắc tỉ lệ

Tỷ lệ trong nghệ thuật là mối quan hệ hài hòa, so sánh giữa hai hay nhiều yếu tố trong một thành phần liên quan đến kích thước, màu sắc, số lượng, sắp xếp, sắc độ, vv, nghĩa là

tỷ lệ. Một mối quan hệ được tạo ra khi hai hay nhiều yếu tố được đặt chung trong một bức tranh.

Mối quan hệ này được cho là hài hòa khi một tỉ lệ mong muốn tồn tại giữa các yếu tố.

Dùng Tỉ lệ tốt là cách sử dụng các yếu tố, các nguyên tắc nghệ thuật một cách phù hợp

để tạo sự Cân Bằng. Tỉ lệ chuẩn chúng ta được nghe tới không gì khác ngoài các Golden Ratio quen thuộc.

Trong nghệ thuật Tỉ lệ nằm trong mắt các họa sĩ, có có một cảm quan nghệ thuật siêu việt để nhận ra các tỉ lệ thích hợp về màu sắc, hình khối, không gian… để sử dụng phù hợp

Trong thiết kế Tỉ lệ được thông qua Golden Ratio, thông qua Hệ thống lưới. Sử dụng tỉ lệ theo những nguyên tắc đã có khiến bạn có sự chuyên nghiệp, chuẩn mực trong mỗi thiết kế

đồ họa của mình.

31

1.4.8. Nguyên tắc đơn giản

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Đơn giản trong nghệ thuật, còn được gọi là nền kinh tế thị giác hoặc thiết kế tối thiểu. Là bỏ qua tất cả các cần thiết hoặc bỏ các yếu tố quan trọng không, và chi tiết mà không thực sự đóng góp vào bản chất của các thành phần tổng thể nhằm nhấn mạnh những gì là quan trọng.

Logo cũ của IBM trước năm 1972 khác xa hình kẻ sọc đơn giản bây giờ.

32

Pepsi cũng theo xu hướng của nhiều thương hiệu bây giờ - bỏ bớt chữ cho đến khi logo chỉ còn là biểu tượng. Thiết kế đầu tiên của Pepsi là "mốt" đầu thế kỷ 19 - càng phức tạp càng tốt.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Logo đầu tiên của Apple có hình Isaac Newton ngồi dưới gốc táo. Tuy nhiên, thiết kế

này bị đánh giá là quá phức tạp và khó nhìn. Vì thế, sau năm 1976, logo của hãng đã chuyển thành "quả táo cắn dở" như ngày nay.

Chƣơng 2: Khái quát về luật xa gần 2.1. Khái quát về luật xa gần

Khi ta quan sát ở thực tế, cảnh vật hiện ra trước mắt như một trình tự hợp lý trải rộng về phía chân trời. Chúng ta đều biết bề ngang của cây cầu rộng đều như nhau nhưng lại cho ta thấy hẹp dần về phía tận cùng, những cột chân cầu vốn có kích thước bằng nhau nhưng càng về phía xa chúng càng nhỏ dần và thấp dần về phía cuối...

Cây cầu vượt biển dài nhất thế giới tại vịnh Giao Châu, thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông.

Sở dĩ có hiện tượng như vậy, chính là vì mắt của chúng ta đã dập theo nguyên tắc của

33

ống kính máy ảnh và vì thế mắt ta phải chấp nhận sự biến dạng của phối cảnh như trên

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

những tấm ảnh. Vậy ta phải vẽ lên trang giấy những gì như mắt mình đang nhìn thấy ở thực tế.

Cầu Lake Pontchartrain ở phía nam bang Lousiana, Mỹ.

Để hiểu rõ và giải thích được các hiện tượng trên ra phải dựa vào Luật xa gần hay Luật phối cảnh.

Luật xa gần còn gọi là Luật thấu thị hay Luật phối cảnh, là tập hợp những phương pháp biểu hiện không gian lên mặt phẳng với các yếu tố tạo hình như đường nét, hình khối, đậm nhạt, màu sắc... nhằm giải thích và trình bày diễn biến của sự vật, hình thể đang tồn tại trong không gian từ gần đến xa theo quy luật của thị giác.

2.2 Cơ sở khoa học của Luật xa gần

Cùng với sự phát triển của các ngành khoa học khác, phép thấu thị đã được A-na-xa-go-rát

một triết gia đương thời ở Hy Lạp (thế kỷ V trước công nguyên).

Anaxagoras là nhà triết học Hy Lạp cổ đại đầu tiên định cư tại Athens (khoảng năm 480 TCN), Athens sau này là trung tâm hưng thịnh của triết học. Ông dạy học ở Athens khoảng 30 năm thì bị tống giam vì có hành động bất kính khi cho rằng Mặt trời là một khối đá nóng và Mặt trăng do đất đá tạo nên. Nêu ra thành nguyên tắc: "Đường nét trong hội hoạ phải đặt theo tỷ lệ tương ứng với các hình đã vạch ra trên một mặt phẳng tưởng tượng do các tia nhìn từ mắt coi như một điểm cố định, tới các điểm của đối tượng quan sát".

