
ỨNG
ĐỤNG
LÝTHUYÊT
NGÔN
NGỮ
HỌC
VÀO
VIỆC
DẠY
PHÁT
ÂM
TIẾNG
VIỆT
CHO
NGƯỜI
Nước
NGOÀI:
CÁC
PHỤ
ÂM
/M/,
/N/,
/r/,
//y/,
/p/,
/T/,
/K/,
/c/
Nguyễn
Thị
Thu
Hương
1
Tóm
tắt:
Tiếng
Việt
thuộc
nhóm
loại
hình
ngôn
ngữ
đơn
lộp,
có
đặc
trưng
âm
tiết
với
sáu
thanh
điệu.
Đặc
trưng
này
thực
sự
là
rào
cản
cho
người
nước
ngoài
học
tiêhg
Việt
trong
giai
đoạn
đáu,
đặc
biệt
lờ
người
học
đến
từ
những
quốc
gia
nói
ngôn
ngữ
thuộc
nhóm
loại
hình
khác
như
hòa
kết,
chắp
dính.
Tuy
nhiên,
vượt
qua
giai
đoạn
này,
người
học
sẽ
nhận
thấy
sự
nhất
quán
trong
cách
hợp
ván,
phát
âm
của
tiếng
Việt
thực
ra
là
một
điểm
thuận
lợi.
Ảm
tiết
tiếng
Việt
ở
dạng
đẩy
đủ
có
cấu
trúc
chặt
chẽ
bao
gồm
phụ
âm
đáu
và
vắn,
ván
lại
bao
gồm
âm
đệm,
nguyên
âm
chính
và
âm
cuối.
Người
học
học
phát
âm
từng
hệ
thống
âm
vị
theo
vị
trí
và
chức
năng
mà
chúng
đảm
nhiệm
trong
cấu
trúc
âm
tiết
chứ
không
học
theo
hai
hệ
thống
nguyên
âm
và
phụ
ám
như
khi
học
các
ngôn
ngữ
Anh,
Pháp.
..
Để
giúp
học
viên
nước
ngoài
có
thể
nhận
diện
và
phát
âm
chính
xác,
người
dạy
cẩn
có
các
kiến
thức
lý
thuyết
ngôn
ngữ
học
nói
chung,
ngữ
âm
học
nói
riêng.
Bài
viết
này
đề
cập
tới
vấn
để
vận
dụng
lý
thuyết
ngữ
âm
học
vào
việc
dạy
các
phụ
âm
ỉm/,
/n/,
/fì/,
/t}/,
/p/,
/tỉ,
/k/,
/c/trong
tiếng
Việt
cho
người
nước
ngoài.
Lý
do
lựa
chọn
danh
sách
phụ
âm
này
là
vì
chúng
có
thể
xuất
hiện
cả
ở
vị
trí
đầu
và
vị
trí
cuối
âm
tiết
và
có
sự
trùng
lặp
vể
kỷ
tự,
dễ
gây
ra
sự
nhám
lẫn
cho
người
học.
Từ
khóa:
Ngữ
âm
học,
âm
vị,
phương
thức
cấu
âm,
vị
trí
cấu
âm,
vần,
phụ
âm
đầu,
phụ
âm
cuối.
APPLYING
LINGUISTIC
THEORIES
TO
TEACH
VIETNAMESE
PRONUNCIATION
TO
ÍOREIGNERS:
THE
CONSONANTS
/M/,
/N/
z
/p/,
/iy/,
/p/,
/T/,
/K/,
/ơ
Abstract:
Vietnamese
belongs
to
the
group
of
isolated
languages,
characterized
by
syllables
with
six
tones.
This
íeature
is
really
a
barrier
for
toreigners
to
learn
Vietnamese
in
the
early
stages,
especially
learners
from
countries
thatspeak
languages
oíother
types
such
as
fusion
and
fusion.
Hovvever,
passing
this
stage,
learners
will
hnd
that
the
consistency
in
Vietnamese
rhyme
and
pronunciation
is
actually
an
advantage.
Vietnamese
syllables
in
full
form
have
a
tight
structure
including
First
Consonant
and
Rhythm,
and
Rhythm
consists
oíAccompaniment,
Ma
in
Vowel
and
End
sound.
