ạ
ế
cu i
ả “Bao la v n kho nh, bi n hóa khôn ả ng, trong h t th y các nhà ch t ể ượ
ư ử ố t qua
ử ậ
ế ườ l ờ đ i Chu, không nhà nào có th v Trang T v y.”
ỗ ấ L T n
̀
ử
ươ
i n
́
ươ ́
̀
̀
́ c c công nguyên, ươ ng cua ử ng truyê n Trang T
́
̉ ̣ ̉
́
̀
̀
̉ ̣
̀
ươ
ư ́ ́ c Tô ng. T ̀ ư ̀ ươ ̀
̉
ư ̀
́
̀
ơ
̣
̀ • Trang T tên Chu, la ng ́ ́ ươ ̉ ư Tô ng thê ky th 4 tr ông t ng la m quan nho đia ph ̀ ươ ươ n thông minh t nho, đi du ngoan ca c ươ ự n c, ti m to i cô phong, tôn su ng t ̀ ́ nhiên, coi th ng hâ u. Vua ng ca c v ̃ ́ ở ư ươ c S t ng hâu đa i ông nh ng ông n ̀ ́ ̀ ̃ ơ ư đa t chô i, suô t đ i không la m quan, ̀ ̀ ̀ ở ân dât giang hô , la m gia y r m vê
́
́
́
̀
́
́
̉ ̣
ba n kiê m sô ng, truyê n đao, viê t sa ch
ư
ơ
̣
h n 10 van ch .̃
•
̀
̃
̀
́
ư
ư ươ
̣
Hiên co n l u gi
đ
c 33 ba i viê t
̀
ử
̣
cua Trang T , chia la m nôi thiên, ngoai
̀
̉ ̣ ̣
thiên, tap thiên. Nôi thiên la do Trang
́
̀
́
ự
ử
̣ ̣
T viê t, ngoai thiên va tap thiên co s
̀
̀
ử
̣ ̣ ̣
tham gia cua hoc tro Trang T va hoc
̀
́
̀
́
̉ ̣ ̣
gia sau na y. Thuyê t Tê vât, Tiê u Dao
̀
̀
ư
̉ ̣
Du va Đai Tông S la tâp trung thê hiên
́
́
ử
̣ ̣ ̉ ̣
ti nh triê t hoc cua Trang T .
̣ ̉
TRANG TỬ LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?
ươ ươ ́ c L
́ ́ ươ ̉ ử ng, Trang t ư ng thăm. Nh ng, co ke
̀ ̉
́ ̀
ử ́ ng quô c”. Huê t ̀ ̉
́ ́ ử ̀ ̣ ử la m quan n Huê t ́ ươ c L ti nh qua n ́ ̀ ̣ ử ơ no i v i Huê t ma qua đây la đê : “Trang t ́ ̣ ử ợ ươ s , cu ng ông tranh ngôi t ́ ̀ ợ ư cho ke canh ch ng suô t ba nga y ba đêm, đ i ̀ đê n thi bă t.” Trang t
̀ ử ̣ ̣
Trang t ́ ̣ ử ử ̣ ̉ hay chuyên, không đi. Sau rô i lai bao: ,Trang t đê n. Găp Huê t
ươ ng Nam co con chim tên la Uyên Sô , ́ ̀ ̀ư ̉ ̀ biên Nam
́ ́ ̀ ̉ ̣
̀ ả ̣ ̣ ̣ ̀ ́ “Ph ông co biê t không? Uyên Sô bay t ́ qua biên Bă c, nê u không găp cây ngô đô ng ́ thi không chiu đâu; nê u không găp qu cây
́ ̀ ́ ̣ ươ ố quý thi không ăn; nê u không găp n c su i
́ ̀ ộ ̣ trong ngot thi không uô ng. Nó là m t con chim
trong s ch.ạ
́ ̃ ́ ́ ư ̉ ̣ Co con cú mèo đang ria xa c chuôt chê t gi a
́ ́ ́ ̀ ̀ ợ ca nh đô ng, thâ y Uyên Sô bay ngang, s no
̀ ́ ̀ ̉ ̣ gia nh miê ng ăn nên kêu to lên đê doa Uyên Sô
̀ ́ ́ ư đ ng đa p xuô ng.
