1
BÀI 10
TỘI PHẠM TÌNH DỤC
MỤC TIÊU
1. Phân biệt tội phạm hiếp dâm - cưỡng dâm?
2. Nắm được các dạng tội phạm tình dục.
3. Nắm được các loại xét nghiệm cơ bản trong tội phạm tình dục.
4. Hiểu khái quát những vấn đề đặc biệt liên quan đến tội phạm tình dục.
1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Khái niệm
Do những tác động nhiều mặt của đời sống xã hội, quan niệm về tội phạm tình dục hiện
nay rất đa dạng và mở rộng. Về thuật ngữ, cũng có sự phát triển và lồng ghép, đan xen giữa các
quan niệm của pháp luật, của đạo đức hội, với quan niệm y học với một loạt các cách gọi
như: cưỡng m, hiếp dâm, cưỡng hiếp, bạo lực tình dục, cưỡng bức tình dục, quấy rối tình
dục, lạm dụng tình dục, bệnh hoạn tình dục tội phạm v.v....
Một số định nghĩa:
Định nghĩa của nhóm tác giả Saltzman, L., Fanslow, J., Mc Mahon, P., Shelley đưa ra
năm 1999 được WHO công nhận: theo các tác giả này bạo lực tình dục (sexual violence) là:
- Dùng sức lực ép buộc một người (nam hoặc nữ) tham gia vào hành vi tình dục chống
lại ý muốn của người đó dù hành vi đó có hoặc không thực hiện được hoàn toàn.
- Sự xâm phạm tình dục hoặc hành vi tình dục đã hoàn thành với một người không có
khả năng nhận biết bản chất hoặc tình cảnh của hành vi đó, hoặc với một người suy sụp sức
khỏe không khả năng tham gia hoạt động tình dục, hoặc với một người đã thông báo không
bằng lòng hoạt động tình dục (dụ: bị ốm, mất giảm khả năng tình dục, bị ảnh hưởng của
rượu, thuốc men khác), hoặc với người bị dọa dẫm, đe dọa, chịu áp lực, sức ép.
Định nghĩa của Georgia Southern Health Education: bất cứ hành vi tình dục
nào do một người thực hiện với người khác mad không được người đó chấp nhận. Đó thể
hậu quả của sự đe dọa hoặc dùng bạo lực ép buộc hoặc nạn nhân mất khả năng chấp nhận một
cách thích hợp.
Định nghĩa của Bộ luật Hình sự Việt Nam
Hiếp dâm hành vi phạm tội của một người dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc
mình hoặc đangtrong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.
2
1.2. Các điều luật liên quan đến tội phạm tình dục
Điều 111: Tội hiếp dâm.
Điều 112: Tội hiếp dâm trẻ em.
Điều 113: Tội cưỡng dâm.
Điều 114: Tội cưỡng dâm trẻ em.
Điều 115: Tội giao cấu với trẻ em.
Điều 116: Tội dâm ô đối với trẻ em.
1.3. Quan niệm ca y học tư pháp về ti phạmnh dục
Từ những khái niệm, quan niệm đã nêu 1.1 1.2, để thể hiểu biết về bản chất và
thực trạng hành vi tội phạm loại này, cần thiết một số tiêu điểm (focus) tính nguyên
giúp người thầy thuộc và người m tư pháp định hướng đúng đắn khi giám định và điều tra vụ
việc. Theo đó, tội phạm tình dục cần được hiểu với nghĩa rộng hơn nhưng phải được cấu thành
từ những yếu tố cơ bản sau:
1.3.1. Sự cưỡng bức
Bao gồm mọi hành vi từ bạo lực, đe dọa, lừa gạt, gây sức ép đến lợi dụng thế yếu của
nạn nhân. Các hành vi này bao gồm cả những hành vi về thể lực, thủ đoạn tâm lý, dụ dỗ kích
động dục tính cho đến sự cậy ỷ thế chế áp về mặt quan hệ xã hội.
1.3.2. Giới tính của hung thủ và nạn nhân
Theo quan niệm cũ, kẻ phạm tội nam giới nạn nhân nữ giới, nhưng quan niệm
này biểu hiện đã trở nên gò bó, chật hẹp, bỏ sót hành vi phạm tội.