Learners
learn
to
pronounce
each
phoneme
system
according
to
the
position
and
tunctìon
that
they
períorm
in
the
syllable
structure,
not
in
the
two
systems
of
Vowels
and
Consonants
like
when
learning
English,
French,
etc.
To
help
learning,
toreign
teachers
can
identify
andpronounce
correctly,
teachers
need
to
have
theoretical
knovvledge
of
linguistics
in
general
and
phonetics
in
partỉcular.
This
article
deals
with
the
application
ofphonolôgical
theory
in
teaching
the
consonants
m,
n,
nh,
ng,
p,
t,
c,
ch
in
Vietnamese
to
íoreigners.
The
reason
for
choosing
this
list
ofconsonants
is
because
they
can
appear
both
at
the
beginning
and
at
the
end
oíthe
syllable
and
have
overlapping
characters,
easily
causing
confusion
for
learners.
Keyvvords:
Phonetics,
Phoneme,
Mannerotarticulation,
Place
ofarticulation,
Rhyme,
Initial,
Final
consonants.
1.
MỞ
ĐẦU
Có
không
ít
người
quan
niệm
rằng
những
người
thông
thạo
một
ngôn
ngữ,
đặc
biệt
nếu
ngôn
ngữ
ấy
là
tiêng
mẹ
đẻ,
cùng
với
một
ít
tô
chât
sư
phạm
và
phưong
pháp
sư
phạm
đêu
có
thể
trở
thành
người
dạy
tiếng.
Quan
niệm
ây
cũng
được
áp
dụng
cho
lĩnh
vực
dạy
tiêng
Việt
Trường
Đại
học
Ngoại
ngừ
-
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội,
Email:
nguyenhuongbr369@gmail.com
.

KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cứu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌC
TẠI
VIỆT
NAM
189
cho
người
nước
ngoài.
Tuy
nhiên,
tác
giả
Nguyễn
Thiện
Nam
đã
nêu
ra
bảy
tiêu
chí
mà
một
giáo
viên
dạy
tiếng
Việt
cho
người
nước
ngoài
cần
đạt
được,
trong
đó,
tiêu
chí
thứ
hai
là:
có
tri
thức
chung
về
ngôn
ngữ
và
ngôn
ngữ
học,
tiêu
chí
thứ
ba
là:
có
tri
thức
cơ
bản
về
thứ
tiếng
mình
dạy,
ở
đây
là
tiếng
Việt
(bao
gồm
lịch
sử,
ngữ
âm,
từ
vựng,
ngữ
pháp
và
cả
ngữ
dụng
của
tiếng
Việt)
(Nguyễn
Thiện
Nam,
2018).
Tiêu
chí
thứ
3
được
tác
giả
đánh
giá
là
tiêu
chí
then
chốt,
người
dạy
cần
nắm
vững
các
bình
diện
lịch
sử,
ngữ
âm,
ngữ
pháp,
ngữ
dụng
của
tiếng
Việt.
Các
mặt
ngữ
âm,
từ
vựng,
ngữ
pháp
phải
là
kiến
thức
lõi
nhưng
mang
tính
thực
hành
(Nguyễn
Thiện
Nam,
2018).
Qua
đó,
ta
thấy
vai
trò
to
lớn
của
các
kiến
thức
ngôn
ngữ
học
và
Việt
ngữ
học
đối
với
quá
trình
dạy
-
học
tiếng
Việt
như
một
ngoại
ngữ
nói
chung
và
việc
dạy
phát
âm
tiếng
Việt
nói
riêng.
Đặc
biệt
trong
bổi
cảnh
tiếng
Việt
là
ngôn
ngữ
đơn
tiết
tính,
phát
âm
âm
tiết
một
cách
độc
lập
và
trọn
vẹn,
khác
với
đa
số
các
ngôn
ngữ
phổ
biến
khác
(ngoại
trừ
tiếng
Trung
Quốc).
Hệ
thống
âm
vị
tiếng
Việt
không
chỉ
được
chia
ra
làm
hai
tiểu
hệ
thống
là
nguyên
âm
và
Phụ
âm
mà
được
chia
thành
năm
tiểu
hệ
thống
theo
vị
trí
và
chức
nãng
mà
chúng
đảm
nhiệm
trong
âm
tiết,
và
chúng
kết
hợp
với
nhau
một
cách
chặt
chẽ,
trọn
vẹn
theo
quy
luật
để
tạo
ra
các
vần,
âm
tiết,
hình
tiết
từ
đó
tạo
thành
từ,
câu
trong
giao
tiếp.
Trong
mối
quan
hệ
với
chữ
viết,
chúng
-
các
âm
vị
tiếng
Việt
cũng
tồn
tại
những
bất
hợp
lý
có
tính
lịch
sử.
Một
số
âm
vị
xuất
hiện
được
ở
cả
hai
vị
trí
trong
thành
phần
âm
tiết.
Điều
này
đòi
hỏi
người
dạy
phải
vận
dụng
kiến
thức
ngữ
âm
học
một
cách
linh
hoạt
và
sáng
tạo
để
người
học
có
thể
nhận
diện
và
phát
âm
chính
xác.
Trong
bài
nghiên
cứu
này,
người
viết
chọn
đề
cập
đến
8
âm
vị
/m/,
/n/,
/p/,
/ỉj/,
/p/,
/t/,
/k/,
/c/.
Đây
là
những
âm
vị
về
cơ
bản
xuất
hiện
ở
cả
vị
trí
đầu
và
vị
trí
cuối
trong
cấu
trúc
âm
tiết,
có
sự
trùng
lặp
về
kí
tự
nhưng
cơ
chế
phát
âm
khác
nhau,
gây
ra
những
khó
khăn
nhất
định
cho
người
học.
Miêu
tả
âm
vị
học
và
chỉ
ra
sự
giống
khác
trong
cơ
chế
phát
âm
các
âm
vị
trong
nhóm
này,
đồng
thời
khái
quát
những
lỗi
người
học
thường
mắc
phải
để
vận
dụng
kiến
thức
ngôn
ngữ
học,
kết
hợp
linh
hoạt
với
các
thủ
pháp
dạy
phát
âm
khác
là
việc
làm
cân
thiêt
đế
giúp
người
dạy
và
người
học
tiếp
cận
với
các
âm
trong
nhóm
nói
riêng
và
phát
âm
tiếng
Việt
nói
chung
dễ
dàng
hơn.
2.
TỔNG
QUAN
VÊ'
ÂM
TIẾT
VÀ
cơ
CHÊ
PHÁT
ẲM
ÂM
TIẾT
TIẾNG
VIỆT
2.1.
Cấu
trúc
âm
tiết
tiếng
Việt
Như
đã
trình
bày
ở
trên,
mỗi
âm
vị
đều
đảm
nhiệm
một
vị
trí
cụ
thể
trong
cấu
trúc
âm
tiết
tiêng
Việt.
Ở
dạng
đầy
đủ
nhất,
âm
tiết
tiếng
Việt
gồm
các
thành
phần:
Bảng
1:
cấu
trúc
âm
tiết
tiếng
Việt
THANH
ĐIỆU
PHỤ
ÂM
ĐẨU
VẦN
Âm
đệm
Âm
chínli
1
Â111
cuối
Mặc
dù
còn
có
sự
khác
nhau
trong
xác
định
số
lượng
âm
vị
tiếng
Việt,
nhưng
đa
số
các
nhà
ngôn
ngữ
học
đều
chấp
nhận
số
lượng
âm
vị
như
sau:
-
Hệ
thống
âm
đầu
gồm
có
22
âm
vị,
tất
cả
là
phụ
âm,
có
chức
năng
mở
đầu
âm
tiết.

190
KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cứu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
-
Hệ
thống
âm
đệm
có
1
âm
vị
bán
nguyên
âm,
có
chức
năng
làm
trầm
hóa
âm
tiết.
-
Hệ
thống
âm
chính
có
13
nguyên
âm
đơn
và
3
nguyên
âm
đôi,
là
thành
phần
có
chức
năng
quyết
định
âm
sắc
chủ
yếu
của
âm
tiết.
