
Cây bụi thảm tươi - Loại cây nhỏ lợi ích phòng hộ lớn
Lớp cây bụi thảm tươi ở dưới tán rừng đóng vai trò rất lớn trong việc phân tán
nước mưa làm giảm động năng của nó, chi phối thế năng của giọt nước trước khi
rơi xuống đất rừng. Mặt khác cây bụi thảm tươi còn tận dụng nguồn năng lượng
mặt trời từ ánh sáng lọt qua tán của cây ở tầng trên để tạo thêm sản phẩm sinh học
cho rừng, đồng thời cây bụi thảm tươi là tấm áo giáp che chắn cho mặt đất rừng
khỏi bị nóng trong mùa hè, nhờ đó làm giảm lượng nước bốc hơi bề mặt của đất và
ấm áp về mùa đông. Có thể nói đây là loại cây nhỏ mà lợi ích phòng hộ lớn.
Nghệ An là tỉnh thường xuyên bị tổn thương bởi hạn hán và bão lụt nên việc
trồng cây gây rừng rất được quan tâm. Những khu rừng tập trung theo chương trình
dự án 327, 661 cũng như chủ trương “Xã hội hoá lâm nghiệp” của Chính phủ đã
thổi luồng sinh khí mới làm thay đổi đời sống lâm nghiệp: “chuyển từ lâm nghiệp
truyền thống sang lâm nghiệp xã hội”. Nhờ việc phát động “Tết trồng cây đời đời
nhớ ơn Bác”, hàng triệu cây phân tán được trồng trên dọc các kênh mương, đường
giao thông, bãi trống, công sở, trường học, bệnh viện..., độ che phủ rừng ở Nghệ An
từ 38,4% (năm 1998) nay đã đạt 53,1%. Ý thức của người dân trong việc trồng cây
gây rừng, bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng cũng như nhận thức về lợi ích kinh
tế của rừng trong việc bảo vệ môi trường, chống thiên tai bão lụt, chống xói mòn
được nâng lên rõ rệt. Đó là những điều được đánh giá và khẳng định.
Tuy vậy, một nghịch lí được đặt ra là cùng với những con số thống kê được công
bố về diện tích rừng trồng, rừng khoanh nuôi bảo vệ, độ che phủ của rừng tăng lên
hàng năm thì sự tàn phá của bão lụt, tốc độ dồn lũ và tần suất lũ tăng, mạch nước
ngầm giảm cũng ngày càng gây tổn thất to lớn. Chương trình giao lưu “Thương về
miền Trung” (tháng 5/2011) cho ta thông điệp khủng khiếp về sự tàn phá của lũ lụt
trên dải đất này: năm 2008-2010 đã làm 513 người chết. Bão lũ chồng lên nhau vào
tháng 9 và tháng 10/2010 đã cướp đi sinh mạng của 202 người và làm thiệt hại hơn
16.000 tỉ đồng (Theo số liệu của Ban chỉ huy Phòng chống bão lụt tính đến ngày
19/10/2010, Nghệ An có 16 người chết, thiệt hại ước tính sơ bộ 1.570 tỉ đồng).

Sự phẫn nộ của thiên tai bằng các trận “đại hồng thuỷ” ngoài nguyên nhân của
biến đổi khí hậu còn có nguyên nhân nào khác? Chúng ta hãy tìm lời giải ngay trong
công tác trồng cây gây rừng, khai thác và bảo vệ rừng hiện nay.
Theo báo cáo số liệu diễn biến rừng năm 2010 ở Nghệ An: diện tích đất có rừng
là 874.510ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 733.320ha, diện tích rừng trồng là
141.190ha (chiếm 16,2%); độ che phủ rừng đạt 53,1%. Theo số liệu của Đoàn Điều
tra quy hoạch rừng thì keo là cây trồng chủ đạo trong loại rừng sản xuất (chiếm hơn
70%) đến cây thông chiếm 22% trong loại rừng phòng hộ và cây quế chiếm 42%
trong loại rừng đặc dụng.
