Vật lý & Khoa học vật liệu<br />
<br />
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU TÍNH CHẤT VẬT LÍ, KHẢ NĂNG<br />
QUANG XÚC TÁC CỦA VẬT LIỆU TỔ HỢP g-C3N4/TiO2<br />
Lâm Thị Hằng1,2,*, Lê Thị Mai Oanh2, Mạc Thị Thu2, Đào Việt Thắng3,<br />
Nguyễn Mạnh Hùng3, Đỗ Danh Bích2<br />
Tóm tắt: Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình bày các kết quả nghiên cứu tính<br />
chất vật lí và khả năng quang xúc tác của vật liệu composite g-C3N4/TiO2. Vật liệu<br />
được chế tạo bằng phương pháp trộn cơ học với tỉ lệ khối lượng của g-C3N4/TiO2<br />
khác nhau. Cấu trúc tinh thể, hình thái bề mặt và tính chất quang của vật liệu được<br />
nghiên cứu thông qua phép đo giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD), ảnh hiển vi điện tử quét<br />
(SEM), phổ huỳnh quang (PL) và phổ hấp thụ UV-vis. Kết quả cho thấy vật liệu kết<br />
tinh tốt của cả hai pha g-C3N4 và TiO2, không có sự xuất hiện của pha tạp chất. Ảnh<br />
SEM cho thấy các hạt nano TiO2 bám dính trên các tấm g-C3N4. Kết quả UV-vis chỉ<br />
ra rằng bờ hấp thụ quang học của các mẫu g-C3N4/TiO2 có sự về phía bước sóng dài<br />
hơn so với TiO2 tinh khiết. Khả năng quang xúc tác của vật liệu g-C3N4/TiO2 được<br />
đánh giá thông qua sự suy giảm nồng độ dung dịch Rhodamine B (RhB) (10 ppm)<br />
dưới sự chiếu xạ của ánh sáng đèn Xenon. Kết quả thu được cho thấy vật liệu<br />
composite g-C3N4/TiO2 có khả năng quang xúc tác tốt hơn vật liệu g-C3N4.<br />
Từ khóa: g-C3N4; TiO2; Composite; Quang xúc tác; Rhodamine B.<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Trong những thập kỷ qua, do những ứng dụng tiềm năng trong lĩnh vực môi trường và<br />
năng lượng, vật liệu quang xúc tác có khả năng hoạt động trong vùng ánh sáng nhìn thấy<br />
đã thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới. Vật liệu<br />
có cấu trúc nano g-C3N4 đã được chứng minh là có tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực sản<br />
xuất H2, giảm khí thải CO2 và được ứng dụng trong lọc nước do có bề rộng dải cấm thích<br />
hợp (2,67 eV) và có khả năng quang xúc tác tốt trong vùng ánh sáng nhìn thấy [1-3]. Hơn<br />
nữa, g-C3N4 được biết đến là vật liệu có tính ổn định nhiệt và hóa học cao hơn nhiều so với<br />
vật liệu quang xúc tác thông thường như TiO2. Tuy nhiên, hiệu quả quang xúc tác của vật<br />
liệu g-C3N4 còn hạn chế do tốc độ tái hợp nhanh của cặp điện tử - lỗ trống. Hiện nay, các<br />
nhà khoa học đang nghiên cứu một số biện pháp để nâng cao hiệu quả quang xúc tác của<br />
vật liệu g-C3N4 với mục đích chủ yếu là làm tăng thời gian sống của cặp hạt tải tự do như:<br />
(i) pha tạp nguyên tố kim loại chuyển tiếp (Fe, V, Co) vào vật liệu g-C3N4 [3-4]; (ii) phủ<br />
lên vật liệu các hạt nano kim loại có tính dẫn điện tốt (Au, Ag, Pt) [5-7]; (iii) tạo vật liệu tổ<br />
hợp với bán dẫn khác như Ag3PO4, NaTaO3, Fe3O4, ZnO, TiO2, WO3 [9].<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn cách tạo vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2 bằng<br />
phương pháp trộn cơ học với các tỉ lệ khối lượng g-C3N4/TiO2 khác nhau và nghiên cứu<br />
cấu trúc tinh thể, tính chất quang và khả năng quang xúc tác của hệ vật liệu.<br />
2. THỰC NGHIỆM<br />
Vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2 được chế tạo bằng phương pháp trộn cơ học và rung siêu<br />
âm hỗn hợp hai thành phần g-C3N4 và TiO2. Đầu tiên TiO2 được chế tạo bằng phương<br />
pháp đồng kết tủa. Nhỏ giọt 3 ml TTIP (titanium tetraisopropoxide) vào 45 ml<br />
isopropanol_2. Hỗn hợp dung dịch được nhỏ từ từ vào 900 ml dung dịch chứa 50 ml<br />
isopropanol_2 và 10 µl dung dịch HNO3 trong 2 giờ. Sản phẩm kết tủa thu được li tâm, lọc<br />
rửa nhiều lần. Tiếp theo, sản phẩm được sấy khô và nung ở 400 oC trong 2 giờ thu được<br />
các hạt TiO2 có màu trắng. Vật liệu g-C3N4 được chế tạo bằng phương pháp đơn giản là<br />
nhiệt phân Urê trong không khí ở 550 oC trong vòng 2 giờ. Vật liệu composite g-<br />
<br />
<br />
<br />
136 L. T. Hằng, …, Đ. D. Bích, “Chế tạo và nghiên cứu … của vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
C3N4/TiO2 được trộn cơ học với các tỉ lệ khối lượng g-C3N4:TiO2 lần lượt là 2:8; 3:7; 4:6;<br />
5:5; 6:4 và được kí hiệu tương ứng là: CT2-8; CT3-7; CT4-6; CT5-5; CT6-4. Sản phẩm<br />
được khuấy trong 6 giờ rồi đem rung siêu âm 30 phút. Cuối cùng, mẫu được sấy khô ở<br />
nhiệt độ 120 oC. Hai vật liệu thành phần là TiO2 và g-C3N4 cũng được khảo sát các tính<br />
chất vật lí và thử tính quang xúc tác để so sánh.<br />
Khả năng quang xúc tác của hệ vật liệu được đánh giá thông qua khả năng phân hủy<br />
dung dịch Rhodamine B (RhB) 10 ppm dưới sự chiếu ánh của đèn Xenon. Đầu tiên 0,06 g<br />
g-C3N4/TiO2 được hòa tan trong 30 ml nước cất và rung siêu âm trong 1 giờ. Sau đó, thêm<br />
30 ml dung dịch RhB 20 ppm vào dung dịch trên. Hỗn hợp được khuấy từ trong bóng tối<br />
30 phút nhằm đạt trạng thái hấp phụ bão hòa. Bước tiếp theo, dung dịch được chiếu sáng<br />
dưới đèn Xenon trong điều kiện khuấy đều bằng mấy khuấy từ. Cứ sau khoảng thời gian<br />
30 phút, lấy ra 3 ml dung dịch và đem li tâm với tốc độ 4000 vòng/phút trong thời gian 10<br />
phút để tách bột g-C3N4/TiO2 ra khỏi dung dịch trước khi đo phổ hấp thụ. Sự thay đổi<br />
cường độ đỉnh hấp thụ tại bước sóng 544 nm là cơ sở xác định khả năng phân hủy RhB<br />
của g-C3N4/TiO2.<br />
Cấu trúc của hệ vật liệu được khảo sát bởi nhiễu xạ kế tia X D8-ADVANCE với bức xạ<br />
CuK có bước sóng = 1,54060 Å. Phép đo phổ hấp thụ được thực hiện trên hệ đo Jasco<br />
670. Phổ phát xạ huỳnh quang của các mẫu được kích thích bởi nguồn có bước sóng 325<br />
nm và đo phát xạ trong khoảng bước sóng 350-700 nm.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Kết quả đo nhiễu xạ tia X (XRD) của các mẫu g-C3N4/TiO2, g-C3N4 và TiO2 được trình<br />
bày trên hình 1. Trên giản đồ nhiễu xạ của mẫu TiO2 cho thấy có các đỉnh nhiễu xạ tại vị<br />
trí góc 2 là 25,2o; 37,8o; 47,9o; 53,9o và 62,7o. Đối chiếu với thẻ chuẩn JCPDS số 21-<br />
1272, ta thấy các đỉnh này tương ứng với họ các mặt phẳng mạng (101), (004), (200),<br />
(211), (204) và (116) của tinh thể TiO2 ở pha anatase với cấu trúc tứ giác. Vị trí các đỉnh<br />
phổ trùng khớp với thẻ chuẩn, chứng tỏ mẫu TiO2 chế tạo được hoàn toàn đơn pha. Bằng<br />
cách làm khớp hàm Gaussian trên giản đồ nhiễu xạ tia X và sử dụng phần mềm UnitCell<br />
để tính hằng số mạng, kết quả cho thấy hằng số mạng của tinh thể TiO2 là a = b = 3,795 Å<br />
và c = 9,788 Å.<br />