Một quan niệm đầy đủ bao gồm:
Hung thủ đa phần là nam giới nhưng một số trường là nữ giới.
Nạn nhân tất nhiên thể nữ giới chiếm số lớn nhưng cũng thể nam giới
và đặc biệt nạn nhân cũng có thể là người cùng giới với hung th.
1.3.3. Không có giới hạn cố định về độ tuổi của cả thủ và nạn nhân
Độ tuổi của hung thủ tập trung tuổi trường thành, tuổi đời sống tình dục thông
thường nhưng cũng gặp ở độ tuổi vị thành niên và không ít gặp ở người cao tuổi.
Độ tuổi của nạn nhân gặp từ tuổi nhi đồng cho đến tận người gcả tất nhiên tập
trung ở độ tuổi trưởng thành đời sống tình dục.
1.3.4. Hành vi tội phạm tình dục không chỉ xoay quanh hành vi giao cấu cưỡng bức bao
gồm rất nhiều biến dạng của các hành vi mục đích đạt được khoái cảm tình dục cho hung
thủ.
1.3.5. Ý nghĩa chẩn đoán về màng trinh tinh dịch trong âm đạo không còn dấu hiệu
quyết định bản chất của hành vi tội phạm tình dục mà chỉ một trong những tiêu chuẩn để tập
họp thành chẩn đoán y pháp.
3
Nguyên do: những hành vi tội phạm giao cấu không hoàn toàn, giao cấu đường hậu
môn, tội phạm tình dục không cần giao cấu vẫn đạt khoái cảm tình dục và do việc sử dụng rộng
rãi túi cao su.
1.3.6. Nguyên tắc khám cả nạn nhân và hung thủ
Trước đây, hầu như chỉ nghĩ đến việc khám giám định nạn nhân (hẹp hơn chỉ km
nữ giới), đây một thiếu sót nghiêm trọng vì ít nhất cũng làm mất đi một nửa những dấu
hiệu thông tin cần cho chẩn đoán. Do đó, nguyên tắc khám trong tất cả các bước chẩn đoán
và giám định phải tiến hành trên cả nạn nhân và hung thủ (hoặc nghi can).
1.3.7. Nguyên tắc nhân văn, nhân đạo, nhân quyền
Trong số các bệnh tật cũng như hành vi phạm tội, tội phạm liên quan đến tình dục
những bệnh hoạn tình dục tính nhạy cảm cao, rất cần một thái độ tôn trọng, chia sẽ cảm
thông, ứng xử tế nhị văn hóa. Nếu không sẽ rất khó có sự hợp tác của đương sự cũng như dễ
bị lạm dụng những thông tin có tính giật gân.
2. TỘI PHẠM HIẾP DÂM
Ba yếu tố cần thiết để thực hiện hành vi hiếp dâm một người là: đã biết khoái cảm tình
dục, bạo lực và không có sự ưng thuần của người đó.
Hiểu biết về khoái cảm tình dục không chỉ đơn thuần hành vi giao cấu với quan
sinh dục thể nhiều hoạt động khác ý nghĩa thủ dâm, kích dâm... còn tổn thương
rách màng trinh hoặc vấn đề xuất tinh không phải những tiêu chuẩn chẩn đoán. Bạo lực
thể thể dùng lực, đe dọa hoặc cưỡng bức. Trên thực tế số lượng những trường hợp bị
hiếp dâm không thể biết chính xác vì rầt nhiều trường hợp không được tố cáo.
2.1. Nạn nhân là người sống
Hiếp dâm thường xuyên là những vấn đề khó khăn đối với những thầy thuốc lâm sàng
bên cạnh việc điều trị cho nạn nhân họ còn phải biết cách thu thập được những bằng chứng liên
quan đến tội phạm. Để giải quyết được một cách chính xác những vấn đề liên quan đến tội
phạm tình dục hai góc độ y học và luật pháp, họ, những thầy thuốc cũng phải biết cách thu
thập thông tin từ nạn nhân từ quan điều tra trong khuôn khổ luật định. Sẽ thuận lợi nếu
nạn nhân của tội phạm tình dục được khám điều trị những trung tâm y tế lớn với những
thầy thuốc kinh nghiệm trong việc điều trị giải quyết những vấn đề liên quan đến một
cách chính xác, một số khu vực, thầy thuốc y pháp khám cho người bị hiếp dâm ngay từ đầu.