Đặc tính sinh thái một số cây trồng hiện nay được trồng trong ba loại rừng nói
trên như sau:
- Cây keo (có tên khoa học là Acacia) là cây nhập nội. Có nhiều loại keo: keo tai
tượng, keo lá tràm, keo lai,... Việc đem keo về trồng ở Việt Nam nói chung và ở
Nghệ An nói riêng trong mấy chục năm gần đây đã mang lại hiệu quả kinh tế thiết
thực, góp phần trong việc phủ xanh đất trống đồi trọc. Keo là loại cây dễ trồng,
không kén đất, cho năng suất sinh học cao. Kết quả trồng rừng nói chung và trồng
keo nói riêng trong mấy năm lại đây đã giải quyết bài toán nguyên liệu cho công
nghiệp sản xuất giấy, gỗ gia dụng, hàng gỗ mĩ nghệ xuất khẩu, chất đốt cho đồng
bào miền núi, nông thôn và góp phần xoá đói giảm nghèo ở khu vực này. Nhưng ở
cây keo có nhược điểm về mặt sinh thái như: keo không có rễ cọc phát triển, thân
giòn nên dễ bị đổ gãy khi có mưa gió. Lá keo cũng như thân cành trơn bóng
nên tác dụng giữ nước trong và sau mưa không tốt bằng cây bản địa. Cũng do keo
không có rễ cọc phát triển nên lượng nước không được “khoan” sâu vào lòng đất để
trao đổi chất. Đó cũng là nguyên nhân làm giảm lượng nước ngầm.
Cây thông (tên khoa học là Pinusmerkusii) là loại cây ưa sáng (nhưng ở giai đoạn
đầu chịu bóng). Thông sinh trưởng chậm nhưng được trồng nhiều là nhờ lợi ích kinh
tế từ khai thác nhựa để làm chế phẩm clofan và dầu thông phục vụ cho công nghiệp

chế biến sơn và xuất khẩu. Nhưng tác dụng giữ nước của thông cũng không tốt do lá
hình kim trơn bóng, tán thưa mỏng lại có hình nón là chủ yếu.
Cây quế (có tên khoa học là Cinnamomum) đã được trồng ở rừng đặc dụng để
lấy vỏ làm dược liệu và xuất khẩu. Đây là cây bản địa đặc sản được trồng ở Quế
Phong, Quỳ Châu với diện tích còn khiêm tốn (150ha). Lá quế nhẵn bóng và có tinh
dầu.
Đơn cử những loại cây trồng chủ yếu ở ba loại rừng trồng (rừng sản xuất, rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng) ở tỉnh ta hiện nay cho thấy cả 3 loại cây lá cành đều có
lượng tinh dầu nên khi rơi rụng xuống tán rừng đã không tạo môi trường lâm sinh
thuận lợi cho cây bụi và thực bì ở tầng thấp phát triển.
Rừng là nơi sinh sống của các quần thể động vật và thực vật. Theo quan điểm
sinh thái rừng hiện nay, hệ thực vật của rừng bao gồm:
- Quần thể cây rừng.
- Cây bụi, cây nửa bụi.
- Tầng thảm tươi (cỏ, quyết, rêu, địa y,...).
- Thực vật ngoại tầng (dây leo, thực vật phụ sinh).
Hệ thực vật rừng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cải tạo đất rừng và
tác dụng phòng hộ của rừng. Theo các nhà khoa học lâm sinh, hàng năm trên Trái
Đất, hệ thực vật đã trả lại cho đất 5,3 x 1010 tấn sinh học gồm: thân gỗ, củi, cành lá,
rễ cây. Sự rơi rụng của cành lá xuống tán rừng tạo nên thảm mục, nhờ hoạt động của
vi sinh vật tạo nên tầng mùn và cho ta độ phì của đất. Chính thảm mục, tầng mùn
ngoài việc làm giàu dinh dưỡng cho đất, còn đóng vai trò rất lớn trong việc giữ nước,
làm giảm dòng chảy bề mặt, tăng cường độ thấm của nước vào đất làm tăng lượng
nước ngầm. Cũng theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học lâm nghiệp, ở rừng
chưa chịu tác động (còn ở dạng nguyên sinh) lượng nước chảy ở bề mặt đất rừng chỉ
bằng 2% so với tổng lượng nước mưa rơi xuống rừng.

Tuy nhiên, mỗi loại rừng khác nhau lại cho kết quả khác nhau về sự hoàn trả sinh
học. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học lâm nghiệp Việt Nam cho biết: Ở
rừng trồng thuần loại lượng rơi rụng sinh học chỉ đạt 5-10 tấn/ha, còn ở rừng tự
nhiên là 12 tấn/ha hoặc hơn nữa. Như vậy, sự hoàn trả sinh học của rừng thuần loại
thấp hơn so với rừng tự nhiên hỗn giao. Do vậy, tác dụng phòng hộ (trong việc giữ
nước) cũng kém hơn. Theo các nhà lâm học thì “Ở Việt Nam đặc điểm khó khăn
nhất trong tái sinh nhân tạo là chưa tìm ra được mô hình cấu trúc hỗn giao các loài
cây bản địa hầu hết các rừng tái sinh nhân tạo khai thác trắng và rừng trồng thuần
loại chủ yếu là cây nhập nội”.