(002)<br />
(101)<br />
(001)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
g-C3N4<br />
Cường độ (đ.v.t.y.)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CT6-4<br />
<br />
CT5-5<br />
<br />
CT4-6<br />
CT3-7<br />
CT2-8<br />
(101)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(200)<br />
<br />
<br />
<br />
(211)<br />
(004)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(105)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TiO2<br />
<br />
<br />
10 20 30 40 50 60 70<br />
2 theta (o)<br />
<br />
Hình 1. Giản đồ XRD của hệ mẫu TiO2, g-C3N4 và g-C3N4/TiO2 composite<br />
với các tỉ lệ khối lượng khác nhau.<br />
Mẫu g-C3N4 có các đỉnh nhiễu xạ tại vị trí góc 2θ = 12,8o; 24,8o và 27,4o và có sự phù<br />
hợp với thẻ chuẩn JCPDS số 87-1526. Các đỉnh này tương ứng với họ các mặt phẳng mạng<br />
(001), (101) và (002) của tinh thể g-C3N4 trong cấu trúc lục giác, thuộc nhóm không gian P-<br />
6m2. Đỉnh nhiễu xạ mạnh tại vị trí góc 2θ = 27,4o có nguồn gốc từ các lớp xếp chồng lên<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 137<br />
Vật lý & Khoa học vật liệu<br />
nhau tương tự như graphite. Đỉnh có cường độ yếu và mở rộng tại vị trí góc 2θ = 12,8o có<br />
liên quan đến các vòng lặp s-triazine trên cùng một mặt phẳng của các ô cơ sở [10].<br />
Trên giản đồ XRD của các mẫu composite g-C3N4/TiO2 chỉ xuất hiện các đỉnh nhiễu xạ<br />
tương ứng với hai thành phần pha tinh thể của TiO2 pha anatase và g-C3N4. Đỉnh nhiễu xạ tại<br />
vị trí 2θ = 27,4o, tương ứng với mặt phẳng mạng (002) của g-C3N4 có cường độ tăng dần khi<br />
lượng g-C3N4 trong composite tăng lên theo thứ tự từ mẫu CT2-8 đến mẫu CT6-4. Vị trí<br />
đỉnh nhiễu xạ của hai pha trong composite g-C3N4/TiO2 gần như không thay đổi khi tỉ lệ<br />
thành phần thay đổi cũng như không thay đổi so với các pha thành phần là g-C3N4 và TiO2.<br />
Điều này cho thấy việc tổ hợp vật liệu composite g-C3N4/TiO2 bằng phương pháp trộn cơ<br />
học g-C3N4 với TiO2 không làm thay đổi cấu trúc tinh thể của cả hai vật liệu thành phần này.<br />
Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của TiO2, g-C3N4 và các mẫu composite g-C3N4/TiO2 là<br />
CT2-8 và CT6-4 được trình bày trên hình 2. Ảnh SEM của TiO2 cho thấy hình thái là các<br />
hạt nhỏ dạng giả cầu có kích thước từ 3 đến 8 nm. Trong khi đó, g-C3N4 giống như các lá<br />
mỏng có độ dày khoảng 15 nm và đường kính từ vài chục tới vài trăm nm xếp chồng lên<br />
nhau. Ảnh SEM của các mẫu CT2-8 và CT6-4 cho thấy có sự xuất hiện của cả hạt và lá<br />
tương ứng với cả hai pha của g-C3N4 và TiO2. Ngoài ra, khi quan sát kĩ trên hình 2b-c có<br />
thể nhận thấy một phần các hạt TiO2 có kích thước nhỏ phân tán trên bề mặt các tấm g-<br />
C3N4, một phần khác kết lại thành các đám hạt TiO2. Số lượng các hạt nano TiO2 trong<br />
mẫu CT2-8 nhiều hơn hẳn so với trong mẫu CT4-6. Tuy nhiên, mẫu CT6-4 có sự phân tán<br />
của các hạt TiO2 trên các tấm g-C3N4 một cách đồng đều hơn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
100 nm 100 nm<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
100 nm 100 nm<br />
<br />
Hình 2. Ảnh SEM của các mẫu: (a) g-C3N4; (b) CT6-4, (c) CT2-8 và (d) TiO2.<br />