34

Như vậy là nguyên tắc cơ bản của phép thấu thị đã được nêu ra nhưng chưa hề áp dụng, suốt từ đấy cho đến đầu thế kỷ XIV - giữa thế kỷ XVI Các nhà khoa học đã tìm ra quy luật về sự diễn biến của vật thể trong không gian ba chiều và đưa lên mặt phẳng những hình

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

ảnh (hình dạng, kích thước của vật thể) đúng như ta nhìn ở ngoài thực tế. Họ đã lấy sự thụ cảm thị giác làm cơ sở để giải quyết vấn đề này với cách lý giải như sau:

"Hãy giả định là ta nhìn một khung cảnh thực tế qua mặt kính cửa sổ bằng một mắt. Cảnh vật nhìn thấy được là do những tia sáng phát ra từ những điểm khác nhau của bức tranh thực tế đập vào mắt ta. Sự quy tụ những tia sáng như thế được coi là một chùm tia chiếu hay sự chiếu. Chùm tia chiếu đó xuyên qua mặt kính cửa sổ nếu được đánh dấu lại từng điểm thì tập hợp những điểm như vậy sẽ là một hình chiếu. Mắt ta tiếp nhận hình chiếu đó đúng như nó đã thu nhận chính quang cảnh thực tế. Do đấy, một bức vẽ có thể chứa đựng toàn bộ bức tranh xuất hiện trên mặt kính. Với sự phối hợp của màu sắc, đậm nhạt, bóng sáng tối, bức vẽ có thể đem lại không gian giống như ta thấy ở thực tế"(xem hình 01)

Mọi nghiên cứu về phối cảnh bắt đầu từ An-bec-ti (Al Berti) (1404-1472), nhà kiến trúc kiêm văn sỹ và Pao-Lô U-xen-lô (Paolo Ucelo) (1397-1475), danh họa lần đầu tiên lý giải theo thể thức và quy tắc cho các hoạ sĩ noi theo.

Ít lâu sau Lê-ô-na-đờ-vanh-xi đã hiệu chỉnh lại một vài chỗ chưa hợp lý trong cuốn sách của An-bec-ty và viết thành sách (Leonard de Vinci: Họa sỹ thiên tài người Pháp, ông đồng thời là nhà điêu khắc, kiến trúc, toàn học, triết học, nhạc sỹ… là nhà Bác học toàn năng).

Như vậy là cơ sở khoa học của phép thị thấu đã hình thành. Các nghệ sĩ thời Phục hưng

đã tổng hợp và hiệu chỉnh, đồng thời nghiên cứu kỹ lưỡng phương pháp thấu thị cùng những ứng dụng của trong hội họa và được các họa sĩ thừa nhận, sử dụng rộng rãi hàng thế kỷ. Từ đó, phương pháp này trở thành chính thống và hình thức không gian trình bày theo phương pháp đó gọi là ―không gian thị thấu‖ hay ―không gian Phục hưng‖.

Sau này, sự phát triển của nhiều ngành khoa học như: toán học, vật lý học, tâm lý học...đã dần dần bổ sung những kiến thức khoa học chính xác, làm cho Luật xa gần dần dần hoàn thiện và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.

2.3. Kết cấu của luật xa gần

Để thuận lợi cho việc biểu hiện không gian lên mặt phẳng theo đúng như mắt ta vẫn

35

nhìn thấy ở thực tế, trong Luật xa gần người ta sử dụng các đường và điểm làm cơ sở cho việc tạo dựng không gian trên bề mặt đó là:

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Л - Mặt vật thể XY - Đáy tranh

O - Điểm nhìn O' - Chân điểm nhìn

P - Điểm chính K - Mặt tranh

OP - Tia nhìn chính HH - Đƣờng chân trời

TĐBK - Điểm tụ bất kỳ D - Điểm cự ly

Ta có thể biểu hiện chúng theo sơ đồ dưới đây

2.4. Vai trò của luật xa gần trong học tập và sáng tác nghệ thuật

Luật xa gần có vai trò rất lớn trong học tập và sáng tác Mỹ thuật, vì nó là môn khoa

học cơ bản chuyên nghiên cứu về phương pháp biểu hiện không gian trên bề mặt mà bât cứ một người học vẽ nào cũng phải trải qua, nó là chỗ dựa đồng thời cũng là phương tiện tốt

để nghiên cứu, học tập và xây dựng tác phẩm. Luật xa gần còn giúp cho người họa sĩ có khả năng tập hợp các tài liệu đã ghi chép từ thực tế để hư cấu thành những bố cục. Nó tạo điều kiện cho họ nhận thức đúng về không gian tạo hình và nắm vững tỷ lệ, diễn biến các

vật trong không gian chiều sâu.

Mặt khác, hiểu rõ cơ chế của Luật xa gần, con mắt nhận xét ngày càng nhạy bén

hơn. Thậm chí, đôi khi người họa sỹ không cần quan sát ở thực thế mà vẫn có thể vẽ đúng

được trong bức tranh của mình.

Danh họa thế giới Lê-ô-na đờ Vanh-xi, người viết nên cuốn Luật thấu thị, đã vân

dụng nó vào hội họa và làm cho các tác phẩm của ông lừng danh như mốc son chói lọi của

36

nền hội họa thời kỳ Phục hưng. Và đặc biệt, ảnh hưởng của Luật thấu thị to lớn đến nỗi nó được áp dụng rộng rãi và thành công với nhiều họa sỹ ở các thời kỳ hội họa khác nhau như: Vơ-ri-dơ, Bơ-ru-ê-gen, Răm-brăng, Mi-lê, Ang-gơ-rơ, v.v...mà tên tuổi của họ luôn gắn liền với lịch sử hội họa thế giới.

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông

Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện

Bữa ăn tối cuối cùng của chúa Giê-su, 1495 – 1497

Tranh vẽ bằng sơn và tăm-pê-ra trên tường của Lê-ô-na đò Vanh xi

Tiệc cưới ở Cana, 1563. Tranh sơn dầu của Vơ-ri-đơ

37

Tháp Balel, 1563. Tranh sơn dầu của Bơ-ru-ê-gen

Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông