
HỆ 2
LỚP K7A03 CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI THU HOẠCH
Chủ đề: Quá trình hình thành, phát triển và
thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính quyền
địa phương ở Việt Nam. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề đối với người cán bộ trong
quân đội
Học phần: Nhà nước và Pháp luật
Ngày viết: 19/6/2024
Ngày nộp: 26/6/2024
BÀI THU HOẠCH
Họ và tên: ĐỖ QUỐC HÙNG
Ngày, tháng, năm sinh: 06/11/1987
Lớp: K7A03 Cao cấp lý luận chính trị Khóa: 07
Môn: Nhà nước và Pháp luật
Ngày viết: 19/6/2024
Ngày nộp: 26/6/2024
Người chấm
(Ký, ghi rõ họ tên)
Số phách
Điểm Số phách
Bằng số Bằng chữ

2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 4-12
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM 4-6
1. Giai đoạn 1945 - 1960 4
2. Giai đoạn 1960 - 1980 4-5
3. Giai đoạn 1980 - 1992 5
4. Giai đoạn 1992 - 2013 5-6
5. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay 6
II. THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM 6-9
1. Thành tựu đạt được 6-8
2. Hạn chế và nguyên nhân 8-9
2.1 Hạn chế 8-9
2.2 Một số nguyên nhân của những hạn chế 9

3
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÁN BỘ TRONG QUÂN ĐỘI 10-12
1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề đối với người cán bộ trong
Quân đội 10-12
2. Trách nhiệm của bản thân 12
KẾT LUẬN 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” ở Việt Nam ở nước ta được sử
dụng tương đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của Đảng cũng như các
văn bản pháp luật của Nhà nước. Thuật ngữ này được sử dụng chính thức ở tầm
hiến định và được quy định thành một chương riêng tại Chương IX, Hiến pháp
năm 2013.
Chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành, gắn bó hữu cơ của
chính quyền Nhà nước, bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, thực
hiện chức năng quản lý và quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ của địa
phương theo quy định của pháp luật, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích của
Nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước. Chính quyền địa phương là
chính quyền gần dân, trực tiếp thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân
dân.
Chính quyền địa phương ở Việt Nam là hình thức pháp lý mà thông qua
đó Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương. Tổ chức bộ máy
của chính quyền địa phương do Nhân dân địa phương, bằng hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp, thành lập ra để tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ở địa
phương. Chính quyền địa phương vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan Nhà nước
cấp trên, vừa chịu trách nhiệm trước cử tri và Nhân dân ở địa phương.
Nhằm hướng đến nền công vụ phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, hiện
đại, hiệu lực, hiệu quả; thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản
lý, điều hành của Nhà nước, chính quyền địa phương ở Việt Nam ngày càng
được củng cố, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức hoạt động của
bộ máy Nhà nước ta trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đây là nội
dung quan trọng trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

4
Quá trình hình thành phát triển và thực tiễn tổ chức hoạt động của chính
quyền địa phương ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được
hoàn thiện, đổi mới tổ chức và hoạt động nhằm triển khai chất lượng, hiệu quả
hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do trên, bài thu hoạch tôi tập trung làm rõ nội dung:
“Quá trình hình thành, phát triển và thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính
quyền địa phương ở Việt Nam. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề đối với
người cán bộ trong quân đội”.
NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM
1. Giai đoạn 1945 - 1960
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình xây dựng chính quyền sau khi đất
nước độc lập. Giai đoạn này có sự phân biệt tương đối rõ giữa chính quyền nông
thôn và chính quyền đô thị; cấp huyện là cấp trung gian, không có Hội đồng
nhân dân, trong khi vai trò của Ủy ban hành chính được đề cao, tổ chức bộ máy
gọn, nhẹ. Ngày 09/11/1946, Quốc hội chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hiến pháp đã kế thừa, khẳng định
mô hình tổ chức chính quyền địa phương được ghi nhận tại hai Sắc lệnh: Sắc
lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945.
Trong Hiến pháp năm 1946, từ Điều 57 đến Điều 62 của Chương V quy
định về tổ chức chính quyền địa phương. Theo Điều 57 của Hiến pháp thì đơn vị
hành chính cả nước có ba bộ là: Bắc, Trung, Nam; mỗi bộ chia thành các tỉnh,
mỗi tỉnh thì chia thành các huyện, mỗi huyện chia thành các xã. Ở các tỉnh,
thành phố, thị xã, xã có Hội đồng nhân dân do phổ thông đầu phiếu và trực tiếp
bầu ra.
2. Giai đoạn 1960 - 1980
Trong giai đoạn 1960 - 1980, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương bảo đảm vừa xây dựng kinh tế, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, vừa thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam; thể hiện rõ
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa; không có sự phân biệt chính quyền đô
thị và nông thôn nhưng ở các khu vực miền núi có nhiều dân tộc thiểu số sinh

5
sống được thành lập các khu tự trị; cơ cấu tổ chức có xu hướng tăng mạnh so với
trước đây. Giai đoạn này, nước chia thành các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực
thuộc Trung ương; tỉnh thì chia thành các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
huyện chia thành các xã, thị trấn; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành
các khu phố. Mỗi đơn vị hành chính đều tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính; Ủy ban hành chính do Hội đồng nhân dân cấp đó bầu ra.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính các cấp năm 1962 quy định tại Điều 1: “Các thành phố có
thể chia thành khu phố ở nội thành và huyện ở ngoại thành; các đơn vị hành
chính kể trên đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính”. Pháp luật phân
định rõ ràng mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị và chính quyền
địa phương ở nông thôn.
Cả Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính các cấp năm 1962 đều khẳng định rằng Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương; Ủy ban hành chính được xác định là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính của
Nhà nước ở địa phương. Những quy định này đề cao vị trí và vai trò của Hội
đồng nhân dân trước Ủy ban hành chính cùng cấp và trong hệ thống các cơ quan
Nhà nước; bên cạnh đó thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa,
quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Từ năm 1974, theo Quyết định số 78-CP ngày 10/4/1974 của Hội đồng
Chính phủ, các khu phố của thành phố Hà Nội và Hải Phòng được chia ra nhiều
khu nhỏ gọi là tiểu khu, với quy mô từ 2.000 đến 5.000 nhân khẩu.
3. Giai đoạn 1980 - 1992
Hiến pháp năm 1980 quy định các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương; tỉnh chia
thành các huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc Trung
ương chia thành các quận, huyện và thị xã; huyện chia thành các xã và thị trấn;
thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành các phường và xã; quận chia thành các
phường. Các đơn vị hành chính đó đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân.
Đây là giai đoạn tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước; với
đặc trưng là việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo mô
hình của Liên xô trước đây. Triệt để tuân thủ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa, tổ chức chính quyền ở các cấp cơ bản giống nhau. Các cơ quan do Nhân
dân trực tiếp bầu ra mới được thừa nhận là cơ quan quyền lực Nhà nước. Chính