2<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. (a) Phổ hấp thụ và (b) biểu diễn (h)2 theo năng lượng photon của các mẫu<br />
TiO2, g-C3N4 và composite g-C3N4/TiO2 với tỉ lệ khối lượng khác nhau.<br />
<br />
<br />
138 L. T. Hằng, …, Đ. D. Bích, “Chế tạo và nghiên cứu … của vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
Tính chất hấp thụ của các mẫu composite g-C3N4/TiO2 và TiO2, g-C3N4 được đo bằng<br />
phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại khả kiến (UV-Visible Diffuse Reflectance Spectroscopy).<br />
Như kết quả trình bày trên hình 3a, bờ hấp thụ cơ bản của vật liệu TiO2 ở khoảng bước<br />
sóng 406 nm tương ứng với năng lượng vùng cấm cỡ 3,23 eV, còn g-C3N4 có bờ hấp thụ ở<br />
khoảng 463 nm, ứng với năng lượng vùng cấm là 2,82 eV. Các mẫu composite CT2-8,<br />
CT3-7, CT4-6, CT5-5, CT6-4 có bờ hấp thụ dịch về phía ánh sáng đỏ so với TiO2. Bờ hấp<br />
thụ của các mẫu composite chênh lệch không đáng kể. Năng lượng vùng cấm của bán dẫn<br />
n<br />
được ước tính bởi biến đổi Kubelka-Munk: h A h Eg với α, h, υ, Eg, A lần lượt là <br />
hệ số hấp thụ, hằng số Planck, năng lượng vùng cấm và hằng số và sử dụng phương pháp<br />
Tauc [12]. Giá trị của n phụ thuộc vào tính chất quá trình chuyển dời trong bán dẫn. Giá trị<br />
n đối với bán dẫn chuyển dời xiên TiO2 và g-C3N4 là 2 [13]. Vì vậy, từ kết quả biểu diễn<br />
trên hình 3b, giá năng lượng vùng cấm (Eg) của TiO2, g-C3N4 và các vật liệu composite<br />
CT2-8, CT3-7, CT-4-6, CT5-5, CT6-4 được tính toán và trình bày trong bảng 1.<br />
Bảng 1. Giá trị độ rộng vùng cấm và bờ hấp thụ của các mẫu TiO2, CT2-8, CT3-7, CT4-6,<br />
CT5-5, CT6-4 và g-C3N4.<br />
Tên mẫu TiO2 CT2-8 CT3-7 CT4-6 CT5-5 CT6-4 g-C3N4<br />
Eg (eV) 3,23 2,92 2,92 2,92 2,92 2,94 2,82<br />
(nm) 406 452 452 452 452 457 463<br />
Từ bảng 1 ta thấy giá trị của độ rộng vùng cấm của tất cả các mẫu composite đều lớn<br />
hơn độ rộng vùng cấm của TiO2 và nhỏ hơn độ rộng vùng cấm của mẫu g-C3N4. Điều này<br />
có thể giải thích được khi coi rằng phổ hấp thụ của các mẫu composite là kết quả của việc<br />
cộng phổ hấp thụ của hai thành phần.<br />
Sự tái hợp của cặp điện tử - lỗ trống có thể giải phóng năng lượng và có thể phát hiện<br />
được thông qua phát xạ huỳnh quang. Cường độ huỳnh quang thấp là dấu hiệu cho thấy<br />
việc tái hợp điện tử - lỗ trống giảm, dẫn tới tăng hoạt tính quang xúc tác. Hình 4a là kết<br />
quả phổ phát xạ huỳnh quang của các mẫu TiO2 tinh khiết pha anatase, g-C3N4 và các mẫu<br />
CT2-8, CT4-6, CT6-4 khi được kích thích bởi lade có bước sóng 325 nm. Kết quả cho<br />
thấy, phổ phát xạ huỳnh quang của tất cả các mẫu là một dải rộng từ 350 tới 700 nm và<br />
không có sự dịch các đỉnh phát xạ của các mẫu. Điều này phù hợp với kết quả của phổ hấp<br />
thụ UV-Vis.<br />
<br />
g-C3N4 CT2-8<br />
(a) CT4-6 (b)<br />
CT4-6 CT6-4<br />
TiO2<br />
Cường độ (đ.v.t.y.)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cường độ (đ.v.t.y.)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CT2-8 g-C3N4<br />
P1<br />
P3<br />
P2<br />
<br />
<br />
TiO2<br />
<br />
CT6-4<br />
P4<br />
<br />
<br />
400 500 600 700 400 500 600 700<br />
Bước sóng (nm) Bước sóng (nm)<br />
<br />
Hình 4. (a) Phổ huỳnh quang của TiO2 pha anatase, g-C3N4 và các composite g-C3N4/TiO2<br />