Lâu nay công tác phục hồi rừng bằng nhân tạo của ta là phát trắng thực bì rồi
đem trồng lên đó những loại cây (chủ yếu cây nhập nội) theo mục đích kinh tế nhằm
khai thác tối đa khả năng của đất nơi trồng cây chưa chú ý đến các biện pháp kĩ
thuật lâm sinh để tạo ra khu rừng hỗn giao có hệ sinh thái đa dạng về sinh học để
mang lại lợi ích lớn hơn cho trước mắt và lâu dài. Đặc biệt chưa chú ý đến lợi ích
phòng hộ do lớp cây bụi thảm tươi mang lại. Theo Metkachenkô (năm 1955) thì
“khả năng bảo vệ nguồn nước của rừng thể hiện ở chỗ nó phân tán được nước mưa
ở tán rừng hoặc tăng thêm sự gia nhập của nước vào đất”.
Lớp cây bụi thảm tươi ở dưới tán rừng đóng vai trò rất lớn trong việc phân tán
nước mưa làm giảm động năng của nó, chi phối thế năng của giọt nước trước
khi rơi xuống đất rừng. Mặt khác cây bụi thảm tươi còn tận dụng nguồn năng lượng
mặt trời từ ánh sáng lọt qua tán của cây ở tầng trên để tạo thêm sản phẩm sinh học
cho rừng, đồng thời cây bụi thảm tươi là tấm áo giáp che chắn cho mặt đất rừng
khỏi bị nóng trong mùa hè, nhờ đó làm giảm lượng nước bốc hơi bề mặt của đất và
ấm áp về mùa đông.
Khi nói đến độ che phủ của rừng là nói đến tỉ lệ diện tích có rừng trên một đơn vị
diện tích hay lãnh thổ (như nói độ che phủ rừng của tỉnh ta hiện nay là 53,1%). Khi
nói đến độ tàn che tuyệt đối của cây rừng tức là hình chiếu vuông góc của tán cây
xuống mặt đất. Độ tàn che tuyệt đối luôn ≤ 1. Khi tính đến tất cả độ che phủ của các

loại cây có trên đất rừng thì gọi là độ tàn che tương đối và có thể >1. Rõ là cây bụi
thảm tươi đóng góp cho độ tàn che của rừng tăng thêm làm tăng khả năng giữ nước
và phòng hộ của rừng.
Theo báo cáo mới đây của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích
rừng tự nhiên ở tỉnh ta còn 733.320ha, trong đó rừng giàu chỉ có 9,5%, rừng trung
bình 18,5% và rừng nghèo 28,6%, còn lại là rừng phục hồi. Qua đó cho thấy rừng tự
nhiên ở tỉnh ta đang trong tình trạng “trồng rừng mà chẳng thấy cây” vì rừng giàu
chiếm tỉ lệ thấp.
Trong khai thác rừng tự nhiên chưa lựa chọn được phương thức khai thác thích
hợp để ngoài việc lấy gỗ còn phải đảm bảo tái sinh sau khai thác, đảm bảo lớp cây
con và thảm thực vật dưới tán rừng không bị tổn thương. Tình trạng khai thác rừng
tự nhiên hiện nay là một cây bị đốn ngã kéo theo hàng loạt cây khác cũng bị đổ gãy,
dập nát. Hiện trường sau khai thác trông như bãi bom B52 thời chiến tranh chống
Mỹ. Khai thác rừng trồng hiện nay chủ yếu là dùng phương thức khai thác trắng.
Toàn bộ diện tích rừng sau khi khai thác là đất trống bị phơi ra giữa nắng trong một
thời gian dài (vì chưa đến vụ trồng rừng tiếp) làm xói mòn đất, nhiệt độ đất bề mặt
tăng lên đột biến làm một số loài vi sinh vật sống trong đất bị tiêu diệt. Như vậy, cả
trong khai thác rừng tự nhiên và rừng trồng đều không chú ý đến môi trường sinh
thái cho cây rừng và thực vật phát triển làm cho diễn thế rừng sau khi khai thác
ngày một xấu đi và tác dụng phòng hộ của rừng cũng giảm.
Cũng theo báo cáo trên, rừng phòng hộ ở Nghệ An còn chiếm tỉ lệ cao (43,4%
rừng tự nhiên) nhưng cần lưu ý hơn đến chất lượng của rừng phục hồi vừa đảm bảo
cây mục đích, cây kinh tế phát triển nhưng phải nâng cao chất lượng của rừng phục
hồi để không rơi vào nghịch cảnh “trồng cây mà chẳng thấy rừng” vì không phải
rừng phục hồi theo đúng nghĩa đích thực của nó; không chỉ thấy một màu xanh của
dây leo bụi rậm vừa không đạt được mục đích kinh tế và tác dụng phòng hộ của
rừng.

