BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
“CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
Mã số: CS18 – 05
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Dương Thị Hồng Nhung
Thành viên tham gia: ThS. Đỗ Thị Thu Huyền
Hà Nội, tháng 4/2019
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài .......................................................................................1
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài ............................................................................................3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ........................................................................12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................................12 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài .....................................................................................12
6. Kết cấu của đề tài ...........................................................................................................13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA .......................................................................14
1.1. Một số khái niệm cơ bản .............................................................................................14 1.1.1 Khu du lịch quốc gia .................................................................................................14
1.1.2 Chính sách phát triển các khu du lịch .......................................................................19
1.2. Nội dung nghiên cứu về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia ....................23
1.2.1 Các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia .......................................................23
1.2.2. Quy trình chính sách phát triển khu du lịch quốc gia .............................................27
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển khu du lịch quốc gia .......................33
1.3.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ............................................33
1.3.2. Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương ....................................34
1.3.3. Bộ máy tổ chức quản lý các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ..............................34
1.3.4. Ngân sách chi cho phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ............................35
1.3.5. Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các khu du lịch quốc gia ...................................35 1.3.6. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ........................36
1.3.7. Nhận thức của dân cư địa phương tại các khu du lịch quốc gia ...........................36
1.3.8. Các yếu tố khác ........................................................................................................37
1.4 Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch và bài học rút ra cho Việt Nam ..........37 1.4.1 Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia tại một số quốc gia trên thế giới ..............................................................................................37 1.4.2 Bài học rút ra cho các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ........................................41 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHU DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM ....................................................................................................46 2.1 Tổng quan về các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam .................................................46 2.1.1 Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm ........................................................................46 2.1.2 Khu du lịch quốc gia Sapa ........................................................................................47
2.1.3 Khu du lịch quốc gia Núi Sam ..................................................................................48
2.2 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam .....49
2.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ............................................49 2.2.2. Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương ....................................52
2.2.3. Bộ máy tổ chức quản lý các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ..............................53
2.2.4. Ngân sách chi cho phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ............................56
2.2.5. Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các khu du lịch quốc gia ...................................57
2.2.6. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ........................59 2.2.7. Nhận thức của dân cư địa phương tại các khu du lịch quốc gia ............................61
2.3 Phân tích thực trạng chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ............61
2.3.1 Các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ..................................61 2.3.2 Thực trạng quy trình chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam .......73 2.4. Các kết luận qua nghiên cứu thực trạng ......................................................................78
2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân của chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam ............. 78
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam ............. 81
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHU DU LỊCH QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM ................85
3.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển du lịch Việt
Nam trong thời gian tới ......................................................................................................85
3.1.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới ..........85
3.1.2 Phương hướng và mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 .............................................................................................................87
3.2 Định hướng và quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
tại Việt Nam .......................................................................................................................88
3.2.1 Định hướng phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam .............................................88
3.2.2 Quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam ..........91
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam ..... 91 3.3.1. Hoàn thiện các chính sách phát triển .....................................................................92 3.3.2. Khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đối với các doanh nghiệp du lịch tại các địa phương có KDLQG .............................................................. 100 3.3.3. Nâng cao nhận thức đối với các hộ người dân sinh sống và làm dịch vụ tại các KDLQG Việt Nam .................................................................................................... 101 3.3.4. Tăng cường quản lý khách du lịch tại các KDLQG Việt Nam ............................. 102
3.3.5. Đẩy mạnh quy hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch tại các KDLQG Việt Nam ......................................................................... 103
3.3.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch tại các KDLQG Việt Nam ........... 104 3.3.7. Hoàn thiện công tác thanh tra kiểm tra triển khai thực hiện chính sách phát
triển các KDLQG Việt Nam ........................................................................................... 105
3.4. Kiến nghị về chính sách phát triển KDLQG tại Việt Nam đến năm 2030 .............. 105
3.4.1.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ VHTTDL và TCDL ................... 106
106
3.4.2. Kiến nghị với các cấp, các ngành liên quan về du lịch của các địa phương có KDLQG KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Các chính sách phát triển du lịch chủ yếu ..........................................................23 Bảng 2.1 Số lượng khách du lịch quốc tế đến KDLQG Việt Nam (2017 – 2018) ..........58
Bảng 2.2 Số lượng khách du lịch nội địa đến KDLQG Việt Nam (2017 – 2018) ...........58
Bảng 3.1 Kế hoạch phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam giai đoạn năm
2020, tầm nhìn 2030 ..........................................................................................................89
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Quy trình xây dựng chính sách .........................................................................29
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GDĐT HĐND KDL KDLQG LĐTBXH NCKH Nxb TP QG UBND VHTTDL Giáo dục đào tạo Hội đồng nhân dân Khu du lịch Khu du lịch quốc gia Lao động – Thương binh – Xã hội Nghiên cứu khoa học Nhà xuất bản Thành phố Quốc gia Ủy ban nhân dân Văn hóa – Thể thao và Du lịch
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
Tên đề tài: Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp
Mã số: CS18 – 05
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Dương Thị Hồng Nhung Tổ chức chủ trì: Trường Đại học Thương mại Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019
2. Mục tiêu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích, đánh giá về thực trạng
chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia hiện nay để xác lập quan điểm,
phương hướng và các nhóm giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát
triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam trong thời gian tới.
3. Tính mới và sáng tạo:
Đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về chính sách phát triển khu du
lịch quốc gia. Đề tài đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để đánh giá
khách quan thực trạng các chính sách và quy trình chính sách phát triển khu du lịch
quốc gia của Việt Nam hiện nay. Đề tài đã đề xuất được các giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam giai đoạn
2020-2030.
4. Kết quả nghiên cứu:
Đóng góp về mặt lý thuyết, đề tài đã tổng quan được một số khái niệm cơ bản về khu du lịch quốc gia như: Khái niệm, đặc điểm khu du lịch quốc gia; Điều kiện công nhận khu du lịch quốc gia; Nội dung phát triển khu du lịch quốc gia; các vấn đề cơ bản liên quan đến chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia bao gồm các chính sách, quy trình chính sách và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia.
Đóng góp về mặt thực tiễn, đề tài đã sử dụng các thông tin và dữ liệu thứ cấp
đánh giá thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam trong
thời gian vừa qua.
Về giải pháp, trên cơ sở các dự báo về phương hướng và mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội và du lịch Việt Nam, đề tài đã nhận dạng các phương hướng và quan điểm để hoàn thiện chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam. Đề tài
cũng tập trung đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các khu
du lịch quốc gia Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài ra, đề tài còn đề xuất một số
kiến nghị đối với các bộ, ban, ngành có liên quan.
5. Sản phẩm: - 01 bài báo đăng Tạp chí khoa học chuyên ngành
- 01 báo cáo tổng kết nghiên cứu đề tài
6. Phương thức chuyển giao, địa chỉ ứng dụng, tác động và lợi ích mang lại của kết quả nghiên cứu:
Phương thức chuyển giao
Báo cáo tổng hợp nghiên cứu đề tài sau khi được nghiệm thu chính thức sẽ
được chuyển giao toàn bộ tới phòng Quản lý Khoa học, trường Đại học Thương
mại.
Đồng thời, báo cáo tổng hợp của đề tài sẽ được lưu trữ tại thư viện của
Trường Đại học Thương mại phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập của
giáo viên và sinh viên của Nhà trường.
Địa chỉ ứng dụng
+ Tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong việc khai
thác tài nguyên tại các khu du lịch quốc gia trong kinh doanh du lịch.
+ Các trường có đào tạo về quản lý nhà nước về du lịch.
+ Tài liệu tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình quản lý
hoạt động du lịch và các hoạt động liên quan.
Tác động và lợi ích mang lại của kết quả nghiên cứu
- Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo học tập, nghiên cứu. Đặc biệt, đề tài được nghiên cứu để có thể vận dụng trong giảng dạy học phần Kinh tế du lịch tai trường Đại học Thương Mại nói riêng và các trường có giảng dạy về Chính sách phát triển du lịch tại các trường đại học, cao đẳng đào tạo về du lịch nói chung.
- Đối với phát triển kinh tế - xã hội
+ Đối với Tổng cục Du lịch: Đề tài có thể được sử dụng để hỗ trợ công tác
quản lý và khai thác tài nguyên du lịch tại các khu du lịch quốc gia của Việt Nam để
phát triển du lịch
+ Đối với công ty lữ hành du lịch: Đề tài có thể giúp hỗ trợ khai thác tài
nguyên, xây dựng và phát triển bền vững các tour du lịch tại các khu du lịch quốc
gia trên địa bàn cả nước.
+ Đối với cộng đồng dân cư sinh sống tại các khu du lịch quốc gia: Đề tài
giúp nâng cao nhận thức của người dân trong việc gìn giữ và bảo tồn các giá trị tự nhiên – văn hóa của địa phương, cùng với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại
địa phương nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tổ chức chủ trì Ngày 01 tháng 4 năm 2019 Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ và tên, đóng dấu)
Dương Thị Hồng Nhung
INFORMATION ON RESEARCH RESULTS
1. General information:
Project title: Policies for developing Vietnam's national tourist areas:
Current situation and solutions
Code number: CS18 - 05
Coordinator: Duong Thi Hong Nhung
Implementing institution: Thuong mai University Duration: from September 2018 to May 2019
2. Objective(s):
The objective of the research is to analyze and evaluate the current status of policies to develop national tourist areas to establish views, orientations and solutions and proposals to improve policies for developing Vietnam's national
tourist areas in the coming period.
3. Creativeness and innovativeness:
The research has systemized a number of theoretical issues on policies for
developing national tourist areas. The research has used qualitative research
methods to objectively assess the current status of policies and policies process of
policies for developing Vietnam's national tourist areas. The research has proposed
solutions and recommendations to improve policies for developing Vietnam's
national tourist areas in the period 2020-2030.
4. Research results:
In theory, the research has overviewed some basic concepts of national
tourist areas such as: Concept, characteristics of national tourist areas; Conditions
for recognizing national tourist areas; Content of developing a national tourist area;
Basic issues related to policies for developing national tourist areas include policies,
policy processes and factors affecting policies to develop national tourist areas.
In terms of practical contributions, the research has used secondary information and data to assess the current status of policies to develop Vietnam's national tourist areas in the past time.
Regarding the solution, on the basis of forecasts on the direction and objectives of socio-economic and tourism development in Vietnam, the research has identified the orientations and perspectives to improve the policies to develop
Vietnam's national tourist areas. The research also focuses on proposing solutions to
improve policies for developing Vietnam's national tourist areas in the coming time.
In addition, the research also proposes a number of recommendations to the relevant
ministries, departments and agencies. 5. Products:
- 01 article published in a specialized scientific reviews
- 01 summary report on research topic
6. Transfer alternatives, application institutions, impacts and benefits of
research results:
Transfer alternatives
The research’s report after being officially accepted will be transferred to the
Department of Science Management, Thuong mai University
Besides, the research’s report will be stored in the library of Thuong mai University for research, teaching and learning of lecturers and students of the
University.
Application institutions
+ Reference materials for Vietnamese tourism enterprises in exploiting
natural resources in national tourist areas in tourism business.
+ Schools have training on state management on tourism.
+ Reference materials for state management agencies in the process of
managing tourism activities and related activities.
Impacts and benefits of research results
- For education and training: The research can be used as a reference for
studying and research. The research could be used to applied in teaching the
Tourism Economics at Thuong mai University in particular and the schools have
trained the policy of developing tourism at universities and colleges that training in
tourism in general.
- For socio-economic development + For the Department of Tourism: The research can be used to support the management and exploitation of tourism resources at Vietnam’s national tourist areas to develop tourism.
+ For tourism enterprises: The research could support the exploitation of natural resources, sustainable setting up and developing the tours in the national tourist areas throughout the country.
+ For the community living in the national tourist areas: The research helps
raise people's awareness in preserving the natural and cultural values of the locality,
along with tourism enterprises in the locality to bring high economic efficiency.
2rd April, 2019
Host organization Coordinator
Duong Thi Hong Nhung
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Trong nhiều thập kỷ qua, du lịch đã có sự tăng trưởng và đa dạng hóa mạnh mẽ để trở thành một trong những khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế
giới. Du lịch hiện nay đang không ngừng phát triển gắn liền với số lượng ngày càng
nhiều các điểm đến mới. Những động thái này đã biến du lịch thành động lực chính
cho sự tiến bộ kinh tế xã hội. Theo tổ chức du lịch thế giới UNWTO, năm 2017, du
lịch quốc tế đóng góp 10% GDP toàn cầu, 1/10 việc làm trên toàn thế giới, 7% giá trị xuất khẩu quốc tế, 30% giá trị xuất khẩu ngành dịch vụ, tương ứng 1,4 nghìn tỷ
USD. Do đó, du lịch có vai trò quan trọng trong kinh tế thế giới nói chung và kinh
tế từng quốc gia đã và đang phát triển nói riêng.
Ngoài vai trò kinh tế, du lịch còn được đánh giá là có những đóng góp quan trọng cả về văn hóa – xã hội và chính trị. Đây cũng là ngành được các chính phủ
xem xét như một phương tiện thúc đẩy và tăng trưởng việc làm cho người dân, góp
phần ổn định xã hội. Vì vậy, kiểm soát và quản lý ngành du lịch đáp ứng nhu cầu
phát triển quốc gia luôn cần được khuyến khích và hỗ trợ, nhằm đảm bảo sự phát
triển này tương thích với cơ sở hạ tầng, văn hoá và các giá trị địa phương. Đối với
các điểm đến du lịch, đặc biệt là các khu du lịch quốc gia, là những khu vực có tài
nguyên du lịch đa dạng, đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên hoặc
giá trị văn hóa, có ranh giới xác định, có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật,
dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu
khác của khách du lịch thì càng cần có sự kiểm soát và quản lý chặt chẽ từ phía nhà
nước để đảm bảo phát triển lâu dài và hiệu quả. Như vậy, chính sách quản lý nhà
nước đối với các khu du lịch quốc gia là rất cần thiết nhằm đảm bảo ngành du lịch,
cũng như các hoạt động du lịch tại đó được phát triển một cách bền vững, công
bằng và có trách nhiệm để mang lại những đóng góp tích cực và đáng kể vào sự
phát triển của mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam hiện nay có 46 khu du lịch quốc gia tiềm năng và đã bổ sung thêm một khu du lịch quốc gia tiềm năng là khu du lịch Núi Sam vào năm 2015. Trong đó, tính đến tháng 12 năm 2018, đã có 03 khu du lịch quốc gia chính
thức được công nhận, đó là khu du lịch quốc gia Sapa (Lào Cai), Khu du lịch quốc
gia Hồ Tuyền Lâm (Đà Lạt) và Khu du lịch quốc gia Núi Sam (An Giang).
Với tài nguyên du lịch phong phú, việc công nhận và tạo điều kiện thuận lợi phát triển các khu du lịch quốc gia, đồng thời đề ra các chính sách quản lý nhằm
phát triển du lịch ở đây có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa góp phần bảo tồn giá trị
tài nguyên du lịch và đảm bảo khai thác hiệu quả và bền vững các yếu tố tài nguyên.
Cụ thể, hiện nay, các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam đang được thực hiện các
chính sách phát triển du lịch như: Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, Chính sách phát triển sản phẩm du lịch, Chính sách đầu tư CSHT và
CSVCKT du lịch, Chính sách tài chính, Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch,
Chính sách hợp tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch ...
Tuy vậy, việc triển khai chính sách quản lý nhà nước chưa thực sự hiệu quả, nguồn ngân sách của Nhà nước đầu tư vào xây dựng các công trình du lịch tại các
khu du lịch quốc gia chưa mang lại lợi ích mong muốn; Hơn nữa chính sách thu hút
đầu tư vào du lịch cũng chưa tương xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó, hiện tại một
số địa phương có điều kiện kinh tế chưa phát triển nên quá trình triển khai các chính
sách phát triển du lịch bị ảnh hưởng không nhỏ. Chính sách đào tạo phát triển
nguồn nhân lực còn hạn chế; Chính sách xúc tiến quảng bá chưa được quan tâm
đúng mức cả về chất và lượng; Chính sách đầu tư du lịch chưa kích thích đầu tư
kinh doanh du lịch; Chính sách xây dựng sản phẩm mới chưa khuyến khích khai
thác tiềm năng du lịch hợp lý, chưa phát triển thị trường du lịch địa phương tương
xứng với vị thế và tiềm năng du lịch, chưa thúc đẩy ngành du lịch phát triển... Do
đó, sự phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia hiện nay còn chưa thực sự hiệu
quả. Để có điều kiện hội nhập phát triển du lịch với cả nước, trong khu vực và quốc
tế, khai thác hiệu quả các tiềm năng du lịch, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước thì việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển các khu
du lịch quốc gia trong giai đoạn trước mắt và tầm nhìn lâu dài là một yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài trong và ngoài nước nghiên cứu về sự phát triển du lịch nói chung và phát triển khu du lịch quốc gia nói riêng. Những công trình nghiên cứu này đã cung cấp rất nhiều cơ sở lý luận và quan điểm, cách tiếp cận về sự phát triển du lịch tại đây, bao gồm những vấn đề lý luận về khu du lịch, chính sách phát triển du lịch, tình hình phát
triển du lịch…Tuy nhiên cho đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu về chính sách
phát triển các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam, vì thế, đề tài nghiên cứu của nhóm
tác giả vừa đảm bảo có sự kế thừa các lý luận khoa học liên quan, vừa có tính mới,
không bị trùng lặp với các đề tài trước đây.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đó, nhóm tác giả đã quyết định lựa chọn đề
tài “Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam: thực trạng và giải
pháp” cho hướng nghiên cứu đề tài cấp cơ sở của mình. Thông qua nghiên cứu này,
nhóm tác giả mong muốn đóng góp một phần vào việc xây dựng và hoàn thiện
những chính sách phù hợp để có thể khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch Việt Nam. 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới cũng như ở trong nước đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập và bàn thảo về một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến Khu du lịch quốc gia và Chính sách phát triển du lịch. Các nghiên cứu về khu du lịch, khu du lịch quốc gia
Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước về khu du lịch, khu du lịch quốc gia. Các công trình nghiên cứu
này đã phần nào hệ thống hóa được các khái niệm về du lịch, khu du lịch, về mô
hình hoạt động, về những tác động của các khu du lịch đối với tài nguyên thiên
nhiên và đối với kinh tế xã hội của khu vực. Những công trình này chủ yếu dưới
dạng các bài báo khoa học, các đề tài nghiên cứu, một số sách chuyên khảo và tham
khảo.
Với những khu du lịch hoặc vùng du lịch ở nước ngoài, các tác giả thường
nghiên cứu khái quát về sự phát triển du lịch tại đó và các vấn đề liên quan. Như
cuốn “Tourism in Developing Countries”, Nxb International Thomson Business
Press, hai tác giả Martin Oppermann và Kye - Sung Chon (1997) đã tập trung phân
tích những vấn đề về sự phát triển du lịch tại các điểm đến du lịch ở các khu du lịch
của các nước đã và đang phát triển như mối liên hệ giữa chính phủ và du lịch, các
mô hình phân tích phát triển du lịch, các phương pháp đo lường phát triển du lịch quốc tế, sự phát triển các điểm đến du lịch như khu nghỉ mát ven đồi hay ven biển, các khu du lịch vùng ngoại ô. Cũng nghiên cứu về phát triển du lịch tại các khu du lịch, cụ thể tại các vùng du lịch nông thôn, các tác giả Stephen J. Page và Don Getz (1997) trong cuốn “The Business of Rural Tourism International Perspectives”, Nxb International Thomson Business Press, đề cập đến những vấn đề chính như: chính sách, kế hoạch của chính phủ và các tác động của kinh doanh du lịch tại
vùng nông thôn. Trong đó tác giả phân tích về vấn đề tài chính cũng như quảng bá
cho du lịch tại vùng nông thôn, đồng thời nêu ra một số mô hình mẫu tại các nước
như Mỹ, Canada, Trung Quốc, Đức, Úc, Niu Dilân... và một số tác động đối với
việc phát triển loại hình du lịch tại khu vực này.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua cũng đã khái
quát được những vấn đề cơ sở lý luận về khu du lịch và tuyến điểm du lịch nói
chung, vai trò và điều kiện hình thành, phát triển các khu và tuyến điểm du lịch Việt
Nam, các khu du lịch biển quốc gia và các khu du lịch nói chung. Bên cạnh đó, các
đề tài nói trên đã đúc kết được những kinh nghiệm thực tiễn về phát triển các khu du lịch khác nhau tại các quốc gia điển hình trên thế giới để từ đó tổng kết, đúc kết
thành những bài học kinh nghiệm quý giá trong khai thác và phát triển du lịch tại
các khu du lịch của Việt Nam. Có thể kể đến như đề tài NCKH cấp Bộ của Viện nghiên cứu phát triển du lịch năm 2004 về “Phương hướng phát triển du lịch - Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam” đã tổng hợp
hệ thống lý luận về khu, tuyến, điểm du lịch: Các khái niệm về khu, tuyến, điểm du
lịch; vai trò, ý nghĩa của các khu, tuyến, điểm du lịch đối với sự phát triển của du
lịch Việt Nam; Các điều kiện để hình thành, phát triển và quản lý các khu, tuyến,
điểm du lịch; Những nhóm tiêu chí chính để xây dựng khu, tuyến, điểm du lịch.
Đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của một số nước trong việc xác định tiêu chí xây
dựng các khu, tuyến, điểm du lịch (chủ yếu nghiên cứu kinh nghiệm của một số
nước như Trung Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ...) làm cơ sở cho việc xác định tiêu chí
xác định và quản lý các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam. Trong khi đó, đề tài
NCKH cấp Bộ của Viện nghiên cứu phát triển du lịch (tác giả Lê Văn Minh) năm
2006 về “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du lịch” cũng đưa
ra một số cơ sở lý luận về khu du lịch nhưng nghiên cứu sâu hơn ở góc độ đầu tư
phát triển khu du lịch. Bên cạnh đó, đề tài đã tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc
gia điển hình trong việc quản lý tài nguyên và phát triển du lich, trong đầu tư phát
triển du lịch, trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng để phát triển du lịch tại các khu du lịch. Cũng về các khu du lịch, nhưng đề tài NCKH cấp Bộ của Viện nghiên cứu phát triển du lịch năm 2011 về “Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển QG tại vùng du lịch Bắc Trung bộ” lại tiến hành tổng hợp và hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về phát triển khu du lịch biển, đánh giá đặc điểm các khu du lịch QG biển tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ và các nhân tố tác động đến nó trong quá trình phát triển, đồng thời cũng tiến hành tổng kết kinh nghiệm phát
triển của một số khu du lịch QG biển nước ngoài.
Ngoài việc đưa ra những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý
và phát triển các khu du lịch nói chung và một số khu du lịch đặc trưng, như khu du
lịch biển, những đề tài nói trên cũng đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá thực trạng phát triển du lịch tại các khu du lịch cụ thể và đưa ra các nhóm giải pháp phù hợp.
Cụ thể, đề tài NCKH cấp Bộ của Viện nghiên cứu phát triển du lịch năm 2004 về
“Phương hướng phát triển du lịch - Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến,
điểm du lịch ở Việt Nam” đã đánh giá hiện trạng phát triển các khu, tuyến, điểm du
lịch ở Việt Nam qua các khía cạnh chính: Thực trạng công tác phát triển và khai thác các khu, tuyến, điểm du lịch; Hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến công
tác quản lý du lịch nói chung, quản lý phát triển các khu, tuyến, điểm du lịch nói
riêng. Từ đó đề xuất tiêu chí xây dựng các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam như: Tiêu chí xây dựng các khu du lịch biển; Tiêu chí xây dựng các khu du lịch núi; Tiêu chí xây dựng các khu du lịch hỗn hợp. Còn đề tài NCKH cấp Bộ của Viện
nghiên cứu phát triển du lịch năm 2011 về “Hiện trạng và giải pháp phát triển các
khu du lịch biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung bộ” lại tập trung nghiên cứu
về các khu du lịch biển quốc gia vùng du lịch Bắc Trung Bộ; Đề tài đã đánh giá
thực trạng phát triển các khu du lịch quốc gia biển tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ,
xác định những tồn tại thách thức trong quá trình phát triển, trên cơ sở đó đề xuất
các định hướng và giải pháp phát triển các khu du lịch quốc gia biển tại vùng du
lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2020. Trong khi đó, đề tài NCKH cấp Bộ của Viện
nghiên cứu phát triển du lịch năm 2006 về “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu
tư phát triển khu du lịch” đã phân tích và đánh giá về thực trạng đầu tư phát triển du
lịch của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, từ đó làm căn cứ đưa ra các giải pháp
nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển khu du lịch của Việt Nam trong thời gian tới.
Các nghiên cứu về chính sách phát triển du lịch, chính sách phát triển khu
du lịch
Để phát triển du lịch thì rất cần những chính sách hỗ trợ. Vì thế, nghiên cứu về các chính sách du lịch là một trong những hướng nghiên cứu khá phổ biến trên thế giới hiện nay khi tìm hiểu, nghiên cứu về phát triển du lịch. Các chính sách hỗ trợ sẽ đảm bảo quản lý và phát triển du lịch theo đinh hướng chung của mỗi quốc gia, từ đó đạt được sự phát triển bền vững và mang lại hiệu quả. Đây là công cụ quản lý của nhà nước đối với sự phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các vùng, các khu du lịch nói riêng. Có thể kể đến bản báo cáo “Governing
National Tourism Policy” của tác giả David Scowsill (2015) trong World Travel &
Tourism Council, ông đã nghiên cứu xu hướng quản lý du lịch quốc gia, sự hợp tác
giữa nhà nước, tư nhân và các bên liên quan khác trong lĩnh vực du lịch, thông qua
một số ví dụ thực tế về cơ chế hợp tác, phát triển và quản lý trong nội bộ Chính phủ, cũng như sự hợp tác với các thành phần tư nhân để hoạch định chiến lược, xây dựng
chính sách, từ đó phát triển các chính sách hợp tác nhằm hỗ trợ các thành phần liên
quan đạt được sự phát triển cân bằng trong những năm tới. Cũng cùng quan điểm về
thành phần và yếu tố cấu thành chính sách du lịch, tác giả S. Medlik (1995) trong
cuốn sách “Managing Tourism” xuất bản bởi Butterworth - Heinemann Ltd, cho rằng: Trong du lịch, các chính sách phải dựa trên một kết hợp chặt chẽ các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội và các đối tượng phạm vị lãnh thổ không gian. Những đối
tượng này phải được đặt vào một khuôn khổ mang tính quyết định mà chức năng chính của nó là đạt được mục tiêu với những ý nghĩa cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Thiết lập chính sách trong du lịch không phải là một nhiệm vụ phức
tạp của chính phủ, mà sự phức tạp là bởi việc phát triển phải thông qua sự hợp tác
với các tổ chức du lịch và trong ngành du lịch. Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập về
khái niệm sản phẩm, sự cạnh tranh trong ngành hàng không, sự quảng bá sản phẩm
và điểm đến, sự quản lý du lịch, giới hạn cũng như thách thức đối với ngành du lịch.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển kinh tế xã hội trên nhiều mặt và
nhiều lĩnh vực khác nhau mà trong đó du lịch là một lĩnh vực rất được coi trọng và
quan tâm. Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển xứng tầm với
tiềm lực sẵn có thì cần phải có một chiến lược đúng đắn và những chính sách phù
hợp. Thông qua nhiều công trình khác nhau, trong thời gian qua đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về hệ thống chính sách đối với phát triển du lịch và khu du lịch. Những
công trình này đã phần nào tóm lược, phân tích những hạn chế cũng như nguyên
nhân còn tồn tại trong các chính sách du lịch, trong đó thường tập trung vào các
nhóm chính sách cụ thể, tiếp cận ở các lĩnh vực khác nhau nhưng có liên quan đến
sự phát triển du lịch. Các nhóm chính sách này bao gồm:
- Chính sách về vốn và tài chính để phát triển du lịch: Để phát triển du lịch đòi hỏi phải có nguồn vốn và tài chính phù hợp để đầu tư, thực thi và phát triển các hoạt động du lịch và ngành du lịch Việt Nam. Về chính sách đầu tư, đánh giá về hệ thống chính sách có vai trò quan trong. Trong đề tài khoa học cấp Bộ (2013) của Bộ VHTTDL về “Hệ thống chính sách đầu tư, tài chính ngành VHTTDL và gia đình trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải pháp”, tác giả Hồ Việt Hà đã phân tích
vai trò của chính sách đầu tư, tài chính đối với sự phát triển ngành VHTTDL và gia
đình trong giai đoạn hiện nay; Giới thiệu một số tiêu chí cơ bản để làm cơ sở đánh
giá các quy định pháp lý về đầu tư, tài chính ngành trong ngành VHTTDL và gia
đình; Tổng quan kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đầu tư, tài chính nhằm quản lý và phát triển ngành VHTTDL và
gia đình, trên cơ sở đó phân tích và rút ra bài học vận dụng cho Việt Nam; Tiến
hành rà soát, đánh giá tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về
đầu tư, tài chính trong lĩnh vực VHTTDL, gia đình. Phân tích những mặt được,
chưa được của hệ thống chính sách này và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Đánh giá khái quát tình hình đầu tư, tài chính của ngành VHTTDL và gia đình
giai đoạn 2006 - 2013, trong đó tập trung phân tích tình hình đầu tư, tài chính từ
nguồn NSNN, từ các hình thức đầu tư, tài chính gián tiếp khác của nhà nước và từ các nguồn vốn xã hội hóa. Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hệ thống chính sách đầu tư, tài chính đối với ngành VHTTDL và gia đình.
Về các kênh huy động vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho phát
triển du lịch, tác giả Nguyễn Thị Bằng (1996), trong Luận án phó tiến sĩ Kinh tế,
Đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội của về “Những giải pháp huy động và sử dụng
vốn đầu tư phát triển ngành Du lịch Việt Nam ” đã phân tích thực trạng huy động
vốn và sử dụng vốn đầu tư phát triển du lịch trước năm 1996 và đề xuất được các
giải pháp về huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư, làm cơ sở xây dựng các chính
sách của Nhà nước cho đầu tư phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2005. Nội dung
luận án đã đề cập đến huy động vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư cho du lịch trong
giai đoạn trước (trước năm 2005) và đề xuất, kiến nghị các định hướng về chính
sách nhằm huy động và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển du lịch Việt Nam cho các
giai đoạn sau đó.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư, các chính sách, giải pháp tài chính mà ngành du
lịch Việt Nam đã áp dụng trong thời gian vừa qua cũng là nội dung quan trọng trong
nghiên cứu chính sách phát triển du lịch. Tác giả Chu Văn Yêm (2004) trong luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính về “Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010”, đã phân tích thực trạng du lịch Việt Nam từ năm 1996 đến 2002; đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra hạn chế và nguyên nhân phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt những giải pháp tài chính mà ngành Du lịch Việt Nam đã áp dụng nhưng chưa đạt được hiệu quả cao. Từ thực trạng phát triển du lịch Việt Nam và thực trạng áp dụng những giải pháp tài chính,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp tài chính để phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2010, trong đó có một số giải pháp chủ chốt như các chính sách để tăng cường đầu
tư từ ngân sách Nhà nước, giải pháp về tín dụng, bảo hiểm tạo nguồn ngân quỹ cần
thiết cho hoạt động du lịch cũng như sự phát triển của ngành du lịch.
- Các chính sách về nguồn nhân lực: Nhân lực là yếu tố quyết định đến việc
thực thi và triển khai mọi hoạt động, trong đó có du lịch. Nghiên cứu về chính sách
phát triển du lịch luôn không thể thiếu các chính sách về nhân lực. Đây cũng là nội
dung mà tác giả Soh, Juliana Kheng Mei (2008) trong công trình nghiên cứu về
“Human Resource Development in the Tourism Sector in Asia” trên The Berkeley Electronic Press lại đề cập. Trên cơ sở minh họa số liệu ở một số nước như
Singapore, Macau, China và Thái Lan, bài báo nói về thực trạng phát triển công
nghiệp du lịch ở Châu Á, dự báo về doanh thu du lịch, số khách đến, số lao động du lịch vào năm 2015 ở Châu Á. Tác giả phản ánh thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch, về cung cầu nhân lực du lịch ở Châu Á, qua đó chỉ ra được những vấn đề
lớn mà Châu Á đang phải đối mặt trong công cuộc phát triển nhân lực du lịch là kỹ
năng tay nghề, sự thiếu hụt về lao động du lịch, chất lượng đào tạo của các cơ sở
đào tạo du lịch. Tác giả cũng nhấn mạnh các cơ sở đào tạo du lịch ở Châu Á hiện
nay thiếu sự liên kết với các doanh nghiệp sử dụng lao động du lịch, thiếu các kỹ
năng nâng cao, chưa tạo được cơ hội học tập suốt đời cho lao động du lịch. Từ thực
trạng, tác giả đã đưa ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch ở cấp khu vực
Châu Á và cấp quốc gia cho các nước Singapore, Macau, China và Thailand. Bài
báo khẳng định thu nhập từ du lịch đang phát triển mạnh ở châu Á, đóng góp một số
lượng đáng kể so với GDP ở nhiều nước, trong thời gian tới cần giảm tình trạng
thiếu nhân lực có tay nghề cao, cả ở cấp nghề và quản lý trong ngành du lịch. Mỗi
quốc gia đều xây dựng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch, những chiến
lược này có cùng mục đích nhằm giảm bớt tình trạng thiếu nhân lực được đào tạo
cho ngành du lịch. Đây là cơ sở để xây dựng các chính sách nhân lực nói riêng và
chính sách phát triển du lịch nói chung.
Tại Việt Nam, vấn đề về nhân lực du lịch cũng rất quan trọng trong phát triển du lịch. Các tác giả Đinh Thị Hải Hậu (2014) trong luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính về “Huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Trần Sơn Hải (2010) trong luận án tiến sĩ kinh tế Học viện Tài chính về “Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên”, Trần Quang Hảo (2008), trong bài viết
trên Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 4/2008 về “Đâu là điều kiện cần thiết để phát
triển nguồn nhân lực du lịch” đều đề cập đến vấn đề này. Trong đó, theo tác giả
Trần Quang Hảo điều kiện cần thiết để phát triển nguồn nhân lực du lịch là các định
hướng chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Tác giả đã đề cập đến việc giải bài toán phát triển nguồn nhân lực du lịch như tăng cường liên kết
giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với cơ sở đào tạo để tạo ra nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu xã hội, tuy nhiên vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Lý do
chính của những hạn chế trong hoạt động giáo dục đào tạo chủ yếu xuất phát từ cơ
chế, chính sách và hoạt động quản lý về giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập. Tác giả đã đề xuất giải pháp để phát triển nguồn nhân lực du lịch là cần có sự
quan tâm giải quyết cụ thể, khoa học, đồng bộ, tích cực hơn từ Chính phủ, các Bộ,
ngành, địa phương, của cả hệ thống giáo dục đào tạo, có sự phối hợp thực sự chặt chẽ, nghiêm túc với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Tác giả đã khẳng định được các điều kiện cần thiết để phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Muốn phát triển được nhân lực du lịch thì cần có vốn, vậy
huy động vốn từ đâu và như thế nào là nội dung mà tác giả Đinh Thị Hải Hậu trong
luận án của mình đã đề cập. Theo đó, tác giả đã khảo cứu kinh nghiệm nước ngoài
và các bài học rút ra cho Việt Nam về huy động vốn đầu tư phát triển nhân lực du
lịch, đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch
Việt Nam trong những năm qua và chỉ ra những kết quả đạt được và nguyên nhân,
những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đã đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch
Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, những giải pháp trên cần có
những điều kiện thực hiện về cơ chế, chính sách, định hướng về cơ cấu đào tạo cho
phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế. Đối với vùng du lịch, công trình nghiên cứu tiêu biểu tại vùng duyên hải Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên của tác giả Trần Sơn Hải đã nghiên cứu về vấn đề phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch trên địa bàn thuộc 5 tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và 5 tỉnh Tây Nguyên bằng cách tiếp cận liên ngành giữa phương pháp luận nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, phương pháp luận nghiên cứu phát triển ngành Du lịch và phương pháp luận nghiên cứu phát triển vùng của khoa học vùng. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển đất nước thông qua phát triển vùng, điển hình là ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc – Trung - Nam, thì việc kết hợp giữa phát triển ngành và phát triển vùng là đặc biệt có ý nghĩa mới đối với
chiến lược quản lý hành chính công trong tương lai gần của đất nước. Luận án đã
làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản liên quan đến phát triển nguồn nhân lực ngành
du lịch như khái niệm, các đặc điểm đặc trưng của nguồn nhân lực ngành du lịch, cơ
cấu lao động, nội dung quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch. Trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các giải pháp, chính sách đồng bộ nhằm
phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tại khu vực khảo sát; đồng thời đề xuất
những kiến nghị cụ thể đối với các bên có liên quan đến phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch như Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Bộ VHTTDL, Ủy ban nhân dân các tỉnh trong khu vực để các giải pháp, chính sách có tính khả thi, mang lại hiệu quả như
mong muốn.
- Các chính sách tổng hợp: Bên cạnh những chính sách cho từng lĩnh vực cụ thể thì để phát triển du lịch Việt Nam vẫn rất cần các chính sách tổng hợp. Các chính sách này cần được triển khai toàn diện và trên các khía cạnh khác nhau của
hoạt động du lịch. Về mặt lý luận, Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2014), trong
đề tài cấp cơ sở về “Tổng quan hệ thống chính sách phát triển du lịch Việt Nam,”
nhóm tác giả xác định: xuất phát từ tính chất của ngành du lịch là một ngành liên
ngành, liên vùng và có tính xã hội cao, các chính sách đối với ngành du lịch vì thế
cũng mang tính phức tạp và đa dạng. Các chính sách phát triển du lịch không chỉ có
những chính sách nội bộ trong ngành mà còn có sự tham gia của nhiều ngành khác
có liên quan vì bản thân du lịch không thể tự phát triển du lịch nếu không có sự
tham gia, hỗ trợ của các ngành khác. Từ lý luận đó, tác giả đã tiến hành nghiên cứu
và trình bày tổng quan các vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách và chính sách du
lịch, hệ thống hóa các chính sách về phát triển du lịch của Việt Nam từ năm 2005
đến 2014. Trên cơ sở đó, đề tài đã tiến hành phân tích thực trạng các chính sách đối
với phát triển du lịch nhằm thấy được những mặt được và chưa được của các chính
sách phát triển du lịch Việt Nam. Dựa vào những kết quả phân tích đó, đề tài đã đưa
ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển du lịch của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Để phát triển du lịch thì rất cần có chính sách hỗ trợ. Như trong đề tài NCKH cấp Nhà nước của tác giả Trịnh Quang Hảo (2002), Viện nghiên cứu phát triển du lịch, về “Cơ sở khoa học cho các chính sách, giải pháp quản lý khai thác tài nguyên du lịch ở Việt Nam”, tác giả nhận định, muốn khai thác và quản lý hiệu quả tài nguyên du lịch thì rất cần phải có các chính sách phù hợp. Trong đề tài của mình,
tác giả đã hệ thống và tổng quan những vấn đề lý luận chung về tài nguyên du lịch,
quản lý khai thác tài nguyên du lịch, phân tích hiện trạng quản lý khai thác tài
nguyên du lịch hiện nay ở Việt Nam, đưa ra những khó khăn bất cập và nguyên
nhân. Từ đó, đề xuất một số chính sách và giải pháp nhằm tháo gỡ những bức xúc hiện nay trong quản lý khai thác tài nguyên du lịch, cụ thể là: Hoàn thiện và ban
hành mới một số văn bản pháp lý và chính sách về quản lý khai thác tài nguyên du
lịch; Xác định rõ các nội dung, đề xuất cách thức quản lý, mô hình quản lý và các
giải pháp quản lý cụ thể có thể áp dụng vào thực tiễn quản lý khai thác tài nguyên
du lịch tại cơ sở, góp phần phát huy giá trị, bảo tồn phát triển tài nguyên và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của các hoạt động khai thác tài nguyên du lịch tại địa
phương. Còn với các dịch vụ du lịch, chẳng hạn như dịch vụ lữ hành, việc vận dụng
chính sách hỗ trợ phát triển là điều rất cần thiết. Đó cũng là nội dụng mà luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội của Nguyễn Trùng Khánh (2012) về “Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế: Kinh nghiệm của một số nước Đông Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam” đề
cập. Tác giả đã cố gắng hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến
việc phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như:
du lịch, khách du lịch, dịch vụ lữ hành du lịch, dịch vụ lữ hành du lịch quốc tế
inbound... Tác giả cũng khẳng định tính chất dịch vụ thương mại của hoạt động lữ
hành du lịch; chỉ ra các điều kiện phát triển dịch vụ lữ hành du lịch, bao gồm các
điều kiện về cung và cầu. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong hội
nhập kinh tế quốc tế của một số nước Đông Á mà Việt Nam có thể tham khảo như:
(i) Hệ thống hóa và nghiên cứu thực trạng thông qua các số liệu cập nhật đến 2010
để phân tích kinh nghiệm phát triển dịch vụ lữ hành của Trung Quốc, Malaysia và
Thái Lan trên cơ sở sử dụng các nguồn lực, sự thay đổi của chính sách qua các giai
đoạn và sự tác động của chúng tới sự phát triển dịch vụ lữ hành du lịch, từ đó, rút ra
những nhận xét về kết quả tích cực và những hạn chế đối với sự phát triển của dịch
vụ lữ hành du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; (ii) Qua nghiên cứu sự tác động từ chính sách của Nhà nước tới phát triển ngành du lịch, trong đó có dịch vụ lữ hành du lịch, luận án đã đưa ra các bài học thành công về chiến lược phát triển, marketing, cung cấp dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo an ninh, phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường. Tác giả luận án đã phân tích thực trạng phát triển ngành du lịch của Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong lĩnh vực dịch vụ lữ hành du lịch. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản
và kiến nghị về chính sách phát triển dịch vụ lữ hành du lịch cho Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Các công trình nghiên cứu trên, bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm cả phương pháp định tính và phương pháp định lượng, đã phần nào
khái quát được hệ thống các chính sách và những quy định của Nhà nước, của chính
quyền địa phương đối với du lịch và phát triển du lịch, hệ thống những kinh nghiệm
về phát triển du lịch, về nhân lực du lịch của các địa phương và của các quốc gia,
vùng lãnh thổ điển hình. Tuy nhiên, các công trình này cũng mới chỉ dừng lại ở việc:
Một là, hệ thống hóa các lý luận cơ bản về vùng du lịch, khu du lịch nói
chung. Hai là, một số vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước về du lịch. Ba là, chính sách phát triển du lịch và chính sách phát triển khu du lịch.
Bốn là, khái quát về các yếu tố môi trường, hệ thống pháp luật, du lịch và
kinh tế nói chung trong sự phát triển bền vững của du lịch Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu nói trên chưa nghiên cứu và tiếp cận một cách
hệ thống và toàn diện về chính sách phát triển các các khu du lịch và khu du lịch
quốc gia, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về chính sách phát
triển các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam, chưa chỉ ra một cách đầy đủ các chính
sách phát triển du lịch cũng như quy trình thực hiện chính sách phát triển du lịch tại
các khu du lịch quốc gia Việt Nam.
Nhận thấy những khoảng trống so với những công trình nghiên cứu đã được
công bố, nhóm tác giả thấy rằng việc lựa chọn đề tài: “Chính sách phát triển các
khu du lịch quốc gia tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp” sẽ kế thừa được phần
nào kết quả trong các công trình nghiên cứu trước về các lý luận cơ bản về khu du
lịch nói chung, về quản lý nhà nước về du lịch, về chính sách phát triển du lịch, về
các yếu tố môi trường, hệ thống pháp luật, du lịch, văn hóa – xã hội và kinh tế nói chung trong sự phát triển bền vững của Việt Nam, về cách tiếp cận nghiên cứu từ chủ thể là các chính sách quản lý Nhà nước, trên góc độ quản lý nhà nước địa phương đối với khu du lịch quốc gia nằm trên lãnh thổ địa phương. Từ đó, tiếp tục nghiên cứu, phát hiện và đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm đề xuất các nhóm giải pháp, kiến nghị
để hoàn thiện chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam trong thời
gian tới. Để thực hiện mục tiêu nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Khái quát hóa một số vấn đề lí luận về chính sách phát triển khu du lịch
quốc gia
- Phân tích và đánh giá thực trạng các chính sách và quy trình chính sách
phát triển khu du lịch quốc gia của Việt Nam hiện nay - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát
triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nội dung các chính
sách và quy trình chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia.
- Về không gian nghiên cứu: Luận án lựa chọn 03 khu du lịch quốc gia đã
được công nhận chính thức ở Việt Nam, tính đến cuối tháng 12 năm 2018, bao gồm:
Khu du lịch quốc gia Sapa (Lào Cai), Khu lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm (Đà Lạt) và
Khu du lịch quốc gia Núi Sam (An Giang).
- Về thời gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu thực trạng từ 2016 – 2018, đề
xuất giải pháp đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
a, Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau, cụ thể:
- Phương pháp phân tích hệ thống: sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu các nhân tố cấu thành, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển các khu du lịch và các chỉ số, tiêu chí cấu thành, các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển du lịch nói chung và các khu du lịch quốc gia nói riêng… - Phương pháp tổng hợp thống kê, so sánh, quy nạp: Các phương pháp này sử dụng chủ yếu trong việc nghiên cứu bài học kinh nghiệm, phân tích thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch, đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị liên
quan đến hoàn thiện các chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam.
Mỗi phương pháp sử dụng đều có những ưu, nhược điểm khác nhau do vậy
khi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trên sẽ hỗ trợ nhau trong việc
làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài luận án. b, Phương pháp thu thập dữ liệu
Do hạn chế về thời gian và nguồn lực nghiên cứu nên nhóm tác giả chỉ sử
dụng các thông tin thứ cấp để hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Các nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập bao gồm: các văn bản, quy định,
chính sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương có liên quan đến phát triển các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam; số liệu thực tế từ các cơ quan quản lý du lịch của
ngành du lịch, cơ quan quản lý địa phương cũng như của các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch. Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả cũng đã tiến hành việc thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin từ việc nghiên cứu tài liệu, các công trình NCKH, luận án có liên quan đến đề tài.
c, Phương pháp xử lý dữ liệu
Số liệu sau khi thu thập được sẽ được nhóm tác giả xử lý làm sạch để loại bỏ
những thông tin không phù hợp cho mục đích nghiên cứu. Nhóm tác giả sẽ sử dụng
các phương pháp thống kê, phân tích thống kê để xử lý thông tin, đưa ra nhận xét,
kết luận và dự báo cần thiết cho đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về chính sách phát triển các khu du lịch
quốc gia
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia Việt
Nam
Chương 3: Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát
triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA
1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Khu du lịch quốc gia 1.1.1.1 Khái niệm khu du lịch quốc gia
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về khu du lịch. Theo tác giả Gee và
Chuck Y, trong cuốn “Resort Development and Management” (1996) thì “khu nghỉ
dưỡng, nghỉ mát du lịch có tính nguyên tắc bao trùm là phải tạo ra được một môi
trường mà môi trường đó có tác dụng thúc đẩy, nâng cao một hiệu ứng hưởng thụ
và cảm thụ được sự sung sướng. Ở đây vấn đề chất lượng phục vụ và hành vi ứng xử có văn hoá được coi là một trong những yếu tố rất quan trọng”.
Dưới góc nhìn của nhà quy hoạch, theo tác giả Edward Inskeep (1st Edition -
1991) trong cuốn sách của mình “Tourism Planning: An Integrated and Sustainable
Development Approach” đã viết: “Khu du lịch là một khu vực cung cấp đồng bộ các
dịch vụ và tiện nghi đặc thù cho khách du lịch, đặc biệt là những tiện nghi được thiết kế phù hợp phục vụ các mục đích, nhu cầu du lịch. Các khu du lịch thường thể
hiện tính tổng hợp cao, được qui hoạch mới hoặc kế thừa một vài khu du lịch cũ
chưa được qui hoạch nhưng vẫn đang hoạt động, cung ứng các tiện nghi và dịch vụ cho du khách”.
Tại châu Âu, khái niệm về khu du lịch được hiểu là một khu vực lãnh thổ
thống nhất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch trên cơ sở các yếu tố đặc thù về du
lịch ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Tư tưởng cơ bản của khái niệm trên bao
gồm:
- Khu du lịch là một sản phẩm du lịch, trong đó, sản phẩm là một tài nguyên
cộng với quá trình phát triển tài nguyên đó.
- Sự phát triển khu du lịch có thể do Nhà nước, tư nhân hoặc các tổ chức phi
lợi nhuận tiến hành.
- Thành phần cơ bản của sản phẩm du lịch (khu du lịch) là giá trị hấp dẫn của
tài nguyên du lịch được hỗ trợ bởi các dịch vụ và các trang thiết bị phục vụ.
Ở Việt Nam, điều 6 – Luật Du lịch 2017, khu du lịch được định nghĩa là
“khu vực có ưu thế về tài nguyên du lịch, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Khu du lịch bao gồm khu du lịch cấp
tỉnh và khu du lịch quốc gia”.
Như vậy có thể hiểu, khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch, có không gian diện tích đủ rộng, được quy hoạch đầu tư phát triển để trở thành nơi cung cấp đồng bộ các dịch vụ và tiện nghi du lịch đặc thù phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch; đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.
Khu du lịch quốc gia là một khái niệm mới trên thế giới. Hiện nay chưa có quan niệm chung về khu du lịch quốc gia. Các quốc gia trên thế giới vẫn sử dụng quan niệm về khu du lịch nói chung và xác định các khu du lịch quốc gia trên cơ sở
giá trị nguồn tài nguyên du lịch tại đó mang giá trị cấp quốc gia (Ví du: Trung
Quốc, Hàn Quốc…). Tiêu chuẩn này khác nhau ở mỗi nước, vì thế, quan điểm về
khu du lịch quốc gia ở các quốc gia khác nhau cũng không giống nhau. Ở Việt
Nam, khu du lịch quốc gia là danh hiệu do Thủ tướng chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định công nhận cho một khu du lịch đáp ứng đủ điều
kiện tiêu chuẩn tương ứng của một khu du lịch quốc gia.
Theo khoản 2, điều 26, chương IV của Luật du lịch Việt Nam năm 2017, các
điều kiện công nhận khu du lịch quốc gia bao gồm:
(1) Có tài nguyên du lịch đa dạng, đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan
thiên nhiên hoặc giá trị văn hóa, có ranh giới xác định;
(2) Có trong danh mục các khu vực tiềm năng phát triển khu du lịch quốc gia
(3) Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ chất lượng cao, đồng
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; bộ, đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch;
(4) Có kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông quốc gia;
(5) Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường
theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khi một khu du lịch đảm bảo đầy đủ các điều kiện của khu du lịch
quốc gia sẽ được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận.
Theo Điều 13, Chương IV, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP về Quy định một
số điều của Luật Du lịch, điều kiện công nhận khu du lịch quốc gia được cụ thể hóa
bao gồm:
(1). Có ít nhất 02 tài nguyên du lịch, trong đó có tài nguyên du lịch cấp quốc
gia; có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
Tỷ lệ bản đồ phụ thuộc vào yêu cầu quản lý và địa hình khu vực.
(2). Có trong danh mục các khu vực tiềm năng phát triển khu du lịch quốc
gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
(3). Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ chất lượng cao, đồng
bộ, đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch, bao gồm:
a) Có cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đáp ứng tối thiểu 500.000 lượt khách mỗi năm; hệ thống cơ sở lưu trú du lịch đáp ứng tối thiểu 300.000 lượt khách lưu trú mỗi năm, trong đó có cơ sở lưu trú du lịch được công nhận hạng từ 4 sao trở lên;
b) Có hệ thống điện lưới, hệ thống cung cấp nước sạch;
c) Có nội quy, hệ thống biển chỉ dẫn, thuyết minh về khu du lịch; có hệ thống
biển chỉ dẫn, biển báo về giao thông, các cơ sở dịch vụ, các điểm tham quan;
d) Cung cấp dịch vụ thuyết minh, hướng dẫn du lịch. (4). Có kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông quốc gia.
(5). Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường,
bao gồm:
a) Có hệ thống thu gom và xử lý rác thải, nước thải tập trung theo quy định
của pháp luật về bảo vệ môi trường; bố trí nhân lực làm vệ sinh môi trường;
b) Có bộ phận bảo vệ, cứu hộ, cứu nạn;
c) Công khai số điện thoại, địa chỉ của tổ chức quản lý khu du lịch;
d) Có bộ phận thông tin hỗ trợ khách du lịch; có hình thức tiếp nhận và giải
quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của khách du lịch;
đ) Nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ, được thông gió và đủ ánh sáng, được bố
trí đủ, tương ứng với số lượng khách du lịch vào thời kỳ cao điểm;
e) Áp dụng các biện pháp phòng, chống cháy nổ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, các khu du lịch tiềm năng sẽ đươc xem xét để quy hoạch phát triển
thành khu du lịch quốc gia. Khi khu du lịch quốc gia đảm bảo đầy đủ các điều kiện
theo quy định của Luật Du lịch 2017 và Nghị định 168/2017/NĐ-CP như trên thì sẽ
được công nhận khu du lịch quốc gia chính thức.
1.1.1.2 Đặc điểm khu du lịch quốc gia
Khu du lịch quốc gia là khu vực địa lý có sức hấp dẫn về du lịch và có các
hoạt động kinh doanh du lịch đảm bảo chất lượng. Khu du lịch quốc gia có những
đặc điểm riêng biệt, khác với các điểm hấp dẫn du lịch khác.
Khu du lịch quốc gia có sức hấp dẫn, được xây dựng và hoạt động nhằm đáp
ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước, bao gồm các yếu tố hấp dẫn như tài
nguyên du lịch (phong cảnh thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa) và các sự kiện ở
mức độ ít nhất là thu hút được thị trường trong vùng, ngoài ra còn có sức hút với thị trường cả nước và quốc tế.
Khu du lịch quốc gia có các đặc trưng riêng (lịch sử, văn hóa, tự nhiên, nhân tạo) để tạo nên sự khác biệt với các khu du lịch khác và có giá trị tài nguyên được xét tầm quốc gia.
Khu du lịch quốc gia được quy hoạch và đầu tư đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch bền vững. Khu du lịch quốc gia phải nằm trong quy hoạch tổng thể du
lịch quốc gia, quy hoạch phát triển kinh tế vùng lãnh thổ và theo những định hướng
chiến lược phát triển du lịch thống nhất chung của quốc gia.
Tổ chức hình thành khu du lịch quốc gia nhất thiết phải có dự án và luận chứng kinh tế kỹ thuật và phải qua thẩm định theo trình tự quy định của pháp luật.
Khu du lịch quốc gia chỉ được tổ chức hình thành, khai thác kinh doanh theo quy
định của luật pháp quốc gia.
Khu du lịch quốc gia có khả năng mở rộng, gồm nhiều điểm hấp dẫn du lịch
có sự liên kết với nhau. Khu du lịch quốc gia cần có sự phân biệt rõ ranh giới hành chính, trong đó xác định các điểm tham du lịch trong cùng phạm vi địa giới hành
chính, tạo ra cụm điểm du lịch liền kề, hấp dẫn, có nét đặc trưng chung, thu hút du
khách trong và ngoài nước.
Khu du lịch quốc gia có giá trị và quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội
và môi trường cho cả địa phương và quốc gia.
1.1.1.3. Nội dung phát triển khu du lịch quốc gia
Nội dung phát triển khu du lịch quốc gia thực chất là nội dung phát triển du
lịch tại các khu du lịch quốc gia. Có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển du
lịch tại các khu du lịch quốc gia.
Hiểu theo nghĩa đơn giản, phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia là
việc mở rộng quy mô, cơ cấu sản phẩm du lịch tại các khu du lịch quốc gia, đồng
thời tăng chất lượng dịch vụ du lịch tại đó.
Theo cách tiếp cận về kinh tế du lịch, phát triển du lịch tại các khu du lịch
quốc gia là việc tăng khả năng cung dịch vụ du lịch tại khu du lịch quốc gia, đồng
thời kích thích tăng cầu tiêu dùng dịch vụ du lịch của du khách tại đây, bên cạnh đó,
tăng cường các điều kiện hoạt động và môi trường hoạt động kinh doanh du lịch tại
các khu du lịch quốc gia.
Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả xác định, phát triển du lịch tại các khu du
lịch quốc gia là sự gia tăng không chỉ số lượng (quy mô, cơ cấu) các loại hình dịch vụ du lịch mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch nhằm cung ứng tốt hơn cho du khách và đem lại lợi ích ngày càng cao cho các đối tượng liên quan khác (như chính quyền địa phương, công ty du lịch và cộng đồng dân cư) tại khu du lịch quốc gia.
Trên cơ sở đó, nội dung phát triển khu du lịch quốc gia bao gồm các vấn đề
sau:
- Quy hoạch, phát triển khu du lịch quốc gia: Xây dựng chiến lược quy hoạch
phát triển luôn là một trong những nhiệm vụ quản lý nhà nước quan trọng đối với sự
phát triển của bất kỳ ngành/lĩnh vực kinh tế - xã hội nào, trong đó có ngành/lĩnh vực du lịch. Quy hoạch và phát triển khu du lịch quốc gia là quy hoạch ngành và du lịch
được xác định là ngành kinh tế tổng hợp, quan trọng có tính liên ngành, liên vùng
và xã hội hoá cao tại các khu du lịch quốc gia. Đối với mọi cấp, quy hoạch du lịch
là rất cần thiết để có thể quản lý và thành công trong sự phát triển ngành du lịch tại
điểm đến. Kinh nghiệm cho thấy những địa phương phát triển du lịch không có quy hoạch đều gặp phải những vấn đề về xã hội và môi trường, giảm lợi ích về kinh tế,
không thể nào cạnh tranh một cách hiệu quả đối với bất kỳ một điểm đến khác đã có
quy hoạch du lịch. Theo đó, để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả và lợi ích đạt được, việc lập quy hoạch phát triển du lịch tại khu du lịch quốc gia phải đảm bảo phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của
vùng du lịch, chiến lược phát triển ngành du lịch; bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa
cung và cầu du lịch, đồng thời phát huy được thế mạnh để tạo ra sản phẩm du lịch
đặc thù của từng địa phương, từng vùng nhằm sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên
du lịch tại các khu du lịch quốc gia.
- Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch, các giá trị văn hóa và môi trường du lịch
ở các khu du lịch quốc gia: Môi trường tự nhiên và xã hội cần được bảo vệ, tôn tạo
và phát triển. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi quyền hạn ban hành các quy
định, UBND các cấp tại các vùng du lịch phải có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và
phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương. Tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch có trách nhiệm xử lý các loại chất thải phát sinh trong quá trình
kinh doanh. Khách du lịch, dân cư tại vùng du lịch có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ
giá trị di sản văn hóa, bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có thái độ
ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du lịch
Việt Nam.
- Nghiên cứu, đầu tư xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch: Để có sản phẩm du lịch, cần có sự liên kết cả trong và ngoài ngành du lịch, cả địa phương với trong và ngoài nước. Nhu cầu của thị trường thì lớn nên khâu đầu tư vào sản phẩm du lịch cần liên kết để theo kịp, trước hết là với các doanh nghiệp du lịch tại vùng du lịch. Cần có dịch vụ cho khách “dừng chân” như các dịch vụ vui chơi giải trí. Đảm bảo tuyệt đối an toàn phương tiện tàu thuyền, văn hoá ẩm thực, du lịch tìm
hiểu phong tục tập quán sinh hoạt cộng đồng dân tộc. Ngay trong việc đầu tư xây
dựng sản phẩm du lịch tại các khu du lịch quốc gia chí ít cũng cần tới sự liên kết
của ba nhà: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà tổ chức du lịch.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, đầu tư phương tiện cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết
bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao tại các khu du lịch quốc
gia: Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, đồng bộ
trên phạm vi cả nước và từng địa phương. Phát triển mạng lưới giao thông thuận
tiện và nhanh chóng, tạo điều kiện phát huy hiệu quả hoạt động phục vụ du lịch. Đầu tư đổi mới, nâng cấp và hiện đại hóa các phương tiện vận chuyển khách du lịch
đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ. Ưu tiên các dự án quan trọng, tăng
cường công tác quản lý các công trình xây dựng một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc đầu tư nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị, công nghệ phục vụ du lịch hiện đại cũng rất quan trọng. Đầu tư xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng các tuyến, điểm và khu du lịch hiện đại. Hiện đại hoá các
phương tiện thông tin liên lạc và các trang thiết bị phục vụ du khách.
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch: Phát triển nguồn nhân lực du
lịch cần tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng của lực lượng lao động trong
ngành du lịch, gồm: lao động thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ
trung ương đến địa phương, lao động trong các doanh nghiệp du lịch gồm đội ngũ
cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ lao động nghiệp vụ trong các khách sạn - nhà
hàng, công ty lữ hành, vận chuyển du lịch..., lao động làm công tác đào tạo du lịch
trong các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
- Tuyên truyền, quảng bá du lịch: Vấn đề tuyên truyền, quảng cáo và xúc tiến
để thu hút vốn đầu tư, tiêu thụ sản phẩm cần được quan tâm. Các phương tiện thông
tin đại chúng, các cuộc hội nghị, hội thảo cần tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức của người dân về du lịch. Ngành Du lịch và các doanh nghiệp du lịch tại các
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chính sách, trên cơ sở khác nhau và
khu du lịch quốc gia cần tham gia vào nhiều hội chợ du lịch của khu vực và quốc tế nhằm quảng bá các sản phẩm du lịch của khu du lịch quốc gia để thu hút khách. 1.1.2 Chính sách phát triển các khu du lịch a, Khái niệm các cách tiếp cận khoa học khác nhau, dưới đây là một số khái niệm cơ bản: Theo tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy và Bùi Thị Hồng Việt (2012), trong giáo
trình “Chính sách kinh tế - xã hội”, chính sách là phương thức hành động được một
chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính
sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình quyết định. Chúng chỉ ra phạm vi
hay giới hạn cho phép của các quyết định nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào có thể và những quyết định nào không thể.
Như vậy, chính sách chính là định hướng hành động và cả những giải pháp
cần thiết để hiện thực hóa những định hướng đó. Mọi chủ thể đều có chính sách của
riêng mình như Nhà nước có chính sách của Nhà nước, địa phương có chính sách
của địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội – văn hóa cũng có những chính sách riêng của mình.
Xét ở góc độ quản lý nhà nước về kinh tế, chính sách là tổng thể các quan
điểm, tư tưởng, các giải pháp và các công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề, thực hiện những mục tiêu nhất định.
Chính sách của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của quốc gia và
địa phương, đối với cả nền kinh tế – văn hóa – chính trị – xã hội, hoặc có thể đối
với từng ngành riêng biệt. Các chính sách được thực hiện thông qua bộ máy các
ngành, các cấp có liên quan (chiều ngang), hoặc từ trung ương đến địa phương và
đến cá nhân (chiều dọc).
Chính sách được thể hiện qua các văn bản bao gồm Nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm ở Trung ương và địa phương; Ở
cấp Trung ương bao gồm luật, pháp lệnh, nghị quyết (của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội), Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ
quan ngang Bộ, Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, Thông tư liên
tịch; Ở cấp địa phương bao gồm Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân, Quyết định,
Chỉ thị của Ủa ban Nhân dân… Theo giáo trình “Chính sách kinh tế - xã hội” (2012) của tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy và Bùi Thị Hồng Việt, chính sách bao hàm các biện pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi chính sách bao gồm hai bộ phận: định hướng, mục tiêu cần đạt và các giải pháp để thực hiện mục tiêu, định hướng đó. Khu du lịch là một đối tượng quản lý, là đối tượng tác động của chính sách,
chính sách phát triển khu du lịch là các chính sách tác động vào quá trình hình
thành, hoạt động, phát triển các khu du lịch nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong
những giai đoạn nhất định.
Trên cơ sở đó, chính sách phát triển khu du lịch quốc gia là tổng hợp các quan điểm, chủ trương, biện pháp, chương trình và phương thức hành động về du
lịch của nhà nước (Trung ương và địa phương), tác động lên các chủ thể kinh tế - xã
hội tại các khu du lịch quốc gia, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển du lịch của
nhà nước.
Trong các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia, đối tượng thụ hưởng chủ yếu là các tổ chức, các doanh nghiệp du lịch và các hộ gia đình và cá nhân tại
các khu du lịch quốc gia. Các chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính,
tín dụng chủ yếu nhằm vào các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực du lịch tại các khu du lịch quốc gia. Các chính sách cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động du lịch, mở rộng hợp tác
giữa du lịch Việt Nam với khu vực và quốc tế.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia gồm nhiều quyết định có liên
quan đến nhau. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải thực hiện các mục
tiêu Nhà nước đã đề ra, dựa trên các quyết định về các vụ việc xã hội cần giải quyết
có liên quan đến khu du lịch quốc gia.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia không chỉ thể hiện dự định của
Nhà nước mà còn bao gồm những hành vi triển khai thực hiện dự định đó. Nhà
nước triển khai bố trí ngân sách cho công tác quy hoạch; hỗ trợ đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch; hỗ trợ công tác tuyên truyền,
quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tập trung giải quyết một hoặc
một số vấn đề bức xúc của xã hội đặt ra. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
của Nhà nước cần tập trung huy động mọi nguồn lực, kêu gọi đầu tư dựa trên các dự án được quy hoạch phát triển các khu du lịch, để du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của khu du lịch quốc gia, của địa phương, của đất nước. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia hướng vào mục tiêu chung là thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia là một trong những công cụ quản lý của Nhà nước nhằm phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia, nằm trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội chung và thường được áp dụng cụ thể ở từng địa phương có khu du lịch
quốc gia.
b, Vai trò của chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Phát triển du lịch tại bất kỳ địa phương nào cũng cần các chính sách hỗ trợ
và làm khuôn khổ cho sự phát triển du lịch. Vì vậy, các chính sách phát triển du lịch
có vai trò quan trọng đối với mỗi một địa phương, một khu vực. Với các khu du lịch
quốc gia, vai trò của chính sách phát triển du lịch được thể hiện thông qua vai trò
với chính quyền địa phương, vai trò đối với doanh nghiệp và vai trò đối với cộng đồng dân cư địa phương.
Với chính quyền địa phương, các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
đưa ra các biện pháp, quy định để định hướng cho chính quyền địa phương thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển sản phẩm du lịch tại các khu du lịch quốc gia của địa phương. Dựa trên ưu thế du lịch của mỗi địa phương, chính sách phát
triển khu du lịch quốc gia phải định hướng phát triển những đặc trưng riêng biệt, tạo
ra sự đa dạng sản phẩm du lịch của khu du lịch tại địa phương và quốc gia đó.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tạo cơ sở pháp lý cho địa phương
thực hiện và điều chỉnh các kế hoạch, quy hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và
cơ sở vật chất kỹ thật du lịch. Dựa trên các chủ trương và chính sách của Nhà nước,
địa phương triển khai thực hiện chính sách phát triển các khu du lịch theo đúng định
hướng, quy hoạch tổng thể của vùng miền và quốc gia, từ đó đảm bảo thực hiện
được các mục tiêu kinh tế – văn hóa – môi trường theo định hướng và quan điểm
của Nhà nước cũng như của địa phương có khu du lịch quốc gia.
Đối với các doanh nghiệp du lịch, chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hoạt động thuận lợi, nhận
được sự hỗ trợ phù hợp và hiệu quả từ sự quản lý của chính quyền địa phương. Các
doanh nghiệp du lịch là đối tượng chủ yếu của chính sách phát triển các khu du lịch
quốc gia, do đó chính quyền địa phương sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch phát triển kinh doanh tại các khu du lịch quốc gia thì địa phương mới phát triển hoạt động du lịch và nền kinh tế - xã hội. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia còn tạo điều kiện cho địa phương có các khu du lịch quốc gia khuyến khích phát triển nguồn lực du lịch theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và phát triển bền vững. Chính sách phát triển khu du lịch sẽ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp du lịch
đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ nguồn nhân lực, phát triển chất
lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch.
Đối với cộng đồng dân cư địa phương, cộng đồng là nền tảng phát triển của mọi xã hội. Cộng đồng có thể được hiểu ở những mức độ, quy mô khác nhau từ
làng, bản đến bộ tộc, dân tộc, quốc gia. Tác động của cộng đồng lên các giá trị tài
nguyên, trong đó có tài nguyên du lịch và qua đó ảnh hưởng đến phát triển du lịch
bền vững. Khi có các chính sách phát triển du lịch phù hợp với cộng đồng dân cư
địa phương tại các khu du lịch quốc gia, họ sẽ tự nâng cao trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có
thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du
lịch tại địa phương mình. Qua đó, sẽ đáp ứng được các yêu cầu phát triển du lịch của địa phương, nhu cầu của du khách đến cũng như mong muốn của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, vì thế, vừa đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế cho người
dân địa phương, vừa đảm bảo giữ gìn và phát huy bản sắc và các giá trị văn hóa tại
địa phương, vừa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
1.2. Nội dung nghiên cứu về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia
1.2.1 Các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
Phát triển khu du lịch quốc gia chính là phát triển các hoạt động du lịch tại
khu du lịch quốc gia, bao gồm phát triển cả quy mô, cơ cấu, số lượng các loại hình
dịch vụ du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch tại đó, từ đó làm nổi bật giá
trị các khu du lịch quốc gia, nâng cao hiệu quả và hiệu suất khai thác, mang lại
nhiều lợi ích cho địa phương từ các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội từ việc
phát triển du lịch. Để phát triển các khu du lịch quốc gia cần có sự kết hợp của
nhiều chính sách phát triển nhằm giải quyết các lĩnh vực khác nhau liên quan đến
du lịch, trong đó chủ yếu là các chính sách phát triển du lịch, trong đó có thể kể đến
một số chính sách quan trọng như sau (Bảng 1.1).
Bảng 1.1 Các chính sách phát triển du lịch chủ yếu
Chính sách PTDL Nguồn
Chính sách marketing du lịch
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009) Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001)
Jonh R. Walker, Josieelyn T. Walker (2011) Vũ Đức Minh (2009)
Chính sách đào tạo Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009)
Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001)
Jonh R. Walker, Josieelyn T. Walker (2011)
Chính sách bảo tồn tài nguyên John S. Akama (1998)
David A. Fennell, Ross Kingston Dowling
(2003)
Chính sách thuế
Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009) Vũ Đức Minh (2009)
Chính sách đầu tư phát triển Charles R. Goeldner, J. R. Brent Ritchie (2009)
CSHT và thu hút đầu tư phát Jonh R. Walker, Josieelyn T. Walker (2011)
triển CSVC du lịch Vũ Đức Minh (2009)
Nguồn: Các tác giả
Ngoài các chính sách chủ yếu trên (Bảng 1.1), để phát triển du lịch còn cần
có các chính sách liên quan đến phát triển các sản phẩm du lịch, các chính sách tài
chính, chính sách liên kết hợp tác phát triển du lịch.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả xác định và tập trung
nghiên cứu các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia như sau:
* Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Chính sách này thực hiện về việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận
động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để
xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường
của mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tại địa phương có khu du
lịch quốc gia.
Ưu tiên các dự án phát triển du lịch gắn liền với sử dụng năng lượng thay
thế, tiết kiệm năng lượng, áp dụng mô hình 3R (Reduce, Reuse, Recycle) góp phần
giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu. Khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và
chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường. Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ
chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
* Chính sách phát triển sản phẩm du lịch Chính sách này thực hiện về việc ưu tiên, hỗ trợ phát triển các loại hình du
lịch tại các khu du lịch quốc gia bao gồm các chính sách phát triển sản phẩm du lịch
tại khu du lịch quốc gia và chính sách liên kết phát triển sản phẩm du lịch tại các
khu du lịch quốc gia trong cùng một địa phương.
- Các chính sách phát triển sản phẩm du lịch tại khu du lịch quốc gia: bao gồm việc phát triển các sản phẩm đặc trưng của từng khu du lịch quốc gia như các
sản phẩm du lịch tàu thuyền trên hồ nước, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch chữa
bệnh, du lịch sinh thái và du lịch MICE... phù hợp với đặc trưng và đặc điểm tài
nguyên từng vùng.
Quy hoạch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch dựa trên thế mạnh nổi trội và hấp dẫn về tài nguyên du lịch; tập trung ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch văn hóa
và du lịch sinh thái; từng bước hình thành sản phẩm du lịch đặc trưng theo từng vị
trí, đặc điểm của khu du lịch quốc quốc gia và từng khu vực. - Các chính sách liên kết phát triển chuỗi sản phẩm du lịch tại các khu du lịch quốc gia khác nhau trong cùng khu vực: Trong cùng 1 địa phương nếu có nhiều khu
du lịch quốc gia, mỗi khu du lịch quốc gia sẽ có thế mạnh về nguồn lực phát triển,
tiềm năng du lịch và đặc điểm tài nguyên du lịch riêng. Vì vậy, liên kết nhằm kết
nối các chuỗi giá trị để tạo thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn theo từng nhóm
loại hình sản phẩm du lịch cung cấp cho du khách là một chính sách hiệu quả để
phát triển du lịch. Chẳng hạn như, sản phẩm du lịch văn hóa có thể được xây dựng
trên cơ sở tìm hiểu bản sắc văn hóa tại các điểm du lịch ở các khu du lịch quốc gia
khác nhau trong một vùng du lịch; Hay sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cũng có thể
kết hợp nhiều đặc trưng vị trí và tài nguyên thiên nhiên khác nhau. Tương tự, loại
hình du lịch sinh thái nếu xem xét việc kết hợp giữa khu du lịch quốc gia này và
khu du lịch quốc gia khác trong cùng một khu vực cũng sẽ tạo được sản phẩm du
lịch tổng hợp, đáp ứng yếu tố phong phú cho một chuyến đi…
Để triển khai các hoạt động liên kết phát triển sản phẩm, loại hình du lịch
giữa các khu du lịch quốc gia trong cùng một khu vực cần đẩy mạnh khâu tổ chức
quản lý. Đây là giải pháp đóng vai trò quan trọng. Trong đó, cần phát huy vai trò của ban điều phối phát triển du lịch các khu du lịch quốc gia trong cùng một khu vực.
Phát triển hệ thống sản phẩm du lịch tổng hợp, chất lượng, đặc sắc, đa dạng và đồng bộ, có giá trị gia tăng cao; phát triển sản phẩm du lịch xanh, tôn trọng yếu tố tự nhiên và văn hóa địa phương. Ưu tiên các dự án phát triển du lịch gắn với liền với bảo tồn môi trường và đa dạng sinh học tại các khu du lịch quốc gia.
* Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch
Chính sách này thực hiện về việc đào tạo nâng cao chất lượng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực tại các khu du lịch quốc gia, đặc biệt là
nguồn nhân lực du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế; Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo,
đảm bảo sự đồng bộ và hiện đại. Để phát triển các khu du lịch quốc gia, cần chuẩn
hóa chất lượng giảng viên du lịch, giáo trình du lịch và khung đào tạo du lịch; Xây
dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nhân lực du lịch theo các giai đoạn và từng
vùng, miền có khu du lịch quốc gia trong cả nước. Từng bước chuẩn hóa nhân lực du lịch trong nước theo khu vực và quốc tế; Khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào
tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp. Hỗ trợ ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư phát
triển các trường đào tạo nghề du lịch đạt chuẩn.
* Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch Chính sách này chủ yếu ưu tiên hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, huy động
nguồn lực để tập trung đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng cơ sở cung ứng dịch
vụ du lịch, hình thành một số trung tâm dịch vụ du lịch tại các khu du lịch quốc gia
có tầm cỡ vùng miền và quốc gia.
Nội dung các chính sách này liên quan trực tiếp tới quy hoạch, đầu tư phát
triển hệ thống hạ tầng giao thông, thông tin, truyền thông, năng lượng, cấp thoát
nước, môi trường và các lĩnh vực liên quan đảm bảo đồng bộ để phục vụ yêu cầu
phát triển các khu du lịch; hiện đại hóa mạng lưới giao thông công cộng; quy hoạch
không gian công cộng phục vụ du khách tham quan giải trí.
Đầu tư nâng cấp phát triển hệ thống hạ tầng xã hội về văn hóa, y tế, giáo dục
như hệ thống bảo tàng, nhà hát, cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe và cơ sở
giáo dục, cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch đủ điều kiện phục vụ khách du lịch
tại khu du lịch quốc gia.
Phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đảm bảo chất lượng, hiện
đại, tiện nghi, đồng bộ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, bao gồm hệ thống khu, điểm du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, cơ sở dịch vụ thông tin, tư vấn du lịch, cơ sở dịch vụ đặt giữ chỗ, đại lý, lữ hành và hướng dẫn; hệ thống phương tiện, cơ sở dịch vụ phục vụ vận chuyển khách du lịch, các cơ sở dịch vụ phục vụ tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, thể thao, hội nghị... Khuyến khích phát triển bền vững; có chính sách ưu đãi đối với phát triển du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch cộng đồng tại các khu du lịch quốc gia. Khuyến
khích xã hội hóa du lịch, thu hút các nguồn lực cả trong và ngoài nước đầu tư phát
triển hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, phát triển nhân lực và xúc tiến quảng
bá du lịch tại các khu du lịch quốc gia.
* Chính sách tài chính Chính sách này bao gồm các chính sách về huy động vốn, thuế và ngân sách
địa phương.