với tỉ phần pha khác nhau và (b) Đường làm khớp phổ huỳnh quang bằng hàm Gaussian.<br />
Trên hình 4 ta thấy xuất hiện đỉnh phát xạ tại vị trí 506 nm được xác định là của TiO2.<br />
Trong nghiên cứu trước đây của Wang và cộng sự [11] đã chỉ ra rằng các đỉnh phổ phát xạ<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 139<br />
Vật lý & Khoa học vật liệu<br />
của g-C3N4 có thể do sự chồng chập của nhiều đỉnh. Vì thế, để xác định vị trí các đỉnh phổ<br />
huỳnh quang của mẫu, chúng tôi tiến hành làm khớp đỉnh phổ theo hàm Gaussian bằng<br />
phần mềm Origin. Kết quả cho thấy các đỉnh phát xạ huỳnh quang của g-C3N4 tại vị trí 432<br />
nm, 451 nm, 492 nm và 541 nm (hình 4b) và có sự phù hợp với kết quả nghiên cứu của<br />
Wang. Khi vật liệu bị kích thích ánh sáng, điện tử ở vùng hóa trị δ chuyển lên vùng dẫn δ*,<br />
sau đó các điện tử chuyển xuống các trạng thái có năng lượng thấp hơn và phát xạ. Nguồn<br />
gốc của các đỉnh phát xạ P1, P2, P3 trên phổ huỳnh quang là sự chuyển mức điện tử<br />
δ*LP, π*LP và π*π. Trong đó, δ* và π* là các trạng thái phản liên kết còn δ và π là<br />
các mức liên kết, LP là trạng thái điện tử lẻ cặp của nitride (hợp chất nitơ) nằm giữa mức π<br />
và δ (hình 5).<br />
*<br />
*<br />
<br />
P1 P2 P3<br />
<br />
<br />
LP<br />
<br />
<br />
Hình 5. Sơ đồ mức năng lượng phát xạ của vật liệu g-C3N4.<br />
Các mẫu composite đều có cường độ phát huỳnh quang thấp hơn so với mẫu g-C3N4<br />
tinh khiết. Điều này gián tiếp cho thấy việc tạo composite với TiO2 làm giảm tốc độ tái<br />
hợp của cặp điện tử-lỗ trống. Kết quả giảm cường độ huỳnh quang theo nồng độ TiO2<br />
trong composite có thể được giải thích phù hợp với mô hình cấu trúc vùng năng lượng của<br />
tiếp xúc dị chất g-C3N4, có lợi cho quá trình quang xúc tác của vật liệu g-C3N4.<br />
Khả năng quang xúc tác của TiO2, g-C3N4 tinh khiết và các composite g-C3N4/TiO2<br />
được đánh giá thông qua sự phân hủy dung dịch Rhodamine B (RhB) dưới sự chiếu xạ của<br />
đèn Xenon. Hình 6 biểu diễn tỉ lệ cường độ đỉnh hấp thụ của dung dịch RhB với sự có mặt<br />
của vật liệu composite g-C3N4/TiO2 ở những thời điểm khác nhau được chiếu sáng bằng<br />
đèn Xenon.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 6. Kết quả phân hủy RhB dưới sự chiếu sáng của đèn<br />
Xenon đối với các mẫu composite g-C3N4/TiO2.<br />
Kết quả cho thấy tất cả các mẫu đều đạt tới trạng thái hấp phụ bão hòa đối với RhB sau<br />
30 phút khuấy trong bóng tối. Mẫu g-C3N4 biểu hiện khả năng hấp phụ tốt nhất trong số<br />
<br />
<br />
140 L. T. Hằng, …, Đ. D. Bích, “Chế tạo và nghiên cứu … của vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
các mẫu, điều này có thể giải thích là do hình thái dạng tấm của g-C3N4. TiO2 pha anatase<br />
biểu hiện hiệu quả phân hủy RhB tốt nhất trong các mẫu, gần như 100% RhB đã bị phân<br />
hủy sau 2 giờ chiếu sáng đèn Xenon. Mẫu g-C3N4 tinh khiết cho hiệu quả quang xúc tác<br />
kém nhất trong các mẫu. Các mẫu composite g-C3N4/TiO2 trong nghiên cứu này có hiệu<br />
quả quang xúc tác không khác biệt nhiều và dung dịch RhB gần như mất màu hoàn toàn<br />
sau 2,5 giờ chiếu sáng. Hiệu quả quang xúc tác cao của TiO2 có thể được giải thích do<br />
