
5 câu tự luận môn khoa học chính trị
Câu 1: Phân tích nội dung cơ bản trong học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-
Lênin, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH và phân tích những sai lầm
khuyết điểm xung quanh vấn đề đấu tranh giai cấp và phân tích nhận định sau đây của
Đảng ta: “Thời kỳ quá độ ở nước ta là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh
giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết
vấn đề “ai thắng ai”
Bài làm
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ghi rõ thời kỳ quá độ ở nước ta “đó là một
thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất
cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Đây chính là sự thể hiện
hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nuớc ta, đặc biệt đây là sự thể hiện
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn và sáng tạo học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta Việt Nam.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm tiến bộ, tích cực của các học giả tư sản cùng với sự thiên
tài về mặt lý luận Mác-Anghen đã đưa ra một phương pháp luận để làm cơ sở xem xét các
giai cấp: đó là phải gắn các giai cấp với PTSX nhất định trong lịch sử. Tuân thủ phương
pháp luận của Mác và Anghen một cách có tính nguyên tắc Lênin đã đưa ra một định nghĩa
về GC trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi GC những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống SX XH nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những TLSX, về vai trò của họ trong những tổ chức lao
động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải XH, ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn đó có địa vị khác nhay
trong một chế độ KT XH nhất định.
Giai cấp là một phạm trù KT-XH có tính lịch sử. Mỗi giai cấp sẽ thay đổi khi điều kiện
KT-XH thay đổi. Giai cấp không thể là sản phẩm của SX nói chung mà là sảan phẩm
củanhững hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương hợp

với một hệ thống SX XH, do đó mỗi đặc trưng của giai cấp phải được xem xét trong quan
hệ với giai cấp khác. Trong một hệ thốngười KT-XH nhất định tập đoàn người này có địa
vị thống trị, tập đoàn người khác có địa vị bị trị đó là các giai cấp. Sự khác nhau giữa các
tập đoàn về địa vị trong một hệ thống KT-XH nhất định là đặc trưng chung nhất của giai
cấp.
Các giai cấp không phải bao giờ cũng tồn tại trong XH loài người. Các GC chỉ tồn tại gắn
liền với những giai đọan phát triển nhất định của SX trong lịch sử. Khi LLSX còn thấp
kém trong XH nguyên thủy, con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, bảo tồn nòi giống
chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa có khả năng xuất hiện chế độ người bóc lột
người, chưa thể có các giai cấp. Sự phát triển của LLSX lên trình độ mới tạo tiền đề và khả
năng phân hoá XH thành các giai cấp. Cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp là chề
độ tư hữu về TLSX. Chế độ này đưa đến chế độ chiếm hữu TLSX XH. Điều đó dẫn đến sự
khác nhau về địa vị trong một hệ thống SX XH nhất định của những tập đoàn người. Như
vậy, điều kiện cơ bản cho sự tồn tại tất yếu của chế độ tư hữu và XH có GC là sự phát triển
của LLSX đã tạo ra được sản phẩm thặng dư nhưng chưa có thể bảo đảm nhu c62u hợp lý
của con người. Sự phát triển mạnh mẽ của LLSX hiện đại và những điều kiện KT-XH khác
sẽ xoá bỏ sự phân chia XH thành các giai cấp.
Các XH có GC đối kháng lần lượt được thay thế trong lịch sử. Mỗi XH có kết cấu XH-GC
riêng. Kết cấu GC thường gắn với một phương thức SX nhất định. Mỗi kết cấu XH-GC của
một XH nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là những giai cấp quyết
định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống SX trong một XH nhất định. GC tiêu biểu cho
bản chất của chế độ KT-XH đang tồn tại là GC thống trị.
Trong XH có GC, GC thống trị chiếm đọat lao động của các GC và tấng lớp bị trị, chiếm
đọat của cải XH vào trong mình, áp bức quần chúng nhân dân lao động về chính trị, Xã hội
và tinh thần. Các GC bóc lột bao giờ cũng dùng mọi hình thức, biện pháp phương tiện để
bảo vệ địa vị, củng cố chế độ KT-XH nhằm hướng những đặc quyền đặc lợi, lợi ích căn
bản của GC thống trị đối lập với lợi ích căn bản của GC bị trị. Sự đối kháng về lợi ích giữa
các Gc thống trị, áp bức, bóc lột và giai cấp bị trị, bị áp bức, bị bóc lột là nguyên nhân của
đấu tranh GC. Đấu tranh chống áp bức chỉ xảy ra khi có áp bức. Vì vậy đấu tranh GC là
cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích căn bản đối lập nhau.

