252 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
BẮT ĐẦU ĐIỀU TRỊ ARV MUỘN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI NHIỄM HIV ĐIỀU TRỊ ARV TẠI TỈNH KN GIANG
TỪ NĂM 2018 - 2019
Giang Văn Kiên1*, Nguyễn Đức Thuận1, Thị Lợt1, Phạm Đức Mạnh2, Hải Sơn2,
Bùi Hoàng Đức2, Phan Thị Khánh Ly2, Nguyễn Hoàng Minh3
1Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Kiên Giang
2Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, Hà Nội
3Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
TÓM TẮT
Bắt đầu điều trị ARV muộn (BĐARVM) ở người nhiễm HIV làm giảm hiệu quả điều trị, gia tăng tỷ lệ tử vong
và nguy cơ lây nhiễm bệnh cho cộng đồng. Do vậy, nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ BĐARVM và mô
tả một số yếu tố liên quan đến BĐARVM ở người nhiễm HIV. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu mô tả
cắt ngang ở 279 người nhiễm HIV bắt đầu điều trị ARV từ 01/2018 đến 06/2019 tại 10 phòng khám ngoại
trú HIV Kiên Giang. Biến BĐARVM được phân loại những người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng
III hoặc IV theo WHO tại thời điểm lần đầu tiên đến sở điều trị. hình hồi quy logistic đa biến được
sử dụng để khám phá các yếu tố liên quan đến BĐARVM. Kết quả cho thấy tỷ lệ BĐARVM là 29,4%. Việc
BĐARVM khả năng xảy ra cao hơn người nhiễm HIV bị thiếu cân (ORHC: 3,65; 95%KTC: 1,92 - 6,93),
và có quan hệ tình dục (QHTD) khác giới (ORHC: 2,36; 95%KTC: 1,05 - 5,33). Nghiên cứu này cho thấy
tỷ lệ BĐARVM ở Kiên Giang tương đối cao. Các chương trình can thiệp cần tăng cường truyền thông,
vấn cho người nhiễm HIV có yếu tố nguy cơ cao như QHTD khác giới để họ tham gia điều trị ARV sớm, từ
đó giúp làm giảm tỷ lệ BĐARVM tại Kiên Giang.
Từ khóa: Bắt đầu điều trị ARV muộn; HIV; Kiên Giang; thiếu cân; quan hệ tình dục khác giới
Ngày nhận bài: 24/10/2022
Ngày phản biện: 08/11/2022
Ngày đăng bài: 08/12/2022
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch HIV/AIDS vẫn đang một vấn đề
sức khỏe đáng lo ngại Việt Nam [1], với
số người sống chung với HIV được ước tính
khoảng 230.000 người, hơn 7000 ca nhiễm
mới, 6000 ca tử vong do HIV năm 2019
[2]. Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam tập trung chủ
yếu ở các nhóm đối tượng đích bao gồm người
tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm, nam
quan hệ tình dục (QHTD) đồng giới. Việt Nam
đã đang phấn đấu đạt mục tiêu toàn cầu
90-90-90 của tổ chức UNAIDS để tiến tới kết
thúc dịch bệnh HIV/AIDS vào năm 2030 [3].
Các mục tiêu này phản ánh sự thay đổi quan
trọng trong cách tiếp cận điều trị HIV của thế
giới theo hướng tối đa hóa việc ức chế vi rút
những người nhiễm HIV. Điều trị kháng vi rút
ARV hiện được khuyến nghị cho tất cả những
người nhiễm HIV để ngăn ngừa các bệnh liên
quan đến AIDS giảm nguy lây nhiễm
cho cộng đồng.