trong bức xạ đèn Xenon có chứa một phần đáng kể ánh sáng tử ngoại là vùng mà vật liệu<br />
nano TiO2 có hoạt tính quang xúc tác rất mạnh. Mặc dù hiệu quả quang xúc tác còn thấp<br />
hơn TiO2 pha anatase tinh khiết nhưng vật liệu composite g-C3N4/TiO2 đã cải thiện đáng<br />
kể khả năng quang xúc tác so với vật liệu g-C3N4 tinh khiết do vật liệu này đã giảm khả<br />
năng tái hợp của cặp điện tử - lỗ trống như đã thể hiện trong phổ phát xạ truyền qua. Hơn<br />
nữa, nếu xét trong khoảng thời gian dưới 1 giờ, vật liệu compiste chế tạo được có tốc độ<br />
phân hủy RhB cao hơn TiO2 tinh khiết. Đây là một kết quả đáng lưu ý của hệ vật liệu này<br />
và cần có những nghiên cứu chi tiết hơn.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
Vật liệu composite g-C3N4/TiO2 được chế tạo thành công bằng phương pháp trộn cơ<br />
học g-C3N4 với TiO2. Các hạt TiO2 kích thước nano đã phân tán trên bề mặt các lá mỏng<br />
g-C3N4 làm cho vật liệu composite g-C3N4/TiO2 tạo thành có độ xốp cao. Sự kết hợp giữa<br />
g-C3N4 với TiO2 cũng làm giảm sự tái hợp của cặp điện tử - lỗ trống. Điều này đã làm cho<br />
khả năng quang xúc tác của vật liệu composite tốt hơn so với g-C3N4 trong điều kiện chiếu<br />
sáng bằng đèn Xenon. Vật liệu composite chế tạo được cũng thể hiện tốc độ phân hủy cao<br />
hơn TiO2 trong khoảng thời gian ngắn (dưới 1 giờ) mặc dù hiệu quả quang xúc tác cuối<br />
cùng thấp hơn.<br />
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ<br />
Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 103.02-2016.46.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. J. Jiang et al., “Dependence of electronic structure of g-C3N4 on the layer number of<br />
its nanosheets: A study by Raman spectroscopy coupled with first-principles<br />
calculations,” Carbon, Vol. 80, No. 1 (2014), pp. 213–221.<br />
[2]. Y. Liao et al., “Tailoring the Morphology of g-C3N4 by Self-Assembly towards High<br />
Photocatalytic Performance,” Chem Cat Chem, Vol. 6, No. 12 (2014), pp. 3419–<br />
3425.<br />
[3]. S. Cao and J. Yu, “g-C3N4-based Photocatalysts for Hydrogen Generation,” J. Phys.<br />
Chem. Lett., Vol. 5, No. 12 (2014), pp. 2101–2107.<br />
[4]. G. Ding, W. Wang, T. Jiang, B. Han, H. Fan, and G. Yang, “Highly Selective<br />
Synthesis of Phenol from Benzene over a Vanadium-Doped Graphitic Carbon Nitride<br />
Catalyst,” Chem Cat Chem, Vol. 5, No. 1 (2013), pp. 192–200.<br />
[5]. S. Hu et al., “Enhanced visible light photocatalytic performance of g-C3N4<br />
photocatalysts co-doped with iron and phosphorus,” Appl. Surf. Sci., Vol. 311<br />
(2014), pp. 164–171.<br />
[6]. Z. Li, J. Wang, K. Zhu, F. Ma, and A. Meng, “Ag/g-C3N4 composite nanosheets:<br />
Synthesis and enhanced visible photocatalytic activities,” Mater. Lett., Vol. 145<br />
(2015), pp. 167–170.<br />
[7]. W.-J. Ong, L.-L. Tan, S.-P. Chai, and S.-T. Yong, “Heterojunction engineering of<br />
graphitic carbon nitride (g-C3N4) via Pt loading with improved daylight-induced<br />
photocatalytic reduction of carbon dioxide to methane,” Dalt. Trans., Vol. 44, No. 3<br />
(2015), pp. 1249–1257.<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 141<br />
Vật lý & Khoa học vật liệu<br />