- Chính sách huy động vốn: Chính sách tác động đến việc huy động, thu hút
nguồn vốn trong nước có từ ngân sách, trong dân, hệ thống tài chính trung gian đầu
tư vào lĩnh vực du lịch tại khu du lịch quốc gia. Trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp du lịch nhà nước, từng bước cổ phần hóa toàn bộ các doanh nghiệp du lịch
nhà nước; Huy động nguồn vốn từ bên ngoài thông qua kêu gọi đầu tư các dự án du
lịch. Sử dụng một phần ODA vào lĩnh vực du lịch. - Chính sách thuế: Chính sách tác động đến việc giảm mức thuế thu nhập cho doanh nghiệp du lịch, tạo điều kiện về nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp du lịch
phát triển tại khu du lịch quốc gia. Ưu đãi thuế suất cho doanh nghiệp thành lập từ
dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn… tạo điều
kiện ổn định kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch và có khả năng mở rộng đầu
tư du lịch.
- Chính sách thu chi từ ngân sách địa phương: Chính sách tác động đến
phương hướng thu chi ngân sách như tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tập
trung ưu tiên chi cho cơ sở hạ tầng du lịch và giải quyết những vấn đề xã hội bức
xúc tại các khu du lịch quốc gia; Chính sách tác động đến phân cấp ngân sách như
tiến hành áp dụng cơ chế quản lý tài chính theo chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về số lượng biên chế lao động du lịch.
* Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch
Chính sách này thực hiện về việc xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng
chuyên nghiệp, nhằm vào thị trường mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu
du lịch là trọng tâm; quảng bá du lịch gắn với quảng bá hình ảnh các khu du lịch quốc gia tại địa phương. Xây dựng các chương trình, kế hoạch xúc tiến, quảng bá khu du lịch với các hình thức linh hoạt theo các giai đoạn, mục tiêu đã xác định; gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến xúc tiến đầu tư và ngoại giao, xúc tiến điểm đến. Tuyên truyền du lịch thông qua phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và của nhân dân về vị trí, vai trò của
khu du lịch quốc gia trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
* Chính sách hợp tác phát triển du lịch
Chính sách này thực hiện về việc đẩy mạnh hợp tác liên kết phát triển du lịch
với một số tỉnh có khu du lịch quốc gia với địa phương và các quốc gia gần kề trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với điều kiện chính trị – văn hóa – xã hội mỗi
bên, theo pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo các tuyến du lịch liên vùng, liên quốc
gia, kết nối thị trường du lịch địa phương với thị trường du lịch thuộc các tỉnh trong
cả nước và các tỉnh thành, địa phương của quốc gia khác.
Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đã ký kết; tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, góp phần đẩy nhanh sự phát triển và hội nhập
của du lịch địa phương, nâng cao hình ảnh, vị thế các khu du lịch quốc gia tại địa
phương và hình ảnh quốc gia trên trường khu vực và quốc tế. 1.2.2. Quy trình chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia được triển khai theo các bước
sau:
Bước 1. Xây dựng và ban hành chính sách phát triển.
Bước 2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển.
Bước 3. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách phát triển.
Bước 4. Đánh giá chính sách phát triển du lịch và điều chỉnh chính sách phát
triển hợp lý.
Đối tượng ban hành các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia bao gồm
Chính phủ và UBND các tỉnh/thành phố có các khu du lịch quốc gia đó.
Các chính sách do Chính phủ ban hành là những chính sách quản lý ở tầm vĩ
mô, là công cụ hữu hiệu chủ yếu để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, từ đó đảm bảo đạt được các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng của Nhà nước.
Các chính sách do UBND các tỉnh/thành phố có các khu du lịch quốc gia ban
hành là những chính sách quản lý cấp địa phương, có vai trò quyết định việc phát triển kinh tế, an sinh xã hội, đặc biệt là du lịch, của địa phương. Thực hiện tốt quy trình chính sách của địa phương sẽ có tác động tích cực tới đời sống xã hội, phát triển kinh tế, ổn định bền vững, bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch của địa phương.
Tùy thuộc vào các đối tượng ban hành các chính sách mà các nội dung trong
quy trình chính sách cũng có sự khác biệt cơ bản.
Quy trình chính sách phát triển khu du lịch quốc gia bao gồm các nội dung sau:
a, Xây dựng và ban hành chính sách phát triển
Các chính sách của Trung Ương do Chính phủ xây dựng và ban hành chính
sách, các chính sách của địa phương do UBND các tỉnh/thành phố có các khu du lịch quốc gia xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện.
- Mục tiêu chính sách phát triển khu du lịch quốc gia là nhằm làm cho sản
phẩm du lịch tại khu du lịch quốc gia có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; nâng cao trình độ nguồn nhân lực; cải thiện vị
thế cạnh tranh của du lịch địa phương, phát triển du lịch tại địa phương đó trở nên hiệu quả hơn, mang tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương
đối đồng bộ, hiện đại.
- Nguyên tắc xây dựng chính sách phát triển khu du lịch quốc gia: Xây dựng nội dung chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải tuân theo hướng phát triển du lịch bền vững. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải
theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường tại
đó; chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải theo hướng bảo tồn, tôn tạo, phát
huy giá trị của tài nguyên du lịch.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải đảm bảo tính thống nhất giữa
phát triển du lịch quốc gia với phát triển du lịch địa phương. Các sản phẩm du lịch
bên cạnh việc khai thác nét đặc thù của địa phương thì vẫn phải đảm bảo sự hài hòa,
thống nhất với quan điểm, định hướng về phát triển sản phẩm du lịch quốc gia trong
chiến lược và quy hoạch du lịch quốc gia. Các sản phẩm địa phương vừa góp phần
làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch của khu vực, tăng sức hấp dẫn của vùng,
vừa hỗ trợ chính sách phát triển du lịch của quốc gia và là một nội dung quan trọng
trong chính sách phát triển du lịch quốc gia.
Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải bảo đảm phát triển du lịch vì lợi ích
cộng đồng, an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh
Xác định, lựa chọn vấn đề
Xây dựng các phương án
Lựa chọn phương án tối ưu
Quyết định ban hành chính sách
doanh du lịch tại các khu du lịch quốc gia. Chính sách phải thu hút được sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư địa phương trong phát triển du lịch. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phải góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu khu vực, quốc tế để quảng bá hình ảnh địa phương; thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến với khu du lịch quốc gia đó. - Quy trình xây dựng chính sách phát triển khu du lịch quốc gia:
Sơ đồ 1.1. Qui trình xây dựng chính sách
Quy trình xây dựng chính sách phát triển khu du lịch quốc gia được khái quát
qua sơ đồ 1.1. Cụ thể, quy trình này bao gồm các nội dung sau:
+ Xác định, lựa chọn vấn đề: Từ mục tiêu và dựa trên nguyên tắc phát triển
khu du lịch quốc gia, địa phương cần thu hút đầu tư vào sản phẩm du lịch có chất
lượng cao, đa dạng, có thương hiệu và khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng;
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn nhân lực du lịch; tăng cường xúc tiến quảng bá khu du lịch quốc gia; phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật tại địa phương đảm
bảo sự đồng bộ và hiện đại.
+ Xây dựng các phương án: Từ xác định vấn đề chính sách phát triển khu du lịch quốc gia, địa phương cần lập các phương án, mời các doanh nghiệp tham gia buổi giới thiệu các dự án du lịch, gửi các công văn đến các doanh nghiệp du lịch,
tuyên truyền và hỗ trợ người dân tham gia phát triển du lịch cộng đồng tại địa
phương; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn nâng cao trình độ đội ngũ lao
động du lịch; xúc tiến quảng bá du lịch địa phương dưới nhiều hình thức; phân bổ
ngân sách hợp lý cho phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.
+ Lựa chọn phương án tối ưu: Từ các phương án chính sách phát triển khu
du lịch quốc gia, từng địa phương cụ thể cần dựa vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế
tại địa phương để chọn ra phương án hợp lý, hiệu quả nhất cho thu hút đầu tư vào
sản phẩm du lịch của khu du lịch quốc gia; chọn phương án tốt nhất về nâng cao
trình độ đội ngũ quản lý và lao động du lịch; phương án tối ưu cho xúc tiến quảng
bá cho địa phương; phát triển cơ sở hạ tầng du lịch đồng bộ và hiện đại.
+ Quyết định ban hành chính sách: Từ phương án tối ưu của chính sách phát
triển khu du lịch quốc gia, địa phương cần cân nhắc ban hành quyết định về chế độ
ưu đãi đầu tư vào sản phẩm du lịch của địa phương, cơ chế hỗ trợ phát triển du lịch
cộng đồng tại địa phương; ban hành quyết định về việc nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và lao động du lịch, về việc xúc tiến quảng bá du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.
b, Tổ chức thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Tổ chức thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia thường do cả cơ quan quản lý Nhà nước cấp Trung Ương và cơ quan quản lý Nhà nước cấp địa phương thực hiện, nhưng chủ yếu là cơ quan quản lý Nhà nước cấp địa phương. Tổ
chức thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia bao gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1. Chuẩn bị triển khai chính sách
Thành lập cơ quan tổ chức thực hiện: Phải tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về du lịch của địa phương, quy định sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước địa phương về việc quản lý các dự án phát triển khu du lịch quốc gia được phê
duyệt. Trong việc chuẩn bị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách, cần phải thống
nhất sắp xếp các phần công việc cho các bộ phận, phòng ban chức năng đảm đương
tốt nhất và có sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo địa phương đối các phần
công việc được chuẩn bị để việc triển khai không gián đoạn, tiến độ triển khai được liên tục, thuận lợi.
Xây dựng chương trình hành động: Phải lập kế hoạch thực hiện triển khai nội
dung chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại địa phương, phải dự kiến chuẩn bị đủ nhân lực đảm nhiệm để triển khai chính sách; dự kiến phân bổ nguồn tài chính hợp lý cho quá trình triển khai chính sách; chuẩn bị, dự kiến thời gian triển khai
chính sách tại địa phương.
Ra văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn: Phải ra một số văn bản hướng
dẫn thực hiện; tiếp theo là tổ chức chương trình hướng dẫn, quản lý hoạt động đào
tạo, tập huấn, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ phục vụ du lịch địa phương.
- Giai đoạn 2. Chỉ đạo thực hiện chính sách
Thông tin tuyên truyền về chính sách: Phải tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
thông tin chủ chương, chính sách và pháp luật về du lịch của địa phương. Tổ chức
các lớp tập huấn nâng cao chất lương trình độ chuyên môn nghiệp vụ nguồn nhân
lực du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của khu du lịch quốc gia. Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành và quản lý về du lịch tại các
địa phương.
Tổ chức các quỹ thực hiện chính sách: Phải trích lập quỹ từ nguồn ngân sách
từ Trung ương và của địa phương để thực hiện hoạt động xúc tiến khu du lịch quốc gia. Một phần quỹ phải giao trực tiếp cho Trung tâm xúc tiến du lịch của địa phương, đơn vị này sẽ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh sản phẩm đặc trưng của khu du lịch quốc gia. Một phần quỹ giao cho chương trình tập huấn, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình triển khai chính sách phát triển khu du lịch quốc gia... Phân công và phối hợp hoạt động với các ban, ngành của địa phương: Phối
hợp các ban, ngành của địa phương cùng tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ,
công việc cụ thể trong chính sách phát triển khu du lịch quốc gia. Phối hợp với các
cơ quan chức năng trong thực hiện quản lý, cấp và thu hồi các giấy phép về hoạt
động du lịch của các tổ chức, doanh nghiệp ở địa phương. Tổ chức thực hiện chính sách thu hút đầu tư du lịch trong và ngoài nước thông qua hoạt động giới thiệu các
dự án đầu tư du lịch vào các khu du lịch quốc gia, gửi các văn bản đến các doanh
nghiệp tại địa phương.
c, Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia, cả cơ
quan quản lý Nhà nước cấp Trung Ương và địa phương đều cần phải thực hiện công
tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các nội dung chính sách đã triển khai. Dưới đây là một số nội dung kiểm tra, thanh tra và đánh giá hiệu quả chính sách phát triển khu du lịch quốc gia.
Nội dung kiểm tra, thanh tra và cơ chế kiểm tra, thanh tra bao gồm:
- Kiểm tra, giám sát đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình du lịch
có ý nghĩa quốc gia. Kiểm tra, giám sát việc khai thác tài nguyên của các doanh
nghiệp du lịch, bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch bền vững tại các khu du
lịch quốc gia của địa phương. Đồng thời thu thập thông tin cơ sở từ các tổ chức,
doanh nghiệp du lịch về tình hình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia của địa phương.
- Thanh tra quy hoạch phát triển khu du lịch quốc gia làm cơ sở cho việc xây
dựng quy hoạch chi tiết phát triển của địa phương, thẩm định lại các khu vực có
tiềm năng du lịch và đưa ra các dự án đầu tư chi thiết, cụ thể hơn.
- Tiến hành rà soát hệ thống văn bản pháp luật về du lịch hiện hành, loại bỏ
những quy định chồng chéo, không phù hợp với các cam kết; đảm bảo các văn bản
quy phạm pháp luật phù hợp cam kết về du lịch của địa phương.
- Rà soát các thủ tục hành chính để loại bỏ các thủ tục, văn bản, giấy phép không có giá trị thiết thực, công bố công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, người chịu trách nhiệm và thời hạn giải quyết công việc của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch của địa phương. d, Đánh giá chính sách và điều chỉnh chính sách phát triển hợp lý Cơ quan nào xây dựng và ban hành chính sách thì cơ quan đó có trách nhiệm đánh giá và điều chỉnh chính sách để đảm bảo chính sách được thực hiện hợp lý và
hiệu quả tại địa phương.
- Nội dung đánh giá chính sách phát triển khu du lịch quốc gia: Để đảm bảo
chính sách có hiệu lực, hiệu quả tại địa phương, nội dung đánh giá phải đảm bảo các
yếu tố sau. + Sự phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước: Văn bản pháp luật về du
lịch hiện hành phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo các lợi ích cho quốc gia, dân tộc.
+ Đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và có tính kế thừa: Sự phát triển
của hệ thống chính sách theo một quá trình mang tính lịch sử mà những chính sách ra sau phải đồng bộ, nhất quán, minh bạch, ổn định và kế thừa những ưu điểm của
hệ thống văn bản trước đó. Do đó, các chính sách đưa ra phải thể hiện được tính liên
tục của hệ thống chính sách của Nhà nước. + Tính khoa học và khả thi: Chính sách không phải là những ý tưởng có tính phi hiện thực mà nó phải mang tính thực tế. Chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia phải gắn với những chỉ tiêu đúng đắn, phải thực hiện những cách thức tối ưu để
đạt được, gắn liền với nguồn nhân lực được phân công để thực hiện phù hợp, đồng
thời phải gắn với những điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật và tài chính xác định.
Có như vậy, kế hoạch mới đảm bảo được tính khoa học và thực thi hiệu quả.
+ Đáp ứng nhu cầu du lịch: Các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
đưa ra phải đảm bảo thỏa mãn được các nhu cầu của doanh nghiệp du lịch và du
khách tại đó; chính sách phù hợp với nhu cầu du lịch thì sẽ được doanh nghiệp du
lịch thực thi nhanh chóng và có hiệu quả cao, kích thích nhu cầu tham quan du lịch
của du khách tại các khu du lịch quốc gia.
+ Sự ủng hộ của dân cư: Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia sẽ gặp
nhiều thuận lợi khi được dân cư ủng hộ như về giải phóng mặt bằng, ý thức bảo vệ
tài nguyên du lịch, ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa bản địa… Do vậy, hiệu quả
của chính sách phát triển khu du lịch quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào mức độ ủng
hộ của dân cư địa phương.
- Điều chỉnh chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Sau khi kiểm tra và đánh giá được các mức độ thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia, cần phải tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số nội dung điều chỉnh chính sách phù hợp với tình hình thực tế của quá trình thực hiện chính sách tại các địa phương. - Tìm nguyên nhân: Các nguyên nhân từ sự thay đổi của thực tế khách quan;
các nguyên nhân từ sự sai lệch trong quá trình thực hiện chính sách và báo cáo tổng
kết, trình các dự thảo chính sách thiếu thực tế của chính quyền địa phương; các
nguyên nhân từ sự thiếu thực tế, chưa quan tâm thích đáng của cơ quan ban hành
chính sách… - Nội dung điều chỉnh:
Tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, các hướng dẫn
thi hành luật du lịch, chính sách phát triển khu du lịch quốc gia theo hướng đẩy
mạnh phân cấp, để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của địa phương. UBND cấp tỉnh phải được HĐND cùng cấp thông qua một số điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tế về chính sách phát triển khu du lịch quốc gia của địa
phương với các nguyên tắc các dự án thuộc cấp tỉnh và trong phạm vi ngân sách dự phòng của tỉnh; đối với các dự án lớn thì phải được lập kế hoạch trình Chính phủ xét duyệt.
Trong phạm vi của địa phương, có thể có một số chính sách riêng và nhỏ lẻ
như điều chỉnh một số hỗ trợ đầu tư riêng và hỗ trợ cải tiến sản phẩm du lịch phù
hợp với địa phương. Điều chỉnh một số mức thuế ưu đãi riêng với đầu tư vào du
lịch. Tùy theo điều kiện thực tế, điều chỉnh danh mục các dự án ưu tiên đầu tư du
lịch mở rộng.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển khu du lịch quốc gia
1.3.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
Ở bất kỳ quốc gia, địa phương hay khu vực nào, du lịch cũng chỉ phát triển
được trong mối quan hệ với kinh tế - xã hội. Kinh tế - xã hội vừa là điều kiện ra đời,
hình thành nên cung, cầu du lịch, vừa quyết định tới mối quan hệ cung – cầu và thị
trường du lịch. Ở đâu có điều kiện kinh tế - xã hội đảm bảo thì ở đó du lịch mới có
thể phát triển mạnh mẽ. Muốn phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải có các chính
sách phù hợp.
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ mật thiết với chính sách du lịch, chúng tác động qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính sách kinh tế - xã hội là cơ sở hỗ trợ thực hiện các chính sách du lịch, đến lượt mình, chính sách du lịch là yếu tố bổ sung, bổ trợ cho các chính sách kinh tế - xã hội. Đối với các khu du lịch quốc gia, để phát triển được hoạt động du lịch thì các điều kiện kinh tế - xã hội phải đảm bảo, chúng bao gồm các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, các điều kiện sống của dân cư và điều kiện về môi trường kinh
doanh của các doanh nghiệp tại địa phương. Do đó, các địa phương có khu du lịch
quốc gia rất cần các chính sách kinh tế - xã hội làm khuôn khổ và cơ sở để xây dựng
các chiến lược, biện pháp cụ thể, từ đó đạt được các mục tiêu, kết quả mong muốn.
Trên cơ sở yếu tố kinh tế - xã hội làm nền tảng thì các chính sách du lịch tại địa phương nói chung, chính sách du lịch tại các khu du lịch quốc gia nói riêng, mới có
thể thực hiện được, vì du lịch và kinh tế - xã hội luôn gắn liền với nhau.
1.3.2. Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương
Phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia cần đảm bảo sự thống nhất với
đường lối, chủ trương và định hướng phát triển du lịch tại địa phương. Mỗi địa phương có đặc điểm tài nguyên du lịch và bản sắc văn hóa riêng, tạo nên đặc trưng
của địa phương, vì thế rất cần các chính sách riêng của địa phương để phát triển du
lịch. Mỗi địa phương xác định chủ trương, định hướng phát triển du lịch đặc thù của địa phương, đảm bảo vừa phát huy bản sắc riêng, vừa mang lại các lợi ích kinh tế - văn hóa – xã hội cho các đối tượng có liên quan, do đó, phát triển các khu du lịch
quốc gia tại địa phương cũng cần đảm bảo sự thống nhất với quan điểm phát triển
du lịch của địa phương. Vì thế, trong công tác quản lý phát triển các khu du lịch
quốc gia, các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia cũng cần đảm bảo sự hài
hòa, thống nhất với chủ trương, định hướng phát triển du lịch tại địa phương, từ đó
vừa khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch, vừa đảm bảo phát triển du lịch bền vững
tại khu du lịch quốc gia và tại địa phương.
1.3.3. Bộ máy quản lý Nhà nước tại các khu du lịch quốc gia
Các cấp, các ngành có liên quan đến chính sách phát triển khu du lịch quốc
gia bao gồm các cấp như cơ quan của Chính phủ và các địa phương, các ngành
như : Du lịch, Tài nguyên môi trường, Văn hóa… có liên quan tới hoạt động du lịch
tại địa phương. Trình độ nhận thức và năng lực của đội ngũ này cũng ảnh hưởng rất
lớn tới các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại địa phương.
Cụ thể, nếu các cấp, các ngành quan tâm, nhận thức được đúng các vấn đề du
lịch thực tế bức xúc, cần giải quyết ở địa phương thì chính sách phát triển khu du lịch quốc gia đưa ra sẽ hợp lý, tạo thuận lợi cho quá trình thực thi và chấp hành chính sách ở các địa phương được dễ dàng; Bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương có khu du lịch quốc gia nếu có năng lực, trình độ quản lý tốt, trình độ chuyên môn cao sẽ có tác động tích cực đến quá trình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia ở địa phương đó; Chính quyền địa phương có trình độ năng lực cao và các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại đó được thực hiện hợp lý, sẽ đem lại lợi ích cho các cá
nhân, tổ chức và doanh nghiệp du lịch thì mới được họ tin tưởng, hưởng ứng và ủng
hộ cho quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia.
1.3.4. Ngân sách chi cho phát triển khu du lịch quốc gia
Phát triển khu du lịch quốc gia rất cần đến các nguồn ngân sách. Ngân sách trong phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia bao gồm các khoản chi cho đầu
tư cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại các khu du lịch
quốc gia, các khoản ngân sách đầu tư cho yếu tố con người, đảm bảo lao động du
lịch đủ về số lượng, đạt về chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Ngoài ra, trong quá trình
vận hành, các khoản ngân sách cũng được sử dụng để bù đắp chi phí khấu hao, bảo trì, bảo dưỡng, thay thế và đầu tư mở rộng mới cũng liên tục phát sinh, vì thế nguồn
ngân sách là một yếu tố có vai trò rất quan trọng.
Từ sự phân bổ ngân sách của Nhà nước và sự đầu tư đến từ các nhà đầu tư trong và ngoài địa phương, địa phương sẽ tiến hành phân bổ ngân sách phù hợp cho việc thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia sẽ tác động đến mức độ,
quy mô, khả năng thực hiện và hoàn thành các dự án phát triển du lịch của địa
phương có khu du lịch quốc gia; Tỷ lệ, số lượng nguồn ngân sách địa phương chi
cho hoạt động du lịch càng lớn thì mức độ tập trung thực hiện chính sách phát triển
khu du lịch quốc gia tại đó càng cao và ngược lại. Khi thiếu hụt nguồn ngân sách
chi cho hoạt động du lịch thì khả năng thực hiện chính sách phát triển khu du lịch
quốc gia không cao, các dự án du lịch sẽ chỉ hoạt động cầm chừng, chậm tiến độ
hoặc bị dừng lại; Nguồn ngân sách địa phương chi cho hoạt động du lịch kịp thời,
đúng chỗ và đủ mức có tác động thúc đẩy tiến trình thực hiện chính sách phát triển
khu du lịch quốc gia tại địa phương, kích thích các hoạt động liên quan đến du lịch,
đem lại hiệu quả kinh tế cho địa phương.
1.3.5. Sự phát triển nhu cầu du lịch ở khu du lịch quốc gia
Nhu cầu du lịch tăng sẽ góp phần tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình thực hiện
chính sách phát triển khu du lịch quốc gia. Việc tuyên truyền, kêu gọi các cá nhân, tổ
chức và doanh nghiệp sẽ được thuận lợi hơn, tiến độ triển khai chính sách phát triển khu du lịch quốc gia sẽ nhanh hơn; Quy mô, chủng loại khách du lịch gia tăng, thu nhập từ du lịch của các khu du lịch quốc gia cũng tăng lên sẽ giúp địa phương sớm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển khu du lịch quốc gia đã đề ra; Nhu cầu du lịch tại khu du lịch quốc gia tăng lên, đòi hỏi chất lượng dịch vụ du lịch phải được nâng cao, trong đó chất lượng nguồn nhân lực du lịch càng phải được quan tâm hơn, khi đó, chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch sẽ được các cá nhân, tổ chức và
doanh nghiệp tham gia hưởng ứng sẽ tạo thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện
chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại các vùng du lịch của địa phương; Khi
nhu cầu du lịch ở các khu du lịch quốc gia phát triển thì ý thức phát huy giá trị văn
hóa truyền thống được nâng lên, các sản phẩm làng nghề sản xuất ra bán được nhiều sẽ góp phần khôi phục dần dần các sản phẩm truyền thống khác. Khi đó, chính sách
bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường đưa ra sẽ được triển khai nhanh chóng, đẩy
nhanh tiến trình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại các địa
phương.
1.3.6. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Sự phát triển của cơ sở hạ tầng du lịch là sự phát triển đồng bộ các hạng mục
công trình du lịch cơ bản ở các khu du lịch quốc gia. Chính sách về cơ sở hạ tầng du
lịch có tác động lớn đến dòng vốn đầu tư vào vùng du lịch. Do đó, một hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch có quy hoạch đồng bộ sẽ có ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư kinh doanh tại địa phương; Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư
xây dựng hiện đại có tác động lớn đến nhu cầu đi du lịch, đem lại hiệu quả cao cho
thu hút khách du lịch đến khu du lịch quốc gia.
Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là sự phát triển của các tiện
nghi sử dụng để phục vụ, đáp ứng cho các nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch.
Chất lượng của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có ảnh hưởng rất quan trọng đến chất
lượng sản phẩm du lịch địa phương, ảnh hưởng đến nhu cầu di du lịch tại địa
phương và có tác động lớn đến thu nhập từ du lịch của địa phương. Do đó, một hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ sẽ có ảnh hưởng lớn đến chính sách xây
dựng sản phẩm du lịch và chính sách xúc tiến sản phẩm của khu du lịch quốc gia.
1.3.7. Nhận thức của dân cư địa phương tại các khu du lịch quốc gia
Dân cư địa phương có tin tưởng và ủng hộ cho chính sách phát triển khu du
lịch quốc gia thì khi triển khai thực hiện chính sách mới được thuận lợi, nhanh
chóng và hiệu quả. Ngược lại, để có được lòng tin của dân chúng địa phương thì
chính sách đưa ra phải phù hợp với thực tế khách quan tại địa phương; Dân cư tại các khu du lịch quốc gia được tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, chính sách phát triển khu du lịch quốc gia của địa phương thì sẽ tích cực tham gia vào hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch tại đó, góp phần đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả thực hiện chính sách xúc tiến quảng bá du lịch tại khu du lịch quốc gia của địa phương; Khi người dân địa phương tại các khu du lịch quốc gia tin tưởng vào chính sách phát triển khu du lịch quốc gia thì người dân mới có ý thức tham gia các hoạt động tạo ra
sản phẩm du lịch truyền thống của khu du lịch quốc gia ở địa phương. Khi các sản
phẩm truyền thống của người dân bán được nhiều thì các sản phẩm du lịch truyền
thống khác cũng sẽ được khôi phục dần và phát triển trở lại.
1.3.8. Yếu tố khác Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú cũng là nhân tố tích cực
thực hiện chính sách thu hút đầu tư vào kinh doanh du lịch ở địa phương. Tài nguyên
du lịch của khu du lịch quốc gia ở địa phương quyết định quy mô, cơ cấu phát triển
du lịch, do đó chính quyền địa phương cần phải có cơ chế, chính sách quản lý tài
nguyên phù hợp để chính sách phát triển khu du lịch quốc gia có thể hiện thực hóa tiềm năng du lịch tự nhiên tại các khu du lịch quốc gia ở địa phương.
Nguồn nhân lực du lịch dồi dào ở các khu du lịch quốc gia đa phần thỏa mãn
yêu cầu về số lượng nhưng về chất lượng nếu được cải thiện cũng có ảnh hưởng lớn đến triển khai thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia. Để thực hiện tốt chính sách thu hút đầu tư du lịch tại địa phương, cần phải có cơ chế, chính sách đào
tạo phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho du lịch.
Ngoài ra, còn một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến chính sách phát triển
khu du lịch quốc gia của địa phương như: nhân tố phát triển công nghệ, ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội, cải cách thủ tục hành chính, xúc tiến quảng bá du
lịch, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người dân bản địa… có tác động bổ
sung cho quá trình triển khai chính sách phát triển khu du lịch quốc gia ở địa phương.
1.4 Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch và bài học rút ra cho Việt
Nam
1.4.1 Kinh nghiệm về chính sách phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia
tại một số quốc gia trên thế giới
a, Khu du lịch quốc gia Goseokjeong, Hàn Quốc
Khu du lịch Goseokjeong là một trong tám tuyệt cảnh tại Cheolwon,
Gangwondo, Hàn Quốc. Khu vực Goseokjeong bao gồm một dòng suối trong vắt
uốn quanh các dãy đá cổ thạch với nhiều hình thù đa dạng. Dòng suối khu vực thương lưu có chiều dài khoảng 2km, nơi đây còn có khu vực thác tại hạ lưu cũng khoảng 2km. Đây là một trong các tuyệt cảnh mà các vị vua thời Goryeo thường đến thưởng ngoạn. Nơi đây trở nên nổi tiếng hơn từ sau điển tích về anh hùng Lim Keok Jeong thời Chosun – được ví như Robinhood của Hàn Quốc. Hiện tại, khu vực này được tái cấu trúc với nhiều không gian như quảng trường, nhà nghỉ…để đưa vào khai thác du lịch đa chức năng với nhiều hoạt động hội nghị, thưởng ngoạn,
nghỉ dưỡng… Với nhiều tuyệt cảnh thiên nhiên hùng vĩ, Goseokjeong luôn luôn thu
hút khách du lịch đến thăm vào cả bốn mùa trong năm với các hoạt động ngắm cảnh
hay chèo thuyển cảm giác mạnh..
Khu du lịch Goseokjeong được công nhận là khu du lịch quốc gia vào năm 1977 là một trong những thắng cảnh tuyệt vời của Cheolwon nằm ở trung tâm của
sông Hantan. Goseokjeong là một khu du lịch hoạt động quanh năm với những bãi
cỏ rất rộng lớn và các tiện nghi giải trí. Đây cũng là điểm khởi đầu cho các tour du
lịch DMZ như Chiến trường hình tam giác Iron (Iron Triangle Battlefield), Trung
tâm Bảo tồn và vào mùa đông, du khách có thể chiêm ngưỡng các đàn chim di cư.
Trong phát triển du lịch tại khu du lịch quốc gia Goseokjeong, chính phủ
Hàn Quốc đã có một số chính sách quan trọng để thúc đẩy phát triển du lịch tại dây,
trong đó phải kể đến các chính sách kích cầu và xúc tiến quảng bá du lịch phong phú thông qua yếu tố văn hóa, giải trí Hàn Quốc.
Hàng năm lượng du khách đến tham quan Hàn Quốc nói chung và các điểm
du lịch, trong đó có khu du lịch quốc gia Goseokjeong, không ngừng tăng lên, mang
lại nguồn thu nhập ngoại tệ khổng lồ, phát triển đất nước. Có rất nhiều lí giải cho
thành công này, một trong số đó chính là do sự phát triển của nền công nghiệp điện
ảnh rầm rộ trên khắp thế giới. Các nhà chức trách nhìn nhận một sự thật rằng khách
đến Hàn Quốc là vì chính hoạt động giải trí của đất nước này hơn là vì những lí do
cá nhân hay chi phí vé máy bay rẻ. Theo những báo cáo gần đây về số lượng khách
du lịch đến Hàn Quốc, hơn một nửa số khách Châu Á đặt chân tới quốc gia này bị
hấp dẫn bởi những đoạn quảng cáo, phim truyền hình, và đặc biệt là những bài hát
của Hàn Quốc.
Tại Goseokjeong cũng thế. Nơi đây là địa điểm quay hình của nhiều phim
truyền hình cỗ trang lẫn hiện đại, show truyền hình cũng như phim điện ảnh nổi
tiếng toàn Châu Á cũng như thế giới, tiêu biểu như phim “ Gió thổi mùa đông năm
ấy”của Jo In Sung, Song Hye Kyo, “Bác sĩ Jin” (Song Seung Heon, Kim Jae
Joong), “Chiến binh Baek Dong Soo” (Ji Chang Wook, Yoo Seung Ho, Yoon So Yi, Shin Hyun Bin), Rối loạn (Hyun Bin, Jo Jung Suk)... Thông qua các chính sách nhằm thúc đẩy quảng bá, giới thiệu về văn hóa và cảnh quan xinh đẹp của các địa phương, trong đó có khu du lịch quốc gia Goseokjeong tới bạn bè quốc tế, từ đó thúc đẩy du khách đến với khu du lịch này nhiều hơn.
b, Khu du lịch quốc gia Núi Tam Thanh, Trung Quốc Núi Tam Thanh là một ngọn núi nằm ở phía Bắc huyện Ngọc Sơn, Thượng
Nhiêu thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, có niên đại khoảng 1 tỷ năm trước. Bấy
giờ trên trái đất còn chưa có loài người, núi Tam Thanh chỉ là một đảo núi lửa nằm
chơ vơ trên vùng biển viễn cổ. Mãi đến 850 triệu năm trước, do hai thềm lục địa gần
đó xảy ra va chạm và dâng cao, nước biển ở khu vực này từ từ rút đi, khiến đảo núi lửa nằm bên rìa hai thềm lục địa này nhô dần lên, rồi tạo thành cụm núi đá gồ ghề
cao thấp khác nhau. Sau đó, lại trải qua hàng trăm triệu năm mưa gió xâm thực và
địa chất tiến hóa. Cuối cùng núi Tam Thanh - một cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp
thời tiền sử đã hiện ra trước mắt loài người. Cùng với giá trị lịch sử, núi Tam Thanh
còn mang một vẻ đẹp cảnh quan kỳ dị và độc đáo được hình thành bởi sức mạnh thiên nhiên với đỉnh núi cao chọc trời, vực sâu thăm thẳm, với địa mạo nham thạch
hoa cương phân bố dày đặc nhất, các đỉnh núi và trụ đá có hình thái đa dạng nhất.
Núi Tam Thanh bốn mùa đẹp như tranh, mỗi mùa đều có phong cảnh khác nhau, mùa xuân lượng mưa dồi dào, trên núi một màu xanh thắm, hoa đỗ quyên và nhiều loại hoa rừng đã điểm tô cho núi Tam Thanh trở nên vô cùng sinh động. Mùa hè khí
hậu mát mẻ. Mùa thu thì lá thay cho hoa, lá cây nhuộm thành nhiều màu sắc và hình
thành nhiều tầng thứ khác nhau. Mùa đông, núi Tam Thanh thường rơi tuyết, tuyết
phủ đầy như núi ngọc, khí thế bàng bạc trông chẳng khách nào đỉnh Everest.
Với giá trị đó, năm 2005, núi Tam Thanh được công nhận là một điểm danh
lam thắng cảnh quốc gia quan trọng, một khu du lịch quốc gia cấp 4A (cấp cao nhất
ở Trung Quốc là 5A), một di sản thiên nhiên quốc gia và một công viên địa chất
quốc gia. Năm 2008, núi Tam Thanh được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hợp Quốc (UNESCO) bình chọn là "Di sản Thiên nhiên Thế giới".
Ngoài ra, núi Tam Thanh còn mang giá trị văn hóa lịch sử sâu sắc. Theo lịch
sử, núi Tam Thanh là núi của Đạo giáo, xuất phát từ cái tên của nó. Núi Tam Thanh
có đỉnh núi chính là đỉnh Ngọc Kinh, cùng hai đỉnh núi nằm kề bên là đỉnh Ngọc
Hư và Ngọc Hoa có độ cao tương đương, nhất là ba đỉnh núi thần của đạo giáo là
Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh là cao nhất trong cụm núi đá ở đây, nên
mới có tên là núi Tam Thanh. Từ tên gọi này có thể thấy, núi Tam thanh là một tòa danh sơn đạo giáo, lịch sử nhân văn đạo giáo có thể đi ngược dòng thời gian vào thời Đông Tấn hơn 1600 năm trước, bấy giờ Cát Hồng đã bắt đầu lên núi nhóm lò luyện đan. Do đó, phía bắc núi Tam Thanh hiện còn giữ được khá nhiều di chỉ văn hóa đạo giáo như Cung Tam Thanh, Đài Phi Tiên, Điện Long Hổ, sắp đặt theo bố cục Bát Quái Đồ đạo giáo, được các chuyên gia gọi là Viện bảo tàng lộ thiên của Đạo Giáo.
Để phát triển du lịch tại đây, chính phủ Trung Quốc cũng như chính quyền
tỉnh Giang Tây và thành phố Thượng Nhiêu đã áp dụng rất nhiều chính sách, trong
đó phải kể đến một số chính sách sau:
Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, trong đó
đặc biệt quan trọng là hệ thống giao thông và và các phương tiện vận chuyển khi đi
du lịch đến Giang Tây, Trung Quốc. Hiện tại, phương tiện phổ biến nhất vẫn là máy
bay. Ở Giang Tây có 7 sân bay, trong đó 1 sân bay quốc tế. Đó là sân bay quốc tế
Xương Bắc Nam Xương. Các chặng bay quốc tế đến Giang Tây có rất nhiều hãng hàng không khai thác như Vietnam Airlines, China Eastern Airlines, Shenzhen
Airlines, Air China, … Từ Giang Tây có rất nhiều phương tiện đi lại để lựa chọn để
đến khu du lịch quốc gia Núi Tam Thanh. Hệ thống đường cao tốc được đầu tư giúp du khách dễ dàng di chuyển giữa các tỉnh, huyện. Có các tuyến xe khách, xe buýt đến thẳng những địa điểm tham quan nổi tiếng. Ngoài ra, đi tàu thuyền cũng là một
lựa chọn thêm cho du khách. Hệ thống cảng ở Giang Tô rất phát triển. Có cả cảng
phục vụ hàng hóa và hành khách. Một phương thức khách nữa là đi tàu hỏa. Ở
Giang Tây có cả tàu sắt truyền thống và tàu cao tốc.
Hệ thống khách sạn ở tỉnh Giang Tây và thành phố Thượng Nhiêu rất phát
triển để phục vụ cho du lịch. Đến các điểm tham quan tại Giang Tây, trong đó có
khu du lịch núi Tam Thanh, du khách sẽ có nhiều sự lựa chọn với các cơ sở lưu trú
đa dạng và chất lượng.
Chính sách bảo tồn và tôn tạo tài nguyên du lịch ở Trung Quốc cũng rất được
coi trọng. Trong những năm gần đây, khách du lịch tới các thành phố lớn tại Trung
Quốc ngày càng giảm do tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng. Chính phủ Trung
Quốc vì vậy đã có những chính sách đầu tư bảo tồn và tôn tạo tài nguyên du lịch,
đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn để thúc đẩy du lịch.
