5 câu tự luận môn khoa học chính trị
Câu 1: Phân tích nội dung cơ bản trong học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-
Lênin, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH và phân tích những sai lầm
khuyết điểm xung quanh vấn đề đấu tranh giai cấp và phân tích nhận định sau đây của
Đảng ta: “Thời kỳ quá độ ở nước ta là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh
giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết
vấn đề “ai thắng ai”
Bài làm
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ghi rõ thời kỳ quá độ ở nước ta “đó là một
thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất
cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Đây chính là sự thể hiện
hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nuớc ta, đặc biệt đây là sự thể hiện
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn và sáng tạo học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta Việt Nam.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm tiến bộ, tích cực của các học giả tư sản cùng với sự thiên
tài về mặt lý luận Mác-Anghen đã đưa ra một phương pháp luận để làm cơ sở xem xét các
giai cấp: đó là phải gắn các giai cấp với PTSX nhất định trong lịch sử. Tuân thủ phương
pháp luận của Mác và Anghen một cách có tính nguyên tắc Lênin đã đưa ra một định nghĩa
về GC trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi GC những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống SX XH nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những TLSX, về vai trò của họ trong những tổ chức lao
động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải XH, ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn đó có địa vị khác nhay
trong một chế độ KT XH nhất định.
Giai cấp là một phạm trù KT-XH có tính lịch sử. Mỗi giai cấp sẽ thay đổi khi điều kiện
KT-XH thay đổi. Giai cấp không thể là sản phẩm của SX nói chung mà là sảan phẩm
củanhững hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương hợp
với một hệ thống SX XH, do đó mỗi đặc trưng của giai cấp phải được xem xét trong quan
hệ với giai cấp khác. Trong một hệ thốngười KT-XH nhất định tập đoàn người này có địa
vị thống trị, tập đoàn người khác có địa vị bị trị đó là các giai cấp. Sự khác nhau giữa các
tập đoàn về địa vị trong một hệ thống KT-XH nhất định là đặc trưng chung nhất của giai
cấp.
Các giai cấp không phải bao giờ cũng tồn tại trong XH loài người. Các GC chỉ tồn tại gắn
liền với những giai đọan phát triển nhất định của SX trong lịch sử. Khi LLSX còn thấp
kém trong XH nguyên thủy, con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, bảo tồn nòi giống
chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa có khả năng xuất hiện chế độ người bóc lột
người, chưa thể có các giai cấp. Sự phát triển của LLSX lên trình độ mới tạo tiền đề và khả
năng phân hoá XH thành các giai cấp. Cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp là chề
độ tư hữu về TLSX. Chế độ này đưa đến chế độ chiếm hữu TLSX XH. Điều đó dẫn đến sự
khác nhau về địa vị trong một hệ thống SX XH nhất định của những tập đoàn người. Như
vậy, điều kiện cơ bản cho sự tồn tại tất yếu của chế độ tư hữu và XH có GC là sự phát triển
của LLSX đã tạo ra được sản phẩm thặng dư nhưng chưa có thể bảo đảm nhu c62u hợp lý
của con người. Sự phát triển mạnh mẽ của LLSX hiện đại và những điều kiện KT-XH khác
sẽ xoá bỏ sự phân chia XH thành các giai cấp.
Các XH có GC đối kháng lần lượt được thay thế trong lịch sử. Mỗi XH có kết cấu XH-GC
riêng. Kết cấu GC thường gắn với một phương thức SX nhất định. Mỗi kết cấu XH-GC của
một XH nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là những giai cấp quyết
định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống SX trong một XH nhất định. GC tiêu biểu cho
bản chất của chế độ KT-XH đang tồn tại là GC thống trị.
Trong XH có GC, GC thống trị chiếm đọat lao động của các GC và tấng lớp bị trị, chiếm
đọat của cải XH vào trong mình, áp bức quần chúng nhân dân lao động về chính trị, Xã hội
và tinh thần. Các GC bóc lột bao giờ cũng dùng mọi hình thức, biện pháp phương tiện để
bảo vệ địa vị, củng cố chế độ KT-XH nhằm hướng những đặc quyền đặc lợi, lợi ích căn
bản của GC thống trị đối lập với lợi ích căn bản của GC bị trị. Sự đối kháng về lợi ích giữa
các Gc thống trị, áp bức, bóc lột và giai cấp bị trị, bị áp bức, bị bóc lột là nguyên nhân của
đấu tranh GC. Đấu tranh chống áp bức chỉ xảy ra khi có áp bức. Vì vậy đấu tranh GC là
cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích căn bản đối lập nhau.
Các cuộc đấu tranh GC trong lịch sửnhân loại diễn ra dưới nhiều hình thức tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh lịch sữ vào các GC tham gia đấu tranh. Trong thời đại ngày nay các hình thức
biểu hiện của đấu tranh GC càng đa dạng và phức tạp.
Theo Lênin, đấu tranh GC thực chất là cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích cơ bản đối
lập nhau. Lợi ích này là không thể điều hoà được. Trong lợi ích cơ bản này thì lợi ích KT
mang tính khách quan cần thiết giữ vai trò tác động chi phối đến sự ra đời, vận động, phát
triển cũng như là mất đi của các GC trong XH.
Đấu tranh GC là một trong những động lực quan trọng cũa sự phát triển XH có GC. Khi
nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật đấu tranh của các mặt đối lập ta
thấy rằng mâu thuẫn nói chung chính là động lực của sự phát triển. Động lực phát triển cơ
bản của XH là tác động biện chứng giữa nhu cầu không ngừng tăng lên của con người với
cải tiến SX, SX vật chất bao giờ cũng phát triển trong một QHSX nhất định : QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX là điều kiện cơ bản để SX phát triển thuận lợi, tạo cơ
sở mọi mặt của đời sống XH phát triển. QHSX trở thành xiềng xích, phá hoại LLSX, khi
nó không còn phù hợp với LLSX. Trong các XH có GC đối kháng, do được GC thống trị –
đại diện cho QHSX đó bảo vệ bằng mọi sức mạnh, đặc biệt là bạo lực có tổ chức, QHSX
không tự động nhường chổ cho QHSX mới. Vì vậy, muốn thay thế QHSX cũ bằng QHSX
mới phải tiến hành đấu tranh GC và cách mạng XH. Đấu tranh GC là động lực trực tiếp của
sự phát triển lịch sử của các XH có GC đối kháng. Đấu tranh GC trong các XH có GC còn
cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động nhằm gột rữa cho họ tinh
thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người bóc lột, áp bức người sinh ra. Trong XH
có GC thì đấu tranh GC không phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng
quan trọng “Nó là đòn bẩy vĩ đại trong các cuộc cách mạng XH hiện đại” (Mác-Anghen).
Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các động lực khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như
VH, GD, KHKT, tư tưởng đạo đức đều phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất
định. Thực tiễn cho thấy đấu tranh gc không chỉ là động lực trực tiếp của lịch sử trong thời
kỳ cách mạng mà còn là động lực phát triển mọi mặt của đời sống XH trong thời kỳ phát
triển bình thường của các XH có GC. Đấu tranh GC có tác dụng thú đẩy XH phát triển về
mọi mặt ngay cả khi QHSX phù hợp với LLSX. Dưới chế độ TBCN nhờ cuộc đấu tranh
GC của mình dưới nhiều hình thức, GC công nhân, và nhân dân lao động mới giành được
những thành quả dân chủ mới thúc đẩy GCTS đổi mới phương thức quản lý, cải tiến, sử
dụng kỷ thuật và công nghệ mới.
Sự phát huy vai trò của cuộc đấu tranh GC trong lịch sử tuỳ thuộc vào tinh chất, trình độ
phát triển của cuộc đấu tranh. Những cuộc đấu tranh GC mang tính chất quần chúng rộng
rãi do lực lượng tiên tiến của XH lãnh đạo, tổ chức mang tính KH nhằm thực hiện nhiệm
vụ lịch sử chính muồi lật đổ GC thống trị phản động đang cản trở sự phát triển của XH, có
tác dụng đặc biệt to lớn đối với sự phát triển của XH.
Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, XH vẫn còn các GC tồn tại lâu dài, các mâu
thuẫn GC chưa bị thủ tiêu. Đấu tranh GC là thực tế khách quan. Thực tế đó đòi hỏi nhận
thức đúng tính chất, nội dung hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn mối quan hệ
XH-GC. Tuy nhiên cần chống lại hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh GC.
Khuynh hướng sai lầm thứnhất là chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật khách quan trong
khi đó lại tuyệt đối hoá đấu tranh GC nhất là tư tưởng cực đoan khuyếch đại một trong
những hình thức của đấu tranh GC là mặt tiêu diệt xoá bỏ. “Trí, Phú, địa, hào đào tận gốc,
trốc tận rễ” và khuynh hướng sai lầm thứ hai là cơ hội hữu khuynh coi nhẹ buông lơi mơ
hồ về đấu tranh GC, mất cảnh giác trước âm muư diễn biến hoà bình với các thế lực thù
địch với CNXH. Hiện nay Đảng ta chủ trương tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập KT quốc tế, VN muốn làm bạn của các nước để phát triển nhanh có hiệu quả và
bền vững. Vì vậy, đã có quan điểm sai lầm cho rằng hiện nay ở nước ta không còn đấu
tranh GC.
Ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu cũ, các lực lượng chống CNXH đã lợi dụng tình
hình khủng hoảng của CNXH nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trong của các Đảng
Cộng Sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản.
Trước tình hình thực tế đó, Đại Hội VI của Đảng đã xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta
do tiến thẳng lên CNXH từ một nền SX nhỏ, bỏ qua giai đọan phát triển TBCN đuơng
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một XH mới cả về LLSX, QHSX và KTTT. Đó là một thời
ký đấu tranh Gc phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Những năm gần đây, về mặt hình thức chúng ta thường ít nói đến “đấu tranh giai cấp”,
“đấu tranh giữa 2 con đường”, nhưng thực chất nội dung của đường lối, các chiến lược,
phương hướng cơ bản, phát triển đất nước vẫn bao hàm nội dung đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giữa 2 con đường XHCN và TBCN. trong cán bộ Đảng viên ta hiện nay còn có
những cách hiểu không rỏ về đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường. Hơn nửa đề
cập đến con đường đi lên CNXH trong thời kỳ quá độ không thể không đụng đến vấn đề
đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa 2 con đường. Đảng ta khẳng định rằng hiện nay và cả
trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh
giai cấp, không thể xoá nhoà ranh giới giửa các giai cấp, không thể phủ nhận đấu tranh giai
cấp. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, đấu tranh GC có nội dung và hình thức
mới rất đặc thù cho một XH bỏ qua chế độ TBCN tiến lên CNXH, một XH đang đổi mới
trước bối cảnh tình hình TG hết sức phức tạp.
Thật vậy trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về TLSX, nhiều thành phần KT,
các giai cấp, các tần lớp XH khác nhau, cơ cấu giai cấp, nội dung tính chất, vị trí cùa các
giai cấp trong XH ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về KT XH. Mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp XH trong sự nghiệp xd và bảo vệ tổ quốc dười sự
lãnh đạo của Đảng hiện nay không như trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, cũnh
không như lúc mới bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngày nay lợi ích cơ bản lâu dài
của các giai cấp thống nhất với lợi ích của các dân tộc, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa 2 con đường: XHCN và TBCN vẫn còn nhưng gắn với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc chống nghèo nàn lạc hậu, khá8c phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Đảng
và nhà nước ta đang khuyên khích thành phần KT tư bản tư nhân phát triển kêu gọi các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh, để các nhà TBCN được “cày trên luống cày của
CNXH”. Một bộ phận công nhân đi làm thuê cho các nhà tư bản, trong XH tồn tại sự bóc
lột của nhà tư bản đối với người lao động làm thuê, song Đảng và nhà nước lại có chủ
trương có chính sách, có pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng và kết hợp hài hoà lợi ích
của người lao động làm thuê, lợi ích của nhà tư bản, lợi ích của nhà nước. Các doanh
nghiệp tư bản tư nhân là một bộ phận hữu cơ của nền KT quốc dân dưới sự lãnh đạo của
ĐCSVN đang quá độ lên CNXH. Vì vậy ở đây giữa lao động làm thuê và nhà tư bản không
có mâu thuẫn đối kháng như trong XH tư bản. Chúng ta sử dụng một số mặt của CNTB để
xây dựng CNXH chứ không phải để xây dựng chế độ TBCN.
Thế nhưng, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy luôn luôn có những lực lượng,
những nhân tố cản trở con đường khách quan đi lên CNXH của nhân dân ta. Để thực hiện
mục tiêu cách mạng là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng văn minh, điều cơ bản là phải
phát triển mạnh mẽ nền KT nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nuớc, bảo đảm định hướng XHCN ; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Xây dựng CNXH phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc bảo vệ chính quyền nhân dân và
pháp chế XHCN. Toàn bộ sự nghiệp trên da96y là lợi ích căn bản của dân tộc và nhân dân
lao động. Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm GCCN, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức các tầng lớp lao động khác, tầng lớp tư sản dân tộc, các nhân sĩ
yêu nuớc… tán thành mục tiêu nói trên. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ trong XH vì quyền lợi
ích kỷ, vì hận thù giai cấp đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc tế chống lại
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở nuớc ta
trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một bên là quần chúng nhân dân lao
động, các lực lượng XH đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, XH
công bằng văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo với một
bên là các thế lực các tổ chức các phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH, chống Đảng,
Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự XH và an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong nước và quốc tế chống độc lập dân tộc và CNXH chủ yếu
thông qua diễn biến hoà bình nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, làm tan rã về
hệ tư tưởng tiến tới lật đỗ chính quyền nhân dân bằng hình thức này hình thức khác. Cuộc
“đấu tranh giữa hai con đường”, con đường XHCN và con đường TBCN cũng là biểu hiện
của đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở nuớc ta. Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố
thúc đẩy đất nước dịch chuyễn theo hướng TBCN. Các nhân tố tự phát TBCN này được
những thế lực chống độc lập dân tộc và CNXH lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả
các lĩnh vực trước hết là lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự XH.
Cùng với những thành tựu của 15 năm đổi mới, đất nuớc ta còn phải đối mặt với nhiều
thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta xác định là tụt hậu xa hơn về KT so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới ; chệch hướng XHCN ; nạn tham nhũng và tệ quan liêu;
“diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra. Những nguy cơ trên đến nay vẫn tồn
tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau, khôn thể không xem nhẹ nguy cơ nào
trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt. Vấn đề hiện nay không phải là
lãng tránh danh từ đấu tranh GC mà là nhận thức cho đúng tính chất nội dung, hình thức
của cuộc đấu tranh , xử lý đúng đắn các quan hệ XH-GC. Đấu tranh GC chính là để giữ
vững định hướng XHCN, không chệch hướng.
Tóm lại, trong thoi72 kỳ quá độ lên CNXH ở nuớc ta còn có nhiều hình thức sở hữu về
TLSX , nhiều thành phần KT, GC, tầng lớp XH khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí
của các GC trong XH ta đã thay đổi to lớn về KT, XH. Mối quan hệ giữa các GC, các tầng
lớp XH là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích GCCN
thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là : độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH , dân giàu, nuớc mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh Gc trong giai đọan hiện nay theo đại hội IX là : “thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH the định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển ; thực hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những tư tuởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Và “động lực chủ
yếu để phát triển nuớc ta là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân , tập thể và XH,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần KT, của toàn XH.”
Trong xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN phải nắm vững quan điểm GC của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đó là quan điểm cách mạng và KH. Sự tuyệt đối hoá đấu tranh GC
cũng như dự mơ hồ về đấu tranh GC đều trái với quan điểm giai cấp Mác-Lênin, đều gây
tổn hại cho sự nghiệp xây dựng CNXH.
Câu 2 : Học thuyết Mác về Nhà nước và vận dụng để phân tích, phê phán những sai lầm
khuyết điểm trong việc tổ chức phương thức hoạt động của hệ thống chính trị (HTCT) nói
chung của Nhà nước nói riêng thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng sau
đây của Đảng ta : “Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh
GCCN với GC nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng Sản lãnh đạo”
(VK 8 trang 129).
Bài làm
Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Không phải Xh loài người ngay tư khi hình thành đã có
Nhà nước. Có một thời kỳ lịch sử XH chưa có Nhà nước : thời kỳ CSNT. Chỉ khi đến nền
SX XH phát triển đến một trình độ nhất định, XH phân chia thành GC, Nhà nước mới ra
đời.
Với sự ra đời của công cụ sx bằng kim loại (đồng hồ), LLSX đã có sự phát triển nổi bậc,
của cải XH đã dư thừa và chế độ tư hữu ra đời, XH phân chia thành những GC đối kháng :
Chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các GC bốc lột, cuộc đấu tranh giữa các GC đó diễn ra
không ngừng và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để bảo vệ lợi ích giai cấp
của mình, GC chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp. Bộ máy đó chính là Nhà nước.
Nhà nước đầu tiên xuấ hiện trong lịch sử là Nhà nước CHNL, tiếp đó là Nhà nước Phong
kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN, những nhà nước xuất hiện từ mâu thuẫn đối
kháng GC khống thể đều hoà được. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà
nước là từ KT, từ sự phát trei63Nhà nước của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn
đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là do có chế dộ tư hữu và “mâu thuẫn GC không thễ
điều hoà được.