Nếu nạn nhân đã được điều trị ở bệnh viện, thì những tài liều, chứng cứ về tội phạm tình dục sẽ
bị ảnh hưởng. Người thầy thuốc phải đủ những dụng cụ cần thiết để khám một nạn nhân bị
hiếp dâm bao gồm những dụng cụ để thu thập những dấu vết liên quan đến tội phạm và trong
đó những bộ câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn, đồ phác họa để tả những dấu vết, thương
tích trên cơ thể nạn nhân.
4
Khi được đưa đi km hoặc cắp cứu tại các bệnh viện, nạn nhân phải được đối xử thật
chu đáo với thái độ cảm thông. Việc ghi chép, lấy lời khai nhân chứng cần được thực hiện
trước khi khám thu thập dấu vết, cần thông báo cho những người trách nhiệm chụp
ảnh tổn thương trên thân thể nạn nhân. Tên tuổi, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, ngày giờ xảy ra
sự việc, ngày giờ khám cần được ghi lại với sự mặt của đại diện quan điều tra. Đại diện
của những quan luật pháp khác không cần thiết phải mặt lúc khám nghiệm người duy
nhất cần mặt một nữ y và người phụ nữ cùng đi (có thể mẹ, chị, hàng xóm hoặc
người thân của nạn nhân).
Trong những trường hợp thương tích nặng, đe dọa tính mạng thì việc khám cấp cứu
điều trị cho bệnh nhân cần được ưu tiên đặt lên hàng đầu rồi sau đó mới đến việc thu giữ
bệnh phẩm, cần báo quản mẫu bệnh phẩm theo đúng hướng dẫn trước khi gửi cho quan điều
tra hoặc đại diện của phòng thí nghiệm dấu vết hình sự. Cũng thể phải lưu giữ lại một i
đặc biệt trước khi chuyển đi.
Nếu nạn nhân được khám và điều trị bởi thầy thuốc lâm sàng thì họ phải những người
bằng cấp chuyên môn giỏi trong chuyên ngành sản phụ khoa những người này sẽ cung
cấp những thông tin giá trị tại tòa án, không nên để bác nội trú điều trị cho nạn nhân. Nếu
nạn nhân đã chuyển nơi trú vviệc phải đưa ra tòa án xét xử thì các thầy thuốc y pháp
hoặc những chuyên gia sản phụ khoa sẽ phải công bố về tội phạm tình dục đã xảy ra hay
không. Cần lưu ý hiếp dâm không phải một chẩn đoán y học vấn đề này thuộc quyền
phán quyết của luật pháp. Tất cả những gì người thầy thuốc thể làm được cung cấp
bằng chứng liên quan đến thương tích cũng như hành vi xâm phạm tình dục hay không
thu thập dấu vết liên quan đến tội phạm.
Bước đầu tiên thu thập những thông tin vbệnh sử của nạn nhân, cần lưu ý những
thông tin liên quan đến bệnh tật những vấn đề hành vi bạo lực trong tội phạm. Ba câu hỏi
quan trọng cần đưa ra và yêu cầu nạn nhân trả lời trung thực là:
- Hung thủ đã đưa dương vật vào âm đạo được chưa?
- Hung thủ đã đạt được khoái cảm tình dục?
- Hung thủ sử dụng bao cao su?
Những vấn đề tương tự cũng cần được quan tâm là kiểm tra xemdấu hiệu hiếp dâm
các lỗ tự nhiên khác như hậu môn hoặc mồm hay không. Cần m hiểu nạn nhân đã tắm rửa,
đi tiểu ... hoặc để nguyên trạng từ khi xảy ra vviệc. Tất cả các bước trên cần được tiến hành
theo trình tự cho dù những dấu hiệu y học của tội phạm tình dục có thể đã rõ ràng. Cần phải thu
thập thêm những tang vật liên quan đến vụ việc như quần lót của nạn nhân, những giấy lau
v.v... và phải được ghi chép tỷ mỉ.