Núi Tam Thanh là điểm du lịch mang giá trị tự nhiên rõ nét, các yếu tố địa
chất mang giá trị lịch sử quý giá cùng với những cảnh quan độc đáo kỳ vĩ chính là điểm nhấn của khu du lịch này. Do vậy, tại đây, chính phủ Trung quốc cũng như chính quyền thành phố Thượng Nhiêu luôn cố gắng gìn giữ cảnh quan và môi trường tự nhiên, tránh ảnh hưởng tới môi trường du lịch của khu du lịch Núi Tam Thanh. Theo “Quy hoạch tổng thể thành phố Thượng Nhiêu (2007-2020)”, kết hợp với tình hình phát triển thực tế, năm 2010, thành phố Thượng Nhiêu đã hoàn thành công tác biên soạn “Quy hoạch hệ thống đất xanh thành phố Thượng Nhiêu (2010-
2020)” và đã xác định được mục tiêu phát triển dài hạn trong giai đoạn 2010 - 2020
về xanh hóa vườn cảnh khu trung tâm thành phố, tạo cơ sở và tiêu chuẩn cho phát
triển xanh hóa vườn cảnh khu trung tâm thành phố. Lập kế hoạch thực thi cẩn thận
một loạt công trình sinh thái xanh hóa. Vài năm gần đây, khu vực trung tâm thành phố Thượng Nhiêu đã lần lượt xây dựng thành công hoặc đã cải tạo một loạt các
công viên thành phố như Công viên Nhân dân, Công viên Tử Dương, Công viên hồ
Long Đàm, Vườn Thực vật thành phố Thượng Nhiêu… Hiện tại, số lượng công
viên đã lên tới con số 25, loại hình công viên cũng ngày càng phong phú, làm thay
đổi lịch sử không có vườn thực vật và công viên mang tính tổng hợp của thành phố này. Thành phố cũng đã xây dựng hoặc cải tạo hơn 20 tuyến đường cây xanh và
vành đai xanh như đại lộ núi Tam Thanh, đại lộ Quảng Tín, đại lộ Quy Phong…, cơ
bản đã hình thành xương sống xanh hóa đường xá, đồng thời, tiêu chuẩn xây dựng xanh hóa khu cư trú và xanh hóa khuôn viên các đơn vị cũng ngày càng được phát triển. Trình độ quản lý xanh hóa vườn cảnh thành phố ngày càng nâng cao. Hiện
nay, thành phố Thượng Nhiêu nghiêm túc thực thi chế độ quản lý vành đai xanh và
“chế độ con dấu màu xanh”, tăng cường kiểm tra quy hoạch các hạng mục xanh hóa
đồng bộ và quản lý nghiệm thu hoàn công, bảo đảm cho các phương án thiết kế
được thực thi triệt để. Thành phố Thượng Nhiêu cũng đã lẫn lượt cho ra đời 14 văn
kiện và chế độ quản lý ngành nghề mang tính quy phạm như “Biện pháp tạm thi
hành quản lý xanh hóa thành phố Thượng Nhiêu”, “Quy định tạm thi hành quản lý
công viên khu vực thành phố Thượng nhiêu”, công tác quản lý vườn cảnh thành phố
đang từng bước đi vào quỹ đạo chế độ hóa. Nhờ đó, dù các thành phố khác bị ô
nhiễm không khí nặng nề thì thành phố Thượng Nhiêu vẫn được đánh giá cao về
môi trường trong lành, thân thiện. Đây cũng là một trong những lí do cơ bản để thu
hút khách du lịch đến thành phố và tham quan Khu du lịch quốc gia Núi Tam
Thanh.
Bên cạnh đó, điểm đến này còn mang trong mình cả giá trị lịch sử, văn hóa,
vì thế thành phố Thượng Nhiêu luôn cố gắng duy trì và nhân rộng giá trị văn hóa dân tộc, từ đó hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi đây cũng thường diễn ra các sự kiện văn hóa lớn của quốc gia, như ngày 20/5/2018 (vốn là Ngày đàn tranh Trung Quốc), trong lần tổ chức thứ hai, Chính phủ Trung Quốc đã là chọn biểu diễn tại phân hội trường Diên Sơn, thành phố Thượng Nhiêu, tỉnh Giang Tây, với gần 100 người yêu thích đàn tranh tiến hành biểu diễn. Hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển văn hoá đàn tranh Trung Quốc, khiến càng nhiều người hiểu biết về đàn
tranh, tìm hiểu về đàn tranh và yêu thích đàn tranh, đồng thời thúc đẩy sự quan tâm,
tham gia và theo dõi của khách du lịch nội địa và quốc tế, thu hút họ đến thành phố
Thượng Nhiêu, cũng như Khu du lịch núi Tam Thanh tại đây.
Từ những chính sách đó, trong thời gian, khu du lịch quốc gia Goseokjeong Hàn Quốc và khu du lịch Núi Tam Thanh, Trung Quốc vẫn luôn phát triển ổn định
và bền vững. Đây là mục tiêu quan trọng trong các chính sách phát triển du lịch nói
chung và phát triển khu du lịch quốc gia nói riêng tại bất cứ quốc gia nào.
1.4.2 Bài học rút ra cho các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
Trên cơ sở những kinh nghiệm về các chính sách phát triển du lịch đang được áp dụng tại các khu du lịch quốc gia ở một số quốc gia Châu Á có thể rút ra
một số bài học sau:
(1) Nhà nước cần xác định đúng vị trí, vai trò của ngành và quan tâm phát
triển du lịch bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau.
- Xác định đúng vai trò của du lịch trong chính sách chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để phát triển du lịch.
Trong các kinh nghiệm được miêu tả ở trên, phát triển du lịch đều được coi
là một lĩnh vực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và đất nước. Từ việc xác
định vai trò của du lịch, các quốc gia đều chú trọng hoạch định chính sách về du
lịch, tạo môi trường chính sách và pháp luật đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy du lịch
phát triển nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Các chính sách về du lịch đều dựa trên bối cảnh phát triển du lịch quốc tế và trong
nước, xu thế thị trường khách du lịch và các đòi hỏi bức thiết phải nâng cao năng
lực cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
- Chính phủ cần có chính sách quốc gia xuyên suốt cho phát triển du lịch và
coi trọng chiến lược phát triển du lịch bền vững, quan tâm tới môi trường
Để hỗ trợ thực hiện hiệu quả các chiến dịch phát triển du lịch tổng thể, chính
phủ các nước này đã cung cấp các khoản đầu tư lớn từ nguồn ngân sách cho các
hoạt động xúc tiến, quảng bá điểm đến, phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, kết hợp với các biện pháp tạo thuận lợi cho khách du lịch như tăng khả năng tiếp cận điểm hấp dẫn du lịch. Cụ thể: Ở Trung Quốc, chính phủ có chính sách quốc gia xuyên suốt để bảo vệ môi trường, thậm chí xây dựng hẳn chiến lược và lập quy hoạch về thành phố xanh để hạn chế tác động xấu đến môi trường sống và môi trường du lịch tại thành phố Thượng Nhiêu, nơi có khu du quốc gia Núi Tam Thanh. (2) Chú trọng chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
- Cần làm tốt chiến lược maketing, tổ chức xúc tiến sản phẩm và điểm đến du
lịch, xem đây là kênh giới thiệu sản phẩm du lịch đến với du khách
Việc thực hiện chiến lược xúc tiến, quảng bá thương hiệu điểm đến của Hàn Quốc luôn được quan tâm. Quốc gia này đã xây dựng, tổ chức các kế hoạch quảng
bá, xúc tiến tại thị trường nước ngoài rất công phu, kịch bản chặt chẽ và khoa học,
có cơ quan chủ quản và chịu trách nhiệm rõ ràng. Nội dung quảng bá, xúc tiến
thường có sự linh hoạt theo từng chiến lược cụ thể hàng năm hoặc hàng kỳ. Họ luôn
tham gia các kỳ hội chợ với các sản phẩm chất lượng, hoàn chỉnh và luôn luôn sẵn sàng. Đặc biệt, tại mỗi quốc gia, họ lại quảng bá theo một nội dung phù hợp riêng,
đảm bảo thu hút đúng thị trường khách hướng tới, ngôn ngữ sử dụng cũng rất đa
dạng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường cao.
- Coi trọng đầu tư cho chiến lược xúc tiến du lịch: Hoạt động xúc tiến quảng bá có vai trò quan trọng trong việc giới thiệu và lan truyền hình ảnh du lịch quốc gia
ra thế giới nên cần sự đầu tư đúng tầm và đúng chỗ. Kinh phí quảng bá luôn được
Nhà nước ưu tiên hỗ trợ, ngoài ra, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng có
phải đóng góp vì nó được coi là yếu tố mang lại lợi ích kinh tế cho chính họ.
(3) Chính sách đào tạo nhân lực du lịch
Nội dung cơ bản cần được quan tâm trong chính sách đào tạo nhân lực tại
các quốc gia đã phát triển du lịch bao gồm:
- Coi trọng bồi dưỡng, sử dụng nhân lực du lịch để xây dựng và phát triển du
lịch hiệu quả
Từ thực trạng phát triển du lịch tại các quốc gia trong khu vực cho thấy thành
công trong việc thu hút khách du lịch là nhờ nguồn nhân lực du lịch được đào tạo
chuyên nghiệp, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao, lòng yêu nghề và sự
nghiêm túc trong công việc. Đặc biệt, trong các quốc gia Châu Á, Hàn Quốc và
Trung Quốc là những quốc gia được đánh giá cao về chất lượng nguồn nhân lực du
lịch. Chính nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp, chất lượng cao là một trong những yếu tố giúp nâng tầm vị thế và năng lực cạnh tranh của họ như những điểm đến du lịch quốc tế.
- Chăm lo đào tạo đội ngũ những người làm du lịch chuyên nghiệp. (4) Chính sách xây dựng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch Để xây dựng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch, các chính sách về sản phẩm
du lịch của những quốc gia phát triển luôn quan tâm đến những yếu tố sau:
- Phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng mang tính đặc trưng và những yếu tố
hấp dẫn khác trong xây dựng sản phẩm du lịch. Phát huy các giá trị văn hóa, tín
ngưỡng và những yếu tố hấp dẫn khác trong xây dựng sản phẩm du lịch là một nhân tố tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm du lịch của từng vùng, từng quốc gia. Nếu khu
du lịch quốc gia Goseokjeong Hàn Quốc gây ấn tượng cho du khách nhờ làn sóng
Hallyu hay thông qua các bộ phim truyền hình được đầu tư kỳ công và trở thành
“hiện tượng” toàn khu vực thì thành phố Thượng Nhiêu, với khu du lịch quốc gia
Núi Tam Thanh lại tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách bằng sự độc đáo trong khai thác sản phẩm “du lịch xanh”. Và quan trọng là các khu du lịch quốc gia này đã tạo
nên những sự khác biệt cho những sản phẩm du lịch của quốc gia mình để thu hút
du khách.
- Coi trọng việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Về quy mô và chất lượng sản phẩm du lịch: Sản phẩm du lịch đóng vai trò
rất quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của du lịch mỗi vùng, mỗi quốc
gia. Sản phẩm du lịch đơn điệu, kém hấp dẫn sẽ yếu thế trong cạnh tranh và khó có
thể lôi kéo được du khách. Vì vậy, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch chính là chiến lược mà các điển hình kinh nghiệm đề cập ở trên rất coi trọng để
đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc đầu tư phát triển du lịch sinh thái, văn hóa, du
lịch sự kiện, chuyên đề, mua sắm, du lịch nông thôn,... theo hướng khác biệt đã thực
sự mang lại hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các quốc gia đó
trong thời gian qua.
Về sản phẩm du lịch đặc thù: các khu du lịch quốc gia được nghiên cứu ở
trên đều quan tâm phát triển sản phẩm du lịch đặc thù để tạo lợi thế trong cạnh
tranh. Chẳng hạn, sản phẩm đặc thù của khu du lịch quốc gia ở Hàn Quốc là các sản
phẩm du lịch mang đậm tính văn hóa, lịch sử như các phim trường hoành tráng, các
trung tâm lịch sử, nghệ thuật; sản phẩm du lịch đặc thù của khu du lịch quốc gia ở
Trung Quốc là các sản phẩm du lịch văn hóa, du lịch xanh...
Về chiến lược giá cả: Nhìn chung, như các điểm du lịch, các khu du lịch quốc gia cũng thường tổ chức các sự kiện để thu hút khách du lịch vào mùa thấp điểm như chiến dịch “siêu giảm giá”, giảm giá vé máy bay và các dịch vụ mặt đất... Đây là bài học quan trọng nhằm giảm tính chất mùa vụ, kích thích nhu cầu du lịch, tăng xuất khẩu tại chỗ và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp du lịch thương mại và dịch vụ, đặc biệt là các cơ sở lưu trú.
(5) Chính sách liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch tại các khu du lịch
quốc gia
Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, sự phát triển du lịch không chỉ bó hẹp trong một quốc gia, lãnh thổ mà
luôn vươn ra khỏi phạm vi hành chính một địa phương, quốc gia và khu vực. Việc
liên kết du lịch giữa các lãnh thổ khác nhau cho phép khai thác những lợi thế tương
đối của nhau về tài nguyên du lịch, về vị trí trong giao thương, về hạ tầng, cơ sở vật
chất - kỹ thuật và các nguồn lực khác để phát triển du lịch. Đồng thời, liên kết du lịch giữa các chủ thể hành chính còn tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn đối với
các bên liên quan nhằm thu hút đầu tư từ các nguồn vốn trong và ngoài nước, thu
hút khách du lịch đến mỗi địa bàn nhằm thu lợi nhuận, đồng thời giải quyết việc làm cho nguồn lao động tại địa phương.
Các nước có nền du lịch phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc... đã liên kết,
hợp tác từ rất sớm. Họ liên kết để kết nối chương trình du lịch, tạo ra những sản
phẩm du lịch đặc trưng, chuyên biệt cho mỗi quốc gia và liên quốc gia (như các
chương trình du lịch Việt Nam – Trung Quốc). Hình thức liên kết của họ là liên kết
nội vùng, ngoại vùng và liên kết đa ngành. Đặc biệt, sự liên kết giữa du lịch với
ngành hàng không cần rất chặt chẽ, nhằm tạo ra những chương trình du lịch quốc tế
hấp dẫn với mặt bằng giá cả cạnh tranh.
Ngoài ra sự liên kết trong phạm vi quốc gia cũng là yếu tố quan trọng tạo ra
tính đa dạng những vẫn đảm bảo sự thuận tiện và đồng nhất của sản phẩm, mang lại
giá trị trải nghiệm cao cho khách hàng. Sự liên kết nhằm mục đích khai thác có hiệu
quả thế mạnh tài nguyên du lịch của mỗi vùng du lịch. Đồng thời, từng bước liên
kết tạo điểm đến chung trên cơ sở hình thành chuỗi các sản phẩm du lịch đặc thù,
hấp dẫn để thu hút du khách, tiến tới mở rộng thị trường, thu hút đầu tư phát triển
và khai thác hiệu quả hoạt động du lịch tại các quốc gia và vùng.
(6) Tạo môi trường chính trị ổn định, đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách
tại các quốc gia điểm đến, nơi có các khu du lịch quốc gia
Môi trường chính trị ổn định, đất nước an bình, môi trường sinh thái trong sạch là điều kiện lý tưởng cho việc thu hút khách du lịch. Đây là một trong những thế mạnh của du lịch ở Hàn Quốc và Việt Nam. Trên bản đồ du lịch thế giới, đây được coi là những quốc gia có điểm tham quan an toàn nhất thế giới. Đây cũng là sự lựa chọn ưu tiên của du khách cho những điểm đến du lịch trong tương lai.
Vấn đề an toàn giao thông cũng được du khách quan tâm khi đi du lịch tại
nước ngoài. Tại Hàn Quốc và Trung Quốc, các phương tiện giao thông chấp hành
rất đúng luật, tai nạn giao thông rất ít, hầu hết người dân đều có ý thức cao trong việc chấp hành luật lệ giao thông. Người tham gia giao thông, đặc biệt là du khách
thường hay đi bộ để tham quan, có thể yên tâm sang đường vì chỉ cần ấn nút trên
cột đèn tín hiệu là đoàn xe ô tô sẽ dừng để nhường đường. Bên cạnh đó, việc kiểm
soát tình trạng ăn xin hay chèo kéo du khách, tránh gây phiền hà cho du khách trong
chuyến thăm quan cũng thường được đánh giá cao.
Những kinh nghiệm trên là những bài học bổ ích về chính sách du lịch mà
Việt Nam có thể và cần vận dụng để phát triển du lịch nói chung và phát triển các
khu du lịch quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KHU DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
Tính đến cuối tháng 12 năm 2018, Việt Nam có 03 khu du lịch quốc gia
được công nhận chính thức, bao gồm: Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm (Đà
Lạt), Khu du lịch quốc gia Sapa (Lào Cai) và Khu du lịch quốc gia Núi Sam (An
Giang). 2.1.1 Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm
Ngày 15/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 205/QĐ-
TTg công nhận chính thức Khu du lịch hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt là Khu du lịch cấp Quốc gia, đây là Khu du lịch quốc gia (KDLQG) đầu tiên của cả nước.
Khu du lịch quốc gia hồ Tuyền Lâm thuộc vùng du lịch Tây Nguyên. Với
diện tích rộng 2.900 ha, các hoạt động du lịch, dịch vụ tại KDLQG hồ Tuyền Lâm
được đánh giá là phong phú, đa dạng, từ nghỉ dưỡng cao cấp kết hợp hội nghị - hội
thảo, vui chơi giải trí, thể thao mạo hiểm đến du lịch sinh thái, văn hóa tâm linh…
Bên cạnh đó, sự hiện đại, sang trọng và tiện nghi là những điểm chung trong tất cả
các kiến trúc xây dựng cũng như dịch vụ nơi đây.
Theo Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050, KDLQG hồ Tuyền Lâm, Đà Lạt được bổ sung 143 ha đất của các dự án,
thành tổng diện tích hơn 2.944 ha, quy mô gần 7.000 phòng nghỉ du lịch.
Đây là khu du lịch nằm trên địa giới thành phố Đà Lạt và huyện Đức Trọng,
phía Đông và Tây giáp Quốc lộ 20 và núi B’Nam; phía Bắc giáp khu vực Sầm Sơn,
Quảng Thừa; phía Nam giáp Núi Voi.
Trong tổng số 11 phân khu chức năng được quy hoạch ở KDLQG hồ Tuyền
Lâm, tỷ lệ có 2,5% - 10% công trình có mái che và 4,5% - 17% công trình không có
mái che. Trong đó 5 phân khu chiếm nhiều diện tích nhất gồm: Du lịch sinh thái (gần 1.260 ha); nghỉ dưỡng cao cấp (hơn 545 ha); hồ Tuyền Lâm và vùng bảo vệ (352 ha); vui chơi giải trí chất lượng cao, hội nghị, hội thảo (gần 350 ha); sân golf kết hợp nghỉ dưỡng (gần 210 ha).
Trong 6 phân khu còn lại, mỗi phân khu bố trí diện tích từ 20 - 65 ha bao gồm: công viên công cộng, hồ sinh học Suối Tía, Trung tâm đón tiếp, hạ tầng công cộng, du lịch văn hóa kết hợp nghiên cứu và du lịch tôn giáo.
Về sự phát triển du lịch, năm 2017 là năm đầu tiên được công nhận chính
thức là khu du lịch quốc gia, lượng khách du lịch đến KDLQG hồ Tuyền Lâm nói
riêng và đến với Đà Lạt - Lâm Đồng nói chung tăng khá cao: 5.948.300 lượt (tăng 9% so với năm 2016); đặc biệt, khách quốc tế tăng đột biến 35,6% (400 nghìn lượt);
khách nội địa 5.548.300 lượt (tăng 7,5%); tổng thu từ du lịch trên địa bàn đạt gần
11.000 tỷ đồng... Năm 2018, lượng khách đến tiếp tục tăng lên, cụ thể, khách du
lịch đến Lâm Đồng ước đạt 6.505.500 lượt, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2017,
đạt 100,1% kế hoạch năm. Trong đó, khách quốc tế ước đạt 485.000 lượt, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm 2017, chiếm 10,9% so với tổng lượt khách qua lưu trú,
đạt 101% kế hoạch năm và khách nội địa ước đạt 6.020.500, tăng 9,5% so với cùng
kỳ năm 2017, đạt 100,01% kế hoạch năm. Khách lưu trú ước đạt 4.450.000 lượt, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 101% kế hoạch năm và ngày lưu trú bình quân là 2,2 ngày, tổng doanh thu từ khách du lịch trên địa bàn tỉnh đạt 11.710 tỷ
đồng, tăng 10,2% so với năm 2017.
Đây là kết quả của sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, chính quyền, sự
“vào cuộc” nhịp nhàng, hiệu quả của các sở, ban, ngành và của cả hệ thống chính trị
trong tỉnh.
Để khai thác tiềm năng, thế mạnh cạnh tranh của địa phương tập trung phát
triển du lịch bền vững; UBND thành phố đã tập trung xây dựng và thực hiện cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận của tỉnh Lâm Đồng,
trong đó có KDLQG hồ Tuyền Lâm, theo Quyết định 1528/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành Nghị quyết 03 NQ/TU, ngày 13/9/2016
về phát triển thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận giai đoạn 2016 - 2020, định hướng
đến 2030 và Nghị quyết 07-NQ/TU, ngày 16/11/2016 về phát triển du lịch chất
lượng cao giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng.
Từ các nghị quyết của Đảng, sự phối hợp của chính quyền và các ngành, đoàn thể liên quan trong tỉnh, nhất là Bộ VHTTDL, tỉnh Lâm Đồng đã tích cực triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp tập trung phát triển du lịch đem lại những kết quả rất khả quan trong năm 2017 – 2018, tạo đà thuận lợi để năm 2019 và những năm tiếp theo, đưa du lịch tại KDLQG hồ Tuyền Lâm và du lịch Đà Lạt - Lâm Đồng trở thành điểm sáng trong cả nước. 2.1.2 Khu du lịch quốc gia Sapa
Ngày 01/12/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1927/QĐ-TTg
công nhận Khu du lịch Sa Pa, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai là Khu du lịch quốc gia
(KDLQG), đây là khu du lịch quốc gia thứ hai của Việt Nam. KDLQG Sa Pa thuộc địa bàn toàn huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, thuộc vùng du
lịch Trung du và Miền núi Phía Bắc, đây là khu du lịch quốc gia duy nhất của vùng
này. Diện tích vùng lõi tập trung phát triển Khu du lịch quốc gia Sa Pa là 1.500 ha.
Theo Quyết định số 1845/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển khu du lịch quốc gia Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030 thì KDLQG Sa Pa được định hướng phát triển thành 01 Đô thị du lịch Sa Pa và 04 phân khu du lịch,
gồm: Bản Khoang - Tả Giàng Phình (thuộc xã Bản Khoang và Tả Giàng Phình); Tả
Phìn (thuộc xã Tả Phìn); Tả Van - Séo Mý Tỷ (thuộc xã Tả Van) và Thanh Kim (thuộc xã Thanh Kim), có sự kết nối với huyện Bát Xát
Hoạt động khai thác du lịch tại KDLQG Sapa được xây dựng trên cơ sở
chuỗi sản phẩm du lịch và dịch vụ đồng bộ, tạo ấn tượng tốt đẹp đối với du khách
trong và ngoài nước. Đến hết năm 2017 nhiều chỉ tiêu của Đề án đạt cao như: Tổng
số hướng dẫn viên và thuyết minh là 716 người; Mức chi tiêu bình quân của khách
du lịch đến Lào Cai đạt 1.335.000 đồng/khách; Tổng lượt khách du lịch ước là 3,5
triệu lượt;
Với những mục tiêu, giải pháp đồng bộ mang tính đột phá, chiến lược,
KDLQG Sa Pa nói riêng và du lịch Lào Cai nói chung, đang tiếp tục đáp ứng tốt
hơn nhu cầu ngày càng cao của du khách thập phương, đóng góp vào sự phát triển
chung của tỉnh cũng như du lịch cả nước.
2.1.3 Khu du lịch quốc gia Núi Sam
Khu du lịch Núi Sam được Bộ VHTTDL công nhận trở thành Khu du lịch
quốc gia vào ngày 13/07/2018 tại Quyết định 2646/QĐ-BVHTTDL. KDLQG Núi
Sam thuộc địa phận phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; có ranh
giới: phía Đông Bắc giáp phường Châu Phú A, phía Đông Nam giáp phường Châu Phú B, phía Tây Bắc giáp kênh Vĩnh Tế, phía Tây Nam giáp đất nông nghiệp. Diện tích khu vực dự kiến tập trung phát triển thành Khu du lịch quốc gia là 1.487 ha. KDLQG Núi Sam được đầu tư phát triển với mục tiêu đến năm 2030 trở thành trung tâm du lịch đặc sắc về văn hóa tâm linh, cùng với TP Châu Đốc và các điểm du lịch lân cận trở thành điểm đến quan trọng của cả nước. Đến năm 2025 đón khoảng 6 triệu lượt khách, trong đó có khoảng 800 ngàn lượt khách lưu trú. Đến năm 2030
đón khoảng 7 triệu lượt khách, trong đó có khoảng trên 1 triệu lượt khách lưu trú.
Tổng thu từ khách du lịch (theo giá hiện hành): đạt 2.600 tỷ đồng, tạo việc làm cho
trên 5.000 lao động trực tiếp (2025) và lên 6.000 tỷ đồng và 9.000 lao động trực tiếp
(2030).
Theo quy hoạch, Khu du lịch quốc gia tập trung phát triển 8 phân khu chức
năng chính gồm: Phân khu đô thị cũ để bảo tồn kiến trúc, văn hóa truyền thống
Châu Đốc; Phân khu công trình công cộng, nhà ở kết hợp dịch vụ, du lịch; Phân
khu công viên văn hóa du lịch, vui chơi giải trí, thể thao, nghỉ dưỡng phục vụ khách
du lịch; Phân khu du lịch sinh thái kết hợp dịch vụ phục vụ khách du lịch; Phân khu cơ sở lưu trú nghỉ dưỡng của khách du lịch; Phân khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái;
Phân khu nghỉ dưỡng kết hợp nông nghiệp sạch (Eco-Farm); Phân khu du lịch văn
hóa - tâm linh, lễ hội Núi Sam.
Khu du lịch quốc gia tập trung khai thác thị trường khách du lịch văn hóa - tâm linh, lễ hội; từng bước mở rộng thị trường khách vui chơi giải trí, khám phá, thể
thao và nghỉ dưỡng; chú trọng khai thác có hiệu quả khách du lịch nội vùng đồng
bằng sông Cửu Long, khách du lịch đến từ Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh thuộc
vùng Đông Nam bộ, vùng Tây Nguyên đi theo đoàn lớn. Khu du lịch chú trọng thu
hút thị trường khách quốc tế đến từ các nước thuộc Tiểu vùng Mê Kông mở rộng đi
qua các cửa khẩu quốc tế của An Giang và các tỉnh lân cận. Về sản phẩm du lịch,
Khu du lịch quốc gia ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa - tâm linh,
trong đó mục đích chính là việc hành hương, lễ Bà chúa Xứ, thăm lăng Thoại Ngọc
Hầu và các điểm di tích khác. Bên cạnh đó, tại đây cũng phát triển các loại hình du
lịch tham quan, khám phá, du lịch thể thao; đa dạng hóa sản phẩm du lịch với các
sản phẩm du lịch bổ trợ như du lịch cộng đồng, nghỉ dưỡng, cắm trại, dịch vụ vui
chơi giải trí; hình thành các sản phẩm du lịch liên kết với các địa bàn khác như kết
hợp tham quan, mua sắm tại cửa khẩu Tịnh Biên, chợ biên giới Vĩnh Ngươn, Châu
Đốc; đua bò vùng Bảy Núi; tham quan Núi Cấm, khu di tích lịch sử Đồi Tức Dụp,
rừng tràm Trà Sư, khu di tích Nhà mồ Ba Chúc, khu du lịch Búng Bình Thiên.
Những năm qua, hoạt động du lịch tại KDLQG Núi Sam đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Hàng năm nơi đây thu hút trên 4 triệu lượt khách (trong đó, tỷ lệ khách quốc tế, nhất là từ các nước ASEAN ngày càng tăng).
Tổng thu từ khách du lịch năm sau luôn cao hơn năm trước (năm 2008 đạt 95 tỷ đồng, đến năm 2017 đạt 500 tỷ đồng). Đóng góp thực tế cho sự phát triển kinh tế
của địa phương từ KDL núi Sam là rất lớn (trên 7% trong GRDP của thành phố
Châu Đốc), qua đó thể hiện vị thế, sức hấp dẫn của KDL núi Sam.
Nơi đây cũng là điểm nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, nhiều dự án trọng điểm đã được triển khai, như: công viên
văn hóa núi Sam, cáp treo núi Sam, hệ thống giao thông, điện, nước, dịch vụ viễn
thông, môi trường… được ưu tiên đầu tư, nâng cấp và cơ bản đáp ứng yêu cầu phát
triển du lịch.
2.2 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam
2.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
Du lịch có mối quan hệ mật thiết với thực trạng kinh tế - xã hội ở bất cứ quốc gia, địa phương hay khu vực nào. Với các khu du lịch quốc gia, chính sách kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách phát triển du
lịch tại đây. Tại các thành phố có các KDLQG, Nhà nước và địa phương đã xây
dựng những chủ trương và chính sách thiết thực để phát triển kinh tế - xã hội, qua
đó, đẩy mạnh phát triển du lịch địa phương. Cụ thể:
Ở thành phố Lào Cai, các chính sách kinh tế - xã hội được chú trọng bao
gồm: Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo Kế hoạch số 142/KH-UBND ngày
17/5/2017 của UBND tỉnh để thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/02/2017
về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW
ngày 01/11/2016 của BCH Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính
sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện có hiệu quả
Kế hoạch số 56/KH-UBND ngày 09/02/2018 của UBND tỉnh về triển khai thực
hiện Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 12/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2025
trên địa bàn tỉnh Lào Cai, nhằm chuyển đổi và hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển, trong đó có phát triển du lịch. Tập trung triển khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; 04 Chương trình 19 Đề án trọng tâm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của tỉnh để thúc đẩy phát triển kinh tế. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng (GRDP) trên 10%. Tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 274/KH-UBND ngày 24/10/2017 của UBND tỉnh về hỗ trợ Hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Lào Cai giai đoạn 2017-2020, định
hướng đến năm 2025. Phấn đấu năm 2019, số lượng doanh nghiệp thành lập mới
trên địa bàn tỉnh tăng trên 10% so với năm 2018. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho các doanh nghiệp trong thời gian 02
ngày (giảm 01 ngày so với quy định hiện hành); Tạo điều kiện thuận lợi, nhanh
chóng về thủ tục hành chính cho các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp;
giảm tối đa các cuộc thanh tra, kiểm tra, gây chồng chéo, tạo thuận lợi cho người
dân và doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng; Thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động 153-CT/TU ngày
06/01/2014 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 29-KL/TW ngày 04/11/2013 Hội
nghị lần thứ tám BCH TW Đảng (Khóa XI) về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo...”; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch mạng lưới trường, lớp theo Đề án rà soát, điều chỉnh mạng lưới trường, lớp học đã phê duyệt; Triển khai
thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới từ năm học 2019-2020; Đẩy mạnh
phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông; Nâng cao chất
lượng hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú, bán trú; xây dựng trường học đạt
chuẩn Quốc gia, trường chất lượng cao; trường THPT chuyên, trường quốc tế để
các trường này trở thành hệ thống trường nòng cốt, tạo bước đột phá về chất lượng
giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực; Thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước, Đề án số 8 phát triển văn hóa thể thao tỉnh Lào Cai
giai đoạn 2016-2020; Đề án Tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc con người Việt
Nam giai đoạn 2011-2030 tỉnh Lào Cai (Đề án 641); Đề án Tuyên truyền, giáo dục
đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam; Dự án "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2017-2020". Đẩy
mạnh ‘‘Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng phong trào đời sống văn hóa”; Tổ
chức triển khai các hoạt động văn hoá thể thao lớn: Hội khoẻ Phù Đổng tỉnh Lào Cai, Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số, đây là yếu tố tiền đề quan trọng để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, xây dựng các sản phẩm du lịch hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao.
Tại Lâm Đồng, Nghị quyết số 69/2018/QH14 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 trong đó xác định: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến
lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh đổi mới
sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng phát triển y tế, giáo dục, đào tạo, văn
hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân
dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng
phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn
bộ máy, tinh giản biên chế; cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng, chống tham
nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Các chính sách nói trên có tác dụng không nhỏ tới khuyến khích du lịch nói chung và tạo điều kiện kích thích du lịch tại các KDLQG phát triển hơn nữa.
Còn tại An Giang, nội dung Nghị quyết số 69/2018/QH14 về Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2019 bao gồm: tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát
lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến
lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh đổi mới
sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu quả cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Chú trọng phát triển y tế, giáo dục, đào tạo, văn
hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân
dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng
phó với biến đổi khí hậu; Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn
bộ máy, tinh giản biên chế; cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng, chống tham
nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Mặc dù đây là những chính sách kinh tế - xã hội nói chung của cả tỉnh, tuy nhiên, những chính sách này có vai trò rất quan trong, vừa là điều kiện, vừa là cơ sở cho sự phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói riêng tại An Giang, trong đó có KDLQG Núi Sam. 2.2.2. Chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương
Phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia ở địa phương nào cũng luôn
cần có sự thống nhất với chủ trương, định hướng phát triển du lịch của địa phương
đó. Trên cơ sở đó, theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đối với các quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả nước, các khu du lịch quốc gia sau khi được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đều được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối
hợp với các địa phương tổ chức công bố rộng rãi. Các định hướng phát triển du lịch
của các quy hoạch này được các địa phương sử dụng là căn cứ để xây dựng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và các đề án phát triển du lịch cụ thể tại các địa phương, căn cứ để tổ chức thu hút đầu tư và tổ chức đầu tư phát triển du lịch.
Tại Lào Cai, định hướng phát triển du lịch của địa phương được triển khai
thực hiện trên cơ sở Chương trình hành động số 148-CTr/TU ngày 28/7/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn. Thúc đẩy phát triển du lịch huyện Bát Xát, Bắc Hà, Bảo Yên, Văn Bàn để mở
rộng không gian du lịch trong toàn tỉnh. Ưu tiên triển khai các hạng mục xây dựng
khu du lịch quốc gia Sa Pa mang tầm cỡ quốc tế theo quy hoạch đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Tiếp tục triển khai kế hoạch năm 2019 thực hiện Đề án số 03
phát triển du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016-2020. Tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu
tư, quảng bá du lịch Lào Cai trong và ngoài nước nhằm giới thiệu du lịch Lào Cai
đến du khách trong nước và quốc tế; xây dựng một số khu, điểm du lịch đạt tiêu
chuẩn cấp tỉnh theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh tỉnh Lào Cai giai
đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030 (phân vùng tại các huyện Bát Xát, Bắc
Hà, Bảo Thắng, thành phố Lào Cai....); tham gia chuỗi các sự kiện tại Hội chợ
Thương mại Du lịch Quốc tế Việt - Trung 2019; nghiên cứu, xây dựng một số sản
phẩm du lịch mới, đặc sắc, riêng có của Lào Cai.
Tại Lâm Đồng và An Giang, các chủ trương và định hướng phát triển du lịch
tập trung vào các vấn đề sau: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch tại các điểm đến du lịch trọng điểm. Phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ, hiện đại và phát triển các sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới, nhất là tại các vùng du lịch trọng điểm. Đây là những nội dung cơ bản được đề cập trong Quyết định số 01/QĐ-UBND tỉnh An Giang về Ban hành Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh An Giang năm 2019 và Quyết định số 673/QĐ-UBND tỉnh
Lâm Đồng về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 trên địa bàn tỉnh.
Những chủ trương, định hướng này cung cấp những khuôn khổ, phương
hướng để phát triển du lịch tại các KDLQG trên địa bàn các địa phương nói trên.
2.2.3. Bộ máy tổ chức quản lý các khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nay, trên thực tế đã hình thành
khu du lịch có quy mô quốc gia tại nhiều tỉnh, thành trên phạm vi cả nước, trong đó
có cả các KDLQG được công nhận chính thức. Để quản lý các khu du lịch quy mô như này, một số địa phương đã thành lập ban quản lý, có nơi trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, có nơi trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Sở Du lịch,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị quản lý khu du lịch quốc gia chưa thống nhất, mỗi địa phương sẽ có cách thức quản lý riêng với các KDLQG thuộc địa phương mình.
Cụ thể, về tổ chức quản lý, theo quyết định 205/QĐ-TTg, KDLQG Hồ
Tuyền Lâm sẽ do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn chi tiết về việc tổ
chức quản lý khai thác còn UBND tỉnh Lâm Đồng có trách nhiệm thực hiện việc tổ
chức quản lý, khai thác phát triển KDLQG Hồ Tuyền Lâm theo đúng quy hoạch
được duyệt và quy chế quản lý và hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Tại KDLQG Sapa cũng tương tự, theo quyết định 1927/QĐ-TTg, KDLQG Sapa sẽ
giao cho UBND tỉnh Lào Cai chủ trì, phối hợp cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tổ chức quản lý khai thác và phát triển các hoạt động du lịch tại đây.
Trong khi đó, tại KDLQG Núi Sam, theo Quyết định 2646/QĐ-BVHTTDL,
việc tổ chức quản lý khai thác sẽ giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An
Giang phối hợp với UBND tỉnh, trên cơ sở định hướng của Bộ Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch và Tổng cục Du lịch.
Tuy nhiên, cũng theo Quyết định công nhận chính thức ba KDLQG nói trên,
với các quyết định về cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững theo đúng định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển KDLQG đã được phê duyệt thì sẽ nghiên cứu, đề xuất để trình thủ tướng Chính phủ xem xét và quy định. Như vậy, các KDLQG Việt Nam hiện nay không có bộ máy quản lý độc lập mà sẽ do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch định hướng còn UBND tỉnh sẽ phối hợp quản lý, tổ chức và khai thác theo định hướng chung của Bộ và bản quy hoạch đã
được duyệt.
Ở mỗi địa phương, việc quản lý du lịch tại các KDLQG của UBND các tỉnh
được định hướng và phân công khác nhau.
Tại Lào Cai, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3330/QĐ-UBND thành lập Ban Quản lý Du lịch tỉnh Lào Cai. Theo đó, Ban Quản lý Du lịch tỉnh Lào Cai là cơ
quan trực thuộc UBND tỉnh, có chức năng tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý các
trọng điểm du lịch, khu du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai, trong đó có KDLQG Sapa
về công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng, khai thác và vận hành hoạt động của các
điểm du lịch, khu du lịch; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các nội dung, tiến độ thực hiện các dự án, hoạt động quảng bá, xúc tiến, phát triển sản phẩm du lịch
tỉnh Lào Cai; thực hiện một số nhiệm vụ khác thuộc lĩnh vực du lịch.