Các cuộc đấu tranh GC trong lịch sửnhân loại diễn ra dưới nhiều hình thức tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh lịch sữ vào các GC tham gia đấu tranh. Trong thời đại ngày nay các hình thức
biểu hiện của đấu tranh GC càng đa dạng và phức tạp.
Theo Lênin, đấu tranh GC thực chất là cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích cơ bản đối
lập nhau. Lợi ích này là không thể điều hoà được. Trong lợi ích cơ bản này thì lợi ích KT
mang tính khách quan cần thiết giữ vai trò tác động chi phối đến sự ra đời, vận động, phát
triển cũng như là mất đi của các GC trong XH.
Đấu tranh GC là một trong những động lực quan trọng cũa sự phát triển XH có GC. Khi
nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật đấu tranh của các mặt đối lập ta
thấy rằng mâu thuẫn nói chung chính là động lực của sự phát triển. Động lực phát triển cơ
bản của XH là tác động biện chứng giữa nhu cầu không ngừng tăng lên của con người với
cải tiến SX, SX vật chất bao giờ cũng phát triển trong một QHSX nhất định : QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX là điều kiện cơ bản để SX phát triển thuận lợi, tạo cơ
sở mọi mặt của đời sống XH phát triển. QHSX trở thành xiềng xích, phá hoại LLSX, khi
nó không còn phù hợp với LLSX. Trong các XH có GC đối kháng, do được GC thống trị –
đại diện cho QHSX đó bảo vệ bằng mọi sức mạnh, đặc biệt là bạo lực có tổ chức, QHSX
không tự động nhường chổ cho QHSX mới. Vì vậy, muốn thay thế QHSX cũ bằng QHSX
mới phải tiến hành đấu tranh GC và cách mạng XH. Đấu tranh GC là động lực trực tiếp của
sự phát triển lịch sử của các XH có GC đối kháng. Đấu tranh GC trong các XH có GC còn
cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động nhằm gột rữa cho họ tinh
thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người bóc lột, áp bức người sinh ra. Trong XH
có GC thì đấu tranh GC không phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng
quan trọng “Nó là đòn bẩy vĩ đại trong các cuộc cách mạng XH hiện đại” (Mác-Anghen).
Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các động lực khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như
VH, GD, KHKT, tư tưởng đạo đức đều phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất
định. Thực tiễn cho thấy đấu tranh gc không chỉ là động lực trực tiếp của lịch sử trong thời
kỳ cách mạng mà còn là động lực phát triển mọi mặt của đời sống XH trong thời kỳ phát
triển bình thường của các XH có GC. Đấu tranh GC có tác dụng thú đẩy XH phát triển về
mọi mặt ngay cả khi QHSX phù hợp với LLSX. Dưới chế độ TBCN nhờ cuộc đấu tranh
GC của mình dưới nhiều hình thức, GC công nhân, và nhân dân lao động mới giành được
những thành quả dân chủ mới thúc đẩy GCTS đổi mới phương thức quản lý, cải tiến, sử
dụng kỷ thuật và công nghệ mới.

Sự phát huy vai trò của cuộc đấu tranh GC trong lịch sử tuỳ thuộc vào tinh chất, trình độ
phát triển của cuộc đấu tranh. Những cuộc đấu tranh GC mang tính chất quần chúng rộng
rãi do lực lượng tiên tiến của XH lãnh đạo, tổ chức mang tính KH nhằm thực hiện nhiệm
vụ lịch sử chính muồi lật đổ GC thống trị phản động đang cản trở sự phát triển của XH, có
tác dụng đặc biệt to lớn đối với sự phát triển của XH.
Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, XH vẫn còn các GC tồn tại lâu dài, các mâu
thuẫn GC chưa bị thủ tiêu. Đấu tranh GC là thực tế khách quan. Thực tế đó đòi hỏi nhận
thức đúng tính chất, nội dung hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn mối quan hệ
XH-GC. Tuy nhiên cần chống lại hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh GC.