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay GC cầm quyền, là công cụ sắc bén
nhất để duy trì sự thống trị GC cho nên bản chất Nhà nước bao giờ cũng mang tính GC sâu
sắc. Trong XH có GC, sự thống trị của GC này đối với Gc khác được thể hiện dưới 3 loại
quyền lực : quyền lực chính trị, quyền lực KT, tư tưởng, trong đó quyền lực KT giữ vai trò
quyết định nhưng bản thân nó không thể duy trì được vai trò thống trị và đàn áp được sự
phản kháng của GC bị trị, vì vậy phải có Nhà nước để cũng cố và bảo vệ những quyền lực
ấy. Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, Nhà nước của
các gc bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho các gc trong xh. Như vậy,
Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để đảm bảo và thực hiệ quyền lực thống trị về KT, tư
tưởng, chính trị. Ngoài việc thực hiện chức năng đó,, Nhà nước còn phải giải quyết tất cả
các vấn đề khác nảy sinh trong XH , nghĩa là thực hiện chức năng xh. Vì vậy, Nhà nước là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng, vừa mang bản chất GC vừa mang tính XH. Theo bản
chất đó Nhà nước là một tổ chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm
vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực
hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của Gc thống trị trong xh. Mỗi kiểu Nhà nước có
bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà nước XHCN cũng có những
nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là Nhà nước theo
đúng nghĩa mà chỉ là “nữa Nhà nước”.
Nhà nước của giai cấp bóc lột có hai chức năng cơ bản là:
Chức năng đối nội: chức năng này có 2 mặt : mặt thứ nhất là duy trì trật tự KT, XH, chính
trị và các trật tự XH khác theo luật pháp của GC thống trị. Đồng thời sử dụng các phương
tiện khác như bộ máy thông tin, tuyên truyền văn hoá, giáo dục… để xác lập và củng cố hệ
tư tưởng của giai cấp bóc lột biến nó thành tư tưởøng thống trị trong xh (đây là chức năng
GC). Mặt thứ hai : quản lý và giải quyết các nhu cầu của Xh (cũng còn gọi là chức năng
quản lý công cộng. Hai mặt của chức năng đối nội có quan hệ biện chứng trong đó mặt
thống trị giai cấp là mục đích, còn mặt XH là cơ sở, là điều kiện để thực hiện chức năng
giai cấp.
Chức năng đối ngoại : chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia và quan hệ với
các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích quốc gia.
Hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nuớc là một thể thống nhất, chức năng đối nội
là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định. Chức năng đối ngoại là kế tục chức năng đối nội.
Trong lịch sử phát triển của mình, Nhà nước có những kiểu sau : Nhà nước chủ nô, Nhà
nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN. Các kiểu Nhà nước chủ nô, Phong
kiến, tư sản mặc dù có những đặc điểm riêng nhưng đều là những “Nhà nước theo đúng
nghĩa” đuợc xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự
thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Khác với
các kiểu Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN là “nữa Nhà nước” tức là Nhà nước của nhân
dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng XH cho tất cả công dân.
Sự thay đổi kiểu Nhà nước này bằng kiểu Nhà nước mới tiến bộ hơn là quy luật tất yếu phù
hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái KT-XH. Cách mạng XH là
con đường dẫn đến sự thay đổi đó.
Nhà nước XHCN ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xh tư bản lên xã hội cộng sản là
tất yếu khách quan của lịch sử. Vì thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại GC, còn có đấu
tranh GC. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng liên tục và phức tạp để xoá bỏ XH cũ, xây
dựng Xh mới. Để làm đuợc việc đó thì chuyên chính của một GC cách mạng (chuyên chính
vô sản) là tất yếu để trấn áp kẻ thù vừa để tổ chức XH mới, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới nó là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản nhưng bản chất của
chuyên chính vô sản lại là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động do đó Nhà nước
XHCN có sự thống nhất giữa tính GC và tính nhân dân. Tính GC thể hiện ở sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng. Tính nhân dân thể hiện ở
toàn bộ quyền lực của nhân dân lao động. Nó dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính
với thiểu số kẻ thù của nhân dân.
Nhà nước XHCN lấy chức năng tổ chức xây dựng xh mới là chức năng chủ yếu. Đương
nhiên Nhà nước XHCN cũng có chức năng trấn áp GC bóc lột, các lực lượng thù địch của
nhân dân nhưng chức năng xây dựng là chủ yếu vì có tổ chức xây dựng thành công xh mới,
mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH. Chức năng tổ chức xây dựng XH
mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẽ và đầy khó khăn phức tạp do đó đòi hỏi tính năng động
sáng tạo. Mọi hiện tượng trì trệ, bảo thủ đặc biệt là chủ nghĩa quan liêu, là hiện tượng xa lạ
với bản chất của Nhà nước XHCN. Song cũng phải nhận thấy rằng sự tồn tại của Nhà nước
XHCN cũng chỉ là quá độ đi đến thủ tiêu vì Nhà nước vô sản (Nhà nước XHCN ) là Nhà
nước đặc biệt “Nhà nước tự tiêu vong”. Sự tiêu vong không phải là quá trình giảm vai trò
và hiệu lực của Nhà nước mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện không ngừng Nhà
nước, tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là điều kiện để Nhà nước rút khỏi vũ đài
lịch sử. Đó là biện chứng của quá trình phát triển hoàn thiện Nhà nước thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNCS.
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm Đảng Cộng Sản, Nhà nước, công đàon, đoàn thanh
niên cộng sản, Hội liên hiệp phụ nữ, hội nộng dân, mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị
– xã hội khác hoạt động trên cơ sở lấy liên minh giữa GCCN với GC nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng dưới dự lãnh đạo của Đảng Cộnf Sản để thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân.
Ở nuớc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua bên cạnh những việc đã làm được
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng còn những khuyết thiếu sót, những nhượt điểm của
một kiểu Nhà nước mới vừa chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, trong tổ chức, xây dựng, quản
lý còn nhiều điều bất lợi, lại bị ảnh hưởng nặng nề nhiều năm đất nuớc đi theo cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp. Trong đổi mới KT với cơ chế thị trường còn sơ khai, mang
yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý Nhà nước còn thấp chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ
chế thị trường và hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Ngoài việc bộ máy Nhà nước kém
hiệu quả, tệ độc đoán, chuyên quyền, ức hiếp, trù dập cá nhân, quan liêu cửa quyền, xem
thường pháp luật kỷ cương vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi.
Những yếu kém trên Đảng ta đã chỉ rõ tổ chức Nhà nước của chúng ta phải tiếp tục nghiên
cứu, đổi mới cho phù hợp lý luận, thực tiễn và bước tiến của thời đại.
Do chưa nhận thức đầy đủ thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài,
phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan nóng vội muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết nên từ Đại Hội IV của Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng
đường đầu tiên như: chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi ta chưa đủ các tiền đề
cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý KT đã lỗi thời. Đại Hội V cùng với xác định hai
nhiệm vụ chiến lược cụ thể hoá bước đường lối KT và những mục tiêu tổng quát, các chính
sách lớn về KT-XH nhưng về chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn rời rạc, thiếu kiên quyết
khắc phục, tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu
và cơ chế quản lý KT, cải tạo XHCN. Văn kiện Đại hội VI nêu rõ : “Những sai lầm và
khuyết điểm trong lãnh đạo KT, XH, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Sự
yếu ké của Đảng thể hiện là hoạt động tư tưởng và tơ63 chức của Đảng đã không theo kịp
yêu cầu của cách mạng. Về lãnh vực tư tuởnglà sự yếu kém, lạc hậu, về nhận thức lý luận
và vận dụng các quy luật khách quan đang hoạt động trong thời kỳ quá độ do đó không chú
ý vận dụng chúng vào việc chỉ định các chủ trương, chính sách, chưa chú ý đầy đủ tổng kết
thực tiễn để bổ sung về mặt lý luận.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ.
Bố trí cán bộ theo quan niệm củ kỷ, nặng tính hình thức, thiên về nhiệt tình cách mạng, coi
nhẹ tri thức KH. Trong bộ máy Đảng và Nhà nước còn thể hiện thiếu dân chủ như chưa
chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, phong cách và lề lối làm việc mang nặng
tính quan liêu lời nói không đi đôi với việc làm . Việc chỉ đạo điều hành thừong không tập
trung thiếu nhất quán, nhiều Đảng bộ và cấp uỷ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ,
nhiều nơi xảy ra hiện tượng Đảng bao biện làm thay công việc của nhà nước.
Bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và kém hiệu
quả. Công tác giáo dục quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ, công tác đào tạo bồi
dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên không đáp ứng kịp yêu cầu
nhiệm vụ mới, thậm chí có một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất. Sự yếu kém về hệ
thống pháp luật, kỷ cương chưa nghiêm, an ninh trật tư xh còn phức tạp, tệ nạn tham
nhũng, tiêu cực và bất công xh có chiều hướng gia tăng… đó là những nhân tố ít nhiều gây
mất ổn định KT-XH nước ta trong thời gian vừa qua.