Toàn bộ nhân sự của Ban Quản lý du lịch tỉnh hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm, cơ cấu tổ chức gồm: 01 Trưởng Ban do Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiêm nhiệm, là người đứng đầu Ban, chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh,
Chủ tịch UBND tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Ban; 03 Phó
Trưởng Ban, trong đó có 01 Phó Trưởng ban do Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch kiêm nhiệm, 01 Phó Trưởng Ban do Phó Chủ tịch UBND huyện Sa
Pa phụ trách văn hóa – xã hội kiêm nhiệm, 01 Phó Trưởng Ban do Phó Chủ tịch
UBND huyện Bắc Hà phụ trách văn hóa – xã hội kiêm nhiệm. Các Phó Trưởng Ban
có nhiệm vụ giúp Trưởng Ban phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác do
Trưởng Ban phân công, chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban và trước pháp luật về
nhiệm vụ được phân công. Khi Trưởng Ban vắng mặt, một Phó Trưởng Ban được
Trưởng Ban ủy quyền điều hành hoạt động của Ban; Các thành viên Ban: do Phó
Chủ tịch UBND các huyện, thành phố phụ trách văn hóa – xã hội các huyện, thành
phố: Lào Cai, Mường Khương, Văn Bàn, Bát Xát, Bảo Yên, Si Ma Cai, Bảo Thắng
và một số công chức, viên chức khác của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiêm
nhiệm. Bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ do Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch quyết định từ các công chức, viên chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, gồm: Bộ phận Hành chính – Tổng hợp; Bộ phận Kế hoạch, quy hoạch và Đầu tư; Bộ phận Xúc tiến và phát triển sản phẩm du lịch. Trưởng Ban có trách nhiệm phân công nhiệm vụ đối với các Phó Trưởng ban và các thành viên Ban; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ, ban hành các quy định khác có liên quan để đảm bảo mọi hoạt động của Ban theo đúng quy định của pháp luật.
Tại An Giang, Quyết định số 28/2013/QĐ-UBND ngày 15 tháng 8 năm 2013
của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang quyết định thành lập Ban quản lý khu di tích
văn hoá – lịch sử và du lịch Núi Sam trực thuộc UBND để giúp UNBD thành phố Châu Đốc quản lý hoạt động tại đây, trong đó xác định chức năng như sau : Ban
quản lý cần thực hiện đầy đủ chức năng quản lý hành chính của chính quyền địa
phương đối với mọi hoạt động kinh doanh tại khu di tích văn hoá – lịch sử và du
lịch Núi Sam; Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để : Thực hiện quy
hoạch và điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tại khu di tích văn hoá – lịch sử và du lịch Núi Sam khi cần thiết; Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi
tiết của khu di tích văn hoá – lịch sử và du lịch Núi Sam đã được Ủy ban nhân dân
tỉnh phê duyệt theo đúng lộ trình và định hướng phát triển du lịch của tỉnh; Hướng dẫn cụ thể về công tác quản lý, bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị tại các công trình di tích văn hóa - lịch sử theo quy định của phát luật hiện hành; Hướng
dẫn, kiểm tra các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, trò chơi, giải
trí, hoạt động, khách sạn, nhà trọ, karaoke; các hành vi mê tín dị đoan, bói toán,
xâm phạm làm bẩn khu di tích; các hình thức quảng cáo, băng đĩa; Tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc thực
hiện quy định này và các quy định khác của pháp luật về du lịch; Quảng bá, xúc tiến
phát triển du lịch tại khu di tích văn hoá – lịch sử và du lịch Núi Sam cùng Trung
tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư tỉnh thực hiện công tác kêu gọi, thu hút đầu tư.
Khi khu du lịch Núi Sam chính thức trở thành KDLQG thì Ban quản lý này được
giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp các hoạt động du lịch tại đây.
Còn tại Lâm Đồng, theo Quyết định số 147/2003/QĐ-UB của UBND tỉnh
Lâm Đồng về việc Thành lập Ban quản lý Khu du lịch hồ Tuyền lâm, Ban quản lý
Khu du lịch hồ Tuyền Lâm trực thuộc UBND tỉnh Lâm Đồng, chịu sự quản lý, lãnh
đạo và chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh Lâm Đồng. Ban quản lý Khu du lịch hồ
Tuyền Lâm tỉnh Lâm Đồng có 01 Giám đốc và 02 Phó Giám đốc và các bộ phận chuyên môn giúp việc. Việc bổ nhiệm Giám đốc và Phó giám đốc, Kế toán của Ban quản lý do UBND Tỉnh bổ nhiệm theo đề nghị của Ban Tổ chức chính quyền tỉnh Lâm Đồng. Nhiệm vụ chính của Ban quản lý là : Quản lý và giám sát toàn diện các hoạt động khu du lịch hồ Tuyền Lâm. Tham mưu đề xuất với UBND tỉnh về các vấn đề đầu tư, quản lý hoạt động của khu du lịch. Trực tiếp tiếp nhận và phối hợp với các ngành chức năng có liên quan, chính quyền địa phương sở tại giải quyết các
vấn đề có liên quan đến hoạt động trong khu du lịch ; Tổ chức và phối hợp với các
ngành chức năng có liên quan thực hiện các hình thức hỗ trợ, vận động, xúc tiến,
kêu gọi, thu hút các nguồn vốn đầu tư vào Khu du lịch ; Là đầu mối tiếp nhận hồ sơ
xin phép đầu tư vào khu du lịch; phối hợp với các ngành chức năng có liên quan của tỉnh và chính quyền địa phương sở tại tổ chức thẩm định dự án trình UBND tỉnh
phê duyệt ; Tổ chức thực hiện một số dịch vụ cơ sở hạ tầng phục vụ chung cho Khu
du lịch; làm đầu mối quản lý các tua, tuyến du lịch trong phạm vi Khu du lịch ;
Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về UBND tỉnh và các ngành chức năng quản lý
Nhà nước của tỉnh theo đúng quy định hiện hành. Tóm lại, tại các KDLQG đều có Ban quản lý trực thuộc UBND có nhiệm vụ
phụ trách và thực hiện các nhiệm vụ và hoạt động liên quan đến du lịch tại các
KDLQG. Các Ban quản lý nói trên đều có vai trò rất lớn đối với việc thực thi các chính sách nhằm phát triển các hoạt động du lịch tại đây. 2.2.4. Ngân sách chi cho phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
Phát triển du lịch luôn cần có nguồn ngân sách hỗ trợ, các KDLQG có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và du lịch đối với cả nước và
địa phương nên được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đầu tư, các tỉnh có
KDLQG cũng vậy.
Tại KDLQG Sapa, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sa Pa đến năm 2030, hiện 7 tiêu chí
Khu du lịch quốc gia vẫn đang được tiếp tục duy trì và củng cố. Trong năm 2018,
nguồn vốn ngân sách nhà nước đã tập trung triển khai một số dự án quan trọng, như
đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đường nối cao tốc Nội Bài – Lào Cai đến thị trấn
Sa Pa; dự án khu hành chính mới huyện Sa Pa; khu đô thị mới Đông Bắc huyện Sa
Pa… Trong cả giai đoạn 2016 – 2018 đã bố trí vốn cho 14 dự án với tổng mức đầu
tư là 1.413 tỷ đồng. Còn tại KDLQG Núi Sam, UBND thành phố Châu Đốc đã đầu
tư 40 tỷ đồng từ ngân sách thành phố và nguồn xã hội hóa cho đề án phát triển du
lịch như tập trung cho công tác đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng Châu Đốc trở thành điểm đến hấp dẫn trong và ngoài nước, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, UBND thành phố Châu Đốc đã công bố chính sách phát triển du lịch Châu Đốc về truyền thông, xúc tiến, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng thương hiệu du lịch Châu Đốc giai đoạn 2018 – 2025, với mục tiêu xây dựng KDLQG Núi Sam thành trung tâm du lịch đặc sắc về văn hóa tâm linh của cả nước… KDLQG hồ Tuyền Lâm là khu du
lịch đầu tiên được công nhận đạt chuẩn quốc gia, do vậy ngân sách Nhà nước luôn
dành một phần kinh phí đáng kể cho các dự án đầu tư tại đây. Cụ thể, các dự án
được xác định nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có thể khởi công vào cuối năm
2017 hoặc trong năm 2018 bao gồm Đạ Sị (Cát Tiên); hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải thành phố Bảo Lộc và vùng phụ cận; đường cao tốc Dầu Giây - Liên
Khương (đoạn Dầu Giây - Tân Phú)…với nguồn ngân sách Nhà nước khoảng 2.599
tỷ đồng.
Như vậy, các nguồn chi từ ngân sách nhà nước và địa phương là rất cần thiết
cho sự phát triển du lịch tại đây, đây cũng là điều kiện thuận lợi để đảm bảo sự thành công khi triển khai và thực hiện các chính sách phát triển du lịch tại các
KDLQG này.
2.2.5. Sự phát triển nhu cầu du lịch đến các khu du lịch quốc gia Các KDLQG Việt Nam được chính thức công nhận sớm nhất là từ tháng 02 năm 2017 nên số liệu thống kê về lượng khách du lịch đến với các KDLQG được
tính từ năm 2017 trở đi. Qua thống kê cho thấy, nhu cầu khách du lịch đến các
KDLQG đang tăng so với trước, thể hiện thông qua số lượt khách tăng lên hàng
năm, góp phần tạo điều kiện thúc đẩy quá trình thực hiện chính sách phát triển du
lịch ở địa phương. Quy mô và chủng loại khách du lịch gia tăng, thu nhập từ du lịch
của địa phương tăng lên giúp địa phương sớm đạt được các mục tiêu chính sách
phát triển du lịch đã đề ra và tạo điều kiện thúc đẩy sự đổi mới trong cung cách
quản lý Nhà nước về du lịch của các cơ quan quản lý du lịch của các địa phương
trong quá trình thực hiện các chính sách phát triển các khu du lịch trở thành
KDLQG tại đia phương.
a. Khách quốc tế:
Bảng 2.1: Số lượng khách du lịch quốc tế đến KDLQG Việt Nam (2017 – 2018)
Đơn vị: Lượt khách
KDLQG 2017 2018 Tốc độ tăng trưởng
KDLQG hồ Tuyền Lâm 225.550 336.660 149,26%
KDLQG Sapa 259.730 288.000 110,88%
KDLQG Núi Sam 700.800 816.000 116,44%
(Nguồn : Tác giả tự tổng hợp) Khi được công nhận là KDLQG số lượng khách đổ về các khu du lịch này
nhiều hơn so với đến những điểm thăm quan khác trên cùng địa bản. Theo thống kê, so với tổng số lượt khách đến các tỉnh có khu du lịch đó thì lượng khách đến
KDLQG chiếm tới gần 70%, trong đó tại KDLQG Núi Sam lên tới 80%. Nếu các
KDLQG hồ Tuyền Lâm và Sapa chủ yếu là vì các mục đích nghỉ dưỡng, thắng cảnh
và văn hóa là chính nên số lượng khách thường hạn chế và chủ yếu là khách đi dài
ngày (thời gian lưu trú nhiều hơn 1 ngày) thì khách đến KDLQG Núi Sam chủ yếu
vì mục đích tâm linh, tập trung vào các ngày lễ lớn như Tết Nguyên Đán và các
ngày lễ chùa Bà xứ, thời gian lưu lại điểm đến thường ngắn (ít hơn 1 ngày) vì thế
tổng lượng thống kê cũng nhiều hơn so với các KDLQG khác của Việt Nam.
Về lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng tại KDLQG hồ Tuyền Lâm lớn
nhất, còn tại Sapa là thấp nhất (Bảng 2.1).
b. Khách du lịch nội địa:
Bảng 2.2: Số lượng khách du lịch nội địa đến KDLQG Việt Nam (2017 – 2018)
Đơn vị: Lượt khách
KDLQG 2017 2018 Tốc độ tăng trưởng
KDLQG hồ Tuyền Lâm 1.765.250 2.468.840 139,86%
KDLQG Sapa 1.460.270 2.132.000 146%
KDLQG Núi Sam 5.139.200 5.984.000 116,44%
(Nguồn : Tác giả tự tổng hợp) Cũng tương tự, lượt khách du lịch nội địa đến với các KDLQG này cũng có sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là tại KDLQG hồ Tuyền Lâm với tốc độ tăng 39,86% và KDLQG Sapa tăng 46% (Bảng 2.2).
Đến với các KDLQG chủ yếu vẫn là khách nội địa, chiếm hơn 80% tổng lượt
khách. Các hình thức đi du lịch của khách nội địa: Du lịch nghỉ dưỡng, du lịch lễ
hội - tín ngưỡng, tham quan, du lịch văn hóa.
Tuy nhiên, so với một số tỉnh thành khác của Việt Nam (không có KDLQG)
thì quy mô khách du lịch đến với các KDLQG này vẫn còn thấp, đặc biệt đối với du khách nước ngoài. Để phát triển du lịch, thu hút đầu tư, tăng nhu cầu của khách du
lịch đến thì các địa phương cần hoàn thiện chính sách phát triển du lịch, tăng cường
đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch hơn nữa để thu hút nhiều du khách đến
hơn nữa, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh du lịch với các địa phương khác trong
cả nước. 2.2.6. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Để triển khai hiệu quả chính sách phát triển các KDLQG, các yếu tố về
CHST và CSVCKT có vai trò hỗ trợ quan trọng. Vì thế, một trong những tiêu chí quan trọng để xét công nhận KDLQG và xây dựng, triển khai thành công các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG chính là có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật, dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu
cầu khác của khách DL. Nhìn chung, các KDLQG ở nước ta hiện nay đã đảm bảo
được tiêu chí này.
KDLQG núi Sam có kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông
quốc gia. Theo đó, KDLQG núi Sam nằm trên trục đường giao thông quan trọng
như: Quốc lộ 91, tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (dự kiến xây dựng
mới), tuyến đường thủy Châu Đốc - Vĩnh Tế; có điều kiện kết nối thuận lợi với hệ
thống giao thông quốc gia, quốc tế, như: Quốc lộ 1A, hành lang kinh tế phía Nam
và hành lang ven biển phía Nam. Đây là yêu tố hết sức thuận lợi để núi Sam thu hút
thị trường khách DL từ các tỉnh, thành phố trong cả nước và các nước Đông Nam
Á. Hệ thống thông tin liên lạc tại KDLQG núi Sam phát triển nhanh chóng, được
đầu tư mạnh về khoa học và công nghệ, trang thiết bị được đổi mới, đảm bảo nhu
cầu phát triển trong thời gian tới. Bên cạnh đó, về CSVCKTDL, thời gian qua, hoạt
động DL tại KDL núi Sam không ngừng gia tăng, tổng thu từ khách du lịch tăng mạnh, năm 2008 đạt 95 tỷ đồng đến năm 2017 đạt khoảng 500 tỷ đồng. Hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật tương đối tốt, đáp ứng nhu cầu đi lại, lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của du khách. Khu vực có gần 1.000 buồng lưu trú khách sạn đảm bảo chất lượng phục vụ du khách trong và ngoài nước. Một số dự án đầu tư trọng điểm tại KDL núi Sam đã được triển khai, như: công viên văn hóa núi Sam, KDL văn hóa tâm linh Bà Chúa Xứ - Cáp treo núi Sam, Khu nghỉ dưỡng sinh thái
tiêu chuẩn 5 sao… Hệ thống giao thông, điện, nước, dịch vụ viễn thông, môi
trường… được ưu tiên đầu tư, nâng cấp và cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển
du lịch.
Tại KDLQG Sapa, tổng doanh thu từ dịch vụ du lịch ước đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng trên 18% so với cùng kỳ năm 2017. Có được kết quả trên là do Sa Pa đã
tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của
du khách. Để làm được điều này, thời gian gần đây, các doanh nghiệp đầu tư từ vài
trăm tỷ đồng đến hàng nghìn tỷ đồng cho mỗi dự án hạ tầng dịch vụ tại Sa Pa. Đó là
Dự án cáp treo và tổ hợp dịch vụ du lịch thương mại Fansipan, với tổng vốn đầu tư 2.600 tỷ đồng giai đoạn I. Khu nghỉ dưỡng cao cấp Topas Ecolodge của Công ty
Fugldal Holding APS tại xã Thanh Kim, tổng vốn đầu tư 3,3 triệu USD. Khu nghỉ
dưỡng Indochina với tổng diện tích mặt sàn 28,2 ha, vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng. Dự án Làng du lịch Sa Pa đang được đẩy mạnh xây dựng với tổng số đầu tư vốn lên tới 964 tỷ đồng. Ngoài ra, còn có các dự án hàng trăm tỷ đồng, như Khu nghỉ dưỡng
cao cấp đồi Con Gái, Khu du lịch sinh thái Việt - Nhật, Khu du lịch nghỉ dưỡng Cát
Cát - Sa Pa, Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng cao cấp Cầu Mây (Sapa Jade Hill),
Khu du lịch sinh thái Tả Phìn, Dự án khách sạn Sapa Silk Path Resort. Hiện, các
nhà đầu tư chiến lược như Tập đoàn Sun Group, Vingroup, Bitexco, Thiên Minh,
Sapa Land cũng đang lập các dự án đầu tư khả thi vào Sa Pa, với tổng số vốn hơn
13.000 tỷ đồng. Ngoài ra, UBND tỉnh Lào Cai cũng đã quyết định dành hàng nghìn
tỷ đồng để đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật cho Khu du lịch Sa Pa, trong đó đáng
kể là các dự án như đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến Sa Pa, đường tránh thị
trấn Sa Pa và các tuyến đường dọc suối Mường Hoa (từ Cát Cát đến Ô Quý Hồ),
tuyến đường từ xã Tả Phìn đến xã Bản Khoang kết hợp với tuyến đường từ trung
tâm xã Sa Pả đến xã Tả Phìn, tạo thành tuyến kết nối liên thông. Về giao thông công
cộng, duy trì tuyến xe buýt từ thành phố Lào Cai đến Sa Pa và ngược lại. Theo
Quyết định số 1845/QĐ-TTg ngày 26/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sa Pa, trong tương lai, Khu du lịch quốc gia Sa Pa sẽ có diện tích 6.625 ha với không gian phát triển là đô thị du lịch. Về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, số cơ sở lưu trú phục vụ nhu cầu của du khách khá đảm bảo. Trên địa bàn huyện hiện có 176 cơ sở lưu trú du lịch và homestay với tổng số trên 9.700 phòng nghỉ. Địa phương này cũng nỗ lực thực hiện tốt công tác quản lý giá dịch vụ du lịch, gắn với đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; hạn chế tình trạng bán hàng rong, chèo kéo đeo bám khách.
KDLQG hồ Tuyền Lâm thuộc thành phố Đà Lạt, yếu tố cơ sở hạ tầng của
KDLQG hồ Tuyền Lâm có mối liên quan rất lớn với cơ sở hạ tầng thành phố Đà
Lạt. Trong những năm gần đây, hệ thống giao thông kết nối thành phố Đà Lạt với TP.HCM đã được chú trọng đầu tư và nâng cấp khang trang hơn. Từ TP.HCM đi
Đà Lạt hiện chỉ mất 4 giờ đồng hồ. Theo quy hoạch giao thông của thành phố, tuyến
cao tốc Dầu Giây – Bảo Lộc – Liên Khương hoàn thành trong tương lai gần, sẽ tạo
cơ hội cho Đà Lạt dễ dàng kết nối với TP.HCM và các tỉnh trong khu vực Đông
Nam Bộ. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc khai thác khách đến với KDLQG hồ Tuyền Lâm. Bên cạnh đó, những tuyến đường kết nối với Nha Trang, Phan Thiết,
Vũng Tàu cũng đã được mở rộng và ngày càng hoàn thiện, giúp di chuyển dễ dàng
và thuận tiện hơn. “Tứ giác” này không chỉ có ý nghĩa về mặt giao thương mà còn là một “con đường du lịch” kết nối các sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương. Ngoài ra, điều kiện hạ tầng xã hội nội tại của Đà Lạt cũng đã được cải thiện nhiều
hơn trước. Đặc biệt, sân bay Liên Khương trở thành sân bay quốc tế đã điểm son
cho Đà Lạt trên bản đồ hàng không, tạo điều kiện thu hút du khách du lịch và san sẻ
lượng khách du lịch quốc tế đến miền Nam Trung Bộ của sân bay Cam Ranh. Cộng
hưởng với sự nâng cấp của hạ tầng hiện đại, cơ sở vật chất du lịch cũng không
ngừng được cải thiện và phát triển. Số lượng các khách sạn, đặc biệt là homestay
tăng lên, các điểm ăn uống và vui chơi giải trí được đầu tư bởi các công ty tư nhân
đã đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển du lịch tại đây. Nhờ vậy, lượng khách du
lịch tăng liên lục, các chính sách thương mại của tỉnh Lâm Đồng cũng khuyến khích
nhà đầu tư khắp cả nước đổ vốn đầu tư về Đà Lạt nói chung và KDLQG hồ Tuyền
Lâm nói riêng.
2.2.7. Nhận thức của dân cư địa phương tại các khu du lịch quốc gia
Dân cư địa phương là nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và cho phát triển du lịch nói riêng. Nhìn chung, tại Lâm Đồng, An Giang
và Lào Cai, trình độ dân trí vùng đã được cải thiện hơn nhiều so với trước đây. Chẳng hạn như tỉnh Lào Cai, đến 2018, có có 27.905 cán bộ, công chức, viên chức có trình độ cao đẳng, đại học, trong đó có 22 tiến sỹ; 840 thạc sỹ; 223 bác sỹ chuyên khoa I và II… Ngoài nguồn nhân lực dồi dào vùng cũng là khu vực lao động có độ tuổi khá trẻ. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cũng như triển khai thành công các chính sách phát triển du lịch tại đây. 2.3 Phân tích thực trạng chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
2.3.1 Các chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
Thời gian qua, tại các KDLQG đã triển khai một số chính sách như sau:
a, Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Môi trường du lịch có vai trò quan trọng trong việc khai thác và phát triển các hoạt động du lịch. Bảo vệ và tôn tạo nguồn tài nguyên du lịch sẽ tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự phát triển du lịch nói riêng và kinh tế nói chung tại các
KDLQG. Liên quan đến chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du
lịch, các nội dung cụ thể bao gồm: đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết
hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác cũng như khuôn khổ, cách thức bảo vệ tài nguyên và môi trường du
lịch tại các KDLQG.
Các KDLQG đều là những nơi có tài nguyên du lịch đực biệt hấp dẫn, được đánh giá cáo, đây là cơ sở xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút, có sức cạnh tranh cao, góp phần rất lớn đến sự phát triển của du lịch tại đây. Bên cạnh đó,
yếu tố về môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch. Có tài
nguyên du lịch mà môi trường tự nhiên không đảm bảo thì cũng không thể phát
triển du lịch hiệu quả và bền vững được.
Trên cơ sở nội dung đó, tại các KDLQG hiện nay ở Việt Nam, chính sách
này được triển khai khá hiệu quả. Tại KDLQG hồ Tuyền Lâm, Đà Lạt khi vừa được
UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2050. Sự điều chỉnh quy hoạch lần này mang ý nghĩa quan trọng, tạo lợi
thế lớn đối với KDL hồ Tuyền Lâm, bởi không chỉ phù hợp với sự mở rộng đô thị
Đà Lạt trong tương lai mà còn nâng tầm KDL hồ Tuyền Lâm trở thành khu du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng bền vững cấp quốc gia của cả nước. Trong đó, bên cạnh việc
phải tuân thủ các yếu tố cảnh quan môi trường, chú trọng những vùng đệm xanh
ngăn cách các đô thị, mật độ xây dựng đối với các các dự án trong các khu du lịch
sinh thái này không quá 20% diện tích. Còn tại KDLQG Sapa, đây vốn là địa
phương giàu tiềm năng phát triển kinh tế du lịch nhờ có khí hậu mát mẻ, phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đa dạng điểm tham quan, khám phá và giàu bản sắc văn hóa, do vậy, việc bảo vệ môi trường có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển du lịch ở Sa Pa. Năm 2016, Huyện ủy Sa Pa đã phê duyệt và triển khai Đề án số 09 “Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016 - 2020” nhằm từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn huyện. Một trong những nhiệm vụ quan trọng, được nhấn mạnh trong đề án này là cải thiện môi
trường đô thị và các điểm, tour, tuyến du lịch để thúc đẩy ngành du lịch địa phương
phát triển. Với Vườn Quốc gia Hoàng Liên nằm trong phạm vi KDLQG, việc bảo
vệ môi trường, cảnh quan nhằm thu hút khách du lịch được đặc biệt quan tâm. Để
giảm thiểu lượng rác xả trên các tuyến du lịch do Vườn Quốc gia Hoàng Liên quản lý, UBND đã định hướng phối hợp với các công ty lữ hành, hướng dẫn viên du lịch
tuyên truyền đến du khách nội dung bảo vệ môi trường và cảnh quan sinh thái. Cán
bộ của vườn cũng thường xuyên phát túi đựng rác cho du khách để mang rác ra khỏi
rừng sau mỗi chuyến tham quan. Tại các điểm dừng nghỉ ở độ cao 2.200 m và 2.800
m đã tổ chức phân loại rác tại nguồn và mang toàn bộ rác vô cơ thu gom được ra khỏi rừng; đồng thời phối hợp ký cam kết bảo vệ môi trường đối với đơn vị khai
thác, vận hành hệ thống cáp treo… Tại các khu, điểm du lịch như Thác Bạc, Bãi đá
cổ, Hàm Rồng, Cát Cát nằm trong phạm vi KDLQG… cũng được đầu tư các thiết bị vệ sinh môi trường và thường xuyên tổ chức thu gom, xử lý rác thải, tỷ lệ đạt trên 90%... Những giải pháp trên đã và đang góp phần thu hút du khách tới Sa Pa. Theo
thống kê của UBND huyện Sa Pa, lượng khách du lịch đến địa bàn tăng lên đáng kể.
Hay như KDLQG Núi Sam, thành phố Châu Đốc, An Giang đã xây dựng kế
hoạch và các chính sách nhằm kêu gọi và đã nhận được hỗ trợ của Tổ chức Cộng
đồng kinh tế Châu Âu (EC) cho dự án “Thu gom, vận chuyển, xử lý rác và nâng số
cây xanh khu du lịch Núi Sam” đã giúp cho hơn hàng triệu lượt du khách và gần
5.000 hộ dân địa phương được chăm sóc bảo vệ sức khỏe, cải thiện, quản lý môi
trường trong phạm vi khu du lịch. Dự án có tổng kinh phí 350.204 Euro, trong đó
nguồn tài trợ không hoàn lại là 280.163 Euro, số còn lại là nguồn đối ứng của tỉnh
đã tập trung xây dựng 1 trạm trung chuyển rác, 12 nhà vệ sinh công cộng và bố trí
220 thùng chứa rác 240 lít quanh chân núi, xây dựng 9 bồn chứa nước 100 m3 phục
vụ bơm tưới bảo vệ cho 5.000 cây xanh trồng mới và phòng chống cháy. Trước khi
dự án triển khai, khu vực du lịch phường Núi Sam mỗi ngày chỉ có khả năng thu
gom khỏang 50% lượng rác thải tương đương 5 tấn/ngày, chỉ vận chuyển, thu gom
rác bằng thủ công, thiếu phương tiện chuyên dùng, không có trạm trung chuyển tập kết rác thải. Đồng thời với tốc độ đô thị hóa làm mật độ cây xanh tự nhiên giảm mạnh, đặc biệt là không có hệ thống tưới nên cây chết hàng lọat vào mỗi mùa khô, trong khi đó ý thức của cộng đồng tại chỗ cũng như khách du lịch còn rất hạn chế, thường xả bỏ rác thải tùy tiện, bừa bãi làm môi trường ô nhiễm. Qua triển khai dự án với các điều kiện và phương tiện đầu tư trang bị đã nâng cao được ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, 88% hộ dân tham gia dịch vụ
thu gom, tự trang bị thùng chứa rác trước cửa nhà để công nhân thu gom mỗi ngày,
giải quyết thu gom được trên 10 tấn rác thải/ngày, đóng góp bổ sung trồng mới
9.000 cây xanh.
Như vậy, nhờ có các chính sách và sự can thiệp kịp thời của các cấp quản lý tại các địa phương có KDLQG, môi trường du lịch được đảm bảo, hoạt động du lịch
được phát triển hơn.
b, Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
Điều kiện môi trường đảm bảo sẽ tạo điều kiện khai thác tốt tài nguyên du
lịch. Tuy nhiên, có tài nguyên du lịch mới tạo tiền đề cho sự phát triển du lịch, để du lịch thực sự trở thành một hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế cao rất cần có các
chính sách phát triển sản phẩm du lịch. Nội dung chính sách phát triển sản phẩm du
lịch bao gồm việc ưu tiên, hỗ trợ phát triển các sản phẩm du lịch tại khu du lịch và liên kết phát triển sản phẩm du lịch tại các khu du lịch khác trong cùng địa phương và liên vùng.
Tại KDLQG Sapa, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 1845/QĐ – TTg
ngày 26/9/2016 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sa
Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030 với mục tiêu phát triển các sản phẩm du lịch đặc sắc,
chất lượng cao. Theo Quy hoạch, KDLQG Sa Pa được định hướng phát triển thành
1 Đô thị du lịch Sa Pa và 4 phân khu du lịch gồm: Bản Khoang - Tả Giàng Phình
(thuộc xã Bản Khoang và Tả Giàng Phình); Tả Phìn (thuộc xã Tả Phìn); Tả Van -
Séo Mý Tỷ (thuộc xã Tả Van) và Thanh Kim (thuộc xã Thanh Kim), có sự kết nối
với huyện Bát Xát. Theo định hướng phát triển sản phẩm du lịch, sản phẩm du lịch
chính của Sa Pa hướng tới là: sản phẩm du lịch đặc thù, du lịch tham quan, du lịch
sinh thái kết hợp với nghỉ dưỡng. Trong đó, Sa Pa đẩy mạnh phát triển các sản
phẩm du lịch đặc thù để tận hưởng khí hậu, cảnh sắc thiên nhiên và bản sắc văn hóa
của người dân bản địa theo các chương trình du lịch “Sa Pa - xứ sở của các chương
trình du lịch đi bộ dã ngoại hấp dẫn” và “Sa Pa - Vùng đất của sự trải nghiệm và tìm
hiểu văn hóa truyền thống”; sản phẩm du lịch “Chinh phục đỉnh cao” gắn với đỉnh Fansipan, nóc nhà Đông Dương (huyện Sapa), đỉnh Ky Quan San và đỉnh Nhìu Cù San, thiên đường săn mây của giới trẻ (huyện Bát Xát); du lịch nghỉ dưỡng ngắm tuyết rơi vào mùa đông. Sản phẩm du lịch bổ trợ gồm: du lịch tâm linh gắn với hệ thống đền, chùa trong tổ hợp vui chơi giải trí cáp treo Fansipan; các điểm di tích tâm linh trong khu vực; từng bước kết nối với các điểm di tích ở khu vực lân cận; du lịch gắn với các sự kiện, lễ hội văn hóa truyền thống; du lịch thương mại gắn với
tham quan, mua sắm tại các trung tâm thương mại, chợ truyền thống; du lịch gắn
với các hoạt động thương mại vùng biên hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa nông sản đặc
trưng của tỉnh Lào Cai; du lịch nghiên cứu, tìm hiểu sinh thái gắn với giáo dục môi
trường; du lịch thể thao mạo hiểm... Về tổ chức không gian phát triển du lịch, Sa Pa phát triển du lịch sinh thái, khám phá gắn với giáo dục môi trường tại Vườn quốc
gia Hoàng Liên (huyện Sa Pa), khu bảo tồn tự nhiên Bát Xát (huyện Bát Xát); các
điểm du lịch cộng đồng tại các bản làng dân tộc: Cát Cát, Lao Chải, bản Dền, Nậm
Cang và bản Sài (huyện Sa Pa); Lũng Pô II, bản Xèo, Sàng Ma Sáo và Dền Sáng
(huyện Bát Xát); các điểm tham quan: Thung lũng Mường Hoa; bãi đá cổ, thác Bạc, thác Tình yêu và động Tả Phìn (huyện Sa Pa); cầu Thiên Sinh, cột cờ Lũng Pô và
động Mường Vi (huyện Bát Xát).
Còn tại KDLQG Núi Sam, An Giang, ngày 27/12/2017 vừa qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký Quyết định số 2098/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Núi Sam tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn
đến năm 2030. Phấn đấu đến năm 2030 đưa Khu du lịch quốc gia Núi Sam trở thành
trung tâm du lịch đặc sắc về văn hóa tâm linh.
Quan điểm phát triển Khu DLQG Núi Sam dựa trên cơ sở khai thác hợp lý
thế mạnh về du lịch văn hóa - tâm linh, kết hợp đầu tư khai thác phát triển các loại
hình du lịch vui chơi giải trí, khám phá, thể thao và nghỉ dưỡng để trở thành điểm
đến du lịch có chất lượng, khả năng cạnh tranh cao và khắc phục được tính thời vụ
trong hoạt động du lịch. Về phát triển sản phẩm du lịch, ưu tiên các sản phẩm du
lịch văn hóa – tâm linh, trong đó mục đích chính là việc hành hương, lễ Bà Chúa
Xứ, thăm lăng Thoại Ngọc Hầu và các điểm di tích khác. Bên cạnh đó, phát triển đa
dạng hóa sản phẩm du lịch bổ trợ như: du lịch cộng đồng, nghỉ dưỡng, cắm trại,
dịch vụ vui chơi giải trí. Đồng thời, các sản phẩm du lịch liên kết với các địa bàn
khác kết hợp thăm quan, mua sắm tại cửa khẩu Tịnh Biên, chợ biên giới Vĩnh
Ngươn; đua bò vùng Bảy Núi; tham quan Núi Cấm; khu di tích lịch sử Đồi Tức
Dụp; rùng tràm Trà Sư; khu di tích Nhà mồ Ba Chúc, khu du lịch Búng Bình Thiên. Với KDLQG Hồ Tuyền Lâm, dựa theo Quyết định số 1868/QĐ-UBND ngày 7/9/2016 của UBND tỉnh Lâm Đồng về Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Khu Du lịch hồ Tuyền Lâm, Đà Lạt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo đó, các sản phẩm du lịch được tập trung phát triển bao gồm: tham quan thắng cảnh, cắm trại, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đi bộ, leo núi, câu cá, thăm căn cứ cách mạng, lễ hội – tín ngưỡng, vui chơi giải trí, thể thao,… đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái.
Các chính sách nói trên đã tạo ra khuôn khổ định hướng phát triển du lịch tại
các KDLQG Việt Nam, qua đó đảm bảo khai thác đúng tiềm năng, lợi thế, đạt được
hiệu quả kinh tế, xã hội mong muốn. c, Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch
Nhân lực có vai trò quan trọng trong việc thực hiện và triển khai các hoạt
động du lịch ở bất cứ địa phương nào, trong đó có các KDLQG. Chính sách đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực nhằm đào tạo nâng cao chất lượng, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực tại các KDLQG bao gồm các nội dung cơ bản như: Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, nâng cao chất lượng phương tiện và cơ sở
vật chất kỹ thuật đào tạo; Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nhân lực du lịch
theo các giai đoạn; Khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp…
Tỉnh Lào Cai, nơi có KDLQG Sapa, đã có chính sách cụ thể nhằm chỉ đạo
ngành chức năng tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu về nhân lực trong lĩnh vực du
lịch. Không chỉ tập trung xác định nhu cầu, tỉnh còn chủ động tạo ra nguồn cung lao
động du lịch đảm bảo chất lượng, như tăng nguồn kinh phí hỗ trợ đào tạo, yêu cầu
cao hơn về chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao từ ngoài tỉnh về làm việc… Cụ thể, vào tháng 12 năm 2018, tại xã Tả
Giàng Phìn, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Sa Pa phối hợp với Khoa Du lịch-
Viện Đại học mở Hà Nội tổ chức khai giảng lớp Bồi dưỡng kỹ năng du lịch cộng
đồng. Tham gia có trên 50 học viên là người dân tộc thiểu số đang kinh doanh du
lịch và dịch vụ trên địa bàn hai xã Tả Giàng Phình và Bản Khoang. Đây là hoạt
động nằm trong Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 27/3/2018 của UBND huyện Sa
Pa về phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, khai thác hiệu quả bản sắc văn
hóa các dân tộc và thế mạnh tài nguyên thiên nhiên Sa Pa giai đoạn 2018-2020, định
hướng tới năm 2030. Nội dung các lớp bồi dưỡng gồm: Nâng cao nhận thức và kỹ
năng tổ chức, quản lý các hoạt động du lịch cộng đồng; hướng dẫn vệ sinh môi trường và bảo vệ, tái tạo cảnh quan tại các điểm du lịch cộng đồng; Kỹ năng tổ chức và quản lý Homestay và chế biến món ăn; Bồi dưỡng Tiếng Anh giao tiếp; tập huấn kỹ năng tổ chức các hoạt động phục vụ nhu cầu trải nghiệm của du khách; Tập huấn nâng cao nhận thức về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; Bồi dưỡng hướng dẫn viên tại các điểm du lịch cộng đồng...
Trước đó, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Sa Pa cũng đã tổ chức thành
công 02 khóa bồi dưỡng kỹ năng du lịch cộng đồng tại xã Tả Phìn và Tả Van.
Trong thời gian tới, Phòng Văn hóa và Thông tin sẽ tiếp tục phối hợp với các đơn vị
đào tạo tổ chức các khóa bồi dưỡng và tập huấn cho bà con các dân tộc thiểu số tại
các điểm du lịch cộng đồng Lao Chải, Hầu Thào, Sử Pán, Bản Hồ và Thanh Phú. Dự kiến sẽ có khoảng 700 hộ kinh doanh du lịch và dịch vụ tại các điểm du lịch
cộng đồng trên địa bàn huyện được tham gia các khóa bồi dưỡng và tập huấn trong
năm 2018.