Khuynh hướng sai lầm thứnhất là chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật khách quan trong
khi đó lại tuyệt đối hoá đấu tranh GC nhất là tư tưởng cực đoan khuyếch đại một trong
những hình thức của đấu tranh GC là mặt tiêu diệt xoá bỏ. “Trí, Phú, địa, hào đào tận gốc,
trốc tận rễ” và khuynh hướng sai lầm thứ hai là cơ hội hữu khuynh coi nhẹ buông lơi mơ
hồ về đấu tranh GC, mất cảnh giác trước âm muư diễn biến hoà bình với các thế lực thù
địch với CNXH. Hiện nay Đảng ta chủ trương tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập KT quốc tế, VN muốn làm bạn của các nước để phát triển nhanh có hiệu quả và
bền vững. Vì vậy, đã có quan điểm sai lầm cho rằng hiện nay ở nước ta không còn đấu
tranh GC.
Ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu cũ, các lực lượng chống CNXH đã lợi dụng tình
hình khủng hoảng của CNXH nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trong của các Đảng
Cộng Sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản.
Trước tình hình thực tế đó, Đại Hội VI của Đảng đã xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta
do tiến thẳng lên CNXH từ một nền SX nhỏ, bỏ qua giai đọan phát triển TBCN đuơng
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một XH mới cả về LLSX, QHSX và KTTT. Đó là một thời
ký đấu tranh Gc phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Những năm gần đây, về mặt hình thức chúng ta thường ít nói đến “đấu tranh giai cấp”,
“đấu tranh giữa 2 con đường”, nhưng thực chất nội dung của đường lối, các chiến lược,
phương hướng cơ bản, phát triển đất nước vẫn bao hàm nội dung đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giữa 2 con đường XHCN và TBCN. trong cán bộ Đảng viên ta hiện nay còn có
những cách hiểu không rỏ về đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường. Hơn nửa đề

cập đến con đường đi lên CNXH trong thời kỳ quá độ không thể không đụng đến vấn đề
đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa 2 con đường. Đảng ta khẳng định rằng hiện nay và cả
trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh
giai cấp, không thể xoá nhoà ranh giới giửa các giai cấp, không thể phủ nhận đấu tranh giai
cấp. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, đấu tranh GC có nội dung và hình thức
mới rất đặc thù cho một XH bỏ qua chế độ TBCN tiến lên CNXH, một XH đang đổi mới
trước bối cảnh tình hình TG hết sức phức tạp.
Thật vậy trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về TLSX, nhiều thành phần KT,
các giai cấp, các tần lớp XH khác nhau, cơ cấu giai cấp, nội dung tính chất, vị trí cùa các
giai cấp trong XH ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về KT XH. Mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp XH trong sự nghiệp xd và bảo vệ tổ quốc dười sự
lãnh đạo của Đảng hiện nay không như trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, cũnh
không như lúc mới bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngày nay lợi ích cơ bản lâu dài
của các giai cấp thống nhất với lợi ích của các dân tộc, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa 2 con đường: XHCN và TBCN vẫn còn nhưng gắn với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc chống nghèo nàn lạc hậu, khá8c phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Đảng
và nhà nước ta đang khuyên khích thành phần KT tư bản tư nhân phát triển kêu gọi các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh, để các nhà TBCN được “cày trên luống cày của
CNXH”. Một bộ phận công nhân đi làm thuê cho các nhà tư bản, trong XH tồn tại sự bóc
lột của nhà tư bản đối với người lao động làm thuê, song Đảng và nhà nước lại có chủ
trương có chính sách, có pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng và kết hợp hài hoà lợi ích
của người lao động làm thuê, lợi ích của nhà tư bản, lợi ích của nhà nước. Các doanh
nghiệp tư bản tư nhân là một bộ phận hữu cơ của nền KT quốc dân dưới sự lãnh đạo của
ĐCSVN đang quá độ lên CNXH. Vì vậy ở đây giữa lao động làm thuê và nhà tư bản không
có mâu thuẫn đối kháng như trong XH tư bản. Chúng ta sử dụng một số mặt của CNTB để
xây dựng CNXH chứ không phải để xây dựng chế độ TBCN.
Thế nhưng, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy luôn luôn có những lực lượng,
những nhân tố cản trở con đường khách quan đi lên CNXH của nhân dân ta. Để thực hiện
mục tiêu cách mạng là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng văn minh, điều cơ bản là phải
phát triển mạnh mẽ nền KT nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nuớc, bảo đảm định hướng XHCN ; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Xây dựng CNXH phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc bảo vệ chính quyền nhân dân và