-
Hệ
thống
âm
cuối
có
6
phụ
âm
và
2
bán
nguyên
âm,
đảm
nhiệm
chức
năng
kết
thúc
âm
tiết.
-
Hệ
thống
thanh
điệu
gồm
6
thanh,
phân
biệt
các
âm
tiết
với
nhau
về
cao
độ.
(Mai
Ngọc
Chừ,
Vũ
Đức
Nghiêu
Hoàng
Trọng
Phiến
(2009).
Căn
cứ
vào
cách
kết
thúc
âm
tiết
tiếng
Việt
được
chia
thành
4
loại
là
âm
tiết
mở
(kết
thúc
ờ
đỉnh
như
/vo/,/ve/),
âm
tiết
nửa
mở
(kết
thúc
bằng
bán
âm
/u/,
/i/),
âm
tiết
nửa
khép
(kết
thúc
bằng
các
phụ
âm
vang
/m/,
/n/,
âm
tiết
khép
(kết
thúc
bằng
các
phụ
âm
tắc
/p/,
/t/,
/k/).
2.2.
Cơ
CHÊ
PHÁT
ÂM
ÂM
TIẾT
TIẾNG
VIỆT
về
phương
diện
phát
âm,
âm
tiết
có
tính
chất
toàn
vẹn
không
thể
phân
chia
được
là
vì
nó
được
phát
âm
bằng
một
đợt
căng
của
cơ
thịt
của
bộ
máy
phát
âm.
Cứ
mỗi
lần
bộ
máy
phát
âm
căng
lên
rồi
chùng
xuống
là
ta
có
một
âm
tiết.
Đẻ
phát
âm
một
âm
tiết,
bộ
máy
phát
âm
phải
trải
qua
ba
giai
đoạn:
bắt
đầu
tăng
cường
độ
căng
(1),
đỉnh
điểm
độ
căng
(2)
và
giảm
độ
căng
(3).
Ba
giai
đoạn
ấy
được
biểu
diễn
bàng
sơ
đồ
hình
sin
như
sau:
2
2
Ranh
giới
âm
tiết
3
Như
vậy,
để
phát
âm
chính
xác
một
âm
tiết
tiếng
Việt,
người
học
cùng
lúc
phải:
mở
đầu
âm
tiết
chính
xác
(vị
trí
1)
+
tạo
hình
khuôn
miệng
và
chỉnh
vị
trí
lưỡi
để
tạo
nguyên
âm
chính
chính
xác
(vị
trí
2)
+
đặt
một
bộ
phận
của
bộ
máy
phát
âm
vào
vị
trí
kết
thúc
chính
xác
(vị
trí
3)
+
đồng
thời
thay
đổi
cao
độ
cho
cả
khúc
đoạn
âm
thanh.
Phưong
pháp
dạy
phát
âm
truyền
thống,
theo
cách
dạy
trẻ
em
Việt
Nam
học
phát
âm
viết
chính
tả
là
ghép
từng
âm
vị
thành
âm
tiết.
Ví
dụ:
“
o
+
a
+
n
=
oan
+
tờ
+
oan
=
toan
+
sác
=
toán
”
.
Phương
pháp
dạy
hiện
đại
là
dạy
ghép
phụ
âm
đầu
với
vần
và
thay
đổi
cao
độ.
Ví
dụ
“
t
+
oán
=
toán
”
.
Phương
pháp
mới
này
gần
gũi
với
khoa
học
ngữ
âm
hơn,
tuy
nhiên,
cũng
tồn
tại
một
số
khó
khăn
mà
bài
viết
sẽ
đề
cập
ở
phần
sau
với
những
âm
vị
được
lựa
chọn
miêu
tả.
III.
MIÊU
TẢ
ÂM
VỊ
HỌC
CÁC
ÂM
/M/
z
/N/,
/p/,
//y/,
/p/
z
/T/
z
/K/
z
/ợ
3.1.
Các
phụ
âm
xuất
hiện
ở
vị
trí
âm
đầu
Trừ
âm
vị
/p/
không
được
đưa
vào
danh
sách
âm
đầu
tiếng
Việt
(do
nó
chỉ
xuất
hiện
ở
các
từ
vay
mượn
nước
ngoài
hoặc
một
vài
từ
tiêng
địa
phương
hiêm
gặp)
thì
7
âm
còn
lại
đêu
xuât
hiện
ở
vị
trí
âm
đầu.

KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cứu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
191
Bảng
2:
Phụ
âm
đầu
tiếng
Việt
V
ị
tú
Phưoìigthửc
Môi
Đẩu
lưổi
Mặt
hrối
Gốc
lưỡi
Thanh
hầu
bẹt
quặt
Tắc
òn
Bật
hỡi
t
’
Không
bậthoi
Vô
thanh
t
t
c
k
?
Hữu
thanh
b
d
Vang
m
n
Ị)
Xát
ồn
Vô
thanh
f
s
X
h
Hữu
thanh
V
z
V
Vang
1
8.1
Âm
vị
/m/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tác
-
vang,
vị
trí
cấu
âm
môi
-
môi,
chữ
viết
thể
hiện
là
777,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
m
hoặc
em
mờ.
8.2
Âm
vị
/n/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tắc
-
vang,
vị
trí
cấu
âm
đầu
lưỡi
bẹt,
chữ
viết
thể
hiện
là
77,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
77,
hoặc
en
nờ.
8.3
Âm
vị
/p/được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tác
-
vang,
vị
trí
cấu
âm
mặt
lười,
chữ
viết
thể
hiện
là
nh,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
nhờ.
8.4
Âm
vị
/ì]/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tắc
-
vang,
vị
trí
cấu
âm
gốc
lười,
chữ
viết
thể
hiện
là
ngh
khi
sau
nó
là
i,
e,
ê;
là
ng
khi
đi
với
các
nguyên
âm
còn
lại,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
ngờ
kép
hoặc
ngờ
đơn.
Bốn
âm
vị
này
có
cùng
phương
thức
phát
âm,
trong
đó
/p/
và
/ìj/
có
vị
trí
cấu
âm
khá
gần
nhau
dễ
gây
nhầm
lẫn.
8.5
Âm
vị
/t/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tắc
-
vô
thanh,
vị
trí
cấu
âm
đầu
lưỡi
-
bẹt,
chữ
viết
thể
hiện
là
/,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
tờ
hoặc
tê.
8.6
Âm
vị
/k/
được
tạo
thành
bời
phương
thức
tắc
-
vô
thanh,
vị
trí
cấu
âm
gốc
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
k
khi
sau
nó
là
i,
e,
ê;
là
c
khi
đi
với
các
nguyên
âm
còn
lại;
là
q
nếu
sau
nó
là
bán
âm
u,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
k,
chữ
cờ
hoặc
chữ
xể,
chữ
quy
hoặc
quờ.
8.7
Âm
vị
/c/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
tắc
-
vô
thanh,
vị
trí
cấu
âm
mặt
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
ch,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
chờ.
Hai
âm
vị
/k/
và
/c/
có
cùng
phương
thức
phát
âm,
trong
đó
/p/
và
/ỉ]/
có
vị
trí
cấu
âm
khả
gần
nhau
dễ
gây
nhầm
lẫn.
3.2.
Các
phụ
âm
cuối
Danh
sách
âm
cuối
tiếng
Việt
có
8
âm,
bao
gồm
6
phụ
âm
và
2
bán
nguyên
âm.
Hai
bán
âm
/u/
/i/,
mỗi
bán
âm
được
thể
hiện
bàng
hai
con
chữ
u,
o
và
i,
y.
Hai
bán
âm
này
làm
thay
đổi
hình
dạng
và
âm
sác
của
nguyên
âm
chính.
Sáu
phụ
âm
là
/m/,
/n/,
/ỉ]/,
/p/,
/t/,
/k/.

192
KỶ
YỂU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cứu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGƠ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
Bảng
3:
Âm
cuối
tiếng
Việt
^__Vịtrí
Phương
Mỏi
Lười
Đầu
lười
Gốc
lười
Ổn
/p/
/V
Vang
Mùi
/m/
/n/
Kliồng
mũi
/-u/
/-Í/
8.8
Âm
vị
/-p/
được
tạo
thành
bời
phương
thức
ồn,
vị
trí
cấu
âm
môi,
chữ
viết
thể
hiện
là
p,
đọc
tên
chừ
viết
là
chữ
pờ.
