Câu chuyện về chế phẩm sinh
học BZT
Mọi việc bắt đầu từ những năm 90, khi hoạt động nuôi tôm tại
Philippine và các nước vùng ven biển Thái Bình Dương bị suy thoái
trầm trọng. Tôm chết dần, phát triển còi cọc, tốc độ tăng trưởng của
con tôm suy giảm, hệ số chuyển đổi thức ăn và sự tăng trọng cũng
giảm sút, và nhiều tác động ô nhiễm môi trường của hoạt động nuôi
tôm. Mt chương trình nghiên cứu kéo dài 6 năm do Liên hợp quốc
tài trợ đã đề cập tới các vấn đề liên quan này được triển khai tại
Philippine.
] Mặc dù d án bắt đầu sáu năm trước đây, nhưng công ngh sinh học
tân tiến của United-Tech Inc. (UTI) mới ch có tn th trường khoảng ba
năm gần đây, và ch được áp dụng trong công ngh x nước thải và ô
nhiễm dầu, do vậy nó còn quá mới. Ông Ch tịch Công ty William E.
Stapleton nói: "Cng tôi nghĩ rằng chúng tôi tham d quá tr, tuy nhiên
chúng tôi vẫn mạnh dạn gửi sản phm tới khảo nghiệm. Những nời
điều hành Chương trình đã rất ấn tượng với kết quđã mời chúng tôi
tham d như thành viên chính thc".
UTI là một trong hai công ty được lựa chọn trong tng s 132 ng ty
tham d vào Chương trình y. Nhiệm v được đề ra là phải tìm ra
nguyên nhân làm cho con tôm b còi cọc, nuôi dưỡng kém hiệu qu
môi trường b hủy hoại.
Công ngh sinh học của BZT được nghiên cu trong phòng thí nghim
của Công ty tại s 5460, Đường S. Garnett, Tulsa, Bang Oklahoma,
USA. Ông Ch tịch Công ty đã bay sang Philippine vi mt lời giao ước
là th nghiệm một phương thức chữa trị.
Nhà vi sinh vt Arthur Barnard người sáng lp và là Giám đốc điều hành
Công ty UTI đã làm cho các ch nông đã rất kinh hãi, khi ông li xuống
nhng ao tôm sình lầy bẩn thỉu của Philippine. Ông miệt mài trong đống
sình lầy hôi thi của phân và các thức ăn tha. "Đây chính là nguyên
nhân làm cho con tôm chết", Ông rút ra kết luận. "Con tôm cũng như
con người chúng ta, chúng ta đang khỏe mạnh, nhưng nếu đưa cho hít
th một không khí ô nhiễm, chúng ta s d b mắc bệnh. Cũng như vậy
đối với con tôm, chúng hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng nếui trường
nước của chúng dơ bẩn, chúng s b nhiễm bệnh ngay".
Sau mỗi v thu hoạch, ao nuôi thường được tháo khô, đáy ao b ph một
lớp bùn đen nhầy nhụa và hôi thối b dày 15 - 25 cm, ch yếu là các
chất bài tiết, phân và thức ăn thừa. Và chúng cn được cào b
chúng rất độc cho con tôm. Những người nuôi tôm thông thường sau khi
thu hoạch s tháo nướcphơi khô ao trong thời gian 2 tháng sau đó
mới cào b lớp bùn thối dưới đáy ao. Nhưng những đống bùn này được
đổ đống ra bên ngoài, khi trời mưa, nước mưa thấm xuốngng đất
lại làm ô nhiễm lưu vực quanh ao nuôi.
Ông Barnard ch ra rằng một h thống x nước tốt nhất h thống
của t nhiên. "Tại sao lại lấy đi và thay đổi những gì mà Chúa đã tạo ra".
Công ngh của UTI ch bao gm toàn các vi khun và enzyme t nhiên.
Sản phẩm của UTI là một kếp hp giữa vi khuẩn và enzyme, được gi
BZT Aquaculture và BZT Waste Digester s loại b lớp bùn ô nhiễm,
làm cho môi trường nước sạch sẽ. Con tôm s mạnh khỏen, trọng
lượng trung bình là 33 - 35 gr. T l tôm sống ng lên so với trước
đạt tới 96%. Thi gian nuôi giảm t 140 ngày xuống 92 ngày. Và ao
nuôi có th đưa vào s dụng sớm hơn khoảng 5 tuần, như vậy người
nông dân có th nuôi 3 v mỗi năm. Tất c cuc khảo nghiệm đều được
thực hiện với mt mật độ th 10 - 40 con trên 1m2.
Khi Ông Stapleton tới thăm một trại nuôi tôm có s dng chế phẩm
BZT. Ch trang trại cho biết, trước đây trang trại của ông b buộc phải
ngưng nuôi 5 ao trong tổng s 6 ao vì dịch bệnh ô nhiễm. Bây gi sau
khi thực hiện với công ngh BZT, ông ta đã phát triển được 64 ao toàn
nhng con tôm khỏe mạnh. Ông ta cc k phấn khởi. Erfen Mendiola,
một ch trang trại ngay ngoại ô Manila cho biết: " Mọi người đều cho
rằng không th nuôi tôm đây. Nhưngc ông thấy, vi công ngh sinh
học BZT, tôi vẫn có th thu hoch những con tôm khỏe mạnh ngay tại
một nơi bẩn này". Tht lòng, Ông Barnard trong thi gian nghiên cứu
điều chế BZT, chưa bao gi nghĩ tới mt ao nuôi tôm b bệnh tại một nơi
cách xa 15.000 km.
Go Trường Tổng hợp Philippine, Valeriano Corre, cũng là ch d
án nêu trên cho biết sản phẩm BZT là sản phẩm vi sinh hiệu qu nhất
hiện có trên th trường, hy vọng rằng s giúp phục hồi nnh nuôi tôm.
D án tiếp theo của Chương trình là áp dụng công ngh sinh học BZT
cho các ao tr nước, với mục đích cải thiện chất lượng nước và nâng cao
sản lượng nuôi.
Chế phẩm sinh học BZT hiện được tiêu th tại Hoa K và 5 nước khác
ven biển Thái Bình Dương, trong đó có Philippine.
Li nhuận của nhng ao nuôi tôm đã quay lại với người nông dân. Ông
Barnard lại tr v phòng thí nghiệm của mình Tulsa, tiếp tục vi một
d án mi, đi tìm ra thuốc tiêu diệt bệnh ung thư gây ra do PCB.
Bảng so sánh s liệu kết qu khảo nghiệm:
Ch tiêu Không s dụng BZT Có s dụng BZT
T l tôm sống 10%-45% 75% - 95%
Thời gian nuôi 140 ngày 88-92 ngày
Kích thước tôm khi thu
hoạch 29-30gr 33-35gr
Thời gian ao nuôi tr
lại sản xuất 2 tháng 3 tuần
Mật độ th 10 – 40 con / m2 10 – 40 con / m2
Ao tr nước Không
Theo dõi thu triều Không
H tr k thuật Không / có
Tạp chí Fish Farming International