̀ ́ ́ ́ ợ ươ ở ̉ Nay vi s ca i ngôi t ng quô c cua ông
́ươ ươ ̉ ̣ n c L ng nên ông kêu to lên đê doa tôi
sao?”
• Trang tử câu trên sông Bộc.Vua Sở phái hai vị đại phu lại báo trước “sẽ xin đem việc nước lại làm phiền ông”. Trang tử vẫn cầm cần câu, không ngoảnh lại, mà đáp: - Tôi nghe nước Sở có một con rùa thần, chết đã ba ngàn năm, nhà vua gói nó vào chiếc khăn, cất trong cái hộp ở trên miếu đường. Con rùa ấy chịu chết mà lưu lại bộ xương cho người ta thờ hay thích sống mà lết cái đuôi trong bùn?
Hai vị đại phu đáp:
- Thà sống mà lết cái đuôi trong bùn còn
hơn.
Trang tử bảo:
- Vậy hai ông về đi! Tôi cũng thích lết cái
đuôi trong bùn đây”.
• Khi Khổng Tử đi tới đất Khuông, bị một đám người bao vây vòng trong, vòng ngoài. Vậy mà ông vẫn đàn hát không ngừng. Tử Lộ lại gần hỏi: - Lúc này mà sao thầy vui được như vậy? Khổng Tử đáp:
- Lai đây thầy nói cho nghe. Ta vốn
tránh sự khốn cùng từ lâu, mà không
thoát khỏi, đó là do số mệnh. Ta vốn
mong được thông đạt từ lâu mà
không sao được, đó là thời vận. Thời
Nghiêu Thuấn không ai khốn khổ,
đâu phải vì ai cũng khôn cả. Thời
Kiệt, Trụ, không ai sung sướng,
không phải vì ai cũng ngu cả. Thời
thế khiến vậy.
Xuống nước mà không sợ con giao,
con rồng, đó là cái dũng của bọn
chài lưới; trên bộ mà không sợ con
tê ngưu, con cọp, đó là cái dũng của
bọn thợ săn. Trước mũi gươm đao,
mà coi chết như sống, đó là cái dũng
của liệt sĩ. Biết rằng khốn cùng do
mệnh, thông đạt nhờ thời, gặp nạn
lớn mà không sợ, đó là cái dũng của
thánh nhân. Do [tức Tử Lộ], anh cứ
yên tâm. Số mệnh thầy đã được an
bài rồi.
Một lát sau, một người đeo binh khí,
tiến tới xin lỗi Khổng Tử:
- chúng tôi lầm ngài là Dương Hổ
nên mới bao vây. Bây giờ biết là lầm,
xin ngài thứ lỗi cho.
Nói rồi, người đó rút lui.
???
• ? ?????: ?????????, ?????????????, ?????? ???????, ?????????????, ?????????????: ?????????????????????, ????????????, ?? ??????????: ????????, ????; ????????, ? ? ??????, ????????, ???????, ?????, ????, ?? ????????, ??; ???, ???????, ?????????? ??? ?, ????????????, ???????????????????! ??
• Huệ tử bảo Trang tử:
- Vua Ngụy cho tôi một hột giống bầu lớn, tôi đem trồng được những trái chứa được năm thạch. Dùng cả một trái để chứa nước thì nó không đủ cứng để chịu được, khiêng đi sẽ bể; nếu xẻ nó thành nhiều phần thì lại nông quá, không chứa được bao nhiêu. Thành thử tuy nó lớn mà vô dụng, cho nên tôi đã đập bỏ. Trang tử bảo: - Vậy là ông vụng sử dụng những vật lớn rồi. Một người nước Tống chế được một thứ thuốc bôi ngón tay cho khỏi nứt nẻ.