Điều trị ARV sớm ngay khi phát hiện nhiễm
HIV mang lại những lợi ích to lớn cho người
bệnh giúp người họ hồi phục được hệ thống
miễn dịch, đóng vai trò quan trọng trong
sự thành công của điều trị HIV [4, 5]. Mặc
các chương trình phòng chống HIV/AIDS
luôn đẩy mạnh việc thúc đẩy việc kết nối điều
trị sớm cho người nhiễm HIV ngay khi được
chẩn đoán, nhiều người nhiễm HIV chỉ đến
*Tác gi: Giang Văn Kiên
Địa chỉ: Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Kiên Giang
Điện thoại: 0913 638 867
Email: thanhnguyen06kg@gmail.com
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/906
253Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
sở y tế để bắt đầu điều trị ARV khi bệnh đã
giai đoạn lâm sàng muộn (giai đoạn III hoặc
IV theo WHO) [6]. Các nghiên cứu trước đây
chỉ ra rằng việc bắt đầu điều trị ARV muộn
(BĐARVM) thể làm giảm hiệu quả điều
trị, tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng
hội tử vong, từ đó làm tăng chi phí khám,
chữa bệnh, gánh nặng kinh tế cho gia đình
[5, 7, 8]. Ngoài ra, BĐARVM muộn còn làm
tăng nguy cơ lây lan HIV sang người thân (vợ,
bạn tình, con cái) cộng đồng [4, 9]. vậy,
việc xác định tỷ lệ các yếu tố liên quan đến
việc bắt đầu điều trị ARV giai đoạn muộn
cùng quan trọng cho việc xây dựng các
chiến lược can thiệp, truyền thông vấn kết
nối điều trị phù hợp hơn cho người nhiễm HIV.
Một số yếu tố liên quan đến việc bắt đầu điều
trị ARV muộn đã được nghiên cứu trước đây
người nhiễm HIV như các yếu tố nhân khẩu
học (tuổi, giới, hôn nhân, trình độ văn hóa) [10
- 12], BMI, đường lây truyền, bệnh hội đi
kèm [13 - 15], do xét nghiệm sở xét
nghiệm khẳng định HIV [10, 12].
Hiện nay, toàn tỉnh Kiên Giang có 10 phòng
điều trị ngoại trú HIV, 8/15 huyện, thành phố.
Tính đến hết năm 2021, 91,8% người nhiễm
HIV biết được tình trạng nhiễm của bản thân.
Tuy nhiên, tỷ lệ người nhiễm HIV biết tình
trạng của mình được điều trị ARV còn chưa
cao (75,3%), từ đó thể làm gia tăng tỷ lệ điều
trị ARV muộn. Bên cạnh đó, các nguyên nhân
các yếu tố liên quan đến việc điều trị ARV
muộn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam,
đặc biệt chưa nghiên cứu nào được thực hiện
ở tỉnh Kiên Giang.
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
để xác định tỷ lệ bắt đầu điều trị ARV giai
đoạn muộn tả một số yếu tố liên quan
đến tỷ lệ này ở người nhiễm HIV tại các phòng
khám ngoại trú (PKNT) HIV tỉnh Kiên Giang.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn người nhiễm HIV
(1) bắt đầu tham gia điều trị ARV từ ngày
01/01/2018 đến 30/06/2019, (2) đầy đủ
hồ sơ bệnh án tại các PKNT ở tỉnh Kiên Giang.
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Tại tất cả các PKNT HIV tại tỉnh Kiên
Giang từ 09/2019 đến 06/2020.
2.3 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tả cắt ngang thu thập thông
tin bằng hồi cứu hồ sơ bệnh án và phỏng vấn.
2.4 Cỡ mẫu nghiên cứu
Tổng số 279 người đủ tiêu chuẩn tự
nguyện tham gia vào nghiên cứu.
2.5 Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ những người bắt đầu
tham gia điều trị ARV từ ngày 01/01/2018 đến
30/06/2019.
2.6 Biến số nghiên cứu
Biến số kết quả:
Bắt đầu điều trị ARV muộn (BĐĐTM)
được định nghĩa những người nhiễm HIV
giai đoạn lâm sàng III hoặc IV theo phân
loại của WHO hoặc số lượng tế bào lympho
CD4 dưới 200/uL tại thời điểm lần đầu tiên
đến sở điều trị ARV [10, 16]. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, thông tin về số lượng
tế bào CD4 bị hạn chế, do vậy chúng tôi phân
loại việc BĐĐTM (“Có” hoặc “Không”) chủ
yếu dựa trên chẩn đoán giai đoạn lâm sàng III
hoặc IV của bệnh nhân.
Biến số độc lập:
Chúng tôi thu thập các dữ liệu của người
tham gia nghiên cứu bao gồm: Các thông tin
nhân khẩu học (tuổi, giới, tình trạng nghề
nghiệp, hôn nhân, trình độ học vấn), các
thông tin về tình trạng sức khỏe (các bệnh đồng
nhiễm, giai đoạn lâm sàng HIV được ghi
nhận trong bệnh án tại thời điểm khám và đăng
bắt đầu điều trị ARV), các thông tin liên
quan đến nơi xác nhận và lý do phát hiện HIV.