Ẩm
cuối
/p/
có
thể
đi
sau
tất
cả
âm
chính
trừ
âm
ư.
8.9
Âm
vị
/-t/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
ồn,
vị
trí
cấu
âm
đầu
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
r,
đọc
tên
chữ
viết
là
chừ
tờ
hoặc
chữ
tê.
8.10
Âm
vị
/-m/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
mũi,
vị
trí
cấu
âm
môi,
chữ
viết
thể
hiện
là
727,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
mờ
hoặc
chữ
em
mờ.
8.11
Âm
vị
/-n/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
mũi,
vị
trí
cấu
âm
đầu
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
77,
đọc
tên
chữ
viết
là
chữ
nờ
hoặc
chữ
en
nờ.
8.12
Âm
vị
/-#/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
mũi,
vị
trí
cấu
âm
gốc
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
nh
nếu
đi
sau
âm
chính
i,
ê,
e
ngắn
và
được
phát
âm
thành
/p/(xinh,
bệnh,
canh.
..);
nếu
đi
sau
u,
ô,
o
được
viết
là
ng
và
phát
âm
(trong,
cùng,
hồng.
..);
đi
sau
các
nguyên
a,
ă,
â,
e,
u,
ư,
ie,
ươ-uô
được
viết
và
phát
âm
thành
ng
(sáng,
hàng,
leng
keng,
phùng,
tiếng,
thương.
..)
8.13
Âm
vị
/-k/
được
tạo
thành
bởi
phương
thức
ồn,
vị
trí
cấu
âm
gốc
lưỡi,
chữ
viết
thể
hiện
là
ch,
phát
âm
là
[k]
nếu
đi
sau
i,
ê,
e
ngắn
(lịch,
xếch,
sách);
nếu
đi
sau
u,
ô,
o
ngắn
được
viết
thành
c,
phát
âm
[k
p
]
(xúc,
cốc,
học);
được
viết
là
c,
phát
âm
[k]
nếu
đi
sau
các
nguyên
âm
còn
lại
(nấc,
bẳc,
được,
cuốc...)
Ba
âm
vị
/-k/,
/-p/,
/-t/
chỉ
đi
với
2
thanh
sác
và
nặng,
không
đi
cùng
các
thanh
khác.
Nói
chung
các
phụ
âm
cuối
đều
phân
bố
sau
tất
cả
các
âm
chính,
trừ
một
số
trường
hợp
là
ng,
k
không
đi
sau
ơ;
/-m/,
/-p/
không
đi
sau
ư,
o
ngắn,
e
ngắn;
/-n/,
/-t/
không
đi
sau
e
ngắn,
o
ngắn.
Như
vậy
sau
e
ngán,
o
ngắn
chỉ
có
thể
là
I-1]I
hoặc
/-k/
(trong
các
vần
anh
ách,
ong,
oc).
3.3.
Sự
khác
biệt
giữa
phát
âm
cùng
một
âm
vị
nhưng
ở
hai
vị
trí
khác
nhau
Sự
phân
bổ
vị
trí
âm
đầu
và
vị
trí
âm
cuối
của
các
phụ
âm
trong
danh
sách
trên
là:
Bảng
4:
Phân
bổ
vị
trí
âm
đầu
và
ấm
cuối
Âm
đầu
-
chữ
viết
Âm
cuối
-
chữ
viết
Âm
đầu
-
chừ
viết
Âm
cuối
-
chừ
viết
/m/
-
m
/-m/
-
m
/ng/
-
ng,
ngh
/-ng/
-
ng,
nh
/n/
-
n
/-n/
-
n
/k/
-
k,
c,
q
/-k/
-
c,
ch
/t/-t
/-ư-t
/nh/
-
nh
-
-
/-p/
-
p
/ch/
-ch
-
Tất
cả
phụ
âm
ở
vị
trí
đầu
đều
là
âm
phát
âm
mở
trong
khi
tất
cả
các
phụ
âm
cuối
đều
là
nhừng
phụ
âm
đóng.