Gia đình người đó đời đời làm công việc
đập lụa. Một người lạ hay tin, lại trả một
trăm đồng tiền vàng để mua phương
thuốc. Người đó họp cả họ lại, bảo:
“Chúng ta đời đời đập lụa, chỉ kiếm được
vài đồng tiền vàng. Bây giờ chỉ trong một
buổi có thể thu được một trăm đồng. Nên
bán cho họ đi”. Người lạ kia được phương
thuốc rồi, lại thuyết vua Ngô. Lúc đó nước
Việt đang gây chiến với Ngô, vua Ngô bèn
phong người đó làm tướng. Mùa đông, hai
bên thủy chiến với nhau, Việt đại bại phải
cắt đứt cho Ngô, vua Ngô đem đất đó
phong cho ông ta.
Cùng dùng một thứ thuốc mà người thì
được phong đất, kẻ vẫn phải đập lụa, chỉ
vì cách dùng khác nhau. Nay ông có trái
bầu chứa được năm thạch, sao không
nghĩ cách dùng nó làm một trái nổi để qua
sông, hở? Phàn nàn rằng xẻ ra thì nó
nông quá, không chứa gì được, chính là vì
lòng của ông không thông đạt đấy.
TRANG TỬ (khoảng 369 – 286)
1. THẾ GiỚI QUAN
- Kế thừa học thuyết “pháp đạo tự nhiên” của Lão Tử, cho rằng quy luật vận động của vạn vật mang tính tự thân, vô thức, con người tuân theo.
- Đề cao tinh thần tự do, tự chủ của con người: Hình hài con người bị quy luật tự nhiên chi phối, nhưng tinh thần vẫn có thể vượt ra ngoài vòng cương tỏa, để tự do tiêu dao, tự tại trong trạng thái yên tĩnh.
Vũ trụ này có hai phần:
• 1- Một là Đạo. Mà Đạo thời vô sở bất tại, vô biên tế, duy nhất bất khả phân, vĩnh cửu trường tồn. (ch. 6-f,g)
• 2- Hai là Hình tướng biến thiên, luẩn quẩn trong vòng tương đối, sinh tử. (ch. 6-s,f)
• Hai đàng tuy vô cùng khác biệt, nhưng lại liên lạc hết sức chặt chẽ, hết sức mật thiết với nhau, đến nỗi có thể nói được là: Đâu có hiện tượng, thời ấy có Đạo, và như vậy cái hữu hạn vừa nằm trong cái vô cùng, lại vừa hàm chứa được cái vô cùng.
• Từ trong lòng Đạo mà nhìn ra, thì muôn
loài muôn vật là một, hoàn toàn giống
• Từ trong cảnh giới hiện tượng mà nhìn ra
nhau, vô cùng vô tận như nhau.
thì muôn loài muôn vật hết sức khác nhau,
biến thiên, phù du, ảo hóa.
Con người cũng như vũ trụ, có hai phần:
• 1- Một là Đạo thể vô biên tế bên trong.
• 2- Hai là con người phàm tục bên ngoài,
• Thiên Thu Thủy ? ? có một câu bất hủ,
với thất tình lục dục niệm lự biến thiên, trí thức, phán đoán thường nhật, thông thường, tử sinh vô định.
tóm tắt được quan niệm này, đó là: Thiên tại nội, nhân tại ngoại. ? ? ? ? ? ?
Xã hội loài người, cũng có hai phần: • 1. Một là Thiên nhiên. Thiên nhiên là cái gì thuộc về Thiên chân, Thiên tính, và như vậy chắc chắn là hoàn mỹ.
• 2. Hai là Nhân tạo. Mà nhân tạo là tất cả những gì do khối óc con người bày vẽ ra, cho nên dĩ nhiên là kém cõi, dĩ nhiên là vụng về, không thể nào đem lại hạnh phúc thật cho con người được.
2. NHÂN SINH QUAN
- Chủ trương “vô vi” & đưa xh trở về thời nguyên thủy
- Không mấy quan tâm đến chính trị và ổn định xh, mà lưu tâm nhiều hơn đến tự do tinh thần
- Thể hiện quan điểm “Tương đối chủ nghĩa” trong triết học nhân sinh “Tề vật”, “Tề thị phi” (san bằng sự khác biệt giữa muôn vật, xóa nhòa ranh giới phải và trái, Ta và vật bình đẳng).