Tóm lại, những khuyết điểm trên đây làm suy yếu năng lực, sức sống của HTCT XHCN ở
nước ta, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng – quần chúng bị tổn thương. Đồng thời đã sản sinh ra các khuyết tật khác như bộ
máy công kềnh, chồng chéo, yếu kém về kỷ luật, đặc quyền đặc lợi, độc đoán chuyên
quyền dân chủ hình thức tham nhũng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi tất yếu phải đổi mới HTCT. Một trong những nội dung
cơ bản của đổi mới HTCT ở nuớc ta hiện nay được Đảng ta xác định là : “xây dựng Nhà
nước XHCN của dân, do dân và vì dân ; lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp tri
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, nghiên cứu lý luận về Nhà nước nói chung
và Nhà nước XHCN nói riêng, bổ sung, phát triển và vận dụng một cách sáng tạolý luận đó
có ý nghĩa to lớn trong việc (tăng cường) đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Nhà nước ta hiện nay. Đổi mới HTCT là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển
xh XHCN. Nó xuất phát từ các cơ sở và yêu cầu sau:
Đổi mới tư duy KT, đổi mới T, đổi mới cơ cấu KT nhất thiết đòi hỏi phải đổi mới tư duy
chính trị, đổi mới HTCT mà trong đó trọng tâm là xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước
theo huớng thật sự trong sạch, có năng lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu
quả mọi công việc của đất nuớc.
Đổi mới HTCT là điều kiện và tiền đề cho đổi mới KT nói riêng, cho sự nghiệp đổi mới
nói chúng. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước không có
nghĩa là thay đổi bản chất quyền lực của Nhà nước, ngược lại làm cho bản chất của Nhà
nước được thể hiện và thực hiện đầy đủ hơn rõ rệt hơn và có hiệu quả h7Nhà nước trên cơ
sở tạo ra cơ chế dân chủ bảo đảm quyền lực của ND dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đảm bảo cho NDLĐ thật sự tham gia quản lý
Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tham gia những công việc trọng đại của Nhà nước
: tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan Nhà nước … Đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của Nhà nước phải được thực hiện gắn với đổi mới và kiện
toàn HTCT.
Đảng ta xem Nhà nước XHCN là trụ cột của HTCT, là công cụ thực hiện quyền lực của
ND”, nó đuợc tổ chức theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN của dân , do dân, vì
dân, lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản VN. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền hợp pháp hành pháp và tư pháp. Trong tổ
chức và hoạt động của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN VN thực hiện nguyên tắc tập
trung ddân chủ. Chỉ khi đó nó mới đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức
mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nuớc và từng địa phương , của cả hệ thống
bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu
cũng như phân tán cục bộ.
Nhà nước của chúng ta do ND lập ra thông qua tổng tuyển cữ toàn dân được đặt dưới sự
kiểm soát của ND. Mọi quyền lực mà nhà nuớc có được đều do ND ủy quyền. Mọi chủ
trương chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của ND, nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ
đi ngược lại ý chí của ND.
Nhà nước CNXH VN có sự thống nhất hữu cơ chức năng GC và chức năng XH trong tổ
chức và hoạt động của mình. Càng đứng vững trên lập trường GCCN càng có khả năng
phát hiện, nhận thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đế có liên quan tới chức năng
XH. Ngược lại việc thực hiện tốt chức năng XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng GC. Chính bằng cách
đó và cũng chỉ bằng cách đó, Nhà nước XHCN mới thực sự là Nhà nước của dân do dân và
vì dân và có tác động tích cực đối với sự phát triển KT-XH của đất nuớc.
Nhà nước XHCN lấy liên minh GC công nhân với GCND và tầng lớp trí thức làm nền
tảng. Khối liên minh này là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên sức
mạnh mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Liên minh này góp phần
giữ vững vai trò lãnh đạo cũa GCCN, phát huy cao độ sức mạnh làm chủ của NDLĐ mà
nồng cốt là CN, ND và tầng lớp trí thức. Ngày nay, trong cuộc CMKH và công nghệ,
GCCN, nông dân không thể thực hiện được mục tiêu của mình đề ra nếu không có đội ngũ
trí thức và bản thân giai cấp công nhân và nông dân không dần dần đuợc tri thức hoá. Mặt
khác tầng lớp trí thức chỉ có thể có điều kiện phát huy khả năng của mình khi họ phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của GCCN và ND, đồng thời có đủ điều kiện để thực
hiện ước mơ của mình. (Họ có vai trò quan trọng nhưng không thể thay GCCN lãnh đạo
được).
Trong giai đọan trước mắt để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
một Nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả chúng ta phải thực hiện đồng
bộ một loạt các nhiệm vụ : đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối
cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước cải cách nền hành chánh Nhà
nước bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ
công chức, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời với việc thực hiện những
nhiệm vụ đó là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu tham nhũng trong bộ máy
Nhà nước, một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của HTCT nói chúng, của Nhà
nước ta nói riêng. Tăng cường vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước. Cũng cố
khối liên minh công-nông-trí thức. Cải cách nền hành chính quốc gia trên cả lãnh vực thể
chế hành chính, bộ máy làm công tác hành chính, đội ngũ công chức hành chính…
Tóm lại, bằng việc thực hiện tổng hợp và đồng bộ những nhiệm vụ đó chúng ta chắc chắn
sẽ đạt được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện Nhà nước CH XHCN VN mà theo Đại
Hội IX xác định đó là Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể :
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của ND, là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước quản lý XH bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi
công dân có nghĩa vũ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Và “cải cách tổ chức và hoạt động
của Nhà nước gắn liền với XD. Chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước”
Câu 3 Quan điểm Mác-xít về con người, về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử và
vận dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta : “Sự nghiệp phát triển KT đặt
con người vào vị trí trung tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ
XH” (VK 7 trang 115).
Bài làm
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển KT của đất nuớc ta hiện nay, con người đóng một
vai trò quan trọng đó là cơ sở quyết định sự thành bại của công cuộc XD CNXH trên đất
nuớc ta. Để khẳng định tầm quan trọng đó trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII ghi rõ:
“Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm thống nhất giữa tăng trưởng
KT với công bằng và tiến bộ XH”.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn
đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa
được giải đáp vấn đề một cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa
duy vật trực quan, si6eu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Đã từng có
những ý kiến cho rằng triết học Mác-Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm
của mọi KHXH và nhân văn. CN Mác_Lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích
cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng chomỗi con người và cho cả loài
người.
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần
thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác ngộ sinh vật
thuần tuý tự nhiên không phân biệt được con người với tính tầm thường của động vật (chủ
nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại, triết học Mác coi “trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoá các QHSX” và bản chất đó cũng biến đổi cùng với sự phát triển
của XH. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động của con người thực
tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính XH với tất cả nội dung VH-LS của nó. Vạch
ra bản chất con người từ QHSX nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt XH trong
con người mà cho rằng con người là thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt XH.
Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong con người và cấu tạo chung của
cơ thể con người. Còn mặt XH là các phẩm chất XH trong hoạt động lao động, ngôn ngữ,
giao tiếp, tư duy… Mặt sinh vật và mặt XH của con người thống nah61TBCN với nhau
trong sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh vật là tiền đề, điều kiện của mặt XH.
Thiếu mặt tự nhiên (sinh vật) thì mặt XH không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song mặt
tự nhiên trong con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt XH nên mang tính XH.
Với quan điểm KH coi con người là một thực thể sinh vật – xã hội, triết học mác đã khắc
phục được cả hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người : hoặc là đề cao mặt tự
nhiên không thấy vai trò quyết định của mặt XH hoặc là giản đơn con người , tuyệt đối hoá
nguồn gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên – mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt
trong học thuyết Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đề cập đến vấn
đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mối
quan hệ giữa cá nhân và XH là mối quan hệ biện chứng, mang tính tất yếu khách quan, vừa
là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và pt1 của XH và cá nhân. cơ sở của mối quan hệ
ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong ccác mối quan hệ XH ngược lại sự
phát triển của XH được đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân đó thực hiện.
Môi trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm thui chột sự
phát triển của con người. Hoàn cảnh XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy
nhiên điều đó không phải là con người thụ động trước sự tác độngcủa hoàn cảnh và tiếp
nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả
năng tác động lại hoàn cảnh, cải tiến nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người. Vì thế cá
nhân có vai trò thúc đẩy XH phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài
năng cao và con người trách nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực đến XH. Ngược
lại, những cá nhân bị suy thoái về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh
nặng cho XH.
Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH. Sự phát triển của cá nhân góp
phần thúc đẩy tiến độ XH phát triển. Xã hội càng pt1 thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được
ngày càng nhiều những giá trị vật chất, tinh thần do XH ấy đáp ứng. Thoả mãn nhu cầu
chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành viên XH và là mục đích của sự liên
kết đó. Do đó, cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển tốt đẹp khi
quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tùy theo trình độ phát triển của nền SX
XH và tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích
mà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhận và XH được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm
công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy
việc phục vụ lợi ích con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi mới XH ta
hiện nay. Ngoài cá nhân, quần chúng ND đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc cũng như Xây dựng đất nước. Bởi vì theo chủ nghĩa Mác-Lênin quần
chúng ND là những người lao động SX ra của cải vật chất, tinh thần cho XH và các lực
lượng tiến bộ XH thống qua hoạt động của học lịch sử sẽ biến đổi.