5
Thầy thuốc y pháp sẽ thực hiện khám nghiệm nhằm mục đích thu thập những dấu vết
bằng chứng để tìm ra tội phạm hoặc để bác bỏ những lời vu khống về tội phạm tình dục. Tình
trạng chung về thể chất và tinh thần của nạn nhân cần được ghi chép cũng như nếu nạn nhân
dấu hiệu chịu tác động của rượu hoặc các loại thuốc. Tình trạng tinh thần của nạn nhân trên
thực tế không phải lúc nào cũng phản ánh đúng tâm trạng của nạn nhân như một số nời tỏ ra
lạnh nhạt, xa lánh mọi người trong khi những người khác có vẻ hoảng loạn.
Việc kiểm tra những dấu vết bẩn, vết rách, mất khuy, những sợi lông hoặc cây... trên
quần áo nạn nhân cần được thực hiện trước, rồi mới bắt đầu khám để tìm những dấu vết thương
tích như sây sát, bầm tụ máu, rách da và vết cắn. Cần kiểm tra kỹ bàn và ngón tay để tìm những
dấu vết hoặc những vật lạ như lông tóc... lông, tóc của hung thủ thể còn sót lại vùng sinh
dục của nạn nhân kiểm tra bộ phận sinh dục ngoài, âm đạo cổ tử cung bằng một m vịt
không bôi trơn.
Nếu vết cắn trên thể nạn nhân hoặc trường hợp nạn nhân thông báo chỉ những
nơi hung thủ đã ngậm, liếm trên thể (ví dụ: núm vú) thì những vùng này phải được lau
bằng gạc sạch nhằm thu giữ dấu vết nước bọt để gửi m xét nghiệm AND. Sau khi dùng gạc
sạch để lau, vết cắn cần chụp ảnh với thước tỷ lệ, tốt nhất nên mời bác nha khoa tham dự
cùng khám nghiệm đánh giá, tả vết cắn, thể sử dụng khuôn đúc để lấy mẫu vết răng
cắn.
Trong quá trình khám nghiệm dấu vết thu giữ bằng chứng tội phạm tình dục thì sự
khác nhau duy nhất giữa việc thu thập mẫu bệnh phẩm giữa người sống người chết việc
nuôi cấy vi khuẩn từ dịch được lấy cổ tử cung, cuối cùng để xác định dấu hiệu của bệnh hoa
liễu. Dùng gạc để thu giữ bệnh phẩm mồm, lỗ hậu môn thể không cần thực hiện nếu theo
lời khai của nạn nhân, hung thủ không m phạm vào những vùng này. Sự vắng mặt của dấu
tích thương tích trên thể nạn nhân cũng không thể phủ nhận những lời cáo buộc của nạn
nhân về tội phạm tình dục. Qua nghiên cứu và phân tích 451 nạn nhân bị hiếp được thực hiện
Bệnh viện Parkland bang Dallas tại khoa sản, Stone đã ghi nhận 34% số nạn nhân dấu hiệu
của chấn thương (như vết sây sát bầm tụ máu hoặc rách da) 18% số nạn nhân chấn
thương bộ phận sinh dục (sưng tấy, sây sát, đụng dập, rách da). Kiểm tra dịch âm đạo cho
thấy 19,3% số nạn nhân còn phát hiện được tinh trùng còn sống, đuôi, cử động. S tinh
trùng không cử động được phát hiện 47% số nạn nhân. Những xét nghiệm dịch âm đạo
phòng thí nghiệm tội phạm cũng chỉ ra 62% số mẫu bệnh phẩm còn tìm thấy tinh trùng
trong tổng số những mẫu bệnh phẩm được gửi đến.
Bước tiếp theo nạn nhân cần được điều trị nếuthương tích hoặc sử dụng thuốc phòng
chống thai và những chỉ định đề phòng chống các bệnh hoa liễu. Nạn nhân cũng cần được kiểm