"Người nằm trong chỗ ẩm thấp thì sinh ra đau lưng và tê liệt một bên mình; con cá chạch thì có sao không? Người ở trên cây thì run rẩy, sợ sệt; còn loài khỉ vượn có sao không? Ba loài ấy, ai biết chỗ nào là chỗ ở chính? Con người thì ưa ăn thịt thà; hươu nai thì thích ăn cỏ non; rết thì cho rắn con là ngon; chim mèo chim cú thì nghiện ăn chuột bọ. Bốn loài ấy, ai biết món ăn nào là chính vị? Mao Tường Lệ Cơ, người thấy thì cho là đẹp mà cá thấy thì lặn sâu, hươu nai thấy thì chạy dài. Bốn loài ấy, ai biết sắc đẹp nào là chính sắc trong thiên hạ?”
=> Không có chỗ nào là chỗ hợp dùng chung cho mọi vật. Mọi vật thuận theo chỗ hợp của mình
"Xưa Trang Chu chiêm bao thấy mình là bướm, vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không còn biết có Chu nữa. Chợt tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu?”
=> Sự hỗn hợp giữa Ta (Trang Chu) và Vật (con bướm) hồn nhiên đến không thể biết đâu là thực, đâu là mộng. Và như vậy, mộng cũng là thực, thực cũng là mộng, Ta cũng là Vật, Vật cũng là Ta. Ta và Vật là một, cùng bình đẳng như nhau.
Tề vật & Tề thị phi
+ không nên phân biệt lớn & nhỏ + không nên phân biệt thọ & yểu + không nên phân biệt quý & tiện + không nên phân biệt hữu dụng & vô dụng (cid:222) Quan điểm “tương đối chủ nghĩa”
“Giả sử trong tranh luận, anh thắng và tôi thua, như vậy có phải anh đúng còn tôi sai không?”
3. ẢNH HƯỞNG TRONG VĂN HỌC
- Lối viết giàu hình tượng
- Cách diễn đạt “ý tại ngôn ngoại”
- Phong thái sống cầu nhàn, tiêu dao, gần
- Tư tưởng tự do tuyệt đối về tinh thần
gũi với thiên nhiên
Thuyên giả sở dĩ tại ngư,
Đắc ngư nhi vong thuyền.
Đề giả sở dĩ tại thố,
Đắc thố nhi vong đề.
Ngôn giả sở dĩ tại ý,
Đắc ý nhi vong ngôn.
Ngô an đắc phù vong ngôn chi nhân,
Nhi dữ chi ngôn tai.
(Ngoại vật)
=> “Ngôn tại ý ngoại” (“Ý ở ngoài lời”, “Đừng chấp lời, mà hãy tìm ý”)
«Có nơm là vì cá,
Được cá hãy quên nơm.
Có dò là vì thỏ,
Được thỏ hãy quên dò.
Có lời là vì ý,
Được ý hãy quên lời.
Ta tìm đâu được người biết quên lời
Hầu cùng nhau đàm luận.»
- Chi ngôn (gặp đâu nói đó)
- Trùng ngôn (Gán lời mình cho một nhân
vật lịch sử nào)
- Ngụ ngôn (Nói bằng thí dụ, sự tích, bóng
gió, như trong chương Thiên hạ, )
• Trang Tử có ảnh hưởng quan trọng trong thời kỳ Ngụy Tấn từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 5 công nguyên, được mệnh danh là “Tam Huyền” cùng với “chu dị” và “Lão tử”, có vị thế quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Trang Tử chính thức trở thành một trong những kinh điển đạo giáo trong đời nhà Đường <618- 907>.
•
Kết luận về Trang Tử
Sự ảnh hưởng của Trang Tử đối với người đời sau không những thể hiện trong tư tưởng triết học độc đáo của ông mà còn biểu hiện trong văn học. Chủ trương chính trị và tư
tưởng triết học của ông không phải là giáo
điều khô khan, mà ngược lại đều là những
mẩu chuyện ngụ ngôn sinh động, tế nhị,
những chuyện ngụ ngôn này thể hiện sức
tưởng tượng siêu phàm, tạo nên hình tượng
độc đáo, có sức hấp dẫn vô biên.