Quần chúng ND là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch
sử. Hoạt động SX ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của XH
mà quần chúng ND là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động đó đồng thời còn là
lực lượng có vai trò to lớn trong SX tinh thần. Quần chúng ND chính là động lực cơ bản
của mọi cuộc cách mạng XH. Đồng thời điểm khởi đầu và cũng là mục đích cuối cùng của
hành động cách mạng là lợi ích của quần chúng ND. Họ là chủ thể của hoạt động cải tạo
các quá trình KT, chính trị, XH, là người sáng tạo ra lịch sử nhưng vai trò đó trong từng
thời kỳ cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy đến mức nào còn tuỳ thuộc vào
tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ tổ chức của quần chúng… trong một hoàn cảnh lịch
sử, một chế độ XH, một PTSX nhất định.
Cùng với sự phát trei63Nhà nước của XH thì vai trò sáng tạo của quần chúng ND ngày
càng tăng và xét trên mọi phương diện từ KT đến Chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư
tưởng thì quần chúng ND luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng ND đối với sự phát triển của XH không có
nghĩa là phủ nhận vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ. Trái lại, vai trò đó có mối quan hệ khăng khít
với nhau.
Lãnh tụ là người nắm bắt được xu thế phát triển của dân tộc, của thoi72 đại để đề ra đường
lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn, là người tổ chức tập hợp quần chúng
để thực hiện giải quyết những nhiệm vụ do thực tiển lịch sử đề ra. Một phong trào muốn
thành công đòi hỏi có một lãnh tụ giàu kinh nghiệm lãnh đạo là một tất yếu khách quan.
Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá vai trò của vĩ nhân lãnh tụ, sùng bái cá nhân dẫn đến
xem thường ý kiến tập thể, độc đoán chuyên quyền xa rời quần chúng, làm cho quần chúng
mất tin tưởng vào sức mạnh của mình dẫn đến thụ động, tuân thủ một cách mù quáng và
bảo vệ uy tín lãnh tụ vì uy tín của lãnh tụ là uy tín của phong trào.
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM về vấn đề con người, Đảng ta khẳng
định : “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng
KT với công bằng và tiến bộ XH”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp CNH, HĐH, của sự nghiệp XD CNXH. Vì nó xuất phát từ mục tiêu chung của chủ
nghĩa Mác là giải phóng con người .
Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và CH của các quốc
gia. Con người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp XD XH mới đồng thời là mục tiêu của CNXH.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đi vào CNH, HĐH chúng ta chưa có những chỉ số
cao về phát triển con người như mong muốn. Nhiều năm qua tốc độc nâng cao dân trí ở
nước ta quá chậm. Cùng với mặt bằng dân trí còn thấp số người được đào tạo có trình độ
tay nghề cao cũng như số người có học vấn đại học, sau đại học đều đang còn ít. Đến nay,
còn nhiều người lao động chưa được đào tạo nghề nghiệp.
Đó là những khó khăn hết sức to lớn cho việc tiếp thu KH và công nghệ mới nhằm đạt tới
những mục tiêu của CNH, HĐH. sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang đòi hỏi rất cao về
bản lĩnh chính trị, tính năng động và tầm cao trí tuệ của toàn dân. Cuộc chiến “ai thắng ai”
trong đua tranh trên thị trường thế giới và khu vực hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào chất
lượng của nguồn lực con người. Nguồn lực ấy chính là động lực của sự nghiệp XD XH
mới : dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cùng với việc tạo ra
nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy các nguồn lực đó điều quan trọng nhất hiện nay là
chăm lo phát triển nguồn lực con người VN, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới,
khả năng mới phù hợp yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Chúng ta nhận thức rõ mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người trước hết là người lao động. Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ : chính sách XH
đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp XD CNXH.
Hiện nay, có hàng loạt vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta hoặc do hậu quả nặng nề của
nhiều năm chiến tranh, của nền KT kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong quá trình
chuyển sang cơ cấu thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Không thể cùng một lục giải
quyết mọi vấn đề trong lúc năng suất lao động XH còn thấp, nguồn thu ngân sách còn hạn
hẹp lại phải tích lũy cho CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, Đảng ta chủ trương: cần phải lấy
việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững, phải khơi dậy trong ND lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con
người VN, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu…
Giải phòng con người là mục tiêu tự thân của CNXH là đặc trưng cơ bản của XH CNXH .
Giá trị của XH XHCN lá phát triển con người. Toàn bộ các hệ thống quan hệ XH phải
phục vụ cho sự phát triển con người. CNXH có mục đích là tạo ra những điều kiện KT-
XH, chính trị cho phép con người ở vào vị trí trung tâm của đời sống CH. Phát triển KT
theo con đường XD CNXH ở nước ta hiện nay là quá trình giải phóng sức SX, khơi dậy
mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người VN phát huy ý chí tự lực tự
cường, cần kiệm XD và bảo vệ tổ quốc. Mục đích của cơ chế thị trường định hướng XHCN
là phát triển LLSX, phát triển KT để XD Cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH nâng cao đời
sống ND và tăng trưởng KT gắn liền với tiến bộ XH.
Xuất phát từ lý luận triết học Mác – Lênin về giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân
tố con người và thực tiễn phát triển KT nước ta, Đảng ta đã khẳng định: “Sự nghiệp phát
triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm”.
Muốn phát huy nguồn lực con người phải có hệ thống chính sách XH đúng đắn, “thống
nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”. Do đó phải kết hợp chính sách
KT với chính sách XH trong từng bước phát triển đất nước. Phát triển KT là điều kiện
vật chất , là cơ sở ban đầu cho việc XD và thực hiện các chính sách XH . Những chính
sách XH đúng đắn tạo ra sự ổn định và tạo ra động lực cho sự phát triển KT vững chắc
.Tăng trưởng KT gắn liền với công bằng và tiến bộ XH trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển .Công bằng XH phải thể hiện ở khâu phân phối TLSX và khâu
phân phối kết quả SX. Ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và
sử dụng tốt năng lực của mình . Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói
giảm nghèo .Thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển , về mức sống giữa các vùng
, giữa các DT, các tầng lớp dân cư .Từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính
sách bảo đảm XH và hoà nhập XH
Bảo đảm XH là chăm lo , giúp đỡ để bảo đảm cuộc sống của mọi cá nhân và cộng đồng
XH trong điều kiện KT thị trường , Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng chính
sách và gia đình có công với nước .Hoà nhập XH là giúp giảm nhẹ khó khăn của các
gia đình và cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn , giúp đỡ những người tàn tật , trẻ em mồ
côi , nạn nhân chiến tranh , để những người này có cuộc sống vật chất và tinh thần phù
hợp với điều kiện của cộng đồng .
Theo trình độ phát triển KT , Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư cho các vấn đề XH đồng
thời khai thác mọi tiềm năng của ND , của địa phương , của các hội , các đoàn thể ,
tranh thủ các nguồn viện trợ từ trong và ngòai và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ấy
để chăm lo cho con người và XH
Chăm lo cho con người và cộng đồng XH là trách nhiệm của Nhà nứơc , của toàn XH ,
của mỗi đơn vị, của từng gia đình , là sự nghiệp của toàn dân .Đảng ta chủ trương giải
quyết các vấn đề XH , thực hiện công bằng XH và công bằng XH theo tinh thần XH hoá
trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Tóm lại , khẳng định : ‘’ Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm ,
thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH’’. Con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH , hiện đại hoá , của sự nghiệp xây dựng CNXH
đã thể hiện sự nhận thức và quán triệt quan điểm Mác- Xít về con người của Đảng ta
trong sự nghiệp đổi mới, phát triển KT của nước ta. Vì thực tiển cho thấy một trong các
yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của Đất nước , của nền KT thì nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản nhất . Bởi lẻ nguồn nhân lực của Việt Nam với đức tính cần cù
sáng tạo khi đã có trình độ văn hoá , kỹ thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ làyếu
tố quyết định để tạo ra những phương pháp công nghệp và công nghệ hiện đại .Nguồn
nhân lực này lại sử dụng các phương pháp , các phương tiện công nghệ tiên tiến , hiện
đại để đạt được năng suất lao động XH cao , hàng hoá nhiều và tốt . Như vậy , nguồn
lực này vừa là người sáng tạo ra , vừa là người sử dụng các phương tiện, phương pháp
công nghệ để đạt được lợi ích KT cao nhất cho XH , cho tập thể và cho bản thân. Do đó
, cùng với việc tạo ra những nguồn lực vật chất , tài chính thì điều quan trong nhất hiện
nay là phải phát huy nguồn lực con người Việt Nam đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu
của sự nghiệp CNH , HĐH đất nước .Để làm được điều đó thì GD và đào tạo cùng với
khoa học và công nghệ phải thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo ra nguồn lao
động mới phát triển toàn diện : Cường tráng về thể chất , phát triển cao về trí tuệ, trong
sáng về đạo đức , phong phú về đời sống tinh thần .