Tham gia giảng dạy là các giảng viên có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
phát triển Du lịch cộng đồng. Hi vọng, với nhiệt huyết của các giảng viên và tinh thần ham học hỏi của học viên, trong thời gian tới nguồn nhân lực du lịch cộng
đồng Sa Pa sẽ được nâng cao, tiến tới xây dựng thương hiệu du lịch cộng đồng Sa
Pa Bản sắc, thân thiện, chất lượng và chuyên nghiệp, tạo điểm nhấn cho Khu du lịch quốc gia Sa Pa. Tại Lâm Đồng, Sở VHTT&DL đã phối hợp với các cơ sở đào tạo về du lịch
trên địa bàn tỉnh tổ chức các khóa tập huấn về nghiệp vụ du lịch như quản lý, bàn,
buồng, bar, bếp... Nhìn chung nguồn nhân lực du lịch của Lâm Đồng nói chung và
tại KDLQG hồ Tuyền Lâm nói riêng, đa phần còn rất trẻ, ở độ tuổi lao động từ 18 –
35, chiếm hơn 60% tổng số lao động trực tiếp phục vụ du lịch, phù hợp với đặc
điểm của ngành. Và hiện tại có khoảng 11.200 lao động trực tiếp phục vụ trong
ngành Du lịch Lâm Đồng. Trong đó, lĩnh vực lưu trú 7.600 người; lữ hành, hướng
dẫn, vận chuyển hành khách 1.350 người; tại các điểm du lịch 2.220 người..., đa số
đảm bảo yêu cầu về chất lượng lao động của ngành. Cũng tương tự tại tỉnh An
Giang, nơi có KDLQG Núi Sam, thực hiện Quyết định số 2098/QĐ-TTg, ngày
27/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch Tổng thể phát
triển Khu Du lịch quốc gia Núi Sam, tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch
theo hướng chuyên nghiệp, huy động các nguồn lực để tăng cường năng lực đào tạo
bằng nhiều hình thức đảm bảo được yêu cầu về số lượng, chất lượng; tập huấn bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước: Luật Du lịch 2017 và các văn bản liên quan, nâng cao năng lực quản lý cơ sở lưu trú, kinh doanh lữ hành, quảng bá xúc tiến du lịch... cho các huyện, thị xã và thành phố; hướng dẫn nghiệp vụ giúp các địa phương chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch, định hướng phát triển du lịch trên địa bàn quản lý; tiếp tục triển khai thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh An Giang, nâng cao nhận thức về du lịch, giới thiệu điểm đến,
quảng bá hình ảnh du lịch An Giang.
Trên cơ sở ban hành và triển khai những chính sách đào tạo và phát triển
nhân lực du lịch đó, đội ngũ nhân lực du lịch tại các KDLQG tại Việt Nam đã bước
đầu đáp ứng được yêu cầu số lượng và dần từng bước đạt được yêu cầu về chất lượng trong bối cảnh phát triển du lịch hiện nay.
d, Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch
Chính sách về đầu tư và kêu gọi đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư cơ sở hạ
tầng và nâng cao năng lực và chất lượng cơ sở cung ứng dịch vụ du lịch, từ đó đáp
ứng được nhu cầu cơ bản và bổ sung của du khách trong và ngoài nước. Các KDLQG hiện nay đều đang được đầu tư từ các tổ chức khác nhau ở cả
trong và ngoài nước. Các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các dự án phát triển công
trình dịch vụ, giao thông, nông nghiệp nông thôn.v.v.. .được tập trung đầu tư tạo điều kiện thuận lợi phát triển du lịch. Về thu hút, kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược, KDLQG Sa Pa đã tạo sức hút
mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư lớn như Tập đoàn Sun Group, Bitexco,
Alphanam… thông qua một số dự án mới đang được triển khai như khu du lịch sinh
thái Tả Phìn, khu du lịch nghỉ dưỡng Cát Cát, khách sạn Việt Pháp… KDLQG Núi
Sam, trong giai đoạn 2017 – 2018, cũng đã và đang tập trung đầu tư, phát triển các
hoạt động du lịch tại đây. Ngoài tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ Trung ương, tỉnh,
Châu Đốc đã mời gọi đầu tư 23 dự án (5 dự án tại KDLQG núi Sam), với quy mô
120 ha và vốn đầu tư trên 1.300 tỷ đồng, sự đầu tư đến từ các nhà đầu tư trong và
ngoài tỉnh, nhiều dự án trọng điểm đã được triển khai, như: công viên văn hóa núi
Sam, cáp treo núi Sam, hệ thống giao thông, điện, nước, dịch vụ viễn thông, môi
trường… được ưu tiên đầu tư, nâng cấp và cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển du
lịch. Với hệ thống giao thông cơ sở hạ tầng, đường lên đỉnh Núi Sam được đầu tư
và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 2 năm 2019 với số vốn khoảng 16,1 tỉ đồng
từ nguồn ngân sách với chiều dài khoảng 2,2 km. Về định hướng phát triển cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch KDLQG Núi Sam, quy hoạch đề ra phát triển buồng lưu trú cho khách du lịch đồng thời với việc đầu tư nâng cấp chất lượng cơ sở lưu trú hiện có, bảo đảm phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hình thành các khu lưu trú du lịch có chất lượng cao gắn với không gian sinh thái (khu biệt thự cao cấp, khu nghỉ dưỡng sinh thái), gắn với sông nước hướng tới dòng khách có khả năng chi trả cao. Ưu tiên phát triển loại hình cơ sở lưu trú homestay. Bên cạnh đó, ưu tiên phát triển các cơ sở vui chơi giải trí thể thao, vui chơi giải trí tổng hợp tại phân khu du lịch
sinh thái kết hợp dịch vụ; phân khu công viên văn hóa du lịch để kéo dài thời gian
lưu trú của khách du lịch và thu hút khách du lịch vào mùa thấp điểm. Đẩy mạnh
phát triển siêu thị, chợ truyền thống tại các phân khu du lịch sinh thái kết hợp dịch
vụ. Từng bước hình thành các khu dịch vụ đạt chuẩn phục vụ khách du lịch, chú trọng các sản phẩm gắn liền với đặc sản địa phương. Đồng thời, nâng cấp các nhà
hàng đạt tiêu chuẩn chất lượng phục vụ khách du lịch, phát triển văn hóa ẩm thực
truyền thống.
Hồ Tuyền Lâm đi vào khai thác hoạt động du lịch từ ngày 01/01/2004. Đến
nay, sau khi đã trở thành KDLQG, trong Khu du lịch Hồ Tuyền Lâm có 37 dự án được đầu tư từ cả trong và ngoài tỉnh; trong đó có 10 dự án đã đi vào hoạt động với
tổng vốn lên tới gần 2.450 tỉ đồng, gồm: Khu nghỉ dưỡng Edensee, Khu du lịch thác
Datanla, sân golf Tuyền Lâm 18 lỗ, Khu nghỉ dưỡng cao cấp Sacom,Đường hầm điêu khắc bằng đất sét, Khu nghỉ dưỡng Terracotta Đà Lạt, Điểm du lịch sinh thái K’Lan, Điểm du lịch làng Bình An, Điểm du lịch tôn giáo Thiền viện Trúc Lâm,
Vườn hoa lan Thanh Quang. rên hành trình kiến tạo quy hoạch, thu hút đầu tư và
xây dựng, từ khi triển khai đến nay Khu du lịch (KDL) hồ Tuyền Lâm đã thu hút 36
nhà đầu tư vào đầu tư du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, với tổng vốn đăng ký gần
10.000 tỷ đồng. Và hiện có 12 dự án đầu tư đi vào hoạt động bao gồm các dự án du
lịch sinh thái, khách sạn cao cấp, sân golf… Lợi thế của KDL hồ Tuyền Lâm với
sinh cảnh rừng nguyên sinh trong lành, mặt nước hồ Tuyền Lâm rộng hơn 320 ha
xanh trong và trong quá trình đầu tư luôn cẩn trọng lựa chọn từ dịch vụ đến công
trình kiến trúc hài hòa với cây xanh, thảm cỏ, lối đi là điểm đến nghỉ ngơi ngày
càng hấp dẫn du khách. Tất cả các dự án trên đã và đang tạo nên quần thể du lịch
vui chơi, nghỉ dưỡng khác biệt trên thành phố Đà Lạt mộng mơ.
đ, Chính sách tài chính
Chính sách tài chính liên quan đến việc huy động vốn, giảm thuế và điều
chỉnh, phân cấp ngân sách địa phương dành cho phát triển KDLQG.
Thời gian qua, mặc dù tỷ lệ đầu tư dự án triển khai, đi vào hoạt động trên tổng số dự án đăng ký đầu tư vào KDL hồ Tuyền Lâm mới chỉ đạt 1/3, song đặt trong viễn cảnh đầu tư vào các lĩnh vực trong nước những năm qua, câu chuyện đầu tư tại Tuyền Lâm vẫn như một điểm sáng, bổ sung thêm các sản phẩm mới về du lịch chất lượng cao cho thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng. Mặt khác, từ trước đến nay, việc thuê đất, rừng, thuê mặt nước được áp dụng đơn giá gần sát với thị trường ảnh hưởng đến sức hút đầu tư vào các khu du lịch mà cụ thể đối với rừng sản xuất
không là rừng tự nhiên, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp được giao thuê
đất và nộp tiền thuê đất một lần cho cả thời hạn thuê hoặc nộp tiền thuê đất hàng
năm. Tháo gỡ “điểm nghẽn” này, Chính phủ đã cho phép Lâm Đồng thực hiện các
“cơ chế, chính sách đặc thù” với những ưu tiên, ưu đãi của một khu du lịch cấp quốc gia. Cụ thể, được miễn tiền thuê đất cho cả thời gian thuê đất đối với rừng sản
xuất không phải là rừng tự nhiên; trường hợp nhà đầu tư sử dụng diện tích đất rừng
sản xuất không phải rừng tự nhiên vào mục đích trồng và khai thác rừng thì phải
nộp tiền thuê đất theo quy định. Đối với diện tích đất sản xuất, kinh doanh phi nông
nghiệp: để đảm bảo việc miễn tiền thuê đất phù hợp với khả năng ngân sách của địa phương và chính sách khuyến khích đầu tư, cho phép UBND tỉnh Lâm Đồng căn cứ
điều kiện thực tế của địa phương quy định và công khai miễn tiền thuê đất đối với
từng nhóm dự án trong khu du lịch sinh thái với mức tối đa là 5 năm. Bên cạnh đó, KDL hồ Tuyền Lâm còn được quan tâm đầu tư từ nguồn vốn Trung ương đối với cơ sở hạ tầng và kêu gọi đầu tư từ Trung ương vào KDLQG hồ Tuyền Lâm và Lâm
Đồng cũng được quyền huy động các nguồn vốn đầu tư vào các dự án hạ tầng giao
thông quan trọng.
Đối với KDLQG Núi Sam, về định hướng đầu tư, quan điểm chỉ đạo đưa ra
trong Quyết định số 2098/QĐ-TTg ngày 27/12/2017 về Quy hoạch tổng thể phát
triển Khu du lịch quốc gia Núi Sam, tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030 là huy động hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển KDLQG từ
ngân sách nhà nước; vốn của các tổ chức; cá nhân; doanh nghiệp; các thành phần
kinh tế trong nước và các nguồn huy động hợp pháp khác. Trong đó ưu tiên thu hút
đầu tư và các khu chức năng theo quy hoạch để phát triển sản phẩm du lịch và cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch.
Riêng tại Lào Cai, nơi có KDLQG Sapa, trong giai đoạn 2017 - 2020 định
hướng thu hút đầu tư của Lào Cai được thể hiện rõ trên từng lĩnh vực cụ thể đó là:
Lĩnh vực phát triển thương mại - dịch vụ: tỉnh khuyến khích đầu tư các dự án phát
triển dịch vụ tại khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai, khu đô thị thành phố Lào Cai. Các dự án trung tâm thương mại, dịch vụ du lịch tại các trung tâm các huyện, thành phố trong tỉnh. Trong lĩnh vực du lịch, nông nghiệp ôn đới công nghệ cao: Ưu tiên thu hút các dự án phát triển du lịch tại địa phương có nhiều thế mạnh đặc thù, phát triển về du lịch tại các huyện Sa Pa, Bắc Hà; Từ định hướng thu hút đầu tư của tỉnh, trong giai đoạn 2017 – 2020 Lào Cai kêu gọi thu hút đầu tư vào 42 dự án với tổng vốn dự kiến là 43.950 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực Nông nghiệp 6 dự án; Công
nghiệp - Xây dựng cơ bản 21 dự án; Du lịch - Dịch vụ 12 dự án và 3 dự án về lĩnh
vực Giáo dục, Y tế… Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tỉnh Lào Cai
đã có những chính sách riêng ưu đãi về đầu tư; thường xuyên duy trì cơ chế đối
thoại, xúc tiến đầu tư giữa chính quyền tỉnh và cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư qua đó thông báo định hướng, chủ trương phát triển của tỉnh tới các doanh nghiệp,
nhà đầu tư; Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc; Đề ra cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển; Xúc tiến
đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp, nhà đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên
cạnh những cam kết cụ thể với các nhà đầu tư, tỉnh Lào Cai cũng đã có một số chính sách ưu đãi về đầu tư đối với nhà đầu tư. Cụ thể đối với các nhà đầu tư ngoài
Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai sẽ được ưu đãi về tiền thuê đất: Thời gian thuê đất
bằng với thời gian của đời dự án, tối đa không quá 50 năm; Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các dự án đầu tư thông thường; Miễn tiền thuê đất 11 năm đối với các dự án đầu tư thuộc danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư; Miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp 4 năm kể từ năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư; giảm
50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 9 năm tiếp theo. Mức thuế suất thông
thường áp dụng từ ngày 1/1/2014 là 22%, từ ngày 1/1/2016 là 20%. Trong giải
phóng mặt bằng: Các cơ quan chức năng liên quan sẽ hỗ trợ Nhà đầu tư triển khai
các bước theo quy định để giải phóng mặt bằng, tạo mặt bằng sạch cho Nhà đầu
tư…Đối với các nhà đầu tư trong khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai: Tỉnh ưu đãi áp
dụng thuế xuất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15 năm đối với thu nhập của
doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai; Thu
nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại Khu kinh tế cửa khẩu Lào
Cai được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối
đa trong 9 năm tiếp theo. Người Việt Nam và người nước ngoài trực tiếp làm việc,
sản xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai có thu nhập từ việc làm, sản
xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai thuộc diện chịu thuế thu nhập cá
nhân theo quy định tại Luật Thuế thu nhập cá nhân được giảm 50% số thuế phải nộp. Ngoài ra, còn có những ưu đãi về thuế xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các đơn vị, doanh nghiệp đến đầu tư tại Lào Cai với phương châm của tỉnh là: “Doanh nghiệp phát tài - Lào Cai phát triển”. Với quan điểm và chủ trương như vậy, các địa phương có KDLQG và bản thân các KDLQG được tạo những điều kiện ưu đãi khá thuận lợi về tài chính để triển khai và thực hiện các chương trình, dự án phát triển du lịch, đây là những điều
kiện thuận lợi để thúc đẩy du lịch tại đây phát triển hơn nữa.
e, Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch
Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch bao gồm các vấn đề có liên quan đến
xây dựng các chương trình, kế hoạch về xúc tiến, quảng bá du lịch nhằm vào thị trường mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm; gắn với
hình ảnh các khu du lịch quốc gia tại địa phương.
Trong nhiều năm qua, KDLQG Sa Pa luôn nằm trong Top 10 điểm du lịch
hấp dẫn nhất Đông Nam Á, Top 9 điểm đến được trông đợi nhất của Thế giới và
Top 5 điểm đến hấp dẫn nhất của Việt Nam. Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được và đưa hình ảnh KDLQG Sapa đến gần hơn nữa với đông đảo du khách trong
và ngoài nước, ngành VHTTDL Lào Cai đang đẩy mạnh tăng cường công tác xúc
tiến và quảng bá du lịch. Cụ thể, ngày 10 tháng 07 năm 2018, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Kế hoạch số 215/KH-UBND về Truyền thông, quảng bá du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn 2018 – 2020. Hoạt động truyền thông, quảng bá sẽ đẩy mạnh,
tăng cường qua nhiều phương pháp đa đạng như: quảng bá trên đài truyền hình, trên
báo trung ương, trên website; Phát triển các tiện ích quảng bá du lịch trên các thiết
bị cầm tay: Điện thoại di động, máy tính bảng; Tuyên truyền, quảng bá trên hệ
thống biển quảng cáo tấm lớn; Xây dựng bộ công cụ nhận diện thương hiệu du lịch
Lào Cai; tổ chức đoàn xúc tiến du lịch, các doanh nghiệp lữ hành, đoàn cơ quan báo
chí truyền thông trong và ngoài nước đến Lào Cai khảo sát điểm đến, dịch vụ và sản
phẩm du lịch; Tổ chức xúc tiến du lịch và giới thiệu điểm đến, tổ chức các gian
hàng hội chợ trong và ngoài nước... Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch theo
hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm trọng điểm, hiệu quả thiết thực, xác định rõ đối
tượng truyền thông, nhằm thu hút khách du lịch từ các thị trường truyền thống và
mở rộng các thị trường mới tiềm năng, chú trọng thị trường quốc tế và nội địa có
khả năng chi trả cao.
KDLQG Núi Sam thuộc phạm vi tỉnh An Giang. Các hoạt động xúc tiến
quảng bá được tiến hành trên phạm vi tỉnh nói chung. Cụ thể, tỉnh đã tham gia hàng trăm sự kiện hội chợ du lịch, hội chợ thương mại, liên hoan ẩm thực góp phần quảng bá đặc trưng của An Giang và các tỉnh trong cụm liên kết phía Tây vùng ĐBSCL do các đơn vị trong nước tổ chức. Tổ chức 30 chuyến khảo sát, giới thiệu du lịch An Giang như: làng nghề, tour du lịch mùa nước nổi, du lịch tâm linh kết hợp tham quan chợ biên giới, du lịch homestay kết hợp du lịch nông nghiệp, lễ hội lễ hội khu vực Núi Sam…. cho hàng trăm lượt các đơn vị lữ hành trong và ngoài
tỉnh, các địa phương, Hiệp hội du lịch đồng bằng Sông Cửu Long. Bên cạnh đó,
thường xuyên cập nhật, đăng tải thông tin, duy trì, quản trị website của tỉnh, quan
tâm giới thiệu các hình ảnh du lịch An Giang trên các phương tiện truyền thông như
fanpage và mạng xã hội như zalo, facebook. Thực hiện 60 chuyên đề du lịch trên sóng truyền hình An Giang, phối hợp với Báo Tuổi Trẻ thực hiện định kỳ mỗi tháng
2 bài viết và Báo An Giang mỗi tháng 4 bài viết để tuyên truyền các sự kiện, hoạt
động du lịch An Giang. Đồng thời, thường xuyên gửi các tin bài đến cơ quan báo du
lịch thuộc Tổng cục du lịch để giới thiệu, quảng bá du lịch An Giang. Năm 2018,
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch An Giang đã phát hành và tái bản và biên tập mới hàng chục ngàn các ẩn phẩm quảng bá du lịch An Giang: Non nước hữu tỉnh (Anh-
Việt), địa chí du lịch An Giang (Anh-Việt), bản đồ du lịch An Giang, tờ rơi giới
thiệu các điểm du lịch chính của An Giang. Biên tập mới ấn phẩm hình quạt giới thiệu các khu, điểm tham quan du lịch, làng nghề thủ công, di tích lịch sử, lễ hội truyền thống. Xây dựng kế hoạch lắp đặt 86 biển chỉ dẫn du lịch trên địa bàn 11
huyện, thị xã, thành phố… Các hoạt động xúc tiến quảng bá nói chung được thực
hiện chủ yếu bởi UBND tỉnh và Sở VH – TT và Du lịch An Giang đã góp phần
quảng bá du lịch An Giang nói chung và KDLQG Núi Sam nói riêng
Tại tỉnh Lâm Đồng, nơi có KDLQG hồ Tuyền Lâm, UBND đã phổ biến và
tuyên truyền, triển khai thực hiện Quyết định số 1528/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của
Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành một số cơ chế chính sách đặc thù phát triển
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và Quyết định số 673/QĐ-UBND về Kế hoạch
triển khai Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, trong đó có chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch
Lâm Đồng nói chung và cả KDLQG hồ Tuyền lâm nói riêng. Cụ thể tại tỉnh Lâm
Đồng sẽ thành lập một số văn phòng đại diện tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
mở chi nhánh văn phòng tại Singapore, Nhật Bản, Campuchia để mở rộng thị
trường khai thác khách du lịch. Liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh; xây dựng các tour tham quan vườn trà, rau, hoa chất lượng cao gắn với quảng bá, giới thiệu sản phẩm; hình thành các tour, tuyến du lịch liên hoàn giữa các vùng du lịch trọng điểm, các địa phương trong nước. Kinh phí thực hiện Kế hoạch được lấy từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn của doanh nghiệp, xã hội cho các chương trình, hoạt động du lịch… Việc ban hành các chủ trương, chính sách nhằm tuyên truyền quảng bá du lịch địa phương, trong đó có KDLQG đã thúc đẩy hoạt động du lịch tại địa phương
nói chung và tại các KDLQG nói riêng ngày càng phát triển hơn.
g, Chính sách hợp tác liên kết, phát triển du lịch
Chính sách hợp tác liên kết, phát triển du lịch liên quan đến công tác đẩy
mạnh hợp tác liên kết phát triển du lịch với một số tỉnh có KDLQG với địa phương và các quốc gia gần kề. Ở các KDLQG Việt Nam đều xác định được vị trí và vai trò
của mình trong sự phát triển với các địa phương khác trong khu vực và các nước
láng giềng. Ở Lào Cai, bên cạnh phát triển các sản phẩm du lịch trong tỉnh, việc mở
rộng liên kết với các tỉnh lân cận cũng được thúc đẩy hiệu quả. Nhờ liên kết này, 3
tỉnh Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai đã hình thành các tuyến du lịch tâm linh dọc sông Hồng, tuyến du lịch tham quan 3 danh thắng ruộng bậc thang Mù Cang Chải - Sa Pa
- Nguyên Dương (Trung Quốc). Ngoài ra, Lào Cai đã tăng cường chủ động cùng
với 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng xây dựng chương trình “Vòng cung Tây Bắc” để kéo dài tour, tuyến du lịch, kéo dài ngày lưu trú của khách và khiến khách du lịch chi nhiều tiền hơn. Ở An Giang, KDLQG Núi Sam được xác định phát triển trong
không gian kết nối với thành phố Châu Đốc, các tỉnh tiềm năng du lịch quan trọng
khác của tỉnh An Giang. Đồng thời, chú trọng liên kết với các tỉnh thuộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long, với Thành phố Hồ Chí Minh và kết nối với Campuchia qua
các cửa khẩu quốc tế của An Giang. Ngoài ra, tỉnh đã ký kết hợp tác phát triển với
23 tỉnh, thành phố trong cả nước; tham gia các đoàn của Hiệp hội du lịch Đồng
bằng Sông Cửu Long, xúc tiến thị trường du lịch Campuchia và các nước thuộc tiểu
vùng sông Mekong. Còn tại Lâm Đồng, trong hoạt động liên kết hợp tác phát triển
du lịch, tỉnh đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức thành công Hội
nghị Phát triển đường bay quốc tế Bangkok - Đà Lạt và ngược lại; chuẩn bị điều
kiện tổ chức Hội nghị Sơ kết Chương trình hợp tác phát triển du lịch giữa Lâm
Đồng với các địa phương Khánh Hoà và Nghệ An. Đón tiếp đoàn công tác của Giáo
sư Gerad’t Hooft đến Lâm Đồng trong khuôn khổ chương trình làm việc với học
sinh và sinh viên ưu tú tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây Nguyên.
Các định hướng và bước đi cụ thể trong hợp tác liên kết, phát triển du lịch được UBND các tỉnh xác định rõ ràng, xây dựng thành các quyết sách phù hợp, thúc đẩy du lịch tại các địa phương cụ thể nói riêng và của vùng, của quốc gia nói chung. 2.3.2 Thực trạng quy trình chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam Cho đến nay, trên cơ sở các Nghị quyết và Quyết định của Tỉnh uỷ, UBND về các chính sách phát triển du lịch, các Sở Du lịch và Sở VH – TT – DL các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai, cùng các ngành chức năng khác của
địa phương, các doanh nghiệp trên địa bàn các tỉnh đã triển khai thực hiện các
chính sách phát triển du lịch của địa phương thành các chương trình hành động
cụ thể trong quá trình thực hiện.
Trong quy trình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai hiện đang gặp khó khăn nhất định. Điều này
đã được phản ánh thông qua các nội dung trong quy trình như sau:
2.3.2.1. Về xây dựng và ban hành chính sách phát triển du lịch:
Cơ sở xây dựng, ban hành chính sách phát triển các KDLQG là dựa vào mục
tiêu chính sách của trung ương và điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường thực tế tại địa phương, nhằm làm cho sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương
hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc…
Trong quy trình xây dựng và ban hành chính sách của các tỉnh, các địa phương đã lựa chọn mục tiêu phát triển sản phẩm du lịch có chất lượng cao và thương hiệu tại các KDLQG; lập các phương án mời các nhà doanh nghiệp tham gia
buổi giới thiệu các dự án du lịch của tỉnh; lựa chọn các phương án liên quan như
nâng cao trình độ lao động du lịch, xúc tiến quảng bá, phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội đồng bộ & hiện đại…; kết thúc bước này, địa phương đưa ra các quyết
định ban hành chính sách phát triển du lịch theo điều kiện thực tế của tỉnh. Các
khâu trong xây dựng và ban hành chính sách rất cơ bản. Trừ KDLQG hồ Tuyền
Lâm, Đà Lạt Lâm Đồng có Ban quản lý riêng với website
dalattuyenlam.lamdong.gov.vn, còn lại các tỉnh khác như An Giang và Lào Cai
không có website riêng của Ban quản lý mà chỉ có các Sở chức năng, như Sở Văn
hóa – thể thao và du lịch Lào Cai (svhttdl.laocai.gov.vn) hoặc đơn vị trực thuộc là
Ban quản lý khu di tích và du lịch Núi Sam, nằm trong website của UBND thị xã
Châu Đốc, An Giang (chaudoc.angiang.gov.vn). Trong các website này đều có các
mục liên quan đến văn bản quản lý, trong đó tại Châu Đốc và Lào Cai cho phép
người truy cập có thể góp ý văn bản với từng văn bản cụ thể. Điều này làm cho việc
xây dựng chính sách mang tính xác thực với đời sống hơn, do vậy, khi đi vào triển khai sẽ mang tính khả thi cao hơn. Hiện nay công nghệ thông tin phát triển, người dùng internet tăng cao, trong đó có cả các doanh nghiệp du lịch và người dân. Việc đăng các văn bản quy phạm pháp luật, các Quy định, Nghị quyết, Quyết định, Kế hoạch… lên các website chính thống của UBND tỉnh hoặc của Sở VHTTDL các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai sẽ giúp tăng sức lan tỏa và tạo ra khả năng tiếp cận dễ dàng hơn cho các đối
tượng có liên quan đến chính sách. Do vậy, việc lấy ý kiến góp ý và hoàn chỉnh xây
dựng chính sách cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vì là các website mở nên cũng khó
xác định đối tượng tham gia góp ý, ngoài ra, nó đòi hỏi những người có liên quan
(các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, người dân địa phương…) phải chủ động truy cập và nêu ý kiến của mình.
Ngoài ra, tại một số tỉnh có tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị lấy ý kiến xây
dựng và triển khai một số chính sách phát triển du lịch, và có công khai toàn bộ nội
dung câu hỏi thắc mắc của người dân và doanh nghiệp cũng như giải đáp của các
cấp chính quyền có liên quan trên website chính thức trên. Như vậy, việc xây dựng và ban hành các chính sách đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản về tính công khai,
minh bạch, trên cơ sở góp ý của các bên liên quan.
2.3.2.2. Về tổ chức thực hiện chính sách phát triển các KDLQG - Trong công tác chuẩn bị tổ chức thực hiện chính sách, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai đã thành lập bộ máy quản lý nhà nước về du lịch của địa
phương, đó là các Ban Quản lý có tên riêng và trực thuộc UBND các địa phương.
Trong các văn bản Quyết định công nhận KDLQG tại các tỉnh Lâm Đồng, An
Giang và Lào Cai đều có quy định sự phối hợp giữa các ban ngành quản lý nhà
nước về du lịch và các cấp tại địa phương để thực hiện triển khai nội dung chương
trình, chính sách phát triển du lịch với việc chuẩn bị đủ nhân lực đảm nhiệm để triển
khai chính sách, có dự kiến phân bổ nguồn tài chính hợp lý cho quá trình triển khai
chính sách tại địa phương; tỉnh đã ra văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn cho
công tác triển khai thực hiện chính sách (như các Quyết định Quy hoạch phát triển
khu du lịch quốc gia Núi Sam, Hồ Tuyền Lâm và Sapa), tổ chức chương trình hướng
dẫn, quản lý hoạt động du lịch tại các địa phương.
- Trong công tác chỉ đạo thực hiện chính sách, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang
và Lào Cai đã thực hiện tuyên truyền thông tin về chính sách như tổ chức các lớp
tập huấn nâng cao chất lương trình độ chuyên môn nghiệp vụ nguồn nhân lực du
lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của các địa phương, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh và quản lý du lịch; các tỉnh nói trên đã tổ chức các quỹ thực hiện chính sách như quy xúc tiến du lịch của tỉnh, quỹ thực thiện thực hiện chương trình tập huấn - bồi dưỡng nâng cao chất lượng nhân lực du lịch địa phương...; Sở VHTTDL các tỉnh đã có sự phối hợp hoạt động với các ban ngành của địa phương trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, công việc cụ thể của chính sách phát triển KDLQG tại địa phương như thực hiện
các biện pháp quản lý, cấp và thu hồi các giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động
du lịch của các tổ chức và doanh nghiệp ở địa phương, tổ chức giới thiệu các dự án
đầu tư du lịch, kêu gọi các doanh nghiệp ở địa phương tham gia đầu tư.
Tuy nhiên, công tác triển khai chính sách khó khăn khi địa hình khu du lịch phức tạp (như tại KDLQG hồ Tuyền Lâm, tỉnh Lâm Đồng chỉ đạo UBND thành phố
Đà Lạt, Ban Quản lý Khu du lịch (KDL) hồ Tuyền Lâm tổ chức kiểm điểm điểm
các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác quản lý nhà nước về trật tự xây
dựng, quản lý địa bàn để xảy ra liên tiếp nhiều vụ việc sai phạm về trật tự xây dựng
thuộc phạm vi KDLQG hồ Tuyền Lâm trong thời gian qua, hay như KDLQG Núi Sam, một số hạng mục công trình như sân khấu biểu diễn ca nhạc, nhà vệ sinh…
không có giấy phép vẫn ngang nhiên xây dựng và đưa vào khai thác, hoạt động, bán
vé tham quan gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới mỹ quan và khu vực bảo tồn của các KDLQG). Nguồn tài chính không được cấp đủ theo tiến độ công trình dự án, do lạm phát nên vật liệu xây dựng lên giá dẫn đến việc thi công các công trình không theo
kế hoạch. Việc triển khai chính sách đầu tư, xây dựng CSHT và CSVCKT du lịch
tại các KDLQG cũng bị lùi hoặc hoãn lại, kéo dài thời hạn so với mục tiêu đã đề
ra... Trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách, khi có sự điều chỉnh chính sách
trên cơ sở các ý kiến góp ý nhiều thông tin không được cập nhật kịp thời, các doanh
nghiệp và người dân còn bị động trong việc tiếp cận thông tin nên triển khai chính
sách còn bị chậm. Trong khâu phân công và phối hợp hoạt động, nhiều địa phương
chưa thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng, cùng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chung
trong chính sách phát triển các KDLQG. Chẳng hạn như hiện nay nhiều công trình
sai phép tại các KDLQG (như trên đã đề cập tại An Giang và Lâm Đồng) vẫn cố
tình xây dựng và hoạt động, UBND chưa kịp thời nắm thông tin và các Sở
VHTTDL chưa có biện pháp can thiệp hiệu quả, hay như tại Sapa, nhiều hoạt động
du lịch bùng phát không kiểm soát đã biến nơi đây thành công trường xây dựng với
các dự án được thi công khắp nơi nhưng không được che chắn, vật liệu để bừa bãi
không còn lối cho người đi bộ, các dự án nâng cấp cải tạo toàn bộ mặt đường thị trấn Sapa chậm tiến độ đã gây ra tình trạng lộn xộn, nhếch nhác ảnh hưởng rất xấu tới môi trường và cảnh quan của KDLQG tại đây. Như vậy, cả Sở VHTTDL các tỉnh và các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ du lịch phải cùng phối hợp tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch mới đem lại thành công cho các KDLQG tại địa phương. 2.3.2.3. Về kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách phát triển các
KDLQG
Trong việc thực hiện các nội dung kiểm tra, thanh tra, các tỉnh Lâm Đồng,
An Giang và Lào Cai đã thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các dự án đầu tư xây
dựng các công trình du lịch có ý nghĩa quốc gia thuộc địa phương, thẩm định lại các khu vực có tiềm năng du lịch của địa phương; kiểm tra, giám sát việc khai thác tài
nguyên du lịch và bảo vệ tôn tạo các tiềm năng du lịch tại địa phương nhằm đảm
bảo phát triển du lịch bền vững; tiến hành rà soát hệ thống văn bản du lịch hiện
hành, công bố công khai các chính sách, cơ chế quản lý và thời hạn giải quyết công
việc của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của các địa phương. Về cơ bản, kiểm tra việc chấp hành chính sách phát triển các KDLQG được
cơ quan quản lý du lịch thực hiện khá tốt, đảm bảo các chủ trương, chính sách được
thực hiện đúng và nghiêm chỉnh. Tuy vậy, một số doanh nghiệp có ý kiến rằng việc kiểm tra thường rất gắt gao, có thể khiến các doanh nghiệp phải thực hiện các hoạt động đối phó nhiều hơn là tự nguyện trong quá trình thanh kiểm tra. Trong giai
đoạn này, việc đánh giá hiệu quả chính sách phát triển du lịch là rất quan trọng
nhưng lại thường không được các địa phương quan tâm nhiều, do đó các địa
phương thường bỏ qua, nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều chỉnh chính
sách phát triển du lịch trong tương lai.
2.3.2.4. Về điều chỉnh chính sách phát triển các KDLQG
Trong việc thực hiện các nội dung điều chỉnh, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang
và Lào Cai đã và đang tiếp tục hoàn thiện dự thảo một số văn bản quy phạm pháp
luật, các hướng dẫn thi hành luật du lịch, một số chính sách phát triển du lịch để đáp
ứng yêu cầu phát triển các KDLQG và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của địa
phương; thực hiện một số điều chỉnh chính sách riêng của từng địa phương như điều
chỉnh một số hỗ trợ đầu tư riêng của địa phương, hỗ trợ phát triển sản phẩm du lịch
đặc thù phù hợp với địa phương, điều chỉnh một số mức thuế ưu đãi riêng với đầu tư
du lịch....
Thực tế cho thấy, qua một thời gian ban hành chính sách, nhiều địa phương đã quyết định điều chỉnh một số nội dung chính sách cho phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, tại An Giang, nơi có KDLQG Núi Sam, tỉnh đã triển khai điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định tiếp tục phát triển hạ tầng du lịch; Kiện toàn và phát huy vai trò của từng thành viên Ban chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh; Tổ chức thực hiện quyết định 2098/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng
thể phát triển khu du lịch quốc gia núi Sam giai đoạn đến năm 2025 và định hướng
đến năm 2030 và quyết định công nhận khu du lịch quốc gia núi Sam; Tăng cường
quản lý nhà nước về an ninh trật tự tại các khu, điểm du lịch; kiểm tra, xử lý mạnh
các đối tượng có hành vi chèn ép, đeo bám, lừa đảo, chặt chém khách du lịch; Thực hiện đề án trùng tu, tôn tạo di tích, tích cực bảo vệ tài nguyên du lịch; chỉ đạo các
cấp, các ngành và địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng thực hiện tốt việc quản
lý môi trường tại các khu, điểm du lịch; hướng dẫn các địa phương, cộng đồng và
doanh nghiệp triển khai thực hiện bộ quy tắc ứng xử văn minh trong du lịch…
2.4. Các kết luận qua nghiên cứu thực trạng 2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân của chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam
a, Ưu điểm: Trong những năm vừa qua, việc thực hiện các chính sách phát
triển các KDLQG Việt Nam có một số ưu điểm sau : - Hệ thống các chính sách cho phát triển du lịch của các tỉnh có KDLQG ngày một hoàn thiện, giúp cho các cấp quản lý và các chủ thể tham gia vào ngành yên tâm
phát triển.
- Các chính sách phát triển các KDLQG các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và
Lào Cai đang từng bước phát huy tác dụng, về cơ bản đạt được những mục tiêu đề
ra của ngành và các cấp quản lý.
Dưới đây là một số chính sách tiêu biểu được đề cập đến:
- Trong các chính sách phát triển du lịch, chính sách đào tạo phát triển nguồn
nhân lực du lịch và chính sách xúc tiến quảng bá du lịch đang là chính sách được
chú trọng triển khai và thực hiện. Các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai đã tổ
chức các chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, nâng cao
trình độ kỹ năng cho các nhân viên trong ngành du lịch của địa phương. Năng lực
đội ngũ nhân viên của ngành du lịch được nâng lên kết hợp với chính sách xúc tiến
quảng bá du lịch đã tạo ra sức thu hút, cạnh tranh với cả nước, các địa phương đã
thu hút khách du lịch tham gia trực tiếp vào các hoạt động sinh hoạt lễ hội, thăm
quan thắng cảnh, văn hóa văn nghệ, ẩm thực và đời sống sản xuất của cộng đồng dân cư thể hiện thông qua số lượt khách tăng lên không ngừng qua các năm như đã phân tích ở trên. Trong đó, chính sách đào tạo phát triển nhân lực được đặc biệt chú trọng. Việc triển khai các chính sách đào tạo và phát triển nhân lực đã kích thích các cán bộ nhân viên trong ngành du lịch tại các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai chủ động nâng cao năng lực. Điển hình như tại Sapa, các địa phương được quan tâm tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu về nhân lực trong lĩnh vực du lịch, ưu tiên đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nguồn nhân lực tại địa phương
(người dân bản địa) phục vụ du lịch cộng đồng, góp phần tạo việc làm trong khu
vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo, đồng thời thu hút nguồn nhân lực du lịch có
trình độ cao từ các địa phương khác về làm việc. Cùng với đó, UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, địa phương chú trọng nâng cao năng lực các cơ sở đào tạo du lịch về cơ
sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ giảng viên; đẩy mạnh hoạt động liên doanh,
liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực nhằm mở rộng quy mô, hình thức đào tạo;
quan tâm công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng, công tác đào tạo lại nguồn nhân
lực; khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động đào tạo. Ngoài ra, tỉnh còn nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho doanh
nghiệp, người dân từ nguồn ngân sách địa phương và Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch
đồng thời xây dựng và triển khai thực hiện Chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực du lịch giai đoạn 2018 – 2020… Qua đó có thể thấy, các địa phương có KDLQG rất quan tâm đến chính sách nhân lực trong phát triển du lịch tại địa
phương.