Chỉ số BMI (kg/m2) được tính toán dựa trên
chiều cao cân nặng (được ghi nhận tại thời
254 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
điểm bắt đầu điều trị ARV), sau đó được phân
loại thành 3 nhóm: Nhẹ cân (BMI < 18,5), bình
thường (18,5 BMI < 23), thừa cân hoặc
béo phì (BMI ≥ 23).
2.7 Phương pháp thu thập thông tin
Điều tra viên (ĐTV) được tập huấn kỹ về
năng phỏng vấn thu thập số liệu trước khi
tiến hành nghiên cứu. ĐTV lập danh sách các
đối tượng nghiên cứu, sau đó tiếp cận, cung
cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu,
mời họ tham gia vào nghiên cứu khi họ đến
lấy thuốc ARV. Người tham gia được một
bản đồng thuận tự nguyện tham gia nghiên cứu
trước khi tiến hành phỏng vấn thu thập số
liệu liên quan.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ hai
nguồn:
(1) Hồi cứu hồ bệnh án được tiến hành
bằng cách sử dụng bảng kiểm tự thiết kế để thu
thập các thông tin từ bệnh án bao gồm: Thông
tin chung, tiền sử nhiễm HIV, các bệnh đồng
nhiễm HIV.
(2) Phỏng vấn bằng bộ câu hỏi để thu thập
các thông tin về nhân khẩu học, do xét
nghiệm và phát hiện HIV, và các hành vi nguy
cơ cao.
Cuối cùng, số liệu của 279 người tham gia
được thu thập, làm sạch, mã hóa, phân tích một
cách bảo mật chỉ được sử dụng cho mục đích
nghiên cứu.
2.8 Xử lý và phân tích số liệu
Đầu tiên, số liệu được nhập liệu hóa
bằng phần mềm Epidata 3.1. Tiếp theo, phân
tích tả được thực hiện để trình bày các đặc
điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
theo tần số (n), tỷ lệ (%), giá trị trung bình,
độ lệch chuẩn. Sau đó, chúng tôi sử dụng
hình phân tích hồi quy logistic đơn biến đa
biến để khám phá các yếu tố liên quan tiềm
năng của việc BĐĐTM. Các biến nhân khẩu
học các biến số mối liên quan với biến
kết quả p < 0,2 trong hình hồi quy đơn
biến sẽ được chọn để phân tích ở trong mô hình
hồi quy đa biến. Các mối tương quan có giá trị
p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Tất cả
các phân tích được thực hiện bằng phần mềm
SPSS phiên bản 20.0 (IBM Corp, Armonk,
NY, USA).
2.9 Đạo đức nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu được cung cấp
thông tin về mục đích nghiên cứu, lợi ích
rủi ro khi tham gia nghiên cứu. Người tham
gia hoàn toàn tự nguyện và được kí phiếu đồng
thuận tham gia nghiên cứu trước khi tiến hành
thu thập số liệu phỏng vấn. Các thông tin thu
thập được đảm bảo mật chỉ sử dụng cho
mục đích của nghiên cứu.
255Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
Bảng 1. Đặc điểm chung ở người nhiễm HIV bắt đầu điều trị ARV tại Kiên Giang năm 2018 - 2019 (n = 279)
Đặc điểm Tổng số
n (%)
Tuổi: Trung bình (độ lệch chuẩn) 31,3 ± 9,1
Giới tính
Nữ 72 (25,8)
Nam 207 (74,2)
Trình độ học vấn
Trung học cơ sở trở xuống 156 (58,0)
Trung học phổ thông 62 (23,0)
Cao đẳng, đại học, trên đại học 51 (19,0)
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 139 (49,8)
Sống chung với vợ/chồng/bạn tình nữ 107 (38,4)
Đã ly dị/ly thân/góa vợ 33 (11,8)
Tình trạng nghề nghiệp
Thất nghiệp 54 (19,4)
Công nhân/buôn bán/tự do 196 (70,3)
Viên chức/nhân viên văn phòng 29 (10,4)
Nhóm BMI
Thiếu cân (BMI < 18,5) 100 (35,8)
Bình thường (18,5 ≤ BMI < 23) 147 (52,7)
Thừa cân/béo phì (BMI ≥ 23) 32 (11,5)
Nơi xác nhận kết quả HIV (+)
Các bệnh viện, trung tâm y tế 42 (15,1)
Trung tâm KSBT tỉnh 237 (84,9)
Lý do làm xét nghiệm HIV
Đi khám tại các CSYT 190 (68,1)
Thấy bản thân có nguy cơ (như người yêu/vợ/chồng nhiễm HIV, …) 57 (20,4)
Lý do khác 32 (11,5)
Nhóm đối tượng điều trị ARV
Quan hệ tình dục khác giới 131 (47,0)
Nam quan hệ tình dục đồng giới 108 (38,7)
Nghiện chích ma túy 7 (2,5)
Phụ nữ bán dâm 1 (0,4)
Các nhóm đối tượng khác 32 (11,5)
Bệnh đồng nhiễm viêm gan B hoặc C
Không 268 (96,1)
11 (3,9)
III. KẾT QUẢ
3.1 Đặc điểm chung của người tham gia nghiên cứu
BMI: Body Mass Index; ARV: Antiretroviral; CSYT: Cơ sở y tế
256 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
tổng số 279 người tham gia vào nghiên
cứu với độ tuổi trung bình 31,3. Trong đó,
nam giới chiếm phần lớn (74,2%), 58,0%
trình độ trung học cơ sở trở xuống, 38,4% đang
sống với vợ/chồng hoặc bạn tình, phần lớn hiện
đang là công nhân, buôn bán hoặc làm nghề tự
do (70,3%), 35,7% thuộc nhóm thiếu cân (BMI
< 18,5). Người tham gia chủ yếu phát hiện
nhiễm HIV khi đi khám bệnh tại các CSYT
(68,1%), tiếp theo thấy bản thân nguy
nên đi xét nghiệm (20,4%).
Các đối tượng chủ yếu là nhóm QHTD khác
giới (47,0%) nhóm nam QHTD đồng giới
(38,7%). Nhóm nghiện chích ma túy và phụ nữ
mại dâm chỉ chiếm lần lượt 2,5% 0,4%.
Ngoài ra, người nhiễm HIV bệnh đồng
nhiễm viêm gan B hoặc C là 3,9% (Bảng 1).
Tỷ lệ BĐARVM những người nhiễm
HIV tham gia nghiên cứu 29,4% (82/279)
(Bảng 2).
3.2 Các yếu tố liên quan đến việc bắt đầu
điều trị ARV muộn
Các hình đơn biến chỉ ra rằng các yếu
tố liên quan ý nghĩa thống với việc
BĐARVM nhóm BMI, lý do làm xét nghiệm
HIV, bệnh đồng nhiễm lao, và nhóm đối tượng
điều trị ARV. Sau đó, chúng tôi chọn các biến
nhân khẩu học các biến khác mối liên
quan với biến kết quả ở giá trị p < 0,2 trong mô
hình đơn biến để đưa vào hình hồi quy đa
biến phân tích (Bảng 3).
Kết quả của hình đa biến cho thấy những
người bị thiếu cân (BMI < 18,5) khả năng
bắt đầu việc điều trị ARV muộn cao hơn 3,65
lần nhóm người có chỉ số BMI bình thường (tỷ
suất chênh, ORHC = 3,65; 95% khoảng tin cậy,
95% KTC: 1,92 6,93; p = 0,005). Trong khi
đó, nhóm nam QHTD khác giới khả năng
bắt đầu việc điều trị ARV muộn cao hơn nhóm
đối tượng nam quan hệ đồng giới (ORHC = 2,36;
95% KTC: 1,05 – 5,33; p = 0,024) (Bảng 3).
ARV: Antiretroviral
Bảng 2. Phân bố giai đoạn lâm sàng ở người nhiễm HIV bắt đầu điều trị ARV
tại Kiên Giang năm 2018 - 2019 (n = 279)
Đặc điểm Tổng số
n (%)
Giai đoạn lâm sàng HIV
I 167 (59,9)
II 30 (10,8)
III 70 (25,1)
IV 12 (4,3)
Bắt đầu điều trị ARV muộn
Không 197 (70,6)
82 (29,4)