Bên cạnh đó , chúng ta cần phải thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó lấy hình thức
phân phối dựa trên kết quả lao động và hiệu quả KT là chủ yếu …tiến hành công tác xoá
đói giảm nghèo , thu hẹp dần về trình độ , mức sống giữa các vùng dân cư, giải quyết tốt
vấn đề vịêc làm , hạn chế tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn . Chăm lo
sức khỏe , nâng cao thể chất cho nhân dân…Để nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT
phải : “ thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH ” và chỉ có như vậy
mới tạo ra điều kiện để thúc đẩy nền KT VN phát triển nhanh và đạt hiệu quả KT-XH cao.
CÂU4: Học thuyết Mac-xít về con người và về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử
và vận dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta: Trong toàn bộ hoạt động của
mình Đảng phải “lấy dân làm gốc, xây dựng quyền làm chủ của NDLĐ” (Văn kiện 6
trang 29)
Bài làm:
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau, xung quanh vấn
đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác, vấn đề con ngừoi vẫn chưa được giải
đáp một cách thực sự khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật
trực quan, siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Đã từng có ý kiến cho
rằng triết học Mác Lênin coi nhẹ vấn đề con người. Ngược lại, chủ nghĩa Mác Lênin nói
chung, triết học Mác Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm của mọi khoa học
xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích cuối
cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng cho mỗi con ngừoi và cho cả loài người.
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần
thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác độ sinh vật
thuần túy tự nhiên không phân biệt được con người với tính tầm thường của động vật (chủ
nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại triết học Mác coi “trong tính hiện thực của nó, bản
chất con ngừoi là tổng hoá các QHXH” và bản chất đó cũng biến đổi với sự phát triển của
xã hội. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động vật chất của con
người tức hoạt động của con người thực tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính xã
hội với tất cả nội dung văn hoá lịch sử của nó. Vạch ra bản chất con người từ QHXH
nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt xã hội trong con ngừoi mà cho rằng con
ngừơi là thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt xã hội.
Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong con ngừoi và cấu tạo chung cửa
cơ thể con người còn mặt xã hội là các phẩm chất xã hội của con người được hình thành và
phát triển từ các mối quan hệ xã hội trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp, tư
duy…Mặt sinh vật và mặt xã hội của con người thống nhất với nhau trong sự vận động của
bản chất con người. Mặt sinh vật là tiền đề, đều kiện của mặt xã hội. Thiếu mặt tự nhiên
(sinh vật) thì mặt xã hội không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song mặt tự nhiên trong
con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt xã hội nên mang tính xã hội.
Với quan điểm khoa học coi con người là một thực thể sinh vật, triết học Mác Lênin đã
khắc phục được cả hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người: hoặc là đề cao mặt
tự nhiên không thấy vai trò quyết định của mặt xã hội hoặc là giản đơn con người, tuyệt đối
hoá nguồn gốc duy tâm xã hội, không thấy được tiền đề tự nhiên – mặt sinh vật của con
người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng
đặc biệt trong học thuyết Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác Lênin đã đề
cập đến vấn đề này một cách toàn diện sâu sắc có hệ thống trên cơ sở CN DVLS. Mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng mang tính tất yếu khách
quan, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội và cá nhân.
Cơ sở của mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong các mối
quan hệ xã hội ngược lại sự phát triển của xã hội được đánh dấu bằng sự trưởng thành
của mỗi cá nhân bởi chức năng xã hội mà cá nhân đó thực hiện.
Môi trường xã hội có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm thui
chột sự phát triển của con người. Hoàn cảnh xã hội, QHXH tạo nên bản chất con người .
Tuy nhiên điều đó không phải là con người thụ động trước hoàn cảnh và tiếp nhận nó một
cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả năng tác động
lại hoàn cảnh cải biến nó cho phù hợp với nhu cầu của con người. Vì thế cá nhân có vai trò
thúc đẩy xã hội phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn: phẩm chất tốt, tài năng cao và
có trách nhiệm cao với xã hội. Ngược lại những cá nhân suy thoái về nhân cách thì gây hậu
quả xấu đến xã hội, là gánh nặng cho xã hội.
Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa làchủ thể xã hội. Sự phát triển của cá nhân
góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội phát triển, xã hội càng phát triển, thì mỗi cá nhân lại tiếp
nhận được ngày càng nhiều giá trị vật chất, tinh thần do xã hội đáp ứng. Thõa mãn nhu cầu
chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành viên xã hội, và là mục đích của sự
liên kết đó. Do đó cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội chỉ có thể phát triển tốt
đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tuỳ theo trình độ phát triển của
nền SXXH và tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp
lợi ích mà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được giải quyết một cách khác nhau.
Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con
người lấy việc phục vụ lợi ích vì con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi
mới xã hội ta ngày nay.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát
triển của lịch sử. Hoạt động SX ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội mà quần chúng nhân dân là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động
đó, đồng thời là lực lựơng có vai trò to lớn trong SX tinh thần. Đồng thời điểm khởi đầu và
cũng là mục đích cuối cùng của các hành động cách mạng là lợi ích của quần chúng nhân
dân. Họ là chủ thể của mọi hoạt động , cải tạo các quá trình KT, CT, XH là người sáng tạo
ra lịch sử nhưng vai trò đó trong từng cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy
đến mức nào còn tuỳ thuộc vào tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ SX, trong một hoàn
cảnh lịch sử, một chế độ XH, một phương thức SX nhất định. Cùng với sự phát triển của
XH thì vai trò sáng tạo của QCND ngày càng tăng và xét trên mọi phương diện từ kinh tế
đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần.. nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch
sử.
Nhận thức và vận dụng CN MLN và tư tưởng HCM về vấn đề con người và vai trò
của QCND trong lịch sử, Đảng ta khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng
ta “lấy dân làm gốc”, XD quyền làm chủ của QCND”.
Điều này đã được giai cấp phong kiến thống trị ở Phuơng Đông cũng như ở nước ta
trải nghiệm. Người xưa xem “dân là gốc nước”. Gốc ở đây mang ý nghĩa là nếu dân có
cuộc sống yên bình, ổn định thì một triều chính được xây dựng trên đó sẽ được bền vững.
Người anh hùng Lý Thường Kiệt đã nêu rõ tư tưởng : “người làm vua của dân, cốt
phải nuôi dân”. Với Lý Thường Kiệt, nuôi dân thì phải bỏ các kế sách tham tà, loại trừ sự
sách nhiễu, làm hại dân, phải ngăn chặn sự đục khoét dân để làm giàu cho mình. Còn Hưng
Đạo Vương chủ trương: “khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bén gốc, đó là thượng sách
của việc giữ nước”. Nguyễn Trãi lại thể hiện nội dung này bằng triết lý “việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Đối với các nhà chí sĩ
yêu nước Phan Bội Châu thì đã có tư tưởng tiến bộ hơn nhiều: “nước lấy dân làm chủ, dân
coi việc nước như nhà hay dân là dân nước, nước là nước dân”. Tiếp thu tinh hoa truyền
thống dân tộc, chủ tịch HCM khẳng định : “ND là gốc, công nông là gốc của CM”
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền ND”
Người nói: “nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”
rằng “trong toàn bộ hoạt động của mình , Đang phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
XD và phát huy quyền làm chủ của NDLĐ”, “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan
liêu, ắc phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Theo quan điểm đó thì
mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng muốn trở thành hiện thực, hiệu quả trong
cuộc sống đều doND tham gia, thực hiện.
Nhận thức được đều đó Đảng ta xác định chỉ có thể dựa vào QCND, được QC ủng hộ
thì sự nghiệp đổi mới của Đảng mới thành công. Ngoài một số công việc mang tính nội bộ,
Đảng không có điều gì “bí mật” với ND. Trong điều lệ Đảng cũng như trong Nghị quyết,
chỉ thị khác Đảng luôn chủ trương phải dựa vào dân để xây dựng Đảng, cán bộ, Đảng viên
phải liên hệ mật thiết với ND, là đầy tớ thật trung thành của ND. Mọi quyết định, chỉ thị
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng và khả năng của NDLĐ, phải khơi dậy sự
đồng tình hưởng ứng của QC, phát huy quyền làm chủ của NDLĐ… Trải qua bao khó
khăn và thử thách dưới sự sự lãnh đạo của Đảng khối đại đoàn kết của nhân dân được
cũng cố và phát triển. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt , Đảng ta đã mạnh dạn đánh
giá những thiếu sót khuyết điểm của mình mà biểu hiện là nhiều lúc chưa thực sựcoi dân là
gốc của CM, nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng, nhiều cán bộ, Đảng viên coi công việc của Đảng
là một cái gì đó không dính dáng đến ND, chưa coi trọng việc XD và phát huy vai trò, chức
năng của các Đoàn thể QC, một số cơ quan nhà nước mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh cửa
quyền, vi phỵam quyền làm chủ của ND, một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên rthoái
hoá biến chất , lợi dụng chất quyền ức hiếp QCND làm tổn thương đến uy tín của Đảng và
Nhà nước… Gần đây, Đảng ta đưa ra chủ trương : “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” hay phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở, cách thức thực hiện các chủ trương, phương châm đó như thế nào
thì vẫn còn lúng túng, chưa thgống nhất, ít nơi làm một cách méo mó, hình thức…
Tổng kết quá trình lãnh đạo CM của mình một trong những bài học kinh nghiệm được
Đảng rút ra là : “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tửơng của
mình lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của NDLĐ”, ngày nay để đưa
công cuộc đổi mới tới thắng lợi phải phát huy được tính chủ động sáng tạo tham gia một
cách tích cực tự giác của ND. Đổi mới là một sự nghiệp mới mẽ chưa có tiền lề. Nhiều vấn
đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở
đây, việc dựa vào nhân dân , qua thực tiển phong phong của ND tiến hành tổng kết từng
bước tìm ra quy luật của các mặt cuộc sống để đi lên đó là chìa khoá của thành công. Từ
thực tế khó khăn của thời kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế
quốc Mỹ, ND Quãng Bình đã đưa ra một tổng kết vô cùng quý giá: “Dễ mười lần không
dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
HCM hết sức tâm đắt với sự tổng kết đó và đã không ít lần sử dụng lại các bài viết,
bài nói chuyện của mình. Ngày nay bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển khai, thực
hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệttư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc, lắng nghe
ý kiến của dân, tổng kết những điển hình tiến tiến và những kinh nghiệm hay của ND ta
trong quá trình thực hiện đường lối chính sách.