- Chính sách đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật của một số điểm du lịch trong
phạm vi KDLQG Việt Nam được quan tâm, kèm với chính sách kinh tế, chính sách
về xây dựng sản phẩm du lịch mới hợp lý đã hình thành một số điểm, tuyến du lịch
khá hấp dẫn. Trên cơ sở đó, trong thời gian vừa qua, các KDLQG tại các tỉnh Lâm
Đồng, An Giang và Lào Cai luôn nghiên cứu và phát triển các sản phẩm du lịch
mới, đồng bộ, có chất lượng, có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách. Có thể kể đến
như các chương trình du lịch độc đáo trong quần thể các KDLQG như hình thức du
lịch sinh thái, khám phá và chinh phục đỉnh Fansipan – Sapa (là hình thức du lịch
duy nhất ở Việt Nam), du khách sẽ được trực tiếp trải nghiệm, đi bộ trong rừng, ngủ
trong rừng và đặc biệt là chinh phục đỉnh Fansipan… Hay KDLQG hồ Tuyền Lâm
với tour nhà vườn độc đáo tại vườn Thương với diện tích 1,5ha, chia thành 2 khu,
trong đó, một khu chuyên trồng cây thuốc với hơn 500 dược liệu quý như vân chi,
linh chi, cỏ ngọt… Tại đây, du khách sẽ có được những giờ phút trải nghiệm nghỉ dưỡng thú vị với các loại dược liệu và dịch vụ chăm sóc sức khỏe bằng phương pháp truyền thống. Các sản phẩm độc đáo và thú vị như thế cho thấy chính sách phát triển sản phẩm du lịch, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, phù hợp, tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng, có sức hấp dẫn đang được triển khai khá hiệu quả. - Bên cạnh đó, chính sách hợp tác liên kết phát triển du lịch nhằm mở rộng
quan hệ hợp tác giữa các tỉnh có KDLQG với các địa phương lân cận và các điểm
đến khác trong khu vực Đông Nam Á cũng được chú trọng. Chẳng hạn như tại Lào
Cai, để hoàn thành mục tiêu xây dựng KDLQG Sa Pa đến năm 2025 vươn tầm trở
thành khu du lịch có tầm cỡ quốc tế, UBND tỉnh đang xây dựng khu du lịch quốc gia Sa Pa theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
1845 ngày 26/09/2016, cụ thể, UBND tỉnh Lào Cai sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt
động hợp tác trong và ngoài nước về lĩnh vực du lịch để khai thác hiệu quả các
tuyến du lịch liên vùng và lữ hành quốc tế. Ưu tiên hợp tác phát triển du lịch với
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), kết nối du lịch biển của Việt Nam với vùng Tây Nam – Trung Quốc. Hợp tác với 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và các trung tâm du lịch cả
nước như Phú Quốc, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Quảng Ninh… Còn tại Lâm Đồng,
năm 2017, UBND tỉnh Lâm đã triển khai các chương trình liên kết phát triển du lịch giữa Lâm Đồng với các tỉnh, thành phố trong nước như: Chương trình “4 địa phương - một điểm đến” (giữa Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk với TP. Hà Nội); hay
Chương trình hợp tác phát triển tour “Một chuyến đi - nhiều điểm đến” (hợp tác
phát triển du lịch giữa Lâm Đồng - Quảng Nam - Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế giai
đoạn 2017- 2020) nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về văn hóa và những sản vật
vốn có của từng địa phương, từng vùng miền để xây dựng các tour du lịch thúc đẩy
du lịch tỉnh nói chung, trong đó có KDLQG hồ Tuyền Lâm, phát triển bền vững.
Với An Giang, đây cũng là 1 trong 4 tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm thứ 5 của
quốc gia, là trung tâm kinh tế thương mại của vùng và khu vực, đồng thời là cửa
ngõ giao thương với các nước khu vực ASEAN như: Campuchia, Lào và Thái Lan.
Vì thế, từ đầu năm 2018, ngành du lịch tỉnh An Giang đã triển khai thực hiện tốt
công tác chỉ đạo, điều hành và giám sát có hiệu quả các văn bản phát triển ngành,
chủ động tham mưu với UBND tỉnh nhiều biện pháp hiệu quả tăng cường phát triển
du lịch như liên kết, hợp tác phát triển du lịch với các tỉnh ĐBSCL và các địa
phương có thế mạnh du lịch trong cả nước nhằm tạo ra sản phẩm du lịch đa dạng
của tỉnh An Giang. Tỉnh tổ chức ký kết hợp tác phát triển với 23 tỉnh, thành phố trong cả nước; tham gia các đoàn của Hiệp hội du lịch ĐBSCL xúc tiến thị trường du lịch Campuchia và các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong…
b, Nguyên nhân của những ưu điểm: Có nhiều nguyên nhân về những ưu điểm của chính sách, nhưng trong đó có
một số nguyên nhân nổi trội: Sự thống nhất về quan điểm trong công tác lãnh đạo trong từng địa phương
các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai, giữa các sở ngành du lịch, sự ổn định về
chính trị đã tạo đà cho các ngành kinh tế phát triển, trong đó có ngành du lịch. Bên
cạnh ấy với nguồn tài nguyên du lịch đa dạng của các địa phương đã góp phần quan
trọng vào sự thành công trong phát triển KDLQG ở đó. Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế đối
ngoại phát triển, trong đó có ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Trong quá
trình triển khai các chính sách phát triển KDLQG, các địa phương đã thực hiện phù
hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các tỉnh Lâm Đồng, An
Giang và Lào Cai đã có cơ chế, chính sách huy động hầu hết các nguồn lực, tăng cường đầu tư phát triển du lịch để bảo đảm du lịch là ngành kinh tế quan trọng của
địa phương.
Các văn bản pháp luật về du lịch và các lĩnh vực liên quan từng bước được cải thiện, tạo hành lang pháp lý cho các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động đầu tư kinh doanh và quản lý du lịch tại các
địa phương được thuận lợi.
Các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đã bao quát được những vấn đề cấp bách
và thời sự của hoạt động kinh doanh du lịch, nhất là những tác động quan trọng
trong quá trình thực thi chính sách, do đó đã tạo sự thay đổi kịp thời về mục tiêu,
phương pháp thực hiện chính sách, nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu về phát triển
KDLQG tại các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai.
Các địa phương đã thực hiện cơ bản công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch,
bảo vệ, tôn tạo giá trị văn hóa để phát triển du lịch. Cộng đồng dân cư có hưởng ứng
tham gia, khôi phục và phát huy một số loại hình văn hoá, nghệ thuật dân gian, ngành
nghề thủ công truyền thống, sản xuất hàng hoá của địa phương phục vụ khách du lịch,
góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương. Các
doanh nhân ủng hộ các chính sách phát triển du lịch và có điều chỉnh hướng kinh
doanh hợp lý. Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia,
các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cũng có sự hăng hái, chủ động và quyết tâm của lãnh đạo địa phương trong việc hiện thực hóa các chính sách phát triển du lịch tại địa phương. 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam
a, Hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm, chính sách phát triển các KDLQG
Việt Nam có những hạn chế sau: Trong chính sách phát triển du lịch, các chính sách bộ phận còn nhiều bất
cập như: Chính sách tài chính đã đưa ra nhưng hoạt động giải ngân chậm khiến cho
đa số các dự án chậm tiến độ, một số dự án phát triển du lịch có ngân sách được cấp
không đủ để thực hiện; Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực đã thực hiện
nhưng trình độ nguồn nhân lực du lịch địa phương đa phần vẫn còn thấp, thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng; Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch đã ban
hành nhưng chưa thực sự được quan tâm vì địa phương chưa đủ điều kiện thực hiện
quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chưa triển khai quảng bá trên các
website lớn và nội dung thông tin du lịch tại các KDLQG còn hạn chế về mức độ
phong phú, ngôn ngữ sử dụng, đa số website chỉ có tiếng Việt, không có ngoại ngữ, gây khó khăn cho khách du lịch quốc tế nếu muốn tiếp cận thông tin. Trong 3
KDLQG được chính thức công nhận tại Việt Nam, chưa có KDLQG nào có website
tuy có website của Ban quản
riêng, KDLQG hồ Tuyền Lâm lý (http://dalattuyenlam.lamdong.gov.vn/) nhưng nội dung chưa hấp dẫn, thiếu cập nhật và chỉ có 1 ngôn ngữ là tiếng Việt, gây khó khăn cho việc tiếp cận thông tin
của cả du khách trong và ngoài nước ; Chính sách xây dựng sản phẩm du lịch mới
đã được quan tâm nhưng chưa thực sự phát huy hết hiệu quả; Chính sách bảo tồn,
tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch mặc dù đã được thực hiện nhưng môi
trường du lịch vẫn đang bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến cảnh quan cũng như sức
khỏe của du khách...
Đa số các chính sách thực hiện còn nhiều chậm trễ, quá trình triển khai kết
hợp giữa lợi ích của người dân và nhà nước chưa hợp lý nên kết quả thực hiện thu
được hiệu quả chậm hơn dự kiến. Dưới đây là một số bất cập nổi bật của một số
chính sách trong quá trình triển khai chính sách phát triển du lịch của tỉnh:
Trong triển khai chính sách xúc tiến du lịch, phối hợp hoạt động của các
thành viên Ban chỉ đạo các cấp của các địa phương các tỉnh Lâm Đồng, An Giang
và Lào Cai chưa đồng bộ; việc tổ chức các cuộc kiểm tra cơ sở để đánh giá chất
lượng thực tế và trao đổi thông tin chưa thường xuyên; công tác tuyên truyền quảng
bá còn nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ quản lý ngành du lịch còn thiếu và yếu về năng lực; việc sản xuất, xuất bản các ấn phẩm nhằm giới thiệu những giá trị tài nguyên du lịch còn hạn chế, chưa đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người dân và du khách. Trong triển khai chính sách xây dựng sản phẩm, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai chưa có cơ chế riêng khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đầu tư phát triển sản phẩm mới. Các sản phẩm phục vụ khách du lịch còn chưa phong
phú, khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tập trung ở việc khai thác các yếu tố tài
nguyên có sẵn mà thiếu các điểm vui chơi giải trí hấp dẫn. Hoạt động lữ hành quốc
tế chưa hiệu quả.
Trong triển khai chính sách bảo tồn, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai chưa thực sự tập trung quan tâm chuyên sâu đến hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài
nguyên và môi trường du lịch, kinh phí thực hiện cũng rất thấp. Việc nghiên cứu
chuyên sâu về các giá trị tài nguyên đặc trưng của du lịch địa phương chưa được
thực hiện hiệu quả…
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhiều, nhưng những văn bản hướng dẫn cụ thể thì không rõ ràng, chồng chéo, dẫn đến khi thực hiện chính sách phát
triển du lịch thì các cơ quan quản lý khó nắm được trách nhiệm của mình đến đâu,
việc thanh tra giám sát và quy trách nhiệm của các cấp còn gặp nhiều khó khăn. Việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan đến du lịch chưa cao: Hợp tác giữa các cơ quan quản lý còn khá yếu, nên việc thực thi
chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ quan liên quan đến tổ chức tuyên
truyền chính sách; các cơ quan tuyên truyền chưa chú trọng đến phổ biến nội dung
chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch chưa đi vào đời sống
của người dân địa phương.
b, Nguyên nhân của những hạn chế:
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra những hạn chế của
chính sách, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do năng lực quản lý của chính quyền các
địa phương còn yếu, thể hiện ở một số mặt sau:
Nhận thức và trình độ năng lực chuyên môn của các cấp, các ngành có liên
quan còn nhiều hạn chế, đa phần trong các vị trí chủ chốt của các phòng ban nghiệp
vụ, cấp quản lý còn chưa chuyên sâu về KDLQG, thường chỉ ở cấp quản lý tài
nguyên du lịch nói chung. Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch các tỉnh còn chưa
chú trọng đến công tác xúc tiến quảng bá cho các KDLQG của tỉnh.
Tỷ lệ, số lượng nguồn ngân sách địa phương chi cho hoạt động du lịch, đặc biệt cho phát triển các KDLQG còn rất nhỏ bé so với nhu cầu, nên mức độ tập trung thực hiện chính sách phát triển KDLQG không cao. Nhiều dự án du lịch chỉ hoạt động cầm chừng, chậm tiến độ và bị dừng lại. Do đó, việc thực hiện chính sách chưa đem lại hiệu quả cao cho kinh tế của các địa phương. Nguồn nhân lực địa phương tuy nhiều nhưng nhân lực du lịch tại địa phương còn thiếu và rất yếu, đa phần chỉ tạm đạt yêu cầu về số lượng nhưng chưa đảm bảo
về chất lượng. Do cơ chế, chính sách đào tạo phát triển chất lượng nguồn nhân lực
du lịch chưa hợp lý và cũng do đặc thù các tỉnh có KDLQG, gồm các tỉnh Lâm
Đồng, An Giang và Lào Cai, là các tỉnh còn đang phát triển nên cũng gây cản trở
cho phát triển chất lượng nhân lực du lịch tại địa phương. Công tác tuyên truyền chính sách tới người dân địa phương còn nhiều hạn
chế. Do công việc tuyên truyền về tinh thần của chính sách chưa thực hiện đồng bộ,
thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như đài phát thanh địa phương, phòng
thông tin của các huyện, đài truyền hình...; chưa tuyên truyền mở rộng về quy hoạch
du lịch, những mục tiêu, những kết quả của ngành du lịch đạt được và những định hướng hiện tại của ngành du lịch tại địa phương...; chưa chủ động thông báo trước
tới các chủ thể bị tác động và tuyên truyền tới người dân trong quá trình thực hiện
chính sách để tránh được một số những khó khăn mà các cấp các ngành gặp phải. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của còn nhiều yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn thiện, hệ thống mạng viễn thông, đặc biệt trong bối
cảnh phát triển cách mạng công nghệ 4.0 mới chỉ ứng dụng bước đầu... Trong quá
trình triển khai các chính sách tài chính, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai
còn thiếu các cơ chế chính sách phát triển du lịch riêng của địa phương, kinh phí
của các tỉnh đáp ứng cho các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch chưa hiệu quả.
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHU DU LỊCH QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM 3.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển du lịch Việt Nam trong thời gian tới
3.1.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời
gian tới
Du lịch là một ngành trong nền kinh tế, vì thế, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu phát triển du lịch
của Việt Nam.
Về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
13/CT-TTg ban hành ngày 24/5/2018, về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, trong đó đã đưa ra một số định hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như sau:
Về mục tiêu tổng quát: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao sức chống chịu của nền
kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước đạt khoảng 6,8%. Chú trọng tăng trưởng chất lượng, bền vững, hiệu quả và sáng tạo; nâng cao năng
suất lao động; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Đẩy
mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành, lĩnh
vực; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học và công nghệ, phát
huy đổi mới, sáng tạo và đẩy mạnh khởi nghiệp nhằm tận dụng các cơ hội phát triển
của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi
trường và cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; duy trì môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Trên cơ sở những mục tiêu đó, Chỉ thị đã chỉ đưa ra một số định hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội như sau:
Về phát triển kinh tế: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6,8%; Quyết liệt thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực theo hướng tăng
cường đổi mới, sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Tiếp tục thực hiện hiệu quả, đồng bộ 3
đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Bảo
đảm môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Triển khai đánh giá kết quả thực
hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ về triển
khai thi hành Luật Quy hoạch.
Về phát triển xã hội: Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh
xã hội; Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Phát triển giáo dục đào tạo; Phát
triển khoa học công nghệ; Phát triển văn hóa, thể dục thể thao; Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông theo hướng công khai, minh bạch, kịp thời và hiệu quả nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội; đấu
tranh chống lại các thông tin xuyên tạc, sai sự thật, chống phá chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường: Tăng cường quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản.
Tập trung kiểm soát và khắc phục ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ các
nguồn gây ô nhiễm, nhất là tại các làng nghề, khu, cụm công nghiệp, lưu vực sông,
cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm nặng; giảm thiểu phát thải đối với các doanh
nghiệp công nghiệp, đặc biệt là các ngành có nguy cơ ô nhiễm môi trường và phát
thải cao như sắt thép, xi măng, hóa chất, nhiệt điện... Kiên quyết xử lý các cơ sở sử
dụng lãng phí năng lượng, tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Đẩy
mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển, sử dụng năng
lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Tăng cường khả năng điều tiết các
nguồn nước, sử dụng nước tiết kiệm, tăng cường khả năng tích nước cho mùa khô;
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai.
Về cải cách hành chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ, kiến tạo phát triển; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử; khẩn trương hoàn thành xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia, bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương; xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia
nền tảng, trong đó có cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Xử lý nghiêm các hành vi
tiêu cực, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ; Tăng cường
công tác thanh tra, tập trung vào những lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu
cực như quản lý đất đai, tài sản công, đầu tư xây dựng, sử dụng ngân sách nhà nước. Về quốc phòng, an ninh và công tác đối ngoại: Tiếp tục củng cố tiềm lực,
quốc phòng an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc gắn kết chặt
chẽ với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích
quốc gia; Tiếp tục thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại, hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nước, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường hòa bình, ổn định. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; làm sâu sắc, thực chất hơn
quan hệ với các đối tác. Đẩy mạnh triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại đa
phương; phát huy vai trò và đóng góp của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương trên tất cả các lĩnh vực, trong đó trọng tâm là hợp tác kinh tế, nhất là tại ASEAN, Liên hợp quốc, các khuôn khổ hợp tác ở Châu Á - Thái Bình Dương, Tiểu vùng Mê
Công... Chuẩn bị tốt cho năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2020.
Về đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội: Triển
khai đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; Nghị quyết số
24/2016/QH14 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020; Nghị quyết số
25/2016/QH14 về kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trong
đó tập trung đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh
tế - xã hội, tài chính, ngân sách, cơ cấu lại nền kinh tế; Dự báo tình hình thế giới và
trong nước, những cơ hội, thách thức của những năm còn lại của giai đoạn 2018 -
2020, xây dựng các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia
giai đoạn 2016 - 2020 và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 đã đề ra.
3.1.2 Phương hướng và mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 Du lịch được coi là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, thậm chí được coi là ngành kinh tế trọng điểm. Nhận định phát triển du lịch sẽ phát huy được lợi thế quốc gia, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương mạnh mẽ và nâng lên tầm cao mới cho ngành này tại Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó, quan điểm, phương hướng và mục tiêu cần đạt được của ngành du lịch Việt Nam trong thời gian tới đã được xác định
cụ thể và rõ ràng.
Về quan điểm và định hướng: Xác định phát triển du lịch Việt Nam trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước,
tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác; Phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, có trọng
tâm, trọng điểm, hiệu quả, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh cao; xã hội hóa
cao và có nội dung văn hóa sâu sắc; tăng cường liên kết trong nước và quốc tế, chú
trọng liên kết giữa ngành Du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị
hình thành nên các sản phẩm du lịch; Phát triển đồng thời cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa; tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và du khách quốc tế tham quan, tìm
hiểu, khám phá cảnh quan, di sản thiên nhiên và văn hóa của đất nước; tôn trọng và
đối xử bình đẳng đối với khách du lịch từ tất cả các thị trường; Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên; giải quyết tốt vấn đề lao động, việc
làm và an sinh xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; Phát
triển du lịch là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của toàn
xã hội, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng; phát huy mạnh mẽ vai
trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, sự quản lý thống nhất của Nhà
nước; tập trung nguồn lực quốc gia cho phát triển du lịch.
Về mục tiêu, các mục tiêu cơ bản được xác định như sau:
- Đến năm 2020, ngành Du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ
sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng
cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được
với các nước trong khu vực.
Thu hút được 17 - 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 triệu lượt khách du
lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỉ USD; giá
trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỉ USD; tạo ra 4 triệu việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp.
- Phấn đấu đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Việt Nam thuộc nhóm các nước có ngành Du lịch phát triển hàng đầu khu vực Đông Nam Á. 3.2 Định hướng và quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia tại Việt Nam
3.2.1 Định hướng phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam
Theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030”, cả nước có 46 khu du lịch được định hướng quy hoạch phát triển thành du lịch quốc gia. Tuy nhiên, đến năm 2015, phó Thủ tướng
Vũ Đức Đam đã đồng ý bổ sung Khu di tích Núi Sam (tỉnh An Giang) vào Danh
mục các Khu du lịch quốc gia. Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng,
các KDLQG được định hướng phát triển thành những điểm đến du lịch hấp dẫn,
chất lượng được đầu tư đồng bộ cả về CSHT & CSVC, nhân lực du lịch, tài nguyên du lịch và công tác xúc tiến quảng bá, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu du lịch của
du khách trong và ngoài nước, thúc đẩy kinh tế địa phương và quốc gia phát triển.
Theo Phụ lục về dự án Phát triển du lịch giai đoạn năm 2020, tầm nhìn 2030, ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, kế hoạch phát triển các KDLQG Việt Nam được xác định như sau (Bảng 3.1):
Bảng 3.1: Kế hoạch phát triển các khu du lịch quốc gia Việt Nam
giai đoạn năm 2020, tầm nhìn 2030
Giai đoạn
Dự án
T T A Đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật (35%) A1 Các dự án khu du lịch quốc gia I Vùng Trung du miền núi Bắc bộ 1 Khu du lịch Cao nguyên đá Đồng Văn 2 Khu du lịch Bản Giốc* 3 Khu du lịch Mẫu Sơn 4 Khu du lịch Ba Bể 5 Khu du lịch Tân Trào 6 Khu du lịch Sa Pa 7 Khu du lịch Thác Bà 8 Khu du lịch Đền Hùng 9 Khu du lịch Mộc Châu 10 Khu du lịch Điện Biên Phủ- Pá Khoang 11 Khu du lịch Hồ Núi Cốc 12 Khu du lịch Hồ Hòa Bình Triệu USD Tổng đầu tư 32.970 30.930 4.440 670 500 200 180 170 210 550 240 570 400 250 500 2016- 2020 8.400 8.010 1.150 150 150 50 50 50 50 100 100 150 100 100 100 2021- 2025 8.820 8.240 1.220 200 100 50 40 40 40 200 50 200 100 50 150 2026- 2030 9.275 8.320 1.250 250 50 50 40 30 40 200 40 200 150 50 150
4.020 1.220 820 910 Vùng Đồng bằng Sông Hồng và duyên hải Đông bắc
II 13 Khu du lịch Hạ Long 14 Khu du lịch Vân Đồn* 1.020 870 300 300 220 100 300 70
15 Khu du lịch Trà Cổ 16 Khu du lịch Côn Sơn 17 Khu du lịch Ba Vì-Suối Hai 550 190 270 150 50 100 100 50 70 200 40 50
600 150 150 150
250 150 120 2.810 700 750 220 1.140 6.680 450 400 350 500 890 1.440 1.320 950 380 1.840 380 370 790 300 2.340 210 330 850 950 100 50 20 630 100 100 50 380 1.750 150 100 100 150 150 250 400 250 200 350 100 50 150 50 640 40 50 250 300 70 30 30 650 200 200 50 200 2.130 50 50 150 250 350 550 250 400 80 490 70 100 200 120 680 80 100 250 250 30 20 50 920 350 400 70 100 1.750 50 150 50 50 350 600 200 250 50 760 60 200 400 100 600 70 130 300 100
Vùng đồng bằng sông Cửu Long 8.800 2.270 2.250 2.130
400 1.850 6.000 550 2.040 26.376 70 350 1.650 200 390 6.720 100 650 1.350 150 580 7.056 180 800 1.000 150 955 7.420 Khu du lịch quốc gia Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam 18 19 Khu du lịch Tam Đảo 20 Khu du lịch Tràng An 21 Khu du lịch Tam Chúc III Vùng Bắc Trung bộ 22 Khu du lịch Thiên Cầm 23 Khu du lịch Phong Nha-Kẻ Bàng 24 Khu du lịch Đăk Rông 25 Khu du lịch Lăng Cô-Cảnh Dương* IV Vùng Duyên hải Nam Trung bộ 26 Khu du lịch Sơn Trà* 27 Khu du lịch Bà Nà 28 Khu du lịch Cù lao Chàm 29 Khu du lịch Mỹ Khê 30 Khu du lịch Phương Mai 31 Khu du lịch Vịnh Xuân Đài 32 Khu du lịch Bắc Cam Ranh* 33 Khu du lịch Ninh Chữ 34 Khu du lịch Mũi Né V Vùng Tây Nguyên 35 Khu du lịch Măng Đen* 36 Khu du lịch Tuyền Lâm 37 Khu du lịch Đan Kia-Suối Vàng 38 Khu du lịch Yok Đôn VI Vùng Đông Nam bộ 39 Khu du lịch núi Bà Đen 40 Khu du lịch Cần Giờ 41 Khu du lịch Long Hải 42 Khu du lịch Côn Đảo* VI I 43 Khu du lịch Thới Sơn 44 Khu du lịch Xứ sở hạnh phúc 45 Khu du lịch Phú Quốc* 46 Khu du lịch Năm Căn A2 Đầu tư các cơ sở vật chất du lịch khác B Đầu tư hạ tầng (28%)
C Quảng bá xúc tiến, xây dựng thương hiệu (15%)* D Đào tạo nhân lực (7%)* Đ Nghiên cứu & phát triển (7%) E Bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch (6%) G Khác (2%) TỔNG SỐ 3.780 3.600 14.130 1.764 1.680 6.594 1.764 1.680 6.594 1.512 1.440 5.652 504 480 1.884 94.200 24.000 25.200 3.975 1.855 1.855 1.590 530 26.500
Chú thích: * Các dự án ưu tiên đầu tư giai đoạn 2012-2020
(Nguồn: Phụ lục Các chương trình, dự án đầu tư phát triển du lịch giai đoạn năm 2020, tầm nhìn 2030, ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-TTg)
Trong số 46 khu du lịch được xác định quy hoạch trở thành KDLQG, cá biệt
có KDLQG Núi Sam được bổ sung thêm vào năm 2015 nên chưa có trong bản Phụ
lục này (Bảng 3.1). Khu du lịch Núi Sam được công nhận KDLQG chính thức theo
quyết định số 2646/QĐ-BTNMT ngày 26 tháng 10 năm 2017.
3.2.2 Quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển khu du lịch quốc gia Việt Nam
Từ cơ sở mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
phát triển du lịch nói riêng, cùng với những khó khăn khi thực hiện chính sách, cần
có những định hướng để hoàn thiện chính sách phát triển các KDLQG như sau:
Trong thời gian tới, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tiếp tục
đổi mới công tác quản lý Nhà nước về du lịch, đổi mới cơ chế chính sách phát triển
du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch; Tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng bá, thu hút du khách du lịch đến
với các KDLQG của tỉnh; Phát triển mở rộng loại hình dịch vụ du lịch, trong đó
quan tâm phát triển sản phẩm du lịch mới, mang tính độc đáo, đặc trưng của địa
phương; Phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch và kêu gọi đầu tư có trọng điểm; Khai
thác hiệu quả tài nguyên du lịch; Tăng thời gian lưu trú của khách du lịch khi đến
với địa phương và KDLQG tại địa phương. Phấn đấu đạt được các mục tiêu về
khách du lịch và doanh thu du lịch như kế hoạch đã đề ra của từng địa phương.
Trong các chính sách bộ phận của chính sách phát triển các KDLQG thì chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách xúc tiến quảng bá, chính sách phát triển sản phẩm mới được đặt lên hàng đầu trong hàng loạt những chính sách thiết yếu, tuy nhiên những chính sách nói trên khi triển khai còn nhiều bất cập, cụ thể các
chính sách triển khai còn chậm, việc kết hợp lợi ích giữa người dân và Nhà nước còn chưa hợp lý, vì thế trong hướng nghiên cứu để hoàn thiện chính sách phát triển các KDLQG tại các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần phải chú trọng đến việc triển khai, thực hiện các chính sách này.
Phát triển nguồn nhân lực cho các cấp quản lý ngành du lịch địa phương:
Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ quản lý cho các cấp của ngành du lịch
tạo nguồn lực chủ chốt vững mạnh cho công tác hoạch định, thực thi chính sách, nâng cao năng lực kiểm tra thanh tra chính sách phát triển du lịch ngày càng hiệu
quả. Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao trình độ của các ngành khác có liên quan, để
tạo ra một lực lượng quản lý tại các địa phương có chất lượng và hiệu quả cao.
Địa phương cần thực hiện hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra trong quá
trình thực hiện các chính sách phát triển du lịch. Kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên và định kỳ, để xem xét và đánh giá giữa lý thuyết với thực tế thực
hiện, xem có gặp các khó khăn nào, tiếp đó có biện pháp khắc phục và từng bước
giải quyết, điều chỉnh lại các mục tiêu và phương pháp thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát cho phù hợp hơn. 3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính phát triển khu du lịch quốc gia tại
Việt Nam
3.3.1. Hoàn thiện các chính sách phát triển
Trong chính sách phát triển KDLQG, các chính sách bộ phận như Chính
sách tài chính; Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực; Chính sách xúc tiến
quảng bá du lịch; Chính sách xây dựng sản phẩm du lịch mới; Chính sách bảo tồn,
tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch...còn nhiều bất cập. Từ đó, đòi hỏi các tỉnh
Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần có các giải pháp cụ thể đối với từng chính
sách bộ phận để có thể hoàn thiện được hệ thống chính sách phát triển KDLQG tại
đây. Cụ thể:
3.3.1.1. Hoàn thiện chính sách tài chính
Chính sách tài chính đã đưa ra nhưng hoạt động giải ngân chậm khiến cho đa
số các dự án chậm tiến độ, một số dự án phát triển du lịch có ngân sách được cấp
không đủ để thực hiện, do đó để hoàn thiện chính sách tài chính của các địa phương
trong thời gian tới. Cụ thể, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tiếp tục thực hiện huy động vốn, giảm thuế và điều chỉnh, phân cấp ngân sách địa phương dành cho phát triển KDLQG. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các địa phương, rút ngắn thời gian giải ngân cho các dự án chậm tiến độ bằng cách yêu cầu xây dựng lộ trình cụ thể cho các dự án, giám sát chặt chẽ tiến độ thực hiện, đảm bảo đúng thời gian, thời hạn thực hiện, phân bổ ngân quỹ trên cơ sở tiến độ và mức độ thực hiện
thực tế của dự án…
Về huy động vốn đầu tư, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tăng
cường thu hút đầu tư phát triển du lịch. Tạo lập hình ảnh định vị là các KDLQG có
quy mô và điều kiện phát triển du lịch tầm cỡ quốc gia. Tuy nhiên, cho đến nay, trên cả phương diện quốc gia, Việt Nam chưa xây dựng được hình ảnh định vị
KDLQG rõ ràng. Do đó, thời gian tới các địa phương cần có kế hoạch định vị du
lịch của từng địa phương, coi đây là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch cũng
như thu hút đầu tư phát triển du lịch. Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần nghiên
cứu ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước để phát triển du lịch tại các KDLQG. Với thông điệp là tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi và thân thiện với nhà đầu tư phát triển du lịch, các địa phương
có KDLQG Việt Nam cần tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa địa phương và nhà đầu tư. Các chính sách “giá” mà chính quyền địa phương có thể thực hiện nhằm hỗ trợ cho nhà đầu tư bao gồm: Ban hành chính sách về hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ
thuật như đường giao thông, điện… có tính chất liên vùng; Thống nhất ưu đãi về
chính sách thuế, phí, lãi suất cho các dự án du lịch trong khu vực; Có chương trình
hợp tác về đào tạo, chia sẻ, nguồn nhân lực du lịch…
Liên quan đến điều kiện kinh doanh, cần có chính sách đề nghị miễn giảm
thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, kích thích các doanh nghiệp kinh
doanh phát triển các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch
cũng như người dân địa phương.
Về điều chỉnh, phân cấp ngân sách địa phương cho phát triển du lịch cần rõ
ràng, căn cứ vào tình hình thu – chi và cân đối thu chi của từng địa phương. Địa
phương nào có chưa có khả năng cân đối thu chi ngân sách địa phương thì cần hỗ
trợ phân cấp ngân sách từ Trung ương, đảm bảo gắn việc phân cấp ngân sách với
trách nhiệm, mang lại hiệu quả kinh tế cho địa phương.
3.3.1.2. Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch tại các
KDLQG Việt Nam
Hiện nay, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực đã thực hiện nhưng trình độ nguồn nhân lực du lịch địa phương đa phần vẫn còn thấp. Để hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch tại các KDLQG Việt Nam, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần:
Tăng cường mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ về dịch vụ nhà hàng, khách sạn, hướng dẫn... cho đội ngũ lao động du lịch trên địa bàn song song
với việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Từng bước mở rộng mô hình đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo
giữa nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp của người học và của các tổ chức, doanh
nghiệp sử dụng lao động, trong đó, chi đầu tư của ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Huy động vốn đầu tư cho giáo dục từ doanh nghiệp và tạo điều kiện để người
lao động trong doanh nghiệp chủ động tham gia các khóa đào tạo. Kinh phí đào tạo
được trực tiếp hạch toán vào giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh điều tra, tìm hiểu các yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn về trình độ nhân lực của các doanh nghiệp du lịch để kịp thời cung cấp thông tin cho các cơ
sở đào tạo.
Tiếp tục mở lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch cho cán bộ văn hoá xã, phường và thôn, bản nhằm nâng cao nghiệp vụ quản lý các điểm du lịch thăm quan trong KDLQG; Tập huấn kỹ năng nghề cho người dân khi tham gia cung ứng
các hoạt động du lịch tại địa phương.
Ngoài ra, cần khuyến khích người làm du lịch không ngừng chủ động nâng
cao tay nghề và đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách du lịch.
Cụ thể, các giải pháp chính cần tập trung vào các nội dung sau: Xây dựng cơ
sở đào tạo một cách hệ thống gồm dạy nghề, đào tạo các cấp từ trung cấp đến đại
học về du lịch. Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực,
đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hóa quốc gia cho ngành du
lịch, gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng
giảng dạy và trình độ đội ngũ cán bộ giảng viên. Đào tạo mang tầm vĩ mô đồng thời
cần phải dự báo được xu hướng phát triển du lịch, tránh hiện tượng đào tạo cấp tốc
không bài bản để đáp ứng nhu cầu của du khách một cách bị động.Thay đổi những
chính sách đối với lực lượng lao động trong ngành du lịch như: Cải thiện điều kiện
lao động và nâng cao chất lượng môi truờng trong doanh nghiệp du lịch; Đề ra
nhưng quy định nhằm hoàn thiện chế độ đãi ngộ, đánh giá và khen thưởng người lao động. Hoàn thiện hệ thống nội quy và tăng cường kỷ luật lao động; Bố trí và phân công lao động thích hợp. Ngoài ra còn thực hiện một số giải pháp cơ bản trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch như: liên kết bồi dưỡng nâng cao, đào tạo lại và tuyển dụng mới nhân lực thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch, liên kết tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ kinh doanh du lịch. Trong đó các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai sẽ tập trung thực
hiện các giải pháp cụ thể đó là: Đào tạo tại chỗ: Chọn các điểm du lịch nằm trong
khu du lịch, tổ chức các lớp học ngắn ngày, đưa chuyên gia du lịch tới giảng bài,
hướng dẫn cách làm du lịch cho người dân bản địa ở các điểm du lịch thu hút đông
khách thăm quan như: Thung lũng Mường Hoa, bản Tả Phìn, bản Cát Cát…(KDLQG Sapa), Núi Sam, thị xã Châu Đốc, An Giang (KDLQG Núi Sam),
Đà Lạt (KDLQG hồ Tuyền Lâm). Phối hợp với các đoàn thể thanh niên, phụ nữ,
nông dân, cựu chiến binh…tại các điểm du lịch cùng tham gia phát triển các hoạt
động du lịch tại địa phương nơi mình sinh sống. Gắn phát triển du lịch với phát triển
kinh tế tại địa phương bằng cách phát triển các nghề truyền thống, tạo sản phẩm đặc trưng của địa phương bán cho du khách. Khuyến khích các hộ dân có đủ điều kiện
làm dịch vụ lưu trú homestay cho du khách. Thường xuyên thanh, kiểm tra, giám
sát các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch. Tăng cường các hoạt động tham quan, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động du lịch giữa các địa phương có KDLQG có nhiều kinh nghiệm và hiệu quả trong phát triển du lịch, chẳng hạn như KDLQG Sapa.
3.3.1.3. Hoàn thiện chính sách xúc tiến quảng bá du lịch tại các KDLQG Việt Nam
Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch tại các KDLQG hiện nay đã ban hành
nhưng chưa thực sự được quan tâm vì địa phương chưa đủ điều kiện thực hiện
quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chưa triển khai quảng bá trên các
website lớn, thậm chí chưa có KDLQG nào có website riêng, trừ KDLQG hồ Tuyền
Lâm có website của Ban quản lý. Nội dung thông tin du lịch trên các website hiện
nay còn hạn chế về mức độ phong phú, ngôn ngữ sử dụng, đa số mới chỉ có tiếng
Việt, không có ngoại ngữ, gây khó khăn cho khách du lịch quốc tế nếu muốn tiếp
cận thông tin. Do vậy, để hoàn thiện chính sách xúc tiến quảng bá du lịch tại các
KDLQG, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần:
Nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư về lợi ích phát triển du lịch, tăng
cường công tác giáo dục, tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch trong cộng đồng
dân cư; Kết hợp, ủng hộ và khuyến khích dân cư địa phương trực tiếp tham gia vào
hoạt động du lịch. Phát triển xúc tiến sản phẩm du lịch, thực hiện đồng bộ các chiến lược sản phẩm thị trường: Chiến lược sản phẩm cũ, thị trường cũ; Chiến lược sản phẩm cũ, thị trường mới; Chiến lược sản phẩm mới, thị trường cũ; Chiến lược sản phẩm mới, thị trường mới để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Phát triển và mở rộng thị trường, áp dụng đồng thời nhiều chiến lược như: nhiều sản phẩm cho nhiều thị trường, sản phẩm riêng biệt cho thị trường riêng biệt...
Tăng cường hợp tác, liên kết với các địa phương khác trên cả nước để xây
dựng tour và sản phẩm du lịch kết nối, tạo tính đa dạng, tăng tính hấp dẫn.
Xây dựng những website riêng của từng KDLQG chính thức tại Việt Nam. Với các website hiện có của địa phương cần cập nhật đầy đủ, kịp thời các thông tin
về du lịch tại các KDLQG, cung cấp thông tin trên trang website bằng nhiều ngôn
ngữ, đáp ứng nhu cầu cần tìm hiểu đối với du khách trong và ngoài nước.
Để triển khai công tác xúc tiến quảng bá du lịch tại các KDLQG Việt Nam
một cách hiệu quả, ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tập trung xây dựng kế hoạch mời gọi các nhà đầu tư trong, ngoài nước, đến khảo sát,
thăm quan để có phương án hỗ trợ, đầu tư, xây dựng khai thác, phát triển du lịch.
Trong chương trình công tác các năm tiếp theo, các địa phương cần tiếp tục chỉnh sửa bổ sung, in ấn nội dung một số ấn phẩm tờ rơi, tập gấp, bản đồ du lịch; phối hợp với phòng Nghiệp vụ du lịch tổ chức các chương trình kỷ niệm Ngày du lịch Việt
Nam và Ngày Du lịch thế giới, tham gia các chương trình xúc tiến, phát triển du lịch
do Tổng cục Du lịch và các Hiệp hội Du lịch tổ chức…
3.3.1.4. Hoàn thiện chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch
Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch dù đã được
thực hiện nhưng các điểm du lịch trong các KDLQG hiện nay vẫn đang trong tình
trạng bị ô nhiễm môi trường... Cần lưu ý rằng: tài nguyên du lịch luôn gắn với môi
trường du lịch. Không thể khai thác và phát triển hoạt động du lịch mà không quan
tâm đến môi trường du lịch tại đó. Việc bảo vệ môi trường du lịch gắn với bảo tồn
và phát huy giá trị tài nguyên du lịch, từ đó khai thác để phát triển các sản phẩm du
lịch là vấn đề được nhiều nhà quản lý du lịch quan tâm.