[8]. W. Zhang, L. Zhou, and H. Deng, “Ag modified g-C3N4 composites with enhanced<br />
visible-light photocatalytic activity for diclofenac degradation,” J. Mol. Catal. A<br />
Chem., Vol. 423, No. July (2016), pp. 270–276.<br />
[9]. G. Mamba and A. K. Mishra, “Graphitic carbon nitride (g-C3N4) nanocomposites: A<br />
new and exciting generation of visible light driven photocatalysts for environmental<br />
pollution remediation,” Appl. Catal. B Environ., Vol. 198 (2016) pp. 347–377.<br />
[10]. L. Ming, H. Yue, L. Xu, and F. Chen, “Hydrothermal synthesis of oxidized g-C3N4<br />
and its regulation of photocatalytic activity,” J. Mater. Chem. A, Vol. 2 (2014), pp.<br />
19145–19149.<br />
[11]. Y. Yuan et al., “High-yield synthesis and optical properties of g-C3N4,” Nanoscale,<br />
Vol. 7, no. 29 (2015), pp. 12343–12350.<br />
[12]. D. L. Wood and J. Tauc, “Weak Absorption Tails in Amorphous Semiconductors,”<br />
Physical Review B, Vol. 5, No. 8 (1972), pp. 3144-3151<br />
[13]. Y. Chen et al, "Construction of Heterostructured g-C3N4/Ag/TiO2 Microspheres with<br />
Enhanced Photocatalysis Performance under Visible-Light Irradiation," ACS Appl.<br />
Mater. Interfaces, Vol. 6, No 16 (2014), pp. 14405-14414<br />
ABSTRACT<br />
SYNTHESIS AND INVESTIGATION OF PHYSICAL PROPERTIES,<br />
PHOTOCATALYTIC ABILITY OF g-C3N4/TiO2 COMPOSITE MATERIAL<br />
In this study, the results of studies the physical properties as well as the<br />
possibility of composite materials synthesized by mechanical mixing method with<br />
different mass ratios are shown. The crystal structure, surface morphology and<br />
optical properties of the prepared materials were investigated by using X-ray<br />
diffraction (XRD), scanning electron microscope (SEM), photoluminescence (PL)<br />
and UV-vis absorption spectra. The results showed that the synthesized materials<br />
exhibited good crystallization of both component phases, without the presence of<br />
impurities. The TiO2 nanoparticles adhered on the surface of g-C3N4 nanosheets.<br />
The UV-Visible Diffuse Reflectance measurement displayed that the optical<br />
absorption edge of g-C3N4/TiO2 composites had a red shift to the longer wavelength<br />
in comparison with pure TiO2. The photocatalytic activity of the g-C3N4/TiO2<br />
material was evaluated by degradingthe concentration of Rhodamine B (RhB)<br />
solution (10 ppm) under the irradiation of the Xenon light. The results also showed<br />
that the synthesized g-C3N4/TiO2 composite materials have a better photocatalytic<br />
ability than pure g-C3N4.<br />
Keywords: g-C3N4; TiO2; Composite; Photocatalytic; Rhodamine B.<br />
<br />
Nhận bài ngày 06 tháng 3 năm 2018<br />
Hoàn thiện ngày 18 tháng 3 năm 2018<br />
Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 4 năm 2018<br />
1<br />
Địa chỉ: Khoa Khoa học Đại cương, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội;<br />
2<br />
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội;<br />
3<br />
Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Mỏ - Địa chất.<br />
*<br />
Email: lamhang289@gmail.com.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
142 L. T. Hằng, …, Đ. D. Bích, “Chế tạo và nghiên cứu … của vật liệu tổ hợp g-C3N4/TiO2.”<br />