Sự ra đời của chỉ thị 100 của Ban Bí Thư (01/1981) về khoán trong nông nghiệp,
quyết định 25 của chính phủ (1981) về quyền chủ động SX và tự chủ về tài chánh trong xí
nghiệp quốc doanh, chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình VAC hay nghị quyết của
Bộ Chính trị Khoá VIII về kinh tế trang trại… là những minh chứng sinh động về bài học
dựa vào nhân dân , vì ND, từ ND, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh
đó Đảng phải động viên được các tầng lớp ND tích cực thực hiện đường lối chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư cách là người làm chủ công việc của
đất nước.
ĐẠI HỘI 9: “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân” và “Đổi mới là
sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân . để công cuộc đổi mới thành công phải động
viên được mọi tần lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia (trang 81 - 82)”
Câu 5: Phân tích quan điểm Mác-xít về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại XH và ý
thức XH về vai trò của ý thức XH và vận dụng để phân tích phương hướng đổi mới sau
đây của Đảng ta : “Kết hợp hài hòa giữa phát triển KT với phát triển VH XH, giữa tăng
trưởng KT với tiến bộ XH, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân”
(VK 7 trang 73).
Bài Làm
XH loài người tồn tại và phát triển theo những qui luật khách quanvà những quy luật đó
được thực hiện th61ng qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, nhận thức đúng đắn
bản chất của ý thức XH và sự chuyển hoá cái tư tưởng thắng cái hiện thực trong đời sống
XH có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch sử XH loài người. Triết học Mác-Lênin vạch ra
rằng ý thức XH là sự phản ảnh của tồn tại XH đồng thời chỉ rõ vai trò sáng tạo tích cực của
ý thức XH trong sự phát triển của XH. Trên cơ sở đó đi sâu nghiên cứu mối quan hệ biện
chứng giữa TTXH và YTXH nêu lên phương pháp luận và làm rõ quan điểm đổi mới của
Đảng ta về vấn đề này.
TTXH là đời sống vật chất của XH cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của
XH, bao gồm PTSX , giới tự nhiên xung quanh, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân
số… Trong đó PTSX là nhân tố cơ bản nhất vì nó làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa
lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của XH. Còn những điều kiện này có ảnh hưởng
nhất định đến sự phát triển của XH tuy nhiên những điều kiện này có phát huy mạnh mẽ
vai trò của mình hay không còn phụ thuộc vào PTSX đặc biệt là yếu tố KHKT. Khi KHKT
phát triển sẽ làm giảm ý nghĩa của điều kiện tự nhiên và điều kiện dân số.
YTXH là mặt tinh thần của đời sống XH bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tuởng lý
luận cùng những tình cảm tâm trạng mong muốn … phản ánh TTXH trong những giai
đọan phát triển lịch sử XH nhất định.
Căn cứ vào mức độ xem xét có thể phân YTXH thành YTXH thông thường và ý thức KH,
tâm lý XH và hệ tư tưởng. Trong XH có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt
vật chất khác nhau những lợi ích khác nhau do địa vị XH cũa mỗi giai cấp quy định nên
YTXH của giai cấp có nội dung và hình thức khác nhau hoặc đối lập nhau. Nói cách khác
YTXH mang tính giai cấp trong XH có giai cấp và ý thức thống trị trong mỗi thời đại là ý
thức của giai cấp thống trị, GC thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của GC bị trị và
truyền bá ý thức của GC mình thành của XH.
Các nhà duy tâm khi nghiên cứu về YTXH họ đều tách khỏi cơ sở KT, họ muốn đi tìm
nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng , xem tinh thần, tư tưởng là
nguồn gốc của mọi hiện tượng là nguồn gốc của mọi hiện tượng XH, quyết định sự phát
triển XH và trình bày lịch sử các hình thái YTXH tách rời cơ sở KT-XH. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã đặt ý thức XH trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở KT để nghiên cứu
và từ đó khẳng định YTXH và TTXH có quan hệ biện chứng với nahu. Trong mối quan hệ
đ1o TTXH quyết định đối với YTXH , YTXH là sự phản ánh của TTXH, phụ thuộc vào
TTXH. YTXH là sự phản ánh của TTXH cho ta khẳng định TTXH là nguồn gốc nội dung
của YTXH. TTXH sinh ra YTXH, TTXH như thế nào thì YTXH như thế ấy, khi TTXH
nhất là PTSX biến đổi thì những tư tưởng và lý luận XH, những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, VH, nghệ thuật… sớm muộn sẽ biến đổi theo. Trong lịch sử
XH loài người thì sự thay đổi và phát triển của YTXH trước hết là xuất phát từ sự thay đổi
và phát triển của PTSX. Vì vậy chúng ta phải tìm nguồn gốc của ý thức XH trong đời sống
vật chất của XH trước hết là trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Trong XH có giai
cấp YTXH mang tính GC, không có ý thức chung cho mọi GC mà chỉ có ý thức chung cho
một GC nhất định.
Chúng ta cần lưu ý rằng: nói YTXH là sự phản ánh tồn tại XH là nói nguồn gốc và nội
dung của YTXH. YTXH là do TTXH sinh ra, nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh
tồn tại XH khi TTXH tác động vào suy nghĩ và nhận thức của chủ thể thì hình thành những
quan điễm, nhận định và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh của YTXH bao giờ cũng xuyên
qua một mắc khâu là lợi ích, do đó xem xét nội dung của YTXH phải gắn chặt với với quan
hệ lợi ích. YTXH là sự phản ánh TTXH nhưng không phải bất cứ tư tưởng nào, một hình
thức YTXH nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp các quan hệ KT của thời đại mà nó có
thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua khâu trung gian để phản ánh nhưng xét đến cùng bằng cách
này hay cách khác nó vẫn phản ánh các quan hệ KT của thời đại. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh các thời đại khác nhau có những tư tuởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác
nhau của cơ sở KT. Như vậy, triết học Mác-Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi
xem xét sự phản ánh tồn tại XH của YTXH.
Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH, YTXH là sự phản ánh của
TTXH, phụ thuộc vào TTXH, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem YTXH như là một yếu
tố thụ động trái lại còn nhấn mạnh tác động tích cực của YTXH đối với đời sống XH-KT,
nhấn mạnh tích độc lập tương đối của YTXH trong mối quan hệ với TTXH. Nói cách khác
YTXH không phụ thuộc vào TTXH một cách thụ động cũng không phải là sự phản ánh
TTXH một cách giản đơn máy móc mà là sự tác động phản ánh tích cực sáng tạo đối với
TTXH. Đó không chỉ là biểu hiện tính độc lập tương đối của YTXH đối với TTXH nói
chung mà còn là sự thể hiện chức năng đặc thù của YTXH như một nhân tố sáng ạto tích
cực của con người ra đời sống XH của chính mình. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh
và chức năng sáng tạo tích cực của YTXH đối với TTXH biểu hiện ở chổ YTXH vừa vượt
trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại XH.