Các KDLQG trong những năm qua đã thu hút phần lớn lượng khách du lịch
trong và ngoài nước, góp phần phát triển ngành du lịch Việt Nam và kinh tế tại các
địa phương. Tuy nhiên, các chuyên gia đều cho rằng, một thách thức không nhỏ đối
với các KDLQG là công tác bảo vệ môi trường, việc phát triển du lịch quá nóng đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường du lịch trong những năm qua. Trong đó, có nhiều bất cập, khó khăn còn tồn tại như: tại nhiều khu, điểm du lịch còn xuất hiện các chất thải rắn, rác thải, nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để nên nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm cục bộ và tái ô nhiễm sau xử lý vẫn xảy ra tại vài khu vực, đặc biệt là tại một số khu, điểm du lịch nằm tại hạ lưu các lưu vực sông, suối, ao hồ, các bãi biển, đảo... Nhà vệ sinh tại các khu, điểm du lịch còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu khi
lượng khách tăng cao, trang thiết bị phục vụ không đảm bảo chất lượng và an toàn
cho du khách sử dụng.
Do đó, để hoàn thiện chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du
lịch, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần phải:
Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, nhất là
khi du lịch đang phát triển “nóng” như hiện nay; phát triển du lịch xanh, tăng trưởng
xanh. Cần đánh giá sức chứa, sức chịu tải của các KDLQG để định hướng phát triển
phù hợp. Cần phải ưu tiên đầu tư hạ tầng để phục vụ công tác môi trường thiết yếu tại các khu du lịch, nhất là các khu du lịch trọng điểm như phải đảm bảo 100% các
khu du lịch có nhà vệ sinh đạt chuẩn. Đồng thời, có biện pháp xử lý và ngăn ngừa
sự ô nhiễm ở các KDLQG. Chức năng quản lý của Ban quản lý KDLQG cần được làm rõ vì hiện nay nhiều Ban quản lý khu du lịch hiện nay đã được thành lập nhưng chưa phát huy được vai trò và chưa có thực quyền. Có quy chế quản lý và bố trí cán
bộ chuyên trách về bảo vệ môi trường tại các khu du lịch. Đề xuất Bộ VHTTDL ban
hành Bộ tiêu chí bảo vệ môi trường trong các khu du lịch quốc gia.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó
quy định những nội dung mới như du lịch có trách nhiệm, chi trả dịch vụ môi
trường hệ sinh thái (với đối tượng là khách du lịch), tăng cường chế tài xử phạt vi
phạm nếu xả thải ra môi trường tại điểm du lịch...
Chú trọng công tác quy hoạch và đảm bảo thực hiện theo đúng nội dung Quy
hoạch phát triển các KDLQG đã được phê duyệt nhằm đảm bảo tính khoa học, trên
cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù
hợp; tránh tình trạng quy hoạch thiếu đồng bộ, chồng chéo, hoặc thực hiện không
đúng quy hoạch, gây khó khăn cho công tác quản lý các KDLQG nói chung và quản
lý môi trường nói riêng.
Tăng cường năng lực quản lý môi trường trong các KDLQG, phân công
thống nhất đầu mối quản lý các khu du lịch quốc gia… Cần có cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị quản lý các KDLQG với các cơ quan hành chính và an ninh địa phương, cơ quan quản lý trung ương, các công ty du lịch, đại diện các cộng đồng nhân dân địa phương để đồng lòng, thống nhất trong việc đảm bảo môi trường du lịch cho phát triển bền vững.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn nhằm
phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi
trường trong kinh doanh dịch vụ du lịch tại KDLQG. Đồng thời, nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường;
Trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này; Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về môi
trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh
nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, phát triển du lịch bền vững.
3.3.1.5 Hoàn thiện các chính sách xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch tại các KDLQG Việt Nam
Thời gian qua, chính sách xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch đã được
các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai quan tâm nhưng chưa được khai thác phát huy hiệu quả. Để xây dựng và phát triển được những sản phẩm du lịch đặc trưng tại các KDLQG nhằm phục vụ khách du lịch đến đây, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang
và Lào Cai cần tập trung triển khai một số giải pháp tích cực sau:
Trước hết cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền
và nhân dân nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức vị trí, vai trò và hành động
trong phát triển du lịch. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý điều
hành của chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể nhân dân trong
phát triển du lịch.
Cần làm tốt công tác quy hoạch chiến lược về các điểm, tuyến điểm du lịch
tại địa phương, kết nối các điểm du lịch trong KDLQG. Tiếp tục đổi mới và nâng
cao công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực, liên kết tuyển dụng, đào
tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ kinh doanh du lịch từ đó góp phần tạo sản
phẩm du lịch có chất lượng và hấp dẫn. Đặc biệt quan tâm đến việc đào tào tập huấn
đội ngũ thuyết minh viên, hướng dẫn viên tại các điểm du lịch, giúp giới thiệu sản
phẩm và quảng bá sản phẩm tới khách du lịch trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về sản phẩm du lịch, đặc biệt là các sản phẩm du lịch mới, các sản phẩm du lịch đặc trưng trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước. Mở rộng các hình thức quảng bá, tăng cường sự liên kết với các tỉnh, thành phố lân cận và các địa phương khác trong cả nước nhằm thu hút đầu tư phát triển sản phẩm du lịch.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút các nhà đầu tư nghiên cứu, ứng dụng và cung ứng các sản phẩm du lịch tại các KDLQG, xã
hội hóa công tác quản lý, đầu tư xây dựng sản phẩm du lịch. Kêu gọi đầu tư xây
dựng một số điểm du lịch trọng tâm trong các KDLQG như: núi Fan-xi-păng, các
bản làng dân tộc như Cát Cát, Tả Văn, Tả Phìn (KDLQG Ssapa), miếu Bà Chúa Xứ,
chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang (KDLQG Núi Sam), hồ Tuyền Lâm (KDLQG hồ Tuyền Lâm), khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư
từ nguồn ngân sách của Trung ương, của địa phương và của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước cho các dự án phát triển CSHT và sản phẩm dịch vụ, du lịch.
3.3.1.6. Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên
quan đến du lịch
Hiện nay, việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan
đến du lịch chưa cao, cụ thể: Hợp tác giữa các cơ quan quản lý còn khá yếu, nên
việc thực thi chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ quan liên quan đến tổ chức tuyên truyền chính sách; các cơ quan tuyên truyền chưa chú trọng đến phổ biến nội dung chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch văn
hóa của tỉnh chưa đi vào đời sống của người dân địa phương. Do đó, để việc phối
kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan đến du lịch hiệu quả,
ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần phải:
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính
quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể nhân dân
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền và
người dân nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa các cấp, các
ngành, địa phương trong sự nghiệp phát triển du lịch. Trên cơ sở đó, các cấp ủy
đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm, tập trung cao cho việc lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển du lịch.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả chỉ đạo, quản lý Nhà nước, tổ chức
thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch được phê duyệt; tăng cường đầu tư
trong việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, các di sản văn hóa phi vật thể,
các cảnh quan thiên nhiên; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong phạm vi KDLQG.
Tăng cường phối hợp của Mặt trận Tổ quốc với các ban, ngành, đoàn thể trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về trách nhiệm cộng đồng dân cư với việc ứng xử văn hoá, thân thiện, chuyên nghiệp trong hoạt các động du lịch, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ môi trường và các di sản văn hóa; nâng cao nhận thức về vai trò của du lịch để thấy
được đó là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cả về vật chất và tinh thần; góp
phần tăng thu nhập, giúp xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng
cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết về phát
triển du lịch tại các KDLQG.
Liên kết phát triển giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh: Liên kết tổ chức
các sự kiện nhằm thu hút khách du lịch về địa phương như tổ chức những ngày hội
văn hóa, những giải thể thao lớn, tổ chức hội thảo, triển lãm về xây dựng phát triển
sản phẩm mang tính thương hiệu của địa phương. Liên kết các tour, tuyến du lịch
trong và ngoài địa phương nhằm khai thác có hiệu quả sản phẩm và những lợi thế của các địa phương.
Các địa phương trong tỉnh chủ động kết nối trong việc lập quy hoạch, kế
hoạch phát triển du lịch cũng như tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch mang tính liên kết nhằm tạo hiệu quả cao. 3.3.1.7 Hoàn thiện các chính sách khác
Để thúc đẩy sự phát triển của du lịch tại các KDLQG, ngành du lịch các tỉnh
Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai còn cần:
Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ quản lý Nhà
nước, xây dựng các chiến lược thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch, tiến tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa ngành du lịch, tạo khả năng
hội nhập với hoạt động phát triển du lịch cả nước trong khu vực và trên thế giới.
Giữ gìn và phát triển tài nguyên du lịch, ngoài những tài nguyên đã được
đánh giá và đưa vào khai thác, không ngừng phát hiện những tài nguyên còn ở dạng
tiềm năng, có chính sách khôi phục, bảo tồn và khuyến khích những giá trị du lịch
mới tại địa phương, góp phần làm phong phú hệ thống tài nguyên du lịch tại các
KDLQG thuộc các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai trong xu thế phát triển bền
vững.
Ngoài ra, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần thực hiện theo
phương châm nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm, huy động vốn từ đầu tư nước ngoài và lồng ghép với các chương trình, dự án về quy hoạch phát triển các KDLQG tiềm năng khác của Việt Nam. 3.3.2. Khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đối với các doanh nghiệp du lịch tại các địa phương có KDLQG Hiện nay, các sản phẩm dịch vụ du lịch phục vụ khách du lịch còn đơn điệu, khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tập trung ở việc khai thác các giá trị tài
nguyên du lịch có sẵn mà thiếu các điểm vui chơi giải trí hấp dẫn, giúp kéo dài thời
gian lưu trú, tăng tính hấp dẫn và lôi kéo khách du lịch quay trở lại. Các tours, tuyến
du lịch tại các KDLQG các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai còn đơn điệu,
chưa phát huy tiềm năng, lợi thế, chưa đáp ứng được nhu cầu của từng loại khách, chưa tổ chức tốt sự kết hợp tours, tuyến du lịch với các địa phương khác trong cả
nước, hoạt động lữ hành quốc tế chưa hiệu quả. Do đó, cần có cơ chế khuyến khích
các doanh nghiệp du lịch tại các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ, cụ thể:
Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở kinh doanh du lịch là nâng cao sự hài
lòng khách du lịch đến với các địa phương có KDLQG từ sự chú ý nâng cao chất
lượng sản phẩm du lịch, năng lực và thái độ hành vi phục vụ của nhân viên… Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao chất lượng phương tiện vận chuyển phục vụ khách du lịch, đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng, đối với những phương tiện quá thời gian
lưu hành theo quy định thì các cơ sở nên sử dụng vào các mục đích khác. Trong quá
trình vận chuyển khách du lịch đòi hỏi nhà xe phải tạo tâm lý thoải mái cho khách,
có ý thức bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản cho khách...
Khuyến khích các đơn vị kinh doanh khách sạn, nhà hàng ở các tỉnh Lâm
Đồng, An Giang và Lào Cai cần nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú và ẩm thực.
Các dịch vụ khách sạn hiện nay tại các địa phương này nên tăng thêm những nét đặc
trưng riêng có (chẳng hạn như homestay tại Sapa, nhà vườn tại Hồ Tuyền Lâm…),
thể hiện được sự chu đáo và mến khách tại các cơ sở lưu trú. Các khách sạn tại đây
phải đảm bảo luôn sạch sẽ, niềm nở, ân cần quan tâm đến mọi du khách. Các món
ăn phải độc đáo, mang đặc trưng riêng có của địa phương và đảm bảo vệ sinh...
Khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp trên địa bàn tích cực tham gia hợp
tác đầu tư vào các dự án phát triển du lịch trên địa bàn địa phương, đặc biệt là trong
phạm vi KDLQG, nhưng cần theo chỉ đạo và được sự cho phép của BVHTTDL và
UBND các địa phương. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch tìm kiếm cơ hội đầu tư qua các buổi toạ đàm với lãnh đạo tỉnh, tìm hiểu các chính sách khuyến khích đầu tư để đăng ký đầu tư vào du lịch của địa phương. Mời chuyên gia nước ngoài chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm làm du lịch thông qua các chương trình hội thảo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho lãnh đạo và nhân viên trong các doanh nghiệp du lịch tại các địa phương đang có KDLQG hiện nay. Tăng cường liên kết, mở rộng phối hợp đào tạo, bồi dưỡng
phát triển nhân lực du lịch cho các doanh nghiệp du lịch.
Ưu tiên thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ nộp thuế Nhà nước cho các doanh
nghiệp du lịch tiếp tục đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du
lịch tại các KDLQG Việt Nam, tăng tính cạnh tranh cho các sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương.
Thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, các địa
phương cần kết hợp hài hoà lợi ích của các bên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tuân thủ và thực hiện tốt các chính sách phát triển KDLQG từ khâu dự thảo chính
sách đến công tác thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách.
Dựa vào quy hoạch đầu tư du lịch tại các KDLQG, định hướng cho các
doanh nghiệp du lịch đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch, thi hành các chính sách
phát triển KDLQG đã được ban hành. Kêu gọi các doanh nghiệp du lịch tham gia ủng hộ cho các chương trình mục tiêu về phát triển du lịch chung và phát triển du lịch tại các KDLQG tại địa phương.
3.3.3. Nâng cao nhận thức đối với các hộ người dân sinh sống và làm dịch vụ tại
các KDLQG Việt Nam
Việc tổ chức nâng cao kiến thức người dân về du lịch nhằm cung cấp các
kiến thức cơ bản, văn hóa ứng xử và đón tiếp khách du lịch cho cộng đồng địa
phương, góp phần bổ sung và nâng cao trình độ nguồn nhân lực ngành du lịch của
địa phương, từ đó tạo ra các sản phẩm dịch vụ du lịch có chất lượng, thu hút và để
lại ấn tượng tốt cho du khách. Qua thực tế cho thấy, cộng đồng có vai trò quan trọng
trong phát triển du lịch tại các điểm đến, thể hiện ở việc giữ gìn cảnh quan môi
trường, phong cách phục vụ, cách giao tiếp ứng xử với du khách… Ý thức cộng
đồng tốt sẽ tạo ấn tượng tốt cho du khách, góp phần tạo hình ảnh điểm đến đẹp hơn
trong mắt du khách. Do vậy, việc nâng cao nhận thức đối với các hộ người dân sinh
sống và làm dịch vụ tại các KDLQG hiện nay là rất quan trọng.
Thời gian vừa qua, công tác tuyên truyền chính sách tới người dân của các
tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể: công việc tuyên truyền về tinh thần của chính sách chưa thực hiện đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như đài phát thanh địa phương, phòng thông tin của các huyện, đài truyền hình...; chưa tuyên truyền mở rộng về quy hoạch du lịch, những mục tiêu, những kết quả của ngành du lịch đạt được và những định hướng hiện tại của ngành du lịch tại địa phương...; chưa chủ động thông báo trước tới các chủ thể bị tác động và tuyên truyền tới người dân trong quá trình thực hiện chính sách để
tránh được một số những khó khăn mà các cấp các ngành gặp phải. Để nâng cao
nhận thức đối với các hộ người dân sinh sống và làm dịch vụ tại các KDLQG hiện
nay, các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tích cực giáo dục tuyên truyền
người dân tham gia vào các hoạt động du lịch tại địa phương như tổ chức học tập bổ sung kiến thức về du lịch tại địa phương, thực hiện phong trào cổ động các hoạt
động du lịch lành mạnh, đúng tính chất, thể hiện văn minh du lịch địa phương,
khuyến khích các hộ dân trực tiếp tham gia đầu tư kinh doanh dịch vụ phục vụ
khách du lịch với các quy mô lớn, nhỏ; Phát huy thế mạnh về các nghề thủ công
truyền thống, giữ gìn và phát huy các bản sắc dân tộc trong phục vụ du lịch, nâng cao thu nhập và đời sống; Tăng cường tính cộng đồng trong quá trình phát triển,
phát triển các ngành nghề truyền thống phù hợp với xu hướng phát triển của du lịch
để tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ cho du lịch; Nâng cao ý thức người dân trong xây dựng bản, xã, phường, thôn văn minh giàu đẹp và lành mạnh, an toàn trật tự xã hội; Tuyên truyền cổ động ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch và giữ gìn vệ sinh môi
trường du lịch của địa phương; Giáo dục, nâng cao sự ủng hộ của người dân với các
chủ trương, định hướng, kế hoạch phát triển du lịch của trung ương, chấp hành tốt
các chính sách phát triển du lịch minh bạch và hợp lý của địa phương.
Đồng thời, để nâng cao văn hóa ứng xử, đón tiếp khách cho cộng đồng dân
cư tại các điểm đến, ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần tổ
chức tốt các lớp tập huấn với đối tượng tham gia chính là cán bộ thôn, xã và đại
diện hộ gia đình tại khu vực KDLQG. Người dân tham gia lớp học sẽ được giới
thiệu tổng quan về du lịch, các tiềm năng, giá trị và thế mạnh của các điểm thăm
quan trong KDLQG, các kiến thức, nghiệp vụ hướng dẫn và văn hóa giao tiếp ứng
xử với du khách, tìm hiểu nghiệp vụ thuyết minh, tâm lý và phong tục, tập quán của
khách du lịch… Sau đó, người dân được khuyến khích, động viên và hướng dẫn
thực hành ngay tại điểm thăm quan.
Ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cũng nên mời các
chuyên gia về du lịch, lãnh đạo ngành du lịch địa phương, Vụ Lữ hành thuộc Tổng cục Du lịch, đại diện BVHTTDL, các giảng viên cơ sở đào tạo chuyên ngành để giảng dạy các lớp nâng cao kiến thức cộng đồng về du lịch địa phương. 3.3.4. Tăng cường quản lý khách du lịch tại các KDLQG Việt Nam
Không đơn thuần chỉ là tham quan, ngắm cảnh, nghỉ dưỡng, khách du lịch đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc góp phần phát triển du lịch bền vững tại các KDLQG. Khách du lịch nên và cần phải tham gia vào công tác bảo vệ
môi trường và tài nguyên du lịch. Công việc mà khách du lịch có thể làm là hỗ trợ
tài chính cho người dân địa phương, giúp đỡ, tạo điều kiện trong các hoạt động phát
triển du lịch nói chung và phát triển du lịch tại các KDLQG nói riêng. Khách du
lịch là những người tiêu dùng cuối cùng, bởi vậy cần phải giữ vai trò phát triển du lịch bền vững: phải tôn trọng các giá trị văn hoá bản địa, sắc tộc của người dân bản
địa và giá trị tự nhiên của địa phương; tránh những hành vi, thái độ gây ra những
tiêu cực đối với người dân tại khu vực. Điều quan trọng là các khách du lịch phải
nhận thức, hiểu được đầy đủ về văn hoá, lịch sử, các nguyên tắc đạo đức, các đặc
điểm địa lý tự nhiên của khu vực đến thăm.
Để tăng cường quản lý khách du lịch tại các KDLQG, ngành du lịch các tỉnh
Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần phải :
Chỉ dẫn giúp du khách thực hiện đúng các qui định của KDLQG, đảm bảo vừa có lợi cho du khách và vừa có lợi cho địa phương. Địa phương cần công bố các quy định một cách rõ ràng, dễ hiểu, ở nơi dễ tiếp cận đối với du khách, đồng thời bố
trí người và biển chỉ dẫn hợp lý cho các du khách đến tham quan.
Địa phương cần xây dựng điểm bỏ rác hợp lý, lập các biển báo chỉ dẫn nơi
bỏ rác để khách không vứt rác lung tung; bố trí nhân viên trông coi các điểm thăm
quan du lịch không cho bất kỳ ai vẽ ký hiệu riêng lên các di tích và tài nguyên du
lịch tại điểm hấp dẫn bên trong KDLQG; đảm bảo tài nguyên du lịch và môi trường
địa phương được giữ gìn tốt, không bị xâm hại dù vô tình hay cố ý.
Cần có những khuyến cáo đối với du khách, đặc biệt là du khách quốc tế về ý
thức tuân thủ luật pháp Việt Nam và ý thức tôn trọng tục lệ, truyền thống, văn hóa
của địa phương. Thực hiện đầy đủ các thủ tục tham quan du lịch với cơ quan quản
lý Nhà nước tại địa phương.
Mặt khác, ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cũng cần
có các biện pháp bảo đảm an toàn sức khỏe và tài sản của du khách; thành lập ban
thanh tra về an ninh trật tự và đảm bảo môi trường bên trong các KDLQG; ban
thanh tra phải kiểm soát chặt chẽ, không để các tệ nạn xã hội xảy ra tại địa phương; xử lý các đối tượng bán hàng rong, hàng giả, chặt chém, níu kéo, móc túi, xin tiền du khách làm mất mỹ quan hình ảnh về môi trường du lịch sạch đẹp, yên bình và những người dân chân chất, thân thiện của địa phương. 3.3.5. Đẩy mạnh quy hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại các KDLQG Việt Nam Hiện nay, cơ sở hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại các
KDLQG còn chưa đồng bộ như hệ thống giao thông chưa hoàn thiện, hệ thống
mạng viễn thông chưa theo kịp xu thế cách mạng công nghệ 4.0... Do đó, để phát
triển các KDLQG Việt Nam, ngành du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào
Cai cần đẩy mạnh quy hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của địa phương. Cụ thể :
Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2030
và tầm nhìn đến năm 2050 đòi hỏi phải có sự kết hợp của chính sách tài chính và
chính sách đầu tư du lịch. Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch các tỉnh Lâm Đồng, An
Giang và Lào Cai cần quan tâm xây dựng và thực thi quy hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch trong giai đoạn sắp tới, trong đó cần có
sự phối hợp với các cơ quan, ban ngành quyết tâm thực hiện trên cơ sở huy động tối
đa nguồn lực của các thành phần kinh tế trong và ngoài địa phương. Việc quy hoạch đầu tư phải hướng phát triển du lịch bền vững, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên của địa phương trong thời gian hiện tại và tương lai, tối đa hoá
khả năng thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch,
góp phần thúc đẩy phát triển ngành du lịch và các ngành kinh tế khác.
Quy hoạch phát triển phải đi đôi với đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trên cơ sở
đa dạng hoá các thành phần kinh tế làm du lịch, bảo đảm sự thông thoáng và hiệu
quả phù hợp với địa phương, đảm bảo nâng cao và bảo vệ được giá trị tài nguyên du
lịch và bảo vệ môi trường tại địa phương.
3.3.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch tại các KDLQG Việt Nam
Từ nghiên cứu thực trang du lịch tại các KDLQG Việt Nam có thể thấy,
nguồn nhân lực của các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai tuy nhiều nhưng
nhân lực du lịch tại các KDLQG còn thiếu và rất yếu, đa phần chỉ tạm đạt yêu cầu
về số lượng nhưng chưa đảm bảo về chất lượng. Để tăng số lượng, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của ngành du lịch tại các KDLQG ở các tỉnh Lâm Đồng, An
Giang và Lào Cai, Sở VHTTDL các địa phương cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện
có, có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động đang làm việc tại các cấp quản lý. Thống kê số lượng cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ trong ngành du lịch, số lượng quản lý có năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ còn hạn chế… Từ đó, tập trung vào công tác tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cho ngành du lịch tại các địa phương có KDLQG, đảm bảo ngành du lịch tại đây có nguồn nhân lực chất lượng cao cả về lượng và về chất… Cần có sự phối kết hợp của ngành du lịch với các trường đào tạo kỹ năng
chuyên môn, phát triển hệ thống các trường đào tạo du lịch của địa phương, các
trung tâm đào tạo du lịch, đào tạo quản lý ngành du lịch và phục vụ du lịch để đáp
ứng yêu cầu chất lượng của ngành du lịch địa phương.
Sở VHTTDL các địa phương cần hỗ trợ về kinh phí đào tạo và thường kỳ tổ chức các buổi tọa đàm hội thảo về chuyên môn nghiệp vụ du lịch, mời các chuyên
gia trong nước và thế giới chia sẻ kinh nghiệm làm việc trong ngành du lịch với đội
ngũ quản lý và lao động của địa phương, nhằm giao lưu học hỏi kiến thức, nâng cao
chuyên môn và lĩnh hội kinh nghiệm quản lý của họ; Mở rộng hợp tác trong lĩnh
vực đào tạo, trong đó tranh thủ hợp tác của các tổ chức và quốc tế trong khuôn khổ hợp tác liên kết đào tạo, từng bước nâng cao trình độ về chất lượng và số lượng
nguồn cung cấp cho ngành du lịch của các địa phương có KDLQG.
3.3.7. Hoàn thiện công tác thanh tra kiểm tra triển khai thực hiện chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam Để giúp cho chính sách phát triển các KDLQG thuận lợi, các địa phương có
KDLQG bao gồm các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần xem xét sự hợp lý
của mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn, sự phù hợp của những chính sách bộ phận
để có những điều chỉnh cần thiết về các mục tiêu, phương pháp sao cho việc thực
hiện chính sách phát triển KDLQG được hoàn thiện và hiệu quả cao nhất.
Thanh tra Sở VHTTDL các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai cần phối
kết hợp với thanh tra Bộ định kỳ hội thảo chuyên đề về các hoạt động thanh tra,
nhằm nắm bắt thông tin, giải quyết những hạn chế thông tin, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động du lịch tại các KDLQG. Từ đó, tạo sự thống nhất về nhận thức cho
các ngành có liên quan về quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa
phương mình, nâng cao trình độ thanh tra và đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công
việc thuộc phạm vi quản lý của ngành du lịch.
Thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển KDLQG cần được thực hiện định
kỳ và đột xuất, tránh tình trạng cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có hành vi đối phó
hay móc nối với cán bộ kiểm tra. Từ đó đảm bảo các thông tin nhận được trung thực và chính xác, giúp cho các cơ quan quản lý có được đủ thông tin thẩm định quá trình triển khai thực hiện chính sách. Trên cơ sở đó, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời và cần thiết, để duy trì kỷ cương, đảm bảo ý thức tuân thủ các quy định chung trong quá trình thực thi chính sách phát triển các KDLQG tại Việt Nam hiện nay. Ngoài thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo đúng luật thanh tra, chính quyền địa
phương cần phải rà soát lại các văn bản hiện hành, loại bỏ những quy định không
phù hợp, nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình thực hiện chính sách phát
triển KDLQG. Thanh kiểm tra cần kết hợp với các ngành công an, quản lý thị
trường... kiểm soát chất lượng, chủng loại, giá cả dịch vụ du lịch và các dịch vụ khác, đảm bảo lợi ích cho du khách và uy tín của các doanh nghiệp du lịch kinh
doanh chân chính, hợp pháp với hiệu quả cao nhất.
3.4. Kiến nghị về chính sách phát triển KDLQG tại Việt Nam đến năm 2030
3.4.1. Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ VHTTDL và Tổng
cục Du lịch Kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa các dự án phát triển các KDLQG vào
danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các
KDLQG có cơ hội thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư lớn, nâng cấp đồng bộ cơ sở hạ tầng du lịch và phát triển kinh tế của địa phương. Kiến nghị Bộ Tài chính phê duyệt tăng mức hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống
cơ sở hạ tầng hàng năm tại các KDLQG hiện nay, nâng mức ngân sách cấp cho các
địa phương có đủ nguồn lực thực hiện các mục tiêu, chính sách phát triển các hoạt
động du lịch của mình trong giai đoạn 2020 – 2030 hoặc xa hơn.
Kiến nghị Bộ VHTTDL trình Chính phủ đầu tư cơ sở hạ tầng cho một số khu
vực đặc biệt khó khăn tại các KDLQG hiện nay, như các bản làng dân tộc thiểu số
tại Sapa, tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện các mục tiêu, chinh sách phát
triển du lịch trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự xã hội.
Kiến nghị Bộ VHTTDL tăng mức đầu tư cho chương trình mục tiêu quốc gia
về văn hóa, thể thao và du lịch hàng năm tại các KDLQG, tạo điều kiện cho địa
phương có nguồn lực thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia với tiến độ nhanh
chóng và thuận lợi.
Kiến nghị Bộ VHTTDL ban hành chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực
cho lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch cho các KDLQG hiện nay; Chế độ, định
mức chi đối với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng của địa phương, kích thích và khuyến khích phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù tại địa phương có KDLQG.
Kiến nghị Tổng cục Du lịch hỗ trợ các KDLQG về công tác xúc tiến quảng bá du lịch. Tổ chức các chương trình hoạt động xúc tiến quảng bá tầm cỡ quốc gia và khu vực, nhấn mạnh và làm nổi bật giá trị tài nguyên du lịch tại các KDLQG, tạo điều kiện thúc đẩy khách du lịch đến thăm quan và tiêu dùng hàng hóa dịch vụ du
lịch nhiều hơn nữa. Quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong ngành
du lịch địa phương, đảm bảo đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3.4.2. Kiến nghị với các cấp, các ngành liên quan về du lịch của các địa phương có KDLQG
- Đề nghị Sở Giao thông Vận tải các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai
lập kế hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Giao thông Vận tải về việc nâng
cấp các tuyến đường bộ liên tỉnh, nối liền các điểm du lịch trong và ngoài phạm vi
địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ vận chuyển khách du lịch đến các KDLQG và các hoạt động kinh tế xã hội khác của địa phương.
- Đề nghị Sở Kế hoạch & Đầu tư các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai
lập kế hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Kế hoạch & Đầu tư về việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, các công trình & khu vui chơi giải trí công cộng cho các địa phương này và vùng phụ cận, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất
lượng dịch vụ du lịch và nâng cao đời sống tinh thần của người dân tại các địa
phương có KDLQG.
- Đề nghị Sở Công thương các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai lập kế
hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Công thương về việc mở rộng và phát
triển các trung tâm thương mại, nâng cấp các chợ lớn, chợ trung tâm của các địa
phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ
khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Đề nghị Sở Thông tin & Truyền thông các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và
Lào Cai lập kế hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Thông tin & Truyền thông
về việc tăng cường hoạt động truyền thông xúc tiến quảng bá các hình ảnh sản
phẩm du lịch tại các KDLQG của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng
cao sự hiểu biết của người dân và nâng cao sự tiếp cận đầy đủ thông tin của du
khách về sản phẩm du lịch tại các KDLQG của địa phương.
- Đề nghị Sở Giáo dục & Đào tạo các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai lập kế hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc xây dựng và phát triển các lớp đào tạo ngắn hạn về năng lực quản lý và tác nghiệp dịch vụ du lịch tại các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ nguồn nhân lực lao động du lịch và quản lý du lịch. - Đề nghị Sở Tài nguyên & Môi trường các tỉnh Lâm Đồng, An Giang và Lào Cai lập kế hoạch trình UBND các địa phương và Bộ Bộ Tài nguyên & Môi
trường về việc khoanh vùng bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch tự nhiên tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch văn hóa, sinh thái và du lịch
bền vững tại các KDLQG.
KẾT LUẬN Từ quá trình nghiên cứu các chính sách và đánh giá thực trạng triển khai thực
hiện chính sách phát triển các KDLQG Việt Nam hiện nay, cho phép rút ra được
một số kết luận cơ bản sau: - Đề tài đã hệ thống hoá lý luận về khu du lịch quốc gia, phát triển du lịch,
chính sách phát triển du lịch, quy trình triển khai chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG; Đề tài cũng đã chỉ ra được các điều kiện để thực hiện chính sách phát
KDLQG, các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển KDLQG, một số kinh
nghiệm từ chính sách phát triển KDLQG trên thế giới.
- Để góp phần vào quá trình tìm giải pháp cho chính sách, dựa vào những cơ
sở lý luận và thực tiễn của chính sách phát triển các KDLQG tại Việt Nam thời gian qua, đề tài đã phân tích được thực trạng quá trình thực hiện chính sách phát triển du
các KDLQG tại Việt Nam thông qua việc phân tích và đánh giá, dự báo xu hướng
phát triển, phương hướng giải quyết những khó khăn và định hướng hoàn thiện
chính sách phát triển các KDLQG tại Việt Nam.
- Đề tài đã đề xuất một số giải pháp góp phần vào hoàn thiện chính sách phát
triển các KDLQG tại Việt Nam trong thời gian tới.
- Mặc dù nhóm tác giả có nhiều cố gắng, song vấn đề về chính sách phát
triển các KDLQG tại Việt Nam là vấn đề có tính hệ thống và tổng hợp cao; bên
cạnh đó còn những hạn chế khác như về thông tin, tư liệu cho nên nhóm tác giả
không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết: Đề tài chưa có dữ liệu sơ cấp, chưa
phân tích kỹ về quá trình xây dựng chính sách phát triển các KDLQG tại Việt Nam, chưa nghiên cứu được về phương pháp thực hiện chính sách…
- Vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu: Để hoàn thiện hơn nữa chính sách
phát triển các KDLQG tại Việt Nam, cần tiếp tục nghiên cứu về phương pháp thực
hiện các chính sách phát triển các KDLQG tại Việt Nam, nghiên cứu kĩ hơn về cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển du lịch tại các địa phương có KDLQG hiện nay và các địa phương khu du lịch được quy hoạch phát triển thành KDLQG ... Từ những kết luận trên, nhóm tác giả mong muốn nhận được những góp ý của các các nhà khoa học và các nhà quản lý để đề tài có được những đóng góp và chất lượng tốt hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Bằng (1996), Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Du lịch Việt Nam , Luận án phó tiến sĩ Kinh tế, Đại học Tài
chính - Kế toán Hà Nội.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Hệ thống chính sách đầu tư, tài chính ngành VHTTDL và gia đình trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.
3. Trần Sơn Hải (2010), Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính 4. Trịnh Quang Hảo (2002), Cơ sở khoa học cho các chính sách, giải pháp quản lý khai thác tài nguyên du lịch ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Nhà nước. 5. Trần Thị Bích Hằng (2019), “Phát triển sản phẩm du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc giai đoạn 2020-2030”, Đề tài NCKH cấp
Bộ
6. Đinh Thị Hải Hậu (2014), Huy động vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực du lịch việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Học viện Tài chính.
7. Lê Văn Minh (2006) , Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu
du lịch, Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện nghiên cứu phát triển du lịch.
8. Chu Văn Yêm (2004), Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. 9. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2004), Phương hướng phát triển du lịch - Nghiên cứu xây dựng tiêu chí các khu, tuyến, điểm du lịch ở Việt Nam, Đề tài
NCKH cấp Bộ.
10. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2006) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp
đầu tư phát triển khu du lịch, Đề tài NCKH cấp Bộ.
11. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2008), Cơ sở khoa học phát triển du lịch
đảo ven bờ vùng du lịch Bắc Trung Bộ, Đề tài NCKH cấp Bộ.
12. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2011), Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển QG tại vùng du lịch Bắc Trung bộ, Đề tài NCKH cấp Bộ 13. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2014), Tổng quan hệ thống chính sách
phát triển du lịch Việt Nam, Đề tài cấp cơ sở.
14. Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030
15. Quyết định số 1927/QĐ-TTg, ngày 01 tháng 12 năm 2017, về việc Công nhận
khu du lịch quốc gia Sapa, tỉnh Lào Cai
16. Quyết định số 205/QĐ-TTg, ngày 15 tháng 02 năm 2017, về việc Công nhận khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng 17. Quyết định 2646/QĐ-BVHTTDL, ngày 13 tháng 7 năm 2018, về việc Công
nhận khu du lịch quốc Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
18. Nghị quyết 03 NQ/TU, ngày 13/9/2016 về Phát triển thành phố Đà Lạt và
vùng phụ cận giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2030
19. Nghị quyết 07-NQ/TU, ngày 16/11/2016 về Phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng 20. Kế hoạch số 142/KH-UBND ngày 17/5/2017 của UBND tỉnh Lào Cai để thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/02/2017 về Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của BCH
Trung ương Đảng khóa XII về Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp
tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế
21. Kế hoạch số 56/KH-UBND ngày 09/02/2018 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 12/01/2018 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định
hướng đến 2025 trên địa bàn tỉnh Lào Cai
22. Nghị quyết số 69/2018/QH14 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2019
23. Chương trình hành động số 148-CTr/TU ngày 28/7/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
24. Quyết định số 01/QĐ-UBND tỉnh An Giang về Ban hành Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh An Giang năm 2019
25. Quyết định số 673/QĐ-UBND tỉnh Lâm Đồng về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng
26. Quyết định số 3330/QĐ-UBND tỉnh Lào Cai về Thành lập Ban Quản lý Du
lịch tỉnh Lào Cai
27. Quyết định số 28/2013/QĐ-UBND ngày 15 tháng 8 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về Thành lập Ban quản lý khu di tích văn hoá – lịch
sử và du lịch Núi Sam
28. Quyết định số 147/2003/QĐ-UB của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Thành lập
Ban quản lý Khu du lịch hồ Tuyền lâm
29. Quyết định số 2098/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du
lịch quốc gia Núi Sam tỉnh An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030
30. Quyết định số 1868/QĐ-UBND ngày 7/9/2016 của UBND tỉnh Lâm Đồng về Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Khu Du lịch hồ Tuyền Lâm, Đà Lạt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
31. Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 27/3/2018 của UBND huyện Sa Pa về Phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, khai thác hiệu quả bản sắc văn hóa
các dân tộc và thế mạnh tài nguyên thiên nhiên Sa Pa giai đoạn 2018-2020,
định hướng tới năm 2030
32. Kế hoạch số 215/KH-UBND về Truyền thông, quảng bá du lịch tỉnh Lào Cai
giai đoạn 2018 – 2020
33. hiện Quyết định số 1528/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành một số cơ chế chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà
Lạt, tỉnh Lâm Đồng
34. Quyết định số 673/QĐ-UBND về Kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng
35. Chỉ thị số 13/CT-TTg ban hành ngày 24/5/2018, về việc xây dựng Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019
36. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn II Tài liệu tham khảo tiếng Anh 37. David Scowsill (2015), Governing National Tourism Policy, World Travel &
Tourism Council.
38. Martin Oppermann & Kye - Sung Chon (1997), Tourism in Developing
Countries, NXB International Thomson Business Press.
39. Soh & Juliana Kheng Mei (2008), Human Resource Development in the
Tourism Sector in Asia, The Berkeley Electronic Press.
40. S.Medlik (1995), Managing Tourism, Butterworth - Heinemann Ltd 41. Stephen J. Page & Don Getz (1997), The Business of Rural Tourism
International Perspectives, International Thomson Business Press.