Sự lạc hậu của YTXH : thuờng xảy ra khi YTXH không phản ánh kịp thời sự phát triển
của đời sống XH, YTXH tồn tại lâu hơn điều kiện vật chất sinh ra nó. Dưới gốc độ nhận
thức YTXH chỉ là cái phản ánh do TTXH sinh ra nên thường có sau TTXH còn TTXH gắn
liền với nhu cầu trực tiếp nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của YTXH còn thể
hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của XH cũ còn rơi rớt lại sau khi tồn tại XH đã
thay đổi. Lịch sử XH cho thấy nhiều khi XH cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng
YTXH do XH đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẵng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc
biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý XH (trong truyền thống, thói quen, tập quán, nếp nghĩ, lối
sống… bám rễ ở mỗi con người và XH) Lênin cho rằng sức mạnh của tập quán được tạo ra
qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê ghớm nhất YTXH lạc hậu so với tồn tại XH còn có
nguyên nhân ở quan hệ lợi ích đó là trong XH có GC, các GC phản động tìm mọi cách khôi
phục, duy trì những tư tưởng cũ lạc hậu để chống lại cuộc đấu tranh cải tạo XH của GC
cách mạng. Khuynh hướng lạc hậu của YTXH cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của
CNXH. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong XH cũ vẫn tồn tại trong XH
mới như lối sống ăn bám, chay lười lao động, tệ nạn tham nhũng… Lênin nói rằng : Một
người bệnh chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một XH mất đi ta không
thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó được mà những căn bệnh này rữa ra xâm nhập
vào những con người đang sống.
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho nên trong sự nghiệp
XD XH mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng xây dựng ý thức XH mới
(CM tư tưởng) đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực
lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ đồng thờu ra sức
phát huy những truyền thống tư tuởng tốt đẹp.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của YTXH so với TTXH triết học Mác đồng thời
thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người đặc biệt những tư
tưởng KH tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của TTXH , dự báo được tương lai và có
tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người , hướng hoạt động đó vào việc
giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của XH
đặt ra và sự phản ánh này sẽ là duy ý chí khi nó chỉ là sự mong muốn chủ quan của con
người không dựa trên sự nắm bắt thực hiện. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiến tiến có thể
vượt trước TTXH , dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển XH thì không có
nghĩa là trong trường hợp này YTXH không còn bị TTXH quyết định nữa. Tư tưởng KH
tiên tiến không thoát ly TTXH mà phản ánh chính xác , sâu sắc mối quan hệ tất yếu, bản
chất của TTXH.
YTXH của một thời đại bao giờ cũng phản ảnh đời sống vật chất của thời đại đó, đồng thời
là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ trước đó tích lũy được. VD : chủ
nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển nhưng tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là
nền triết học cổ điển Đức, KT học chính trị cổ điển Anh và CNXH không tưởng – phê phán
Pháp.
Quan hệ kế thừa là do sự phát triển trong lãnh vực ý thức diễn ra như là quá trình lịch sử –
tự nhiên, như một quá trình nối tiếp liên tục của tư duy giữa các thế hệ. Trong XH có Giai
cấp, sự kế thừa của YTXH phụ thuộc vào lợi ích và nhu cầu của GC. Những GC khác nhau
kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các GC tiên tiến tiếp nhận
các di sản tư tưởng tiến bộ của XH cũ để lại còn những gc lỗi thời và các nhà tư tưởng của
nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng lỗi thời phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sủ
trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh GC trên lãnh vực ý thức thì không những phải
vạch ra tính chất phản KH, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều
kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịc sử và phải kế
thừa, phát huy những gia trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái YTXH đều phản ảnh TTXH với những
đặc trưng riêng và giữ chức năng XH khác nhau không thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn
tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập vàp nhau làm cho mỗi hình thái YTXH có những
mặt, những tính chất bị ảnh hưởng bởi hình thái khác mà độc lập so với tồn tại XH. Trong
sự ảnh hưởng lẫn nhau đó thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Ngoài ra hình thái
nào có ảnh hưởng lớn hơn tuỳ điều kiện cụ thể. Do đó trong quá trình XD YTXH mới phải
phát triển hài hoà và đồng bộ tất cả các hình thái YTXH tránh mâu thuẫn đối lập nhau.
YTXH là do TTXH quyết định nhưng lại tác động trở lại TTXH. Sự tác động này vừa thể
hiện tính độc lập tương đối của YTXH vừa nói lên vai trò của YTXH. Sự tác động YTXH
đôi với TTXH diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng KH và tiến bộ góp
phần thúc đẩy XH phát triển ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản động thì cản trở sự
phát triển của XH. Tính chất và hiệu quả tác động trở lại của YTXH phụ thuộc vào các yếu
tố : vai trò lịch sử của GC đề ra tư tuởng đó, trình độ phù hợp của tư tuởng với hiện thực,
mức độ truyền bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng ND.
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH, ta rút ra ý nghĩa
phương pháp luận là khi xem xét, giải quyết các hiện tựong thuộc YTXH trước hết phải
xuất phát từ cơ sở vật chất, cơ sở KT đã sinh ra nó đồng thời phải xem xét tính độc lập
tương đối. Từ đó khẳng định được vai trò động lực của những tư tưởng KH, tiến bộ. Trong
công cuộc cải cách và XD CNXH, tiến hành Cm tư tưởng VH, XD con người mó7I và nền
VH mới ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di sản
quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu VH, KH hiện đại. Chúng ta chống
chủ nghĩa hư vô đồng thời chốngười khuynh hướng siêu GC trong việc kế thừa di sản để
lại. Ta phải thường xuyên giáo dục trong cán bộ, đảng viên và trong ND về chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng HCM, điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp cải tạo và
XD CNXH ở nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ: “sự nghiệp phát triển KT
đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng KT với công bằng XH và tiến bộ
XH, thể hiện mục tiêu chính sách XH thống nhất với mục tiêu chính sách XH thống nhất
với mục tiêu phát triển KT đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người , vì con
người. Kết hợp hài hoà giữa phát triển KT với phát triển VH-XH, giữa đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của ND, coi phát triển KT là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính
sách XH, thực hiện tốt chính XH, là động lực thúc đẩy phát triển KT. Đó là nội dung chỉ
đạo quá trình giải quyết mâu thuẫn có thể có trong việc đầu tư phát triển KT bất kỳ nền KT
hàng hoá nào. Đối với chúng ta, trong chế độ XHCN vấn đề đó phải luôn luôn là vấn đề
được quan tâm với đầy đủ tinh thần trách nhiệm.
Ta phải nhận thức hiệu quảKT gắn liến với hiệu quả XH, KT phát triển là để tạo ra điều
kiện lành mạnh hoá các QHSX , bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia đình và cả DT.
Ta phải đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp ND tự do làm ăn theo
phápluật sẽ là một tiến bộ và mặt XH, là thực hiện dân chủ hoá trong lãnh vực KT, Nhà
nước ta phải có cơ chế, chính sách thích đáng nhằm động viên toàn XH tiết kiệm để đầu tư
phát triển , để đẩy mạnh thêm nữa tăng trưởng KT theo phương hướng nhiệm vụ mà chiến
lược KT-XH đề ra. Từ đó giải quyết tốt hơn việc làm, thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật
chất cho việc xử lý các vấn đề XH. Tuy nhiên tăng trưởng KT tự nó không thể giải quyết
được tất cả các vấn đề XH. Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề XH là điều
kiện quyết định để thúc đẩy tăng trưởng KT. Chúng ta không thể sớm có ngay một XH tốt
đẹp trong khi KT nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, KT kỷ thuật còn lạc
hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng KT với tiến bộ XH. Từng bước XD XH
nước ta trong đó NDLĐ làm chủ các công việc nhà nước, mọi người sống nhân ái, có VH,
tôn trọng pháp luật kỷ cương không còn áp bức bất công, ai cũng có điều kiện làm ăn sinh
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Hiện nay nhiều vấn đề XH còn phức tạp một mặt nền KT thị
trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt
khác nó lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của XH đặc
biệt là về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó sự suy thoái về tư tưởng đạo đức và lối
sống của cán bộ đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Trong điều kiện đó mục tiêu của
cuộc cách mạng trên lãnh vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng nền VH mới và con người
mới XHCN. Để thực hiện mục tiêu đó phải thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đọan hiện
nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác_Lênin và tư tưởng
HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của XH. Còn nhiệm vụ cấp bách về VH
là XD nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: “hướng mọi hoạt động VH vào việc XD
con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
lực sáng tạo, có ý thức công đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối sống có
VH, quan hệ hài hoà trong GD, công đồng và XH” và nêu cao tinh thần trách nhiệm của
GĐ trong việc XD và bồi dưỡng các thành viên có lối sống VH làm cho GĐ thật sự là tổ
ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của XH. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn
kết XD đời sống VH” ; ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín
đang có xu hướng lan rộng trong XH (VK 9 trang 114 – 116).
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp
pháp , được hưởng thụ văn hoá, GD đào tạo, chăm lo Y tế, được hưởng thụ xứng đáng với
công sức, tiền của bỏ vào SX. Thực hiện phân phối công bằng theo lao động, chống tư
tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng, mở rộng phúc lợi XH, đổi mới tốt
chính sách bảo hiểm XH, bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu
cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo
phong trào đoàn kết giúp đỡ trong ND theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân
tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất công XH nghiêm
trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền luơng để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và
nâng cao mức sống, mức đóng góp cho XH.
Vận dung mối quan hệ này Đại hội IX xác định đường lối KT của Đảng ta là : “… Tăng
trưởng KT đi liền với phát triển VH, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
ND, thực hiện tiến bộ và công bằng XH…”